Professional Documents
Culture Documents
Trích dịch Ru
ĐIỂM SÁCH
25 Linda Lê: Người chết viết văn
56 28: Giữa chó và người
TIỂU LUẬN
38 Sự nổi lên của manga dành cho thiếu nữ và văn hóa thiếu nữ
67 Bohumil Hrabal: Tiếng cười cận kề cái chết
115 Lối viết và tiếng nói nữ trong Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ
140 Atwood đã dạy tôi làm đàn bà như thế nào
PHỎNG VẤN
32 Emma Hooper, “Đi đi, làm bất cứ điều gì, bất cứ khi nào”
84 Jeffrey Eugenides, Nghệ thuật tiểu thuyết số 215
FIC&POE
6 Anna Burns, Người đưa sữa (trích)
15 Kim Thúy, Ru (trích)
30 Nguyễn Thị Thúy Hạnh, “Người ch/nữ”, “Văn học vết thâm”
43 Thuận, Thư gửi Mina (trích)
61 Bohumil Hrabal, quá ồn một nỗi cô đơn (trích)
74 Trương Hoàng Yến, “Cái hố”
76 Trạch Vĩnh Minh, “Khát vọng”, “Mẹ”, “Độc thoại”
101 Natascha Wodin, Bà đến từ Mariupol (trích)
130 Margaret Atwood, “Huyễn tưởng cưỡng dâm”
EASTER EGG
Theme của số này là Nhời đàn bà. Ban đầu là một câu đùa (nửa thật, và
chắc cũng hơi hờn dỗi) của Y cà rết, rằng làm sao mà người viết trong số 1+2
thì 90% liền bà mà tác giả dịch giả được trầm trồ lại 90% nam giới; chẳng lẽ
không tác giả nữ nào đáng đọc? Té ra là rất nhiều, như số lượng bài gửi về
(cũng như đi xin về) cho thấy. Mấy tháng vừa qua, như một trò đùa, các tác
giả nữ cũng phủ sóng thời sự cả Việt Nam và quốc tế: Nobel phẩy dành cho
Maryse “không phải Kim Thúy” Condé, Man Booker với shortlist 2/3 đàn bà,
Nguyễn Ngọc Tư tại Frankfurt với bài phát biểu vẫn còn vương hơi bếp:
Đôi khi vì mãi lắng nghe sự thôi thúc mãnh liệt đó, tôi đã văng ra khỏi
cuộc trò chuyện với con mình, và tụi nhỏ đã quen với việc bà mẹ bỗng
dưng xao lãng, không nghe thấy lời của chúng. Đi chợ về, tôi thường lạc
đường, cho tới khi nhận ra đang ngược hướng nhà mình. Và tôi ngờ rằng
những món ăn tôi nấu lên trong căn bếp mù khói, đã không ngon bởi vì
tôi chẳng trọn lòng để ý tiếng cơm sôi, tiếng con cá nứt mình ra trong nồi,
mà mãi lắng tai nghe lời thì thầm ấy.
Không biết có nhà văn nam nào có thể, giữa công chúng và trong một
khoảnh khắc quan trọng khẳng định sự nghiệp mình, thẳng thắn thừa nhận
4 Z Z Z REVIEW
việc-nội-trợ như một đối trọng đáng chú tâm hơn cả văn chương ấy? Và chúng
tôi bất chợt phì cười, bởi cả chúng tôi cũng đang vừa lên kế hoạch số này vừa
bàn cách chăm con cái, bảo nhau công thức nấu ăn, cùng trăm thứ việc không
tên nhưng không kém phần quan trọng. “Biên tập sai không chết, nhưng
đóng lệch cánh tủ là chết ngay,” như lời nhận xét thâm thúy của Madame Z.
Hẳn không thiếu những người bạn đã góp chữ, góp hình cho chúng tôi
cũng đã tranh thủ lúc chờ máy giặt quay hay khi con ngủ, và cũng có thể
chính bạn, người đang đọc những dòng này. Nếu bạn nghĩ rằng những điều
ấy quá nhỏ nhặt không nên đưa vào địa hạt văn chương, hãy an tâm, đã có
Svetlana Alexievich bảo rằng không phải thế. Nếu bạn cho câu chuyện của
mình quá đặc thù không ai muốn biết đến, hãy tự tin bạn bầu cùng Kim Thúy
và Natascha Wodin. Hoặc nếu câu chuyện có quá nhiều khổ đau, hãy mượn
Anna Burns chút lòng can đảm. Và lắng nghe tiếng nói nữ tự tin của nhiều
thế hệ, nhiều miền đất: Thuận, Emma Hooper, Thúy Hạnh, Trạch Vĩnh Minh.
Khi rao tìm bài về “người viết nữ”, chúng tôi chỉ có ý tìm đúng thế: người
viết nữ. Không nhằm cổ xúy một điều gì, càng không phải nữ quyền, là một
chữ chúng tôi không sử dụng và cũng đôi chút kiêng dè. Nhưng tình cờ thay,
những vấn đề thuộc về phụ nữ lại xuất hiện thật chen vai thích cánh trong hai
mươi bài viết ngắn này. Thậm chí gần như là đối thoại: Svetlana Alexievich nói
rằng có một tiếng nói nữ đặc thù, nhưng Eugenides với quả bom tấn về người
liên giới tính lại một mực bảo rằng không; Svetlana lưu ý (và Anna Burns
cùng fan Atwood nhiệt liệt tán đồng) về sự tự kiểm duyệt của tư duy nữ trong
xã hội nam, nhưng ai có thể nghĩ vậy khi đọc Linda Lê hay Thuận? Và những
tác giả nam viết về người nữ, dịch giả và nhà phê bình nam tiếp cận sách của
nhà văn nữ, trong số này, họ có cần vượt qua rào cản nào không, hay như
Eugenides và Atwood cam đoan, con người thì chỉ là con người, và câu hỏi đó
còn không có lý do tồn tại?
Zzz Review không chủ về lý thuyết, nên sẽ chỉ vẩn vơ lơ lửng đến đây
thôi; tuy nhiên, số này thực sự là một cuộc họp mặt rất vui, và nếu trong khi
đọc, bạn có muốn nối dài cuộc đối thoại bằng cách nào, cảm xúc, lý luận hay
sáng tác, thì xin mời thư tới chúng tôi, nữ hay nam hay phi nhị nguyên đều
chào đón.
Z&Z
30-10-2018
Nhân vật kể chuyện, nữ, 18, không tên, của cuốn tiểu thuyết vừa đạt
giải Booker 2018, mở đầu câu chuyện ở một thành phố không tên, bằng
những chi tiết rờn rợn: một khẩu súng chĩa vào ngực cô, một phát súng
giết người đưa sữa, lời mời cho đi nhờ xe của gã đàn ông 41 tuổi ngồi ô
tô con này với cô bé con vừa đi đường vừa đọc Ivanhoe, những tin đồn về
một cuộc dan díu, anh rể trưởng đểu cáng mồm chuyên những từ bậy, một
cậu bạn trai trù bị... Người đưa sữa ngay lập tức đưa độc giả vào một câu
chuyện chân thực, đầy tính xáo động, ám ảnh, với giọng văn nhịp điệu, lặp
đi lặp lại. Zzzreview trích dịch chương 1 của tác phẩm.
6 Z Z Z REVIEW
Ngày mà Tên-gì-đấy McHọ-gì-đấy chĩa súng vào ngực tôi, gọi tôi là miu và doạ bắn tôi
cũng là ngày mà người đưa sữa chết. Ông ta bị một gã trong đội xạ thủ bên phe chính phủ
bắn và tôi không quan tâm đến việc người ta bắn ông ta. Nhưng những người khác thì có,
mà nhiều thành phần trong số đó, nói kiểu dân trong vùng thì, “biết tôi là ai, biết là nhìn
thôi chứ đừng có tới bắt chuyện” và tôi bị mọi người bàn tán sau lưng vì họ đồn, hay đúng
hơn là anh rể trưởng đồn, là tôi đang dan díu với người đưa sữa, rằng tôi mới mười tám còn
ông ta bốn mươi mốt. Tôi biết tuổi ông ta, không phải vì sau khi bị bắn tuổi ông ta được
chường lên mặt báo, mà bởi chi tiết này đã được đem ra nói, nhiều tháng trước vụ ám sát,
mà khơi mào là những người đã đồn thổi chuyện về tôi, rằng bốn mươi mốt với mười tám
thì kinh quá, chênh nhau cả hai mươi ba tuổi như thế thì kinh quá, rằng ông ta có vợ rồi
và không phải là kiểu bị tôi bỏ bùa mê thuốc lú vì có kha khá những con người thầm lặng,
không để lộ chân tướng, đã để tâm theo dõi. Nhưng trong cuộc tình này chính tôi cũng có
lỗi, trong mắt họ thấy vậy. Nhưng tôi có dan díu gì với người đưa sữa đâu. Tôi không ưa gì
ông ta và đã rụng rời, bối rối khi người đàn ông này cứ muốn theo đuổi, tán tỉnh mình. Tôi
cũng không ưa gì anh rể trưởng. Lúc lên cơn rồ, anh ta đi đơm đặt chuyện về đời sống tình
dục của người khác. Về đời sống tình dục của tôi. Ngày tôi còn bé, mười hai tuổi, khi anh
ta xuất hiện giữa lúc chị tôi muốn trả thù đời sau khi chia tay anh người yêu lâu năm vì anh
này ngủ với người khác, gương mặt mới toanh kia làm chị tôi dính bầu và chẳng mấy mà họ
cưới nhau. Anh ta buông ra những lời tục tĩu về tôi trước mặt tôi ngay từ lần gặp đầu tiên
- về cái lồng, cái nhồn, cái bàn lộn, cái lỗ đen, cái lìn, cái hĩm, cái ấy của tôi và anh ta dùng
những từ, những từ ngữ rất bậy, mà tôi không hiểu. Anh ta biết là tôi không hiểu nhưng
đã đủ lớn để đoán ra chúng bậy. Đó là cái đem lại khoái cảm cho anh ta. Ngày đó anh ta ba
mươi lăm. Mười hai với ba mươi lăm. Cũng là chênh nhau hai mươi ba tuổi.
Vậy là anh ta cứ nói này nói kia, cho mình quyền nói này nói kia và tôi không nói lại
gì vì tôi không biết phải phản ứng thế nào với con người này. Anh ta không ăn nói kiểu đấy
khi có chị tôi trong phòng. Lần nào cũng thế, hễ chị tôi đi khỏi là kiểu như có một chiếc
công tắc bật lên bên trong anh ta. May một điều là tôi không phải sợ anh ta sẽ làm gì mình.
Vào thời đó, ở nơi đó, bạo lực là thước đo của mọi người để đánh giá người khác, nhưng
tôi có thể thấy ra ngay anh ta không phải kiểu như thế, anh ta không quan niệm như vậy.
Nhưng dù vậy thì bản năng thú săn mồi của con người này vẫn làm tôi tê dại đi mỗi khi
gặp. Đúng là một tên rác rưởi, còn chị tôi thì phát điên vì chuyện bầu bí, vì vẫn còn yêu anh
người yêu lâu năm kia và không thể tin được anh ta lại đối xử như thế với mình, không tin
được chuyện anh ta không nhớ nhung gì mình, bởi anh ta không thương nhớ chị tôi. Anh
ta đã biến đi với một mối tình mới. Trong mắt chị tôi không có người đàn ông kia, cái ông
chú chị đã cưới làm chồng nhưng vì còn quá trẻ, quá bất hạnh, quá đắm đuối với tình yêu
- chỉ là không phải với anh ta - để có thể thực sự bắt đầu một mối quan hệ. Tôi không ghé
qua chỗ chị nữa dù cho chị tôi đang buồn bởi tôi không thể tiếp tục chịu đựng những gì
8 Z Z Z REVIEW
ăn nói theo kiểu gì, bởi ông ta không hành xử khiếm nhã, và ông ta quen gia đình tôi, kể ra
đủ các cái tên, tên những người đàn ông trong gia đình tôi, và tôi không thể hành xử khiếm
nhã bởi ông ta không hề hành xử khiếm nhã. Vậy nên tôi ngần ngừ, hay đúng hơn là tê dại
đi, tức là khiếm nhã với ông ta. “Tôi đi bộ thôi,” tôi nói. “Tôi đang đọc dở,” tôi giơ cuốn sách
lên, như thể Ivanhoe sẽ giải thích được việc tôi đi bộ, sự cần thiết của việc ấy. “Cô đọc sách
trong xe cũng được mà,” ông ta nói, tôi không nhớ mình đã đáp lại thế nào. Sau cùng ông
ta phá lên cười mà nói, “Thôi khỏi đi. Cô không phải băn khoăn gì cả. Đọc sách vui nhé,”
rồi đóng cửa lại lái xe đi.
Lần đầu tiên chỉ có từng ấy chuyện - nhưng chưa gì tin đồn đã rộ lên. Chị cả ghé qua
nhà thăm tôi vì chồng chị, ông anh rể giờ đã bốn mươi mốt tuổi, phái chị sang gặp tôi.
Nhiệm vụ của chị là cảnh báo tôi. Chị nói người ta bắt gặp tôi nói chuyện với người đàn
ông đó.
“Mẹ nó chứ,” tôi nói. “Như thế tức là sao - người ta? Ai là người ta ở đây? Chồng chị
à?”
“Em phải nghe lời chị,” chị tôi nói. Nhưng tôi sẽ không nghe - sẽ không nghe anh ta và
cái tiêu chuẩn kép của anh ta, sẽ không nghe chị tôi, người đã nhịn nhục mà sống với tất cả
những thứ ấy. Ngày đó tôi không biết là mình trách cứ chị, đã và đang trách cứ chị, cho những
lời bậy bạ anh ta nói với tôi từ năm này qua năm khác. Ngày đó tôi không biết mình trách cứ
chị vì đã cưới anh ta trong khi không yêu gì anh ta, cũng không tài nào có thể tôn trọng anh
ta, vì hẳn là chị tôi phải biết chứ, sao có thể không, tất cả những trò mèo anh ta làm.
Chị cứ một mực khuyên tôi phải cư xử đúng mực, cảnh báo tôi đang mua rắc rối vào
người, chọn ai không chọn lại chọn người đó... Nhưng thế là quá lắm. Tôi nổi đoá lên và
tiếp tục chửi bậy vì chị không thích nghe chửi bậy, đó là cách duy nhất để tống tiễn chị ra
khỏi phòng. Tôi tiếp tục gào lên qua cửa sổ với tấm lưng của chị, nếu cái lão hèn đó muốn
nói gì thì đi mà nói thẳng vào mặt em đây này. Một việc tai hại: bị cảm xúc chi phối, để cho
người khác nhìn và nghe thấy mình bị cảm xúc chi phối, gào thét qua cửa sổ, ra ngoài phố,
để cho mình bị cuốn đi. Thường thì tôi tránh được điều đó. Nhưng tôi đã giận dữ. Tôi ôm
nhiều nỗi giận dữ trong lòng - giận chị, vì sống cuộc đời một người vợ bé mọn, vì luôn làm
theo lời anh ta bảo, và giận anh ta, vì cứ cố áp sự đáng khinh của anh ta lên tôi. Tôi có thể
cảm nhận được sự cứng đầu cố hữu, cái suy nghĩ “đi mà lo chuyện của các người ấy” đã kịp
trồi lên. Mà hễ rơi vào những lúc như vậy, tôi sẽ biến thành quái vật, không chịu tiếp thu và
đâm giận quá mất khôn. Còn về cái tin đồn về tôi với người đưa sữa, tôi phủi đi mà không
nghĩ ngợi gì. Nhu cầu can dự thái quá vào cuộc đời người khác là chuyện thường trực ở khu
này. Tin đồn dội đến, dội đi, đến rồi đi, rồi lại chuyển sang một đối tượng mới. Thế nên tôi
không chú ý gì đến mối tình họ dựng lên cho tôi với người đưa sữa. Rồi ông ta lại thò mặt
ra - lần này thì là tự thân mà đến, không dùng xe, trong khi tôi chạy bộ trong hai công viên
quanh hồ chứa nước bên trên và bên dưới.
10 Z Z Z REVIEW
chóng nói ra cái mà anh ta hay cô ta nghĩ mình đang vì thiện chí mà nói ra, và hy vọng nói
xong họ sẽ đi; hoặc không thì tự tôi sẽ đi, một cách lịch sự, vội vã, ngay lúc tôi có thể.
Qua lần gặp thứ hai tôi biết người đưa sữa đang để mắt đến mình, có ý định tán mình.
Tôi biết tôi không thích việc ông ta thích mình, cũng không có cảm xúc gì với ông ta. Nhưng
ông ta không trực tiếp nói ra
lời nào để thúc đẩy chuyện đó.
Ông ta cũng chẳng đòi hỏi gì ở
tôi. Hay đụng chạm vào người
tôi. Trong lần gặp thứ hai này
ông ta còn không buồn nhìn
tôi lấy một lần. Thêm vào đó,
ông ta lớn tuổi hơn tôi, lớn hơn
rất nhiều, liệu có thể nào, tôi tự
hỏi, tôi đang hiểu nhầm hết cả,
rằng câu chuyện này không hề
giống với cái tôi hình dung? Về
phần cuộc chạy, hai chúng tôi
Ảnh của Hiếu
đang ở chỗ công cộng. Nơi này,
vào ban ngày, là hai công viên lớn giao với nhau, còn đến đêm thì là một chỗ tệ lậu, dù ban
ngày nó cũng tệ lậu. Mọi người không muốn thừa nhận nó tệ lậu vào cả ban ngày vì như thế
ít ra họ còn có chỗ để đi. Tôi không sở hữu chỗ này, tôi chạy ở đây được thì có nghĩa ông ta
chạy ở đây được, bọn nhóc thập niên bảy mươi uống rượu ở đây được, bọn nhóc lớn tuổi
hơn tí của thập niên tám mươi hít hơi keo ở đây được, cái lứa lớn tuổi hơn thập niên chín
mươi chích ma tuý ở đây được còn vào thời điểm hiện tại thì là các lực lượng chức năng
có quyền núp ở đây để chụp ảnh các đối tượng chống phá nhà nước. Họ còn chụp hình cả
người quen của các đối tượng, những người họ đã biết danh tính hoặc chưa, và đó cũng
chính là cái đã xảy ra. Một tiếng “tách” vang lên khi người đưa sữa với tôi chạy qua một bụi
cây, cái bụi cây tôi đã cơ số lần chạy qua mà chẳng nghe thấy tiếng “tách” bao giờ. Tôi biết
lần này âm thanh đó vang lên là bởi người đưa sữa và sự can dự của ông ta, với cụm từ “can
dự” tôi có ý nói “có liên hệ”, và với “có liên hệ” tôi có ý nói tích cực chống đối, và với “tích
cực chống đối” tôi muốn nói đối tượng chống phá, kẻ thù của chính phủ, là nguyên do cho
những vấn đề chính trị tồn tại trên mảnh đất này. Và giờ thì tôi sẽ xuất hiện trong một hồ
sơ ở đâu đó, trong một bức ảnh ở đâu đó, mới đây thôi còn chưa được biết tới nhưng giờ thì
dứt khoát là rồi. Bản thân người đưa sữa không đả động gì đến tiếng “tách” dù cho không
thể nào có chuyện ông ta không nghe thấy. Còn tôi đáp lại nó bằng cách rảo bước chạy
nhanh hơn để kết thúc cho sớm cuộc chạy này, và bằng cách giả vờ như mình cũng chẳng
nghe thấy gì.
12 Z Z Z REVIEW
Anh nói đã từng có lúc bọn tôi thử - anh làm bạn trai nghiêm túc của tôi, tôi làm bạn gái
nghiêm túc của anh, chúng tôi gặp gỡ nhau, sắp đặt và, dường như vậy, hướng đến, như các
cặp đôi đúng nghĩa, một tương lai chung. Anh nói tôi đã đâm ra rất khác. Anh nói anh cũng
đâm ra rất khác, nhưng anh chưa bao giờ thấy ở tôi có nhiều nỗi sợ như vậy. Láng máng,
trong khi anh nói, tôi nhớ ra đôi chút những gì anh đang thuật lại. Nhưng một phần khác
trong tôi lại nghĩ, hay là anh đang dựng chuyện? Anh nói đã đề nghị, nhằm vớt vát lại những
gì bọn tôi từng có, bất kể đó có là gì, bọn tôi thôi không làm bạn gái nghiêm túc và bạn trai
nghiêm túc nữa, mà ai mong muốn sự nghiêm túc đó đây? chỉ có tôi, sử dụng nó làm cớ để
tròng anh vào “những cuộc trò chuyện về cảm xúc” mà, cứ xem phản ứng dữ dội của tôi khi
hai bọn tôi thực sự nói chuyện về cảm xúc, cứ xem việc tôi nói về cảm xúc thậm chí còn ít
hơn cả anh thì hẳn là từ đầu tôi đã chẳng tin gì mấy vào chuyện này. Thay vào đó anh gợi ý
bọn tôi trở lại địa hạt trù bị, cùng mù mờ không biết mình có đang hẹn hò người kia không.
Thế là bọn tôi làm vậy và anh nói tôi đã bình tĩnh trở lại và cả anh cũng bình tĩnh trở lại.
Trở về với địa hạt “đàn ông và phụ nữ” được chính thức công nhận, với những gì phụ nữ
có thể nói và không, tôi không nói gì khi người đưa sữa theo đuôi tôi, ghìm tôi lại rồi dừng
hẳn cuộc chạy. Lại một lần nữa, ít ra không phải là chủ tâm, ông ta không có gì khiếm nhã,
nên tôi không thể khiếm nhã mà tiếp tục chạy. Thay vào đó tôi để cho ông ta ghìm mình lại,
người đàn ông này, người tôi không muốn cho lại gần, và đó là lúc ông ta bộc lộ ra cái ông ta
nghĩ về việc tôi, khi không chạy, thì sẽ đi bộ, những lời tôi ước giá gì ông ta đừng nói ra hoặc
tôi không phải nghe thấy. Ông ta nói rằng ông ta thấy lo, rằng ông ta không thấy có gì là hay,
và trong suốt lúc đó ông ta vẫn không nhìn sang tôi. “Chưa chắc đây đã là việc hay,” ông ta
nói, “mấy sự chạy này, rồi cả mấy sự đi bộ. Chạy như thế này là nhiều quá, đi bộ như thế này
là nhiều quá.” Với câu nói đó, không thêm một lời, ông ta rẽ ngoặt sang lối khác và biến mất.
Cũng giống như lần trước, xuất hiện với cái xe bóng loáng, lần này - bất thình lình hiện ra
và kè kè chạy bên cạnh, rồi thì sự giả định, tiếng máy ảnh, nhận định của ông ta về việc tôi
chạy với đi bộ, và sự bỏ đi đột ngột - ông ta khiến cho tôi hoang mang, rụng rời nối tiếp rụng
rời. Tôi cảm thấy sốc, phải, nhưng là sốc vì một chuyện dường như quá cỏn con, không quan
trọng, thậm chí là quá bình thường để có thể cho tôi lý do mà sốc. Nhưng cũng chính vì điều
này mà phải đến mấy tiếng sau khi đã về nhà tôi mới tỉnh ra ông ta biết về công việc của tôi.
Tôi cũng không nhớ mình về nhà thế nào vì sau khi ông ta bỏ đi, lúc đầu tôi đã cố chạy nốt,
cố tiếp tục cái đang bỏ dở, giả vờ như ông ta không hề xuất hiện hay ít ra thì cũng là việc ấy
không tác động gì đến tôi. Rồi, vì tôi đang không chú ý, vì tôi bối rối, vì tôi không thành thực
với mình, tôi đạp chân lên một trang tạp chí bóng loáng lìa ra từ cuốn tạp chí bỏ đi. Đó là
một trang báo đôi in hình một phụ nữ với mái tóc dài rối bù, chân đi bít tất, bên trên cài dây
đeo bít tất, một thứ cũng có màu đen và bằng ren. Cô ta đang mỉm cười nhìn tôi, người ngả
ra đằng sau, chìa ra cho tôi xem, và đúng vào lúc ấy tôi trượt chân, mất thăng bằng, mắt chạm
thẳng vào toàn bộ cái ấy của cô ta trong khi ngã dập người xuống lối đi.
Chào đời tại Sài Gòn năm 1968, Kim Thúy rời Việt Nam cùng các thuyền nhân năm
lên mười tuổi và đến Québec định cư với gia đình. Tốt nghiệp chuyên ngành dịch
thuật và luật, tác giả từng làm việc trong tư cách thợ may, phiên dịch viên, luật sư, chủ
nhà hàng và phóng viên mảng ẩm thực cho đài phát thanh và truyền hình. Hiện bà
sống ở Montréal và chuyên tâm viết lách.
Cuốn sách đầu tay của bà, Ru, do Libre Expression xuất bản năm 2009, đã thành công
vang dội ngay khi vừa ra mắt. Trở thành best-seller tại Québec và Pháp, được dịch ra
hơn hai mươi lăm thứ tiếng, Ru cũng giành được nhiều giải thưởng văn học, trong đó
có giải Thủ hiến Canada danh giá vào năm 2010, giải thưởng lớn RTL-Lire của Hội
chợ Sách Paris 2010, giải thưởng của Ý Premio Mondello per la Multiculturalità 2011,
Giải thưởng Công chúng tại Hội chợ Sách Montréal 2010 và Giải thưởng Lớn dành
cho Văn học Archambault 2011. Ru cũng lọt vào danh sách cuối của Giải thưởng
Cộng đồng Pháp ngữ khắp năm châu 2010 và giải thưởng Giller uy tín năm 2012 trao
tặng cho cuốn sách Canada xuất sắc nhất. Bản tiếng Anh của tác phẩm đã giành giải
trong cuộc chiến giữa các cuốn sách được tổ chức bởi Canada Reads và được vinh danh
là “cuốn sách phải đọc” ở Canada năm 2015.
Tác phẩm thứ hai của Kim Thúy, viết chung với Pascal Janovjak, nhan đề À toi (Cho
em), xuất bản tháng Chín 2011. Ra đời từ một sự hiệp thông văn chương hiếm gặp, tác
phẩm mang tính chiêm nghiệm viết dưới dạng trao đổi thư từ này phác họa hành trình
của hai đứa trẻ trong cuộc di cư và sống đời du mục, thông qua các ký ức và chuyện
kể. Năm 2013, mãn, tác phẩm thứ ba của Kim Thúy được xuất bản. Lọt vào danh sách
cuối Giải thưởng Cộng đồng Pháp ngữ khắp năm châu 2014 và được dịch ra chín thứ
16 Z Z Z REVIEW
Trong tiếng Pháp, ru có nghĩa là “con suối nhỏ”, và nghĩa bóng là “sự chảy (chảy nước
mắt, chảy máu, chảy tiền)” (theo Từ điển Robert lịch sử). Trong tiếng Việt, ru có nghĩa
là “bài hát cho trẻ em đi ngủ”.
TÔI ĐẾN với thế giới trong lúc đang diễn ra cuộc tiến công dịp Tết, vào những ngày đầu
tiên của năm con Khỉ, khi hàng tràng pháo dài treo trước mỗi nhà nổ đì đùng hòa tạp với
tiếng súng tiểu liên.
Tôi chào đời tại Sài Gòn, nơi xác pháo nổ tung thành nghìn mảnh nhuộm đỏ mặt đất
chẳng khác nào những cánh hoa anh đào, hoặc tựa như máu của hai triệu người lính tản
mát, rải rác khắp các thành phố, làng mạc của một nước Việt Nam bị chia đôi.
Tôi sinh ra dưới bóng những bầu trời có pháo hoa làm vật trang trí, có những dây
đèn nhấp nhánh để điểm tô, có rốc két và tên lửa băng qua ngang dọc. Sự chào đời của
tôi có nhiệm vụ thế chân cho những mảnh đời đã mất. Đời tôi có nghĩa vụ tiếp tục đời
mẹ tôi.
TÔI TÊN LÀ NGUYỄN AN TỊNH, còn mẹ tôi là Nguyễn An Tĩnh. Tên tôi là một biến
thể đơn giản của tên bà, bởi chỉ một dấu chấm dưới chữ i là đủ để khiến tôi khác bà, phân
biệt tôi với bà, tách rời tôi khỏi bà. Tôi là sự mở rộng của bà, ngay từ ý nghĩa cái tên. Trong
tiếng Việt, tên bà có nghĩa là “không gian yên bình” còn tên tôi là “nội tâm yên bình”. Bằng
những cái tên gần hệt như nhau ấy, mẹ tôi khẳng định tôi là sự tiếp nối của bà, tôi sẽ tiếp
tục câu chuyện đời bà.
Lịch sử Việt Nam, lịch sử với chữ L viết hoa, đã khiến các kế hoạch của mẹ tôi đổ vỡ.
Nó đã quẳng hết dấu má trong tên chúng tôi xuống bể khi đưa chúng tôi vượt biên qua vịnh
Thái Lan, cách đây ba mươi năm. Nó cũng tước hết mọi ý nghĩa khỏi mấy cái tên đó, biến
NHỜ CUỘC LƯU VONG mà các con tôi chưa bao giờ là những phần nối dài của tôi,
của đời tôi. Chúng tên là Pascal và Henri và không giống tôi. Tóc chúng sáng màu, da chúng
trắng và lông mày chúng rậm. Tôi đã không cảm thấy tình mẫu tử tự nhiên mà tôi vẫn trông
đợi khi chúng bám lấy ngực tôi lúc ba giờ sáng, giữa đêm hôm. Rất muộn sau này bản năng
làm mẹ mới trỗi dậy trong tôi, qua bao đêm thức trắng, bao lần tã quần lấm bẩn, bao nụ
cười vô cớ cùng những niềm vui bất chợt.
Chỉ vào thời khắc ấy tôi mới hiểu được tình yêu của người mẹ ngồi đối diện tôi dưới
hầm con tàu chúng tôi đi, ôm trong lòng một đứa bé sơ sinh đầu chi chít vảy kết bốc mùi vì
ghẻ. Hình ảnh ấy cứ hiển hiện trước mắt tôi suốt bao ngày mà có lẽ cả bao đêm nữa. Bóng
đèn nhỏ treo lơ lửng ở đầu một sợi dây được cố định bằng một cái đinh gỉ tỏa ra thứ ánh
sáng leo lắt khắp hầm tàu, và lúc nào cũng là thứ ánh sáng ấy. Dưới đáy con tàu đó, ngày đêm
chẳng còn phân biệt. Thứ ánh sáng dai dẳng ấy che chở chúng tôi trước biển cả mênh mông
và bầu trời vây bủa. Những người ngồi trên boong tàu thuật lại rằng chẳng có đường phân
định đâu là màu xanh của biển, đâu là màu xanh của trời. Vì thế chẳng ai biết mình đang
hướng về phía trời hay đang lao đầu xuống làn nước sâu thẳm. Thiên đường và địa ngục
quấn chặt lấy nhau giữa lòng con tàu của chúng tôi. Thiên đường hứa hẹn một bước ngoặt
trong cuộc đời chúng tôi, một tương lai mới, một lịch sử mới. Địa ngục, về phần mình, phơi
bày mọi nỗi sợ trong chúng tôi: sợ cướp biển, sợ chết đói, sợ ngộ độc vì ăn phải bánh bít
cốt nhiễm dầu máy, sợ thiếu nước, sợ không thể đứng dậy được nữa, sợ phải đi tiểu trong
cái bô đỏ chuyền từ tay người này sang tay người khác, sợ cái đầu ghẻ lở trẻ con kia lây lan,
sợ không bao giờ được giẫm chân lên đất liền, sợ không còn được thấy lại gương mặt bố mẹ
ngồi đâu đó trong cảnh mờ sáng, giữa hai trăm con người.
TRƯỚC KHI TÀU CHÚNG TÔI nhổ neo giữa đêm bên bờ biển Rạch Giá, đa phần các
hành khách chỉ có một nỗi sợ, sợ cộng sản, nguyên do khiến họ bỏ trốn. Nhưng ngay khi
bao quanh con tàu, bủa vây con tàu chỉ còn độc một chân trời xanh lơ đồng nhất, nỗi sợ bèn
biến thành một con quỷ trăm mặt, cưa chân chúng tôi, khiến chúng tôi không cảm nhận
được những cơ bắp bất động của mình đang tê cứng. Chúng tôi chết sững trong sợ hãi, vì sợ
hãi. Chúng tôi không chợp nổi mắt nữa khi nước tiểu của đứa bé có cái đầu ghẻ lở bắn lên
người chúng tôi. Chúng tôi không còn bịt mũi nữa khi nhìn những người xung quanh nôn
mửa. Chúng tôi tê cứng, bị kẹt giữa những bờ vai người này, những chân cẳng người kia và
nỗi sợ của tất cả. Chúng tôi tê liệt.
18 Z Z Z REVIEW
Câu chuyện về một cô bé bị biển khơi nuốt chửng khi bước hụt chân lên tàu lan khắp
lòng tàu bốc mùi như một thứ khí gây mê, hoặc gây đê mê, thứ khí ấy biến cái bóng đèn duy
nhất thành ngôi sao Bắc cực còn những chiếc bánh bít cốt đầy dầu máy thành bánh quy bơ.
Cái mùi dầu máy trong họng, trên lưỡi và trong tâm trí đưa chúng tôi thiếp đi theo nhịp bài
hát ru của người phụ nữ ngồi bên.
BỐ TÔI DỰ TÍNH, nếu gia đình bị cộng sản hay cướp biển bắt, chúng tôi sẽ đi vào giấc
ngủ ngàn thu, như Người đẹp ngủ trong rừng, bằng mấy viên xyanua. Suốt một thời gian
dài, tôi những muốn hỏi ông tại sao ông không nghĩ đến việc để chúng tôi lựa chọn, tại sao
ông lại định tước bỏ khả năng sống sót của chúng tôi.
Tôi thôi tự vấn chuyện này khi tôi trở thành mẹ, khi ông Vịnh, bác sĩ phẫu thuật nổi
tiếng đất Sài Gòn, kể tôi nghe ông đã để năm đứa con lên tàu, từng đứa một, từ cậu con
trai mười hai tuổi đến cô con gái nhỏ năm tuổi, mỗi đứa một tàu khác nhau, vào từng thời
điểm khác nhau, hòng đưa chúng ra khơi, tránh xa những cáo buộc chính quyền cộng sản
gán cho ông. Ông tin chắc mình sẽ chết trong tù bởi người ta tố ông tội giết các đồng chí
cộng sản khi phẫu thuật cho họ, dẫu họ chưa bao giờ đặt chân vào bệnh viện của ông. Ông
hy vọng cứu được một, hoặc có lẽ hai trong số các con mình bằng cách ném chúng ra biển.
Tôi đã gặp ông Vịnh trên thềm một nhà thờ, khi thì quét tuyết mùa đông, lúc lại quét tước
mùa hè để cảm ơn vị linh mục đã thay ông ở bên con cái ông, nuôi nấng cả năm đứa, cho tới
ngày chúng trưởng thành, đến tận khi ông ra tù.
TÔI KHÔNG KÊU GÀO CŨNG CHẲNG KHÓC LÓC khi người ta báo tin Henri
con trai tôi đã mắc kẹt lại trong thế giới của nó, khi người ta khẳng định nó thuộc số
những đứa trẻ không nghe thấy gì,
không nói được gì, dẫu chúng chẳng
câm chẳng điếc. Nó cũng thuộc số
những đứa trẻ mà ta cần yêu thương
từ xa, không chạm vào chúng, không
ôm hôn chúng, không mỉm cười với
chúng bởi các giác quan chúng sẽ lần
lượt bị xâm hại vì mùi da chúng ta,
cường độ giọng nói chúng ta, kết
cấu tóc chúng ta, tiếng đập con tim
Ảnh của Hiếu
chúng ta. Chắc hẳn nó sẽ chẳng bao
KHI THẤY NHỮNG LỚP TUYẾT ĐẦU TIÊN qua cửa máy bay ở sân bay Mirabel, tôi
đã cảm thấy mình thật trơ trọi, nếu không muốn nói là trần trụi. Bất chấp chiếc áo len chui
đầu màu cam tay ngắn mua ở trại tỵ nạn tại Malaysia trước khi khởi hành đi Canada, bất
chấp cái áo săng đai len màu nâu đan sợi to của những người phụ nữ Việt Nam làm ra, tôi
vẫn trần trụi. Trên máy bay, rất đông người trong số chúng tôi đổ xô về phía cửa sổ, miệng
há ra cùng vẻ mặt sửng sốt. Sau những ngày dài sống trong những nơi không ánh sáng, một
quang cảnh trắng đến vậy, tinh khôi đến vậy chỉ có thể khiến chúng tôi chói mắt, lóa mắt
và ngất ngây.
Tôi ngây ra trước tất cả những âm thanh xa lạ đang chào đón chúng tôi kia, không
kém gì trước kích thước của bức tượng băng đang nhìn xuống một cái bàn đầy ụ bánh mì
canapé, khai vị, bánh kẹo, màu sắc sặc sỡ. Tôi không nhận ra bất cứ món nào trong số đó,
nhưng tôi biết đây là nơi chốn của mỹ vị, xứ sở của ước mơ. Tôi cũng như Henri con trai tôi:
tôi không thể nói hay nghe, dẫu tôi chẳng câm chẳng điếc. Tôi chẳng còn điểm mốc nào,
chẳng còn công cụ nào để có thể mơ ước, để có thể hướng đến tương lai, để có thể sống qua
hiện tại, sống trong hiện tại.
CÔ GIÁO ĐẦU TIÊN CỦA TÔI ở Canada đã đi cùng chúng tôi, bảy đứa trẻ Việt Nam
nhỏ nhất trong nhóm, băng qua cây cầu dẫn chúng tôi đến hiện tại của mình. Cô chăm chút
cho cuộc di thực của chúng tôi với sự tế nhị của một người mẹ dành cho đứa con sinh non.
Chúng tôi như bị thôi miên trước nhịp đu đưa chậm rãi, trấn an của bờ hông cô tròn trịa và
cặp mông cô cong lên, đầy đặn. Như bà mẹ vịt, cô bước đi trước chúng tôi, giục chúng tôi
đi theo cô đến cái chỗ ẩn náu nơi chúng tôi lại được trở về làm những đứa trẻ, những đứa
trẻ đơn thuần, bao quanh là sắc màu, tranh vẽ và những thứ phù phiếm. Tôi sẽ luôn biết ơn
cô đã mang lại cho tôi khát vọng đầu tiên của một con bé di cư, khát vọng có thể đánh cho
mỡ mông lúc lắc, như cô. Chẳng người Việt Nam nào trong nhóm chúng tôi có được sự nở
nang, sự phóng khoáng, sự trễ nải trong những đường cong của cô. Tất cả chúng tôi đều góc
cạnh, xương xẩu, khô đét. Thế nên, khi cô cúi xuống tôi, đặt tay lên tay tôi và nói: “Tôi tên
20 Z Z Z REVIEW
là Marie-France, còn em?”, tôi đã nhắc lại từng âm tiết mà không hề chớp mắt, không cảm
thấy nhu cầu phải hiểu, bởi lúc ấy tôi như được ru giữa một đám mây tươi tắn, nhẹ nhàng,
thoang thoảng mùi nước hoa. Tôi chẳng hiểu mấy từ đó có nghĩa là gì, ngoài giai điệu giọng
nói của cô, nhưng vậy là đủ. Là đầy đặn.
