Professional Documents
Culture Documents
Theo nội chứng, thì sách Đa-ni-ên ghi lại các đời và những mặc khải tiên tri đã
được ban cho Đa-ni-ên, một người Do Thái bị bắt làm tù binh và đưa sang Ba-by-lôn
khi Nê-bu-cát-nết-sa đánh chiếm Giê-ru-sa-lem lần thứ nhất vào năm 605 TC. Phần ký
thuật các biến cố kéo dài cho đến năm thứ ba đời Si-ru, là năm 536 TC, và như thế là
gồm một giai đoạn khoảng 70 năm. Rất có thể rằng Đa-ni-ên hãy còn sống cho đến
khoảng năm 530 TC, và sách Đa-ni-ên thì được hoàn tất vào thập kỳ cuối cùng của đời
ông.
Tuy từ đầu cho đến chương 7, Đa-ni-ên không hề nói về chính mình bằng ngôi
thứ nhất, đã có rất ít thắc mắc về việc chính quyển sách đã giới thiệu ông là tác giả. Điều
nầy đã được đoán định căn cứ vào phần sau của quyển sách và được đề cập đặc biệt ở
Đa-ni-ên 12:4. Cách dùng ngôi thứ nhất cùng với tên Đa-ni-ên được tìm thấy nhiều lần
ở nửa phần sau của quyển sách (7:2, 15, 28 8:1, 15, 27 9:2, 22 10:2, 7, 11, 12 12:5). Vì
đa số các nhà giải kinh, dầu theo khuynh hướng tự do hay bảo thủ, đều xem sách nầy
như một toàn tập, nhận định rằng Đa-ni-ên đã viết sách nầy được mọi người thừa nhận,
cả đến những người vẫn bài bác nó.
Ngoại trừ lời công kích của một người ngoại đạo là Parphyry (thế kỷ thứ 3 SC)
đã không hề có vấn đề nào được nêu lên liên hệ đến niên đại theo truyền thống là thế kỷ
thứ 6 TC, đến tác quyền của nhà tiên tri Đa-ni-ên, hay tính cách chân thực của quyển
sách trước khi phong trào phê bình cao hơn (higher criticism) nổi lên, hơn hai ngàn năm
sau khi quyển sách đã được viết ra. Phần xác nhận quan trọng cho sử tính của bản thân
Đa-ni-ên được tìm thấy trong ba khúc sách của Ê-xê-chi-ên (Ê-xê-chi-ên 14:24, 20 28:3),
được viết sau khi Đa-ni-ên đã chiếm được một địa vị quan trọng tại triều đình Ba-by-
lôn. Điều cũng giúp được cho các học giả bảo thủ tin quyết hơn nữa, là câu Đấng Christ
đề cập Đa-ni-ên trong Bài Giảng Trên Núi Ô-li-ve (Ma-thi-ơ 24:15; Mác 13:14).
Sách Đa-ni-ên vốn được viết sau cùng trong tất cả các sách đại tiên tri, và được
xếp thứ tự giữa vòng các sách đại tiên tri trong Kinh Thánh. Trong bộ Cựu Ước Hi-bá-
lai văn - được chia làm ba phần gồm các sách Luật pháp, các sách Tiên Tri và các Văn
Phẩm, cũng được gọi là Kethubim (Hi-bá-lai văn) hay Hagiographa (Hi văn) - thì sách
Đa-ni-ên được xếp vào phần thứ ba, là các Văn Phẩm. Tuy nhiên trong các bộ Septuagint,
Vulgate và Luther, thì nó được xếp chung với các sách đại tiên tri. Josephus cũng xếp
sách ấy vào phần thứ hai của Kinh điển Do Thái là các sách tiên tri, chứ không phải vào
phần các sách văn thơ. Do đó, có thể nói là đã có sự thừa nhận phổ quát đặc tính tiên tri
của sách Đa-ni-ên.
Tuy chức vụ của Đa-ni-ên là nhà tiên tri, nó có đặc tính khác hẳn là các nhà đại tiên tri
khác, và dường như chính là vì lý do ấy mà người Do Thái đã liệt sách Đa-ni-ên vào
hàng các văn phẩm. Như Robert Dick Wilson đã vạch rõ, lý do để người Do Thái làm
như vậy không phải vì họ xem Đa-ni-ên là thấp kém hơn, hay vì phần dành cho các sách
tiên tri đã được điển chế đã hết chỗ, đã bị “đóng cửa” rồi, nhưng như Wilson nhấn mạnh:
“Điều càng có lý hơn để sách ấy được xếp vào phần đó của Kinh điển Hi-bá-lai, ấy là vì
Đa-ni-ên đã không được gọi là “nãbhi” (nhà tiên tri) nhưng được gọi là “hõzeh” (nhà
tiên kiến) và “hãkhãm” (người khôn ngoan, nhà hiền triết, minh triết). Chỉ có tác phẩm
Nghiên Cứu Sách Đa-ni-ên. Trang 2
của các nebhi'im mới được xếp vào phần thứ hai của Kinh điển Do Thái, phần thứ ba
vốn được dành cho các tác phẩm hỗn tạp của các nhà tiên kiến, hiền triết và thầy tế lễ,
hay các sách không có đề tên và cho biết đó là tác phẩm của một nhà tiên tri, hoặc có
hình thức văn thơ”.
