You are on page 1of 10

CẢM NHẬN ATN

Quan niệm về truyện ngắn, Pauxtopki cho rằng: “Truyện ngắn là một truyện viết rất ngắn gọn, trong đó cái không bình thường hiện ra như một cái gì đó
bình thường, và cái bình thường hiện ra như một cái gì đó không bình thường”. Với hai đoạn văn trên trích truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”, Nguyễn Thành
Long đã truyền tải cho bạn đọc bức chân dung nhân vật anh thanh niên gần gũi, giản dị nhưng lại mang đến một vẻ đẹp đầy phi thường. Đó là những suy
nghĩ đẹp, hành động đẹp, lí tưởng sống đẹp vượt lên trên sự vất vả, khắc nghiệt của công việc, đáng để trân trọng và ngợi ca.

Trong sự nghiệp sáng tác văn chương nói chung, mỗi người nghệ sĩ đều có những chất riêng làm nên phong cách của mình. Nếu như Nam Cao hay Ngô Tất
Tố mang đến những nét chữ lạnh lùng, dữ dội thì Nguyễn Thành Long lại được biết đến với thứ văn nhẹ nhàng, đầy chất thơ. Ngòi bút của ông chuyên viết
về thể loại truyện văn và kí. Trong đó, truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” được sáng tác năm 1970 nhân chuyến đi thực tế Lào Cai đã trở thành một áng văn nổi
bật trong hành trình đi góp mật cho đời của tác giả cũng như văn chương thời kỳ miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cụ thể là những vẻ đẹp phẩm chất của
nhân vật anh thanh niên được khắc họa qua đoạn trích thứ nhất khi bàn về công việc khó khăn và đoạn trích thứ hai khi ngợi ca niềm hạnh phúc cống hiến
cho sự nghiệp phát triển của đất nước.

Trước hết, với đoạn văn thứ nhất, vẻ đẹp phi thường của con người bình thường ấy được thể hiện ở sự nghiêm túc, tự giác và tinh thần trách nhiệm cao. Anh
là một người rất yêu nghề và nhận thức đúng đắn về ý nghĩa công việc của mình. Đó là làm khí tượng kiêm vật lý cầu. Anh phải đo nắng, đo mưa, đo chấn
động mặt đất và dự báo thời tiết hằng ngày nhằm mục đích phục vụ cho sản xuất và chiến đấu. Cụ thể là ở mỗi khung giờ nhất định như “bốn giờ, mười một
giờ, bảy giờ tối, một giờ sáng” anh phải lấy những con số để báo về “nhà”. Đây là những con số biết nói, phản ánh sâu sắc tính chất công việc cũng như
những vất vả của anh thanh niên. Đặc biệt là một giờ sáng – khoảng thời gian vốn dành để nghỉ ngơi nhưng chính trong cái rét của mưa tuyết như trực chờ
để ùa vào cứa da cứa thịt thì anh vẫn miệt mài lao động. Ở đây, nhà văn để nhân vật tự giới thiệu bằng lời của mình như một lời thủ thỉ đầy tâm tình, gần gũi.
Nơi đỉnh núi Yên Sơn, dường như con người ấy quanh năm làm bạn cùng nỗi cô đơn. Lẽ vậy, khi gặp ông hoạ sĩ và cô kỹ sư, nhân vật như được trút bầu tâm
sự. Từ đó, bạn đọc mới thấu tỏ hơn nữa những khó khăn, gian khổ của người làm khí tượng kiêm vật lý cầu.

Văn chương còn vốn là tấm gương phản ánh hiện thực đời sống. Và Nguyễn Thành Long với ngòi bút của mình đã mang đến cho bạn đọc cái nhìn chân thực
về những vất vả của anh thanh niên. Một công việc mà có lẽ ít ai biết đến. Nhưng chính bức phông nền hiện thực khắc nghiệt ấy lại làm nổi bật hơn nữa vẻ
đẹp hành động cũng như phong cách sống của nhân vật. Dẫu rằng không một ai thúc giục hay kiểm tra nhưng với tinh thần trách nhiệm, ý thức cao, anh luôn
chủ động hoàn thành công việc của mình. Đặc biệt, với tính khoa học của công việc khí tượng kiêm vật lý cầu nên phong cách sống của anh thanh niên cũng
vì vậy mà luôn đề cao tính chính xác, nguyên tắc. Quả thật, phải yêu công việc này đến nhường nào thì con người trẻ ấy mới có thể gác lại những phồn hoa
đô thị để cống hiến sức mình cho đất nước. Ở anh còn là sự nghị lực, ý chí, tâm huyết hay nói cách khác là sức mạnh tinh thần lớn lao, mạnh mẽ.

Nếu như ở đoạn văn thứ nhất tác giả mang đến những ngợi ca về hình ảnh con người lao động trách nhiệm thì với đoạn văn thứ hai là sự trân trọng niềm vui,
niềm hạnh phúc vinh quang của con người khi được cống hiến. Trước hiện thực khắc nghiệt phải thức khuya dậy sớm, con người ấy vẫn chia sẻ những lao
động hằng ngày của mình với sự hóm hỉnh, đáng yêu. Cụ thể là chi tiết bố anh thắng “một – không” khi được ra tiền tuyến. Con người ấy vốn đã từng xung
phong vào hàng ngũ chiến đấu nơi chiến trường. Quả thật sâu bên trong nhân vật anh thanh niên là một con người dũng cảm và có khát vọng cống hiến mãnh
liệt. Dẫu rằng không trực tiếp cầm súng mác nhưng ở hiện tại, anh cũng đang phải chiến đấu một mình trên một chiến trường cũng đầy khắc nghiệt, khó
khăn. Đặc biệt, việc “phát hiện đám mây khô” của anh đã giúp cho không quân Việt Nam hạ gục máy bay phản lực Mỹ trên cầu Hàm Rồng. Anh kể lại
những câu chuyện trong niềm hạnh phúc vỡ oà.

Không chỉ là người có lí tưởng sống cao đẹp mà anh thanh niên còn được biết đến với vẻ đẹp khiêm nhường, thái độ sống cao đẹp. Khi nhìn thấy ông hoạ sĩ
vẽ mình, anh liền giới thiệu những người khác đáng vẽ hơn. Anh luôn tự ý thức những công việc của mình chỉ góp một phần cho sự nghiệp chung của đất
nước. Anh quả thật là tấm gương của thế hệ trẻ sẵn sàng cống hiến cho sự nghiệp phát triển đất nước.

Có một câu nói của Peter Marshall rất đáng để suy ngẫm: “Thước đo của cuộc đời không phải thời gian, mà là cống hiến.” Sự cống hiến, hi sinh là một giá
trị cốt lõi và cần thiết trong cuộc sống cũng như Bác Hồ từng quan niệm : “Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ để phần ai”. Với nhân vật anh thanh niên
chính là đại diện cho thế hệ trẻ – những người luôn lao động hăng say, sẵn sàng cống hiến cho sự phát triển của dân tộc. Đây chính là điểm gặp gỡ giữa hai
đoạn văn.

Nếu nói truyện ngắn là cưa lấy một khúc của đời sống thì Nguyễn Thành Long đã cưa lấy một khúc của bối cảnh miền Bắc lúc bấy giờ với mong muốn đưa
đến cho bạn đọc bao thế hệ về hình ảnh con người lao động thầm lặng. Để truyền tải được những giá trị tư tưởng ấy, nhà văn đã sử dụng những ngôn từ giản
dị, gần gũi, vui tươi. Chẳng hạn như là những lời thoại tự nhiên của anh thanh niên: “Ơ?,Bác vẽ cháu đấy ư?….. Cùng với lớp ngôn ngữ như lời thơ nhẹ
nhàng là tài năng trong nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật. Những lời thoại của anh thanh niên đều thể hiện rõ vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất đáng quý,
đáng trân trọng. Đó là trách nhiệm, chịu khó, nhiệt huyết,… Đặc biệt, qua cách đặt tên nhân vật là “anh thanh niên”, tác giả còn gửi gắm biết bao giá trị tư
tưởng. Không phải là một cái tên cụ thể, anh thanh niên chính là đại diện cho những con người lao động hăng say, lặng lẽ cống hiến cho sự phát triển của đất
nước lúc bấy giờ.

Có thể nói, truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” như “mặt cắt giữa một thân cây cổ thụ: Chỉ liếc qua những đường vân trên cái khoanh gỗ tròn tròn kia, dù sau trăm
năm vẫn thấy cả cuộc đời của thảo mộc”. Đó là một cuộc đời, một con người âm thầm hi sinh, âm thầm cống hiến. Để rồi, từ hình ảnh anh thanh niên lặng lẽ
chốn Yên Sơn, con người ta biết đến một lớp người xung phong cống hiến sức mình cho quê hương, đất nước. Ở họ vẫn giản dị và bình tâm, tuy không ai
nhớ mặt, đặt tên nhưng đã góp phần làm nên dáng dấp, sức sống của dân tộc.

Viết phần khái quát tác giả, tác phẩm truyện ngắn như thế nào?
Không chỉ gợi ý cho các bạn CÁCH VIẾT phần khái quát tác giả, tác phẩm truyện ngắn mà bài viết này còn đưa đến CÁC ĐOẠN VĂN THAM KHẢO
tương ứng!

Cách viết phần khái quát tác giả, tác phẩm truyện ngắn
Đây là đoạn văn mở đầu cho phần thân bài và thông thường các bạn có tâm lý chủ quan, không gửi gắm nhiều tâm huyết hoặc quá THAM nên dẫn đến nêu
những thông tin chi tiết và dàn trải về tác giả, tác phẩm. Biết được những vấn đề này, dưới đây là một số gợi ý về cách viết khái quát tác giả, tác phẩm truyện
ngắn:

Phần khái quát tác giả: chỉ nêu những thông tin TIÊU BIỂU/NỔI BẬT về phong cách sáng tác, đề tài chính mà tác giả hướng đến. Dung lượng khoảng 1 –
3 câu.

Phần khái quát tác phẩm: Nêu ngắn gọn thời điểm, bối cảnh sáng tác; vị trí của tác phẩm đó trong sự nghiệp văn chương của tác giả (nếu có). Dung lượng
1 – 3 câu.

Chốt vấn đề nghị luận: Viết khoảng 1 – 2 câu khẳng định lại vấn đề nghị luận.
Như vậy, về đoạn văn khái quát tác giả, tác phẩm chỉ nên nêu những thông tin tiêu biểu/nổi bật nhất, dung lượng dưới 10 câu. Nhờ đó, mới có thể đảm bảo
nội dung và thời gian cho những phần sau.