KHI VỀ ĐẾN NHÀ, tôi nhắc lại đúng chuỗi từ ấy với ba mẹ tôi: “Tôi tên là Marie-France,
còn em?” Tức thì họ hỏi có phải tôi đã đổi tên không. Chính lúc ấy, tôi mới sực quay về
hiện thực, ở đó, chứng câm điếc do hoàn cảnh đã xóa nhòa mọi ước mơ, kéo theo đó là khả
năng nhìn xa, thật xa trước mắt.
Ba mẹ tôi, dẫu đã biết nói tiếng Pháp, lại càng không thể nhìn xa trước đời họ, bởi họ
bị trục xuất khỏi lớp học nhập môn tiếng Pháp, nghĩa là trục xuất khỏi danh sách những
người được nhận khoản lương bốn mươi đô la mỗi tuần. Trình độ của họ vượt quá yêu cầu
của những lớp học đó, nhưng lại chẳng đủ yêu cầu của mọi thứ còn lại. Vì không thể nhìn
xa trước đời họ, họ bèn nhìn xa trước đời chúng tôi, vì chúng tôi, các con họ.
VÌ CHÚNG TÔI, họ như không nhìn thấy những tấm bảng đen họ lau, những nhà vệ
sinh họ cọ rửa, những chiếc nem họ giao. Họ chỉ nhìn thấy tương lai của chúng tôi. Nhờ
vậy, các anh em trai tôi và tôi, chúng tôi bước đi theo dấu ánh nhìn của họ để tiến lên. Tôi
từng gặp những bậc phụ huynh với ánh mắt đã tắt lịm, người thì dưới trọng lượng cơ thể
của một tên cướp biển, kẻ thì vì những năm tháng đằng đẵng chịu sự cải tạo của chính
quyền cộng sản trong các trại, không phải trại chiến thời kỳ chiến tranh, mà là trại hòa bình,
sau chiến tranh.
HỒI CÒN NHỎ, TÔI CỨ NGHĨ chiến tranh và hòa bình là hai từ trái nghĩa. Thế
nhưng lúc Việt Nam còn khói lửa, tôi đã sống trong hòa bình, và tôi chỉ biết về chiến tranh
sau khi Việt Nam xếp dọn vũ khí. Tôi nghĩ chiến tranh và hòa bình, trên thực tế, là bạn hữu
và chúng cười nhạo chúng ta. Chúng đối xử với chúng ta như kẻ thù khi nào chúng thích,
khi nào thấy tiện, mà chẳng thèm bận tâm đến định nghĩa hay vai trò mà chúng ta gán cho
chúng. Vì thế, có lẽ không nên tin vào vẻ bề ngoài của chiến tranh hay hòa bình để chọn
hướng nhìn. Tôi thật may vì ba mẹ tôi đã có thể giữ được điểm nhìn của họ bất kể cái màu
của thời đại hay khoảnh khắc ấy có ra sao. Mẹ tôi thường đọc tôi nghe câu thành ngữ được
viết trên bảng đen cái hồi bà lớp tám, ở Sài Gòn: Đời là chiến trận, nếu buồn là thua.
22 Z Z Z REVIEW
CHÚNG TÔI ĐÃ DÙNG CỌC dựng một cái lều ở một góc khuất trong trại, trên sườn
đồi. Suốt nhiều tuần lễ, hai mươi lăm người thuộc năm gia đình chúng tôi cùng nhau lén
lút chặt cây trong khu rừng bên cạnh, đóng xuống nền đất sét mềm, gắn sáu tấm pa nô gỗ
dán vào tạo thành một cái sàn rộng và phủ lên khung đó một tấm bạt xanh lơ điện, xanh lơ
nhựa, xanh lơ đồ chơi. Chúng tôi gặp may vì tìm được khá nhiều bao gạo bằng vải đay và
ni lông để bọc bốn mặt lều, cộng thêm ba mặt của phòng tắm chung. Hai công trình này
đứng cạnh nhau trông giống tác phẩm sắp đặt của một nghệ sĩ đương đại trong bảo tàng.
Ban đêm, chúng tôi ngủ sát nhau tới nỗi chẳng bao giờ thấy lạnh, dẫu không đắp chăn. Ban
ngày, tấm bạt xanh lơ hấp thụ nhiệt khiến không khí trong lều trở nên ngột ngạt. Những
ngày mưa gió, tấm bạt bị lá, cành và thân cây mà chúng tôi phủ thêm cho mát chọc thủng,
khiến nước chảy qua các lỗ nhỏ.
Nếu một biên đạo múa xuất hiện dưới tấm bạt này vào một ngày hay một đêm mưa gió,
chắc hẳn anh ta sẽ muốn dựng lại cảnh này: hai mươi lăm người cả lớn lẫn nhỏ, ở tư thế đứng,
mỗi người cầm trong tay một cái lon thiếc để hứng nước chảy từ tấm vải bạt, khi thì chảy ồ
ạt, lúc lại chảy nhỏ giọt. Nếu một nhạc sĩ có mặt tại đó, hẳn anh ta sẽ nghe ra bản phối âm từ
tiếng nước đập vào thành lon thiếc. Nếu một đạo diễn điện ảnh hiện diện, hẳn anh ta sẽ bắt
được vẻ đẹp toát lên từ sự đồng thuận im lặng và tự phát giữa những con người khốn khổ.
Nhưng chỉ có chúng tôi với nhau, đứng trên mặt sàn đang lún dần vào đất sét. Sau ba tháng,
mặt sàn nghiêng sang một bên tới nỗi chúng tôi buộc phải sắp xếp lại vị trí của từng người để
trẻ em và phụ nữ, trong lúc ngủ, không bị trượt vào cái bụng núng nính của người nằm cạnh.
BẤT CHẤP NHỮNG ĐÊM ẤY, những đêm mà giấc mơ của chúng tôi trượt dài theo mặt
sàn dốc, mẹ tôi vẫn tiếp tục nuôi tham vọng cho tương lai của chúng tôi. Bà tìm được một
người đồng lõa. Anh ta còn trẻ và có phần ngây thơ bởi dám tỏ ra vui vẻ và phóng khoáng
giữa cuộc sống thường nhật trống rỗng đến đơn điệu. Mẹ tôi và anh ta cùng nhau mở một
lớp tiếng Anh. Có những buổi sáng, cùng anh ta, chúng tôi nhắc đi nhắc lại các từ mà chẳng
hiểu gì hết. Nhưng tất cả chúng tôi vẫn đến đúng hẹn, bởi anh ta đã vén được bức màn bầu
trời, cho chúng tôi thoáng thấy một chân trời mới, cách xa những cái hố toang hoác chứa
đầy phân tích lại nhờ hai nghìn con người trong trại. Không có khuôn mặt anh ta, hẳn
chúng tôi đã không thể hình dung được một chân trời không mùi lộn mửa, một chân trời
không ruồi nhặng và sâu bọ. Không có khuôn mặt anh ta, hẳn chúng tôi đã không thể hình
dung được rằng một ngày nào đó chúng tôi sẽ không phải ăn cá ôi, thứ cá bị vứt xuống đất
vào cuối mỗi chiều khi tới giờ phát khẩu phần. Không có khuôn mặt anh ta, chắc chắn
chúng tôi đã đánh mất khao khát vươn tay ra níu giữ những giấc mơ của mình.
Tủ sách Phụ nữ tùng thư (Tủ sách Giới và Phát triển) của
Nhà xuất bản Phụ nữ là tủ sách công bố các công trình
về vấn đề phụ nữ (the question of women), hướng tới các
nhận thức và thực hành quyền phụ nữ (women’s rights),
cũng như đấu tranh cho nữ quyền (feminism), vì sự tiến
bộ của phụ nữ Việt Nam và sự phát triển bền vững của
đất nước.
Tủ sách gồm:
- Loại Biên khảo, tư liệu: tập hợp các tư liệu trên báo chí,
các công trình, bài viết của các nhà cách mạng, nhà văn,
nhà báo, nhà nghiên cứu, nhà dịch thuật, nhà hoạt động
phụ nữ... ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến nay, khi vấn
đề phụ nữ trở thành một bộ phận quan trọng trong các dự
án cải cách xã hội và đấu tranh vì sự bình đẳng giới.
- Loại Hợp tuyển, tinh tuyển: tập hợp sáng tác của các tác
gia nữ trong di sản văn chương Việt Nam thời trung đại,
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa do phụ nữ Việt
Nam sáng tạo.
- Loại Nghiên cứu: giới thiệu các tập tiểu luận chuyên đề,
các chuyên khảo nghiên cứu về các vấn đề phụ nữ ở Việt
Nam và thế giới.
- Loại Dịch thuật: giới thiệu các công trình kinh điển của
thế giới đấu tranh cho sự nghiệp của phụ nữ, các lý thuyết
và thực hành nghiên cứu về các vấn đề phụ nữ, các vấn đề
về giới và nữ quyền; dịch và giới thiệu các vấn đề của phụ
nữ Việt Nam ra thế giới.
26 Z Z Z REVIEW
Tính đến nay, Linda Lê đã ra mắt 25 cuốn sách, từng đoạt nhiều giải thưởng như
Vacation, Fénéon, Wepler, Prix Renaudot Poche... riêng cuốn Sóng ngầm lọt chung khảo
Goncourt năm 2012. Theo các tác phẩm tôi đã đọc, văn Linda Lê có thể chia thành ba
mảng dựa theo đời sống cá nhân của cô như sau:
1. NON TRẺ:
Điển hình là cuốn đầu tay, Tình ca ác quỷ, xuất bản năm 1986, khi cô 23 tuổi. Linda
Lê được cho là từ mặt đứa con đầu lòng này. Với những ai từng đọc cuốn này, rất dễ
hiểu tại sao nó lại bị mẹ đẻ hắt hủi tới vậy. Tình ca ác quỷ lòe loẹt phô trương, vặn xoắn
gây sốc, ái tình nóng bỏng, thêm cả yếu tố giới tính mập mờ nữa. Nhưng nếu nhìn vào
mặt văn chương thuần túy thì thật ra cuốn sách cũng không đến nỗi, vẫn có những
điểm sáng về cả câu từ, cốt truyện lẫn tâm tư. Nói về đầu lòng, có khi còn ăn đứt Buồn
ơi chào mi của Françoise Sagan. Linda Lê khi viết có vẻ là một cô bé ngây thơ hăm hở
muốn khoe tất thảy những món đồ chơi trong tay. Ấy thế nhưng Tình ca ác quỷ này
chẳng có gì liên quan tới Linda Lê mà mọi người vẫn nhớ tới, tức là một người hết sức
cay nghiệt.
2. LÀ CHÍNH MÌNH:
Những cuốn đã dịch ở Việt Nam có thể điểm danh là Vu khống (1993), Tiếng nói
(1998), Thư chết (1999). Đây có lẽ là mảng tôi thích nhất ở Linda Lê. Trong những
cuốn này, dựa theo tiểu sử, có lẽ là một dạng nửa giải tỏa ấm ức tâm tình cá nhân, nửa
văn chương (như Thư gửi bố của Franz Kafka). Ở đây, Linda Lê thật nhất, buông thả
nhất, nghiệt ngã nhất, với cả bản thân và toàn thể nhân loại, và do đó, cũng gây đau
đớn nhất cho người đọc. Cũng chính ở mảng này, cô giống nhất với thần tượng của
mình là Thomas Bernhard. Tất cả là nỗi dằn vặt của đứa con dối trá, thất hứa, suốt bao
nhiêu năm hứa hẹn mà không về thăm người cha hết lòng yêu thương mình lấy một
lần, để rồi đến khi cha nhắm mắt vẫn chỉ thấy con trong những mơ màng. Song song
với đó là thù hận dành cho hàng loạt nhân vật, những kẻ ngăn cản cô (thật ra chỉ là
cô kiếm cớ thôi) tới với cha. Linda Lê như con nhện, ngồi một chỗ giữa mạng tơ của
mình, ăn sạch gia đình mình và bất kỳ con mồi nào lảng vảng xung quanh. Đặc biệt,
cuốn Tiếng nói hết sức tăm tối, nhưng có lẽ chính là cách Linda Lê moi ra những sâu
xa thầm kín nhất trong mình.
Nói về kỹ thuật. Ban đầu, khi mới đọc Linda Lê, tôi cực kỳ ấn tượng với kiểu viết của
cô. Tuy nhiên, khi đọc tới thần tượng của cô, cụ thể là đọc Diệt vong của Thomas Bernhard,
tôi mới thấy những điểm ấn tượng này đều là học từ Bernhard. Không quá khi nói Linda
Lê là cô học trò sùng kính thầy. Có thể điểm ra vài nét: thủ pháp dòng ý thức với những
câu chữ cứ thế chảy tràn hết trang này tới trang khác, rất hiếm gặp đối thoại; giọng văn đay
nghiến, cùng một vấn đề có thể nhai đi nhai lại vài chục lần không chán; thái độ thù địch
với mọi thứ; trích dẫn văn chương dày đặc... và buồn cười nhất là một cái kết rất không liên
quan.
Tuy vậy, như đã nói ở trên, Linda Lê vẫn chỉ là học trò. Thomas Bernhard phiên bản
nữ này, do phần nữ tính luôn dâng trào, nên nhiều lúc buôn dưa lê bán dưa chuột, thiếu
hẳn những tư tưởng, khám phá. Khi đọc Thư chết, tôi có một phen cười sặc vì ở phần cuối
sách, máu đàn bà của nhân vật nữ lên cao quá khiến cô tự dưng chuyển qua đay nghiến
người tình hàng mấy chục trang, quên bẵng luôn ông bố tội nghiệp. Phần đàn bà này tạo ra
sự khác biệt ở Linda Lê, nhưng lại khiến cô không thể xuất chúng. Mỗi nhà văn xuất chúng
đều cần một tia sáng sắc mạnh, bừng lên hẳn so với những ánh tà cuối ngày. Thoáng qua về
Bernhard, độc giả dễ nghĩ về một con người phiến diện, độc đoán nhưng nhìn kỹ lại, đấy là
nhân vật đầy hoài nghi, luôn nhìn mọi thứ ở nhiều mặt, và cũng chẳng phủ nhận mặt nào.
Linda Lê thì khác, cô chỉ có một mặt, một dòng chảy. Một người chết. Có thể nói Linda Lê
có kỹ thuật viết giống Thomas Bernhard, nhưng câu chuyện, tư tưởng thì khác hẳn.
Dĩ nhiên nhờ vậy mà khác với Bernhard, cô rất được đón nhận tại quê nhà. Sách của
Linda Lê sớm được dịch tại Việt Nam. Ngay từ cuốn đầu tiên, Tình ca ác quỷ, dường như
ngay sau khi xuất bản ở Pháp thì đã có người dịch sang tiếng Việt. Gần đây, thêm nhiều đầu
sách của cô liên tiếp ra mắt độc giả quê nhà. Phải nói là Linda Lê cực kỳ được ưu đãi. Sách
của cô đều được dịch rất chỉn chu. Khi nói về dịch giả, tôi nghĩ giỏi ngoại ngữ là tất yếu,
nhưng hơn nhau là ở chỗ giỏi tiếng Việt. Phải rất lâu rồi, sau Nam hoa kinh do Nhượng
28 Z Z Z REVIEW
Tống dịch, tôi mới gặp một cuốn khiến mình phải ngả mũ kính nể về mặt tiếng Việt như
Sóng ngầm.
Như đã nói ở đầu, Linda Lê cũng là người dẫn lối đưa tôi trở về đọc văn học Việt.
Trước tôi vốn ít đọc bởi cứ thấy cây đa giếng nước là ngán tận họng. Ở Linda Lê, cô cũng
chẳng thiếu những cảnh ấy, nhưng rõ ràng, câu chuyện dù quen thuộc tưởng đến ngán,
nhưng qua tay một “cao thủ”, vẫn có những ý vị riêng. Nói gì thì nói, bất chấp những thiếu
sót, Linda Lê vẫn là một người đàn bà tàn độc, mà đàn bà tàn độc thì bao giờ cũng có thành
tựu.
cầm b ú t chẳng q u a l à . . .
EM
Ng ười ch/ nữ th iên n h iên
Ng ười ch/ nữ thờ i - kh ông
bầu ng ự c ở Z e n
đ ô i mắt Breton
rốn củ a mặt trăng
cặp đùi : A-me n
EM
Ng ười ch/ nữ huy ền th o ạ i
Ng ười ch/ nữ l in h ng h iệm
Ng ười ch/ nữ không g ư ơng mặt
Ng ười ch/ nữ không h iện d iện
EM
Ng ười ch/ nữ Đa n Th iềm
mất ng ủ đ êm đ êm
30 Z Z Z REVIEW
Văn học vết thâm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh
An h thuộ c về đâu?
Buổ i tó c r ụng c h iề u
(Ng ữ ng h ĩa r ụng n h iề u)
An h thuộ c về đâu?
Hel lo quán trọ
B ên em b onj o ur
Chạy titl e hư vô
Em thuộ c về đâu?
我们 wom en ?
Em rong tuổ i tên
Sin h l ộ lấm l em
Sau mùa c h in h c h iến
An h n hặt đư ợc em
EMMA HOOPER
Người ta nói “thay đổi cũng như xả hơi vậy”,
và khi viết cuốn sách này tôi thấy vô cùng
đúng; bởi có thể đổi sang tuyến thời gian và
nhân vật khác mà mỗi khi bị bí với một nhân
vật hay mạch truyện nào đó, thay vì phải đầu
hàng mà đi chạy bộ hay kiếm đồ ăn, thì tôi có
thể thay đổi góc nhìn hay tuyến thời gian để
khơi lại năng lượng và cảm hứng. Hy vọng là
độc giả cũng cảm thấy như vậy.
Thử thách là ở chỗ làm sao để không bị mất
phương hướng hay mắc vào mớ bòng bong
32 Z Z Z REVIEW
của những mạch truyện do mình tạo ra. Có những lúc mà tôi (giống như Etta) phải ngừng
lại mà nghĩ “Khoan... ai đang nghĩ điều này? Mình đang ở đâu? Đang là ai?”
EMMA HOOPER
Một trong những điều ấn tượng nhất với tôi về việc mất trí nhớ, chính là đương sự thường
hay quên những thứ hiện tại, mất phần trí nhớ ngắn hạn, trong khi phần trí nhớ dài hạn,
các ký ức từ quá khứ xa xưa, lại còn nhớ rất rõ. Tôi muốn khai thác ý tưởng này sâu hơn một
chút nữa, để Etta mất ký ức, cùng với nhận thức về cái tôi của mình, nhưng lại rước vào
mình phần ký ức và cái tôi của Otto, đặc biệt là những ký ức dài hạn, xa xưa, về chiến tranh
và biển cả. Đây rốt cuộc mới là thứ thôi thúc bà ấy thực hiện hành trình mà mình cần, để
viết lại lịch sử bà nhớ lại theo ý riêng của bà.
EMMA HOOPER
Quê ngoại của tôi là miền nông thôn Saskatchewan (mà nói thực, phần lớn Saskatchewan
đều là nông thôn rồi), và thời bé tôi thường xuyên về đó chơi, tản bộ qua những ruộng lúa
mì dưới ánh nắng (cùng đám muỗi). Khung cảnh đó không giống với bất cứ nơi nào tôi
từng gặp, với một sự trống trải khô hạn mênh mang và choáng ngợp vô cùng. Tuy đó không
phải nơi tôi lớn lên, nhưng mỗi khi nhớ nhà tôi lại nhớ nhung những khung cảnh rộng mở,
bầu không khí khô hanh như thế.
Tôi chưa từng từ đó đi bộ xuyên Canada, nhưng tôi đã đi tàu lửa suốt từ Alberta qua
Saskatchewan, Manitoba, Ontario, Quebec và New Brunswick tới vùng biển, chứng kiến
những thay đổi lớn lao trong cảnh vật cũng như sự rộng lớn bao la của đất nước này, mà tất
cả đều được tính là “nhà”.
EMMA HOOPER
Tôi thường không hay tính trước nhiều trong tác phẩm của mình, nên tôi tìm thấy James
cũng tầm thời gian Etta tìm thấy nó; tôi thích để trí tưởng tượng của mình kiểm soát giống
kiểu hệ thống điều khiển hành trình trên xe vậy, tự hỏi mình trong lúc viết, “Vậy giờ tới gì
nữa?” ... “Ồ, bả gặp một con sói cỏ.” ... “Rồi sao?” ... “Nó liếm chân bả.” ... “Rồi sao nữa?” ...
“Nó nói chuyện.” ... “Rồi sao nữa?” vân vân. Viết tiểu thuyết với tôi thực ra chỉ đơn thuần
là cứ hỏi đi hỏi lại “Rồi sao nữa?” và cố gắng không chất vấn hay nghi ngờ những câu trả lời
điên khùng bản thân đưa ra.
EMMA HOOPER
Trong cuộc sống “bình thường”, trí tưởng tượng của tôi cũng rất nhiều lần chạy trật đường
rày... Hôm bữa tôi thấy mấy cái ống sắt nọ thòng xuống trên một ô cửa sổ và tôi nghĩ: nhìn
mấy cái đó giống tay rô bốt ghê... kiểu như tay rô bốt treo lủng lẳng giống xác heo trong lò
mổ vậy... kiểu như chúng ta ăn thịt rô bốt như ăn thịt động vật vậy... hừm... và thế là tôi đã
lên đường, tưởng tượng xem cái thế giới đó sẽ như thế nào, được sáng tạo và ít nhất cũng
trong một lúc được sống trong thế giới đó. Cả một thế giới hoàn toàn khác! Thú vị lắm. Tôi
thích nghĩ là mình có thể tưởng tượng ra bất cứ gì, bất cứ gì tùy ý rồi sau đó lần dò sắp xếp
lại cho nó phù hợp với một vũ trụ có thể hiểu được.
Gần đây tôi cũng có một khoảnh khắc tương tự, khi tôi thấy mấy túi rác bên vệ đường nhìn
như sư tử biển. Tôi biết thực chất thì không phải, nhưng cảnh đó khiến tôi tưởng tượng
ra một thế giới mà chúng ta đem sư tử biển ra bỏ bên vệ đường mỗi tuần. Tại sao? Tại sao
không? Đây là một trong những điểm tôi thích nhất khi là người viết.
Nhiều tác giả đã tạo cảm hứng cho tôi theo nhiều cách khác nhau. Đọc Dave Eggers thời
đại học giúp tôi nhận ra hình thức kể chuyện có thể tùy hứng và phi tuyến tính, và cái hài
34 Z Z Z REVIEW
lẫn cái bi có thể bổ trợ cho nhau trong cùng một tác phẩm. Marquez đã biến cái huyền ảo
trở thành tầm phào theo một cách tuyệt đẹp, còn Borges là người đầu tiên cho tôi thấy văn
xuôi có thể suy niệm về chính nó bằng những vòng xoáy cấu trúc. Hiện giờ tôi đang rất
thích Karen Russell và các vũ trụ nửa thật nửa tưởng tượng trong tác phẩm chị ấy.
EMMA HOOPER
Tôi cố dành ra một khoảng không gian riêng. Tôi có một căn gác nhỏ rất hay với một chiếc
bàn cũ đáng yêu, một tấm thảm có hình mấy con cú và một cái lọ cắm bút chì handmade
do một nghệ nhân nhí làm ra; tuy nhiên tôi gần như không bao giờ lên đó. Tôi thấy hay
nhất vẫn là những mẩu tôi viết trong lúc đang làm dở việc khác. Trên tàu đi London hay
những dòng nguệch ngoạc trong sổ khi đang đi bộ, hay khi ban nhạc của tôi đang kiểm tra
âm thanh tại các quán bar tối đèn, oi nồng. Nếu làm việc ở nhà thì phần nhiều tôi sẽ nằm
trên sàn. Không hiểu sao mà tôi rất thích ôm laptop cuộn mình trên thảm. Phải chăng vì
hồi bé tôi từng nuôi mèo?
Tôi cũng thích viết ngoài quán cafe. Có một giai đoạn mà mỗi tuần, Simon bạn tôi và tôi
lại hẹn nhau đến một quán cafe mới ở Bath, và ngồi ở hai bàn riêng biệt, không nói gì với
nhau. Ý tưởng là thấy bạn mình ngồi đó viết/làm việc sẽ tạo ra áp lực mà thúc đẩy bản
thân. Và làm thế quả có hiệu quả (ít nhất là với tôi). Hai chúng tôi sẽ thống nhất trước giờ
kết thúc, và khi đến giờ đó, chúng tôi sẽ ngưng việc và sang ngồi cùng bàn, cho phép mình
được trò chuyện một lúc. Lúc này chúng tôi cũng sẽ chấm điểm quán cafe đó dựa theo các
tiêu chí như độ ồn, độ ngon của sôcôla nóng (món tôi thường gọi), có đồ ăn không gluten
không (món Simon thường gọi), vân vân. Chúng tôi điền mấy thông tin đó vào một bảng
ghi khổng lồ mà chúng tôi vẫn còn cất đâu đó... Cũng nên nói luôn là tôi vẫn tiếp tục duy
trì điều này khi chuyển tới London một năm và bắt đầu quá trình hiệu chỉnh bản thảo cuốn
sách. Lúc này thì là với bạn Jason của tôi, cách tuần một lần, và chúng tôi ngồi im lặng cùng
một bàn chứ không phải hai bàn (quán ở London thì đông hơn), nhưng nguyên tắc chung
thì vẫn như thế. Và chúng tôi cũng có một bảng đánh giá các quán cafe ở London.
Còn về thời gian nào trong ngày, thì lúc nào cũng được trừ ban ngày, thật sự. Sáng sớm và
tối là tuyệt nhất. Còn vào tầm giữa ngày tôi bị phân tâm quá mức và chỉ muốn chạy lòng
vòng hoặc ngủ. (Nhưng thường tôi phải đứng lớp hay tập nhạc hay đại loại vậy, buồn thay.)
EMMA HOOPER
Tôi đã và vẫn hy vọng là chủ nghĩa ấn tượng trong các cảnh chiến tranh đó sẽ xóa mờ bất cứ
chi tiết rõ ràng nào, để không có điểm tựa chắc chắn nào như kiểu “người tốt” hay “kẻ xấu”
hay rạch ròi đúng và sai. Người ta nói về “khói mù chiến tranh”; tôi mong muốn miêu tả
một thứ gì đó kiểu, “cái mờ chiến tranh”, ở đó không có gì chắc chắn, không có một cái biểu
đạt dễ xác định rõ ràng cụ thể, dựa vào cảm giác nhiều hơn lý thuyết, như những bài nhạc
không lời, hay như những lá thư của Otto mà ngày tháng và tên người cũng như nơi chốn,
mọi thứ xác định, đều bị cắt bỏ.
EMMA HOOPER
À, tôi quả có những tiêu chuẩn cao đến vô lý đối với ca từ... tôi có nhiều bạn là nhạc sĩ rất
ngại đưa tôi xem tác phẩm của họ vì sợ bị đánh giá thẳng thừng... (Tuy thực tế tất cả bọn họ
đều rất cừ, những bạn nhạc sĩ của tôi ấy. Cajita chẳng hạn, hãy thử tìm nghe nhạc của cô ấy
xem... hay lắm. Ca từ rất tuyệt.)
Nhịp điệu là một phần rất lớn trong văn của tôi. Tôi thường quay lại thay đổi câu này câu
nọ vì nó có quá nhiều hay quá ít âm tiết, hay điểm nhấn nằm sai vị trí, mặc cho nghĩa của từ
ngữ có thế nào. Nhịp điệu câu văn có thể cuốn bạn vào và dẫn bạn đi, như trong âm nhạc
vậy. Điều đó người ta thừa nhận ở thơ, tôi nghĩ thế, nhưng ở văn xuôi thì ít được chú ý hơn.
Tuy vậy tôi nghĩ nhịp điệu ở văn xuôi cũng quan trọng ngang ngửa, nếu không nói là hơn,
đối với tôi, bởi cả chồng cả đống câu chữ cần nhịp điệu mới có thể không ngừng dẫn dắt
và đưa bạn qua, cả người viết lẫn người đọc. Đây là một trong những lý do vì sao tôi yêu sự
lặp đi lặp lại.
36 Z Z Z REVIEW
NGƯỜI PHỎNG VẤN
Đắp giấy bồi - sở thích mới của Otto - là một tiến triển độc đáo ở tuyến truyện của ông ấy.
Ý tưởng kết hợp môn thủ công này với việc chờ mong sự trở về của Etta và Russell hình
thành từ đâu?
EMMA HOOPER
Câu hỏi này có hai câu trả lời, phần nổi và phần hơi chìm hơn một chút. Phần nổi, đắp giấy
bồi rất vui và tôi rất thích. Ai mà không thích đắp và đập piñata chứ? Tôi được giải nhất
trong cuộc thi khoa học khối 8 bằng cách đắp một con cá heo bằng giấy bồi theo tỷ lệ thật,
có các bộ phận trong cơ thể nằm đúng vị trí... Tôi nghĩ tự tay mình thực hiện đồ thủ công
sẽ có lợi cho cái đầu và trái tim. Còn phần chìm, một chủ đề xuyên suốt cuốn sách này là
sự “hoán đổi” diễn ra giữa Etta và Otto, những vai trò giới tính định sẵn ở thế hệ của họ, và
những vai trò mà họ đã đảm nhiệm suốt cuộc đời riêng của mình. Etta thì “làm” và “đi”, còn
Otto thì “tạo” và chăm”. Do đó mà có vụ đắp giấy (và nướng bánh, và cả con chuột lang).
EMMA HOOPER
Theo lời Etta của tôi, tôi sẽ muốn họ “đi đi, làm bất cứ điều gì, bất cứ khi nào. Đi mà thực
hiện một mình, và ngay lập tức, vì bạn muốn và bạn được phép và bạn có thể.” Điều này có
thể nghĩa là viết một cuốn sách hay đi học lấy bằng thiên văn học hay cắt tóc hay học tiếng
Trung hay bất cứ việc gì họ luôn muốn làm.
Truyện tranh trong văn hóa Tây phương gắn với giới độc giả nam trẻ tuổi, nhưng tại Nhật
Bản thời hiện đại, truyện tranh (manga) lại gắn liền với những độc giả và tác giả nữ. Shōjo
manga (truyện tranh thiếu nữ) xuất hiện ngay từ những năm 1910. Vào năm 1899, Sắc
lệnh về trường phổ thông của nữ được ban hành với việc tách biệt nam nữ theo hệ thống
trường đơn giới và chương trình học nhắm tới việc tạo ra những người vợ và người mẹ tốt.
Sự tách biệt giới tính này tạo ra khái niệm shōjo (thiếu nữ), bởi vậy đã sinh ra văn hóa thiếu
nữ. Các tạp chí dành cho thanh thiếu niên bắt đầu xuất hiện vào cuối những năm 1880,
thoạt đầu nhắm tới cả nữ lẫn nam dù có những cái tựa như Shōnen no sono (Khu vườn của
thiếu niên) nhưng rồi những tạp chí đó bắt đầu tách biệt theo giới tính ngay sau quá trình
chia tách dựa trên giới tính trong nền giáo dục xảy ra sau Chiến tranh Trung-Nhật (1894-
1895). Vào năm 1902, Shōjokai (Thiếu nữ giới), là shōjo zasshi (tạp chí dành cho thiếu nữ)
đầu tiên xuất hiện, theo sau đó là nhiều tạp chí dành cho thiếu nữ khác. Độc giả của những
tạp chí đó nằm trong vòng hạn hẹp - chủ yếu là những thiếu nữ thuộc tầng lớp trung và
thượng lưu có điều kiện đi học tại các trường trung học (chiếm chỉ 10-20% tổng số thiếu
nữ) nhưng những tạp chí dành cho thiếu nữ này lại trở nên một phần thiết yếu của văn hóa
thiếu nữ tiền Thế chiến II.
Những tạp chí dành cho thiếu nữ thời tiền chiến đăng một vài truyện tranh hài hước
ngắn trong những koma (khung) hình vuông đơn giản được sắp theo những hàng ngăn
nắp. Tuy nhiên, nổi tiếng nhất là những shōjo shōsetsu (tiểu thuyết dành cho thiếu nữ).
Những truyện này đi kèm tranh minh họa. Những truyện của Yoshiya Nobuko (1896-
1973) cùng với những bức tranh minh họa đi kèm của Nakahara Jun’ichi (1913-83) cực kì
38 Z Z Z REVIEW
được ưa thích. Chúng đều có ảnh hưởng to lớn tới shōjo manga thời hậu chiến. Những độc
giả nữ chia sẻ niềm say mê đối với những truyện có kèm tranh minh họa bằng cách đóng
góp thư từ cho phần “thư độc giả” trong tạp chí.
Sau sự gián đoạn do Chiến tranh Thái Bình Dương, thời kì kiểm soát chặt chẽ của
chính quyền, sự kiểm duyệt cùng chế độ phân phối giấy, tạp chí dành cho thiếu nữ hồi sinh
- sự hồi sinh này không chỉ giới hạn ở những tiểu thuyết dành cho thiếu nữ mang phong
cách tiền chiến mà còn hăng hái đăng tải những tiểu thuyết Tây phương dành cho thiếu
nữ, những bài viết về thời trang, tin tức về những ngôi sao Hollywood, những nhân vật
nổi danh người Nhật cũng như manga dành cho thiếu nữ nữa. Những bản dịch các tiểu
thuyết Tây phương dành cho thiếu nữ như Anne Tóc Đỏ dưới Chái Nhà Xanh (Akage no
an, bản dịch Nhật ngữ của Muraoka Hanako [1893-1968], 1952) có sức lôi cuốn mạnh mẽ
đối với những thiếu nữ thời hậu chiến cùng với phim ảnh của Mỹ. Sự ngưỡng mộ văn hóa
Tây phương có ảnh hưởng to lớn tới manga dành cho thiếu nữ - địa điểm, nhân vật và cốt
truyện của các tiểu thuyết và bộ phim đó - đặc biệt là cho tới những năm 1970.
“Story manga” (truyện tranh có cốt truyện) chiếm thế thượng phong trong những
tạp chí dành cho thiếu nữ thời hậu chiến, với việc bộ truyện Ribon no kishi (Hiệp sĩ đeo
nơ, 1953-1956) của Tezuka Osamu (1928-1989) gặt hái được thành công cực kì to lớn.
Takahashi Makoto, một họa sĩ manga nổi danh khác đã kết hợp story manga với những
bức tranh minh họa đầy chất trữ tình. Ông vẽ những bức tranh minh họa thiếu nữ trong
những khung hình được sắp đặt tự do - chẳng hạn như một khung hình ba cột nhằm mô tả
những câu chuyện giàu kịch tính và cảm xúc như Arashi o koete (Sau cơn bão, 1958). Manga
dành cho thiếu nữ dần trở nên độc đáo hơn, tập trung vào tâm lí của con người và sử dụng
những khung hình linh hoạt. Ngược lại, manga dành cho nam thiếu niên lại mô tả hành
động (như các môn thể thao và bạo lực) trong những khung hình vuông giống như phim.
Trong những năm 1960, tình yêu trở thành chủ đề phổ biến trong manga dành cho
thiếu nữ. Bộ truyện Hoshi no tategoto (Hạc cầm của ngôi sao, 1960) của Mizuno Hideko
(s. 1939) là manga dành cho thiếu nữ đầu tiên mô tả tình yêu nam nữ (hoàng tử và công
chúa trong thần thoại Bắc Âu). Một ví dụ tiêu biểu khác là bộ truyện Remon to sakuranbo
(Chanh và anh đào, 1966) của Nishitani Yoshiko (s. 1943). Bộ manga này mô tả tình yêu
tuổi mới lớn và cuộc sống tại một trường trung học bình thường ở Nhật.
Tỉ lệ truyện manga mỗi lúc một lớn hơn trong những tạp chí dành cho thiếu nữ trong
khi các tiểu thuyết dành cho thiếu nữ lại dần mất đi sự ưa chuộng của độc giả. Từ cuối
những năm 1950, tuần san và nguyệt san dựa hoàn toàn vào manga dành cho thiếu nữ tăng
trưởng mạnh. Điều này tạo ra một nhu cầu đối với những họa sĩ manga mới và nhiều tạp
chí khuyến khích độc giả tự gửi những tác phẩm manga của riêng mình. Các biên tập viên
lựa chọn những cộng tác viên tiềm năng, đào tạo rồi giới thiệu họ trong tạp chí. Hiện tại,
40 Z Z Z REVIEW
30% số nữ sinh trung học theo học tiếp lên đại học hoặc cao đẳng. Sự tham gia của nữ giới
trong xã hội tăng lên và cách sống của họ đã trở nên đa dạng nhưng vẫn còn nhiều hạn chế
nghiêm ngặt. Cả manga của Nhóm 49 và otomechikku manga đều cho thấy phụ nữ và thiếu
nữ đang tranh đấu để tìm không gian riêng cho mình cũng như một phương tiện tự biểu
hiện khác. Ví dụ Nhóm 49 thường chọn những nam thiếu niên làm nhân vật chính như
trong Tōma no shinzō. Họ tạo ra những khả năng mới dưới lốt vỏ của những nhân vật “nam
thiếu niên”, những người không phải chịu những hạn chế áp đặt lên phụ nữ trong thế giới
thực. Họ cũng đi vào khám phá tình dục và tính sắc dục, một điều cấm kị chính đối với
manga dành cho thiếu nữ. Truyện tranh BL (boy’s love) - manga về tình yêu giữa nam với
nam - cũng ra đời trong những năm 1970 và trở thành một phần không thể thiếu trong
manga dành cho thiếu nữ.
Với sự phát triển của manga dành cho thiếu nữ trong những năm 1970, giới độc giả
dần dần mở rộng sang phụ nữ trưởng thành (thỉnh thoảng cả nam giới), điều này dẫn tới
việc các tạp chí manga dành cho thiếu nữ mới trong những năm 1980 nhắm tới độc giả
thuộc những nhóm tuổi khác nhau, thí dụ như một thể loại mới gọi là redīsu komikku
(ladies’ comic, truyện tranh của phụ nữ). Truyện tranh dành cho phụ nữ đặc trưng bởi sự
mô tả mạnh bạo về tình dục tạo nên
sự bùng nổ về xuất bản trong những
năm 1980.
Manga dành cho thiếu nữ trong
những năm 1980 thường kể về một
nhóm thiếu niên. Ví dụ như bộ
truyện Banana fisshu (Banana fish,
1985-1994) của Yoshida Akimi (s.
1956) mô tả tình bạn và tình yêu
(không có quan hệ tình dục) giữa
Ash, thủ lãnh một băng đảng thiếu
42 Z Z Z REVIEW
Thư gửi Mina
(trích)
Thuận
Mùa thu 2016, nhân vật chính, một nhà văn nữ gốc
Việt sống ở Paris, đã quay lại căn phòng áp mái giữa khu
Pigalle nóng bỏng từng chứng kiến những ngày đầu tiên
cô đặt chân đến Pháp, để bắt tay vào một bản thảo mới.
Nhưng thay vì đeo đuổi một cuốn tiểu thuyết như việc
mà cô vẫn làm, cô đã ngồi viết thư cho Mina một người
bạn gái gốc Afghanistan mà cô đã mất liên lạc ngay sau
ngày cả hai cùng tốt nghiệp đại học ở Nga. 30 bức thư
đều đặn trong vòng một tháng, không bao giờ được gửi
đi, dần dần trở thành một dạng nhật ký nơi cô có thể thổ
lộ mọi điều - về nghề viết, về nhân tình thế thái, về cuộc
sống tha hương, về quan hệ vợ chồng trống rỗng, về mối
tình tuyệt vọng xa xưa, về những nỗi niềm riêng tư bấy
lâu bị chôn vùi, về những hành động vô nghĩa của một
cuộc sống thường nhật nhàm chán đến kinh ngạc... Tất
cả trên một phông nền rộng lớn chạy từ Hà Nội của bao
cấp đến Sài Gòn của ngày hôm nay, qua nước Nga của
perestroika, Kabul của nội chiến và chưa chắc đã dừng ở
Paris của đầu thế kỷ 21 với khủng hoảng kinh tế, chính
trị và di dân.
