You are on page 1of 4

Nhà văn Nam Cao đã từng khẳng định: “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt

lên bên trên tất


cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một
cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái,
sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn” Tất cả các nhân vật xuất hiện trong cuộc
sống của Nam Cao đều có thật và từng xuất hiện trong cuộc đời ông. Dưới bàn tay tài hoa của
ông, các nhân vật được tái hiện chân thực và sắc nét, phản ánh rõ nét thực trạng xã hội thời
bấy giờ.
Trong truyện ngắn của Nam Cao, nhân vật nữ xuất hiện thường xuyên và được nhắc đến
nhiều. “Dì Hảo” là một trong số đó, đại diện cho những người phụ nữ thuộc tầng lớp hạ lưu
bị chèn ép bởi xã hội nghiệt ngã. Họ cam chịu mọi oan ức và bất hạnh vì không có lựa chọn
khác. Truyện ngắn “Dì Hảo” được lấy cảm hứng từ một người phụ nữ thực tế trong cuộc đời
Nam Cao. Nhân vật này được tái hiện trên trang sách với sự chân thật và gợi lên được nỗi
đau, bất công mà phụ nữ phải chịu đựng trong xã hội thời đại đó.

Thân phận người phụ nữ thường được nhắc đến nhiều trong các truyện ngắn của Nam Cao,
có thể kể đến như Nghèo, Trẻ con không được ăn thịt chó, ở hiền cùng nhiều tác phẩm khác.
Dì Hảo là một trong số đó và đại diện cho những người phụ nữ thuộc tầng lớp hạ lưu bị chèn
ép bởi xã hội nghiệt ngã tới mức họ chọn cách cam chịu cho mọi oan ức, bất hạnh.
Với quan điểm nghệ thuật rõ ràng, Nam Cao không lẩn trốn vào câu chữ để thoát khỏi cuộc
sống thực tại hay triền miên vào những vùng đất hư ảo. Ông dùng chất liệu văn từ chính
những gì chân thực nhất từ đời sống hằng ngày để đặt bút. Dì Hảo là một truyện ngắn gần
như không có cốt truyện mà chỉ tập trung xoay quanh những bất hạnh và tủi nhục của người
phụ nữ khốn khổ, thấp cổ bé họng trong xã hội lúc bấy giờ.