Khái quát tác giả Kim Lân và tác phẩm Làng


Bàn về truyện ngắn, Tô Hoài nhận định rằng: “Truyện ngắn chính là cách cưa lấy một khúc đời sống”. Với ngòi bút mang phong cách bình dị mà tinh tế, sâu
sắc, Kim Lân đã dành cả đời “cưa lấy một khúc” ấn tượng của đời sống người nông dân nghèo khổ, của văn hoá thôn quê để mang đến cho bạn đọc bao thế
hệ những tác phẩm đầy tính nhân văn. Tiêu biểu có thể kể đến truyện ngắn Làng được viết vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp với bao khó
khăn, gian khổ. Năm 1948, truyện được in ở tạp chí Văn nghệ và để lại dấu ấn lớn trên văn đàn lúc bấy giờ. Đặc biệt, [dẫn dắt vấn đề nghị luận]

Khái quát tác giả Nguyễn Thành Long và tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa
Trong sự nghiệp sáng tác văn chương nói chung, mỗi người nghệ sĩ đều có những chất riêng làm nên phong cách của mình. Nếu như Nam Cao hay Ngô Tất
Tố mang đến những nét chữ lạnh lùng, dữ dội thì Nguyễn Thành Long lại được biết đến với thứ văn nhẹ nhàng, đầy chất thơ tựa cơn gió mát khẽ đi vào lòng
người. Ngòi bút của ông chuyên viết về thể loại truyện văn và kí. Trong đó, truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa được sáng tác năm 1970 nhân chuyến đi thực tế Lào
Cai đã trở thành một áng văn nổi bật trong hành trình đi góp mật cho đời của tác giả cũng như văn chương thời kỳ miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cụ
thể ở [dẫn dắt vấn đề nghị luận]

Khái quát tác giả Nguyễn Quang Sáng và tác phẩm Chiếc lược ngà
Nhận xét về Nguyễn Quang Sáng, Thuý Trân cho rằng: “Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng chưa từng giới hạn ở bất kỳ chủ đề nào nhưng ông vẫn tập trung
nhiều nhất là chiến tranh và con người. Với những cống hiến đồ sộ được nhiều người công nhận, tác giả xứng đáng được gọi là bậc thầy của văn học Nam
Bộ.” Đúng như nhận xét của Thuý Trân, Nguyễn Quang Sáng ghi dấu ấn trong lòng bạn đọc bởi chất văn mang đậm màu sắc dân tộc, đầy tình cảm. Những
đứa con tinh thần của ông đều khoác lên mình vẻ đẹp chân thực về cuộc sống và con người miền Nam. Cụ thể là đoạn trích “Chiếc lược ngà” ghi bút năm
1966 khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Đoạn trích cũng đã được đưa vào tập truyện cùng tên và để lại ấn tượng trong lòng bạn đọc bởi tình phụ
tử ấm áp. Điều này được thể hiện rõ ở [dẫn dắt vấn đề nghị luận]

Phân tích nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn “Lặng Lẽ Sa Pa” – Nguyễn Thành Long
Mở bài
Nguyễn Thành Long là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn và bút kí. Truyện của ông rất giàu chất thơ hoạ, tiêu biểu nhất là truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”
được sáng tác sau chuyến đi thực tế ở Lào Cai vào mùa hè năm 1970. Truyện đã xây dựng thành công nhân vật anh thanh niên làm công tác khí tượng trên
đỉnh núi Yên Sơn, một con người có lòng yêu nghề, có lý tưởng có lối sống đẹp đã âm thầm lặng lẽ cống hiến sức mình cho đất nước.

Thân bài
Khái quát về nhân vật anh thanh niên
Nhân vật chính của truyện là anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m. Anh không xuất hiện ngay từ đầu
truyện mà chỉ hiện ra trong cuộc gặp gỡ chốc lát giữa anh với bác lái xe, cô kĩ sư, ông hoạ sĩ khi xe của họ dừng lại nghỉ. Mặc dù anh chỉ hiện ra trong chốc
lát nhưng cũng kịp để các nhân vật khác kịp ghi nhận một cách ấn tượng, một kí hoạ chân dung thật đẹp về anh. Trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, nhân vật anh
thanh niên hiện ra đủ để cho mọi người cảm nhận được rằng “Trong cái lặng im của Sa Pa … Sa Pa mà chỉ nghe tên người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi
có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước”. Hoàn cảnh sống và công việc gian khổ giúp ta nhìn thấy những phẩm chất tốt đẹp của anh.
Phẩm chất của anh thanh niên hiện ra qua góc nhìn, đánh giá của các nhân vật: bác lái xe, ông hoạ sĩ, cô kĩ sư. Qua cách nhìn nhận và cảm xúc của mỗi
người, hình ảnh anh thanh niên hiện ra rõ nét hơn và đáng mến hơn bao giờ hết.

Hoàn cảnh sống và làm việc của anh thanh niên


Trước tiên ta thấy, hoàn cảnh sống và làm việc của anh đặc biệt gian khổ. Anh sống và làm việc một mình trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m so với mặt biển,
xung quanh không hề có một bóng người “bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo”. Công việc của anh là “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn
động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”. Công việc của anh không khó nhưng đòi hỏi sự tỉ mỉ chính
xác và phải có tinh thần trách nhiệm cao. Một ngày anh phải vào ốp bốn lần, nửa đêm đúng giờ ốp thì dù có mưa gió cũng phải trở dậy xách đèn ra ngoài trời
làm công việc đã qui định. Những lúc ấy, anh cảm thấy “gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực đợi mình ra là ào ào xô tới”. Nhưng cái gian khổ nhất
mà anh phải vượt qua chính là sự cô đơn buồn tẻ, quanh năm suốt tháng sống cô độc một mình trên đỉnh núi cao không một bóng người.

Anh thanh niên là người có ý thức đúng đắn về công việc


Điều gì đã giúp người thanh niên nhỏ bé 27 tuổi ấy đủ sức mạnh vượt qua được hoàn cảnh khó khăn? Trước hết, đó là do anh có ý thức đúng đắn về công
việc, có lòng yêu nghề và thấy được công việc thầm lặng của mình có ích cho cuộc sống, cho mọi người. Khi một đoàn phi công lên thăm nơi anh ở cho biết
nhờ sự phát hiện kịp thời một đám mây khô của anh mà ngày ấy tháng ấy không quân ta đã bắn rơi máy bay Mỹ trên bầu trời Hàm Rồng thì từ đó anh thấy
mình thật hạnh phúc. Anh còn có những suy nghĩ rất đúng đắn về ý nghĩa của công việc đối với cuộc sống của con người “khi ta làm việc ta với công việc là
đôi sao gọi là một mình được? Huống chi công việc của cháu gắn liền với công việc của bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy
chứ chứ cất nó đi cháu buồn đến chết mất”. Sống một mình nhưng anh không cô độc buồn chán vì ngoài niềm vui ở công việc anh còn có một niềm vui khác
là đọc sách. Sách không chỉ giúp anh cảm thấy cuộc sống không cô đơn buồn tẻ mà sách còn giúp anh cảm thấy hình như lúc nào mình cũng có người bạn để
trò chuyện. Anh đã tâm sự với cô kĩ sư “lúc nào tôi cũng có người để trò chuyện nghĩa là sách đấy”. Sống một mình nhưng anh không sống cẩu thả lôi thôi
mà thu xếp cuộc sống của mình thật ngăn nắp nề nếp, phong phú và thơ mộng. Ngoài giờ làm việc, đọc sách và tự học, anh còn trồng hoa và nuôi gà. Anh có
một vườn hoa lớn với đủ loại: dơn, thược dược…, có đủ trứng gà để ăn và tặng cho người khác. Phong cách sống ấy của anh đã khiến cho ông hoạ sĩ già xúc
động và nhủ thầm “người con trai ấy đáng yêu thật”.

Anh thanh niên là người chân thành, cởi mở


Anh thanh niên còn có những nét tính cách và phẩm chất đáng mến khác. Anh là người chân thành cởi mở, biết quý trọng tình cảm của mọi người, biết quan
tâm đến mọi người và khao khát được gặp gỡ trò chuyện với mọi người. Anh đã từng lấy khúc gỗ chặn đường cho xe dừng lại để được gặp gỡ trò chuyện với
mọi người, vui sướng hạnh phúc khi có khách đến thăm. Nghe nói vợ bác lái xe bị ốm, anh đi tìm đào củ tam thất biếu vợ bác lái xe ngâm rượu uống cho
mau lại sức. Anh hái một bó hoa thật to để tặng cho cô kĩ sư và chu đáo chuẩn bị một làn trứng cho mọi người đi ăn đường.

Anh thanh niên là người khiêm tốn


Nét đáng quý nhất của anh thanh niên là đức tính khiêm tốn giản dị. Cuộc sống riêng của anh thu gọn trong gian trái của căn nhà với một chiếc giường con,
cái bàn học và chiếc giá sách. Những đóng góp của anh tuy thầm lặng nhưng rất lớn. Vậy mà anh luôn coi những đóng góp của mình là nhỏ bé, không có gì
là đáng kể. Thấy ông hoạ sĩ vẽ phác họa chân dung của mình, anh tìm cách từ chối và nhiệt tình giới thiệu với ông hoạ sĩ những người mà theo anh là đáng
khâm phục hơn.

Đánh giá tổng kết


Qua hình ảnh anh thanh niên, ta thấy anh có một vẻ đẹp tâm hồn của một tri thức mới, gắn bó với nghề nghiệp, thiết tha yêu cuộc sống, yêu đất nước. Anh là
tấm gương hy sinh quên mình vì lý tưởng phục vụ đất nước. Cũng chính vì thế, chỉ với cuộc gặp gỡ chưa đầy nửa giờ mà anh đã hoàn toàn chinh phục được
người đối diện. Chẳng những thế, anh còn tác động sâu sắc đến mọi người. Ông họa sĩ thì từ chỗ xúc động bị cuốn hút đến bối rối, băn khoăn vì anh đã khiến
ông nhận ra một suy nghĩ chưa được đúng của mình. Và cũng chính ông đã bắt gặp sự rung động nghệ thuật, khiến ngòi bút ông muốn ký họa vẻ đẹp của con
người mới để mọi người được chiêm ngắm một chân dung của cuộc sống mới chứ không phải như những ngôi sao xa xôi. Cô kĩ sư thì tò mò, ngạc nhiên đến
một ấn tượng hàm ơn khó tả… Cô nàng tin vào cuộc sống và cảm nhận việc từ bỏ mối tình nhạt nhẽo là một quyết định đúng đắn.