44 Z Z Z REVIEW
như lần đầu đối diện với tác phẩm của Michel-Ange. Sau khi giả vờ làm rơi kính và giương
mắt nhìn thằng trai nhảy xuống làm vài vòng bể mò giúp, nó càng tin rằng đó là cơ thể đàn
ông tuyệt mỹ nhất mà nó nhìn thấy từ trước đến nay và rất có thể là mãi mãi về sau, ngay
cả trên màn ảnh Hollywood. Mọi thứ đều hoàn hảo - bờ vai, lồng ngực, vòng hông, bắp
đùi, cơ bụng, làn da - tất cả mọng lên và vàng rực dưới ánh hoàng hôn nhiệt đới lộng lẫy,
trên mặt nước xanh trong như ngọc bích và mênh mông đến tận chân trời. Pema bảo ai có
thể cầm lòng được trước một món ngon siêu thực như vậy cơ chứ. Nó bảo hôm ấy là ngày
thứ mười nó không có tin tức của anh nhà báo từ Kabul. Nó bảo khách sạn có cái tên rất
hợp với hoàn cảnh của nó. À la carte. Nó được chọn món một cách chủ động. Anh nhà báo
chiến tranh, tình yêu của nó, mới là món chính. Còn thằng trai, cơ thể đàn ông tuyệt mỹ,
chỉ là món tráng miệng. Nhưng vì plat principal không xuất hiện, nên nó phải chén dessert.
Nó phải chén thằng kia. Và đã thấy trước là chén bao nhiêu vẫn sẽ không đủ, chén bao nhiêu
vẫn sẽ thấy đói. Pema là một đứa rất hay chữ, tiếng Việt trong tay nó bao giờ cũng nở ra bao
nhiêu nghĩa mới. Đêm hôm ấy, nó kể, nó nằm nghĩ đến thằng kia, nó không biết thằng kia
có tình ý với nó hay không, đến Việt Nam cùng vợ hay bồ, thậm chí có thích phụ nữ. Cùng
một lúc nó nhận ra là nó chẳng biết gì về thằng kia nhưng bị cơ thể đàn ông hoàn hảo ấy,
gần như trần truồng, ngụp lặn trong đầu. Toàn thân nóng ran và nó phải vặn đầy một bồn
nước mát để thả người vào đó. Nó lềnh bềnh như thế, giữa mê và tỉnh, mộng và thực, bản
năng và ý thức, cho đến gần sáng thì thiếp đi rồi dường như ngay lập tức bị đánh thức bởi
những tiếng gõ thật khẽ lên cửa phòng mà mới đầu nó đã không tin ở tai mình. Nó chỉ kịp
thở hắt ra một cái khi nhìn thấy đôi vai chật căng dưới áo choàng tắm của thằng kia. Thằng
kia cũng chỉ kịp thở hắt ra khi nhìn thấy bộ ngực lấp ló dưới áo choàng tắm của nó. Sau này
nó biết rằng thằng kia cũng bị cơ thể đàn bà hoàn hảo của nó, gần như trần truồng, ngụp
lặn trong đầu khiến toàn thân nóng ran và phải vặn đầy một bồn nước mát để thả người
vào đó. Rằng thằng kia cũng lềnh bềnh như nó, giữa mê và tỉnh, mộng và thực, bản năng
và ý thức, cho đến gần sáng thì thiếp đi rồi dường như ngay lập tức bị đánh thức bởi những
tiếng gõ thật khẽ lên cửa phòng. Rằng thằng kia lao ra mở rồi cứ thế bước đi như bị ma ám
đến đúng trước cửa phòng nó thì dừng lại. Thần giao cách cảm. Pema bảo nó thèm những
điều ngọt ngào, khi không có tình yêu thì nó yêu những cái giống như tình yêu. Rằng thật
là oái oăm, càng thèm món chính thì nó càng phải ăn món tráng miệng, càng nhớ anh nhà
báo chiến tranh thì nó càng có nhu cầu làm tình với thằng trai trẻ. Trên giường, chúng nó
vừa làm tình vừa cầu nguyện cho Kabul. Nó, theo tôn giáo của nó. Thằng kia, theo tôn giáo
của thằng kia. Mỗi đứa tin vào một Thượng Đế khác nhau, nhưng cầu nguyện là việc mà
chúng nó vẫn làm. Mina, có lẽ mày không tưởng tượng được, không ai tưởng tượng được
rằng giữa Sài Gòn, nguyên Ho Chi Minh city, thành phố lớn nhất, hiện đại nhất dải đất
loằng ngoằng hình chữ S mấp mé bờ Đông của Thái Bình dương, từng có hai cơ thể khỏe
mạnh và đẹp đẽ cứ sắp đạt cực khoái lại tự động tách khỏi nhau để thầm xin đức Phật và
46 Z Z Z REVIEW
chỉ ghé để đổ rác. Không phải thế. Lần này tao mơ thấy mày đang đi dạo trong khuôn viên
một công sở ở ngay Kabul thành phố quê hương mày. Xung quanh, từ những hố bom vài bụi
sim đã mọc lại, màu xanh non của lá và màu tím lịm của hoa nổi bật trên nền đất bạc thếch.
Ở ngay lối vào là một cây cổ thụ cao hơn cả tầng cao nhất của tòa nhà chính, lác đác các chồi
biếc nhu nhú cựa quậy trên những cành khẳng khiu tưởng đã chết khô. Đâu đó tiếng chim sẻ
ríu rít, tiếng bồ câu gù gù, tiếng vàng anh thánh thót, tiếng vành khuyên líu lo hòa vào tiếng
cầu kinh đều đặn và trang nghiêm vọng ra từ thánh đường Bakir-Al-Olum của giáo phái
Shiite. Và trong giấc mơ của tao, mày không đi dạo một mình, Mina. Bên cạnh mày có một
thằng bé giống mày và giống cả Viktor con trai tao, cũng mái tóc đen nhánh uốn lượn và đôi
mắt trong veo mơ màng, cũng sơ mi trắng bỏ trong quần soóc tím than, cũng mũ nan trên
đầu và xăng đan da dưới chân, cũng vừa bước vừa lẩm nhẩm một bài hát sai nhạc sai cả lời,
hình như là “Peter và chó sói”... Giấc mơ có lẽ sẽ còn bay cao bay xa nếu tao không bất ngờ
choàng dậy rồi bật máy tính, vào Google và gõ “Kaboul - jardin - parc” để rơi thẳng xuống
lời giới thiệu của trang easyvoyage.com: “Kabul, thủ đô của Afghanistan, có gương mặt sầu
não của một đô thị bị đánh bom tơi bời và mòn mỏi vì những năm tháng chiến tranh. Bảo
tàng thành phố nơi trưng bày một trong những bộ sưu tập đồ cổ châu Á quý giá nhất đã hàng
trăm lần bị đập phá tan tành. Ngày hôm nay, Kabul không còn vườn hoa cũng hết cả công
viên. Vườn Babur từng một thời nổi danh giờ chỉ là mảnh đất hoang, còn thành cổ thì trở
thành khu vực cực kỳ nguy hiểm, miếng mồi ngon của mìn khủng bố”.
Mina, tao đã ngẩn người, rồi dụi mắt, rồi đọc đi đọc lại cái câu ngắn ngủi. Aujourd’hui,
Kaboul n’a plus de parc, ni de jardin. Ngày hôm nay, Kabul không còn công viên, cũng hết
cả vườn hoa. Từng từ từng chữ rõ ràng. Một trang quảng cáo du lịch mà phải giới thiệu lạnh
lùng sắt đá như vậy thì sự thật có thể còn lạnh lùng sắt đá hơn nhiều. Tao bồn chồn đợi tin
Kabul. Và tao chẳng phải đợi lâu. Hôm nay, sáng sớm hôm nay, mở mắt dậy, bật máy tính,
gõ “Kabul”, “Afghanistan” tin đầu tiên mà tao có về đất nước của mày là thánh đường Bakir-
Al-Olum, nơi vọng ra tiếng cầu kinh hòa lẫn tiếng chim hót trong giấc mơ của tao, vừa bị
đánh bom tự sát lúc 12g30 giờ địa phương, lấy đi 28 sinh mệnh đúng vào ngày cuối cùng
của lễ Ashura. Ashura tao cũng nhờ Google mà biết được là sự kiện lớn trong năm của tín
đồ Shiite để tưởng niệm cái chết oan nghiệt của một ông thánh nào đó tên là Hussein sống
từ thế kỷ VII. Tao không hiểu lý do gì đã khiến tao mơ thấy Bakir-Al-Olum mấy chục tiếng
trước khi nó bị tấn công? Tao từng nhìn thấy nó đâu đó trên mạng khi tìm hiểu về Shiite và
Hồi giáo ở đất nước của mày? Hay đó không phải là thần giao cách cảm mà chỉ là kết quả
tất yếu của bạo lực: một thánh đường của giáo phái đứng thứ nhì đạo Hồi không trước thì
sau cũng bị tấn công, không bởi phiến quân này thì bởi loạn quân khác, không hôm nay thì
ngày mai, không vào lễ Ashura thì lễ Ramadan hoặc chẳng cần lễ nào? Mina, mới bây giờ
mà người ta đã dự đoán năm nay là năm chết chóc nhất với người dân Afghanistan.
48 Z Z Z REVIEW
sợ rúm ró chiến tranh và tất cả những người có mặt trong đó, dù với bất kỳ lý do nào. Đùng
một cái, ngày cuối cùng, Mina, nó bảo nó bỗng nhìn mọi thứ bằng con mắt khác, như thể
trái tim của nó sau ba tháng làm việc quá tải đành phải nhường chỗ cho trí não. Ngày cuối
cùng, bản thân nó cũng thấy sợ nó. Nó không thể chịu đựng nổi cơ thể vốn khỏe mạnh và
đẹp đẽ của chính mình. Ngày cuối cùng, mấy tiếng một lần nó đứng dưới vòi hoa sen, dốc
hàng lọ nước gội đầu và xà phòng tắm, kỳ cọ từ tóc đến móng chân, để giảm bớt cảm giác
kinh tởm mà chiến tranh ám vào cơ thể nó. Nó cũng không chịu nổi cơ thể của thằng trai
trẻ mà nó từng chén ba tháng liền, một cơ thể vốn khỏe mạnh và đẹp đẽ cũng chỉ vì nó mà
bốc mùi chiến tranh. Nó bảo đấy mới chỉ là bên ngoài mà tẩy uế đã khó, còn bên trong thì
nó bó tay, tất cả những gì đã in vào não, vào tim, ngấm vào huyết quản, nó làm sao mà thanh
lọc cho được. Nó thậm chí không còn có thể khóc khi nghĩ về điều ấy. Tuần sau đó, anh
người yêu của nó quay trở lại Sài Gòn gặp nó thì Pema rũ xuống khi mới chỉ nhìn thấy anh
ta từ tắc xi bước ra: mùi chiến tranh đậm đặc khủng khiếp, lưu cữu từ ba tháng nay, bốc ra
từ cơ thể người đàn ông, một cơ thể cũng từng đẹp đẽ và khỏe mạnh. Mùi chiến tranh bốc
ra từ từng sợi tóc, từng móng chân, móng tay, từ cổ, gáy, nách, vai, lưng, và rất có thể là cả
đùi, bẹn, háng, mông... Trưa nay, sau khi thánh đường Bakir-Al-Olum bị khủng bố khiến
28 người thiệt mạng và vô số người bị thương, tao gọi điện về Sài Gòn cho nó. Nó bảo thật
khủng khiếp. Cả một đoạn phố nhà nó đang nồng mùi sầu riêng thì anh ta xuất hiện và mùi
chiến tranh át đi tất cả, chưa kể trong những máy móc lỉnh kỉnh mà anh ta đeo trên mình
là hàng nghìn bức ảnh mà anh ta đã chụp, hàng nghìn câu chữ mà anh ta đã viết, tất cả đều
về chiến tranh, đều bốc mùi chiến tranh, với những xác người, tay chân tung tóe, óc tung
tóe, tim tung tóe, ruột gan lộn tùng phèo. Nó chạy vội lên nhà, sập cửa phòng lại. Nó bảo
làm sao nó có thể làm tình với một người đã sống ba tháng liền trong một nhà xác, cái nhà
xác vĩ đại kia. Nó bảo làm sao nó có thể không ngừng tưởng tượng về ba tháng ấy khi anh
ta mỗi ngày hít thở tử khí, ăn uống, đi đứng, làm việc, suy nghĩ, ngủ, mơ và nhớ về nó, tất
cả đều bên cạnh các xác chết, đã thối rữa hoặc sắp thối rữa. Nó bảo giờ thì nó hiểu tại sao
trong suốt thời gian ấy nó không thể viết được cái gì ra hồn, ngay cả những bức thư nó viết
cho anh ta với tất cả chăm chút, ngôn từ ngọt ngào cứ như tuột khỏi tay nó, trốn tránh,
giận dỗi, bất hợp tác. Rất có thể các kẽ tay nó cũng có mùi chiến tranh. Và đó là những bức
thư tình kém ngọt ngào nhất mà nó từng viết, mặc dù lúc ấy, trong những ngày ấy nó không
giờ nào phút nào không nghĩ tới anh ta, một cách ngọt ngào nhất có thể. Pema đọc cho
tao, Mina, những câu không đâu vào đâu, chẳng dính dáng gì đến tài năng văn chương của
nó, và luôn luôn bắt đầu bằng mưa như thể vừa muốn an ủi vừa muốn trêu tức người nhận
đang ở nơi quanh năm nóng hay lạnh cũng hầu như không được ông trời nhả cho một giọt
nước là thủ đô Kabul của mày.
50 Z Z Z REVIEW
mày đừng quá chạnh lòng: tuy không là nhân vật, bù lại, mày hiện diện trong từng suy nghĩ
của tao suốt hai tuần của mùa thu năm ngoái, và một trăm nghìn từ ấy là tao viết cho mày,
để mày đọc. Tao đã ghi chép không ngừng, ngày lẫn đêm, hầu như tất cả những gì tao chứng
kiến ngoài đời và nảy ra trong đầu: mày hẳn dễ dàng nhận thấy các nhân vật vẫn còn ở trạng
thái nguyên sơ, chưa được chỉnh sửa, bơi như nòng nọc giữa hiện thực và tưởng tượng,
giữa phân tích và dự đoán thường xuyên trái chiều của tao, giữa những câu chuyện dang dở,
những lời kể không đầu không đuôi của những người mà tao chỉ vừa quen, giữa những “sự
thật” nằm ngoài khả năng kiểm chứng của bất kỳ ai. Mina, chỗ này có lẽ tao phải mở một
cái ngoặc để nói với mày rằng dường như sau ngần ấy năm ngồi viết, tao có cảm giác chẳng
thu được gì ngoài tính hoài nghi. Hoài nghi có thể không tốt, thậm chí có hại, cho các con
chiên và các đảng viên, nhưng lại rất cần cho cá nhân tao bởi vì tao, Th bạn của mày, là một
đứa cả tin. Cả tin không sao sửa được. Nếu phải tìm hai tính từ để chỉ bản thân tao, tao sẽ
không mất giây nào mà nói với mày rằng tao vừa cả tin vừa hoài nghi. Nghe thì mâu thuẫn,
nhưng dường như là cả tin nằm trong máu của tao, còn hoài nghi là chất kháng thể mà tao
tự sản xuất để chống lại. Tao cũng ý thức được rằng chính bởi mâu thuẫn cả tin/hoài nghi
mà quá trình đi tìm bản chất bất cứ điều gì, dù nhỏ đến đâu, cũng khiến tao mất công hơn
người khác. Mina, mày hãy hình dung thế này: tin tức rơi vào đầu tao như những hạt mầm
mà ngay lập tức tao hí hửng nghĩ rằng tất cả đều chắc mẩy hiện thực, và mặc sức tưới vào các
tưởng tượng, phân tích, dự đoán. Nhưng được cái là hoài nghi cũng nhanh chóng xuất hiện
kéo chân tao chạm đất, để tao nhìn lại đống hạt mầm hóa ra nhiều phần lỏng lẻo, rồi nhanh
chóng tưới vào đó một loạt tưởng tượng, phân tích, dự đoán khác. Quá trình sàng lọc lặp đi
lặp lại không ngừng. Có vẻ như đầu tao, Mina, lâu ngày trở thành cái nia nhiều lớp. Nhưng
tao cũng không bảo đảm được rằng từ những hạt mầm lọt qua lớp nia cuối, sau khi đã được
tưới tắm và sàng lọc, có mọc ra được chút gì đáng tin cậy. Nói cho cùng thì tao là người trần
mắt thịt chứ không phải Thượng Đế, tao viết chứ không dọn cỗ, và độc giả ai cũng có, theo
cách riêng của họ, một bộ óc với năng lực lập luận và phán xét. Việc mà tao làm có lẽ chỉ là
sắp xếp một chút ngôn từ, một chút thông tin, để kích thích nó, trong một phạm vi nhất
định. Thế cũng khiến tao thấm mệt rồi, tao - một kẻ không ngừng bị hoài nghi truy đuổi.
Trong tất cả các nhân vật mà tao đã giới thiệu với mày hai tuần ấy, ngoài Pema bạn tao ở Sài
Gòn, tao không còn gặp lại ai, ngay cả con Mè-zí và mấy đứa đồng hương Việt Nam sống
ngay tầng dưới căn phòng áp mái của tao ở khu Pigalle. Mới đầu tao nghĩ chúng nó chán vì
tao chẳng được tích sự gì, sau mới hay Thai Gogo Bar đã chuyển chúng nó đến một địa điểm
khác dưới tỉnh xa. Theo bình luận của bà gác cổng Julietta, người báo tin cho tao, thì mục
đích của việc này rất có thể là để tránh sự nhòm ngó của “công an khu vực”. Đêm ấy tao đã
trằn trọc ít nhiều, đương nhiên không phải vì cụm từ nhạy cảm kia (tao biết có không ít di
dân vẫn bị chế độ độc tài cố quốc ám ảnh, dù đã chạy sang Paris sinh sống mấy chục năm)
52 Z Z Z REVIEW
còi xe cứu thương và tiếng thất thanh của mụ gác cổng Julietta hay vài nhân viên của quán
Chào Bà trước một thân thể bê bết máu sõng soài dưới mặt đường lát đá, tóc dài phủ kín
vai. Nếu có một hôm như thế, thì có thể tao không có quyền ngạc nhiên. Tao sẽ phải nhìn
lên các cửa sổ tầng áp mái. Phòng nào? Mười bảy năm về trước? Chủ nghĩa cá nhân biến
mỗi chúng ta thành một ốc đảo mà ngay từ đầu cái chết đã lãnh nhiệm vụ một ngày nào
đấy sẽ mang đi nguyên vẹn.
Tao đang viết cho mày từ bàn ăn căn hộ gia đình. Nói chính xác là căn hộ của Artur, chồng
tao. Tao xách va li về đây khi anh ấy đã mua nó từ lâu, đã cho sửa chữa theo ý của anh ấy, đã
sắp đặt mọi thứ từ đồ gỗ đến đồ điện, từ khăn lau trong bếp đến khăn mặt trong buồng tắm,
tất cả đều theo ý anh ấy. Sự xuất hiện của tao hầu như không làm thay đổi cái gì trong nhà.
Có chăng chỉ vài bộ quần áo, vài đôi giày, vài cuốn sách mà tao không mất công cũng tìm
được một góc nào đấy để cất mà chẳng làm ảnh hưởng đến bố cục và trật tự chung đã có.
Artur đã quyết định giúp tao tiếp tục thuê căn phòng áp mái nơi giữ lại phần lớn đồ đạc của
tao. Nó là cái kho của riêng tao mà nếu chẳng may chuyển hết về căn hộ gia đình thì sẽ vô
duyên như khách không mời. Trên thực tế, quyết định của Artur đâm ra có ích cho tao hơn
cả cho anh ấy: căn phòng áp mái đã nghiễm nhiên trở thành bí mật thuộc về tao mãi mãi.
Người Pháp hay nói “jardin secret”. Còn tao, tao không có vườn, mà có phòng. Căn phòng
bí mật. Nơi tao có thể đến sống một vài tuần, như tao muốn, khi chồng tao mang thằng
Viktor đi nghỉ. Nơi tao có thể nằm yên hàng giờ để nhớ về Vĩnh, như tao muốn, trong tiếng
mưa gõ miên man lên mái nhà.
Bác Chắt, chị Chiến, thằng Lùn, bà chủ tiệm may Saigon-Cali-Taylor, thi sĩ Nam Định và
nàng thơ của anh, Roger Balasko và hai đứa con gái nuôi, tao đều không có dịp gặp lại. Các
câu chuyện của họ thỉnh thoảng sống dậy trong đầu tao, mỗi lần dưới một dị bản ít nhiều
khác nhau, khiến sự thật dường như ngày càng trở nên khó nắm bắt, bị lấp sau tầng tầng
lớp lớp sương mù. Ký ức của tao vẫn cần mẫn tìm cách sắp xếp mọi thứ vào những ô nhỏ,
theo một trật tự bí hiểm, mà tao nhiều khi muốn tìm lại cũng bó tay, hoặc không ít lần lẫn
ô này vào ô kia và thỉnh thoảng cũng bất ngờ tạo ra một kết quả tạm gọi là thú vị theo kiểu
râu ông này cắm cằm bà kia.
Pema gọi điện cho tao vào một buổi sáng mùa xuân. Trên đường qua Luân Đôn thăm gia
đình, nó quá cảnh ở Roissy, nhưng thay vì bay tiếp, nó quyết định ghé Paris nửa ngày. Bọn
tao ngồi với nhau trong công viên parc de Sceaux rất lâu. Chính nó đề nghị tao đưa thẳng
đến đó. Nó bảo trước khi đặt chân vào đây, nó đã mường tượng ra một công viên như thế,
qua lời kể của anh người yêu nó. “Anh ấy sống ở khu này, buổi sáng anh ấy thường chạy bộ
dọc con kênh, chính cạnh ba con hươu bằng đồng đen anh ấy thường dừng lại nghỉ giữa
chừng và nhắn tin cho em. Còn bức tượng Hercule ẵm đứa nhỏ, em đã nhìn thấy trong một
54 Z Z Z REVIEW
Họ không bao giờ gặp lại nhau nữa. Pema chủ động biến khỏi tầm mắt của anh nhà báo
chiến tranh sau một cú click. Nó bảo cái gì chưa bao giờ bắt đầu thì cũng sẽ chẳng bao giờ
kết thúc. Nó là đứa thích những cái dở dang, tao biết. Mấy tháng sau, tao gặp anh ta, một
cách tình cờ, trong buổi ra mắt sách của một đồng nghiệp. Ngay lập tức tao nhận ra người
đàn ông mà Pema từng yêu, một trung niên cao gầy, đeo túi vải, luôn giữ trong tay chiếc
máy ảnh gắn ống kính dài. Chúng tao trao đổi dăm ba câu. Giữa chừng, tao tự hỏi hôm nào
đó có nên gặp lại anh ta, cho anh ta xem những gì Pema đã kể, thậm chí có thể gợi chuyện
để dò tin. Câu chuyện của hai con người này có vẻ thú vị nhưng đã được lọc qua ống kính
của Pema, e là khó khách quan. Nhưng như mày thấy đấy, cho tới bây giờ vẫn chưa ai được
quyền chạm vào, dù chỉ một dòng trong những lá thư này. Tự thâm tâm, tao muốn mày đọc
chúng. Có lẽ đó là lý do tao sẽ cho xuất bản mà không chỉnh sửa. Đây có thể được coi là một
tác phẩm văn chương không, tao không biết. Nhưng thế nào là một tác phẩm văn chương,
tao cũng có biết đâu.
Mina, chào mày nhé, bạn hiền của tao. Hy vọng từ một nơi nào trên trái đất, mày đọc được
những dòng này và nhận ra tao. Tao biết hy vọng của tao nhỏ nhoi vô cùng. Ngăn kéo mang
tên “Mina” hóa ra chưa thể đóng lại.
Tiểu thuyết 28 của nữ nhà văn Hàn Quốc Jeong You-Jeong làm tôi nhớ đến hai thứ. Thứ
thứ nhất là những tuyên truyền phòng chống bệnh dại lây lan từ chó mà tôi nghe trên các
loa phường, TV, đài phát thanh và báo chí trong suốt những năm tháng tuổi thơ. Thứ thứ
hai là một số bộ phim về dịch bệnh quét sạch loài người, có thể kể đến hai phim zombie của
Anh, 28 Days Later và 28 Months Later, và Contagion, một phim Mỹ hồi 2011 có sự tham
gia của nhiều tên tuổi lớn như Jude Law, Matt Damon, Kate Winslet... Tôi sẽ không mấy
ngạc nhiên nếu tác giả một ngày nào đó cho biết rằng cô chịu ảnh hưởng của những phim
này khi viết 28, nhất là từ Contagion.
Dịch bệnh có lẽ không phải là một chủ đề mới. Trong lịch sử loài người, có những lúc
dịch bệnh quét sạch đến 80% tổng dân số toàn cầu, mãi cho đến tận bây giờ, không có năm
nào là không có một dịch bệnh bùng phát ở đây đó trên thế giới, dù rằng với sự tiến bộ của y
tế và của công nghệ nói chung, con người trong vai trò của một loài, ngày càng đề kháng tốt
hơn. Trong bối cảnh phức tạp, sáng tối lẫn lộn của thế giới ngày nay, mỗi khi một dịch bệnh
lớn bùng phát, là ta lại thấy ở đó đầy đủ những điểm sáng làm ta trầm trồ nếu ta nhìn từ bên
ngoài vào như một kẻ quan sát ngoài cuộc, giả sử ta là một sinh vật thông minh ngoài hành
tinh chẳng hạn: cách các tổ chức y tế xoay sở đối phó và tìm ra cách chữa bệnh, cách mà
các chính phủ điều động xã hội, tuyên truyền trấn an dân chúng, cách mà mỗi người hoặc
mỗi nhóm nhỏ người trong cuộc xoay vần ấy tự tìm cho mình sự an toàn, an toàn bản thân
và an toàn trong tâm lý, một sự an toàn phòng hờ nào đó để giữ gìn mạng sống của mình
và người thân trong trường hợp mọi thứ đổ vỡ hết. Đấy, tôi nghĩ là tham vọng của Jeong
You-Joeng với 28: cô cố gắng miêu tả bức tranh một dịch bệnh từ góc nhìn rộng khắp, từ
trên cao xuống tới từng chi tiết, từng mặt, từng góc của nó, từng con người, từng con thú,
những khát vọng và bản năng của chúng, kể cả những dằn vặt nội tâm móc nối đến những
gì chúng làm trong quá khứ.
Chuyện bắt đầu từ khi một người phối giống chó tự dưng đổ bệnh, mắt đỏ quạch như
máu, sốt cao không dứt rồi lăn ra chết chỉ sau vài ngày. Góc nhìn xoay qua toán nhân viên
cứu hộ, trong đó có một anh rất điềm tĩnh, quả cảm và một anh khác được cho là có lịch
56 Z Z Z REVIEW
sử hành vi tàn bạo với thú vật và với người. Những hình ảnh đầu tiên về dịch bệnh được
truyền tải thông qua đôi mắt của một nữ y tá chăm chỉ và cô đơn, nhân vật gợi nhớ đến
xuất thân y tá của tác giả. Sau đó cùng với chiều đi lên nhanh chóng và tàn khốc của dịch
bệnh được tạm gọi là “Mắt đỏ”, góc nhìn xoay qua một vài nhân vật khác: một bác sĩ thú y
tai tiếng, cô phóng viên điều tra có ân oán cá nhân với anh này, hai con chó được anh kia
nuôi, cậu nhân viên cứu hộ tàn bạo kể trên. Mỗi nhân vật chủ thể của góc nhìn đó lại có liên
hệ với một vài nhân vật phụ khác: người em trong quân ngũ, người bố thích lo chuyện bao
đồng, người vợ và con gái, người em gái bị câm, các đồng đội, các đồng nghiệp, mẹ đồng
nghiệp, người bố độc mồ... Mỗi người trong số đó đóng một vai trò, dù là rất nhỏ, gần như
vô danh, trong toàn bộ chuyển biến của xã hội, qua đó tác giả phác họa nên hành động của
chính phủ, của thị trưởng, của ngành y tế, của quân đội, của báo chí, của bà con trên mạng
xã hội, của người chồng người cha, của người đang yêu và của chó đang yêu, của người vợ lo
âu ở nhà chờ chồng... Dịch bệnh biến Hwa Yang, một bed city của Seoul thành một vùng
giới nghiêm, bị bao vây bởi xe tăng và súng ống, nội bất xuất ngoại bất nhập. Con người
trong vùng giới nghiêm này chết đi từng ngày, từ một khu dân cư thành một vùng vô chính
phủ, rồi đến một vùng đất chết. Mối quan hệ giữa người và người, thiểu số và đa số, người
và chó, chó và chó qua đó được bộc lộ rõ và sâu sắc.
Cách kể chuyện từ ngôi thứ ba, không có nhân vật nào thật sự là chính; cách cắt cảnh
nhanh và đột ngột, các đường dây liên hệ từ nhân vật này sang nhân vật khác của Jeong
You-Jeong tạo cho người đọc cái cảm giác đang xem một series phim truyền hình. Thú vị ở
chỗ, nếu bạn xem nhiều phim truyền hình Hàn Quốc, đâu đó bạn sẽ nhận ra các vệt hóm
hóm, có xu hướng lãng mạn, nhất là khi tác giả kể về mối quan hệ tình cảm từ ghét thành
yêu giữa anh thú y và chị nhà báo, và giữa con chó hoang và chị chó nhà. Dù cho sống chết
nguy cấp kiểu gì, yêu thì vẫn cứ phải yêu, thoát làm sao cho được tấm lưới của ái tình, hả
em. Yêu và ghét, nó giống như một bản năng vậy. Để miêu tả bản năng rõ ràng hơn, đôi
khi tác giả nhân cách hóa các nhân vật chó, ban cho chúng khả năng biết tình yêu là gì, ban
cho chúng những hành động rất lãng mạn. Chó cũng biết thù và trả thù. Đôi khi trả thù là
cách để một sinh vật trút bỏ cái gánh nặng nó mang theo, tức là trả thù cũng là một cách
sinh tồn. Bản năng sinh tồn không chỉ nổi bật ở các nhân vật chó, mà còn ở các nhân vật
người. Con người, một loài trong suốt lịch sử của mình, liên tục bồi đắp cho yếu tố xã hội,
vẫn còn đó một khối bản năng nằm sâu bên trong. Đôi khi, độ dày mỏng của các lớp xã hội
bọc lên trên khối bản năng là thước đo chỉ dẫn ta đến cái kết luận rằng mỗi cá thể người là
tốt hay xấu. Trong khi phần lớn các nhân vật còn lại là mang một tông màu xám, nhân vật
anh cứu hộ tâm thần tàn bạo rất gần với màu đen. Anh này giết chó, thù chó, lừa lọc bạn
bè, bị tống vào nhà thương điên, đốt luôn cả nhà thương điên để trốn ra ngoài, tiếp tục đi
giết chó. Trong bối cảnh vô chính phủ, nhân vật này tung hoành. Trong khi các nhân vật
khác say sưa bảo đảm nghĩa vụ xã hội của mình, say sưa hoàn thành nhiệm vụ, say sưa bảo
58 Z Z Z REVIEW
anh nhân viên cứu hộ quả cảm phải trả đẩy bi kịch người-chó lên đến cực điểm. Chó, đối
tượng được cho là mang mầm bệnh, và là nguồn gốc truyền bệnh sang người trở thành mục
tiêu cần tiêu diệt. Ta thấy ở nửa sau của 28 nhiều cảnh hàng ngàn xác chó được đẩy xuống
các hố chôn khổng lồ, một cảnh tượng thảm khốc rất gợi hình.
Nhưng không chỉ có thể, bệnh “Mắt đỏ” còn truyền được từ người sang người, tức
là những người bị bệnh, ngoài kim tiêm và cháo, còn phải đối mặt với họng súng chĩa vào
mình từ phía những đồng loại còn khỏe mạnh. Chính phủ, một trong những đỉnh cao của
văn minh loài người, được tạo ra để duy trì sự ổn định, bảo vệ sự an toàn của một cộng đồng
người, trong cơn khủng hoảng, bèn hành động như một thực thể sống có tư duy của riêng
nó, được thôi thúc bởi nỗi sợ của những người còn sống. Toàn bộ Hwa Yang bị vòng vây
của quân đội phong tỏa, những chiếc xe chở lính chở theo trên đó người em trai của cô y tá
chăm chỉ cô đơn, người cô thỉnh thoảng đến thăm với một cái váy ngắn; túa về từ khắp nơi,
sẵn sàng giết bất kỳ đối tượng biểu tình bệnh tật nổi loạn nào cố gắng thoát ra bên ngoài.
Ở đây ta thấy cái câu hỏi khắc nghiệt ấy: số đông sẽ làm gì với đám thiểu số đang đe dọa
mình. Cái thiểu số tội nghiệp đang vật lộn với bệnh tật bên trong vòng vây bỗng ngước mặt
nhìn thấy cái chính phủ mình góp phần dựng lên quay lưng với mình, trở thành một mối
đe dọa bổ sung. Trật tự bị lật ngửa chỉ bằng một cú cắn của một con chó. Trước khi chết,
sẽ có nhiều người bệnh trong 28 nghĩ ý nghĩ cuối cùng của mình: liệu sự tồn tại của một
chính phủ có đáng hay không.
Sẽ rất khó để phân tích hết các theme trong 28, bởi khả năng kể chuyện của tác giả là
khá lão luyện. Các theme đan cài với nhau mạch lạc, cùng dẫn dắt nhau về một vấn đề chủ
chốt, đó là khi các xã hội an toàn ổn định nhiều quy tắc của chúng ta bỗng chốc sụp đổ, thì
điều gì sẽ diễn ra, khi đó, chúng ta có trở thành những sinh vật sống vô tổ chức giống như
bầy chó hoang hay không, và liệu sau khi cơn bạo loạn qua đi, chúng ta có còn tin tưởng
ở trật tự. Đọc 28, đối với tôi, ngoài thưởng thức một câu chuyện cực căng, còn là một dịp
quan sát cách xây dựng tiểu thuyết rất hiện đại của Jeong You-Jeong. Sở dĩ tôi không nêu
tên các nhân vật trong bài viết này là bởi vì tôi thích cái cách mà tác giả mô tả họ như những
con người bình thường, vô danh, làm những công việc bình thường, là một bánh răng
trong guồng máy xã hội. Từ họ, ta có thể lần theo các manh mối để có hình dung rõ ràng về
một giai đoạn lịch sử cụ thể, về cách vận động của một cỗ máy cụ thể, dù là giả tưởng. Khi
cái cỗ máy đó bước từng bước tới bờ vực hỏng hóc, liệu bánh răng nào vẫn còn quay tiếp
vòng quay nghĩa vụ của nó? Và, nếu nhìn vào bên trong mỗi bánh răng, chuyện nó còn quay
hay gãy, gãy vì áp lực bên ngoài hay tự thân chọn sự gãy, là phụ thuộc vào bản năng sinh tồn
của mỗi bánh răng đấy.
P/S: nghe album F♯ A♯ ∞ của Godspeed You! Black Emperor trong khi và sau khi đọc tiểu
thuyết này mang lại một trải nghiệm cảm giác tận thế và vô chính phủ rất thú vị.
“Tôi viết xong quá ồn một nỗi cô đơn khoảng năm 1976 và thực tế tôi đã làm
công việc giống như nhân vật Haňťa trong bốn năm 1954-1958. Nhưng kinh
nghiệm của thời gian đó quá mạnh tới mức khi viết tôi không phân biệt được
giữa mình và Haňťa nữa; chúng tôi đã hoà thành một... và ý tưởng cứ đeo bám
tới mức nhiều lúc tôi ngồi viết ngay trong ô-tô. Tôi đã chọn hình thức thơ tự
do, như Apollinaire, để viết phiên bản quá ồn một nỗi cô đơn đầu tiên. Tôi hoàn
tất sau một tháng, và khi cảm xúc dịu lắng tôi đọc lại những gì đã viết, tôi không
thích và lại ngồi xuống viết phiên bản quá ồn một nỗi cô đơn thứ hai gợi hứng
từ bản đầu, và tôi chen vào trang viết ngôn ngữ đường phố và tiếng lóng của
Prague, và quá ồn một nỗi cô đơn trở thành văn xuôi, kiểu văn nói. Và tôi lại sung
sướng khi viết phiên bản thứ hai, và khi viết xong, sau một thời gian băn khoăn
với bản văn và thấy rằng Haňťa tiếp nhận học vấn không có chủ đích, tôi thấy
nên thử phiên bản thứ ba, và theo kiểu văn viết học thức hơn. Thế là tôi lại hào
hứng bắt đầu phiên bản quá ồn một nỗi cô đơn cuối cùng, thỉnh thoảng tôi đọc
lại hai phiên bản kia, và tôi viết, viết rất lâu cho đến khi tôi tìm ra giọng điệu
của phiên bản này, chính là nó... Nhưng tôi sợ hãi cả ba phiên bản quá ồn một
nỗi cô đơn đó.”
(Bohumil Hrabal trả lời phỏng vấn dịch giả bản tiếng Ý Sergio Corduas ngày
14.09.1987)
Tôi đã rã rời khi về tới nhà nên để nguyên quần áo ngả người xuống giường, và nằm
vắt ngang đó dưới mái che là những dãy kệ chứa hai tấn sách, tôi nhìn lên xuyên qua ánh
sáng lờ mờ ngoài đường hắt vào và qua những khe hở trong các kệ sách, và khi mọi vật im
lặng như tờ tôi bắt đầu nghe tiếng răng chuột gặm, nghe chúng nhấm liên tục trên vòm trời
sách của tôi, và âm thanh rúc rích ấy khiến tôi kinh hãi, bởi vì chẳng bao lâu nữa chúng sẽ
làm ổ, và vài tháng nữa sau khi lũ chuột làm ổ chúng sẽ tìm được chốn an cư, và sáu tháng
sau chúng sẽ thành cả một ngôi làng, và theo cấp số nhân sẽ cùng phát triển trong vòng một
năm thành một đô thị, một đô thị chuột có khả năng gặm thủng những vách ván và xà nhà
hết sức tài tình tới độ chả mấy lúc - phải, thời gian không còn xa nữa - chỉ cần một tiếng
lớn giọng hay một động chạm vô tình là nguyên cả hai tấn sách đổ ập xuống đầu tôi và trả
thù tôi cho thoả vì bao nhiêu kiện giấy tôi đã nghiến bẹp lũ chuột bên trong. Dù vậy, tôi
vẫn nằm đấy, lơ mơ ngủ, chìm đắm trong tiếng gặm nhấm không ngừng trên đầu, và như
1. Arthur Schopenhauer (1788-1860), triết gia Đức là người đã đồng thời phản bác cũng như mở rộng tư duy triết học
của Immanuel Kant và xây dựng lý thuyết siêu hình.
62 Z Z Z REVIEW
thường lệ khi tôi thiếp đi, hoà vào giấc ngủ cùng tôi là cô gái di-gan bé bỏng mang hình hài
dải Ngân Hà, nàng di-gan lặng lẽ, vô tư là mối tình thanh xuân của tôi và từng đứng chờ tôi
với một bàn chân hơi đưa lên phía trước và đặt sang một bên, như tư thế cơ bản của người
vũ nữ ballet, người đẹp yêu kiều đã quên lãng từ lâu của tôi thời trai trẻ.