J.B.Payne nhận xét: “Vì tuy Đấng Christ có đề cập chức năng của Đa-ni-ên là nói
tiên tri (Ma-thi-ơ 24:15), địa vị của ông là một viên chức chính quyền và là một nhà văn
được linh cảm, chứ không phải là người hành chức tiên tri (Công Vụ Các Sứ Đồ 2:29,
30)”.
Dầu sao, người Do Thái đã không xem phần thứ ba như kém được linh cảm hơn, mà chỉ
có khác nhau về đặc tính mà thôi. Điều nầy được minh chứng rõ ràng bằng sự kiện họ
đã liệt vào phần ấy các văn phẩm đáng tôn trọng như sách Gíop, Thi Thiên, Châm Ngôn,
các quyển sách lịch sử như I và II Sử ký, E-xơ-ra, Nê-hê-mi, Ê-xơ-tê cùng với nhiều
sách khác nữa, không được xem như các sách Luật pháp hoặc Tiên tri. Trong cả nền văn
học cổ xưa, đã không có chỗ nào nói bóng gió rằng người Do Thái từng xem sách Đa-
ni-ên như một sự giả mạo do một nhân vật sùng đạo nào đó.
Chủ Đích
Trong giờ phút đen tối của giai đoạn dân Y-sơ-ra-ên bị lưu đày với việc kinh đô
Giê-ru-sa-lem và ngôi đền thờ tại đó bị phá hủy thảm thương, quyền năng thần hựu và
sức mạnh của Đức Chúa Trời cần được chứng tỏ một cách mới. Đó là điều mà sách Đa-
ni-ên đã đem đến. Điều rõ ràng là chủ đích sách nầy không phải nhằm ghi lại chi tiết
cuộc đời của Đa-ni-ên, bằng cớ ấy là các chi tiết quan trọng như gia thế, tuổi tác và cái
chết của ông đã không được đề cập, mà chỉ có các biến cố rời rạc suốt cuộc đời khá dài
của ông là được ký thuật mà thôi. Sách đã nói rất ít đến lịch sử của dân Y-sơ-ra-ên và số
phận của các tù binh Do Thái tại Ba-by-lôn. Cũng như sách Ê-xơ-tê, sách Đa-ni-ên vạch
rõ công việc mà Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục làm giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên của Ngài cả
trong thời gian họ bị trừng phạt. Trong cái khung nầy, phần mặc khải phi thường liên hệ
đến các thời kỳ của dân ngoại và chương trình của Đức Chúa Trời đối với dân Y-sơ-ra-
ên cũng được đưa vào. Nếu có sự nghi ngờ, chẳng hạn như lời tiên tri nầy có được những
Nghiên Cứu Sách Đa-ni-ên. Trang 3
người đồng thời với Đa-ni-ên biết rõ đầy đủ để làm nguồn khích lệ lớn lao cho chính
những người đã bị bắt đi đày hay không, thì điều không thể hoài nghi gì được, là sách
Đa-ni-ên đã ban hi vọng cho những người Do Thái đã hồi hương để xây lại đền thờ và
thành phố ấy, và đã đặc biệt giúp ích cho họ dưới thời bách hại của triều đại Mác-ca-bê.
Rõ ràng chủ đích của Đức Chúa Trời là ban cho Đa-ni-ên một sự mặc khải bao quát về
chương trình của Ngài, mà tuyệt đỉnh sẽ là sự tái lâm. Như vậy, sự mặc khải tiên tri của
sách nầy là chiếc chìa khóa để thấu triệt Bài Giảng Trên Núi Ô-li-ve (Ma-thi-ơ 24:1-
25:46) cũng như sách Khải huyền, mà vai trò đối với Tân Ước, cũng giống như sách Đa-
ni-ên đối với Cựu Ước vậy.
Sách Đa-ni-ên được xếp vào loại văn phẩm Khải huyền là điều rất phải lẽ, vì
những loạt khải tượng siêu nhiên mà đặc tính vốn làm nội dung đầy đủ cho từ ngữ Hi
văn apokalypsis có nghĩa là khai mạc, là vén lên bức màn che giấu một chân lý mà nếu
không làm như vậy, thì sự thật ấy vẫn còn bị che kín. Tuy các văn phẩm Khải huyền vốn
có rất nhiều ngoài Kinh Thánh, đã có tương đối ít các tác phẩm được liệt vào Kinh điển.
Trong Tân ước, chỉ có sách Khải huyền là được liệt vào đó, nhưng trong Cựu Ước thì
ngoài sách Đa-ni-ên ra, hai sách Ê-xê-chi-ên và Xa-cha-ri cũng có thể được liệt vào.