Ở cái thời đại mà nghèo túng quá rồi, người ta sẽ tìm cách càng bớt miệng ăn đi càng tốt và
những đứa trẻ mới ngót nghét vài tuổi bằng trở thành vật đem trao bán đi để làm con ở người
hầu cho nhà giàu, Dì Hảo là con gái bà xã Vận, một người làm bánh đúc ngon có tiếng của
làng Vũ Đại, bánh đúc là một thứ quà quê xuất hiện nhiều trong các truyện ngắn của Nam
Cao thường được bày bán trên các mẹt ven chợ và xúm xít bởi các bà các mẹ mặc váy bạc
phếch. Bà xã vận là một người phụ nữ góa chồng, chồng bà chết cũng không có nổi một cỗ áo
quan tử tế. Mặc dù việc buôn bán của bà thường suôn sẻ nhưng trách nhiệm phải nuôi thêm
hai đứa con nheo nhóc cùng đồng nợ chồng chất ngày trước khiến cuộc sống của bà càng trở
nên chật vật. Dì Hảo lớn một chút, bà xã Vận dẫn cô tới nhà bà ngoại nhân vật tôi làm con
nuôi, Dù may mắn hơn những đứa trẻ bị bóc lột sức lao động và đối xử tệ bạc khác, dì Hảo
được cho theo đạo và được ăn mặc tử tế nhưng tiếng khóc của dị những ngày đầu cũng khiến
người đọc thấy nao lên trong lòng.
Dầu vậy dì Hảo nhanh chóng thích nghỉ được với cuộc sống mới, với việc theo đạo, những
bài kinh thánh và trở thành một đứa con ngoan đạo. Cô bắt đầu thấy sợ địa ngục và tin những
lời răn dạy và có lẽ bị kịch đầu tiên của dì Hảo chính là ghê sợ chính người mẹ của mình
những xung đột giữa hai mẹ con khiến mối quan hệ quan trọng này.
Ở Nghèo, chị đi Chuột kêu khóc và van lạy bà Huyện khất nợ, người phụ nữ trong Trẻ con
không được ăn thịt chó òa khóc vì người chồng rượu chè bỏ đói vợ con thì dì Hảo khóc nấc
lên vì người chồng vũ phù tệ bạc. Bi kịch lớn nhất gắn liên với cuộc đời dì Hảo là phải cưới
và chung sống với một người chồng tàn nhẫn, mê sắc và cơm rượu, Hắn là một kẻ tục tằn, thô
bỉ và không yêu thương hay tôn trọng dì Hảo chút nào, hắn khinh cô là đứa con nuôi rơi rớt
rồi bỏ mặc có những lúc đơn đau. Ấy vậy đi Hảo vẫn cho rằng dì phải làm mà nuôi nó, cứ
tưởng không có được tình yêu thì chí ít còn sức khỏe nhưng sau lần sinh đứa con bất thành dì
Hảo trở nên kiệt quệ. Bi kịch này nối tiếp bị kịch khác khiến người đàn bà vốn đã yếu đuối
này càng đáng thương và thảm hại hơn. Nhưng rồi dì Hảo cũng trầy trật gắng vượt qua quãng
thời gian bế tắc ấy mà tìm cách sống tiếp trên mảnh đất cần cỗi này, người phụ nữ nghèo khổ
ấy lại muốn người chồng đã bỏ đi kia quay lại để nuôi. Hẳn cơm rượu nhưng hắn đã trở về
với những thứ còn tồi tệ hơn cả ngày trước rồi lại bỏ đi. Chai sạn với tổn thương và sự bế tắc
khi đối diện thực tại đã đẩy dì Hảo vào trạng thái cam chịu, bỏ qua tất cả mọi thứ.
Đó chính là lựa chọn của những người phụ nữ bị chèn ép trước Cách mạng, họ luẩn quẩn
trong bế tắc và nhẫn nhịn mọi ấm ức thay vì vùng lên chiến đấu giành lại tôn nghiêm cho
chính mình. Đây cũng là phong cách chung của các nhà văn giai đoạn trước năm 1945 bởi họ
cũng đang loay hoay trong chính hoàn cảnh của mình và không tìm ra lỗi thoát cho thực tại,
để rồi đành phải gửi nỗi niềm ấy vào từng trang văn.
Dưới ngòi bút tinh tế, giọng văn chân thực cùng nhiều câu chuyện trong làng Vũ Đại ta có thể
tưởng tượng ra một xã hội đã mục nát từ bên trong và đủ cả các tầng lớp xã hội. Nơi ấy có cả
những kẻ bần cùng hóa, lưu manh hóa như Bình Tự, Chí Phèo hay những người trí thức mà
bất lực, nghèo đói như ông giáo trong Lão Hạc, Thứ trong Sống mòn và cả những kiếp người
phụ nữ lênh đênh như di Hào,
Dì Hảo không chỉ là câu chuyện về một người phụ nữ nhẫn nại, căn chịu trước bất hạnh của
cuộc sống mà còn nổi lên tiếng lòng của người phụ nữ, họ chỉ biết ê chề và tài nhục cho
những ngày tháng đã qua. Câu chuyện khép lại bằng hình ảnh dì Hảo cổ cắn chặt răng để
không khóc và suy nghĩ dù có chồng về hay không cũng thể sẽ để lại một nỗi ám ảnh day dứt
trong lòng người đọc khiến mỗi độc giả phải ngừng lại một chút để suy tư về một thời đại
từng bế tắc như thế.

* Giới thiệu được tên tác giả, tên tác phẩm, vấn đề cần nghị luận

* Tóm tắt nội dung câu chuyện: Tình cảnh khốn khổ của gia đình anh đĩ Chuột trước Cách
mạng:

+ Nhà nghèo, đông người, anh đĩ Chuột ốm nặng, rất cần tiền mua thuốc.