Người nàng đầy mồ hôi và một chất nhờn mùi sáp thơm xạ hương bao bọc những
ngón tay tôi ve vuốt, và nàng luôn mặc cùng một chiếc váy phía trước dính đầy nước xúp và
nước thịt và phía sau đầy những đốm mọt đục và vôi trắng do mang vác những tấm gỗ mục
nàng tìm được trong đống đổ nát. Tôi gặp nàng gần cuối cuộc chiến khi trên đường về nhà
từ quán Horky, nơi tôi đã làm mấy vại bia, nàng đã bám riết lấy tôi, đi theo không mời gọi,
khiến tôi phải ngoái qua vai trò chuyện, nàng không thử bước lên trước một lần, cứ khoan
thai lặng lẽ đi sau, và khi tới giao lộ đầu tiên tôi nói, À, tạm biệt, anh phải đi đây; nhưng
nàng nói nàng đang đi cùng hướng, khi đến cuối đường Ludmila tôi nói, À, tạm biệt, anh
phải về nhà thôi; và nàng nói nàng đang đi cùng hướng, thế là chúng tôi đi, tôi cố ý đi đến
tận Žertva rồi chìa tay ra cho nàng và nói, Giờ anh phải về nhà thôi; nhưng nàng vẫn em
đang đi cùng hướng, khi đã đến đường Na Hrázi, tôi nói anh đến nhà rồi và chúng ta phải
chia tay; và khi đã dừng chân dưới ngọn đèn khí đốt trước cửa nhà mình và đã nói, À, tạm
biệt thôi, đây là nơi anh sống; nàng vẫn là em cũng sống nơi đây, thế là tôi mở cửa rồi ra dấu
nhường cho nàng vào nhưng nàng từ chối bảo tôi đi trước, do hành lang tăm tối, tôi nghe
theo, đi xuống cầu thang vào sân trong rồi lên tới cửa phòng mình, và khi mở cửa, tôi quay
lại bảo, À, tạm biệt, đây là phòng của anh; và nàng nói đó cũng là phòng nàng, rồi nàng vào
trong, chia sẻ chiếc giường cùng tôi, và khi tôi thức dậy trên chiếc giường còn ấm hơi nàng
thì nàng đã ra đi. Nhưng hôm sau, và ngày ngày sau nữa, tôi vừa đặt chân vào sân nhà là đã
thấy nàng ngồi trên bậc cấp trước cửa phòng tôi và nằm dưới cửa sổ là mấy tấm gỗ trắng và
xà nhà cưa nhỏ, tôi mở khoá, nàng thường bật dậy như con mèo và chạy vụt vào phòng, cả
hai không ai nói một lời. Sau đó tôi đi mua bia với chiếc bình lớn năm lít, còn cô gái di-gan
sẽ nhóm chiếc lò gang cũ, lò cháy phừng ngay cả khi mở cửa lò, do phòng này từng là tiệm
thợ rèn có trần cao và một lò sưởi khổng lồ, và nàng sẽ làm bữa tối, lúc nào cũng chỉ một
món goulash khoai tây với salami thịt ngựa, rồi ngồi bên lò, châm củi đều, lửa nóng rực
khiến vạt áo nàng ánh vàng và mồ hôi ánh vàng trên đôi tay, trên cổ và trên gương mặt trông
nghiêng không ngừng biến đổi, còn tôi nằm trên giường, chỉ ngồi dậy giải khát bằng bình
bia, uống xong tôi đưa bình cho nàng, và nàng thường cầm chiếc bình lớn bằng cả hai tay
rồi uống say sưa tới mức tôi nghe tiếng cổ họng nàng máy động, nghe trong ấy một âm rền
rĩ khe khẽ như tiếng máy bơm đâu đó xa xăm. Ban đầu tôi nghĩ nàng cho quá nhiều củi vào
lò cho tôi hài lòng, nhưng sau đó tôi hiểu ra chính là lửa ở trong nàng, ngọn lửa thâm tâm,
nàng không thể sống thiếu lửa.
64 Z Z Z REVIEW
cho con diều vươn thẳng và đứng bất động giữa trời chỉ còn mỗi chiếc đuôi rập rờn chữ S,
và nàng di-gan đưa tay che mặt chừa hai con mắt, đôi mắt mở to ngỡ ngàng... Rồi chúng tôi
ngồi xuống và tôi giao nàng cuộn dây, nhưng nàng kêu lên sợ con diều sẽ kéo nàng bay lên
trời, nàng có cảm giác mình sẽ thăng thiên như Mẹ Đồng Trinh; thế là tôi đặt hai tay trên
vai nàng và nói nếu vậy chúng ta sẽ bay cùng nhau, nhưng nàng trả lại tôi cuộn dây rồi cả
hai cứ ngồi yên, đầu nàng tựa vai tôi, và đột nhiên tôi nảy ra ý định gửi đi một lời nhắn, tôi
lại giao con diều cho nàng di-gan, nhưng nàng lại điếng người bảo diều sẽ bay đi cùng nàng
và nàng sẽ không bao giờ gặp lại tôi nữa, tôi bèn cắm chiếc que xâu cuộn dây xuống đất, xé
một tờ trong tập giấy của tôi rồi gắn vào đuôi diều, ngay khi cuộn dây đã nằm lại trong lòng
bàn tay tôi, nàng bắt đầu thét lên với tay theo lời nhắn khi con diều giật mảnh giấy vút lên
trời cao, từng đợt gió luồn qua những ngón tay tôi rồi lan toả khắp người, ngay cả tôi cũng
cảm nhận ra lời nhắn đã chạm tới mũi diều, và bất ngờ tôi rùng mình toàn thân, bởi bất
ngờ cánh diều trở thành Chúa Cha và tôi là Chúa Con, còn sợi dây là Chúa Thánh Thần
sẽ cho con người tiếp xúc với Tối Cao, đối thoại cùng Thượng Đế. Và khi chúng tôi đã cho
diều lượn bay vài vòng nữa, nàng di-gan thu hết can đảm cầm lấy sợi dây, cũng run rẩy như
tôi run rẩy, run rẩy nhìn cánh diều run rẩy trong lồng lộng gió, rồi quấn sợi dây quanh ngón
tay, nàng hét lên niềm vui sướng ngất ngây...
Một tối tôi về nhà không thấy nàng đâu nữa. Tôi bật đèn sáng rồi cứ lui tới từ nhà ra
đường đến tận sáng, nhưng nàng không về, không về hôm đó hay hôm sau và mãi không trở
lại, dù tôi tìm kiếm khắp nơi. Cô gái di-gan bé bỏng như trẻ nhỏ của tôi, đơn giản như gỗ
mộc, như hơi thở Thiên Thần; nàng nào muốn gì hơn là châm bếp lò bằng những tấm ván
và xà gỗ to nặng, lấy từ những đống đổ nát, mà nàng mang trên lưng như mang thánh giá;
nàng nào muốn gì hơn là làm món goulash khoai tây với salami thịt ngựa, châm củi nuôi
ngọn lửa, và thả những con diều mùa thu. Sau này tôi biết nàng bị Gestapo bắt giữ và đưa
đi cùng một nhóm người di-gan đến tại tập trung, và nàng không bao giờ trở về, không rõ
đã chết thiêu ở Majdanek hay chết ngạt trong buồng hơi ngạt Auschwitz. Trời cao không
nhân đức, dù tôi lúc ấy nhân đức vẫn còn. Khi nàng không trở về sau cuộc chiến, tôi đốt
con diều và cuộn dây và chiếc đuôi dài nàng đã trang trí, cô gái di-gan nhỏ bé mà tên nàng
tôi đã quên.
Đến tận những năm 1950 gian hầm tôi vẫn chất cao những ấn phẩm Quốc xã, và
không có gì tôi thích thú cho bằng lèn chặt hàng tấn truyền đơn và tập sách của Quốc xã,
hàng trăm ngàn trang có in hình đàn ông, đàn bà, trẻ con tung hô, bô lão tung hô, công
nhân tung hô, nông dân tung hô, lính SS tung hô, binh sĩ tung hô. Tôi đặc biệt khoái trá
khi chất đầy máng ép với Hitler và tuỳ tùng tiến vào Danzig đã giải phóng, Hitler tiến vào
Bây giờ tôi đang nằm ngửa vắt ngang giường và một con chuột bé tí vừa rơi xuống
ngực tôi, trượt nhanh xuống sàn nhà, rồi cuống cuồng tìm chỗ nấp dưới gầm giường; có
lẽ tôi đã mang về nhà mấy con chuột trong cặp táp hay cả trong túi áo khoác nữa. Một mùi
hương thoảng từ dưới sân trôi dạt lên phòng; trời sắp mưa, tôi tự nhủ. Quá mệt vì công
việc và bia, tôi không thể nhúc nhích dù chỉ một ngón tay; đã hai ngày ròng tôi dọn sạch
gian hầm chấp nhận hy sinh những con vật nhỏ bé hèn mọn mà chúng nào muốn gì hơn
là nhấm nháp vài cuốn sách cũ và sống trong những hang hốc giấy loại, sinh ra những con
chuột khác và nuôi chúng trong những cái ổ ấm áp, những con chuột bé nhỏ nằm cuộn
tròn giống như nàng di-gan bé nhỏ nằm cuộn tròn cạnh tôi những đêm lạnh lẽo. Trời cao
không nhân đức, nhưng tôi cũng đã quên thông cảm và yêu thương.
66 Z Z Z REVIEW
Bohumil Hrabal:
Tiếng cười cận kề
cái chết(1)
James Wood
Đăng Thư dịch
“... có một bà thầy bói từng bói bài cho tôi và nói là nếu không vì một đám mây đen nhỏ
xíu lơ lửng trên đầu tôi thì tôi đã có thể làm nhiều chuyện lớn lao và không chỉ làm cho đất
nước mình mà làm cho cả nhân loại ấy chứ...” Điều gì vừa buồn cười vừa tuyệt vọng, nỗi
thống thiết hài hước nằm ở đâu trong câu văn ấy?
Ngay lập tức, một con người phơi mở trước mắt ta như một vết thương: có lẽ là một
người đàn ông (cái giọng điệu hơi huênh hoang ấy), khát vọng lớn lao nhưng bị dính chặt
vào một số phận hèn mọn, lập dị và có thể là khùng, một kẻ ba hoa, om sòm kể chuyện. Có
chất hí lộng, và một nỗi buồn, trong viễn cảnh một tham vọng lớn (“cho cả nhân loại ấy
chứ”) tới mức phải luôn vỡ mộng, và cũng hí lộng trong cái cách dễ dãi và thậm chí tự hào
mà nhân vật này chấp nhận mình tuyệt vọng: chẳng phải y cũng có chút hài lòng với “đám
mây đen nhỏ xíu” đã cản trở số phận đấy ư? - ít ra thì y cũng có chút danh tiếng đó chứ.
Do đó nhân vật này có thể là lớn lao không chỉ trong tham vọng riêng mà còn trong cách
y chấp nhận định mệnh. Và cái cụm từ “đám mây đen nhỏ xíu” há chẳng phải đã được viết
rất khéo đó sao? Nó ám chỉ một kẻ tự thấy mình ngon lành đến độ y tự nhìn bản thân như
một bình diện địa lý, như một vùng đất bị che phủ u ám đang trải qua một đợt áp thấp trên
bản đồ thời tiết châu Âu. Quan trọng nhất, “nhỏ xíu” là một từ tuyệt hay, vì nó hàm ý rằng
người đàn ông này, dù có lẽ kiêu hãnh về điều bất lợi của mình, nhưng cũng có thể khinh
thường chính điều đó, hoặc tin rằng y có thể gạt bỏ nó đi ngay bất cứ lúc nào cần và tiếp
tục làm những chuyện đại sự.
1. Tựa đề và các tiểu đoạn là của người dịch. Bài này lược dịch theo bài “Bohumil Hrabal’s Comic World” của nhà
phê bình James Wood đăng trên tạp chí The London Review of Books, Vol. 23 No. 1 - ngày 04.01.2001. Bài này sau
được James Wood đưa vào tập hợp tuyển phê bình The Irresponsible Self: On Laughter and the Novel (2004) của ông.
68 Z Z Z REVIEW
“gã nhỏ bé” dường như cứ vui vẻ lạc bước vào những sự kiện lịch sử lớn. Giống như việc
Svejk thuyết phục một tên mật vụ bắt giam chính anh ta và sau đó đưa ra mặt trận, anh bồi
bàn Ditie ngớ ngẩn đã trở nên giàu có của Hrabal đã tức điên lên khi hay tin tất cả các nhà
triệu phú trong nước đều đã bị đưa đi cải tạo nhưng không hiểu sao riêng anh ta còn sót
lại không bị bắt. Vì Ditie cả đời không hề mong muốn gì hơn là trở thành triệu phú, anh
chàng đi thẳng đến cảnh sát, mang sẵn sổ trương mục ngân hàng để chứng minh mình là
triệu phú và đòi phải được bắt giam ngay lập tức, và rốt cuộc cũng được toại nguyện. Vẻ ngu
ngốc bề ngoài của Svejk che giấu một trí thông minh luôn muốn gây trở ngại cho giới chức
trách nhưng lại tỏ ra như là chỉ biết phục tùng; tương tự như vậy, nhân vật Haňťa chuyên
cứu những cuốn sách khỏi cỗ máy ép giấy loại, trong quá ồn một nỗi cô đơn, cũng không chỉ
là một kẻ tự học thông thái vô dụng mà còn là một người nổi loạn nhỏ nhoi chống lại cả
một chế độ kiểm duyệt to lớn.
Giống như nhà văn Hasek, Hrabal luôn lắng nghe những câu chuyện phiếm trong
quán bia. Ông ngồi hàng giờ trong quán Zlatého Tygra yêu thích ở Praha, nghe những câu
chuyện tuôn trào theo bọt bia. Những ai quen biết Hrabal đều nhớ đến một người thích
được lầm tưởng là một khách uống bia hơn là một nhà văn, thích ngồi im nghe ngóng và
nhặt nhạnh - người ăn mày hào phóng của cộng đồng bia bọt. Ta có thể thấy nhà văn giữa
đám đông chuếnh choáng đang xem một trận bóng đá qua màn ảnh truyền hình trong lúc
nghe lóm Hrabal vừa bình luận trận đấu vừa trích dẫn Immanuel Kant hay những thần
tượng triết học của ông.
Hrabal, sinh năm 1914 ở Moravia, bắt đầu nghiệp văn chương bằng những bài thơ
chịu ảnh hưởng trường phái Siêu thực Pháp. Đầu những năm 1950, ông tham gia một
nhóm văn chương phi chính quy do nhà thơ Jiří Kolář (1914-2002) điều hành. Những bài
thơ xuôi của Hrabal lúc này trở thành những truyện ngắn nhưng ông không hề có ý đăng
tải xuất bản. Thay vào đó, ông đọc lên cho các bạn văn trong nhóm nghe. Có giai thoại rằng
một hôm Hrabal tình cờ nghe được có người hỏi Kolar, người thời đó chuyên bán búp bê:
“Kolar, còn chết nữa không?” Hiển nhiên câu hỏi đó là nói đến mẫu hàng con rối Thần
Chết, được ưa chuộng ở Praha, nhưng khi Hrabal nghe được thì câu hỏi ấy lại gợi ra một
lối viết văn mới, có thể cố tình cưỡng ép các yếu tố không đồng nhất cho chúng cọ xát, đối
chọi nhau theo một cách hài hước, tự nhiên, nảy sinh từ những sự việc bình thường của con
người chứ không phải những ý tưởng siêu thực hiển nhiên.
Hrabal bắt đầu thử nghiệm một văn phong tuôn chảy, không giới hạn, gần như một
hình thức dòng ý thức (ông ngưỡng mộ Joyce, Céline và Beckett) và cho các nhân vật
70 Z Z Z REVIEW
này, bởi vì chỉ có người Tiệp mới có thể nảy ra một ý tưởng như thế mà thôi.” Anh chàng
dốc tiền dành dụm ra và đặt may đo một bộ. Ditie đi đến Pardubice để nhận hàng, và “con
người nhỏ bé” này (thực tế là Ditie rất thấp lùn, và phải mang giày độn hai đế) choáng ngợp
trước quyền thế xã hội của những hình nộm số đo của công ty này: “Đúng là một cảnh
tượng huy hoàng. Lơ lửng trên trần nhà là thân người của các vị tướng và trung đoàn trưởng
và tài tử danh tiếng. Chính [tài tử] Hans Albers cũng đặt may đồ ở đây, cho nên ông ta cũng
ở trên đó...” Hrabal có lẽ đã nghe ai kể về một kế hoạch điên rồ của công ty có thật, nhưng
ông lấy câu chuyện đó và cho đi qua lăng kính điên rồ của nhân vật sống trong cõi mộng
này, và bằng cách đó, làm cho câu chuyện càng tăng thêm tính chất lạ lùng. Quyết định của
Hrabal có một ma lực giúp tạo hình cho chuyện kể, thêm màu sắc cho những bí ẩn, khiến
ta không những được biết qua phương pháp của công ty này mà còn được mời gọi mường
tượng ra một căn phòng đầy những phần thân trên lủng lẳng.
Có khi Hrabal cũng được gọi là một nhà văn đầy tính điện ảnh, có lẽ nhờ bộ phim
thành công được giải Oscar cho phim nước ngoài hay nhất năm 1968 dựa theo tiểu thuyết
Những đoàn tàu giám sát chặt của ông. Nhưng đặc tính tạo hình này, lạ thay, lại gây khó khăn
cho điện ảnh, bởi vì nó dễ lôi cuốn bộ phim dựng cảnh nhại theo mà thôi. Thế nhưng những
cảnh như thế trong văn chương của Hrabal lại có một yếu tố kỳ lạ là, dù đầy hình ảnh cụ
thể, chúng lại gần như mang trạng thái giả định, đó là trạng thái mộng mị. Theo nghĩa nào
đó, cảnh trên chẳng phải là giấc mơ của Ditie sao, bất kể thực tế là nó đã xảy ra rành rành?
Những miêu tả của Hrabal thường vừa rõ ràng vừa vô hình đầy mâu thuẫn. Một kiểu hư hư
thực thực. Ta có cảm tưởng như Harbal mời gọi độc giả không chỉ là để nhìn thấy những
thân hình nộm lủng lẳng, mà còn mường tượng về một kẻ đang mường tượng về những cảnh
này, một chiều kích ít nhiều khác biệt. Trong phương diện nào đó, Hrabal là một nhà văn
hiện thực huyền ảo thời kỳ đầu. Nhưng những câu chuyện huyền ảo của Hrabal lại đầy chất
hài hước và nhân văn - chúng thật sự khao khát được hiện thân cho con người. Và nghịch
lý thay, chính vì thế mà tác phẩm của ông lại không ăn bám vào tính hiện thực như nhiều
tác phẩm hiện thực huyền ảo khác. Chúng nương náu trong một địa hạt không tưởng, thế
giới của tiếng cười và nước mắt song song. Hài làm sao và cũng bi làm sao khi hình dung
cảnh Ditie trầm trồ trước danh tiếng của những thân hình nộm lủng lẳng, và cũng đẹp sao
khi thấy Ditie cũng cảm phục sự hiện diện của thân hình nộm ông chủ khách sạn Beránek,
chẳng kém gì đã kính nể các thân hình nộm của các tướng lĩnh và tài tử, diễn viên.
Hrabal không hề là cây bút phúng dụ hay nặng tính ý thức hệ. Tuy nhiên, tập truyện
đầu tiên của ông, Chim nhạn trên dây (Skřivánci na niti) vào năm 1959 đã in xong chỉ còn
một tuần nữa là phát hành lại bị tịch thu và tiêu huỷ. Bốn năm sau tập truyện này được sửa
chữa và xuất hiện lại dưới tựa đề Ngọc dưới đáy sâu (Perlička na dne - 1963). Tập truyện
này lập tức khiến tên tuổi Hrabal chói sáng trên văn đàn Tiệp Khắc và được hâm mộ chưa
từng thấy. Bài học khiêu vũ ra mắt năm 1964, Những đoàn tàu giám sát chặt một năm sau
Người hầu bàn cho vua chúa là một câu chuyện phiêu lưu lang bạt, khởi đầu vui nhộn
và kết thúc trong nước mắt và cô đơn, một cung bậc thăng trầm điển hình trong những tác
phẩm nổi tiếng nhất của Hrabal. Ở đoạn cuối, nhà triệu phú Dittie đã trở thành vô sản
và đi lao động đắp đường ở một vùng núi rừng biên giới. Tâm tình trong quán bia, Ditie
muốn khi chết sẽ “thành một công dân thế giới, với một nửa tôi trôi theo sông Vltava hoà
vào sóng Elbe rồi đi ra Biển Bắc, còn nửa kia theo sông Danube chảy vào Hắc Hải và cuối
cùng tan vào Đại Tây Dương.” Giống như người thuật chuyện trong Bài học khiêu vũ và
“đám mây đen nhỏ xíu” của y, Ditie đã mở rộng bản thân theo bình diện địa lý. Buồn cười
thay, nhân vật này đã hoàn thành giấc mơ Tiệp Khắc, vừa là một quốc gia tự thân vừa là
thứ gì khác lớn lao hơn cả một quốc gia - anh chàng là một công dân thế giới lưu động sau
khi chết. Chiều sâu của khát vọng này, cùng những biến cố hài hước ngăn trở khát vọng đó
chính là những chủ đề thường trực của Hrabal.
Chẳng hạn, động lực của nhân vật Haňťa, người thuật chuyện trong quá ồn một nỗi cô
đơn đã mơ ước được mặc quần lót ống dài bó sát mà chạy quanh đường đua ở Olympia để
hoàn thành giấc mơ của y về lý tưởng điền kinh Hy Lạp. Điều cảm động ở tất cả các nhân
vật này là khoảng cách tàn nhẫn giữa khát vọng của họ và những phương tiện hạn hẹp mà
họ thường phải bằng lòng chấp nhận. Hài kịch của Hrabal vì thế mà nghịch lý một cách
phức tạp. Khi phải giữ cân bằng giữa khát khao vô bờ và sự bằng lòng trong giới hạn thì
đó là một điều vừa có tính nổi loạn vừa có tính định mệnh, vừa bất an vừa minh triết. Các
72 Z Z Z REVIEW
nhân vật của Hrabal muốn được thành mọi thứ; nhưng họ không hề ý thức được tầm vóc
của những khao khát đó, và bằng lòng những điều ít ỏi hơn mà không hề biết là đang chấp
nhận số phận. Đó là kiểu hài kịch của kẻ bế tắc, của kẻ bị loại trừ, của kẻ bị lừa gạt, của kẻ bị
chối bỏ. Nên không có gì ngạc nhiên khi Hrabal có lúc nói rằng cội nguồn hài kịch của ông
nảy sinh từ một trong những vật tìm được tình cờ mà ông yêu thích nhất, một tờ biên lai
của tiệm giặt ủi có câu: “Một số vết nhơ chỉ có thể tẩy sạch bằng cách phá huỷ luôn chính
lớp vải may.” Hài hước của Hrabal là những nụ cười rưng rưng lệ. Và xét theo nghĩa đó,
Hrabal là nhà hài hước vĩ đại.
Và là nhà văn lớn. Tuyệt tác của ông, quá ồn một nỗi cô đơn, tái hiện một cung bậc còn
kịch liệt hơn, từ hăm hở ban đầu cho đến tuyệt vọng về sau. Bản thân từng làm công việc
ép giấy loại thành kiện trong nhà máy, Hrabal đã sáng tạo ra, qua nhân vật Haňťa, mẫu “kẻ
khùng” tinh tế nhất của mình. Cũng giống như nhân vật, nhà văn cũng đã cứu nhiều cuốn
sách thoát khỏi máy nén giấy loại, và mang về gom góp thành một tủ sách trong căn nhà
vùng quê ngoại ô Praha của ông. Vốn đọc rộng của Haňťa cho phép Hrabal sử dụng hết tài
nguyên tinh thần của nhân vật này, dù sử dụng một cách điên rồ, và kết quả là một dòng
văn xuôi tuôn chảy tự do uyển chuyển phi thường, một kiểu văn xuôi với nhiều nội cảnh
nằm trong nội cảnh, như những bức hoạ của các bậc thầy cổ điển Hà Lan - hay có lẽ với rất
nhiều tầng đáy đánh lừa ta. Hình tượng đó có thể là một miêu tả chân phương, phù hợp
cho tính chất Hrabal.
Thực tế là Haňťa bị mất việc vì sự xuất hiện ở ngoại ô Praha của một cỗ máy nén giấy
loại to lớn hơn, loại công nghiệp đại quy mô. Y đến xem và không thích chút nào. Rõ ràng
cỗ máy này không chỉ nén giấy loại, thỉnh thoảng có lẫn vào một cuốn sách bị vứt bỏ, như
cỗ máy ép nhỏ của y, mà nó nuốt chửng hàng nghìn cuốn sách. Xe tải xếp hàng dài chở sách
tới. Đó là một cỗ máy kiểm duyệt khổng lồ bằng kim khí, và là vật báo hiệu một thời đại
mới. Nhìn thấy cỗ máy đồ sộ này rồi thì Haňťa phản ứng thế nào? Y quay về cỗ máy nhỏ
một người điều khiển của mình, cố tăng sản lượng lên 50 phần trăm để khỏi mất việc. Như
thường thấy ở Hrabal, sự phê phán chính trị được trung hoà một cách ranh mãnh bằng
điều không đáng tin, trong trường hợp này chính là sự điên rồ của nhân vật thuật chuyện,
kẻ suốt 35 năm nén giấy loại và cứu vớt những cuốn sách, một kẻ cắp tư tưởng, tâm trí y là
một kiện nén chặt những ẩn dụ. Và lựa chọn huỷ diệt.
Đau yếu và tuyệt vọng, Bohumil Hrabal bị ám ảnh bởi “nỗi cô đơn ồn ào” của chính
mình, và bởi chính một ý tưởng mà ông đã viết trong một bút ký: “nhảy từ tầng lầu thứ
năm, từ căn hộ của tôi nơi mọi căn phòng đều đau đớn.” Ngày 3 tháng Hai 1997, nhà văn
đã ngã xuống từ tầng thứ năm của một bệnh viện trong lúc đang cố cho đàn bồ câu ăn.
Hình như đó là tai nạn.
74 Z Z Z REVIEW
Đã đào hất l ên đ ời
Những v ui b uồn tơ i tả
Nàng lạ i vé t cả l ên
Đắng cay và ng h iệ t ng ã
Và b ây g iờ m ệ t b ã
Hố thà n h sâu mất rồ i
Muốn trè o l ên vớ i đ ờ i
Càng le o lạ i càng tr ư ợ t
Nếu mà kh ông đư ợ c th ế
Đàn h n h ìn nàng muộn p h iền
Cá i hố nàng đào đấy
Chôn nàng g iấc b ìn h y ên
Đ ời sau a i qua lạ i
Trông dấu xư a đã m ờ
Ch ỉ c ó b ờ h o a dạ i
Hương p hảng p hất n hư th ơ
3-11-2010
Bài thơ này đã được in trong tập Cái hố,
NXB Văn học, 2018
76 Z Z Z REVIEW
Trạch Vĩnh Minh (1955-), sinh tại Thành Đô Tứ Xuyên, một trong những đại diện tiêu
biểu của nhóm nhà thơ trí thức, gương mặt xuất sắc của “Thơ ca thế hệ thứ ba” ở Trung
Quốc.
Giống như hầu hết các nhà thơ hàng đầu trong thơ ca Trung Quốc đương thời, những
năm tháng tuổi trẻ của Trạch Vĩnh Minh gắn liền với những sự kiện thảm khốc của Cách
mạng Văn hóa (1966-1976). Năm 1974, Trạch Vĩnh Minh tốt nghiệp trung học rời thành
phố về nông thôn để tham gia đội sản xuất công xã trong phong trào vô sản hóa. Khi trở về
thành phố vào năm 1976, Trạch Vĩnh Minh theo học Khoa công nghệ của Đại học Khoa
học Kỹ thuật Điện tử Thành Đô. Sau khi tốt nghiệp, bà làm việc tại Viện nghiên cứu Vật lý.
Thời gian này, bà dành phần lớn năng lực của mình để sáng tác, lấy cảm hứng từ những sự
kiện diễn ra trong văn học thời kỳ hậu Mao. Năm 1984, Trạch Vĩnh Minh hoàn thành tập
thơ đầu tiên Nữ nhân, bao gồm hai mươi bài thơ trữ tình với phong cách độc đáo xuất phát
từ lập trường nữ giới, làm chấn động văn đàn Trung Quốc bấy giờ. Nhìn chung, trong quá
trình 10 năm sáng tác, Trạch Vĩnh Minh luôn duy trì một sức viết và sức nghĩ mãnh liệt,
ở mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm quan trọng, gây được tiếng vang trên thi đàn Trung
Quốc. Hiện tại, Trạch Vĩnh Minh đang sống ở Thành Đô, sáng tác với tư cách một người
viết tự do và kinh doanh quán rượu “Đêm trắng”.
Từ 1984 đến nay, Trạch Vĩnh Minh đã sáng tác được 9 tập thơ và 5 tập tùy bút. Các tác
phẩm tiêu biểu của Trạch Vĩnh Minh có thể kể đến, như: Nữ nhân (thơ, NXB Lệ Giang,
1986); Trên những đóa hồng (thơ, NXB Thiểm Tây, 1989), Trạch Vĩnh Minh thi tập (thi
tuyển, NXB Thành Đô, 1994), Thơ trắng trong đêm đen (thơ, NXB Cách mạng, 1996), Gọi
tên vạn vật (thơ, NXB Văn nghệ Xuân Phong, 1997), Sức bền của hoa vỡ (tùy bút, NXB
Phương Đông, 1999), Cuối cùng tôi đã thoát khỏi vòng kiểm soát (NXB Văn nghệ Giang
Tô, 2000); New York, Tây New York (tùy bút, NXB Văn nghệ Tứ Xuyên, 2003). Tác phẩm
của Trạch Vĩnh Minh đã được dịch sang nhiều thứ tiếng: Anh, Đức, Nhật, Hà Lan...
78 Z Z Z REVIEW
Khát vọng
(In trong tập thơ Nữ nhân)
Có quá nhiều nơi không đủ sức để đi tới, bàn chân đang đau đớn, mẹ, người đã không dạy
con trong sự tham lam của ánh bình minh nhuộm lên nỗi buồn thương cổ xưa. Trái tim
con chỉ giống mẹ
người là mẹ của con, con thậm chí là giọt máu của người chảy ra từ hồ máu trong buổi ban
mai khiến người kinh ngạc mà tự nhìn lại mình, người làm con tỉnh dậy
nghe thấy âm thanh của thế giới, người sinh ra con, người khiến con cùng nỗi bất hạnh tạo
thành cái bào thai song sinh đáng sợ của thế giới này. Nhiều năm nay, con không nhớ nổi
tiếng khóc của bao đêm
ánh hào quang khiến người thụ thai kia, đến từ rất xa, thật khả nghi, đứng giữa sống và
chết, đôi mắt của người u tối bước vào bóng râm dưới lòng bàn chân nặng nề biết bao
trong vòng tay ôm của người, con nở nụ cười chân xác, có ai biết được
người khiến con bằng phương thức ngây thơ mà hiểu rõ mọi thứ, nhưng con lại thờ ơ
con coi thế giới này như một thiếu nữ đồng trinh, lẽ nào con gửi tới người một tiếng cười
nhẹ nhõm một mùa hè không đủ rực cháy sao? Lẽ nào không?
con bị bỏ rơi lại trên cõi trần, một mình, tia sáng mặt trời buồn bã bao phủ lấy con, khi mẹ
cúi gập thân mình giữa thế gian, người có biết người đã bỏ rơi lại gì chăng?
năm tháng đặt con vào một cái cối xay, khiến con tận mắt thấy mình bị nghiền nát
Ôi, mẹ, khi con cuối cùng trở nên câm bặt, người có hạnh phúc không?
80 Z Z Z REVIEW
không ai biết con đã yêu người tới mức viển vông, bí mật này
đến từ một phần của người, đôi mắt con dõi theo người như hai vết thương đau đớn
sống chỉ vì sống, con tự hủy diệt mình, chống cự lại tình yêu vĩnh hằng
một hòn đá bị quăng đi, cho đến khi giống một khúc xương khô, thế giới này
có một đứa trẻ mồ côi, khiến mỗi lời chúc phúc đều rành rành ra đấy, nhưng ai là người
hiểu rõ nhất
người nào đã từng đứng trong vòng tay của mẹ, cuối cùng có thể vì sinh ra mà chết đi
Em mềm mại như một chiếc lông vũ trắng trên mặt nước
Anh giữ em trong tay, em sẽ dung nạp cả thế giới này
Mặc một xác thịt phàm, dưới ánh mặt trời
Em chói lòa như thế, tới mức anh khó thể tin
Một tiếng kêu cứu, linh hồn cũng muốn ngoi ra khỏi bàn tay?
Nước biển trở thành máu huyết của em, khiến em
Vươn cao tới chân mặt trời lặn, có ai nhớ tới em?
Nhưng điều em nhớ, không chỉ là một cuộc đời
82 Z Z Z REVIEW
SÁCH MỚI LÊN KỆ PHAN BOOK
84 Z Z Z REVIEW
Sinh ra tại Detroit vào năm 1960, Jeffrey Eugenides đã sống qua những
tháng năm huy hoàng cuối cùng ở nơi là trái tim của ngành công nghiệp
ô tô Mỹ. Hai cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông The Virgin Suicides
(1993) và Middlesex (2002) đều bắt nguồn từ Detroit và vùng ngoại ô
Grosse Pointe, nơi ông đã trải qua gần hết thời niên thiếu. Hai khung
cảnh đó - một thành phố từng là niềm tự hào nhưng đang chết dần và
vùng ngoại ô giàu có của nó, riêng biệt mà gắn kết mật thiết - đã được
tái hiện một cách sống động như những nhân vật trong hai cuốn tiểu
thuyết. Câu chuyện trong The Virgin Suicides diễn ra ở Grosse Pointe
(“dải đất có nước bao quanh của chúng tôi đã được những nhà thám
hiểm người Pháp đặt tên là Mũi Béo”). Câu chuyện về 5 chị em gái và
cái chết kinh khủng của họ qua lời kể của 5 người vốn có thể đã là 5
người theo đuổi, sau nhiều năm vẫn bị ám ảnh vì vụ tự tử của những
cô gái ấy.
Việc sử dụng giọng kể ở ngôi thứ nhất, số nhiều trong The Virgin
Suicides là một nước cờ táo bạo của Jeffrey Eugenides, mạo hiểm không
kém sự lựa chọn một người liên giới tính để tường thuật câu chuyện
trong Middlesex. Được nuôi nấng như con gái, sau một tuổi dậy thì đầy
rắc rối và nhiễu loạn cùng vài chuyến viếng thăm một vị bác sĩ chuyên
gia đáng sợ ở Manhattan, Callie Stephanides quyết định bước qua lằn
ranh của giới tính và sống như một người đàn ông. Để hiểu mình là
ai - trong xã hội, trong bản ngã, trong nguồn gốc - người đàn ông Cal
ở tuổi trưởng thành không chỉ thăm lại những kí ức thời thơ ấu từ
những năm 60, 70 mà còn tái tạo lại, tốt nhất có thể (đôi khi rất hoành
tráng), lịch sử của một gia đình từ một ngôi làng hẻo lánh vùng cao của
Thổ Nhĩ Kỳ vào đầu thế kỷ XX đến thành phố Detroit phồn hoa trong
những năm thịnh vượng nhất của kỉ nguyên ô tô.
JEFFREY EUGENIDES
Đây là văn phòng mùa hè của tôi, gần như toàn là kính và trông ra vườn. Tôi từng
nghĩ nó sẽ là một văn phòng như mơ ước, nhưng thực ra lớp kính gây mất tập trung
lắm, nên cuối cùng tôi lại dùng một phòng ngủ ít ánh sáng ở trên gác. Leonardo
nói phòng nhỏ thì giúp tâm trí tập trung. Tôi cũng nhận ra là so với một văn phòng
đẹp đẽ, mình thích làm việc trong những căn phòng nhỏ, kín và ít đồ đạc hơn.
Nhưng không sử dụng căn phòng này thì tôi lại cảm thấy tội lỗi, vậy nên mùa hè
tôi sẽ xuống đây và cố làm gì đó hữu ích. Cảm ơn anh đã cho tôi cơ hội để sử dụng
văn phòng đẹp đẽ này của mình. Tôi không muốn thực sự viết ở những nơi dễ chịu,
thoải mái. Thậm chí tôi đã nghĩ tới chuyện chuyển lên tầng áp mái bởi đó là nơi
đơn sơ và cách biệt nhất trong ngôi nhà.
86 Z Z Z REVIEW
JEFFREY EUGENIDES
Hồi ở trường và cả khi ra trường rồi sống trong những căn hộ, tôi chỉ có một
phòng của riêng mình - phòng ngủ. Vậy nên tôi đã quen với việc viết ở chiếc bàn
học cách không xa chiếc giường là mấy. Một phần trong Middlesex là tôi viết ở
phòng khách. Khi chuyển đến Berlin, cuối cùng, chúng tôi cũng có một căn hộ
lớn hơn, và tôi ngồi viết ở một phòng ngủ dư ra. Chủ yếu tôi đã viết các cuốn
sách của mình trong các phòng ngủ của các căn hộ. Đây là ngôi nhà đầu tiên của
chúng tôi, vậy nên tôi đã có một văn phòng thực sự. Lúc ấy tôi cũng đã gần năm
mươi tuổi rồi.
JEFFREY EUGENIDES
Có chứ. Tôi cố gắng viết hằng ngày. Bắt đầu khoảng lúc mười giờ sáng và tới giờ
ăn tối, hầu hết các ngày. Đôi lúc cũng không năng suất lắm, và rất nhiều lúc xuống
tinh thần. Thỉnh thoảng tôi ngủ ngay trên ghế, nhưng tôi cảm thấy rằng nếu ở
trong phòng cả ngày, tôi sẽ hoàn thành được việc gì đó. Tôi coi nó như một công
việc văn phòng.
JEFFREY EUGENIDES
Không có gì đặc biệt cả. Chất xúc tác thường xuyên của tôi là trà hoặc cà phê. Cuối
mỗi cuốn sách, khi tôi đã quá kiệt sức, tinh thần mệt mỏi, đôi lúc tôi sẽ chuồn ra
sân và hút một điếu xì gà, có lẽ mỗi cuốn khoảng sáu, bảy lần như thế. Cái thói
quen xấu đó tôi đã có từ hồi ở Berlin.