Trong việc nghiên cứu nền văn chương thuộc loại nầy, Ralph Alexander đã đưa
ra một định nghĩa chính xác và bao quát cho văn học Khải huyền. Ông định nghĩa nền
văn học Khải huyền như sau: “Văn chương Khải huyền là nền văn chương khải tượng,
biểu tượng và tiên tri, được soạn thảo trong những điều kiện bị áp bức, gồm các khải
tượng mà các biến cố trong đó được ghi lại đúng y như lúc chúng được tác giả nhìn thấy,
và được giải thích bởi người lý giải của Đức Chúa Trời (a divine interpreter), còn nội
dung thần học thì trước hết là có tính chất thế mạt luận”. Alexander cũng tiếp tục xác
định các giới hạn của văn học Khải huyền: “Căn cứ trên định nghĩa nầy, ta xác định được
phần chính (corpus: thân) của văn học Khải huyền. Các khúc sách trong và ngoài Kinh
Thánh có tính cách khải huyền gồm có sách Khải huyền của Tân Ước Ê-xê-chi-ên 37:1-
Ngôn Ngữ
Có một điều không bình thường trong sách Đa-ni-ên là sự kiện phần trung tâm
của sách ấy (Đa-ni-ên 2:4-7, 28) đã được viết bằng chữ A-ram của Kinh Thánh, cũng
được gọi là tiếng Canh-đê (Anh văn “Syriack"). Cách dùng tiếng A-ram tương tự như
vậy cũng được tìm thấy trong Ê-xơ-ra 4:8-6:18 7:12-26; Giê-rê-mi 10:11 và hai chữ
trong tên kép Y-ê-ga Sa-ha-đu-tha trong Sáng Thế Ký 31:47. Việc dùng tiếng A-ram là
quốc tế ngữ phổ thông của giai đoạn đó, vốn có liên quan với sự kiện phần chất liệu
nhằm vào thế giới người ngoại bang chớ không nhằm trực tiếp vào dân Y-sơ-ra-ên. Sự
kiện có nhiều phần tương tự nhau trong Kinh Thánh cho chúng ta thấy rõ là chẳng có gì
khác thường hay đáng thắc mắc về đoạn viết bằng chữ A-ram trong sách Đa-ni-ên. Như
Brownlee đã vạch rõ, việc thay đổi từ chữ Hi-bá-lai sang chữ A-ram rồi trở lại với chữ
Hi-bá-lai trong sách Đa-ni-ên đã được nhận thấy trong các cuộn sách Đa-ni-ên tại
Qumran, hậu thuẫn cho tính cách hợp pháp của điểm nầy trong văn bản Massoretic, vốn
thường được dùng để dịch Kinh Thánh ra Anh văn.
Luận cứ bảo rằng tiếng A-ram của sách Đa-ni-ên là của Tây phương và không hề
được sử dụng tại Ba-by-lôn như S.R.Driver đã phổ biến, hiện đã được chứng minh rõ
ràng là sai lầm căn cứ vào các chứng cứ khảo cổ học sau nầy. Như Martin nhận xét liên
hệ với vấn đề tranh cãi của Driver “Lúc ông (Driver) viết sách, thì tài liệu duy nhất vốn
có đã quá cũ nên không còn phù hợp nữa. Tiếp theo đó, nhờ lợi dụng các tài liệu sớm
hơn đã được đưa ra ánh sáng, R.D.Wilson đã có thể chứng minh được chỗ khác nhau
giữa tiếng A-ram Đông phương và Tây phương đã không hề có vào các thời kỳ tiền Cơ-
đốc giáo. Từ đó đến nay việc đó đã được H.H.Schaeder xác nhận thêm”.
Như G.L.Archer đề cập vấn đề tiếng A-ram “Rõ ràng là người Do Thái không hề
loại trừ các phần viết bằng tiếng A-ram trong sách E-xơ-ra, phần lớn gồm các bản sao
Nghiên Cứu Sách Đa-ni-ên. Trang 6
những thư từ trao đổi nhau bằng tiếng A-ram giữa các nhà cầm quyền địa phương tại xứ
Palestine với triều đình Ba-Tư vào khoảng từ năm 520 đến 460 TC. Nếu sách E-xơ-ra
có thể được thừa nhận là một tài liệu xác thực vào giữa thế kỷ thứ năm khi có rất nhiều
chương của sách ấy đã được viết bằng tiếng A-ram, thì thật là khó thấy được tại sao sáu
chương bằng tiếng A-ram trong sách Đa-ni-ên lại phải bị định niên đại hai trăm năm sau
đó. Phải chú ý cẩn trọng rằng tại Ba-by-lôn vào sáu thế kỷ cuối cùng là giai đoạn mà
theo nội dung sách ấy là thời kỳ mà Đa-ni-ên đã sống, thì ngôn ngữ chiếm ưu thế và
được dân chúng hỗn tạp sử dụng tại thủ đô nầy chính là tiếng A-ram. Do đó, người ta sẽ
chẳng có gì để lấy làm lạ khi một người cư trú tại thành phố ấy đã phải nhờ tiếng A-ram
để soạn thảo một phần các hồi ký của mình.
Truyền thống chia sách Đa-ni-ên làm hai phần (1-6; 7-12) thường được biểu minh
căn cứ vào việc sáu chương trước có tính cách sử ký và sáu chương sau có tính cách khải
huyền hay tiên tri. Có nhiều điều cần nói về cách chia phần nầy, vốn cũng thường xem
chương 1 là phần nhập đề.