Kết bài
Với tình huống truyện nhẹ nhàng, đơn giản, ngôn ngữ giàu chất thơ, chất họa, truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long đã xây dựng thành công
nhân vật anh thanh niên với những phẩm chất, cách sống đẹp điển hình cho thế hệ trẻ trong thời kỳ mới. Anh thanh niên cùng với các nhân vật khác như cô
kĩ sư, ông hoạ sĩ , ông kĩ sư vườn rau … đã tạo nên một tập thể những con người lao động khoa học lặng lẽ mà khẩn trương vì lợi ích của đất nước, vì cuộc
sống của mọi người. Với những thành công như thế, truyện được xem là một trong những truyện ngắn hay nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Hình
ảnh anh thanh niên đã truyền cảm hứng cho biết bao thế hệ bạn đọc. Để mỗi lần lần giở trang văn của Nguyễn Thành Long chúng ta cảm thấy rung lên cảm
xúc yêu mến, cảm phục, tự hào để sống có ích hơn.

CHẤT THƠ BÀNG BẠC TRONG LẶNG LẼ SA PA


Nét đặc sắc trong sáng tác của Nguyễn Thành Long là luôn tạo được những hình tượng đẹp, truyện pha chất kí giàu chất trữ tình, đậm chất thơ. Chất thơ là
một trong những giá trị đặc sắc trong Lặng lẽ Sa Pa, được thể hiện một cách sinh động trên cả phương diện nội dung lẫn hình thức nghệ thuật.

Thiên nhiên thơ

Trước hết, chất thơ trong tác phẩm biểu hiện ở vẻ đẹp của thiên nhiên, cụ thể là núi rừng Sa Pa.

Trong truyện, theo chuyến xe đưa ông họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ lên Sa Pa, tác giả dẫn người đọc đến với những không gian núi rừng Tây Bắc với vẻ đẹp
hoang sơ, thơ mộng:

“Mây hắt từng chiếc quạt trắng lên từ các thung lũng… Nắng bây giờ bắt đầu lèn tới, đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong
nắng những ngón tay bằng bạc dưới cái nhìn bao che của những cây tử kính thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng
xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe”.

Cuối truyện, khi ông họa sĩ và cô kĩ sư tạm biệt Sa Pa, khung cảnh núi rừng lại được miêu tả một lần nữa:
“Lúc bấy giờ, nắng đã mạ bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn. Nắng chiếu làm cho bó hoa càng thêm rực rỡ và làm cho cô gái
cảm thấy mình rực rỡ theo”.

Tác giả không miêu tả nhiều nhưng chỉ với những nét chấm phá, qua lời văn trong sáng, giàu hình ảnh, ngôn ngữ như có đường nét, hình khối, sắc màu, cảnh
sắc thiên nhiên Sa Pa hiện lên ấn tượng với vẻ đẹp trong trẻo, hữu tình.

Khung cảnh nên thơ này có tác dụng làm phông nền cho câu chuyện đầy chất thơ, là chất xúc tác đồng thời là điểm tựa cho chất thơ trong truyện được thăng
hoa.

Con người thơ

Chất thơ trong Lặng lẽ Sa Pa được thể hiện nổi bật qua vẻ đẹp của con người và những câu chuyện bình dị mà cảm động của họ. Trong truyện, không hề có
một nhân vật phản diện.

Tất cả đều hiện lên với những vẻ đẹp riêng. Ông họa sĩ già với khát vọng chân chính về nghệ thuật, cô kĩ sư trẻ với lí tưởng cống hiến tuổi thanh xuân, bác
lái xe với hơn 30 năm miệt mài, ông kĩ sư vườn rau Sa Pa tận tụy với công việc, anh cán bộ nghiên cứu sét hi sinh hạnh phúc bản thân vì đam mê khoa học,
anh đồng nghiệp trên đỉnh Phan-xi-păng lặng lẽ cống hiến cho cộng đồng…,

Tất cả những nhân vật của Lặng lẽ Sa Pa đều hiện lên với vẻ đẹp rạng ngời trong tâm hồn và cách sống. Không chỉ say mê, hết lòng trong công việc, họ còn
biết hi sinh hạnh phúc riêng tư cho lí tưởng xây dựng, làm giàu đất nước.

Dù thật lặng lẽ, bình dị (phần lớn các nhân vật đều không có tên – đây là một dụng ý nghệ thuật của tác giả) nhưng nhân cách, tâm hồn của họ vẫn tỏa vẻ đẹp
nhân văn lấp lánh.

Nổi bật trong truyện là hình tượng nhân vật anh thanh niên. Đây là hình tượng tập trung cho vẻ đẹp của con người trong truyện. Qua lời kể của bác lái xe, sự
nhìn nhận, đánh giá của ông họa sĩ và cô kĩ sư trẻ, đặc biệt, qua chính ngôn ngữ và hành động của mình, nhân vật anh thanh niên hiện lên trong truyện với
những vẻ đẹp riêng:

Có nếp sống ngăn nắp, khoa học và thơ mộng (“một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm”), không cảm thấy cô đơn
vì có niềm vui trồng hoa, đọc sách); yêu nghề, tận tụy, có trách nhiệm và luôn tìm thấy niềm vui trong công việc (“khi ta làm việc, ta với công việc là đôi,
sao gọi là một mình được? Huống chi công việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất
nó đi, cháu buồn đến chết mất”); chân thành, cởi mở, chu đáo và biết quan tâm người khác (tặng củ tâm thất để vợ bác lái xe chữa bệnh, vui sướng khi có
khách đến thăm, tiếp đãi khách nồng nhiệt, lưu luyến, tặng quà khi chia tay); thành thật, khiêm tốn (tự nhận thấy đóng góp của mình chỉ là nhỏ bé so với
những người khác, từ chối khi được vẽ chân dung và giới thiệu những người xứng đáng hơn mình).

Có thể nói, hiện lên với những vẻ đẹp dung dị, đời thường mà cao quý, anh thanh niên hình ảnh tiêu biểu của những con người “lặng lẽ” giữa “Sa Pa”, là
chân dung của con người lao động mới trong thời đại mới đang góp sức mình cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Tâm hồn, cách thế sống, từng câu chuyện về công việc của anh như những bài thơ mang vẻ đẹp nhân văn thấm đẫm. Chất thơ trong truyện bung tỏa từ chính
hình tượng nhân vật này.

Một câu chuyện thơ

Không chỉ trên phương diện nội dung, chất thơ trong Lặng lẽ Sa Pa còn được thể hiện sinh động trên nhiều khía cạnh của phương diện hình thức. Ấn tượng
chung của độc giả đối với tác phẩm là câu chuyện nhẹ nhàng với cốt truyện đơn giản, tình tiết không phức tạp, diễn biến truyện không quá gây cấn.

Tuy có đôi lúc sôi nổi nhưng chủ yếu truyện vẫn mang giọng điệu chậm rãi, khoan thai. Đặc biệt, truyện có lớp ngôn ngữ trong sáng, giàu sức biểu cảm và
hình ảnh với những biểu hiện như:

Sử dụng nhiều từ ngữ chỉ màu sắc (thác trắng xóa, mây hắt từng chiếc quạt trắng, thấp thoáng trong màu xanh bao la, một vệt hình ba góc màu vàng, những
ngón tay bằng bạc, nhô cái đầu màu hoa cà màu xanh của rừng, anh chỉ đỏ mặt, đứng trông mây mù ngang tầm với chiếc cầu vồng kia, hoa dơn, hoa thược
dược, vàng, tím, đỏ, hồng phấn, tổ ong…);

Sử dụng nhiều từ láy (lặng lẽ, lả tả, thấp thoáng, dễ dàng, nhẹ nhàng, bối rối, nhỏ nhẻ, sạch sẽ, toe toe, khe khẽ, hí hoáy, loay hoay, choáng choàng, vắng vẻ,
vòi vọi, băn khoăn, rực rỡ,…); sử dụng nhiều so sánh tu từ (nó như con gián gặm nhấm người ta, nó như bị chặt ra từng khúc, các anh chị cứ như con bướm,
…).
Có thể nói, lớp ngôn ngữ truyện giàu chất thơ là một trong những phương diện quan trọng làm nên chất thơ xuyên suốt trong toàn bộ tác phẩm.

PHÂN TÍCH NHÂN VẬT ÔNG SÁU – CHIẾC LƯỢC NGÀ


“Ê-mi-ly, con đi cùng cha
Sau khôn lớn con thuộc đường, khỏi lạc…

-Đi đâu cha?

-Ra bờ sông Pô-tô-mác


-Xem gì cha?

Không con ơi, chỉ có lầu Ngũ Giác.


Ôi con tôi, đôi mắt tròn xoe
Ôi con tôi, mái tóc vàng hoe
Đừng có hỏi cha nhiều con nhé!
Cha bế con đi, tối con về với mẹ…”
(Tố Hữu)

Người đàn ông tên Mo-ri-xơn ấy bế cô con gái nhỏ trên tay, nhằm thẳng hướng lầu Năm Góc bước tới cùng vẻ mặt đăm chiêu. Đứa bé ấy vẫn hồn nhiên mà
chẳng biết rằng đó là cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam khốc liệt đang diễn ra mà chính người bố dũng cảm của cô bé quyết phản đối. Người bố ấy đã có
thể đặt chiếc hôn cuối cùng lên má cô con gái bé bỏng của mình trước khi tự thiêu, thế nhưng ông Sáu trong tác phẩm “Chiếc lược ngà” của tác giả Nguyễn
Quang Sáng chưa một lần được âu yếm, ôm ấp đứa con vào lòng. Tác giả là một trong những cây bút sáng tác nhiều truyện ngắn giá trị trong những năm
kháng chiến, là cây đại thụ của văn học Nam Bộ với các tác phẩm truyện ngắn nổi bật như: “Con chim vàng”, “Người quê hương”, “Chiếc lược ngà”,… Màu
sắc bi tráng với bao sự tích anh hùng, những tình huống hấp dẫn đầy kịch tính và giàu chất thơ tạo nên cốt cách và vẻ đẹp trang văn Nguyễn Quang Sáng. Và
nhân vật ông Sáu chính là sự thành công vang dội, để lại cho độc giả bao ấn tượng mãi không phai. Suốt tám năm ròng rã vì lý tưởng “quyết tử cho Tổ quốc
quyết sinh” mà ông đành gác lại hạnh phúc của mình ở sau. Bé Thu – con gái ông lạ lẫm và chẳng nhận đấy là cha mình. Là một người cha, ông Sáu thông
cảm cho cảm giác của con mình và luôn muốn bù đắp. Người đàn ông mạnh mẽ, dũng cảm đến đâu cũng sẽ yếu lòng trước vợ con, lúc này đây tình thương
lớn dần, nếu không có chiến tranh thì có lẽ ông đã được bên cạnh con mỗi ngày, nuôi dạy và chăm sóc nó lớn.