JEFFREY EUGENIDES
Đấy là lý do nó được đưa vào đấy. Thỉnh thoảng, thay vì uống một lon Red Bull
như một chàng hai mươi tuổi, tôi lại viện đến phương pháp của Thomas Mann,
JEFFREY EUGENIDES
Tôi không bắt đầu với một ý tưởng và lên khung cho nó. Tôi không hiểu, làm sao
ta lại biết trước được chuyện gì sắp xảy ra trong một cuốn sách hay cuốn sách viết
về điều gì. Vậy nên tôi đành cắm cúi lao vào viết thôi, và sau một lúc, tôi bắt đầu
lo rằng tôi không biết mình đang làm gì hoặc mình sẽ đi đến đâu, vậy nên tôi bắt
đầu lên một khung sườn đại khái, nghĩ về chuyện có thể xảy ra trong cuốn sách
hay chuyện tôi có thể xây dựng cấu trúc cho nó như thế nào. Rồi cái khung đó
sẽ liên tục được chỉnh sửa. Tôi sẽ để nó ở đó, như một chiếc chăn bảo vệ vậy, để
khiến tôi cảm thấy dễ chịu hơn về những gì mình đang làm, nhưng chỉ để phòng
vậy thôi. Khi bạn viết, bạn sẽ liên tục khám phá ra thêm nhiều thứ và có thêm ý
tưởng xem chuyện này sẽ ra sao; và thông thường, sự ngạc nhiên khi nhận thức
được điều này cũng chính là điều khiến kết cấu truyện của cuốn sách gây ngạc
nhiên cho độc giả. Nếu ngay ngày đầu tiên bạn đã có thể nhìn thấy điều gì sẽ xảy
ra, thì độc giả cũng sẽ đoán được. Các ý tưởng càng phức tạp, các kết quả của câu
chuyện càng khó dự đoán, viết về điều đó thú vị hơn, và đọc về điều đó cũng thú
vị hơn.
JEFFREY EUGENIDES
Anh đào sâu về đối tượng nhất định nào đó thì tiết tấu đó sẽ xuất hiện. Trong
Middlesex, ông bà của người kể chuyện là người dệt lụa. Tôi rất thích viết về điều
đó và cái thị trấn quê hương của họ ở vùng Tiểu Á. Sau đó, khi tôi bắt đầu đọc về
lụa, tôi phát hiện ra truyền thuyết về nàng công chúa Trung Hoa đã phát minh ra
nghề dệt lụa. Đây là một câu chuyện thật đẹp, và dường như ngay lập tức, nó có sự
kết nối với câu chuyện tôi đang viết. Vậy nên khi bạn đang viết gì đó, đặc biệt là thứ
88 Z Z Z REVIEW
dài như Middlesex, tôi nghĩ Joyce đã nói thế này, tất thảy mọi thứ ở thế giới ngoài
kia đều liên quan đến câu chuyện của bạn. Bạn sẽ liên tục tìm thấy những điều có
ẩn dụ liên quan đến câu chuyện bạn đang viết. Dần dần, khi viết, bạn sẽ nhạy cảm
hơn, nhận thức rõ hơn về những liên kết đó, và rồi bạn nối chúng lại với nhau một
cách mạch lạc thành hệ thống, nhịp điệu. Với Middlesex cũng vậy, dải lụa trở thành
một hình ảnh ẩn dụ không chỉ cho sự chuyển hóa gene mà còn cho chính bản thân
nghệ thuật kể chuyện.
JEFFREY EUGENIDES
Đó là một sự ngẫu nhiên hết sức thú vị. Tôi đã hứng thú từ lâu với những câu
chuyện của mình về những người nhập cư Hy Lạp, vốn là nông dân nuôi tằm dệt
lụa mới chuyển đến Detroit vào những năm 30, thì tình cờ tìm được một bài báo
của Darryl Pinckney trên tờ The New York Review of Books về tổ chức Quốc gia
Hồi giáo này. Người đàn ông sáng lập ra nó có tên là W. D. Fard, nghe nói đến từ
vùng Cận Đông. Ông ấy là một người buôn lụa. Ông ta tuyên truyền những học
thuyết đầy sự thù địch sắc tộc và kiến tạo gene - và rồi ông ta xuất hiện ở đó, ngay
tại Detroit năm 1932. Ông ta cứ như thể van nài được trở thành một phần trong
cuốn tiểu thuyết, và chẳng bao lâu sau thì được như ý nguyện.
JEFFREY EUGENIDES
Tôi ra quyết định rất sớm, từ hồi lớp 11. Năm đó, chúng tôi đã đọc Chân dung
chàng nghệ sĩ trẻ, và nó có ảnh hưởng rất lớn đến tôi, vì những lý do mà bây giờ tôi
thấy khá bất ngờ. Tôi mang hai dòng máu Ireland và Hy Lạp, gia đình nhà mẹ tôi
đều là người Kentucky, những nông dân miền Nam, và gia đình ông bà nội của tôi
là những người nhập cư từ vùng Tiểu Á - và, vì lý do đó, tôi thấy mình giống như
Stephen Dedalus: mọt sách, con ngoan trò giỏi, và sở hữu một cái tên “kỳ dị, như
một người Hy Lạp cổ đại”. Joyce đã từng viết ở đâu đó rằng Dedalus coi tên mình
như một điềm báo cho số phận của anh ta, và tôi, ở tuổi mười sáu mộng mơ, cũng
JEFFREY EUGENIDES
Trong phòng khách ở ngôi nhà nơi tôi lớn lên có một giá sách rất lớn, được xây
âm vào tường. Cha mẹ tôi đã trưởng thành trong những hoàn cảnh khiêm tốn,
nhà mẹ khá thiếu thốn, đã luôn mong ước về những điều kiện tốt hơn cả về văn
hóa lẫn kinh tế. Và thế là họ trở thành mục tiêu khách hàng hoàn hảo cho những
người rao bán bách khoa toàn thư. Hồi đó, người bán hàng sẽ đến cửa nhà bạn rồi
ấn chuông, và bố mẹ tôi mời rất nhiều trong số họ vào nhà. Với 3 đứa con để nuôi
dạy, bố mẹ tôi đầu tư rất nhiều loại sách khác nhau: bộ sách Great Books, cuốn
Bách khoa toàn thư thế giới, bộ Modern Library v.v... Mẹ tôi vốn luôn mê đọc tiểu
thuyết, vậy nên chúng tôi cũng có rất nhiều sách đương đại. Giá sách khổng lồ như
một thứ quyền năng đối với đứa trẻ là tôi khi đó. Lên trung học, khi tôi đã nhận
thức rõ hơn về văn học, tôi nhận ra là nhà mình có rất nhiều tác phẩm kinh điển
trên giá sách, và thường là chưa được đọc. Tôi đã tìm thấy Ulysses theo cách đó, và
An American Tragedy, và ở hàng trên cùng của giá, Everything You Always Wanted
to Know About Sex. Trong lúc đó, ở trường tôi lại đang phải đọc Henry James. Tôi
ghét lắm. Và kết quả là James trở thành một trong những nhà văn yêu thích của tôi.
90 Z Z Z REVIEW
Tuy nhiên, tôi lên đại học mà chẳng biết gì nhiều. Cho đến những năm tuổi 20 tôi
mới trở thành một người đọc nghiêm túc. Những năm giữa tuổi 20 và 30, tôi đọc
ngấu đọc nghiến, đọc nhiều hơn bất cứ khoảng thời gian nào trong đời. Tôi chỉ
đang cố bớt ngu đi một chút.
JEFFREY EUGENIDES
Thời đại học, tôi yêu thích nhất là những nhà văn lớn thuộc chủ nghĩa hiện đại.
Joyce, Proust, Faulkner. Từ họ, tôi tiếp tục khám phá ra Musil, Woolf, và những
người khác nữa, và chả bao lâu sau tôi và các bạn lại đọc Pynchon và John Barth.
Thế hệ của tôi trưởng thành ngược. Chúng tôi bị ảnh hưởng sâu sắc bởi lối viết
thể nghiệm ngay cả trước khi đọc được nhiều về văn chương thế kỷ XIX, thứ các
nhà văn hiện đại và hậu hiện đại phản đối. Nó giống như học lịch sử hội họa mà
lại bắt đầu bằng trường phái Lập thể trước khi đi học về thời Phục Hưng của Ý.
Những năm đầu tuổi 20, lần đầu tiên tôi đọc Tolstoy và nhận ra mình đã bỏ lỡ
mất điều gì.
Tôi thích cách tư duy sống động không ngừng trong Joyce, phong thái sáng suốt
điềm đạm, những lối chơi chữ, cách vui đùa với ngôn ngữ. Tôi thích sự cụ thể, đặc
trưng trong những chân dung Dublin ông ấy khắc họa, và cả tính chất phản tư của
văn bản chủ nghĩa hiện đại. Nhưng tôi còn thích sự rõ ràng của Tolstoy hơn, và sự
chân thực, sự sống động của các nhân vật của ông. Tôi không hề thấy các phương
pháp của ông ấy là cũ kỹ hay sáo mòn. Tôi thấy nó vẫn đang truyền ý nghĩa tới tôi,
trực tiếp từ Yasnaya Polyana đến căn hộ tầng ba của tôi. Toàn bộ sự nghiệp từ trước
tới nay của tôi là một nỗ lực để hòa hợp hai thái cực này của văn chương, sự thể
nghiệm của những nhà văn hiện đại chủ nghĩa với lực trần thuật và tầm quan trọng
của nhân vật của các nhà văn hiện thực thế kỷ XIX.
JEFFREY EUGENIDES
Tôi khởi đầu sự nghiệp như một nhà thơ đấy chứ. Tôi viết thơ cả ở phổ thông và
đại học. Khoản tiền thưởng đầu tiên mà tôi nhận được từ việc viết lách chính là
phần thưởng cho giải nhì của một cuộc thi sáng tác thơ ở trường đại học. Bài dự thi
JEFFREY EUGENIDES
Không hẳn. Tôi có ý thức được rằng anh không nên viết về vùng ngoại ô, rằng
nó không đáng theo một cách nào đó, đề tài đó không đủ tầm quan trọng và
ảnh hưởng. Vậy nên, chính điều này đã khiến tôi không viết về vùng ngoại ô
trong một thời gian dài. Nhưng một khi tôi bắt đầu, tôi nhận ra rằng nó cũng
thú vị như bất kỳ địa điểm nào khác. Tôi đã viết suốt nhiều năm trước khi tôi
viết The Virgin Suicides nhưng kỳ lạ thay The Virgin Suicides lại là một trong
những cuốn đầu tiên tôi chọn quê hương mình làm bối cảnh, dù tôi không hề
nêu tên nó ra.
Như rất nhiều nhà văn trẻ, khi bắt đầu, tôi chỉ có một khái niệm rất mơ hồ về
tư liệu của mình. Tôi đã viết về những con người và những nơi chốn xa xôi, khác
biệt hẳn so với con người và nơi chốn tôi biết. Sau đó, tương tự như vậy, nếu tôi
cố gắng viết về bản thân mình, kết quả hết sức mù mờ, bởi lý do đơn giản là tôi
đã không hiểu rõ về bản thân mình. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi bắt đầu viết The
Virgin Suicides, tôi bỗng nhiên nhận ra rằng tôi đã biết rất nhiều, không phải về
những không gian tâm lý của tôi mà là về thị trấn nơi tôi lớn lên. Tôi biết mọi thứ
về những người sống trên con phố cũ của nhà tôi. Tôi nhớ sự kỳ lạ của họ, lịch sử
gia đình họ, những thị phi và những lời đồn. Tôi nhớ thời tiết nơi đây, nhớ những
huyền thoại của vùng đất này, những căng thẳng sắc tộc, hệ động vật và thực vật.
Tôi không còn cảm thấy xấu hổ vì là dân ngoại ô đến từ Trung Tây. Tôi coi nó như
quận Yoknapatawpha của riêng mình, và lần đầu tiên, viết ra thứ gì đó hấp dẫn với
người đọc trưởng thành.
92 Z Z Z REVIEW
NGƯỜI PHỎNG VẤN
Vùng ngoại ô vốn được coi là nơi an toàn, bình lặng nhưng tất nhiên vẫn có những
thôi thúc, bốc đồng rất bản năng và con người, đặc biệt là nguồn năng lượng nổi
loạn của thanh thiếu niên giữa không gian này. The Virgin Suicides diễn ra trong
bối cảnh của những câu chuyện này. Bối cảnh này sinh ra một kiểu khát khao mong
đợi, và tất nhiên, cả sự thất vọng của nó.
JEFFREY EUGENIDES
The Virgin Suicides cũng là về thành phố, về Detroit theo một cách gián tiếp nhưng
quan trọng. Phải mất nhiều năm sau khi hoàn thành cuốn sách tôi mới hiểu được
điều này. Khi tôi sinh ra, Detroit vẫn là thành phố lớn thứ 4 nước Mỹ. Dân số khi
đó vào khoảng hơn 1 triệu người. Nhưng mọi người đã bắt đầu rời đi, và vào năm
1967, và khi bạo động xảy ra, cơn rả rích đã biến thành một cơn lũ. Cả tuổi thơ của
tôi diễn ra trong thời kỳ suy thoái của Detroit. Tôi lớn lên và chứng kiến nhà cửa,
đất đai tan rã rồi biến mất. Cảm giác của tôi về thế giới thấm đẫm sự tiếc nuối, và
xót xa - kết quả từ những trải nghiệm trực tiếp về sự mong manh và phù du của thế
giới vật chất. Đó chính là những điều tôi thực sự viết về. Tôi đã tưởng tượng ra một
gia đình với những người chị em tự sát, 5 cuộc đời ngắn ngủi và tôi sẽ đặt họ vào
một bầu không khí của sự đổ nát và suy tàn - những nhà máy sản xuất ô tô đang
chết dần, những hàng cây du đang chết dần - nhưng nguồn gốc của tất cả những
điều này, xét trên những lý thuyết về tâm lý hay chỉ xét trên cảm xúc đơn thuần,
đều có liên quan đến sự tồn tại ngắn ngủi của mọi thứ mà tôi biết khi còn là một
đứa trẻ.
JEFFREY EUGENIDES
Đúng vậy, tôi bắt đầu với “chúng tôi”. Trong bản nháp đầu của chương 1, tôi đã để
một cậu bé thay lời cho tất cả. Anh Donald Antrim đã đọc nó và cho tôi một lời
khuyên rất hữu ích. Anh ấy nói, “Tại sao cậu lại dùng đúng một chữ ‘tôi’ sau khi tất
cả nội dung là ‘chúng tôi’? Thật sự không cần thiết như thế.” Và anh ấy nói đúng.
Toàn bộ câu chuyện là về “chúng tôi” ngoại trừ một hoặc hai ví dụ. Tôi dùng giọng
“chúng tôi” nhưng tôi lại không hoàn toàn tin tưởng nó. Và Don đã cho tôi sự tự
tin để làm vậy.
JEFFREY EUGENIDES
Trong cuốn How Fiction Works, James Wood viết, “Ngôi nhà hư cấu có rất nhiều
cửa sổ nhưng chỉ có 2 hoặc 3 cánh cửa ra vào. Tôi có thể kể một câu chuyện ở ngôi
thứ ba hoặc ngôi đầu tiên, và có lẽ cả ở ngôi thứ hai số ít, hoặc ngôi thứ nhất số
nhiều, dù những ví dụ thành công của hai kiểu sau thực sự rất hiếm.” Chúng thật
sự rất hiếm, và theo đúng nghĩa như thế, The Virgin Suicides được đánh giá như
một thể nghiệm. Ngôi thứ nhất số nhiều rất hiếm khi tôi dùng nó hồi năm 1993.
Tôi chỉ biết 2 ví dụ - Bông hồng cho Emily của Faulkner và Mùa thu của bậc trưởng
lão của Gabriel Garcia Marquez. Gần đây, rất nhiều nhà văn đã sử dụng ngôi này,
thường xuyên như tôi đã dùng, trong các tiểu thuyết về tuổi thơ và thời thanh
thiếu niên. Một giọng kể cho phép bạn nói những điều mà nếu không dùng nó bạn
sẽ không thể dùng được. Nó giải phóng bạn khỏi nhà tù của cái tôi và những giới
hạn của suy nghĩ thành lối mòn. Một trong những bí ẩn lớn nhất và cũng là vui thú
đáng kể nhất của việc viết văn hư cấu là sự khám phá ra một giọng nói mở ra con
đường dẫn tới những tri thức, phiếm chỉ nhưng vẫn cụ thể.
JEFFREY EUGENIDES
Những năm 80, tôi có đọc được cuốn Herculine Barbin: Being the Recently
Discovered Memoirs of a Nineteenth-Century French Hermaphrodite của Michel
Foucault. Câu chuyện khiến tôi tò mò. Tôi muốn biết là Herculine thì sẽ như thế
nào. Thật không may, bà ấy lại không thể tự miêu tả đời mình một cách chi tiết
như tôi mong muốn. Cuốn hồi ký rất tránh nói về cấu trúc giải phẫu học của
Herculine. Phong cách viết rất bi tráng. Herculine là nữ sinh trường dòng, và cô ấy
viết về tình dục một cách dè dặt và thiếu hẳn những suy tư về tâm lý mà bạn có thể
sẽ mong đợi. Cuốn hồi ký đó khiến tôi bực mình. Tôi muốn nó khác đi. Vậy nên
tôi quyết định tự mình sẽ viết một cuốn.
Còn những trường hợp trước đó thì rất rõ ràng rồi - những huyền thoại cổ đại, đặc
94 Z Z Z REVIEW
biệt là Hóa thân của Ovid và Orlando của Woolf. Không giống những ví dụ đó,
tôi không muốn viết chuyện về một nhân vật đẹp đẽ có thể thay đổi giới tính một
cách kỳ diệu. Tôi muốn viết về một con người thực sự gặp phải vấn đề này, và tôi
muốn các thông tin sinh học chính xác nhất có thể. Với mục đích đó, tôi bắt đầu
nghiên cứu tại Thư viện Y học ĐH Columbia và đọc về những tình huống đa dạng
của cái được người ta gọi là tình trạng lưỡng giới tính giả. Tình huống mà tôi chọn
cho người kể chuyện của mình - hiện tượng thiếu hụt enzim 5-alpha-reductase (5-
ARD) - cực kỳ hợp với mục đích của tôi. Những người sinh ra với tình trạng này
- lúc mới sinh thì là nữ giới nhưng đến lúc dậy thì lại phát triển rất mãnh liệt các
đặc điểm của nam giới. Tuy nhiên, thông tin đáng chú ý nhất về tình trạng này là
nó là kết quả của một đột biến lặn. Ngay khi tôi biết được điều này, toàn bộ cuốn
sách thực sự đã trở thành một điều gì đó khác biệt. Thay vì là một cuốn hồi ký hư
cấu ngắn gọn giống như một Herculine Barbin nữa, cuốn sách sẽ là câu chuyện về
một gene đột biến được truyền qua ba thế hệ trong một gia đình, cho tới khi 2 bản
sao của gene này rơi vào nhân vật người kể chuyện của tôi, và từ đó đem tới cho anh
ta một cuộc đời bất thường, nhưng rất thuyết phục và chân thực.
JEFFREY EUGENIDES
Di truyền học đưa tôi trở về trước đó vài thế hệ, và tất nhiên, bước vào quá khứ. Bởi
hội chứng thiếu hụt 5-ARD chỉ xảy ra với các nhóm dân cư nội phối và cô lập, tôi
nghĩ ra ý tưởng bắt đầu cuốn sách với những người Hy Lạp sống trong một ngôi
làng nhỏ ở vùng Tiểu Á.
JEFFREY EUGENIDES
Vào lúc đó tôi đã biết nó sẽ là một cuốn khôi hài dài như sử thi. Tôi mất rất nhiều
thời gian để có được tông giọng đúng cho nó nhưng tôi biết trong tay mình đã có
một cuốn sách lớn.
Một điểm cuối cùng nữa - mọi người thường hỏi tôi tại sao lại chọn tường thuật
một cuốn tiểu thuyết từ góc nhìn của một người liên giới tính, và câu trả lời của tôi
JEFFREY EUGENIDES
Tôi không nghĩ theo kiểu đây là góc nhìn của nam giới hay nữ giới. Tôi luôn nghĩ
theo những cá nhân. Tôi chưa bao giờ viết về “phụ nữ”. Tôi viết về một người phụ nữ,
hoặc một người đàn ông, hoặc một người liên giới tính. Văn học hư cấu nên đi theo
hướng cụ thể chứ không phải khái quát, bởi con người là những cá thể riêng biệt.
JEFFREY EUGENIDES
Suy nghĩ rập khuôn hay cho rằng nam giới thì viết theo phong cách logic, thẳng
thừng, tiến triển còn nữ giới thì viết theo phong cách trực giác, lòng vòng. Chà,
những miêu tả đầu tiên phù hợp với Flannery O’Connor và những miêu tả thứ hai
hợp với Proust. Vậy nên tôi không nghĩ sự phân biệt này có ích gì mấy.
JEFFREY EUGENIDES
Tôi phải nói lại rằng, với Middlesex, tôi đã cố gắng viết cụ thể nhất có thể. Tôi phân
tích Cal như một bác sĩ. Cal có nhiễm sắc thể XY. Bẩm sinh và ở tuổi dậy thì, anh
ta vẫn có mức độ hormone testosterone bình thường trong tử cung. Nếu những thứ
này ảnh hưởng đến phản ứng hóa học tại não bộ, và nếu, đến lượt mình, những ảnh
hưởng này dẫn đến một khung ngôn ngữ định nghĩa được nam và nữ - thì một lần
nữa, vấn đề vẫn chưa thể kết luận chắc chắn - khi đó Cal sẽ có cái giọng được-coi-là
nam, bất kể điều đó có nghĩa là gì. Tất cả những gì tôi cần làm là tạo ra một giọng
điệu mà chỉ riêng Cal mới có. Tôi không cần phải tỏ ra là nữ tính hay lưỡng tính,
điều này cũng tốt, bởi dù sao tôi vẫn còn hoài nghi về những cách phân loại đó lắm.
96 Z Z Z REVIEW
NGƯỜI PHỎNG VẤN
Ông có nhận được phản hồi nào từ những người liên giới tính không?
JEFFREY EUGENIDES
Khi cuốn sách được ra mắt lần đầu tiên, tôi đang có một buổi đọc sách ở Portland,
Oregon, và có một nhóm nhỏ những người thuộc Hiệp hội người Liên giới tính
vùng Bắc Mỹ tụ tập trước cửa. Họ tức giận vì tôi đã dùng từ hermaphrodite (lưỡng
tính), một từ mà theo họ là có ý miệt thị. Sau buổi đọc, tôi đã thảo luận với họ và
chúng tôi đã thống nhất được quan điểm.
Tôi đồng ý rằng sẽ không bao giờ gọi bất cứ ai, một thực thể có sự sống nào, là một
người lưỡng tính. Tôi cam kết sẽ truyền bá sự phân biệt này bất cứ khi nào và nhiệt
tình nhất có thể. Tuy nhiên, tôi bảo lưu quyền dùng từ lưỡng tính khi nói về các
nhân vật văn học và thần thoại, ví dụ như Tiresias. Thuật ngữ lưỡng tính đã có một
lịch sử lâu dài và sẽ thật là sai lầm nếu ta biến nó thành một từ bất-khả-xâm-phạm.
Những người biểu tình này cho rằng quan điểm của tôi là hợp lý và từ đó không
buổi đọc sách nào của tôi bị biểu tình phản đối nữa.
Sau khi cuốn sách được công chúng biết đến, tôi bắt đầu nhận được thư từ những
độc giả là người liên giới tính, tất cả họ đều rất tích cực. Rồi sau đó, tôi được mời
đến chương trình của Oprah, và chương trình chủ yếu tập trung vào vấn đề này.
Vừa mới tuần trước, một người đã đến tìm tôi trong một buổi đọc và thì thầm vào
tai tôi rằng anh ấy là một người mắc hội chứng thiếu hụt 5-ARD. Anh ấy là người
đầu tiên tôi gặp mà mắc hội chứng hiếm như vậy. Anh ấy trao cho tôi một lá thư,
cảm ơn tôi đã viết Middlesex. Anh ấy nói rằng cuốn sách đã cứu vớt cuộc đời mình
thời trung học. Anh này còn nói thêm rằng, ngoài sự cảm ơn đối với tôi, đôi lúc
anh ta lại cảm thấy tức giận vì anh ta cảm thấy tôi đã viết cuốn sách mà lẽ ra bản
thân anh ta mới nên là người viết nó.
JEFFREY EUGENIDES
Khó, bởi tôi thường không thích tiểu thuyết lịch sử. Tuyên bố rằng mình có thể
hiểu và tái hiện một khoảng thời gian đã mất, khoảng một thế kỷ trước khi mình
sinh ra, ít nhất, là một hành động ngông cuồng. Và rồi còn chuyện giọng tường
thuật của rất nhiều cuốn tiểu thuyết lịch sử nữa. Họ cố gắng nghe có vẻ hoài niệm,
JEFFREY EUGENIDES
Tôi đã tới đó năm 1985 mà không nhận ra tầm quan trọng của nó. Lúc đó, tôi
chẳng biết gì nhiều về lịch sử của ông bà mình ở Thổ Nhĩ Kỳ. Chỉ khi quyết định
viết về một ngôi làng Hy Lạp ở gần Bursa thì tôi mới bắt đầu tìm hiểu về nó. Cuối
cùng, nhiều năm trời sau khi hoàn thành Middlesex, tôi mới tới thăm ngôi làng
quê hương của ông bà tôi.
JEFFREY EUGENIDES
Cuốn sách chứa đầy những kí ức vang vọng, những sự lặp lại, giống như bao cuốn
sách về gene khác. Trận đại hỏa hoạn Smyrna gây ra một khó khăn khác cho tôi khi
viết những đoạn về lịch sử, đó chính là tôi chẳng biết gì cả. Tôi ở Yaddo khi tôi viết
về Smyrna và cuốn sách không tiến triển được chút nào. Tôi đang cố gắng tái hiện
lại thành phố và đám cháy hoàn toàn từ những tưởng tượng của tôi. Một ngày, tôi
đã tuyệt vọng. Tôi định sẽ từ bỏ toàn bộ cuốn sách thì tôi phát hiện ra một cuốn
sách trên chiếc bàn trong căn biệt thự. Cuốn sách do Marjorie Housepian Dobkin
98 Z Z Z REVIEW
viết và có tên Smyrna 1922. Cuốn sách đó đã dạy tôi mọi điều tôi cần về trận hỏa
hoạn của Smyrna, nó dạy tôi bắt tay vào nghiên cứu nghiêm túc hơn. Trí tưởng
tượng thôi thì chưa đủ.
JEFFREY EUGENIDES
Không phải ai cũng nghĩ rằng tôi xây dựng và phát triển nó thành công. Tôi còn
nghe nói rằng một vài người đã gập ngay cuốn sách lại khi đọc đến đoạn đó. Tuy
nhiên, loạn luân cần thiết cho cả câu chuyện. Tôi cần kịch hóa vấn đề nội phối.
Chuyện nội phối diễn ra chậm chạp, vô hình qua hàng thế kỷ nay. Tôi phải làm nó
diễn biến nhanh hơn, vậy nên tôi để một người em trai và một cô chị gái phải lòng
nhau.
Zeus và Hera, tất nhiên, cũng là anh em đấy thôi. Middlesex mở đầu như một
câu chuyện cổ tích. Ý tưởng là có thể khiến cuốn sách này tóm gọn lại DNA của
Tiểu thuyết. Vì vậy, nó bắt đầu với những sự kiện lịch sử và trở nên, ở nửa sau của
cuốn tiểu thuyết, hiện đại hơn, tâm lý hơn, thực tế hơn. Chuyện loạn luân xảy ra ở
những phần như ngụ ngôn, như thần thoại trong cuốn tiểu thuyết. Nó không có
độ thực tế đến mức có thể khiến người ta cảm thấy bị xúc phạm. Vậy nên, đúng,
anh nói đúng. Tôi đã cố gắng xây dựng và phát triển yếu tố dễ gây tranh cãi này và
xử lý nó một cách nhẹ nhàng.
JEFFREY EUGENIDES
Tất cả những gì bạn có thể yêu cầu là người điểm sách sẽ bình luận về cuốn sách
bạn ĐÃ viết, chứ không phải cuốn sách họ TƯỞNG bạn đã viết. Một số người
điểm sách mang theo cả ý kiến cá nhân của họ vào tác phẩm của bạn. Ví dụ, một
số nhà phê bình thấy không vui vì Cal phát hiện ra nhân dạng nam của mình chủ
JEFFREY EUGENIDES
Nhà văn nhận thức khá rõ những khuyết điểm trong các cuốn sách của họ. Chúng
tôi biết chúng tôi chưa thành công ở điểm nào và chúng tôi nên làm gì để lần sau
tốt hơn.
100 Z Z Z REVIEW
Bà đến từ
Mariupol
(trích dịch)
Natascha Wodin(1)
Hoàng Đăng Lãnh dịch và giới thiệu
Nữ nhà văn Natascha Wodin, sinh năm 1945 tại Fürth, bang Bayern CHLB Đức, trong một
gia đình người Ukraine (thuộc Liên bang Xô viết trước đây) bị bắt năm 1944 sang nước
Đức quốc xã làm nhân công lao động cưỡng bức. Bà lớn lên trong các trại dành cho người
di cư trước khi chuyển vào ở nội trú tại một trường nữ sinh trực thuộc Giáo hội Thiên chúa
giáo cho đến khi trưởng thành. Sau khi tốt nghiệp trường chuyên ngữ, bà chuyển sang viết
văn và biên dịch.
Chiến tranh chưa kết thúc được bao lâu thì mẹ bà qua đời mà không để lại mấy thông
tin về nguồn gốc gia đình bà. Phải hơn năm chục năm sau, Natascha Wodin mới bắt tay lần
tìm lại tông tích mẹ mình tại Ukraine thuộc Liên Xô xưa kia. Kết quả công cuộc tìm kiếm
hết sức khó khăn đó là câu chuyện trong tác phẩm Bà đến từ Mariupol, câu chuyện soi rạng
số phận bi thảm và cảm động của một gia đình tiêu biểu cho số phận hàng triệu gia đình
khác ở một giai đoạn lịch sử mà các chấn động của nó cho đến tận giờ vẫn chưa hết dữ dội
đau thương. Tác phẩm này của Natascha Wodin nhờ đó đã trở thành một sự kiện văn học
ở Đức và được trao nhận nhiều Giải thưởng, như Giải thưởng văn học Alfred Döblin, Giải
thưởng Hội chợ sách quốc tế tại Leipzig (CHLB Đức) năm 2017, v.v.
Lúc gõ tên họ mẹ tôi vào công cụ tìm kiếm trên trang web của Nga, tôi cũng chẳng khác nào
muốn thử một trò chơi cho vui vậy thôi. Suốt cả mấy chục năm nay rồi, tôi đã cố cách này
cách khác nhằm dò ra các vết tích mẹ tôi để lại ở đời, tôi hết viết thư nhờ cậy Hội Chữ thập
đỏ và các cơ quan làm dịch vụ tìm kiếm người thân ở chỗ này chỗ kia, lại dò hỏi các phòng
lưu giữ hồ sơ có tăm có tiếng cũng như vài ba cơ sở nghiên cứu có tầm có cỡ tại nơi này nơi
khác, tôi cũng gửi thư hỏi dò ở những người chẳng chút quen biết nào ở tận bên Ukraine và
Moskva, tôi lục lọi cả trong những danh mục hay những hồ sơ lưu trữ đã bạc thếch vì năm
tháng ghi danh tính các nạn nhân, nhưng tôi chưa bao giờ tìm thấy vết tích gì, dù chỉ là vết
của vết thôi, hay một bằng chứng mỏng manh nào về cuộc đời mẹ tôi ở Ukraine, quãng đời
mẹ trước khi tôi mở mắt chào đời.
Dạo Thế chiến hai, mẹ tôi mới hai mươi ba tuổi, cùng với bố tôi bị bắt và lùa từ
Mariupol sang Đức làm nhân công lao động cưỡng bức, và tôi chỉ biết hai người từng
phải vào làm tại một xưởng quân giới thuộc tập đoàn Flick ở Leipzig. Mười một năm sau
chiến tranh, mẹ tôi tự vẫn, qua đời tại một thành phố nhỏ ở đất Tây Đức, một thành phố
nằm không xa khu định cư của dân nước ngoài vô quốc tịch, một danh hiệu dạo ấy người
ta vẫn dùng để gọi đám dân hôm xưa bị bắt sang Đức làm nhân công lao động cưỡng bức.
Ngoài em tôi với tôi, có lẽ chẳng còn ai trên đời này biết đến mẹ tôi. Mà đến ngay cả em
gái tôi với tôi, thật ra cũng chẳng biết gì về mẹ nốt. Hồi ấy, khi mẹ tôi, vào một ngày tháng
Mười nào đấy trong năm 1956 không nói không rằng bỏ nhà ra đi rồi không quay về nữa,
thì chúng tôi vẫn còn là trẻ con, em gái tôi mới tròn bốn tuổi, tôi lên mười. Trong trí nhớ
tôi, mẹ chỉ thấp thoáng như một cái bóng, như một cảm giác mơ hồ thì đúng hơn là một
kỷ niệm.
Đúng ra thì từ lâu, tôi đã thôi, không tìm mẹ tôi nữa. Mẹ tôi sinh ra hơn chín mươi
năm về trước và cũng chỉ sống có ba mươi sáu năm, những năm tháng không hề bình
thường, mà là những năm tháng nội chiến, những năm tháng thanh trừng nội bộ và nạn
đói lan tràn trên đất Liên Xô, rồi những năm tháng của Thế chiến hai và chế độ Quốc xã.
Mẹ tôi rơi vào giữa nanh vuốt của hai nền độc tài, nền độc tài dưới trướng Stalin ở Ukraine
trước, rồi đến nền độc tài dưới trướng Hitler ở Đức. Hàng chục năm sau, giữa cả một đại
dương mênh mông tràn ngập những nạn nhân đã bị lãng quên này mà tôi lại mong ước lần
tìm dấu tích một phụ nữ trẻ tuổi, một người mà ngoài họ tên, tôi chẳng biết gì nhiều hơn
ấy, thì quả thực là rất viển vông vậy.
Vậy mà, vào cái đêm hè giữa năm 2013 ấy, khi tôi đưa tên họ mẹ tôi vào trang web của
Nga, thì công cụ tìm kiếm độp ngay cho tôi một kết quả. Nhưng rồi tôi cũng chỉ sững sờ
102 Z Z Z REVIEW
mất vài giây. Một sự thực luôn gây trở ngại cho các cuộc tìm kiếm trên mạng của tôi là mẹ
tôi mang một cái tên quá hay thường gặp ở Ukraine, hàng trăm, thậm chí hàng ngàn các bà
các cô Ukraine đều mang họ như mẹ tôi. Mặc dù dòng chữ về nhân vật nào đó hiện ra trên
màn hình cũng mang phụ danh như mẹ tôi, cũng là Evgeniya Yakovlevna Ivashchenko đấy,
nhưng Yakov, tên bố đẻ của mẹ tôi, cũng là tên gọi phổ biến đến mức kết quả tôi tìm ra chưa
có ý nghĩa gì hết cả.
Tôi mở đường link ra đọc: Ivashchenko, Evgeniya Yakovlevna, năm sinh 1920, nơi
sinh Mariupol. Tôi trân trân nhìn vào entry, nó trân trân nhìn lại. Dù vốn hiểu biết của tôi
về mẹ tôi có ít ỏi thế nào đi nữa, thì tôi cũng biết mẹ tôi sinh năm 1920 ở Mariupol. Liệu
có thể có hai bé gái trùng tên, trùng họ, lại trùng cả tên bố là Yakov, mở mắt chào đời cùng
năm tại một thành phố nhỏ tí ti như Mariupol hồi đó không?
[...]
Dạo ấy tôi hầu như không biết tí gì về Mariupol. Suốt thời gian tìm tòi tư liệu về mẹ
tôi, tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện tìm hiểu về cái thành phố mẹ tôi xuất thân làm gì.
Thành phố Mariupol, cái thành phố suốt bốn chục năm liền mang tên Zhdanov, mãi đến
khi Liên Xô tan rã ít lâu mới mang lại tên cũ của nó ấy, chỉ là một địa danh nằm sâu thăm
thẳm trong lòng tôi, một địa danh tôi không bao giờ lôi ra gắn với thực tại. Đã từ lâu, tôi
náu mình trong thế giới các giả định, với các bức tranh cùng những tưởng tượng của riêng
mình. Thế giới thật bên ngoài đe dọa thế giới bên trong ấy của tôi, cho nên, tôi tìm mọi
cách lẩn tránh nó cho bằng được.
Bức tranh nguyên sơ của tôi về Mariupol bị chi phối hoàn toàn bởi bức tranh tôi mang
suốt một thời thơ ấu, cái thời không ai phân biệt nước này với nước kia trong Liên bang
Xô viết cả, dân chúng mười lăm nước cộng hòa tuốt tuồn tuột đều là dân Nga hết. Mặc dù
thời trung cổ xa xưa, nước Nga vốn bắt nguồn từ Ukraine, tức là từ Kiev Rus - cái nơi mà
thiên hạ vẫn mệnh danh là cái nôi nước Nga thật -, và chính Kiev cũng là thành phố mẹ đẻ
ra mọi đô thành khác trên đất nước Nga đấy, nhưng đến cả bố mẹ tôi vẫn chỉ xem Ukraine
như một phần của nước Nga mà thôi - một phần của đất nước rộng nhất thế gian, như bố
tôi vẫn nói, của quốc gia vĩ đại, với lãnh thổ trải rộng suốt từ Alaska tới đất Ba Lan và diện
tích chiếm hẳn một phần sáu diện tích các châu lục. So với nó, nước Đức chỉ là một vết con
con tí tẹo trên bản đồ.
Với tôi, mọi thứ của Ukraine đều tan vào những gì thuộc về Nga, và, nếu tôi có hình
dung mẹ tôi trong cuộc đời trước đây của mẹ tại Mariupol, bao giờ tôi cũng thấy mẹ tôi
cùng với tuyết nước Nga. Khoác trên người chiếc áo choàng màu xám cổ lỗ sĩ, cổ và tay áo
bằng nhung - chiếc áo choàng duy nhất tôi từng thấy mẹ mặc- mẹ tôi đi xuyên qua các con
phố tối tăm và đầy băng giá trong một bầu không gian vô cùng vô tận nào đó, một nơi mà
bão tuyết hoành hành không nguôi từ ngàn xưa thiên cổ đến giờ. Tuyết Siberi phủ ngập cả
104 Z Z Z REVIEW
Mãi nhiều năm sau, nhờ đọc một cuốn tiểu thuyết ngắn của Nga, tựa đề thế nào tôi
quên mất, tôi mới biết khung cảnh mùa đông ở Mariupol vào cái thời mẹ tôi còn sống ở đó
như thế nào. Tuyết ướt nhão rơi phía ngoài cửa sổ khách sạn Palmyra. Từ đây bước chừng trăm
bước là ra đến biển, ngoài đó vọng vào đây một thứ tiếng động tôi không dám bảo là tiếng lao
xao. Ọc ạch, nhóc nhách một miền biển nông choèn, vô nghĩa, nhàm chán. Nem nép bên mép
nước là thành phố Mariupol con con giản dị, với ngôi nhà thờ Công giáo Ba Lan và hội đường
Do Thái. Thêm bến cảng hôi hám, khu nhà kho, cùng túp lều rách bươm của gánh xiếc rong
ngoài bãi biển, và quán trọ Hy Lạp với cây đèn đường mù mờ nhợt nhạt dựng đơn độc trước lối
vào khách sạn nói trên. Tôi đọc đoạn văn ấy như đọc một thông điệp thân tình và kín đáo về
mẹ tôi vậy. Phải, mẹ tôi đã chứng kiến cảnh tượng đó bằng con mắt của chính mình. Chắc
chắn mẹ tôi đã có lần nào đó đi ngang khách sạn Palmyra, rất có thể mẹ khoác trên người
chiếc áo choàng màu xám ấy, có thể mẹ cũng bước dưới làn tuyết nhão ấy, và xốc vào mũi
mẹ cũng chính là cái mùi hôi hám ấy của bến cảng.