Như đã được chỉ rõ trong phần chú giải chương 7, còn có một cách chia phần
khác cũng thừa nhận phần viết bằng tiếng A-ram là có ý nghĩa, nhưng lại chia cả bộ sách
làm ba phần lớn:
(1) Nhập đề Đa-ni-ên 1,
(2) Thời kỳ các dân ngoại được trình bày bằng tiếng A-ram, Đa-ni-ên 2-7,
(3) Dân Y-sơ-ra-ên trong mối liên hệ với các dân ngoại, bằng tiếng Hi-bá-lai,
Đa-ni-ên 8-12. Quan điểm nầy được Robert Culver đưa ra, sau Carl A.Aulierlin. Tuy
quan điểm nầy không hấp dẫn được đa số các học giả bảo thủ, nó có ưu điểm là phân
biệt chương trình của Đức Chúa Trời đối với các dân ngoại và chương trình của Ngài
dành cho dân Y-sơ-ra-ên, với chỗ gián đoạn ở cuối chương 7. Robert Dick Wilson thừa
nhận cả hai nguyên tắc chia phần đó.
Tuy phần nguyên tắc để chia phần có thể bị tranh cãi, điều có ý nghĩa nhất là phần
lớn các nhà giải kinh, dầu là tự do hay bảo thủ, đều đồng ý với nhau về tính cách nhất
Nghiên Cứu Sách Đa-ni-ên. Trang 7
quán của quyển sách. Một vài người bắt đầu là Spinoza vào thế kỷ thứ 17 đã có các quan
điểm khác. Chẳng hạn như Montgomery đề nghị một quan điểm được một số ít người
hưởng ứng kể cả trong giới các nhà phê bình, rằng các chương từ 1-6 vốn được một nhà
văn không biết là ai, viết vào thế kỷ thứ 3 TC, còn các chương từ 7-12 thì được viết vào
giai đoạn có dòng họ Ma-ca-bê, 168-165 TC. Điều có ý nghĩa là tất cả những người phủ
nhận tính cách nhất quán của sách nầy, cũng đều phủ nhận luôn tính cách xác thực của
nó là một tác phẩm đã được viết ra từ thế kỷ thứ 6 TC. Tuy về đặc tính, hai nửa phần
của sách Đa-ni-ên có khác nhau, rõ ràng là đã có tính cách liên tục về lịch sử để hậu
thuẫn cho tính cách nhất quán của bộ sách. Cùng một nhân vật là Đa-ni-ên đã được giới
thiệu trong chương 1, cũng đã được đề cập ba lần trong chương 12. Chứng cứ hiển nhiên
đã bênh vực mạnh mẽ cho tính cách nhất quán của bộ sách.
Trong bản dịch sách Đa-ni-ên ra Hi văn, đã có nhiều phần được thêm vào cho bộ
sách, vốn không thấy có trong các bản tiếng Hi-bá-lai hay Sy-ri như chúng ta được biết
ngày nay. Các phần được thêm vào là Bài Cầu nguyện của A-xa-ria, Bài Ca của Ba
Người Con Thánh, Suzanna, và Thần Bel và Con Rồng.
Bài Cầu Nguyện của A-xa-ria và Bài Ca của Ba Người Con Thánh gồm có bài
cầu nguyện và ca ngợi của ba người bạn của Đa-ni-ên khi bị ném vào lò lửa hực trong
Đa-ni-ên 3 với nhiều câu trích từ Thi thiên 148. Susanna là truyện tích về một phụ nữ
được Đa-ni-ên che chở, đã thuyết phục được hai vị quan tòa muốn quyến dụ nàng. Bel
và Con Rồng gồm ba câu chuyện, theo đó Đa-ni-ên phá hủy hình tượng của thần Bel,
giết Con Rồng, và được nhà tiên tri Ha-ba-cúc nuôi ăn sáu ngày lúc ông sống trong hang
sư tử, là phần phóng đại phần ký thuật trong Đa-ni-ên 6. Các truyện tích nầy bị loại khỏi
Kinh điển vì được cho là không thuộc về sách Đa-ni-ên.
Theo lẽ tự nhiên, các vấn đề về chú giải trong sách Đa-ni-ên, được khảo xét khi
chú giải văn bản. Nếu tiền đề đã được bảo đảm, rằng sách Đa-ni-ên là Kinh điển chân
chính, và rằng phần tiên báo chi tiết về tương lai trong sách Đa-ni-ên có thể được xem
là thật, thì sau đó, vấn đề chú giải sẽ được thu gọn vào việc xác định xem thật ra bản văn
ngụ ý muốn nói gì.
Nghiên Cứu Sách Đa-ni-ên. Trang 21
Việc chú giải văn học khải huyền như các khải tượng của Đa-ni-ên đòi hỏi nhiều
biệt tài và phải bám sát các nguyên tắc giải kinh áp dụng cho một sách mặc khải như thế.