Cũng như bao người khác, ông Sáu đi theo tiếng gọi của quê hương đã lên đường chiến đấu, để lại người vợ và đứa con thân yêu ở hậu phương. Sự xa cách
càng làm dâng lên trong ông nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái mà khi ông đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, mơ ước cháy
bỏng trong lòng ông sau tám năm xa cách. Chính vì vậy mỗi lần vợ lên thăm là một lần ông hỏi “Sao không cho con bé lên cùng?’’. Không gặp được con
ông đành ngắm con qua ảnh vậy… Mặc dầu tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng ông luôn giữ gìn nó vô cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật. Còn
đối với con gái Thu của ông thì sao? Từ nhỏ đến hồi tám tuổi nó chỉ được biết ba nó qua ảnh và qua lời kể của bà ngoại và mẹ. Dù được sống trong tình yêu
thương của mọi người nhưng có lẽ Thu cũng cảm thấy thiếu hụt một tình thương, sự che chở của người cha. Chắc bé Thu từng giờ từng phút trông chờ ba nó
lắm nhỉ? Và tám năm trời là những năm tháng dài đằng đẳng ấy cũng làm tăng lên trong lòng hai cha con ông Sáu nỗi nhớ nhung, mong chờ, ông Sáu ao ước
gặp con, còn bé Thu ao ước gặp bố.

Thế rồi niềm ao ước ấy đã trở thành hiện thực. Ông được nghỉ phép. Ngày về thăm con, trên xuồng mà ông Sáu cứ nôn nao cả người. Ông đang nghĩ tới đứa
con, nghĩ tới giây phút hai cha con gặp nhau như thế nào. Những điều ấy choáng hết tâm trí khiến ông không còn biết mình đang ngồi trên xuồng với người
bạn. Khi xuồng vừa cập bến, ông Sáu đã nhón chân nhảy thót lên bờ. Người bạn đi cùng cũng rất hiểu ông nên không hề trách, bởi đó giây phút vô cùng
thiêng liêng và trọng đại của ông Sáu, là giây phút người cha mong chờ đứa con sẽ chạy tới ôm xiết lấy mình, là bước trở về sau bao xa cách… Ông đã “xô
chiếc xuồng tạt ra, bước vội vàng với những bước dài rồi dừng lại kêu to: Thu! Con”. Ông vừa bước vào vừa khom người đưa tay đón chờ con… Ông không
ghìm nổi xúc động…. Nhưng trái ngược với dòng tình cảm nồng cháy của ông, bé Thu lạnh nhạt, sợ hãi quay đầu bỏ chạy. Bé Thu không nhận ra ông, nó
như một nhát dao cứa vào trái tim ông Sáu, ông lắp bắp gọi con, vết thẹo ở má đỏ ửng lên, con bé vụt bỏ chạy, ông đau đớn khôn cùng, “hai tay buông xuống
như bị gãy”. Trông ông vô cùng đáng thương. Có lẽ ông Sáu cũng hiểu phần nào phản ứng của bé Thu với mình, nhưng với thân phận một người cha làm
sao ông có thể không đau đớn, xót xa.

Mấy ngày ông Sáu ở nhà, ông chẳng dám đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con, ông mong được nghe một tiếng “ba” của con bé nhưng tất cả đều không trọn
vẹn. Ông Sáu càng tỏ ra gần gũi con bao nhiêu thì con bé tỏ ra lạnh nhạt bấy nhiêu. Khi mẹ bảo nó gọi ba vào ăn cơm thì con bé đã nói trổng: “Vô ăn cơm!”.
Câu nói của con bé như đánh vào tâm can anh, nhưng anh vẫn ngồi im giả vờ không nghe, chờ nó gọi “Ba vô ăn cơm.” Thế nhưng Thu vẫn bướng bỉnh
không chịu gọi ba, đã vậy còn bực dọc nói mấy câu “Cơm chín rồi!” và “Con kêu rồi mà người ta không nghe”. Nó nhất định không chịu gọi ông là “ba”,
không nhờ ông chắt nước nồi cơm đang sôi, những lúc như vậy ông khổ tâm biết mấy, yêu con ông không nỡ mắng mà chỉ “nhìn con bé vừa khe khẽ lắc đầu
vừa cười”. Nụ cười lúc này không phải là vui mà có lẽ vì khổ tâm quá đến nỗi không khóc được, nên đành phải cười vậy thôi. Dường như sự lạnh lùng và
bướng bỉnh của bé Thu đã làm tổn thương những tình cảm đang trào dâng tha thiết nhất trong lòng ông. Vì quá yêu thương con nên ông Sáu không cầm nổi
cảm xúc của mình. Trong bữa cơm, ông gắp cho nó cái trứng cá nhưng bất ngờ nó hất tung cái trứng ra khỏi chén cơm. Giận quá, ông đã vung tay đánh và
quát nó. Có lẽ việc đánh con bé là nằm ngoài những mong muốn của ông. Tất cả cũng chỉ là do ông quá yêu thương con. Có thể coi việc bé Thu hết cái trứng
ra khỏi chén như một ngoài nổ làm bùng lên những tình cảm mà lâu nay ông dồn nén và chất chứa trong lòng.

Hôm chia tay, nhìn thấy con đứng trong góc nhà, ông muốn ôm con, hôn con nhưng “sợ nó giẫy lên lại bỏ chạy” nên “chỉ đứng nhìn nó” với đôi mắt “trìu
mến lẫn buồn rầu”… Cho đến khi nó cất tiếng gọi Ba, ông xúc động đến phát khóc và “không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con,một
tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc của con”. Mọi sự cố gắng của ông Sáu đã được đền đáp. Giọt nước mắt của ông là giọt nước mắt của vui
sướng, hạnh phúc. Và không muốn cho con thấy mình khóc, ông Sáu một tay ôm con một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con…Thế là con bé
đã gọi ông bằng ba. Ai có thể ngờ được một người lính đã dày đạn nơi chiến trường và quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng mềm yểu trong tình cảm
cha con. Sau bao năm tháng mong chờ, đau khổ, ông Sáu đã được đón nhận một niềm vui vô bờ. Bây giờ ông có thể ra đi với một yên tâm lớn rằng ở quê
nhà có một đứa con gái thân yêu luôn chờ đợi ông, từng giây từng phút mong ông quay về.

Tình cảm của ông Sáu dành cho bé thu trở nên mãnh liệt hơn, cao cả, thiêng liêng và cảm động hơn bao giờ hết là việc ông tự tay làm chiếc lược nhà cho con
gái. “Ba về! Ba mua cho con một cái lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Xa con, ông luôn nhớ
con trong nỗi day dứt, ân hận ám ảnh vì mình đã lỡ tay đánh con, vì vậy, bao tình cảm của ông đều dồn hết vào việc chế tạo chiếc lược ngà, mong một ngày
có thể trao tận tay món quà này cho con. Kiếm được khúc ngà voi, ông hớn hở như đứa trẻ được quà: “từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt
hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Rồi ông dồn hết tâm trí và công sức vào việc làm cho con
cây lược: “anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như một người thợ bạc”. Trên sống lưng lược, ông đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét
chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Ông gửi vào đó tất cả tình yêu và nỗi nhớ. Nhớ con “anh lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm
bóng, thêm mượt”. Ông không muốn con ông đau khi chải lược. Yêu con, ông Sáu yêu đến từng sợi tóc của con. Chiếc lược trở thành vật thiêng liêng đối
với ông Sáu, nó làm dịu đi nỗi ân hận, nó chứa đựng bao tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong ngóng của người cha với đứa con xa cách. Cây lược ngà
chính là sự kết tinh của tình phụ tử thiêng liêng. Nhưng trớ trêu thay, khi không thể đợi đến ngày về, ông Sáu đã hi sinh trong trận càn lớn của quân Mĩ –
Ngụy khi chưa kịp trao cây lược cho con gái. “Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể
chết được”, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu. Đó là điều trăng trối không
lời nhưng nó thiêng liêng hơn cả những lời di chức. Nó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình phụ tử. Và bắt đầu từ giây phút ấy, cây
lược của tình phụ tử đã biến người đồng đội của ông Sáu thành một người cha thứ hai của bé Thu.

Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” đã thể hiện một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng và cao đẹp của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của
chiến tranh. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí. Cốt truyện được xây dựng khá chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể chuyện thích
hợp. Truyện được kể theo ngôi thứ nhất, đặt vào nhân vật bác Ba, người bạn chiến đấu của ông Sáu và cũng là người chứng kiến, tham gia vào câu chuyện.
Với ngôi kể này, người kể chuyện xen vào những lời bình luận, suy nghĩ, bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với nhân vật ông Sáu hơn hết. Từng câu cảm thán tha
thiết, từng dòng chảy trôi tâm sự, trải lòng như vết dao cứa vào vết thương cứ thế rỉ máu. Thứ tình cảm thiêng liêng, tình cha con mãi chẳng thế bù đắp.
Chiến tranh qua đi để lại bao mất mát khôn tả, thứ cướp đi người chồng của vợ, người ch của con và người chiến sĩ của Tổ quốc.

Nguyễn Quang Sáng là một trong những cây đại thụ sáng tác nhiều truyện ngắn giá trị trong những năm kháng chiến. Ông sở hữu cho chính mình kho tàng
những tặng phẩm mang dấu ấn Nam Bộ. Qua nhân vật ông Sáu trong tác phẩm “Chiếc lược ngà”, người đọc không chỉ cảm nhận tình yêu con tha thiết sâu
nặng của người cha chiến sĩ mà còn thấm thía bao đau thương mất mát đối với những em bé, những gia đình. Tình yêu thương con của ông Sáu còn như một
lời khẳng định: Bom đạn của kẻ thù chỉ có thể hủy diệt được sự sống của con người, còn tình cảm của con người – tình phụ tử thiêng liêng thì không bom
đạn nào có thể giết chết được. Sự băng hoại khốc liệt của thời gian cũng chẳng thể nào xóa nhòa “thước phim tua ngược” mang tên “chiếc lược ngà” ấy. Đó
là nơi chúng ta luôn cảm nhận được những điều ấm áp từ trái tim đến với trái tim và cả thứ tình cảm gia đình thiêng liêng. Chẳng những thế, bao mất mát
đau thương từ chiến tranh cũng là để chúng ta biết ơn, động lực biết phấn đấu vì tương lai nước nhà mà không quên rằng họ đã “đổ máu” đổi lấy sự bình yên
này.
Dàn ý phân tích Chiếc lược ngà – Nguyễn Quang Sáng
CHIẾC LƯỢC NGÀ

– Nguyễn Quang Sáng –

I. Kiến thức cơ bản:


1.Tác giả:

 Nguyễn Quang Sáng, sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
 Trong kháng chiến chống Pháp, ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ.
 Từ sau năm 1954, tập kết ra miền Bắc, Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn..
 Những năm chống Mĩ, ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học.
 Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng có nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam
Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hòa bình.
 Năm 2000, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
2.Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
– Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được viết năm 1966–khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ những năm kháng chiến chống Mĩ và được đưa vào tập
truyện cùng tên.
– Nói về hoàn cảnh viết truyện ngắn “Chiếc lược ngà”, Nguyễn Quang Sáng tâm sự:
“Năm 1966, tôi từ miền Bắc trở về miền Nam. Vùng Đồng Tháp Mười mênh mông nước trắng. Tôi đi ghe vào sâu trong rừng và sống ở một nhà sàn treo
trên ngọn cây. Lúc đó, đoàn giao liên dẫn đường toàn là nữ. Tôi rất có ấn tượng với câu chuyện của một cô gái giao liên có chiếc lược ngà trắng. Sau khi
nghe cô kể chuyện, tôi ngồi viết một ngày, một đêm là hoàn thành tác phẩm này”.