+ Chị đĩ Chuột phải vay của bà Huyện 6 hào để mua thuốc cho chồng và mua gạo cho cả gia
đình trong cơn đói kém.

+ Hai đứa con còn nhỏ dại, ngây thơ, ốm yếu, gầy guộc, đói khát, ăn cám thay cơm.

+ Người cha hiểu ra cơ sự ai oán, xót xa thương vợ, thương con, giận mình và cuối cùng đã
chọn cái chết đau đớn nhất để bớt đi gánh nặng cho vợ con và giải thoát chính mình.

* Một số nét đặc sắc trong nghệ thuật tự sự:

– Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện: Người chồng, người cha rơi vào bước đường cùng,
phải lựa chọn cái chết để không trở thành gánh nặng cho vợ con.

+ Đây là một tình huống éo le, gợi lên ở người đọc niềm thương cảm, xót xa.

+Tình huống giúp nhà văn khắc họa chân thực tình cảnh khốn khổ của người nông dân Việt
Nam trước Cách mạng.

+Tình huống làm bộc lộ phẩm chất tốt đẹp của người nông dân: giàu tình yêu thương, vị tha,

+Thông qua tình huống truyện, nhà văn gián tiếp lên án, tố cáo xã hội thực dân nửa phong
kiến đã đẩy người nông dân đến bước đường cùng và lên tiếng đòi quyền sống có ý nghĩa cho
con người.

– Người kể chuyện: + Ngôi kể thứ 3: Người kể chuyện ẩn tàng, đứng ngoài thuật lại một cách
chân thực, khách quan một lát cắt trong cuộc sống nghèo khổ, túng quẫn của gia đình anh đĩ
Chuột, đặc biệt là khắc họa đầy ám ảnh chi tiết cái chết của anh đĩ Chuột.

+ Điểm nhìn chủ yếu từ anh đĩ Chuột giúp nhà văn khắc họa được nội tâm giằng xé đau đớn,
sự bế tắc, tuyệt vọng của nhân vật, khi anh ta chứng kiến nỗi khổ của vợ con, tình cảnh bi đát
của gia đình, day dứt vì nghĩ nguyên nhân là do mình để rồi đưa ra lựa chọn bi kịch.

+ Giọng kể tưởng chừng dửng dưng, lạnh lùng nhưng ẩn sâu bên trong là những trăn trở, suy
tư và thấm đẫm tình yêu thương.
– Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nhân vật được khắc họa chủ yếu qua ngôn ngữ, hành động
và diễn biến tâm trạng.

+ Ngôn ngữ nhân vật bình dị, mộc mạc, phản ánh cuộc sống ở nông thôn và cách cảm, cách
nghĩ của người nông dân.

+ Hành động tự tìm đến cái chết của anh đĩ Chuột: Thể hiện bi kịch của người nông dân khi
bị đẩy đến tận cùng của sự đói nghèo; đồng thời bộc lộ phẩm chất tốt đẹp của họ ( giàu tình
thương yêu).

+ Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật rất chân thực: anh đĩ Chuột khi quyết định tự
tử với những đau đớn và giằng xé nội tâm.

* Khẳng định giá trị nghệ thuật của truyện ngắn Nghèo:

– Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nghèo cho thấy đặc điểm phong cách sáng tác của nhà
văn Nam Cao. Ông thường viết về những cái nhỏ nhặt trong đời sống, nhưng lại chứa đựng ý
nghĩa khái quát xã hội to lớn. Truyện ngắn Nghèo viết về cái đói nghèo và câu chuyện sinh
hoạt đời thường ở gia đình một người nông dân, nhưng qua đó ta thấy được giá trị hiện thực
và nhân đạo sâu sắc.

– Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nghèo cũng cho thấy quan điểm sáng tác của nhà văn
Nam Cao: “Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ
thuật chỉ có thể là những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”.

– Nam Cao quả thật là một bậc thầy về truyện ngắn.

You might also like