Chẳng hạn như Alexander trong công trình nghiên cứu được soi sáng của ông về vấn đề
nầy, đã đề ra 23 qui luật phải theo để chú giải các sách của nền văn học khải huyền trong
Cựu Ước. Tuy nhiên, nói chung, thì ý nghĩa của bản văn có thể được xác định, nhất là
nhờ phần ứng nghiệm trong lịch sử mà nhà giải kinh đã nắm được.
Các tài liệu lịch sử được ghi lại đã tỏ ra tốt bụng với Đa-ni-ên khi cung cấp nhiều
bằng chứng đầy đủ về việc lời tiên tri của ông đã ứng nghiệm, khiến các nhà phê bình
phải đặt tác phẩm của ông đàng sau các biến cố, như sẽ được vạch rõ trong phần chú
giải, sách Đa-ni-ên hậu thuẫn cho lời giải thích rằng Đa-ni-ên đang trình bày sự thật liên
hệ đến bốn đại đế quốc trên thế giới, bắt đầu là Ba-by-lôn, với đế quốc thứ tư dứt khoát
vẫn còn nằm trong viễn tượng tiên tri, ngay cả với một quan sát viên đứng tại thời điểm
là thế kỷ thứ 2. Phần giải thích chương 2 được chương 7 xác nhận, trong đó có sự mặc
khải đặc biệt liên hệ đến đế quốc thứ tư với giai đoạn hãy còn trong tương lai của nó, và
bằng nhiều chi tiết thêm vào trong chương 8 về các đế quốc Mê-đô Ba-tư và Hi-lạp. Nếu
không nói là trọn vẹn, thì phần lớn chương 8 đã được ứng nghiệm trong lịch sử 500 năm
từ ngày Đa-ni-ên qua đời, cho đến lúc bắt đầu hình thành Đế quốc La Mã năm 27 TC.
Lời tiên tri được tập trung vào Đa-ni-ên 11:36-12:13 đã được xem rất đúng là
phần thảo luận chi tiết về “kỳ sau rốt” là giai đoạn ngay trước khi Đấng Christ tái lâm.
Chương 9:24-27 đưa ra một cái nhìn rộng rãi vào lịch sử dân Y-sơ-ra-ên, có thể được
một quan sát viên của thế kỷ thứ 20 xem như đã ứng nghiệm. trừ 9:27 là một lời tiên tri
khác về vai trò của dân Y-sơ-ra-ên trong những năm ngay trước ngày Đấng Christ tái
lâm.
Nhập chung lại, thì lời giải thích của Đa-ni-ên cung cấp một chương trình bao
quát của Đức Chúa Trời cho các dân ngoại từ Đa-ni-ên cho đến khi Đấng Christ tái lâm,
và chương trình cho dân Y-sơ-ra-ên cùng trong giai đoạn ây, với 9:24 bắt đầu vào thời
Nê-hê-ni. Phần hậu thuẫn cho những lời giải thích nầy chống lại các quan điểm trái
ngược, sẽ được trình bày trong phần chú giải.
Trong phần mặc khải bao quát của mình, sách Đa-ni-ên cung cấp cùng một quan
điểm về Đức Chúa Trời (Thượng Đế quan) như quan điểm vẫn xuất hiện khắp nơi trong
Cựu Ước, tức là về một Đức Chúa Trời đang cầm quyền tể trị, yêu thương, vô sở bất
năng, vô sở bất tri, công chính và giàu lòng thương xót. Ngài là Đức Chúa Trời của dân
Y-sơ-ra-ên nhưng cũng là Đức Chúa Trời của các dân ngoại. Nội dung quyển sách đã
hậu thuẫn cho cả hai chủ đề nầy.
Tuy Đa-ni-ên không quan tâm trước nhất đến lời tiên tri về Đấng Mê-si, sự giáng
lâm lần thứ nhất của Đấng Christ đã được báo trước trong 9:26, gồm có việc Ngài chịu
chết trên thập tự giá và việc thành Giê-ru-sa-lem bị phá hủy sau đó. Sự tái lâm của Đấng
Christ thì được mặc khải đặc biệt hơn trong các chương 7 và 12.
Giáo lý về các thiên sứ nổi bật hẳn lên trong sách Đa-ni-ên với Gáp-ri-ên và Mi-
chen được nêu tên và tích cực hoạt động trong các biến cố xảy ra trong sách. Về điểm
nầy, thì sách Đa-ni-ên đi trước về giáo lý nầy trong Cựu Ước, nhưng giới phê bình tự do
lại cho rằng Đa-ni-ên đã vay mượn nó từ các nguồn gốc Ba-by-lôn và Ba-tư, là điều
không có gì biện minh cả, và không được văn bản hậu thuẫn.
Trong giáo lý về con người, Đa-ni-ên làm chứng đầy đủ cho sự hư hoại của con
người, cho sự phán xét công bình của Đức Chúa Trời đối với họ, và việc có thể được
thương xót và khoan hồng như chương 4 đã minh họa bằng sự ăn năn của Nê-bu-cát-
nết-sa.