– Văn bản trong sách giáo khoa là đoạn trích phần giữa của truyện.

b. Bố cục: 2 đoạn:
– Đoạn 1: Từ đến…đến…”Nó nói trong tiếng nấc, vừa nói vừa từ từ tuột xuống”. -> Tình cảm cha con của bé Thu và ông Sáu trong ba ngày ông được nghỉ
phép.

– Đoạn 2: Còn lại -> Ở khu căn cứ, ông Sáu làm chiếc lược ngà tặng con.

c. Chủ đề:
Diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.

d. Tóm tắt văn bản:


Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt làm
ba em không giống với người cha trong bức ảnh mà em biết. Em đối xử với ba như người xa lạ. Đến khi Thu nhận ra cha, tình cha con thức dậy mãnh liệt
trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải lên đường trở về khu căn cứ. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc làm một
chiếc lược bằng ngà voi để tặng con. Trong một trận càn, ông Sáu hi sinh. Trước lúc ra đi mãi mãi, ông đã kịp trao cây lược cho bác Ba, nhờ bạn chuyển cho
con gái.

II Phân tích
1. Tình huống truyện: Truyện được xây dựng trên hai tình huống cơ bản:
– Tình huống 1: Đó là cuộc gặp gỡ của hai cha con ông Sáu sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận cha, đến lúc em nhận ra và biểu
lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu lại phải lên đường.

– Tình huống 2: Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và lòng mong nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng ông đã hi sinh
khi chưa kịp trao món quà ấy cho con gái.

=> Như vậy, nếu ở tình huống thứ nhất bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu với cha, thì tình huống thứ hai lại biểu lộ tình cảm sâu sắc, thắm thiết của ông
Sáu với con. Tình huống truyện ở đây mang đầy kịch tính chứa đựng nhiều yếu tố bất ngờ. Đó là những tình huống ngẫu nhiên song lại rất phổ biến, những
tình huống đầy éo le mà chúng ta thường gặp trong chiến tranh. Song đặt các nhân vật của mình vào các tình huống ấy, nhà văn muốn khẳng định và ngợi ca:
tình cha con thiêng liêng, sâu nặng như một giá trị nhân bản sâu sắc. Tình cảm ấy càng cao đẹp trong hoàn cảnh chiến tranh.

2. Diễn biến tâm lí và tình cảm của bé Thu.


a. Trước khi nhận ra cha:
– Thu thương cha như thế. Ta tưởng chừng như khi được gặp cha, nó sẽ bồi hồi, sung sướng và sà vào vòng tay của ba nó nũng nịu với tình cảm mãnh liệt
hơn bao giờ hết. Nhưng không, Thu đã làm cho người đọc phải bất ngờ qua hành động quyết liệt không chịu nhận ông Sáu là ba. “Nghe gọi, con bé giật
mình, tròn mắt nhìn…ngơ ngác, lạ lùng…”. Khi ông Sáu đến gần, giọng lặp bặp run run: “Ba đây con! Ba đây con” thì “Con bé thấy lạ quá, mặt bỗng tái đi,
rồi vụt chạy và kêu thét lên: Má! Má !”.

– Suốt ba ngày, ông Sáu chẳng đi đâu xa, muốn ở bên con vỗ về, chăm sóc, bù đắp cho con sự thiếu thốn tình cảm. Song, ông càng xích lại gần thì nó càng
tìm cách xa lánh, nhất định không gọi một tiếng “ba”.

+ Khi má dọa đánh bắt kêu “ba” vào ăn cơm, nó nói trổng: “Vô ăn cơm!”; “Cơm chín rồi!”; “Con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” làm
ông Sáu đau lòng đến mức không khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười.

+ Đến bữa sau, má giao cho nó nhiệm vụ ở nhà trông nồi cơm, nó không thể tự chắt nước. Tưởng chừng nó phải cầu cứu đến người lớn, phải gọi “ba”.
Nhưng quyết không, nó vẫn nói trổng “Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái!” .Bác Ba mở đường cho nó, nhưng nó không để ý, nó lại kêu “Cơm sôi rồi, nhão
bây giờ!”. Ông Sáu cứ vẫn ngồi im. Và nó đã tự mình làm lấy công việc nguy hiểm và quá sức, mà nhất định không chịu nhượng bộ, nhất định không chịu
cất lên cái tiếng mà ba nó mong chờ.

+ Đỉnh điểm của kịch tính: bé Thu hất cái trứng cá mà ông Sáu đã gắp cho nó, làm cơm văng tung tóe. Ông Sáu không thể chịu đựng nổi nữa trước thái độ
lạnh lùng của đứa con gái mà ông hết mực yêu thương, ông đã nổi giận và chẳng kịp suy nghĩ , ông vung tay đánh vào mông nó. Bị ông Sáu đánh,Thu không
khóc, gắp lại trứng cá rồi bỏ sang nhà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây lòi tói kêu rổn rảng.

– Những chi tiết bình thường mà tinh tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu hiểu tâm lí trẻ em. Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố chấp, nhất là khi
chúng có sự hiểu lầm, chúng kiên quyết chối từ tình cảm của người khác mà không cần cân nhắc, nhất là với một cô bé cá tính, bướng bỉnh như Thu. Người
đọc nhiều khi thấy giận em, thương cho anh Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Bởi nguyên nhân sâu xa của sự chối từ ấy vẫn là tình yêu ba.
Tình yêu đến tôn thờ, trung thành tuyệt đối với người ba trong tấm ảnh chụp chung với má – người ba với gương mặt không có vết thẹo dài.

b. Khi nhận ra cha:


– Tình yêu ba trong bé Thu đã trỗi dậy mãnh liệt vào cái giây phút bất ngờ nhất, giây phút ông Sáu lên đường trong nỗi đau vì không được con đón nhận.

– Bằng sự quan sát tinh tế, bác Ba là người đầu tiên nhận ra sự thay đổi của Thu trong “vẻ mặt sầm lại buồn rầu”, “đôi mắt như to hơn nhìn với vẻ nghĩ ngợi
sâu xa”. Điều đó cho thấy trong tâm hồn đứa trẻ nhạy cảm như Thu đã có ý thức về cảm giác chia li, giây phút này em thèm biểu lộ tình yêu với ba hơn hết,
nhưng sự ân hận về những gì mình đã làm ba buồn khiến em không dám bày tỏ. Để rồi tình yêu ba trào dâng mãnh liệt trong em vào khoảnh khắc ba nhìn em
với cái nhìn trìu mến, giọng nói ấm áp “thôi, ba đi nghe con!”. Đúng vào lúc không một ai ngờ tới, kể cả ông Sáu, Thu thốt lên tiếng kêu thét “Ba…a…a…
ba!”. “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và ruột gan mọi người nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố kìm nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng
“ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời
xa cách thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim,của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba.

– Đi liền với tiếng gọi là những cử chỉ vồ vập, cuống quýt trong nỗi ân hận của Thu: chạy xô tới, nhảy thót lên, dang chặt hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng
khắp, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má, khóc trong tiếng nấc, kiên quyết không cho ba đi…Cảnh tượng ấy tô đậm thêm tình yêu mãnh
liệt, nỗi khát khao mong mỏi mà Thu dành cho ba. Phút giây ấy khiến mọi người xung quanh không ai cầm được nước mắt và bác Ba “bỗng thấy khó thở
như có bàn tay ai nắm chặt trái tim mình”.

– Dường như nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng muốn kéo dài thêm giây phút chia ly của cha con Thu trong cảm nhận của người đọc bằng cách rẽ mạch
truyện sang một hướng khác, để bác Ba nghe bà ngoại Thu kể lại cuộc chuyện trò của hai bà cháu đêm qua. Chi tiết này vừa giải thích cho ta hiểu thái độ
bướng bỉnh không nhận ba hôm trước của bé Thu và sự thay đổi trong hành động của em hôm nay. Như vậy, trong lòng cô bé, tình yêu dành cho ba luôn là
một tình cảm thống nhất, mãnh liệt. Dù cách biểu hiện tình yêu ấy thật khác nhau trong hai hoàn cảnh, nhưng nó vẫn xuất phát trừ một cội nguồn trong trái
tim đứa trẻ luôn khao khát tình cha. Tuy nhiên, Thu trước sau vẫn chỉ là một cô bé ngây thơ, em đồng ý cho ba đi để ba mua một chiếc lược, món quà nhỏ
mà bất cứ em bé gái nào cũng ao ước. Bắt đầu từ chi tiết này, chiếc lược ngà bước vào câu chuyện, trở thành một chứng nhân âm thầm cho tình cha con
thiêng liêng, bất tử.

=> Qua những biểu hiện tâm lí và hành đông của bé Thu, người đọc cảm nhận được tình cảm sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi của bé
Thu. Sự cứng đầu, tưởng như ương ngạnh ở Thu là biểu hiện của một cá tính mạnh mẽ ( cơ sở để sau này trở thành một cô giao liên mưu trí, dũng cảm). Tuy
nhiên, cách thể hiện tình cảm của em vẫn rất hồn nhiên, ngây thơ).

=> Qua những diễn biến tâm lí của Thu, ta thấy tác giả đã tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến, trân trọng những tình
cảm trẻ thơ.

3. Tình cha con sâu nặng và cao đẹp của ông Sáu:
– Nỗi khao khát gặp lại con sau tám năm xa cách.
+ Khi gặp lại con, không chờ xuồng cập bến, ông đã “nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra, bước vội vàng với những bước dài rồi dừng lại kêu to:
Thu! Con” Anh vừa bước vào vừa khom người đưa tay đón chờ con… Anh không ghìm nổi xúc động….

+ Khi bé Thu sợ hãi bỏ chạy, anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị
gãy.

– Nỗi khổ và niềm vui trong ba ngày về thăm nhà.

+ Trước thái độ lạnh nhạt, ông đã đau khổ, cảm thấy bất lực: Suốt ngày anh chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con. Nhưng càng vỗ về, con bé càng đẩy ra.
Anh mong được nghe một tiếng ba của con bé, nhưng con bé chẳng bao giờ chịu gọi. Anh đau khổ lắm nhưng chỉ “nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười”
vì “khổ tâm đến nỗi không khóc được”.