[...]
Đã mấy tuần nay, tôi ru rú một mình trong căn hộ tôi vẫn dành cho việc viết lách này
tại Mecklenburg. Tôi chung căn hộ bé nhỏ bên hồ Schaalsee đây với chị bạn, hai đứa thay
phiên nhau ở. Năm nay, gần như toàn bộ những ngày tháng mùa hè bên hồ đều thuộc về
tôi. Gilla, chị bạn tôi, là diễn viên, ngập bù đầu với một chương trình sân khấu ở đâu đó
xa xôi tận nước ngoài, phải mãi tháng Chín mới về. Còn tôi vừa xong cuốn sách và định
bụng nằm ườn ra nghỉ ít lâu. Nói cho đúng thì tôi không nhớ đã bao giờ tôi nằm ườn lấy
nửa ngày hay không. Chất liệu để viết của tôi ngoan cố chen nhau xếp thành hàng dài chờ
chực, chúng đã không cho tôi ngơi tay, lại nhắc nhở tôi mỗi ngày một gay gắt chớ nên quên
sự thực hiển nhiên, rằng đời tôi thật ngắn ngủi. Thông thường, hôm nay vừa xong một
quyển thì ngay hôm sau tôi đã bắt đầu cuốn mới, dừng lại lâu không viết, không vật lộn
với từ với chữ là tôi không chịu được. Phần lớn quãng đời cứ thế mà trôi biến đi lúc nào,
tôi cũng chẳng biết nữa. Thế mà hiện giờ tự dưng tôi không muốn làm gì nữa cả, chỉ muốn
ngồi không ngoài ban công, để mặc cho gió nhẹ mơn man trên da thịt mình và ngắm nhìn
mặt nước hồ trong xanh dưới nắng hè. Xế chiều, khi hơi nóng dịu bớt đi, tôi mới lôi đôi gậy
chống dùng cho môn “đi bộ gậy” Nordic walking làm một vòng bên hồ cho đến khi mệt lử,
để rồi tại đôi chỗ ẩm ướt và khuất nẻo, đành chịu cho hàng bầy muỗi đói dày đặc như đám
mây nhào xuống đốt. Trên đường về, tôi sẽ mua ở cửa hàng cá tươi ít cá hồi trắng lẫn cá hồi
hồng bắt thẳng từ hồ lên đem về nhà làm bữa tối.
Trước đây, đường biên giới Đông-Tây Đức chạy cắt ngang hồ Schaalsee này. Phần hồ
này thuộc Mecklenburg bên Đông, phần kia thuộc Schleswig-Holstein bên Tây. Phóng xe
thêm vài cây nữa, người ta sẽ chạy qua một tấm biển, trên đó có ghi dòng chữ: Tính đến
16h ngày 18 tháng Mười một năm 1989, đây là nơi nước Đức và châu Âu bị chia cắt. Tại nơi
106 Z Z Z REVIEW
nghỉ hè mà lại, đầy những âm thanh ấy, ngan ngát những hương vị ấy, cùng toàn bộ vẻ đẹp
của một mùa hè con trẻ, một mùa hè ai cũng muốn nó kéo dài không dứt. Thật may là ở
đây cấm thuyền máy, quyền thống lĩnh hồ này thuộc về các giống thủy điểu sinh sống ở đây,
họa hoằn lắm mới có một con thuyền gỗ lẻ loi nào đó buông chèo hay căng buồm trắng bơi
ngang. Chim nhạn, có đến hàng trăm con, lượn qua lượn lại giữa không trung, đôi khi lượn
thấp đến nỗi tôi có cảm giác như đầu cánh nhọn hoắt của chúng sắp chạm cả vào người tôi
nữa kia, nhất là vào những lúc tôi ngồi ngoài ban công mở sách đọc hay chỉ ngồi để ngắm
trời ngắm nước, ngắm mặt hồ long lanh, như thể vô vàn những chiếc gương con con nào
đó rải trên mặt hồ đang hắt nắng qua lại cho nhau. Những con ngỗng trời bay qua trên trời
cao, thành đàn với đội hình ngay ngắn, như thể chúng được nối với nhau bởi những sợi dây
vô hình, bọn chim én thoăn thoắt đuổi nhau giữa trời cao, như đang rủ nhau chơi một trò
chơi kỳ quái nào đấy. Cứ sẩm tối là dàn giao hưởng của vô số thủy cầm lại vang lên, tiếng
vịt trời càng cạc bận rộn, tiếng càu nhàu gắt gỏng của thiên nga, cùng tiếng kèn trumpet
xốn xang nháo nhác của tụi cò lũ hạc, cái tụi suốt ngày kiếm ăn đâu đó ngoài các cánh đồng
xa tận đẩu tận đâu, tối mịt mới về tụ tập nhau bên hồ đây. Thỉnh thoảng xuất hiện con đại
bàng đuôi trắng, sải rộng đôi cánh dài mạnh mẽ, nó chậm rãi lượn là là mặt nước. Đúng
là bậc đế vương uy nghi sông nước, là nỗi kinh hoàng của cá bơi dưới hồ lẫn muông thú
bên bờ! Cứ nghe dân tình kháo nhau thì đã có lần, đứng bên bờ người ta còn chứng kiến
cảnh tượng nó phanh thây một con cò ra sao. Chả là vào mùa đông lạnh giá, đám cò cậy
mình được bảo vệ, chẳng ai dám sinh chuyện đụng vào chúng, nên chuyên tìm chỗ nước
nông đứng chân co chân duỗi ngủ qua đêm; có con trong đám thế nào lại vô ý ngủ quên,
khiến một chân bị nước đóng băng không rút lên được. Lúc con đại bàng từ trên cao lao bổ
xuống, nó không kịp xoay xở thoát thân, đành chịu bị đại bàng xé xác.
[...]
Nhưng nói cho cùng thì không hẳn là vô cớ mà đúng vào lúc này tôi lại dò tìm tên tuổi
mẹ tôi trên mạng của Nga đâu. Từ lâu tôi đã nuôi ý định viết về mẹ tôi, nhất là về giai đoạn
mẹ ở Ukraine, rồi sau đó, trong trại nhân công lao động cưỡng bức của Đức, trước khi mẹ
sinh ra tôi. Có điều, tôi hầu như không biết tí gì về mẹ tôi trong giai đoạn đó. Mẹ tôi không
bao giờ kể tôi nghe về thời kỳ mẹ bị bắt đi làm nhân công lao động cưỡng bức đó, cả bố tôi
cũng không nốt, thành ra không có một tí gì lưu lại trong trí nhớ của tôi về thời kỳ ấy cả.
Tất cả những gì tôi được nghe mẹ kể về giai đoạn mẹ ở Ukraine chỉ còn là những đốm sáng
chập chờn vô định trong đầu tôi mà thôi. Tôi chỉ còn biết thử viết một tiểu sử hư cấu xem
sao, dựa trên những gì đã được ghi vào sử sách, dựa vào các cứ liệu về địa phương cũng như
về thời kỳ mẹ tôi trải qua ở đó. Nhiều năm nay rồi, tôi bỏ công cố tìm một cuốn sách nào đó
viết về những công nhân dạo xưa từng bị cưỡng bức lao động, tức là cố tìm cho ra một tiếng
nói văn học về họ để bấu víu dựa dẫm, nhưng đều vô ích. Nạn nhân sống sót từ các trại tập
108 Z Z Z REVIEW
than hồng đốt mù hai mắt chồng chưa cưới của cô và dùng chân mang ủng đạp bẹp dí bẹp
dị mấy đứa trẻ con bé bỏng. Cả lớp quay đầu nhìn về phía tôi, đến như cái Inge Krabbes
bên cạnh tôi cũng ngồi xích ra xa một tí, và tôi đoán biết được ngay, chỉ cần chờ hết giờ học
thôi, là thể nào chúng nó cũng giở trò đuổi đánh tôi ngay cho mà xem.
Đã từ lâu rồi, những chuyện tôi bịa ra không còn giúp được tôi nữa, chẳng những tôi
bị liệt vào đám dân Nga mọi rợ, mà còn bị lật mặt lừa đảo. Chả là, để tự nâng giá mình trước
mặt tụi trẻ con Đức, tôi bảo chúng nó rằng bố mẹ tôi, những người làm tôi xấu hổ đến chết đi
được, thật ra không phải là bố mẹ đẻ ra tôi mà chỉ là những người trên đường trốn chạy khỏi
nước Nga đã nhặt được tôi lúc tôi bị quẳng nằm vạ vật dưới rãnh nước ven đường rồi mang
theo thôi, chứ đúng ra tôi là con nhà giàu có, cỡ vương hầu bên Nga, làm chủ lâu đài này lâu
đài kia lẫn hàng đống của cải quý giá khác, nhưng tôi cố tình lờ không nói vì cớ gì con nhà bậc
vương hầu lại bị quẳng ra rãnh nước bên đường, nhờ thế dẫu gì thì suốt mấy tiếng đồng hồ
hay suốt một ngày tôi cũng biến thành đứa con gái lạ lùng bí hiểm trước những con mắt đầy
ngạc nhiên và thán phục của tụi trẻ con người Đức. Tất nhiên, chẳng mấy chốc là chúng nó
nhìn rõ chân tướng tôi, và lúc ấy, bọn trẻ liền lồng lên đuổi đánh tôi, hòng rửa hận cho Đế chế
thứ ba đã thảm bại hồi nào, bọn con cái mới lớn lên của các bà các cô vợ lính người Đức góa
chồng, hay của các ông bố quốc xã bại trận hôm xưa ấy đuổi đánh tôi vì tôi mang diện mạo
quân Nga, vì tôi là hiện thân của cộng sản và bolshevik, của hạng người Slave hạ đẳng, và đồng
thời, cũng là kẻ đại diện cho kẻ thù của nhân loại, những kẻ đã đánh thắng họ trong chiến
tranh, còn tôi cứ thế mà chạy bán sống bán chết. Tôi không muốn chết như cái Dschemila,
đứa con gái nhỏ nhà người Nam Tư dạo nào cũng bị tụi trẻ con người Đức đuổi đánh rồi đẩy
ngã xuống sông Regnitz chết đuối. Tôi chạy, kéo theo một đám đông hò hét hung hăng hiếu
chiến, nhưng tôi chạy đã quen rồi, quen đến mức lúc chạy không thấy đau nhoi nhói bên
mạng sườn nữa, cho nên tôi cũng thường bỏ xa chúng nó ở phía sau. Tôi chỉ cần chạy đến khu
mỏ khai thác sỏi cát, là đường ranh ngăn cách thế giới dân Đức với thế giới chúng tôi, đằng
sau mỏ khai thác sỏi cát ấy là lãnh địa của chúng tôi, là miền đất chưa hề khám phá, miền đất
mà ngoài cảnh sát và nhân viên bưu tá ra, chưa một người Đức nào lai vãng, đến cả bọn trẻ
con Đức cũng chả dám bén mảng nữa là. Trước khu mỏ, rẽ khỏi đường phố rải nhựa là một
lối mòn dẫn đến „khu nhà“. Tôi không rõ vì sao dân Đức gọi lô nhà xây bằng gạch của chúng
tôi là „khu nhà“ như thế, có lẽ để phân biệt chúng tôi vói dân Di gan, những người sống còn
xa thêm đoạn nữa, trong những ngôi lán bằng gỗ, ở phía ngoài thành phố. Họ đứng còn thấp
hơn chúng tôi một bậc và dạo ấy luôn gây ra trong lòng tôi một cảm giác ghê ghê tởm tởm,
một cảm giác chắc cũng ghê ghê tởm tởm y như chúng tôi gây cho người Đức vậy.
Qua khỏi đường biên thần kỳ ấy là thoát. Sau chỗ ngoặt, tụi trẻ đuổi theo không nhìn
thấy tôi nữa, nên tôi thả mình nằm xuống bãi cỏ, chờ cho con tim tôi hết thình thịch liên hồi,
chờ đến lúc lấy lại được hơi thở bình thường. Hôm nay thế là xong, ngày mai thế nào, tôi chưa
110 Z Z Z REVIEW
ấu của tôi, sắc đẹp mẹ tôi đã là một huyền thoại. Người đâu mà đẹp thế, bao giờ tôi cũng
nghe thiên hạ trầm trồ. Và, người đâu mà bất hạnh đến vậy. Sắc đẹp và nỗi bất hạnh dường
như gắn liền nhau nơi mẹ tôi, ràng buộc nhau một cách bí hiểm.
[...]
Ngoài hai tấm ảnh này, tôi còn giữ hai tài liệu đã nhắc đến ở trên. Để đọc được tờ
chứng nhận hôn thú của bố mẹ tôi, tôi phải để mảnh giấy to cỡ một tấm bưu ảnh ấy ra
trước gương. Đây là một bản sao bí hiểm với dòng chữ viết tay màu trắng, in ngược trên nền
đen. Đọc qua gương, tôi được biết mẹ tôi, bà Evgeniya Yakovlevna Ivashchenko, kết hôn
cùng bố tôi ngày 29 tháng Bảy năm 1943 tại Mariupol. Tờ chứng nhận hôn thú viết bằng
chữ Ukraine, con dấu đã mờ, nhưng dòng chữ tiếng Đức „Phòng hộ tịch và cấp giấy giá thú“
vẫn còn rất rõ. Lần nào cũng như lần nào, tôi cứ như bị hẫng bởi cái từ này. Quân Đức làm
gì ở cái Phòng hộ tịch và giá thú Mariupol đó mới được chứ? Đây là một chi tiết tách ra từ
cuộc sống thường nhật tại vùng bị chiếm, một cuộc sống tôi không hình dung nổi. Có thế
nào thì tôi vẫn thấy thật kỳ diệu, rằng tờ giấy chứng nhận bình thường này chẳng những
đã sống sót sau cả những năm chiến tranh ác liệt, hết những ngày tháng lưu đày, lại đến
trại nhân công lao động cưỡng bức và những chuyến hành trình đầy gian truân tiếp theo
sau chiến tranh, lẫn cả những cuộc chuyển nhà diễn ra không phải là hiếm của tôi sau này.
Vâng, mảnh giấy cũ kỹ bảy chục năm này, bằng chứng bất đắc dĩ của cuộc hôn nhân khốn
khổ, và chẳng bền được bao lâu ấy.
Thẻ lao động do nhà chức trách Đức cấp cho mẹ tôi đã thất lạc tự lúc nào rất lâu, có
lẽ bị mục nát rồi mủn thành từng mẩu vụn tự bao giờ không biết trong một xó xỉnh tối
tăm ngột ngạt nào đó của bàn giấy hay giá sách của tôi, thế nhưng tôi biết rất rõ, tấm thẻ
đó, trừ tên tuổi ra, giống hệt tấm thẻ lao động được cấp ngày 8 tháng Tám năm 1944 tại
Leipzig cho bố tôi, tấm thẻ mà tôi còn giữ đến tận giờ. Đó là một mảnh giấy gập đôi, to chỉ
cỡ miếng bánh xà phòng giặt, vàng khè, cũ kỹ. Tên họ, ngày sinh, nơi sinh bố tôi, tên bố tôi
đúng ra phải là Kamyshin, thế nhưng, trên đường phát từ miệng bố tôi đến tai một viên thư
ký người Đức nào đó đã biến thành Chanuchin. Tiếp theo là các dòng như sau:
112 Z Z Z REVIEW
đã để lại cho tôi những „chất liệu“ gì. Bây giờ tôi như đứng trước nhiệm vụ phải sửa lại các
thiếu sót trước đây của tôi, phải viết thêm một cuốn sách, có lẽ là cuốn cuối cùng, để viết
nốt những gì lẽ ra tôi đã viết trong cuốn đầu mới phải. Có điều, tôi vẫn hầu như không biết
gì về cuộc đời mẹ tôi ở giai đoạn trước khi tôi ra đời, lại càng không biết gì về giai đoạn mẹ
tôi sống trong trại nhân công lao động cưỡng bức của Đức quốc xã. Tôi đứng đây với hai
bàn tay trắng, với đôi tài liệu lịch sử và trí tưởng tượng của tôi, những thứ chẳng có nghĩa
lý gì so với tầm cỡ lớn lao của toàn bộ vấn đề.
Vào những năm 1990, nghĩa là đã rất muộn rồi, lúc những người mà thiên hạ vẫn quen
gọi bằng danh hiệu „thợ miền Đông“ theo kiểu từ ngữ Hermann Göring(1) từng đích thân
xướng ra hồi nào ấy, bắt đầu đặt các yêu sách đòi bồi thường, thì vấn đề „thợ miền Đông“
mới được lôi ra ánh sáng, hay chí ít cũng ánh sáng mờ mờ, trước mắt công chúng Đức. Gần
đây đã xuất hiện sách vở, tài liệu, phim ảnh về vấn đề nhân công lao động cưỡng bức dưới
thời Đế chế thứ Ba mà tôi có đọc và tìm hiểu. Thậm chí tôi còn tìm được cả một tác phẩm
văn học viết về đề tài này, một cuốn sách mà tôi phải mất công lùng kiếm khá lâu mới thấy,
tức là cuốn của Vitaliy Syomin, được dịch sang tiếng Đức và xuất bản vào những năm 70
dưới tựa đề Dấu hiệu để phân biệt. Nhà văn người Nga này kể lại câu chuyện một anh thanh
niên bị bắt từ Rostov trên sông Don lôi sang Đức, và anh chỉ có thể sống sót qua thời kỳ
bị cưỡng bức lao động tại Đức nhờ một lời thề sắt đá, rằng những gì anh đã nếm trải và
chứng kiến không được phép cùng với anh xuống mồ, rằng anh có nghĩa vụ phải sống để
làm nhân chứng cho đời sau. Anh kể, bị giam trong trại nhân công lao động cưỡng bức tuy
có vẻ đỡ hơn bị giam trong trại tập trung trước khi vào lò thiêu thật, nhưng cũng chỉ đỡ ở
chỗ là trong trại lao động cưỡng bức nạn nhân không bị giết ngay, mà dần dần, từng bước,
bằng khối lượng công việc nặng nhọc quá sức người, bằng cách bị bỏ đói, bị đánh đập, bị hạ
nhục và lúc ốm đau tuyệt nhiên không được thuốc thang chạy chữa.
Tôi rất ngạc nhiên khi phát hiện ra người dịch cuốn sách này là anh Alexander Kaempfe
tôi từng kết bạn kết bè dạo những năm bảy mươi. Anh ấy vẫn thường đọc tôi nghe các bản
dịch của anh, thậm chí cả những đoạn trích từ cuốn của Vitaliy Syomin cũng nên, nhưng
sở dĩ tôi không nhớ đến vì dạo đó tôi không biết rằng cuốn sách viết chính về những người
như bố mẹ tôi, rằng bố mẹ tôi cũng phải gắn lên áo phù hiệu hình tam giác có ghi „miền
Đông“, một thứ phù hiệu nhằm phân biệt họ với những ai mang chủng tộc cao cấp hơn,
nhưng cũng bị bắt từ các nước phương Tây sang Đức làm nhân công lao động cưỡng bức.
Tra cứu, truy lùng tài liệu càng lâu, tôi càng va vấp nhiều đến những sự thật kinh
1. Một trong những lãnh tụ hàng đầu của nhà nước quốc xã Đức (1933-1945). Tháng 10 năm 1946, y bị Tòa án quân
..
sự quốc tế Nu rnberg kết án tử hình vì phạm tội ác chiến tranh nghiêm trọng. (ND)
114 Z Z Z REVIEW
“Một sự thật cá nhân
bị dồn nén tận đáy của ý thức”:
Lối viết và tiếng nói nữ trong
Chiến tranh không có một
khuôn mặt phụ nữ
Võ Bảo Trâm
Khi tác phẩm Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ của Svetlana
Alexievich xuất hiện dù dưới dạng bị cắt xén vào năm 1985, nó đã trở
thành một hiện tượng độc đáo: lần đầu tiên, chiến tranh hiện lên đậm
đặc chất nữ tính - giọng nói nữ, tâm hồn nữ, trải nghiệm nữ. Chiến tranh
không còn là phép cộng của các con số tổng kết thiệt hại vô cảm, các sự
kiện kinh hoàng, các trận đánh ác liệt và các tượng đài anh hùng vũ trang
bất diệt trên bàn cờ chính trị các quốc gia. Chiến tranh bây giờ hiện lên
qua điểm nhìn của phụ nữ với đầy đủ trải nghiệm, đầy đủ cảm xúc chân
thật từ bản năng mãnh liệt, niềm khao khát cháy bỏng, niềm hy vọng
mong manh đến nỗi đau đớn thể xác, nỗi sợ hãi tinh thần và sự ám ảnh
dai dẳng trong mỗi giấc mơ. Qua lời trần thuật của hàng trăm người phụ
nữ, cuốn sách đầu tay của Svetlana Alexievich đã nỗ lực không chỉ viết nên
lịch sử tâm hồn phụ nữ Nga trong chiến tranh Vệ quốc, mà còn trở nên
một điển hình của lối viết nữ.
Lối viết nữ dùng ở đây là lấy theo khái niệm l’ecriture féminine của Hélène Cixous, đưa ra
trong tiểu luận “Tiếng cười của nàng Medusa” công bố năm 1976.(1) Là thành tựu sau một
hành trình dài nghiên cứu mối quan hệ giữa giới và ngôn ngữ, tiểu luận của bà đề xuất khái
niệm này trong nỗ lực giải kiến tạo hệ thống quan niệm lấy ngôn từ dương vật làm trung
tâm (phallogocentrisme). Bà đặt ra không phải là vấn đề ngôn ngữ như một ký hiệu, ngôn
ngữ của một cộng đồng người, càng không buộc phụ nữ sáng tạo ra hệ thống ký hiệu mới,
mà bà xem lối viết như những cấu trúc, những cách viết, những cánh cửa mở lối khác nhau
giữa phái nam và phái nữ. Hélène Cixous diễn giải quan điểm của mình về sự hình thành
và đặc trưng của lối viết nữ ở hai nội dung chính. Thứ nhất, “cá nhân người nữ phải viết
chính mình, phải khám phá cho riêng mình cơ thể mình cảm thấy như thế nào, và làm sao
để viết về thân thể ấy trong ngôn ngữ.”(2) Thứ hai, bằng lối biểu đạt đặc thù, người phụ nữ
viết văn sẽ phá vỡ cấu trúc và trật tự những biểu tượng được xác lập và cố định trong diễn
ngôn nam giới.(3)
Hai nội dung chính mà Hélène Cixous phân tích cũng là hai mức độ chuyển hóa trong
lối viết nữ: từ lời kể cá nhân đến cấu trúc. Đầu tiên, cá nhân người nữ phải trở thành chủ
thể ngôn từ tích cực chứ không phải là khách thể tiếp nhận thụ động, vì lối viết nữ phải
xuất phát từ thân thể nữ. Ở mức độ thứ hai, khi cá nhân người nữ dùng thân thể để nói/viết
thì chính cấu trúc ngôn ngữ sẽ thay đổi. Lúc này, cấu trúc ngôn từ lấy dương vật làm trung
tâm sẽ được thay thế bằng một cấu trúc mới phong phú hơn, uyển chuyển hơn.
Một tác phẩm như Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ, với quy mô cực kì lớn
của những đối tượng tham gia phỏng vấn, là một sự thể hiện đậm đặc lối viết nữ vì lời trần
thuật không chỉ của riêng một nhân vật, một tác giả nữ (vốn chỉ đưa một lượng rất ít lời kể
và kinh nghiệm của mình) mà là của chung một cộng đồng nữ. Thế giới trải nghiệm trong
tác phẩm là một tự sự nữ, theo cách nói của Hélène Cixous. Như chính tác giả nhận xét, đó
là “các câu chuyện thuộc một tính chất khác và nói về những chủ đề khác”, tạo nên “cuộc
1. Cixous, Hélène; Keith Cohen và Paula Cohen dịch, (1976), “The Laugh of the Medusa”, https://artandobjecthood.
files.wordpress.com/2012/06/cixous_the_laugh_of_the_medusa.pdf.
2. Klages, Mary, Hồ Như dịch, “Tiếng cười nàng Medusa (bản diễn giải)”, http://damau.org/archives/14632.
3. Hồ Khánh Vân, “Từ quan niệm về lối viết nữ đến việc xác lập một phương pháp nghiên cứu trong phê bình nữ quyền”,
http://vannghequandoi.com.vn/Phe-binh-van-hoc/Tu-quan-niem-ve-loi-viet-nu-den-viec-xac-lap-mot-phuong-
phap-nghien-cuu-trong-phe-binh-nu-quyen-6630.html.
116 Z Z Z REVIEW
chiến tranh ‘nữ’ có những màu sắc riêng của nó, những mùi riêng của nó, nguồn chiếu sáng
riêng và không gian cảm xúc riêng của nó”. Lối viết nữ biểu hiện qua cách thức tư duy, cách
thức tổ chức câu chuyện của những nữ cựu binh. Khi họ kể về chính họ, tái hiện ký ức về
cuộc chiến tranh, thì ngay cả ngôn ngữ trong tác phẩm cũng thay đổi so với thứ ngôn từ
nam quen thuộc.
Đầu tiên, lối viết nữ trong Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ biểu hiện ở việc tập
trung miêu tả những chủ đề thân thể phụ nữ, từ hành kinh, mang thai, sinh con đến làm
đẹp và nỗi đau thể xác - những trải nghiệm thân thể mà các nhà văn nam không thể miêu
tả dưới điểm nhìn nội quan.
Từ những chủ đề đặc trưng đó, phụ nữ dùng cảm giác và cảm xúc của thân thể để miêu
tả hiện thực khốc liệt của cuộc chiến. Cuộc hành quân dài đầy khó khăn và mệt mỏi của
những nữ cựu binh Liên Xô hiện lên qua nỗi xấu hổ vì có kinh. Nói đến việc lái máy bay,
nữ chiến sĩ phòng không không quên cảm giác cơ thể bị ép chặt vào buồng lái; nói đến công
việc giặt giũ, cô thợ giặt nhớ đến đôi bàn tay lở loét và rụng móng của mình; nhắc đến sự
tàn ác của bọn an ninh Đức, nữ du kích kinh hoàng nhớ lại cảm giác bị lột truồng, cấu xé
ngực, bị “sửa móng tay” (bị cỗ máy tra tấn chuyên dụng châm kim vào dưới mười móng
tay cùng một lúc). Trải nghiệm thân thể của phụ nữ trong chiến tranh còn là nỗi đau giết
con, phải lợi dụng con để làm nhiệm vụ, nỗi nhớ
thương đứa con ở nhà và niềm khao khát được
làm mẹ. Thân thể phụ nữ trở thành tấm màn
lọc mọi sự kiện diễn ra bên ngoài. Sự hiện diện
dày đặc các chi tiết miêu tả cảm giác của thân
thể giúp cho người đọc hiểu áp lực công việc mà
những nữ cựu binh chịu đựng, từ đó hình dung
mức độ khốc liệt của chiến tranh.
Lối viết thân thể không dừng lại ở việc bộc
lộ cảm nhận cơ thể mà còn đưa những yếu tố
thuộc về thân thể phụ nữ trở thành biểu tượng.
Những lời kể của những nữ chiến sĩ Xô viết lặp
đi lặp lại hình ảnh bím tóc và trang phục (giày,
áo ngực, váy). Bím tóc và trang phục vừa tượng
trưng cho vẻ đẹp thiếu nữ, vừa tượng trưng cho
118 Z Z Z REVIEW
GIÀU CHI TIẾT, GIÀU LIÊN TƯỞNG
Cảm xúc với thiên nhiên trở thành cửa ngõ để phụ nữ nhớ về chiến tranh. Tin báo chiến
tranh bùng nổ gắn liền với hình ảnh “giọt sương chưa kịp khô trên lá cây”; “sơn ca” trở về
bộc lộ niềm khao khát mái ấm bình yên; “hoa dại” nhắc nhớ về chiến tranh vì ở ngoài ấy
không có hoa để hái. Trong cuộc chiến một sống một chết, vẫn có cô gái đắm mình trong
thiên nhiên, cô hái hoa tím cắm lên lưỡi lê và đứng nghe chim hót trong phiên gác đêm.
Thậm chí, chiến tranh đã nhấn tình yêu thiên nhiên trong lòng căm thù. Hình ảnh “anh
đào ra hoa” gợi nhắc nỗi căm thù phát xít hoặc vấy lên nó những cảm xúc đối lập: “Mặt trời
sáng chói... Tất cả đều ra hoa... Hoa chuông thân yêu của tôi, ngập tràn các bãi cỏ... Tôi nhớ:
Chúng tôi nằm giữa lúa mì, một ngày nắng lớn.” Đồng thời, nắm bắt được sự kháng cự của
những chi tiết thiên nhiên như màu hoa, mùi thơm, tiếng chim hót giữa màu bùn đất, mùi
tanh, mùi khét, tiếng kêu la, vị máu chính là đặc trưng đời sống tâm hồn của những nữ cựu
binh Liên Xô thời gian này. Càng nhặt ra nhiều chi tiết nhỏ không ngờ tới, càng đào sâu độ
nhạy cảm trong tâm hồn, lại càng làm nổi bật tính chất ác liệt của chiến tranh.
Thế giới qua cái nhìn của người nữ tập hợp một lượng chi tiết vụn vặt khổng lồ. Nhiều
năm sau khi chiến tranh đã qua đi, những người nữ cựu binh vẫn nhắc lại một cách tỉ mỉ
hàng loạt những chi tiết vụn vặt như chiếc áo, đôi giày, kẹo sô cô la, chiếc khăn lụa, bông
hoa...: “Tôi có một chiếc áo dài mới rất nhẹ, có diềm”, “tôi chạy chân không, giày cầm trên
tay, đôi giày rất đẹp, tiếc không thể vứt”. Nếu soi chiếu vào lối viết nam, những chi tiết ấy
rất ít khi xuất hiện khi kể về chiến tranh. Tuy nhiên, trong lối viết nữ, tất cả những chi tiết
vặt vãnh ấy đều có giá trị. Cùng một chi tiết “đôi giày”, Remarque nhấn mạnh đến tính vô
dụng của vật chất nếu con người không còn chân để đi, đấy là cách ông bộc lộ tư tưởng
phản chiến trong tác phẩm Phía Tây không có gì lạ. Ngược lại, đôi giày với người nữ cựu
binh không chứa đựng tư tưởng triết lý mà chứa đựng cảm xúc. Đó là nỗi khao khát được
làm đẹp dù trong hoàn cảnh chiến tranh - một nhu cầu nhân văn của phụ nữ.
Cùng trải nghiệm một hiện thực, cùng sống trong chiến tranh nhưng khi cuộc chiến
qua đi, người vợ nhớ và kể lại những chi tiết rất nhỏ như người lính nữ không có điều kiện
về nhà “ngửi mùi của các cô gái được gặp người thân” cho thỏa nỗi nhớ nhà, còn người
chồng thì kinh ngạc, ông không ngờ rằng những sự kiện ấy xảy ra trước mắt ông nhưng ông
không hề có ý niệm gì về chúng. Trong khi phụ nữ chú ý miêu tả những chi tiết nhỏ nhặt,
vụn vặt nhưng chứa đầy cảm xúc ấn tượng thì nam giới lại nhớ đến hệ thống kiến thức quân
sự, những trận đánh lớn và hành động chiến đấu.
Cách tư duy chi tiết của phụ nữ vẽ nên một hiện thực khác so với tư duy hệ thống của
đàn ông. Từ lối tư duy hệ thống, nam giới có xu hướng xây dựng những cấu trúc khái quát
và hình ảnh tượng trưng. Trong khi đó, bằng thế giới đồ sộ những chi tiết của cảm xúc,
Chúng tôi băng qua các cánh đồng. Mùa thu hoạch mới đẹp làm sao! Chúng tôi
đạp lên lúa mạch đen mà đi. Mà năm ấy, mùa màng thật đặc biệt, lúa mì chưa bao
giờ cao đến thế. Cỏ xanh, mặt trời rực rỡ, và những người chết nằm dài trên mặt
đất, máu. Những xác người và súc vật.
Lối tư duy so sánh đi ngược lại cảm quan mỹ học truyền thống này chính là lối viết
nữ. Với những trải nghiệm sinh sản, làm mẹ, đối với họ, ngay cả trong cái chết, sự sống vẫn
bao quanh và sinh sôi nảy nở.
Theo Hélène Cixous, trong hệ thống lấy ngôn từ dương vật làm trung tâm, người nữ
120 Z Z Z REVIEW
đặt ở vị trí xa tượng trưng nên họ dùng tư duy hình ảnh cụ thể để biểu lộ cái tượng trưng
chứ không dùng tư duy khái quát. Tư duy so sánh cụ thể này là tư duy chung của nam và nữ
nhưng nó luôn trội hơn khi thể hiện trên văn bản nghệ thuật phái nữ. Trong tác phẩm của
Svetlana Alexievich, hai phạm trù sự sống và cái chết đã được cụ thể hóa, đời thường hóa
bằng chuỗi hình ảnh so sánh-liên tưởng, có được nhờ xây dựng một hệ thống ngôn từ miêu
tả giàu tính biểu tượng, bắt nguồn từ trải nghiệm quan sát và cảm xúc chủ quan của phụ nữ.
Ngoài tác phẩm, lối viết ấy đã trải qua cuộc đấu tranh riêng để giành quyền được lắng nghe
trong đúng giọng nói của mình.
Là một sự tình cờ nhưng cũng có thể là hợp lý, khoảng thời gian Alexievich bắt tay vào thực
hiện những cuộc phỏng vấn sẽ làm nên cuốn sách về lịch sử tâm hồn phụ nữ trong chiến
tranh cũng là thời điểm ra đời tiểu luận của Hélène Cixous. Những nhà nữ quyền phương
Tây hiện đại đã nhận thấy trong một thế giới lấy nam giới làm trung tâm thì lịch sử của
nam giới - viết dựa trên điểm nhìn của nam giới, bởi ý chí nam quyền - mặc định đại diện
cho lịch sử loài người. Trong tiến trình phát triển đó, vì bị nam giới định nghĩa như là “Kẻ
Khác” nên kinh nghiệm của phụ nữ với tư cách là nguồn tri thức luôn bị xem nhẹ. Phụ nữ
nếu có xuất hiện thì luôn hiện lên qua góc nhìn nam giới trong diễn ngôn đơn thanh của
lịch sử. Phụ nữ không có lịch sử của riêng họ. Còn dưới con mắt của những nhà nữ quyền
hậu hiện đại phương Tây, lịch sử ấy là một đại tự sự của những “người đàn ông vĩ đại”, vì thế
“cái chết của lịch sử” phải là sự kết thúc “lịch sử của người nam”. Từ đây, người phụ nữ cần
cầm bút viết nên lịch sử bằng một tự sự, một giọng điệu với sự phân kỳ và những quy luật
phát triển của riêng mình (Hồ Khánh Vân).
Viết cuốn sách này sau khi đọc bài về một cụ bà kế toán, trong chiến tranh đã tiêu diệt
75 người, nhận được 11 huân huy chương dưới tư cách lính bắn tỉa(1), Svetlana Alexievich
cũng trăn trở những vấn đề nữ quyền như thế. Có hay không sự tồn tại của lịch sử phụ
nữ? Hay ít nhất, lịch sử chiến tranh nhìn từ góc nhìn nữ giới? Đâu là diễn ngôn lịch sử
của nữ giới? Bà thấy rằng lịch sử của nữ giới dường như là “một lịch sử câm lặng và giông
bão” bởi lẽ:
1. Theo điểm sách trên The Guardian (2017): “The Unwomanly Face of War by Svetlana Alexievich review - for ‘filth’
read truth”, https://www.theguardian.com/books/2017/aug/02/unwomanly-face-of-war-svetlana-alexievich-review .
Một nữ cựu binh Liên Xô kể rằng sau khi chiến tranh kết thúc, đàn ông đeo huy
chương còn phụ nữ thì không, vì
Đàn ông là những người chiến thắng, những người anh hùng, những người
chồng, đấy là chiến tranh của họ, nhưng chúng tôi, người ta nhìn chúng tôi bằng
con mắt hoàn toàn khác. Người ta đã hoán đổi, một cách kín đáo, với niềm hạnh
phúc giản đơn của người phụ nữ. Người ta từ chối chia phần chiến thắng với
chúng tôi.
Tấm huy chương trở thành vinh quang dành riêng cho đàn ông, còn phụ nữ phải lùi về
vị trí truyền thống là căn bếp, là phòng riêng, là vai trò làm vợ và làm mẹ, trở lại với những
mẩu chuyện vặt vãnh hằng ngày cùng những người đàn bà xung quanh. Và cũng chỉ trong
không gian quen thuộc và kín đáo đó, giữa những nữ đồng đội với nhau, sau khi chùi mấy
giọt nước mắt, họ mới gợi lên trước mặt ta một cuộc chiến.
Vậy nam giới phản ứng ra sao đối với tiếng nói phụ nữ về chiến tranh? Trong một gia
đình có cả chồng và vợ đều tham gia chiến đấu, khi gặp Alexievich, người đàn ông đã phái
ngay vợ mình vào bếp. Sau khi được xin phép thì ông mới “miễn cưỡng” nhường không
gian cho vợ nhưng không quên nhắc nhở: “Kể như tôi đã bày cho bà ấy. Không có nước
mắt, cũng đừng có những chi tiết ngu ngốc, kiểu: ‘Tôi cứ muốn đẹp. Tôi đã khóc khi bị
người ta cắt mất bím tóc.’ ” Qua những lời kể của các nhân vật, nếu chỉ xét trong không gian
gia đình thì tự sự nữ giới đã không được chấp nhận. Tiếng nói của họ liên tục bị thay thế,
đánh tráo bởi tự sự nam quyền: “Ông ấy đã nhồi nhét cho tôi suốt đêm cuốn Cuộc chiến
tranh ái quốc vĩ đại. Ông ấy lo cho tôi không nói được các ký ức cần thiết.” Thậm chí, chúng
còn bị đánh giá thấp: “Năm đầu tiên, khi trở về từ chiến tranh, tôi nói, tôi nói nhưng chẳng
ai lắng nghe. Chẳng ai hiểu tôi. Vậy nên tôi đã câm lặng.” Từ không gian gia đình nhìn ra
không gian xã hội, khi nghe đến công việc phỏng vấn của Alexievich, những người đàn ông
đều tỏ ý phản đối, ngờ vực, thậm chí là xem thường: “Hết đàn ông hay để mà hỏi rồi sao?
Tại sao cô lại cần đàn bà? Nghe họ nói mê... nghe chuyện đàn bà nạ dòng thì phỏng được
gì?” Người ta thích nghe câu chuyện chiến tranh của đàn ông vì nó luôn có hành động kịch
tính và cốt truyện rõ ràng, còn chuyện của phụ nữ chỉ luẩn quẩn trong tình cảm sướt mướt,
122 Z Z Z REVIEW
cảm xúc vụn vặt, mà chiến tranh thì cần một thiên anh hùng ca, những sự kiện chấn động
và những chiến thắng lẫy lừng.
Đại diện cho xã hội nam quyền trong tác phẩm không chỉ là những người đàn ông mà
còn là người kiểm duyệt - người có quyền cắt bỏ, từ chối xuất bản tác phẩm, người có quyền
quyết định tiếng nói phụ nữ ấy có được vang lên hay không. Đối với người kiểm duyệt,
chiến thắng của Hồng quân Liên Xô là vĩ đại, người chiến sĩ là người anh hùng nên hình
tượng nhân vật không cần phải có những chi tiết sinh lý nữ: “Cô hạ thấp người phụ nữ
với cái thứ chủ nghĩa tự nhiên sơ đẳng của cô. Cô biến họ thành một phụ nữ tầm thường.