Lời chứng rõ ràng của Đa-ni-ên cho đề tài về sự sống lại trong chương 12 đã bị
các nhà phê bình phản đối là không phù hợp với thời của ông, là vay mượn của các
nguồn gốc ngoại đạo, và không được các nhà tiểu tiên tri sau ông chú ý đến. Tất cả các
chủ trương trên đều thiếu nền tảng. Giáo lý về sự sống lại vốn đã được nêu ra hết sức rõ
ràng trong Gióp 19:25, 26 và vẫn được giải nghĩa là chuyện bình thường, Sự hồi sinh
của dân Y-sơ-ra-ên còn được đề cập trong Ê-sai 26:19. Khải tượng về trũng hài cốt khô
của Êx 37 khi đề cập sự phục hồi địa vị cho dân Y-sơ-ra-ên, đòi hỏi phải có sự sống lại
của các cá nhân người Y-sơ-ra-ên để hoàn tất chủ đích ấy. Trong Cựu Ước cũng có
Kết Luận
Theo nhiều phương diện, sách Đa-ni-ên là sự mặc khải tiên tri hàm súc nhất trong
Cựu Ước, đưa ra một quan điểm toàn diện duy nhất về lịch sử thế giới từ thời đế quốc
Ba-by-lôn cho đến ngày Đấng Christ tái lâm và xen kẽ phần lịch sử và lời tiên tri về các
Nghiên Cứu Sách Đa-ni-ên. Trang 24
dân ngoại, với lịch sử và lời tiên tri liên hệ đến dân Y-sơ-ra-ên. Đa-ni-ên đã cung cấp
chiếc chìa khóa cho việc chú giải trọn vẹn lời tiên tri, là một yếu tố chủ yếu trong giáo
lý tiền-thiên-hi-niên (Chúa tái lâm trước thiên-hi-niên) và thiết yếu cho việc chú giải
sách Khải huyền. Phần mặc khải của sách ấy về sự tể trị và quyền phép của Đức Chúa
Trời đã bảo đảm cho dân Do-thái và các dân ngoại rằng Đức Chúa Trời sẽ hoàn thành
các chủ đích tể trị của Ngài trong thời gian và cõi đời đời.
Chương đầu của sách Đa-ni-ên là truyện tích được viết lại thật đẹp đẽ, thật cảm
động về thuở thiếu thời của Đa-ni-ên và các bạn ông tại Ba-by-lôn. Bằng hình thức ngắn
gọn và cô đọng, nó ghi lại phần bối cảnh lịch sử cho toàn quyển sách. Hơn nữa, nó giới
thiệu một giọng văn thiết yếu có tính cách lịch sử về Đa-ni-ên và các từng trải của ông,
tương phản với phần nhập đề của các nhà đại tiên tri khác, từng sống với cương vị người
phát ngôn của Đức Chúa Trời. Trong phần lớn quyển sách, Đa-ni-ên vốn là một quan
chức chính quyền và là một sử gia trung thực viết lại cách thức Đức Chúa Trời đã đối
xử với ông. Tuy có ngắn hơn các sách tiên tri như Ê-sai, Giê-rê-mi và Ê-xê-chi-ên, sách
Đa-ni-ên là quyển sách hàm súc và có phần mặc khải có phạm vi rộng lớn nhất mà một
nhà tiên tri Cựu Ước đã ghi lại được. Các chương nhập đề giải thích Đa-ni-ên đã được
kêu gọi chuẩn bị trưởng thành, và được Đức Chúa Trời chúc phước cho như thế nào. Rất
có thể là ngoại trừ Môi-se và Sa-lô-môn, Đa-ni-ên là nhân vật có học thức cao nhất trong
cả Cựu Ước và đã được huấn luyện chu đáo nhất cho vài trò quan trọng của mình trong
lịch sử và văn học.
1.1 Xứ Giu-Đa Bị Chinh Phục Và Dân Do Thái Bị Lưu Đày (Đa-ni-ên 1:1, 2)
“1Năm thứ ba về đời Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, thì Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-
by-lôn, đến thành Giê-ru-sa-lem và vây lấy. 2Chúa phó Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, và
một phần khí mạnh của nhà Đức Chúa Trời vào tay người. Nê-bu-cát-nết-sa đem khí
mạnh ấy về đất Si-nê-a, vào nhà của thần mình, và để trong kho của thần mình”.
Mấy câu mở đầu sách Đa-ni-ên kể lại vắn tắt phần bối cảnh lịch sử của việc người Ba-
by-lôn bao vây, và đánh chiếm Giê-ru-sa-lem lần thứ nhất. Theo Đa-ni-ên thì việc nầy
xảy ra nhằm “năm thứ ba về đời Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa” hay vào khoảng năm 605
TC. Nhiều phần ký thuật song song cũng được tìm thấy trong II. Các Vua 24:1, 2 và II.