+ Hôm chia tay, nhìn thấy con đứng trong góc nhà, ông muốn ôm con, hôn con nhưng “sợ nó giẫy lên lại bỏ chạy” nên “chỉ đứng nhìn nó” với đôi mắt “trìu
mến lẫn buồn rầu”… Cho đến khi nó cất tiếng gọi Ba, ông xúc động đến phát khóc và “không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một
tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc của con”. -> Đây là những giọt nước mắt hạnh phúc của người cha, của người cán bộ kháng chiến.

– Tình yêu con tha thiết của ông còn được thể hiện rất sâu sắc khi ông ở khu căn cứ:

+ Xa con, ông luôn nhớ con trong nỗi day dứt, ân hận ám ảnh vì mình đã lỡ tay đánh con.
+ Lời dặn của con lúc chia tay đã thôi thúc ông làm cho con cây lược.
+ Tác giả diễn tả tình cảm của ông Sáu xung quanh chuyện ông làm chiếc lược:

– Kiếm được khúc ngà voi, ông hớn hở như đứa trẻ được quà: “từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên
khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”.

-Rồi ông dồn hết tâm trí và công sức vào việc làm cho con cây lược: “anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như một người thợ bạc”.
Trên sống lưng lược, ông đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Ông gửi vào đó tất cả tình yêu và nỗi nhớ.

-Nhớ con “anh lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt”. Ông không muốn con ông đau khi chải lược. Yêu con, ông
Sáu yêu đến từng sợi tóc của con -> Chiếc lược trở thành vật thiêng liêng đối với ông Sáu, nó làm dịu đi nỗi ân hận, nó chứa đựng bao tình cảm yêu mến,
nhớ thương, mong ngóng của người cha với đứa con xa cách. Cây lược ngà chính là sự kết tinh của tình phụ tử thiêng liêng.

– Ông Sáu đã hi sinh trong trận càn lớn của quân Mĩ – ngụy khi chưa kịp trao cây lược cho con gái. “Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối
lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa
cho người bạn chiến đấu. Đó là điều trăng trối không lời nhưng nó thiêng liêng hơn cả những lời di chức. Nó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng, ước
nguyện của tình phụ tử. Và bắt đầu từ giây phút ấy, cây lược của tình phụ tử đã biến người đồng đội của ông Sáu thành một người cha thứ hai của bé Thu.

=> Qua nhân vật ông Sáu, người đọc không chỉ cảm nhận tình yêu con tha thiết sâu nặng của người cha chiến sĩ mà còn thấm thía bao đau thương mất mát
đối với những em bé, những gia đình. Tình yêu thương con của ông Sáu còn như một lời khẳng định: Bom đạn của kẻ thù chỉ có thể hủy diệt được sự sống
của con người, còn tình cảm của con người – tình phụ tử thiêng liêng thì không bom đạn nào có thể giết chết được.

III – Tổng kết:


1. Nội dung:

 Truyện “Chiếc lược ngà” đã thể hiện một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng và cao đẹp của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le
của chiến tranh.
 Truyện còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những mất mát đau thương, éo le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu
gia đình.
2. Nghệ thuật:

 Xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí


 Xây dựng cốt truyện khá chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. Truyện được kể theo ngôi thứ nhất, đặt vào nhân vật bác Ba, người bạn
chiến đấu của ông Sáu và cũng là người chứng kiến, tham gia vào câu chuyện. Với ngôi kể này, người kể chuyện xen vào những lời bình luận, suy
nghĩ, bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với nhân vật, và câu chuyện vẫn mang tính khách quan.
 Miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế và sâu sắc, nhất là đối với nhân vật bé Thu.
 Ngôn ngữ truyện mang đậm chất địa phương Nam Bộ.
Nâng cao bài viết NLXH bằng những câu văn giàu hình ảnh
Muốn bài viết NLXH đạt điểm cao; ngoài việc đáp ứng đủ dung lượng, bố cục và các ý chính cơ bản; ta cũng nên đưa một số chi tiết sáng tạo vào trong quá
trình lập luận để giúp bài viết không bị khô khan và tạo được ấn tượng với người chấm. Dưới đây Thích Văn học sẽ chia sẻ tới cậu 5 chi tiết hình ảnh có thể
áp dụng vào bài viết NLXH. Hy vọng tài liệu sẽ được đón nhận và giúp ích được cho các cậu nhé!

Con bướm và chiếc kén


“Một người thấy con bướm non đang cố gắng vươn mình ra khỏi chiếc kén. Vì muốn giúp con bướm kia, người ấy đã tách đôi cái kén cho nó chui ra. Nhưng
ngờ đâu, con bướm không chui ra được và mãi là con sâu”.

Ý nghĩa: Muốn đạt được thành công, chúng ta phải tự bước ra khỏi “chiếc kén” của mình, dám mạo hiểm, vượt qua giới hạn của bản thân để vươn tới thành
công. Nếu chỉ phụ thuộc, dựa dẫm quá nhiều vào người khác, ta sẽ mất đi chính kiến của chính mình và khó có thể đạt được thành công.

Tiếng ồn
“Đừng để tiếng ồn của người khác che khuất tiếng nói bên trong bạn” (Steve Jobs).

Ý nghĩa: Đừng để những tiếng ồn ã của cuộc sống nhiễu nhương, của những gian truân khó khăn che lấp đi giá trị đích thực bên trong mình. Hãy vươn lên,
khẳng định giá trị của bản thân bằng tiếng nói bên trong, bằng tất cả nghị lực, sự cố gắng hết mình. Đó chính là thứ quyết định thực tại và tương lai tốt đẹp
của chúng ta sau này.

Chiếc bình rỗng


“Con người vốn dĩ chỉ là một chiếc bình rỗng, bạn cho cái gì vào, đó đều là lựa chọn của bạn. Bạn đổ nước tinh khiết vào đó, bạn sẽ thông suốt, đơn thuần,
thanh khiết; bạn xúc bùn vào trong bình, tâm bạn sẽ đầy ắp những vọng tưởng, phúc khí sẽ dần dần mất đi; bạn đổ cát sỏi vào trong bình, bạn sẽ mệt mỏi
nặng trĩu, bước đi khó khăn”.

Ý nghĩa: Sống trên đời, hãy dùng mắt để quan sát, dùng trí tuệ để cảm nhận, tin tưởng và nắm bắt tất cả những điều tốt đẹp trên thế gian, rồi cho vào “chiếc
bình rỗng” để làm giàu cho bản thân. Sau cùng, điều ta nhận lại đó là thành quả, là niềm vui của lúc thu hoạch.

Mặt trời
“Bạn có biết khi mặt trời lên, bạn còn uể oải trong chăn ấm thì một ngày mưu sinh của nhiều người đã gần cạn đi một nửa” (Nguyễn Thiên Hào).

Ý nghĩa: Muốn vươn tới thành công, ta chớ nên trì hoãn. Hãy hướng tầm mắt nhìn lên thật cao và thật xa, trong cuộc đời rộng lớn ngoài kia còn có biết bao
người vẫn đang chăm chỉ, miệt mài hướng tới mục tiêu của riêng mình. Ta cần thúc đẩy bản thân không ngừng phấn đấu để vươn lên không ngừng, để không
bị bỏ lại phía sau.

Con chim và đôi cánh


“Con chim đậu trên cành không bao giờ sợ cành cây gãy, bởi niềm tin của nó không đặt vào cành cây, mà đặt vào đôi cánh của chính mình”.

Ý nghĩa: Mỗi người trong chúng ta cần có niềm tin vào chính bản thân mình, tin vào năng lực, trí tuệ, phẩm chất, giá trị của mình trong cuộc sống. Đứng
trước những khó khăn, thách thức, con người cần phải tự nỗ lực, dựa vào chính bản thân mình, chứ không phải phụ thuộc vào bất kì một ai khác. Khi ấy ta sẽ
gặt hái được thành công!

NLXH: Sống một đời đáng sống như anh thanh niên trong LẶNG LẼ SA PA
Lâu lâu lướt Facebook, chúng ta lại vô tình đọc được đôi dòng status của một vài người đó, khoe mình đã tìm được một công việc mới. Chưa kịp để người
khác tò mò, họ lý giải luôn rằng công việc cũ “quá áp lực, không phù hợp với mình nữa”, còn tự hứa rằng là sẽ thành công với công việc mới. Nhưng chỉ vài
tháng sau lại có thêm một status mới, người bạn ấy lại… nghỉ việc. Khi còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta luôn được dạy rằng phải kiên trì theo đuổi
đến cùng mục tiêu đến cùng, dù cho có khó khăn như thế nào đi chăng nữa.

Nhưng khi chạm mặt với nhiều lối sống tiêu cực kể trên, tôi vô tình tự vấn lại bản thân mình: là do mình quá cứng nhắc hay thời đại mới đã khiến con người
ta quá dễ dãi trong việc từ bỏ? Viết đến đây, tôi lại nhớ về truyện ngắn “Lặng Lẽ Sa Pa” của nhà văn Nguyễn Thành Long và câu chuyện anh thanh niên vô
danh làm công việc thầm lặng trên đỉnh núi mây mù Yên Sơn. Có thể nói, dù ra đời đã khá lâu (vào năm 1970) thế nhưng những gì mà tác phẩm vẫn còn in
nguyên giá trị đến ngày nay. Dù chỉ xuất hiện trong chốc lát trong tác phẩm, thế nhưng nhân vật anh thanh niên lại trở thành điểm sáng chói trong bức tranh
muôn màu mang tên: “Lặng lẽ Sa Pa”. Sức thu hút của anh chính là ở thái độ và những suy nghĩ về cuộc sống và công việc của một người sống và làm việc
một mình giữa lặng lẽ của thiên nhiên, điều mà thế hế trẻ ngày nay ít ai làm được. “Một anh thanh niên thoáng qua có vẻ rất tẻ nhạt nhưng lại rất sôi nổi, một
nguồn năng lực rất tích cực sục sôi của tuổi trẻ, tấm lòng rất đỗi vô tư mà vẫn luôn canh cánh về những mảnh chuyện thường nhật, về cuộc sống” là những gì
mọi người nhớ về anh thanh niên vô danh trong tác phẩm.

🌿 Về anh thanh niên


Anh thanh niên là một chàng trai 27 tuổi, cái tuổi sôi nổi, yêu đời và khát khao được cống hiến cho đời. Anh sống và làm việc một mình ở đỉnh núi Yên Sơn
cao 2600m với rừng xanh, mây trắng, bão tuyết và sương rơi. Anh làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu. Công việc mỗi ngày của anh là “ đo gió, đo
mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất”. Nhằm dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày phục vụ sản xuất và chiến đấu, Đó là công việc đòi hỏi sự tỉ
mỉ, chính xác, kiên nhẫn và có tinh thần trách nghiệm cao. Chính hoàn cảnh sống đặc biệt ấy lại là “chiếc đòn bẩy” nâng tầm cho ý chí sắt đá, nghị lực phi
thường của anh thanh niên được nổi bật và neo giữ mãi trong trái tim người đọc.