Một con cái. Mà ở đây, đấy là những thánh nữ.” Có thể thấy, xã hội đã quen với hình ảnh
nữ chiến sĩ gắn với chiến công phi thường hay những người vợ, người mẹ hy sinh cho chiến
thắng nên khó chấp nhận hình ảnh người phụ nữ như một con người.
Xã hội từ chối tiếng nói phụ nữ, nhưng điều đáng nói là ngay cả người phụ nữ - chủ
thể của tiếng nói - cũng muốn lờ đi tiếng nói của chính mình để hướng đến tiếng nói được
xã hội công nhận: “Tại sao cô đến tìm tôi, tôi? Cô phải gặp chồng tôi, ông ấy sẽ kể với cô
chuyện đó... Tên các vị chỉ huy, các tướng, số hiệu các đơn vị... Tôi chỉ nhớ những gì tôi đã
sống.” Con số thống kê, số hiệu, huy chương trong tự sự nam đã áp đảo những chi tiết vụn
vặt, cảm xúc cá nhân trong tự sự nữ vì “nước mắt”, “muốn đẹp”, “bím tóc” bị cho là không
mang bản chất chiến tranh. Khi lên tiếng kể về chiến thắng, phụ nữ cũng có xu hướng hòa
theo giọng của đàn ông. Như vậy, ngay chính nữ cựu binh cũng xem nhẹ giá trị câu chuyện
của mình. Vì họ cũng đã suy tôn cái hình ảnh chiến thắng oai hùng của nam giới đã thiết
chế hoá (institutionalized).
Sự tồn tại của tiếng nói phụ nữ thường xuyên bị đe dọa khi chủ thể bị giằng xé giữa
việc lên tiếng và im lặng. Khi buổi phỏng vấn kết thúc, Nina Yakovlevna gửi cho Alexievich
những bài báo về công việc giáo dục quân sự và ái quốc của bà, đồng thời bà tự tay xóa đi
những chi tiết vụn vặt trong bản ghi. Trước hiện tượng này, Svetlana Alexievich nhận ra
rằng có hai sự thật - mỗi sự thật là một cực của tiếng nói - cùng tồn tại trong ký ức của mỗi
người cựu binh:
... một sự thật cá nhân bị dồn nén tận đáy của ý thức, và một sự thật vay mượn,
hay đúng hơn là đương đại, thấm đẫm tinh thần của thời nay, những đòi hỏi và
bắt buộc của nó. Thường thì sự thật cá nhân kia hiếm khi có thể cưỡng lại được
áp lực của sự thật thứ hai.
Tình trạng này cho thấy nhân vật nửa muốn bày tỏ, nửa muốn khước từ tiếng nói của
bản thân. Họ tự kiểm soát tiếng nói của mình để tập trung nói điều cần nói, nói điều xã
hội muốn nghe như những người khác từng kể, như báo chí vẫn nói. Việc giấu giếm quá
Liệu tôi biết tâm sự với ai đây rằng tôi đã bị thương, tôi đã bị chấn thương? Thử
nói ra xem, rồi ai sẽ tuyển nhận mình? Cho nên tôi âm thầm chịu đau đớn về đôi
chân, tôi rất căng thẳng. Chúng tôi nín câm như hến. Chúng tôi không nói với
ai hết rằng chúng tôi đã ra trận. Chúng tôi chỉ giữ liên lạc với nhau, bằng thư.
Mãi về sau người ta mới tôn vinh chúng tôi, mời chúng tôi đến các cuộc họp cựu
chiến binh, còn những lúc đầu, chúng tôi lẩn tránh.
Tuy nhiên, ký ức về cuộc chiến vẫn cựa quậy, buộc phụ nữ phải lên tiếng dù lên tiếng
đồng nghĩa với việc đối mặt với quá khứ đau thương: “Vâng, họ khóc rất nhiều. Họ kêu
lên. Sau khi tôi đã đi, họ uống thuốc trợ tim. Họ gọi cấp cứu. Nhưng bất chấp tất cả họ
nói đi nói lại với tôi: ‘Trở lại nhé. Đừng quên. Chúng tôi đã nín lặng quá lâu rồi. Vậy là đã
bốn mươi năm chúng tôi câm lặng.’ ” Niềm khao khát được cất lên tiếng nói của những nữ
cựu binh là một nhu cầu cấp thiết, họ không thể tiếp tục sống mà chỉ trò chuyện với chính
mình, họ cần được người khác lắng nghe: “Mọi người đều vui được đón cô. Họ chờ cô. Có
ai lắng nghe chúng tôi đâu.” Svetlana Alexievich đã gánh vác sứ mệnh “một đôi tai lớn”, lắng
nghe tiếng nói của phụ nữ từ những câu chuyện vĩ đại của một nữ cựu binh anh hùng đến
câu chuyện vụn vặt của một cô thợ nấu ăn. Bà đã giúp người phụ nữ được sống như chính
mình hiện tại và được sống lại như chính mình trước kia: “Tôi biết ơn cô, cô đã cho tôi
phương tiện để tự tìm lại được chính mình. Tìm lại tuổi trẻ của tôi.”
Tuy nhiên, là tác giả cuốn sách, Alexievich không chỉ làm công việc lắng nghe; như chính
bà có nói, bản thân bà cũng là một nhân chứng, và công việc của bà không chỉ là chuyên
chở mà còn là tiếp nối tiếng nói kia, bằng chính cuốn sách mang cấu trúc tự sự hai lớp đặc
biệt này.
Cấu trúc tự sự hai lớp bao gồm cấp độ tự sự công khai và cấp độ tự sự riêng tư. Cấp độ
tự sự công khai (public narration) hướng đến đối tượng tiếp nhận bên ngoài thế giới văn
bản, mà ở đây là những cộng đồng độc giả cụ thể, như cộng đồng Liên bang Xô viết khi tác
phẩm được viết bằng tiếng Nga, cộng đồng thế giới khi nó được dịch ra nhiều thứ tiếng. Vì
124 Z Z Z REVIEW
văn bản này mang tính chất công khai nên độc giả sẽ được đọc cuộc phỏng vấn giữa những
nữ cựu binh và Svetlana, cuộc đối thoại giữa Svetlana và người kiểm duyệt, cũng như những
trang nhật ký của riêng tác giả.
Người tạo lập cấu trúc công khai này là tác giả Svetlana Alexievich. Alexievich có toàn
quyền trong việc sắp xếp các cuộc phỏng vấn theo chủ đề và theo một trình tự hợp lý, phù
hợp với ý đồ sáng tạo của bà. Để nhấn mạnh đặc điểm về giới, Svetlana Alexievich cũng sắp
xếp các lời kể thành 17 chương theo vòng đời của một phụ nữ: khi họ là những cô bé, rồi
những cô gái đang yêu, những người vợ và cuối cùng là những người mẹ. Việc sắp xếp theo
trình tự này hướng người đọc đến một thông điệp cuối cùng: Chiến tranh đã quất vào mọi
giai đoạn cuộc đời của phụ nữ Liên Xô. Lúc nào nó cũng hiển hiện, có thể hủy hoại, cũng
có thể không, nhưng sau khi bước qua chiến tranh, chẳng ai còn như họ đã từng. Tựa như
sau buổi tuyển quân, họ bước vào với bím tóc có đuôi, áo dài, giày ban, rồi bước ra với tóc
cắt lởm chởm kiểu đàn ông, áo varơi và ủng lính lớn hơn chân họ 5 số. Hết phụ nữ, chỉ còn
lính. Trước chiến tranh, trong mắt mọi người họ là những cô gái xinh đẹp; sau chiến tranh,
họ trở thành những người phụ nữ xấu xí bị gia đình và xã hội ruồng bỏ.
Cấp độ tự sự công khai có “hiệu lực” khi cuốn sách được xuất bản ra thị trường, mọi
độc giả đều có thể mua, đọc trực tiếp những trao đổi riêng tư giữa những nữ cựu binh và
Alexievich(1). Và bởi vì mang tính chất công khai, hướng đến công chúng nên nó chịu hai
lớp kiểm duyệt gắt gao, chính tác giả tự kiểm duyệt và biên tập nhà xuất bản - một đại diện
xã hội - thực hiện công tác kiểm duyệt. Tác phẩm bị hai vòng kiểm duyệt không chỉ vì đây
là tiếng nói công khai của nữ giới mà quan trọng hơn, là tiếng nói của nữ giới hướng đến đề
tài chiến tranh - một đề tài mà nam giới luôn nói thay phụ nữ hoặc nếu phụ nữ nói thì phải
kìm nén giọng điệu riêng và uốn nắn, hòa vào giọng điệu chung (do đàn ông xây dựng nên,
theo cách nhìn nữ quyền luận).
Khác với cấp độ tự sự công khai, cấp độ tự sự riêng tư (private narration) hướng đến
đối tượng người nghe được xác định rõ, cùng tồn tại trong thế giới văn bản. Người trần
thuật của cuốn sách này - những nữ cựu binh - hướng đến hai đối tượng tiếp nhận, một
là Svetlana, hai là chính bản thân người trần thuật. Quan hệ giao tiếp hướng đến Svetlana
với tư cách là một người cùng cộng đồng nữ giới, nhằm mục đích tìm kiếm sự chia sẻ, lắng
nghe; hướng đến bản thân như một sự tự soi chiếu, tự khơi gợi lại và tự nhìn nhận lại
những ký ức chiến tranh.
Cần lưu ý, mối quan hệ giữa Alexievich và những người nữ cựu binh không chỉ là giữa
1. Trước khi thành sách, tác phẩm vốn là kịch bản của phim tài liệu truyền hình với cùng nhan đề. Tính chất đại chúng
của truyền hình với tư cách vừa là báo chí vừa là điện ảnh (so với văn học) làm tăng tính chất công khai của tự sự.
126 Z Z Z REVIEW
Quá trình tiếng nói phụ nữ di chuyển theo chiều dọc qua hai cấp độ tự sự cũng là tiến
trình mở rộng phạm vi hoạt động theo bề rộng. Ban đầu, mọi cuộc phỏng vấn đều diễn ra
trong phòng kín, giữa một người đi tìm tiếng nói nữ với những người phụ nữ Liên Xô từng
trải qua Chiến tranh thế giới thứ hai. Lúc này, tiếng nói phụ nữ đóng khung trong cộng
đồng nữ cựu binh Liên Xô. Nếu tiếng nói ấy thoát ra khỏi khung cộng đồng giới, nó sẽ trở
nên “tẻ nhạt, lạnh lùng, tuân theo đúng cách với mẫu hình thông thường”. Số lượng người
tham gia vào không gian riêng tư càng tăng thì tính chất trung thực của câu chuyện và cảm
nhận cá nhân càng giảm. Vì tiếng nói của phụ nữ lúc này vấp phải sự cản trở vô hình của
những tiếng nói nam quyền.
Nhờ xây dựng không gian ở cấp độ riêng tư bằng hình thức phỏng vấn, Alexievich
đã giữ nguyên được độ chân thực của câu chuyện chiến tranh nhìn qua lăng kính nữ. Khi
bản thảo được xuất bản lần đầu vào năm 1985, bước từ không gian riêng tư sang không
gian công khai thì nó bị kiểm duyệt, cắt bớt đến một phần tư dung lượng. Điều này chứng
tỏ, tiếng nói phụ nữ về chiến tranh những năm 80 của thế kỷ XX ở Liên Xô không bị cấm
nhưng xã hội vẫn chưa chấp nhận những trải nghiệm thực tế và những chi tiết bi thảm,
nhạy cảm về chiến tranh trong câu chuyện của những nữ cựu binh Xô viết. Hai mươi năm
sau, khi được tái bản, tác phẩm đã được khôi phục lại gần như toàn bộ. Alexievich cho in
tất cả nội dung bà từng tự kiểm duyệt, bị kiểm duyệt, và cả những mẩu đối thoại giữa bà và
người kiểm duyệt diễn ra trong lần biên tập đầu tiên. Rõ ràng, sau một thời kì dài lịch sử,
phạm vi hoạt động và mức độ tự do hoạt động của tiếng nói phụ nữ đã được mở rộng, xã
hội đã dần chấp nhận kinh nghiệm riêng của nữ giới về cuộc chiến khốc liệt nhất lịch sử
nhân loại.
Quá trình đưa những mẩu tự sự riêng tư trở thành một tự sự công khai là một chuỗi
hành động tạo lập tự sự: sắp xếp những cuộc phỏng vấn theo một trình tự hợp lý trên bản
thảo, đặt cho nó một cái tên đầy chất văn và đa nghĩa: “Chiến tranh không có một khuôn
mặt phụ nữ”, đưa đến tay biên tập viên và bị kiểm duyệt, rồi phổ biến nó ở chợ đen (giai
đoạn đầu cuốn sách bị cấm) hay phát hành nó, đặt lên kệ cùng những cuốn sách mang đề
tài, chủ đề khác. Chuỗi hành động tạo lập tự sự này biến tác phẩm của Svetlana Alexievich
trở thành một tư liệu lịch sử. Qua đó, tác phẩm có thể trở thành đối tượng nghiên cứu của
ngành lịch sử phụ nữ nói chung và lịch sử phụ nữ trong Chiến tranh thế giới thứ hai nói
riêng, lịch sử loại thể tự sự văn học và lịch sử tiếng nói nữ quyền... Ngược lại, lối viết nữ
trong quyển sách cũng mở rộng biên độ cho nghiên cứu lịch sử ở chỗ, nó cho phép khai
thác phương diện tri thức lịch sử cụ thể, đặc biệt là tâm hồn con người.
“Không ai bị quên đi, không điều gì bị quên đi” là câu nói của Olga Bergholz khắc trên nghĩa
trang tưởng niệm Leningrad (St. Petersburg). Sự thật là người ta không lãng quên tiếng nói
của phụ nữ nói chung. Evtushenko từng nói rằng muốn hiểu mất mát đau thương của chiến
tranh thì người ta phải lắng nghe tiếng khóc than của người phụ nữ; “hãy hỏi những người
mẹ và những người vợ” (Người Nga có muốn chiến tranh) bởi vì bao nhiêu người lính ra
trận, bao nhiêu người lính hy sinh và mất tích là bấy nhiêu người mẹ khóc con, người vợ
khóc chồng. Người đàn ông ra đi không đau đớn bằng người phụ nữ ở lại một mình nuôi
cháu, nuôi con. Tuy nhiên, trong xã hội còn nặng khuôn mẫu cũ về giới (gender stereotype)
thì chỉ có tiếng nói của người phụ nữ trong vai trò làm vợ, làm mẹ mới được chấp nhận và
đề cao, còn tiếng nói của những phụ nữ trong vai trò chiến sĩ vẫn còn rất xa lạ.
Trong một vài trường hợp, tiếng nói và số phận của những phụ nữ trực tiếp tham
chiến được xã hội trân trọng nhưng hình ảnh của họ thường gắn với chủ nghĩa dân tộc. Ở
Nga, có hơn hai mươi bảo tàng dành cho Zoya Anatolyevna Kosmodemyanskaya - người
phụ nữ đầu tiên được trao tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô (truy tặng) trong Chiến
tranh thế giới thứ hai. Zoya Kosmodemyanskaya trở thành một trong những biểu tượng
của chủ nghĩa anh hùng của nhân dân Xô viết, được phản ánh trong văn học, báo chí, điện
ảnh, hội họa, các công trình tưởng niệm. Trong Lễ kỉ niệm “Chiến thắng Phát xít” hằng
năm diễn ra ở nước Nga (từ 1991 trở đi), những nữ cựu binh Hồng quân Liên Xô cũng đeo
huy chương, huân chương để tưởng nhớ về cuộc chiến Vệ quốc vĩ đại, về những người đã
hy sinh cho dân tộc.
Alexievich cho rằng lịch sử của phụ nữ
là lịch sử câm lặng: “Họ (phụ nữ) đã câm lặng lâu
đến mức sự im lặng của họ, cả nó nữa, cũng trở
thành lịch sử.” Thật ra, tiếng nói của phụ nữ luôn
luôn tồn tại, chỉ có mức độ hoạt động và không
gian hoạt động khác nhau. Tuy nhiên, người ngoài
rất khó nghe được tiếng nói đó bởi vì phụ nữ chỉ
nói khi họ cảm thấy đang ở trong một môi trường
an toàn, kín đáo. Và cũng rất khó tạo được một môi
trường an toàn đó. Khi cái logic (bị coi là) “đàn bà”
phát ngôn ở những không gian ngoài phạm vi cho
phép, nó gây cho người nghe sự sửng sốt, vì hiện
thực cuộc chiến từ lăng kính của phụ nữ khác hoàn
toàn với những gì xã hội nam quyền kiến tạo nên.
128 Z Z Z REVIEW
Và vì số lượng nam chiến sĩ đông đảo hơn, câu chuyện của họ được kể nhiều hơn, tần suất
dày đặc hơn nên tiếng nói của họ trở thành tiếng nói đại diện. Còn tiếng nói phụ nữ không
mạnh mẽ và quen thuộc như nam giới nên trở thành cái ngoại vi, cái phi chính thống. Vì
vậy, có thể ngỡ rằng phụ nữ “câm lặng”. Nhưng bản thân lịch sử xuất bản cuốn sách, sự gớm
sợ của kiểm duyệt trước những chi tiết khốc liệt trong đó, cùng việc chúng ta biết được
những điều này, chứng tỏ tiếng nói của phụ nữ về chiến tranh vẫn tồn tại âm thầm nhưng
mạnh mẽ, chờ được nói ra. Ngày nay, toàn bộ nội dung của tác phẩm đã được dịch ra nhiều
ngôn ngữ và đón nhận nhiệt liệt ở nhiều quốc gia, chứng tỏ thế giới đã chú ý lắng nghe
những âm vang khác từ cuộc chiến ác liệt nhất lịch sử nhân loại. Con người đang tìm kiếm
những bộ mặt khác của chiến tranh, đầu tiên là “khuôn mặt nữ”. Lịch sử nam giới đã được
viết, lịch sử phụ nữ cần được kiến tạo, từ đó hy vọng sẽ có thể xây dựng một lịch sử đủ mặt
tất cả mọi người.
Cách người ta rao giảng về nó trên tạp chí có thể khiến bạn ngỡ nó mới
được phát minh, không những thế còn là thứ gì đó to tát, tưởng đâu vắc-
xin ngừa ung thư vậy. Nó được viết hoa, chễm chệ ngay trang bìa. Bên
trong là những bài trắc nghiệm tương tự những bài từng được đăng về
“bạn có phải người vợ hiền” hoặc “bạn thuộc tạng người mập mạp hay
mình dây”, với cách tính điểm được in ngược ở trang 73, rồi vài ba trò tự
chế được đánh số. CƯỠNG DÂM VÀ MƯỜI ĐIỀU CẦN BIẾT, cái tựa
thoạt nghe na ná mười kiểu tóc đáng thử. Có gì mới mẻ đâu nào?
Tại nơi làm việc, ai ai cũng nói về chủ đề này, bởi cho dù bạn có lật
tạp chí nào, nó vẫn yên vị đấy, chĩa ánh nhìn về bạn. Người ta mới đưa nó
lên sóng truyền hình nữa. Tôi thà xem những bộ phim có June Allyson thủ
vai còn hơn, ngặt nỗi dòng phim này không còn được sản xuất, mà cũng
chẳng mấy khi được chiếu trên “Chương trình đêm khuya”. Hôm kia (nếu
không nhầm là thứ Tư), tiện đây thì “ơn Chúa, thứ Sáu đây rồi!”, chúng
tôi ngồi chơi trong phòng ăn trưa nữ - phòng ăn trưa, không gian mà bạn
ngỡ sẽ tìm được sự bình yên và tĩnh lặng - bỗng Chrissy gấp quyển tạp chí
cô nàng đọc nãy giờ lại, cất giọng hỏi, “Thế nào hả, các cô gái, các cô từng
có huyễn tưởng cưỡng dâm chưa?”
Bấy giờ bốn người chúng tôi đang chơi bài brít như mọi lần. Tôi mới
có mười hai điểm, tính cả chuỗi một cây bài không dùng được để trả giá
bất kỳ nơi nào. Tôi rao giá một chuồn, với hy vọng Sondra sẽ nhớ giao ước
ngầm này, vì lần trước tôi làm vậy, cô nàng tưởng tôi ra chuồn thật. Thế là
130 Z Z Z REVIEW
cô ta rao giá gấp ba lần bình thường, mà không hay biết tôi cầm bốn cây nhỏ, không cây
nào cao quá sáu. Chúng tôi đã yếu thế sẵn, lại rơi mất hai điểm. Sondra không phải tay
chơi bài brít cừ khôi nhất thế giới. Tôi cũng không khác là bao, nhưng dẫu gì cũng có
chừng mực.
Darlene bỏ lượt, nhưng chẳng thể cứu vãn tình hình. Đầu Sondra quay vòng vòng như
được tra ổ bi, cô ta hỏi, “Huyễn tưởng gì cơ?”
“Huyễn tưởng cưỡng dâm,” Chrissy đáp lời. Cô là nhân viên tiếp tân và thực tế trông
đúng như vậy; cô xinh đẹp nhưng lãnh đạm, như thể khắp người được phủ một lớp sơn
móng tay. Bóng loáng. “Đây này, họ nói phụ nữ ai cũng có những tưởng tượng như thế.”
“Chúa ơi, tôi đang ăn dở cái bánh mỳ trứng,” tôi đáp, “tôi rao giá một chuồn, Darlene
vừa bỏ lượt.”
“Ý cô là, gã nào đó xồ lấy cô trong ngõ vắng?” Sondra đặt nghi vấn. Cô nàng đang mải
ăn, chúng tôi vẫn hay vừa ăn vừa chơi bài. Cô cắn một mẩu cần tây rồi nhai, với vẻ suy tư
hiện trong mắt, tôi thấy thôi thì chúng tôi dẹp luôn ván bài cho xong.
“Ừ, kiểu vậy,” Chrissy đáp. Mặt cô đỏ lên thấy rõ ngay cả dưới lớp trang điểm.
“Tôi nghĩ cô không nên ra ngoài một mình vào ban đêm,” Darlene nhận xét, “bằng
không cô đẩy mình vào thế không an toàn,” có thể tôi nhầm nhưng rõ ràng chị ta vừa nói
vừa nhìn tôi. Darlene là người lớn tuổi nhất trong đám, dù không dễ gì nhận ra chị đã bốn
mươi mốt và chị ta cũng không nhận thức được điều này, còn tôi phải lục hồ sơ nhân viên
mới biết. Tôi thích đoán tuổi người khác, rồi tra hồ sơ để chứng thực. Tôi buông mình hút
thêm bao thuốc lá trong trường hợp đoán trúng, mặc dù đang cố cắt giảm. Thứ này vô hại
thôi, chừng nào bạn không mở miệng kể với ai. Không phải người nào cũng tiếp cận được
tài liệu ấy vì ít nhiều nó cũng là tài liệu mật. Nhưng nếu tôi kể bí mật này cho bạn thì cũng
chẳng sao, đằng nào bạn cũng có gặp Darlene bao giờ, dù nào ai biết trước chuyện tương lai,
trái đất tròn mà. Dù sao đi nữa.
“Trời ạ, đây mới là Toronto thôi,” Greta gạt đi. Cô đã làm việc ở Detroit trong ba năm,
cô ta sẽ buộc bạn phải nhớ điều này, như thể cô ta nghĩ mình là nữ hùng thời chiến vậy,
chúng tôi nên cảm thấy ngưỡng mộ Greta chỉ vì nhẽ cô ta còn tồn tại trên thế gian này, dù
trên thực tế, cô ta vẫn sống ở Windsor trong suốt thời gian đó, chỉ tới Detroit làm việc. Mà
như thế thì không tính. Chỗ ngủ mới là vấn đề, phải không?
“Thế chị đã bao giờ chưa, Darlene?” Chrissy hỏi. Rõ ràng cô muốn kể cho chúng tôi
nghe chuyện của mình nhưng không có ý định mở đầu, một biểu hiện của sự thận trọng.
“Tôi chưa,” Darlene nhăn mũi đáp như thế này khiến tôi bật cười. “Tôi nghĩ nó thật
ghê tởm.” Chị ta đã ly dị nhưng chưa bao giờ nói với ai, sở dĩ tôi biết cũng là nhờ tập tài liệu
trên. Chuyện có lẽ đã xảy ra nhiều năm về trước. Nói rồi Darlene đứng dậy, tiến lại gần máy
pha cà phê, rồi quay lưng lại đám chúng tôi như ra hiệu cho việc cô chẳng còn gì để nói nữa.
132 Z Z Z REVIEW
Mẹ Maria không bằng. Thỉnh thoảng đùa một chút nào phải chuyện gì to tát. Đời là mấy
tí, đúng không?
“Nghe này,” tôi nhấn mạnh, “những chuyện các cô vừa kể không phải huyễn tưởng
cưỡng dâm. Ý tôi là, các cô nào đã bị cưỡng hiếp, họa chăng là mấy anh chàng mà các cô chưa
hẹn hò chính thức tình cờ lại có vẻ ngoài hấp dẫn hơn Derek Cummins” - ông Trợ lý Giám
đốc, đi đôi giày độn hoặc ít nhất cũng là loại giày đế dày cộm, lại còn có kiểu nói chuyện hết
sức buồn cười, chúng tôi gọi ông ta là Derek Duck - “và các cô được vui thú. Cưỡng dâm là
khi mấy gã đó cầm dao khống chế, còn các cô không muốn.”
“Còn cô thì sao, Estelle?” Chrissy hỏi, cô nàng có vẻ phật lòng vì tôi cười nhạo câu
chuyện cô vừa kể, cho rằng tôi cố ý hạ thấp cô ta. Sondra cũng mếch lòng, lúc này cô mới
giải quyết xong cọng cần tây ban nãy. Cô háo hức tới phiên mình kể nhưng đã xen vào quá
chậm.
“Thôi được, để tôi kể các cô nghe một cái,” tôi mở lời. “Một đêm nọ, tôi đang đi dọc
con phố tối mịt thì bỗng nhiên một gã từ đâu tiến lại túm tay tôi. Tôi tình cờ có quả chanh
nhựa trong ví, các cô biết người ta vẫn hay khuyên nên mang thứ đó mà? Nói thế không
có nghĩa tôi luôn sẵn nó bên người, tôi đã thử mang một lần và thứ chất lỏng đó rỉ ra khắp
cuốn séc của tôi. Nói chung, các cô chỉ cần biết nó xuất hiện trong huyễn tưởng này. Tôi
hỏi gã, ‘Anh chuẩn bị đè tôi ra, đúng không?’ Gã gật đầu, thế là tôi lục ví tìm quả chanh
nhựa, mà chẳng thấy đâu! Ví tôi chứa đầy những thứ lặt vặt: giấy ăn, thuốc lá, ví đựng tiền,
thỏi son, bằng lái xe, mấy thứ các cô biết đấy. Tôi liền bảo gã chìa tay ra, thế này này, rồi chất
đống đồ lên tay gã. Loay hoay mãi, cuối cùng tôi cũng thấy quả chanh dưới đáy ví, nhưng
không sao mở được nắp. Thế là tôi đưa quả chanh cho hắn. Gã tỏ ra rất sốt sắng, vặn nắp
rồi đưa lại tôi. Tôi phun tùm lum nước chanh lên mắt hắn.”
Mong bạn không cho rằng hành động của tôi quá tàn nhẫn. Nghĩ lại, kể ra làm vậy có
hơi ác thật, nhất là khi gã đã hành xử lịch sự.
“Cô gọi đấy là huyễn tưởng cưỡng dâm ư?” Chrissy không thấy thuyết phục. “Tôi
chẳng tin.”
“Cô ta giỏi pha trò,” Darlene đế vào. Tôi và chị ta là hai người có thâm niên công tác
ở nơi này nhất. Có lẽ chị ta sẽ không bao giờ quên lần tôi say mèm ở bữa tiệc của công ty,
lần đó tôi nhất quyết đòi nhảy dưới gầm thay vì trèo lên bàn. Tôi nhảy một điệu Cossack
nhưng rồi cộc đầu vào gầm bàn - đúng hơn là bàn làm việc - khi định đứng lên thì tôi lăn ra
bất tỉnh. Darlene kết luận đây là dấu hiệu của một trí óc độc đáo khác người, thế là chị ta
kể lại cho mọi người mới vào. Tôi cho rằng chị ta làm vậy là thiếu công bằng với tôi, dù tôi
đã làm thế thật đi nữa.
“Tôi đang cực kỳ thành khẩn,” tôi đáp. Tôi luôn như vậy và đến cả họ cũng biết. Chẳng
lý gì mà phải thay đổi bản thân cả, đấy là cách tôi tiếp cận vấn đề. Sớm muộn sự thật cũng
134 Z Z Z REVIEW
phổ thông cho gã, nhưng là cơ sở Leamington, còn cơ sở tôi vẫn ghé nằm ở St. Catharines.
Nói để bạn biết, tôi từng cảm thấy rất cô độc khi mới chuyển tới nơi này; tôi từng nghĩ đây
sẽ là một chuyến phiêu lưu lớn, nhưng gặp gỡ kết bạn ở thành phố khó khăn hơn tôi tưởng.
Nhưng có lẽ cánh đàn ông thì khác.
Có một huyễn tưởng thì tôi đang nằm giường, mặt mũi sưng húp vì cảm cúm, mắt tôi
đỏ kè và nước mũi thòng lòng hệt cái vòi nước bị rò. Bất chợt một gã trèo vào từ cửa sổ, gã
cũng bị cảm nặng, một loại cúm mới đang lây lan khắp nơi. “Tôi sẽ hiếp cô” - bỏ quá cho
tôi bịt mũi thế này nhưng tôi tưởng tượng đúng thế đấy - sau khi hắt một hơi rất mạnh, gã
chậm lại một chút, mà cũng bởi tôi nào phải giai nhân tuyệt sắc cho cam, có chăng chỉ mấy
tên biến thái mới lao thân vào một người bị cảm nặng như tôi, khác nào hãm hiếp lọ keo
dán LePage với cái tình trạng mũi tôi ròng ròng như vậy. Gã ta nhìn dáo dác khắp phòng,
tôi nhận ra gã đang tìm một tờ giấy Kleenex! “Nó đây này,” nói rồi tôi đưa gã tờ giấy ăn, có
Chúa mới biết tại sao gã vẫn còn sức nhao ra khỏi giường. Thường thì đợi đến khi đỡ bệnh
người ta mới trèo vào cửa sổ nhà khác, đúng chứ? Ý tôi là, hành động này tốn rất nhiều
sức. Tôi đề nghị hay là chế cho gã thuốc giải cảm NeoCitran pha rượu Scotch, tôi vẫn hay
uống thế, không khiến gã khỏi nhưng chí ít không còn cảm thấy khó chịu. Tôi đưa thuốc
cho gã uống rồi chúng tôi cùng xem “Chương trình đêm khuya”. Suy cho cùng, không phải
ai trong số họ cũng là những kẻ cuồng dâm, thời gian còn lại trong ngày họ dành để sống
phần đời bình thường. Tôi hình dung họ cũng thích xem “Chương trình đêm khuya” như
bao ai khác.
Tuy nhiên, tôi cũng có những huyễn tưởng rùng rợn hơn nhiều ... một gã viện lời
mách bảo của thiên thần phải lấy đi sinh mạng tôi, bạn biết đấy, có thể bạn đã đọc qua thứ
gì đó tương tự trên các mặt báo. Địa điểm diễn ra huyễn tưởng này không phải căn hộ nơi
tôi đang cư ngụ, mà ở nhà mẹ tôi tại Leamington. Gã náu mình dưới hầm, đợi tới khi tôi
xuống lấy lọ mứt rồi lao ra túm lấy tay tôi. Gã cầm cái rìu lấy từ ga ra, đấy là huyễn tưởng vô
cùng đáng sợ. Biết nói gì với một gã điên bây giờ?
Thoạt đầu tôi run lẩy bẩy, nhưng sau chừng một phút tôi nhanh chóng lấy lại bình
tĩnh. Tôi hỏi gã có chắc người mà thiên thần chỉ điểm là tôi không, vì tôi cũng từng nghe
tiếng báo tương tự từ thiên thần. Hồi giờ thiên thần mách tôi rằng, tôi sẽ sinh hạ một sinh
linh do thánh Anne đầu thai, rồi người này sẽ sinh ra Đức Mẹ Maria và thế hệ kế cận là
Chúa Giêsu, sau cùng là ngày tận thế. Không đời nào gã muốn can hệ vào chuyện này, phải
không? Gã lúng túng nghe trọn những gì tôi kể, rồi gặng hỏi vết tích thiên thần để lại. Tôi
cho gã xem vết tiêm vắc-xin có hình thù kỳ cục thấy rõ của mình, nó bị nhiễm trùng do tôi
bóc lớp vảy trên cùng ra. Gã xin lỗi tôi, rồi trèo ra theo máng đổ than như cách gã lẻn vào
ban đầu. Tôi nhủ thầm, được nuôi dạy trong gia đình theo đạo Thiên Chúa đem đến cho
tôi nhiều cái lợi không tưởng, dù tôi không đi nhà thờ kể từ khi người ta chuyển qua dùng
136 Z Z Z REVIEW
thức giấc vào buổi sáng, dù tôi chưa từng định rõ người nào trong hai đứa sẽ nhắm mắt xuôi
tay trước. Nếu là người kia, tôi sẽ phải tiếp tục vẽ ra viễn cảnh về đám tang, còn nếu người
chết trước là tôi, tôi chẳng phải mất công tiếp tục, nên cái này còn phụ thuộc vào mức độ
mệt mỏi của tôi khi ấy nữa. Bạn có thể không tin nhưng đôi lúc tôi không kìm được mà òa
khóc. Tôi rơi nước mắt mỗi khi phim chiếu đến cảnh cuối, kể cả những bộ không quá sầu
thảm, nên tôi khóc cũng đâu có gì lạ. Mẹ cũng y hệt tôi.
Điều nực cười về những huyễn tưởng này là nhân vật nam luôn là những người tôi
không hề quen biết. Trong khi ấy, những thống kê trong hầu hết các tạp chí đều cho rằng
kẻ xấu thường là ai đó ít nhiều thân thuộc với bạn, chẳng hạn như sếp - tất nhiên không
thể nào là sếp tôi, người đã ngoài sáu mươi mà tôi chắc mẩm bản lĩnh đàn ông đã cạn mòn,
nghĩ cũng tội nghiệp, mà có thể là một người như Derek Duck, trong đôi giày độn đế, nói
phỉ phui - hay người nào đó bạn mới quen mời bạn lên nhà làm một ly. Tình hình hiện
tại đã tới mức khó thể giao lưu với ai nữa, làm sao kết thân được với ai khi đến cái điều cơ
bản ấy bạn cũng chẳng tin tưởng họ? Bạn đâu thể dành cả đời trong phòng Văn thư hay
nhốt mình trong căn hộ, khóa chặt các cửa và rủ rèm kín mít. Tuy không phải con sâu rượu
nhưng thỉnh thoảng tôi thích ra quán làm vài ly, ngay cả khi chỉ đi lẻ bóng. Tôi nhất trí với
chủ nghĩa nam nữ bình quyền trong vấn đề này, dù không đồng tình với nhiều thông điệp
khác mà họ truyền tải. Đơn cử một chuyện, phục vụ ở quán này đều biết tôi, ngộ nhỡ có
ai quấy rối tôi... Tôi không rõ tại sao lại nói với bạn những điều này, có chăng tôi nghĩ cách
tìm hiểu một người, chí ít là ban đầu, đấy là lắng nghe những gì họ nghĩ. Ở chỗ làm, tôi bị
gán biệt hiệu “lo lắng quá đà”, nhưng không phải vì âu lo thái quá hay gì hết, mà hình dung
những việc cần làm trong tình huống nguy cấp thì đúng hơn, như tôi vừa kể.
Thêm một điểm nữa là những đoạn hội thoại xuất hiện với tần suất dày đặc trong các
huyễn tưởng của tôi. Thật vậy, tôi dành phần lớn thời gian để nghĩ về những điều tôi và
người kia sẽ nói. Tôi chỉ đơn thuần nghĩ rằng sẽ tốt hơn khi có một cuộc hội thoại diễn ra.
Kiểu như, sao gã nỡ làm chuyện đó với người vừa chuyện trò hồi lâu cùng mình? Một khi
bạn nhắc nhở rằng bạn cũng là người, cũng có cuộc sống của riêng bạn, lẽ nào gã vẫn có
khả năng thực hiện? Đành rằng trên đời vẫn có chuyện như thế, chỉ là tôi không sao lý giải
được, đấy là chỗ tôi thực sự không hiểu.
138 Z Z Z REVIEW
SÁCH MỚI LÊN KỆ NHÃ NAM
140 Z Z Z REVIEW
Dựa theo bìa Chuyện người Tùy nữ, Nhã Nam tái bản 2018. Tranh Nguyễn Bảo Anh.
CHO TÔI CẢM ƠN BÁC TRUMP
Những người sản xuất của Hulu vẫn hoài công nhắc nhở rằng season 1 bộ phim đã gây
sóng gió The Handmaid’s Tale (2017) đã lên ý tưởng chuẩn bị đi vào sản xuất từ lâu trước
khi Đại gia Trump trở thành Người Quyền Lực Nhất Trái Đất số 45 và một nửa nước Mỹ
chợt thấy mặt đất dưới chân mình chao đảo, trong số đó có một lượng lớn các chị em kinh
hãi thấy “grab them by the pussy” hẳn sẽ đi vào lịch sử trong top 5 danh ngôn được trích
dẫn nhiều nhất của các đời tổng thống. Nhưng nếu trái đất đã xoay đi hơi khác, thì dưới
thời nữ tổng thống đầu tiên của Hua Kỳ, hẳn đã không có các Women’s March hay khí thế
tức nước vỡ bờ của #MeToo, bộ phim cũng không thể lên như diều gặp gió thời đại, các site
phim lậu ở đất nước luôn nhanh nhảu về giải trí ở cách nửa vòng trái đất rẽ từng mây đã
không nhập khẩu về ồ ạt, khiến một loạt bạn trẻ thế hệ sau bỗng dưng sốt sắng đi lùng tìm
một cuốn sách ế đã tuyệt bản vài năm nay, làm đơn vị xuất xưởng cuốn sách ế nói trên sau
khi nhấc lên đặt xuống nhiều lần cũng nhún vai tái bản, còn tôi có dịp đọc lại bà nhà văn
đã trở thành ánh sáng của đời tôi này. Vậy là qua một chuỗi sự kiện rất ngoắt ngoéo về logic
và cộng dồn những (tiến) độ trễ về thời gian, tôi có Trump để cảm ơn (và quý vị đã biết ai
cần đổ tội) vì có cơ hội viết những dòng này, về Chuyện người Tùy nữ sắp tái bản tiếng Việt
và hứa hẹn vẫn ế y như trước.