Sử Ký 36:5-7. Việc Giê-ru-sa-lem bị chinh phục và dân Do Thái bị đưa đi lưu đày lần
đầu tiên sang Ba-by-lôn gồm cả Đa-ni-ên và các bạn bè ông, là phần ứng nghiệm của
1.2 Các Thanh Niên Do-Thái Được Tuyển Chọn Để Thụ Huấn (Đa-ni-ên 1:3-7)
“3Vua truyền cho Át-bê-na, là người làm đầu các hoạn quan mình, lấy trong con
cái Y-sơ-ra-ên, trong dòng vua, và trong hàng quan sang, mà đem đến 4 mấy kẻ trai trẻ
không có tật nguyền, mặt mày xinh tốt, tập mọi sự khôn ngoan, biết cách trí, đủ sự thông
hiểu khoa học, có thể đứng chầu trong cung vua, và dạy cho học thức và tiếng của người
Canh-đê. 5 Vua định mỗi ngày ban cho họ một phần đồ ngon vua ăn và rượu vua uống,
hầu cho khi đã nuôi họ như vậy ba năm rồi, thì họ sẽ đứng chầu trước mặt vua. 6 Trong
bọn đó có Đa-ni-en, Ha-na-nia, Mi-sa-ên và A-xa-ria là thuộc về con cái Giu-đa. 7 Người
làm đầu hoạn quan đặt tên cho họ: cho Đa-ni-ên tên Bên-tơ-xát-xa; cho Ha-na-nia tên
Sa-đơ-rắc; cho Mi-sa-ên tên Mê-sác; và cho A-xa-ria tên A-bết-nê-gô”.
Để giải thích làm thế nào Đa-ni-ên và các bạn ông có mặt tại Ba-by-lôn, sách Đa-
ni-ên chép rằng “vua truyền lệnh cho Át-bê-na” đưa một số thiếu niên người Y-sơ-ra-ên
đến Ba-by-lôn, để được huấn luyện trở thành tôi tớ cho vua. Theo S.H.Horn, thì tên “Át-
bê-na” xuất hiện trong các bản văn có tính cách bùa chú từ Nippur dưới dạng là 'SPNZ,
Đa-ni-ên và các bạn ông bị bắt buộc phải đối diện với vấn đề thỏa hiệp với việc
ăn các thực phẩm mà nhà vua cung cấp cho. Chắc chắn việc cung cấp khẩu phần đế
vương cho họ là theo ý tốt, muốn tỏ lòng hào hiệp và sự ưu đãi của nhà vua đối với họ.
Tuy nhiên, Đa-ni-ên “quyết định trong lòng” rằng mình sẽ không tự làm ô uế mình (Ê-
sai 42:25; 47:7; 57:1, 11 Ma-la-chi 2:2). Vấn đề có hai mặt. Trước hết, khẩu phần cung
ứng đó không hội đủ các điều kiện mà luật pháp Môi-se đòi hỏi, vì không được chế biến
theo đúng các qui tắc, và có thể gồm luôn các loại thịt của những con thú bị cấm ăn thịt.
Thứ hai, tuy Luật pháp không hoàn toàn cấm uống rượu, nhưng vấn đề ở đây là rượu
cũng như thịt, đều đã cúng cho các thần tượng như thói quen tại Ba-by-lôn. Tham dự
vào đó, tức là thừa nhận các hình tượng ấy là thần. Một đoạn rất gần với quyết định của
Đa-ni-ên không chịu tự làm ô uế mình, cũng được tìm thấy trong sách Tobit (1:10-11)
đề cập số người của các chi phái miền Bắc bị đưa đi đày “Khi bị bắt và đày sang Ni-ni-
ve, toàn thể anh em và bà con tôi đều ăn lương thực của người ngoại, nhưng tôi tự giữ
mình, không ăn các món ấy, vì tôi hết lòng nhớ đến Đức Chúa Trời”. Một câu y như thế
cũng được tìm thấy trong I Ma-ca-bê (1:62,63) “nhưng nhiều người trong dân Y-sơ-ra-
ên giữ vững lập trường và quyết tâm không chịu ăn thực phẩm không sạch. Họ thà chết
chứ không chịu để cho thực phẩm làm ô uế hay khiến cho giao ước thánh thành ra phàm
tục, và họ đã chết”.
Vấn đề Đa-ni-ên và các bạn ông có chịu ăn thực phẩm nhà vua cung cấp hay
không, là sự thử thách tối cao đối với lòng trung thành của họ với luật pháp, và rất có
thể là cũng nhằm phục vụ cho chủ đích thực tế là phân rẽ Đa-ni-ên và ba người bạn của
ông với những kẻ bị lưu đày khác, vốn rõ ràng là đã chịu thỏa hiệp, nhượng bộ trong vấn
“11Đa-ni-ên bèn nói với Ham-mên-xa mà người làm đầu hoạn quan đã khiến coi
sóc Đa-ni-ên, Ha-na-nia, Mi-sa-ên và A-xa-ria, rằng: 12Tôi xin ông hãy thử những kẻ
tôi tớ ông trong mười ngày, cho chúng tôi chỉ ăn rau uống nước. 13Sau đó, sẽ nhìn nét
mặt chúng tôi với nét mặt những kẻ trai trẻ ăn đồ ăn ngon của vua; rồi ông sẽ làm cho
những kẻ tôi tớ ông theo như điều ông đã thấy. 14Ham-mên-xa nhậm lời họ xin, và thử
họ trong mười ngày”.