🌿 “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được”
Một mình trên đỉnh Yên Sơn, quanh năm suốt tháng giữa cái lặng lẽ mênh mông của cỏ cây, mây núi. Công việc của anh thật gian khổ, thật vất vả: “Đo gió,
đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất”. Anh phải dậy vào lúc 1 giờ đêm, khi bên ngoài rét đến nỗi “lúc vào lại không ngủ được”.

Thế nhưng, công việc gian khổ ấy đều được anh lặng lẽ hoàn thành. Với công việc, anh nghĩ: “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi sao gọi là một mình
được”. Đó chính là tình yêu với nghề, sự gắn bó với nghề nghiệp.

Tinh thần trách nhiệm đã là động lực chính để anh một mình sống, làm việc tận tụy, để anh hiểu được hạnh phúc là làm việc, là cống hiến. Rõ ràng, với anh
nghề nghiệp như là lẽ sống. Phải chăng lòng yêu nghề tha thiết ấy, sự gắn bó với nghề nghiệp bằng một tình yêu sâu sắc. Tình yêu nghề đã làm anh không
thấy cô đơn dù một mình anh giữa Sa Pa quanh năm với cây cỏ và mây mù.
🌿 “Mình sinh ra là gì. . . mình vì ai mà làm việc?” đấy mới chính là lẽ sống
Từ khi sinh ra cho đến độ trưởng thành, con người ai ai cũng được dạy bảo rằng phải làm việc vì sự sống của bản thân và sự sống của cộng đồng, phải trở
thành “ông nọ – bà kia” mang danh về cho gia đình dòng tộc, đấy mới gọi là thành công.

Thế nhưng khác hẳn với mọi người, anh thanh niên làm nghề khí tượng thủy văn đã tách mình ra khỏi những suy nghĩ tầm thường, cách sống tầm thường đó:
“Cháu bỗng tự hỏi: cái nhớ xe nhớ người ấy thật ra là cái gì vậy? Nếu là nỗi nhớ phồn hoa đô thị thì xoàng”. Có thể nói những suy nghĩ nghiêm túc của anh
thanh niên đã bộc lộ tâm hồn trong sáng, cách sống đẹp, một thái độ trách nhiệm với cuộc sống.

Anh đã chiến thắng nỗi cô đơn, sự vắng vẻ, chiến thắng hoàn cảnh bằng một cách sống thật nghiêm túc mà cũng thật lãng mạn. Ở một mình nhưng ngôi nhà
của anh vẫn rất ngăn nắp, gọn gàng. Đó là ngôi nhà ba gian với cuộc đời riêng của anh thanh niên thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một
bàn học một giá sách. Anh đã suy nghĩ “Người thì ai mà chả “thèm” hở bác? Mình sinh ra là gì. . . mình vì ai mà làm việc?”. Đó, rõ ràng, mới chính là lẽ
sống.

Cốt truyện đơn giản nhẹ nhàng, nhưng “Lặng lẽ Sa Pa” đã truyền tải thành công những khó khăn, áp lực mà những người trẻ ngày nay đang phải đối mặt và
chịu đựng. Sức mạnh của ý thức trách nhiệm và tình yêu đối với công việc được truyện ngắn khắc họa rất rõ nét.

🌿 Hỡi ơi những ai đang “rơi tự do”, sốc lại tinh thần và tìm lấy lẽ sống của đời mình đi nào!
Mỗi thời đại, các cá nhân có cách lựa chọn lẽ sống riêng, không bao giờ là muộn nhưng thường là ở lứa tuổi thanh niên, trung niên. Nếu nghĩ về lẽ sống, bạn
có thể tìm từ 3 nguồn ý nghĩa cơ bản của đời người: thành tựu trong công việc, sự quan tâm chăm sóc đối với những người thân yêu và lòng can đảm khi đối
mặt với những thời khắc, những nhiệm vụ lớn lao, khó khăn, cam go, nghiệt ngã của cuộc sống cá nhân, cuộc sống đồng loại.

Các bạn trẻ ơi hãy thôi sống lơ lửng, không mục đích, không chỗ bám vào một lẽ sống rõ ràng đi. Ai cũng dám nói nhưng mấy ai dám làm, dám sống.

Lẽ sống của bạn là gì? Sống để làm gì? Hãy tự tìm lấy. Nếu xác định được mục đích, bạn sẽ sống khác đi và cuộc sống của bạn chắc chắn cũng sẽ khác.

Cuối cùng, để kết lại bài viết, dành tặng bạn những vần thơ được Tony Buổi Sáng đặt ở cuối cuốn sách “Trên đường băng”:

“Cứ ở mãi ao làng, ao rồi sẽ cạn

Sao không ra sông ra biển để vẫy vùng

Sao cứ tự trói mình trong nếp nghĩ bùng nhùng

Sao cứ mãi online và thở dài ngao ngán

Sao cứ để tuổi trẻ trôi qua thật chán….

Trên đường băng sân bay mỗi đời người

Có những kẻ đang chạy đà và cất cánh!”

II. Kĩ năng viết đoạn


1. Cách mở đoạn Nghị luận xã hội

Có lẽ một “công thức” mở đoạn quen thuộc của học sinh khi viết đoạn Nghị luận xã hội 200 chữ đó chính là: “Trong cuộc sống…” mặc dù nó đúng nhưng
nó đã quá cũ, không tạo được điểm nhấn và không thu hút người đọc.

a. Đưa ra phản đề

Ví dụ:

Từ nội dung văn bản ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về tầm quan trọng của lịch sử
dân tộc đối với thế hệ trẻ. (Trích Đề số 9 – Bộ Tài Liệu Đọc Hiểu Và Nghị Luận Xã Hội)

Chúng ta sẽ có mở đoạn như sau:

Người ta nói, lịch sử là người thầy của tương lai, thế nhưng trong xã hội Việt Nam ngày hôm nay dường như người thầy ấy đang dần mất đi vị trí quan trọng
của mình. Bởi vậy, hơn bao giờ hết, thế hệ trẻ cần phải hiểu rõ tầm quan trọng của lịch sử dân tộc để tìm lại những giá trị cao quý của cha ông ta.

b. Trích dẫn một câu châm ngôn, lời bài hát, câu thơ, câu văn,…
Ví dụ:

Từ nội dung văn bản ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) trả lời câu hỏi: “Tôi sẽ thương lượng với thời gian như thế
nào?” (Trích Đề số 1 – Bộ Tài Liệu Đọc Hiểu Và Nghị Luận Xã Hội)
Chúng ta sẽ có mở đoạn như sau:

“Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí” câu nói của Nikolai A.Ostrovsky đã
khiến bản thân mỗi chúng ta đặt ra một câu hỏi lớn: “Tôi sẽ thương lượng với thời gian như thế nào?”

c. Đưa ra những liên tưởng, tưởng tượng.


Ví dụ: Từ nội dung văn bản ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của lòng khoan dung trong
cuộc sống. (Trích Đề số 19 – Bộ Tài Liệu Đọc Hiểu Và Nghị Luận Xã Hội)
Chúng ta sẽ có mở đoạn như sau:

Cuộc sống mỗi ngày một phong phú, nó như một kệ hàng tạp hóa bán đủ mọi thứ kể cả sự hận thù, ghen ghét, đố kỵ thậm chí là chết chóc. Nhưng dù sao đi
chăng nữa, trong tôi vẫn có niềm tin rằng lòng khoan dung có ý nghĩa vô cùng quan trọng, không thể thiếu trong xã hội ngày nay.

d. Đưa ra những hình ảnh mang tính biểu tượng.


Ví dụ:

Viết đoạn văn nghị luận xã hội (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về tinh thần lạc quan đối với tuổi trẻ.
Chúng ta sẽ có mở đoạn như sau:

Như loài hoa hướng dương luôn sống khao khát hướng mình dưới nắng vàng thơm ngát, luôn rạng rỡ đẹp tươi dưới ánh nắng mặt trời thì thế hệ trẻ cũng cần
vươn tới những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống với tinh thần lạc quan.
Tùy từng vấn đề nghị luận mà ta viết mở đoạn cho hợp lý, không quá gượng ép, gò bó theo một công thức nhất định nào!

2. Diễn đạt trong thân đoạn.

a. Phần giải thích.

Chúng ta chỉ cần giải thích đối với những từ ngữ khó hiểu, chưa rõ nghĩa hoặc mang ẩn ý trong vần đề nghị luận. Nếu trường hợp từ ngữ đã rõ nghĩa thì
không nhất thiết cần giải thích tránh việc càng giải thích càng gây khó hiểu cho người chấm.

b. Phần bàn luận.

– Cần xoáy sâu vào vấn đề nghĩ luận.

Ví dụ vấn đề nghĩ luận là trình bày ý nghĩa của… thì ta cần tập trung vào phần ý nghĩa tránh lan man sang các vấn đề khác.

– Cần nhìn nhận vấn đề nghị luận dưới nhiều khía cạnh, góc độ để giúp bài viết thêm hấp dẫn, cuốn hút và sâu sắc.

Ví dụ:

đề bài yêu cầu “Viết đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của tình yêu thương.” thì ta cần nhìn nhận dưới 2 khía cạnh: ý nghĩa đối với bản
thân và ý nghĩa đối với xã hội. Hay đề bài yêu câu “Viết đoạn văn ngắn khoảng 200 chữ trình bày nguyên nhân dẫn đến bùng phát lại dịch Covid nhiều lần
trên thế giới.” thì ca cần nhìn nhận dưới 2 khía cạnh: nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.

c. Phần dẫn chứng.

– Một đoạn văn Nghị luận xã hội cần “đủ” dẫn chứng (lấy từ 1 – 2 dẫn chứng).

– Dẫn chứng cần chính xác, thuyết phục, mang tính thời sự, mới lạ và tránh việc lấy dẫn chứng quá cũ.

Ví dụ: dẫn chứng về tinh thần yêu nước

Thay vì việc chọn dẫn chứng là “Bác Hồ bao nhiêu năm bôn ba nước ngoài để tìm đường cứu nước…” đây là dẫn chứng hoàn toàn chính xác nhưng nó đã
quá cũ, quá “lạc hậu” và không còn mang tính thời sự hay cấp thiết nữa. Thay vào đó chúng ta có thể lấy dẫn chứng là “những y bác sĩ trong đại dịch Covid
vừa qua – những chiến binh áo trắng đã oằn mình cũng những con virut để mang đến sự an toàn cho người dân khắp Tổ quốc.”