Bài viết dài vạn chữ; trong lúc suy nghĩ xem có thực sự nên lao vào hay không, mời quý
vị ngắm một vài tấm ảnh cosplay Tùy nữ ngoài đời thực:
Một sự khảo cổ kiểu Foucault về danh tiếng đôi khi nhắc lại cho ta những điều đáng kinh
ngạc. Margaret Atwood, bảo vật quốc gia và mặt hàng xuất khẩu văn học hàng đầu của
Canada, 5 tiểu thuyết vào chung kết [Man] Booker, hot girl của văn học highbrow hiện
đại, đã thay hình đổi lốt rất nhiều trước khi đậu lại thành “bà già tiểu thuyết nữ quyền số
1 thế giới” (nói tiếng Anh) như ngày nay. Nguyên thủy, bà là nhà thơ. Tập thơ đầu tay The
Circle Game, 1964, khi bà 25 tuổi và đã kết thúc cao học ở Harvard, in ở một nhà in không
thể indie hơn, với một cái bìa tự vẽ, giành Giải Thủ hiến danh giá nhất Canada năm 1966;
bà đã ra thêm 3 tập thơ nữa trước khi tiểu thuyết đầu tay The Edible Woman ra mắt sau 2
năm nằm lì trong chồng bản thảo bị lãng quên nhờ được giải thưởng kia ủn mông. Không
phải bà lập tức thành nhà tiểu thuyết nổi tiếng: cuốn sách được chú ý tiếp theo là Survival:
A Thematic Guide to Canadian Literature, một thứ “sổ tay tìm hiểu văn học Canada” qua
chủ đề “Sống sót” mà bà coi là cái làm nên Canada tính. Cuốn sách nghiên cứu văn học này
bán được 30 nghìn bản, gấp mười lần mong đợi của tác giả lẫn nhà xuất bản, và có ý kiến
cho rằng chính nó đã giúp hồi phục nhà xuất bản indie House of Anansi lúc đó đang chật
vật sắp khai tử.
Thời gian sau đó, Atwood làm thơ và viết truyện ngắn, tiểu thuyết, nhưng chủ yếu
là viết bài, biên tập, dạy học, đi giảng khắp nơi. Nhiệt tâm của bà thời kỳ này dồn vào
việc phát hiện lại văn học Canada mà trước những năm 1960 vẫn bị coi là không tồn tại,
không có lấy một hình mẫu, và không một nhà xuất bản cho ra hồn. (Hội đồng nghệ
thuật Canada, nhằm hỗ trợ cho tác giả và nghệ sĩ Canada - trong nước cũng như quốc
tế; cả hai cuốn Atwood dịch ở Việt Nam cũng như rất nhiều cuốn sách của các tác giả
Canada khác đều có sự hỗ trợ của hội đồng này - mãi tới năm 1957 mới được lập ra,
6 năm sau khi bản báo cáo Massey cho biết sau Thế chiến 2, có những năm xuất bản
Canada chỉ cho ra chưa đầy 20 cuốn sách hư cấu. [Độ trễ có vẻ cũng là một hiện tượng
phổ biến ở Canada.]) Survival của bà đã cho Canada một ý thức về bản thân, dù là một
ý thức gây tranh cãi và phản bác đến tận giờ; những hoạt động của bà ở Hội nhà văn
Canada và PEN Canada cũng như các buổi giảng ở nước ngoài nỗ lực giới thiệu văn học
Canada ra thế giới. Năm cuốn tiểu thuyết đầu tiên, và mười trong số mười sáu cuốn tiểu
thuyết đã ra mắt (mới nhất 2016) của bà đều lấy bối cảnh Canada, với dàn nhân vật và
những vấn đề Canada đậm đặc; việc Chuyện người Tùy nữ lấy bối cảnh ở một nước Mỹ
viễn tưởng hóa đã trở thành cuốn sách nổi tiếng thế giới đầu tiên và phổ biến nhất của
142 Z Z Z REVIEW
bà, cơ hồ xóa hẳn tính ngữ “Canada” khi thế giới nghĩ đến Atwood, có thể coi là một sự
mỉa mai của danh tiếng và sự truyền bá tác phẩm văn học(1).
Trên bình diện tạm gọi là tính nữ cũng tương tự: Chuyện người Tùy nữ, ba mươi ba
năm sau khi nó ra đời, nổi tiếng, trở thành kinh điển, được lọc qua bộ lọc của nhiều năm
SparkNotes, CliffNotes và các loại Notes và bây giờ là qua bộ lọc của series phim Hulu, đã
được tiếp nhận như là đại biểu của Atwood, nữ quyền, và nữ quyền made in Atwood. Với
hầu hết độc giả, đấy sẽ là sự tiếp nhận đầu tiên và duy nhất về bà, nếu có. Xét trên góc độ
một fan Atwood đang phấn đấu trở thành completist, hay một độc giả chuộng văn học cao
cấp, đây là một điều đáng tiếc: Chuyện người Tùy nữ như một tác phẩm, có thể gọi là ở mức
trung bình của Atwood, giống như 1984 là mức trung bình của Orwell. (Nói như vậy, dĩ
nhiên, không có nghĩa đó là một tác phẩm ở mức trung bình per se.) Thân phận người nữ
trong đó nhạt nhòa so với ngay cả những cuốn sớm như Surfacing hay Lady Oracle, không
hình tượng nữ nào sánh được những quái tượng trong The Robber Bride hay Alias Grace,
thế giới viễn tưởng thua xa sự đầu tư và chi tiết khi xây dựng MaddAddam và thiếu tính
giải trí hơn hẳn The Heart Goes Last, còn lối văn tỉ mẩn khiến nhiều người ứa nước mắt vì
đẹp còn nhiều người khác nghiến răng vì không chịu nổi, thì mới ở trình tập sự so với Tay
sát thủ mù đoạt giải Man Booker hay cuốn mới nhất Hag-Seed cự phách.
Tuy nhiên, xét trên góc độ “vấn đề phụ nữ”, cả trong tác phẩm lẫn trong sự tương tác
với thế giới bên ngoài, thì Chuyện người Tùy nữ là một cuốn vỡ lòng rất tốt; nó không chỉ
gom hầu như đầy đủ mọi vấn đề Atwood từng bàn đến về cái tạm gọi là căn tính nữ, mà còn
tiếp cận những vấn đề đó theo những hướng mà các tác phẩm về sau chỉ củng cố và làm rõ
thêm chứ không hề lật ngược. Sự tiếp nhận bùng nổ của những người xem đối với season
1 của phim, việc cuốn sách trở thành đầu sách bán chạy nhất của Amazon và Audible năm
2017, cho thấy bộ vấn đề đó đã và vẫn là những điều cơ bản mà phụ nữ ngày nay phải đối
mặt, dù có thể hình hài đã thay đổi chút ít. Và Atwood, một nhà hoạt động xã hội/chính
trị/môi trường cũng nhiều như một nhà văn, hẳn không phiền khi thấy thế hệ mới đã hớn
hở cướp lấy biểu tượng ruột của bà để biến thành một biểu tượng hùng mạnh của hoạt
động chính trị thập kỷ 201x.
1. Trong năm cuốn còn lại, bộ ba MaddAddam cùng cuốn The Heart Goes Last diễn ra ở thế giới viễn tưởng/hậu tận
thế với một dáng vẻ lờ mờ của nước Mỹ, và The Penelopiad là bản kể lại Odysseia từ góc nhìn của Penelopia. Cũng
cần nói thêm là những cuốn lấy bối cảnh Canada được công nhận quốc tế của bà như Alias Grace (shortlist Booker
1996) hay Tay sát thủ mù (Man Booker 2000) đều được chú ý dưới góc độ nghệ thuật - người kể chuyện, cấu trúc tác
phẩm, tính khả tín vân vân, và Hag-Seed 2016 là bản kể lại Cơn bão trong dự án Hogarth Shakespeare. Thế giới hầu
như không nhận thấy căn cước Canada của Atwood, một sự mù địa lý phổ biến với những nhà văn nào không nổi tiếng
nhờ độ hương xa của họ.
Dĩ nhiên, có thể sẽ có người phản đối cách diễn giải ấy đối với hình tượng người Tùy nữ,
giống như một người đọc theo chủ nghĩa thuần túy (tôi) sẽ ít nhất cảm thấy gai gai khi nghe
đến câu độc thoại nội tâm hết sức phi-Atwood trong tập cuối season 1, hứa hẹn nhiều đấu
tranh, kịch tính và đánh trùm trong các season sau: “Đáng ra chúng đừng nên nhét chúng
tôi vào đồng phục nếu không muốn chúng tôi trở thành một đạo quân.” Và những người
trẻ đến từ phim có ấn tượng về Atwood như một ngọn đuốc sáng của phong trào nữ quyền
thế giới hẳn sẽ giật mình khi đọc bản thân quyển sách, từ quan điểm “nữ quyền” như phổ
biến hiện tại.
Thật ra, tôi vừa nói một câu khá hàm hồ; vì nếu hỏi thế nào là quan điểm nữ quyền
hiện tại, tôi cũng chỉ có thể lắp bắp rồi thú nhận rằng kể cả nếu có ngụp vào một bể tất cả
những bài lý thuyết và bút chiến mà người viết có một quan điểm rành mạch, rõ ràng (chưa
nói đến mù mờ, lộn xộn, hay đầu một đằng đuôi một nẻo) thì tôi cũng sẽ chỉ trồi lên trong
hoang mang, và đáp y như trước đó: tôi có cảm giác rằng quan điểm thống trị về nữ quyền
là một cái gì đó chống đàn áp của đàn ông? và có lẽ là chống đàn ông? hay là giống đàn ông?
144 Z Z Z REVIEW
hay là lập ra một trục hoàn toàn mới, không chỉ vuông góc, hay song song không bao giờ
cắt, hay nằm trên một mặt phẳng hoàn toàn khác, thậm chí một chiều không gian khác với
hệ tọa độ đàn ông, mà thuộc về một cõi khác nơi mọi quy tắc vật lý và nhân lý của thế giới
đàn ông chẳng những không áp dụng mà còn không có lấy một ly leo ý nghĩa? :v Sau đó tôi
sẽ bao biện rằng sự hoang mang ấy thật ra cũng rất là Atwood, người đã trở nên khét tiếng
vì luôn chặn các câu hỏi nào có chữ “nữ” đứng cạnh chữ “quyền” bằng một tràng câu hỏi
ngược: “Chị nói vậy nghĩa là sao? Tôi không ký khống đâu. Chị muốn nói tôi là kiểu nhà nữ
quyền năm 1972 cho rằng đàn bà đi ngủ với đàn ông là phản bội giới? Tôi không phải nữ
quyền kiểu đó. Tôi cũng không phải kiểu cho rằng đàn bà chuyển giới từ đàn ông thì không
phải đàn bà. Vậy nên chị hãy cho tôi biết ý chị là gì rồi tôi sẽ nói tôi có phải kiểu đó không.”
Atwood, hiển nhiên, có một mối quan hệ khó khăn với cái nhãn này, từ tất cả các
phe. Gần nhất, đầu năm 2018, một bài viết thường được tóm tắt bằng “Atwood chỉ trích
#MeToo” của bà đã gây một cơn bão nhỏ trên mạng: “Tôi có phải là nhà nữ quyền tồi?”
(“Am I a bad feminist”, nhân thể, là một cái tít vô cùng phổ biến trên các blog và tạp chí
mạng; có vẻ phong trào nữ quyền cực đoan cũng gặp khó khăn với vấn đề [mà họ nghĩ
rằng] tự diễn biến tự chuyển hóa). Điều nực cười là bà viết bài này mong dập tắt một cơn
bão trước, khi lá thỉnh nguyện thư năm 2016 bà ký vào cùng nhiều người khác đòi nguyên
tắc suy đoán vô tội cho một đồng nghiệp ở trường đại học bị cáo buộc quấy rối tình dục
sinh viên đã được miệt mài ném đá. Atwood, tấm gương nữ quyền sáng chói, họ nói, đã
phản bội lý tưởng. “Vì sao lại đi coi trách nhiệm và tính minh bạch là đi ngược với quyền
của phụ nữ? Cuộc chiến trong nội bộ phụ nữ, trái với cuộc chiến chống phụ nữ, luôn khiến
những kẻ ác ý với phụ nữ được khoái trá,” bà khẩn khoản yêu cầu đình chiến. “Atwood...
nên thôi gây chiến với phụ nữ trẻ hơn, ít quyền lực hơn, thì hơn,” một cựu sinh viên trường
đó và là nữ nhà văn trẻ (hơn) đáp, và tiếp tục cáo buộc Atwood cùng mọi bà già thế hệ cũ
đã quá sành sỏi các phương thức để leo lên vị trí quyền lực như hiện giờ đến nỗi đánh mất
khả năng thấu cảm với nạn nhân?. Ngày hôm đó Atwood, một người thường chỉ dành mỗi
ngày mười phút trên mạng xã hội, đã bắn 30 cái tweet ngang ngửa level Trump, khiến mọi
báo chí nghiêm túc lẫn lá cải trên mạng được một bữa bắp rang tức bụng.
Với Atwood, điều này chẳng qua là tiếp diễn những gì đã khởi đầu từ khi bà lớn lên
trong làn sóng nữ quyền thứ hai. “Vấn đề của tôi không phải là người khác bắt tôi mặc váy
hồng bèo nhún - vấn đề là tôi muốn mặc váy hồng bèo nhún, còn mẹ tôi, với kiểu của mẹ
tôi, thì không muốn vậy. ... Đã đi qua giai đoạn đầu của hình thức nữ quyền mà trong đó các
chị không được phép mặc váy tô son - tôi không bao giờ muốn dính dáng gì với thứ đó,” bà
nói, một tình cảm hẳn đã trở thành căn bản cho cô gái trẻ bị biến thành người kế tục cho
“Chase và con trai” trong Tay sát thủ mù. Ấn tượng về làn sóng thứ hai ấy đã được trút hết
vào hình ảnh người mẹ trong Chuyện người Tùy nữ: “Tôi nhớ mẹ trở về căn hộ nào đó trong
146 Z Z Z REVIEW
MƯA CÓ RƠI VÀ NẮNG CÓ PHAI
Sự phong phú của các diễn ngôn xã hội hiện đại đã biến tất cả chúng ta thành người dốt;
không phân biệt tuổi tác, trình độ giáo dục hay số lượng tiếng hàng ngày lê la trên mạng
Internet, sớm hay muộn chúng ta sẽ bắt gặp một vấn đề xã hội mà mình hoàn toàn không
biết chút gì, và buộc phải bổ sung gấp ít nhất là thông tin nền nếu không muốn lỡ mồm
thốt ra câu gì cho thấy rõ mình còn đang ở level dựa cột. Đó không phải vì thế giới đã trở
nên phức tạp, như những người cảm thấy phiền hà vì điều này thích nghĩ; mà vì chỉ trong
khoảng nửa thế kỷ trở lại đây sự dân chủ hóa về tiếng nói mới khiến người ta nhận rõ sự
phức tạp cố hữu của thế giới: rằng bên ngoài Ta mà ta vẫn tưởng là trung tâm, có một/
nhiều người Khác với những kinh nghiệm không kém phần có thực và điểm nhìn không
kém phần chính đáng, với tiếng nói thường khi bị trấn áp hoặc trên phạm vi chung của xã
hội, hoặc ít ra là trong bong bóng hạn hẹp của ta.
Trong số đó, thế lưỡng phân nam-nữ là một tình huống đặc biệt, dù có thể coi là cơ
bản: bởi phần lớn mọi người trên thế giới có thể sống hết cuộc đời mà không tiếp xúc với,
hoặc tiếp xúc mà không hề ý thức có (không chỉ vì ngồi trong tủ vẫn còn là một môn thể
thao ưa thích trong mọi gia đình) một màu da khác, một tôn giáo khác, một sắc tộc khác,
một giai cấp khác, một triết lý sống khác, một giới tính phi nhị nguyên, hoặc ở vài trường
hợp hiếm hoi như Donald Trump thì dường như đã tránh được toàn bộ những điều trên,
thì sự phân biệt giữa nữ và nam là điều bất cứ ai cũng được chứng kiến trong đời sống
thường ngày; nhưng điều kỳ dị là, cho dù bản thân ta hoặc là thuộc về giới tính xã hội nữ,
hoặc là kẻ Khác đối với giới tính xã hội nữ (tạm thời ở đây, giống như trong vật lý lý thuyết,
tôi lại xin được giới hạn trong nhị nguyên), thì trừ những công thức sơ cấp như “làm con
gái thật tuyệt” hay “đau đớn thay phận đàn bà”, diễn ngôn của căn tính nữ nói chung vẫn
là một điều xa lạ trong đời sống thường ngày với những người không thực hành nữ quyền
chuyên nghiệp. Trong một vài năm gần đây tôi đã nhiều lần được nhận ra điều đó, trong
đời sống thường ngày, qua giao tiếp với bạn bè người thân, lần nào nhận ra cũng sửng sốt
nhẹ, bởi nữ quyền đã đi vào Việt Nam rất lâu và đã kịp khiến người ta chán ngấy vì sự cực
đoan của nó rất nhanh, dù chưa kịp hiểu gì về những tầng sâu của nó (tình trạng chung của
mọi thứ lý thuyết du nhập vào Việt Nam từ Khổng cho đến Mác cho đến dân chủ), tới nỗi
tôi ngỡ những khái niệm đó đã phải trở thành ngôn ngữ chung, nếu không để tán đồng
thì ít nhất cũng không để phản bác. Tôi không nhận ra ngay, nhưng tới khi đọc lại Chuyện
người Tùy nữ mùa hè rồi mới hiểu được bản thân mình đã ngấm những khái niệm và vấn đề
đó không phải từ diễn ngôn nữ quyền (mà thú thực tôi cũng chẳng đọc mấy, vì sợ bão) mà
chính từ cái “truyện” khá nhỏ nhắn xoàng xĩnh này.
Tôi biết đến Atwood lần đầu tiên là nhờ được giao cái job dịch ấy, cũng có thể coi là
148 Z Z Z REVIEW
Còn câu chuyện, đối với tôi ở tuổi 23 chưa đủ tình tiết và hấp dẫn - cô ta làm gì? ngồi
trong phòng cả ngày trừ những khi đi chợ, giống hệt như tôi? - và về phần kiến tạo thế giới
thì, đối với người đọc sci-fi từ thuở bé như tôi, thật chán ốm. Mỗi thế giới không tưởng
hay phản không tưởng là một khái niệm, và chỉ có thể yêu như một khái niệm, nghĩa là khi
đọc về nó qua Wikipedia hay các loại từ điển văn học, hoặc khi đã quên nó đủ lâu chỉ còn
đọng lại trong đầu những nét chính; nó không liên quan gì tới cái kinh nghiệm thực tế khi
lội qua các trang sách (một điều lại cũng không liên quan gì tới sự xấu xí của thế giới người
ta vẽ ra); vì thế, 1984, cuốn dystopia vĩ đại của thế kỷ, có trải nghiệm đọc giống như gặm
một miếng bánh mì khô trong phòng máy lạnh trong lúc đang khát vì cà phê, còn Thế giới
mới tươi đẹp với sự sắc sảo kinh ngạc khi mô tả cái trống rỗng con người có thể trở thành
nhờ tiêu thụ truyền thông không ý thức, thì giống như ngồi nghe tâm sự của một cậu học
trò cấp ba sến súa. Lần đầu đọc Chuyện người Tùy nữ, tôi biết đây là một cuốn sách phản
không tưởng, và ghi nhận sự khéo léo tài tình khi bà cài cắm các phần kiến tạo thế giới
vào trong sinh hoạt hàng ngày của nhân vật chính, giống như đi giữa rừng cây ken đặc chỉ
thỉnh thoảng thấp thoáng thấy những mảnh ghép của khung cảnh bên ngoài; nhưng điều
đó không che giấu sự thực rằng cuốn sách khá mỏng so với những điều nó cần miêu tả, một
điều Atwood đã vừa chặn lại, vừa giải quyết trong “phụ lục” cuối sách khi các ông giáo sư
đàn ông chê cười lối kể chuyện đàn bà của Offred, và cung cấp một cái nhìn tổng thể nhưng
vẫn sơ lược về thế giới của truyện. (Giống như Winston cuối cùng đã phải được phát cho
tập sách giải thích cho anh ta và người đọc hiểu thế giới mới này cấu thành cách sao.) Ngay
cả bây giờ đọc lại, tôi vẫn thấy thế giới ấy là sơ lược; một thứ học trò của bộ ba MaddAddam
(2003-2014) của bà sau này, mà thực tế là đã xây dựng không chỉ một mà ba tiểu thế giới
cực kỳ chi tiết, với hệ quả tất yếu là một bộ sách 1200 trang.
Ngoài ra, tôi không hiểu mình cần thông cảm với cô Tùy nữ là vì sao; ngoài việc không
được đi làm, mọi vấn đề cô mắc phải từ cả thời kỳ tiền Gilead tôi đều khá thờ ơ, không phải
vì nghĩ đó là những chuyện tủn mủn, đàn bà, vớ vẩn như giáo sư Pieixoto và rất nhiều người
điểm sách (nam) của Atwood, mà vì phần lớn là những vấn đề lạ lẫm, không hề liên quan
đến mình, những vấn đề của lối sống Mỹ :v Nhưng hiển nhiên, đó là những vấn đề gần gũi
và thiết thân với Atwood cùng các độc giả nữ của bà ở thời điểm cuốn sách ra đời; và như
một học sinh chăm chỉ, tôi muốn hiểu vì sao; vậy là, trong lúc chỉnh sửa sau khi hoàn thiện
bản nháp đầu, cũng như suốt quá trình trao đi đổi lại với các biên tập viên sau đó, tôi dấn
thân vào một cuộc hành hương Google.
Tôi được biết rằng thuốc tránh thai, được gọi The Pill một cách tôn kính, tới cuối thập
kỷ 1950 mới bắt đầu được bán phổ biến, và đã nhanh chóng được ca ngợi là thuốc thần của
phong trào giải phóng phụ nữ: rằng tác dụng chính của nó không phải là “tình dục không
hậu quả”, như những người phản đối mè nheo và cũng là thứ duy nhất tôi có thấy chút gì
150 Z Z Z REVIEW
cóc cô bé Laura trong Tay sát thủ mù), cô luật sư của Roe bay đi Mexico để làm thủ thuật,
phụ nữ (có điều kiện) toàn nước Mỹ kéo đến New York khi bang này thông qua luật phá
thai sớm ba năm trước phán quyết lịch sử kia (và được khuyến mãi thêm, từ phe phản đối,
những mỹ từ như là “phòng phá thai của cả dân tộc”, “thủ phủ phá thai toàn quốc”) giống
như các cô gái Ireland đổ đến London hay, không liên quan lắm, cộng đồng chuyển giới
Việt Nam tràn qua Thái. Còn nếu không có tiền, hay không có giấy tờ, hay luật cho phép
nhưng bảo hiểm không chấp nhận, mời bạn quay lại với những phòng khám lậu, với bàn
bếp, với mắc áo nhiễm trùng hay vót nhọn, và đánh cược mạng sống của mình (hoặc đánh
cược với việc sinh ra một đứa con méo mó, dị tật, hoặc đánh cược với việc sinh ra một đứa
con lành lặn, mồ côi).
Và cuối cùng, “Hãy giành lại đêm”. Đây là khẩu hiệu khiến tôi hoang mang nhất, bởi
nó yêu cầu một điều hầu như phi lý: hãy tạo điều kiện cho phụ nữ có thể an toàn đi ngoài
đường ban đêm? vì sao? Chẳng phải tốt hơn hết là đàn bà hãy tránh đặt mình vào những
tình huống thiếu an toàn? Phải tới khi, lên cao học, thường xuyên trở về giữa đêm từ thư
viện, tôi mới hiểu điều này. Chính xác hơn là hiểu sau khi hai vụ án xảy ra ngay trong khuôn
viên trường và một nhóm sinh viên biểu tình đòi trường đảo ngược lại quyết định tắt bớt
đèn ban đêm để tiết kiệm chi phí. (Và quý vị đoán xem tôi tham gia biểu tình hay chuyển
giờ về sớm hơn?)
Đấy là những nét chính, và dĩ nhiên những độc giả đầu tiên của Atwood không cần
phải goo... vào thư viện để biết những điều này. Đấy là thực tế hàng ngày của họ, giống như
những cuộc biểu tình đã được cập nhật thành đa sắc tộc trong series phim The Handmaid’s
Tale đang là thực tế hàng ngày của những người xem trực tiếp của Hulu. Nhưng tôi ở thời
điểm ấy, với version “nữ quyền” của riêng tôi vỏn vẹn ba điều: cái gì bọn con trai làm được
thì tôi làm được; đám chọc ghẹo ngoài đường cần được trừng trị tại chỗ; và khi nào các bà
các mẹ mở miệng nói về “con gái thì phải” chỉ cần tắt tai đi là xong (tóm lại là một phiên
bản cháo loãng của Moira, trừ yếu tố mê gái) cảm thấy thật ngạc nhiên. Và thật xa lạ. Thêm
nữa, các chủ điểm trên chủ yếu xoay quanh bạo lực - tính dục hoặc không - và thân thể nữ;
mà tôi, sau khi lớn lên giữa hai hình mẫu cho lựa chọn “thân thể là thứ để trao nộp và chịu
đựng” và “thân thể là thứ để o bế, và rất có thể dùng làm công cụ để thống trị hoặc tiến
thân”, đã có quyết định từa tựa Moira, gạt bỏ hẳn vấn đề cho đời đơn giản: tôi sẽ làm bộ
não bơi trong bể kính.
Tóm lại, những câu chuyện của đàn bà Mỹ, không liên quan gì đến tôi. Nhưng cũng
hay, khi biết nhiều điều mới, và dù sau khi đã rành rẽ mọi lập luận của đôi/các bên vẫn
hoang mang không hiểu bên nào mới “đúng”, ít ra giờ tôi cũng có một cái khung để chẳng
may có (dù hẳn sẽ không) bao giờ cần đến, tôi sẽ biết trên hai bàn cân có những gì.
Và tất nhiên, tôi đã cần.
Và tất nhiên, tôi đã cần. Và tất nhiên, tôi đã thấy các “vấn đề phụ nữ” khép vòng vây lại
quanh mình, nếu chưa phải với chính tôi, thì cũng là bạn bè tôi, từng người một. Phá
thai, bạo lực tình dục, bạo lực tình cảm là những đề tài người ta không nói đến với “người
ngoài”; có một vết nhơ và một nguy cơ bị phán xét lớn gắn với những điều thú nhận thuộc
loại đó; nhưng chừng nào bạn bước qua một cái ngưỡng khó định nghĩa để bước vào một
câu lạc bộ thần bí nào đó, bạn sẽ đột nhiên nhận ra những thành viên câu lạc bộ ấy có ở
khắp nơi, và rất nhiều là những người thân của mình mà mình chưa hề ngờ đến, và không
ngờ họ có thật nhiều kinh nghiệm, và nhiều đồng cảm, để nói với mình.
Và tôi thấy mọi lý thuyết đều đổ sông đổ biển. Trừ một điều lý thuyết cực kỳ chính xác
rằng: rốt lại đó là quyết định cho một trường hợp cụ thể, của một người, và không so sánh
hay tấm gương hay tham khảo nào từ mẹ, từ bạn, từ người ngoài, từ người thân, từ hình
mẫu lịch sử hay pháp lý hay sách vở nào có ý nghĩa gì hết.
Con đường ý thức được mình không thể thoát khỏi thân thể, hay rộng hơn mình
không thể thoát khỏi quyết định luận sinh học một cách tuyệt đối triệt để, dài và chậm
chạp. Trên con đường ấy, tôi đọc được lý thuyết về “rape culture” (rồi quên); đọc được
những cấu xé nhau giữa nghìn phe phái nữ quyền (rồi quên); đọc về ngành công nghiệp
khiêu dâm và quyền của gái điếm (rồi quên); diễn ngôn về căn tính nữ thật dài và rối rắm,
nhưng có thể mường tượng rằng nếu không có Atwood khai tâm, có thể tôi đã chẳng bao
giờ để ý đọc đến những bài viết ấy. (Hoặc có thể sẽ được một bà chị khác khai tâm, và đi
theo một con đường hoàn toàn khác, đàng hoàng hơn, to đẹp hơn?)
Tôi tiếp tục đọc Atwood, một nhà tiểu thuyết cự phách, một bậc thầy ngôn từ sắc sảo,
một đầu óc châm biếm đọc mỗi câu một giật mình, mà tình cờ lại là phụ nữ và kể chuyện
chủ yếu về những kinh nghiệm đàn bà. Đi theo con đường Atwood, tôi không viết đơn vào
Nữ đảng, đêm đêm chong đèn nghiên cứu Nữ quyền tư tưởng hệ. Tôi còn phải sống chứ.
Tôi còn một ngàn mối quan tâm khác. Ví dụ như viết bài này cho kịp để chị Zét có thể
ngưng giục giã; mà viết xong tôi cũng sẽ quên bẵng thôi. Thỉnh thoảng tôi quên cả mình
(thuộc vào giới được định nghĩa) là phụ nữ cơ mà. Nhìn chung, tôi ổn.
Tôi ổn, theo nghĩa là tôi đang ở trong một vị trí có thể cảm thấy là mình ổn. Vị trí về
kinh tế, xã hội, nhận thức cụ thể, và vị trí ở một đất nước mà bất chấp một vạn thiếu sót,
quyền thân thể của đàn bà cũng không đến nỗi tệ. Vậy thì tôi có thể thông cảm với những
đàn bà ở vị trí cần tranh đấu, từa tựa như thông cảm với phụ nữ bên Ấn Độ vậy, nhưng
bởi không thể đấu tranh thay họ, nên tốt nhất là tôi làm tốt những công việc của tôi, phải
không? Suy cho cùng, những người đàn ông quanh tôi có vẻ đều tử tế, tôi cũng không biết
đem họ ra làm bia ngắm bắn bằng cách nào.
...
152 Z Z Z REVIEW
Vấn đề ở đây là khi nhìn nhận mình trong từng mối quan hệ cụ thể - không chỉ
quan hệ luyến ái với một người yêu, một người chồng, mà đơn giản là một người bạn,
một người anh, một người cha, một người thầy, hoặc ngược lại một người em, một người
con, một người trò (nhắc lại, tôi đang tự giới hạn trong cõi nhị nguyên) - bạn sẽ rất khó
khớp con người cụ thể ấy với cái khung khổ “cuộc chiến giới” trên lý thuyết. Bạn sẽ nghĩ,
người ấy khác. Mối quan hệ này khác. Bởi lý thuyết là một bản giản lược bản chất luận,
còn con người trước mặt thì bạn biết rành mọi mặt, bạn biết đấy là một con người, và đã
là con người thì, như cái câu sáo mòn đó, không ai là toàn thiện hay toàn ác. Atwood đã
tóm tắt tuyệt vời sự mâu thuẫn ấy trong mẩu hồi ức ngắn gọn về người đàn bà nhân tình
của tên sĩ quan SS mà Offred nhớ lại: “Ông ta không phải quỷ”, một câu chuyện đã ánh
xạ lại trong mối quan hệ khó gọi tên giữa cô và Quân trưởng, và Offred có ý thức về sự
mỉa mai này, tuy không vì thế mà phủ định nó. Bạn không thể, và không muốn, tin người
đó và mình có gì khác biệt; bạn muốn tin rằng dù thế giới có chia làm hai phe thì “chúng
ta” vẫn là một team ...
... cho đến lúc bạn phẫn nộ vì phát ngôn “grab them by the pussy” và anh ta bảo bạn
chuyện bé xé ra to (hãng Tin Con Vịt cho biết Trump đã trở thành nguyên nhân chia tay
số một của các cặp đôi Mỹ vào năm 2016), cho đến lúc bạn tâm sự về cảm giác bị đối xử bất
công, ở trường học, ở chỗ làm, ở ngoài đường vì lý do giới tính, và anh ta kêu “đàn bà nhạy
cảm”, cho đến lúc anh ta bật cười trước một chuyện cười xúc phạm đàn bà; cho đến lúc bạn
cố gắng làm cho anh ta hiểu vì sao bạn sợ đi một mình ngoài đường ban đêm, vì sao bạn
không muốn đi ăn với ông sếp của anh ta ưa đùa nhả, vì sao bạn bực mình khi thấy một MC
thản nhiên bình phẩm sắc đẹp một nhà văn nữ trong một tọa đàm văn học, và bạn nhìn
vào con mắt trống rỗng của anh ta và lạnh người chợt hiểu, dù hai người có ăn ý đến đâu,
hòa hợp đến đâu về các mối quan tâm trí tuệ và cảm xúc thì vẫn còn một vực sâu như thế
này, ăn sâu trong chính căn cước của bạn, không thể vượt qua. Atwood đã cực tài tình khi
miêu tả cảm giác gai người ấy mà Offred thỉnh thoảng cảm thấy về Luke, tình yêu lớn của
đời cô; và bộ phim cũng đã khai thác cực kỳ hiệu quả, cảnh khi cô trở về nhà, chấn động,
cái ngày toàn bộ đàn bà cả nước bị đuổi khỏi chỗ làm, tài khoản bị đóng băng chuyển sang
tên chồng, và anh an ủi: “Chỉ là một chỗ làm thôi. Em biết anh sẽ chăm sóc em mà.” Mười
năm trước đọc câu này, tôi chỉ thấy kỳ vì nhớ lại lần bố tôi đã khuyên mẹ tôi ở nhà cho ông
nuôi; lần này xem cảnh đó, tôi cảm thấy như chính mình ăn tát. (Mặc dù hẳn những người
xem nam sẽ chỉ thấy Moira phản ứng quá đà?)
Từ năm 2018 nhìn lại, tôi nhận ra phát biểu chí lý mở đầu Giới tính thứ hai quả là chí
lý: “Người ta không sinh ra làm đàn bà, mà trở thành đàn bà.” Nhưng lần nữa ở đây, nhãn
hiệu có thể là lừa dối: tôi trở thành đàn bà, nhưng là Offred, chứ không phải Moira. Hoặc
đúng hơn, là một dạng không ngừng dao động giữa Moira và Offred; phải có một tâm hồn
154 Z Z Z REVIEW
thể không làm khác: dù viết về một vấn đề có vẻ sát sườn đến như ý thức về căn tính của bản
thân, tôi cũng như không ngớt nghe thấy những tiếng thì thầm “có đúng thế không? Có
phải thế không? Mày có quyền gì mà nói thay tất cả?” Vậy là tôi lại đành rút về nói riêng từ
kinh nghiệm của bản thân. Liệu đây có phải là một tình trạng chung của diễn ngôn căn tính
thiểu số, trong đó đàn bà là nhóm thiểu số par excellence? Hay là hậu quả, như nhiều người
nói, của tiếng nói đàn bà đã quen bị coi nhẹ có hệ thống tới nỗi bản thân đàn bà (trung bình
trong xã hội; hiển nhiên không phải giới nữ quyền) đã thành phản xạ luôn tự ngờ vực bản
thân, luôn lọc qua một tầng kiểm duyệt của con mắt được cho là xã hội, cả khi nói về những
vấn đề của bản thân mình?
Thật nhức đầu. Có lẽ tôi cần là cần đi tìm một nhà tâm phân học, để tìm hiểu những
ẩn ức tôi không biết mình che giấu, biết đâu sản phẩm sẽ ra một Cuốn Sổ Vàng 4.0 đoạt giải
Doris Lessing; có thể tôi cần lao mình vào Nữ Quyền Chủ Nghĩa mà tôi đã ra sức chối từ,
như Katniss bước vào vai trò Húng Nhại, và gia nhập #MeToo khi còn chưa tắt hẳn. Hoặc
có lẽ tôi nên nghiên cứu thêm về việc phá thai khi còn quá rảnh. Giống như mọi đàn ông
nếu sống đến 200 tuổi tất sẽ chết vì ung thư tiền liệt tuyến, có vẻ hầu hết đàn bà dị tính nếu
không chết quá sớm đều sẽ phải đối mặt với câu hỏi này ít nhất một lần trong đời.
Một trong những ý mà Atwood nhắc đi nhắc lại không mệt mỏi, cũng như mỗi nhà báo
lần đầu viết về bà đều lặp lại trong kính phục, và mỗi người đọc quen thuộc với bà đều
tự động bỏ qua khi đọc một bài báo mới, đấy là: thế giới “huyễn tưởng” mà bà dựng lên
trong tác phẩm đều không có gì mới, nhà văn chỉ đóng vai trò giám tuyển những yếu tố
đã từng thực sự tồn tại trong thực tế. “Tinh thần của nó mang tính tổng hợp”, như giáo
sư Pieixoto nói(1). Đây là một sự cẩn trọng cần thiết khi bắt tay sáng tác một cuốn phản
không tưởng: bởi thể loại dành riêng cho cảnh báo thời cuộc này sẽ mất ngay ý nghĩa
khi bị quy về tất cả là do trí tưởng tượng méo mó của một nhà văn; là một nhà văn nữ
1. Một sự đọc có chủ ý bộ ba hậu tận thế đồ sộ MaddAddam cũng như tác phẩm viễn tưởng ái tình trào phúng The
Heart Goes Last càng khẳng định mức độ đào sâu nghiên cứu của Atwood cùng các trợ lý trong việc xây nên thế giới
mới, cũng như sự nghiêm túc của bà khi tuân thủ luật lệ do bà tự đặt ra: “Nếu định tạo ra một khu vườn ảo, tôi muốn
từng con cóc đều là thật.” Từ Deep Web cho tới các phòng thí nghiệm thức ăn nhân tạo, biến đổi gen, các phong trào
Thế giới mới trong bộ ba, cho tới việc tư nhân hóa nhà tù kinh khiếp đang trở thành vấn nạn ít ai muốn nghĩ đến trong
nước Mỹ thập kỷ 201x cùng ngành công nghiệp búp bê/robot tình dục triệu đô, người ta phải thán phục sự nhanh nhạy
với thời cuộc lẫn mối quan tâm rộng lớn trải trên nhiều lĩnh vực của người dường như đã muốn biến mình thành lương
tâm của thế giới mới từ một cái nhìn vừa hồn hậu vừa mai mỉa mà vẫn rất nữ tính này.
1. Nếu quá rảnh còn muốn đọc một bản tóm tắt về điều kiện tiếp cận phá thai của phụ nữ thế giới, có
thể xem thêm ở đây: https://www.nytimes.com/2018/07/09/reader-center/abortion-around-the-world.
html?rref=collection%2Ftimestopic%2FAbortion
156 Z Z Z REVIEW
(spoiler: câu chuyện kết thúc bằng hai đám tang và một án tù). Ngao ngán, tôi chuyển qua
ăn vạ chị Zét; chị bèn quẳng cho tôi các bài số này đọc cho bớt rảnh bớt ỉ ôi. Vì thế, chắc
hẳn một phần lớn lòng can đảm để hoàn thành bài viết này cũng là có được từ những người,
nếu quý vị đọc theo thứ tự, xuất hiện trước tôi, nhất là những người viết nữ; cách nào đó,
tôi cũng được dạy một phần nhờ họ.
(Dù tất nhiên, đến mai tôi lại quên ngay thôi.)
10.2018
Nguyên uỷ nhà Z tính bán tạp chí online với con số rất đáng hãi là 1000 VND/
số, kèm thêm thu giá khi đi qua các trạm BOT vị chi là quãng 12k. Nhưng các
bank Việt Nam đều chối đây đẩy vì sợ rằng giá ấy với mức độ phủ sóng của nhà Z
trên khắp hoàn cầu sẽ làm sập kho dự trữ trong quốc khố chứ đừng nói gì đến họ.
Vì thế nên, trong lúc chờ chúng tôi nghiên cứu làm giàu bằng Minds token, bằng
hữu gần xa nếu có lòng xin hãy gửi gắm cho chú Ruồi Mía tại nhà Paypal của chú:
https://www.paypal.me/zzzreview/0.04
Còn nếu ai tin tưởng đến mức muốn đặt luôn một lần năm chục số, mặc dù bản
thân tổ Z cũng chưa biết liệu mình có lê lết được đến Số 3, thì nhà Việt của chú
ở đây: https://zzzreview.com/taikhoan/
158 Z Z Z REVIEW