– Hạn chế tuyệt đối việc lấy dẫn chứng trong văn học.

– Lấy dẫn chứng cần phải phân tích sơ qua

Ví dụ:

Từ nội dung văn bản ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về thế kỷ đau thương.

+ Dẫn chứng: Đại dịch Covid khiến toàn thể nhân loại biến động, số người thiệt mạng đã lên tới 3,5 triệu người trên toàn thế giới.

+ Phân tích dẫn chứng: đó lại là một phép thử trước nghịch cảnh để thử thách tình yêu thương, tinh thần đoàn kết hay sự tự giác của mỗi con người qua đó
cùng nhau đối đầu với thế kỉ đau thương và khôi phục nền kinh tế toàn cầu.

3. Kết đoạn

– Nhiệm vụ chính của phần kết đoạn là khái quát lại vấn đề, liên hệ bản thân, đưa ra bài học nhận thức và hành động.

– Hạn chế sử dụng “công thức” kết đoạn quen thuộc: “là một học sinh ngồi trên ghế nhà trường…” mặc dù nó không sai nhưng nghe rất “giả trân” khiến
người chấm khó chịu. Thay vào đó chúng ta có thể viết: “Là một thế hệ trẻ sống giữa thời kì toàn cầu hóa với những biến chuyển không ngừng của thời
đại…”.

4 Làm thế nào để có một đoạn văn Nghị luận xã hội ấn tượng?

a. Sử dụng các từ ngữ chuyển ý.

Ví dụ: bên cạnh đó, mặt khác, cùng với đó, thứ nhất là, thứ hai là, vậy nên, tuy nhiên…

Điểu này giúp bài mạch lạc, sáng ý, mang màu sắc lập luận. Mặc dù sẽ khiến bài viết cứng nhắc, không được bay bổng nhưng trước khi có một đoạn văn hay
thì cần phải có một đoạn văn đúng.

b. Sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh, sáng tao và mang tính biểu tượng.

Ví dụ:

+ Nếu nói về sự mất phương hướng ta có thể viết như sau: “những người mất phương hướng không khác nào những con tàu ma lênh đênh giữa biển cả mênh
mông.”

+ Nói về những con người sống thụ động ta có thể viết như sau: “những kẻ sống thụ động, thiếu trải nghiệm chỉ như những cây non èo uột sống trong mảnh
vườn nhỏ được chăm tưới tắm cẩn thận nhưng sẽ bị quật ngã trước gió to, bão lớn.”

+ Nói về giá trị riêng của bản thân ta có thể viết như sau: “Chanh chẳng thể xin cho mình vị ngọt, muối chẳng thể xin cho mình vị cay, đường chẳng thể xin
cho mình vị đắng,… bởi lẽ vạn vật đều có cho mình những màu sắc, tính chất khác nhau, thay vì trộn lẫn sao bạn không thử tạo ra giá trị cho riêng mình?”

NLXH: Dẫn chứng mới cho bài NLXH điểm cao


1. 5.000 tấn gạo là quà tặng của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam dành cho Đảng, Nhà nước và nhân dân Cuba nhằm chia sẻ phần nào những khó
khăn về lương thực hiện nay, cũng như chung sức với đất nước Cuba anh em ứng phó với đại dịch COVID-19.

=> Hợp tác giữa các quốc gia, tinh thần tương thân thân tương ái, sự sẻ chia, giúp đỡ hoàn cảnh khó khăn, …

2. Ngân hàng Thế giới cho rằng, mỗi năm, thiên tai đã đẩy ít nhất 26 triệu người rơi vào cảnh đói nghèo. Việt Nam là một trong những quốc gia phải gánh
chịu nhiều nguy cơ thiên tai như bão, lũ lụt và hạn hán… Tại Việt Nam, ước tính khoảng 60% tổng diện tích đất đai và 71% dân số phải chịu nguy cơ bão và
lũ lụt.
=> Thiên tai ảnh hưởng đến con người như thế nào?

3. Bão lũ xảy ra triền miên ở miền Trung nước ta, người dân phải sống trong cảnh thiếu thốn từ vật chất đến tinh thần. Nhưng nhờ vào sự giúp đỡ của cả
trong nước và ngoài nước, hàng loạt những số tiền ùng hộ, lương thực, quần áo, thuốc men, … đã được đưa đến tận tay người dân miền Trung để giúp họ
vượt qua khó khăn.

=> Sự sẻ chia, giúp đỡ hoàn cảnh khó khăn, tinh thần dân tộc, tương thân tương ái, …

4.Trong những năm gần đây, những sản phẩm nghệ thuật mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc đang rất thịnh hành có thể kể đến như dự án 1977 Vlog, “Để Mị
nói cho mà nghe” của Hoàng Thùy Linh, “Bống bống bang bang” của nhóm 365 hay bộ phim chuyển thể từ “Truyện Kiều” sắp được công chiếu.

=> Dẫn chứng về gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, sự sáng tạo của thế hệ trẻ, …

5. Chỉ trong vòng chưa đầy 2 tháng, đã có 2 trường hợp trẻ tử vong do thực hiện các thử thách độc hại trên youtube.
=> Sự chủ quan, thông tin lệch lạc từ mạng xã hội, …

6. Từng mê game, bỏ học vào Bình Dương làm thuê, Nguyễn Văn Kiên, sinh năm 1999, quê Thái Bình đã quyết tâm làm lại từ đầu khi trở thành thủ khoa
ĐH khối A sau biết bao biến cố, khó khăn.

=> Dẫn chứng về ý chí, nghị lực vượt qua bản thân, vượt qua thử thách…

7. Võ Duy Khánh – chàng trai 30 tuổi là người viết những dòng code đầu tiên của ứng dụng Bluezone. Anh đã làm việc trong 48 giờ liên tục cùng đồng
nghiệp để ra bản demo đầu tiên, có những hôm cả đội thức trắng đêm làm việc, thậm chí 5-6 giờ sáng vẫn chong đèn ngồi họp bàn kế hoạch. Khi mới ra mắt
ứng dụng, xuất hiện vô số ý kiến trái chiều nhưng đến thời điểm hiện tại, Bluezone được coi là “app quốc dân” vì đã giúp ích rất nhiều cho việc phòng chống
dịch bệnh Covid 19 tại Việt Nam.

=> Dẫn chứng cho nghị lực, yêu nước, cống hiến…

8. Sau khi sử dụng sản phẩm Pate Minh Chay của công ty TNHH hai thành viên Lối Sống Mới nhiều người đã bị ngộ độc thửc phẩm, sau khi kiểm tra, cơ
quan chức năng phát hiện một hàm lượng chất độc hại lớn trong sản phẩm nói trên.

=> Dẫn chứng về thực phẩm bẩn.

9. Môi trường mạng vẫn luôn là điều được nhiều người quan tâm, chỉ vì những trò câu like trên youtube, facebook, … mà gây lên hiệu ứng nhà nhà vlog,
người người youtuber để làm những video phảm cảm hay bài đăng sai sự thật như nấu cháo gà vẫn còn lông, đổ trứng vào người mẹ để mừng kênh đạt vài
chục nghìn sub, …

=> Dẫn chứng về sự thiếu ý thức.

10. Ngô Quý Đăng – “Vua giải thưởng Toán olympc” chỉ mới lớp 10 đã giành được vô số giải thưởng danh giá về toán học. Trước đó, cấp 2 cậu đã không
được xét duyệt vào trường chuyên Amsterdam Hà Nội nhưng nhờ nỗ lực của bản thân cậu đã có thành quả như ngày hôm nay.

=> Dẫn chứng cho nghị lực cuộc sống.

11. phát ngôn gây sốc của teen 10X Linh Ka vào năm 2017 đã bị chỉ trích khi cô nói rằng: “Điểm đâu quan trọng, bây giờ có thể mua được điểm cấp 3 và đại
học mà.”

=> Dẫn chứng về việc giá trị vật chất xâm chiếm cuộc sống con người.

12. Năm 2016, với sự cố hàng loạt Galaxy Note 7 phát nổ, Samsung đã không biện minh, không phân bua. Bên cạnh lời xin lỗi, họ ngay lập tức thu hồi hơn
2,5 triệu điện thoại đã bán ra trên toàn cầu. Và đó là cách xử lý thông minh, không chỉ vậy mà họ còn dựa vào khủng hoảng và quản lý khủng hoảng để PR
sản phẩm mới (Galaxy S7) qua đó tăng doanh thu một cách đáng kể (tính đến nay Samsung là hãng điện thoại có doanh thu lớn nhất thế giới)

=> Dẫn chứng về việc quản lý khủng hoảng.

13. Mỹ mới đây vừa công bố bình chọn Top 10 trang phục dân tộc ấn tượng nhất lịch sử Miss Universe, trong đó có trang phục dân tộc mà Hoa hậu H’Hen
Niê từng trình diễn năm 2018 đã gây được tiếng vang lớn khi lấy cảm hứng từ món bánh mì quen thuộc và chính món ăn truyền thống ấy đã được thêm vào
từ điển Ofoxrd.

=> Dẫn chứng về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

14. Leo Burnett là một nhà quảng cáo nổi tiếng với nhiều sản phẩm của các nhãn hàng hay hãng phim lớn như: bộ phim “Người khổng lồ xanh Jolly”, nước
giải khát “7Up”. Trong thời đại của ông, các sản phẩm thường được giới thiệu bằng những lời quảng cáo dài để tranh giành lợi nhuận. Burnett lại tập trung
chú ý vào những kiểu mẫu, sáng tạo ra các hình tượng đặc trưng cho các sản phẩm. Ông rất chán ngán những cách quảng cáo thiếu sáng tạo, thiếu thu hút
của những nhà thiết kế đương thời – cái mà ông gọi là “vở kịch cố hữu”.

=> Dẫn chứng về sự sáng tạo.

15. Vietnam Center – một tổ chức phi lợi nhuận gồm các bạn trẻ là người Việt Nam sinh sống và học tập tại nước ngoài đã tổ chức nhiều sự kiện lớn về lịch
sử dân tộc thu hút sự quan tâm của bạn bè quốc tế như: “Trình diễn trang phục cung đình và Tái hiện lễ Tiến lịch thời Lê sơ”, “Dệt nên triều đại”,…

=> Dẫn chứng về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

16. Vượt qua sự kì thị của xã hội lúc bấy giờ, hoa hậu Hương Giang đã đánh bại chính những “ác quỷ” trong mình (sự tự ti, mặc cảm) và những “ác quỷ”
bên ngoài xã hội (sự kì thị, ánh mắt cay nghiệt) để trở thành một nữ nghệ sĩ thành công trên con dường nghệ thuật của riêng mình.

=> Dẫn chứng về việc sống là chính mình, vượt qua rào cản định kiến,…

You might also like