Bước tiếp theo của Đa-ni-ên là yêu cầu người trực tiếp phụ trách việc cấp dưỡng
cho ông và các bạn ông hãy thí nghiệm trong mười ngày. Montgomery nhận xét: “Sau
đó, Đa-ni-ên đã bày tỏ nguyện vọng riêng với viên quan cấp thấp hơn, phụ trách việc
chăm sóc các thiếu niên và cung cấp thực phẩm cho họ... Truyền thống đã phân biệt rất
phải lẽ viên quan nầy với quan thái giám”. Bản King James vạch rõ lời thỉnh cầu nầy đã
được đề đạt cho Ham-mên-xa. Rất có thể đây không phải là một tên riêng, mà chỉ có
nghĩa là “người quản gia” hay phụ tá cho quan thái giám mà thôi. Ở đây, bộ Bảy Mươi
Dịch Giả lại sửa văn bản và bảo rằng chính Đa-ni-ên đích thân thưa với “Aliezdri là
người được bổ nhiệm làm quan thái giám coi sóc Đa-ni-ên”. Các nhà phê bình, như
Charles, đã lợi dụng điểm nầy làm căn cứ để đặt vấn đề về văn bản sách Đa-ni-ên với ý
kiến cho rằng Đa-ni-ên đã không thưa chuyện với người quản lý, mà đúng hơn là đã tiếp
tục trò chuyện với chính quan thái giám. Tuy nhiên Young nối gót Calvin, đã bác bỏ ý
kiến ấy và chủ trương rằng hành động của Đa-ni-ên là hoàn toàn tự nhiên và phù hợp
với hoàn cảnh xảy ra lúc ấy. Sau khi không được phép thay đổi cách ăn uống vĩnh viễn,
lẽ tự nhiên Đa-ni-ên phải dùng biện pháp kế tiếp theo đó, là cố gắng yêu cầu một thời
gian ngắn chịu thử nghiệm. Như Montgomery nói: “Một sự chấp nhận ngầm lời thỉnh
cầu mà khỏi sợ bị phát giác”. Người quản gia vốn không ở vào địa vị thân cận hay có
trách nhiệm như quan thái giám đối với nhà vua, có thể giúp Đa-ni-ên đạt được nguyện
vọng.
1.5 Lời Thỉnh Cầu Của Đa-Ni-Ên Được Chấp Thuận (Đa-ni-ên 1:15, 16)
“15Mười ngày ấy qua rồi, thấy mặt họ lại có vẻ xinh tươi đầy đặn hơn mọi kẻ trai
trẻ khác đã ăn đồ ngon vua ăn. 16Vậy, Ham-mên-xa cất phần đồ ăn ngon và rượu của
họ, và cho họ ăn rau”.
Khi thời gian thử nghiệm kết thúc, Đa-ni-ên và các bạn ông chẳng những có diện
mạo xinh tươi, mà còn đầy đặn hơn những người cứ tiếp tục ăn các thực phẩm vua ban.
Tuy Đức Chúa Trời đã ban phước cho họ, chẳng có gì là cần thiết để tưởng tượng rằng
đã có một hành động siêu nhiên nào của Đức Chúa Trời ở đây cả. Loại thực phẩm họ
dùng thật ra vốn tốt hơn cho họ. Căn cứ vào cuộc thử nghiệm, lời thỉnh cầu của họ được
chấp thuận, và họ tiếp tục ăn rau.
1.6 Đức Chúa Trời Ban Phước Cho Đa-Ni-Ên Và Các Bạn Ông (Đa-ni-ên 1:17-21)
“17Vả, Đức Chúa Trời ban cho bốn người trai trẻ đó được thông biết tỏ sáng
trong mọi thứ học thức và sự khôn ngoan. Đa-ni-ên cũng biết được mọi sự kiện thấy và
chiêm bao. 18Đến kỳ vua định để đem họ đến, thì người làm đầu hoạn quan dắt họ đến
trước mặt Nê-bu-cát-nết-sa. 19Vua nói chuyện cùng họ; và trong hết thảy bọn họ, không
thấy ai bằng Đa-ni-ên, Ha-na-nia, Mi-sa-ên và A-xa-ria; vậy họ được đứng chầu trước
“1Trong năm thứ hai đời vua Nê-bu-cát-nết-sa, vua thấy chiêm bao, thì trong lòng
bối rối và mất giấc ngủ”.
Việc Nê-bu-cát-nết-sa có một chiêm bao quan trọng và việc giải nghĩa chiêm bao ấy
được bắt đầu bằng câu chép rằng giấc chiêm bao ấy được Nê-bu-cát-nết-sa thấy vào năm
thứ hai đời trị vì của mình. Vấn đề lập tức được đặt ra, là câu chuyện nầy có liên hệ như
thế nào với ba năm thụ huấn của Đa-ni-ên và ba đồng bạn của ông, như đã được mô tả
trong chương 1. Dấu chỉ thời gian nầy nằm ngay ở đầu câu với dụng ý muốn nhấn mạnh,
được nối liền với chương sách trước bằng chữ “và” (theo bản dịch Anh văn) hay chữ
“đoạn” (liên tự WAW). Điều nầy ngụ ý là phần thông tin được tiếp tục nhưng không
nhất thiết phải có sự kế tiếp đúng thứ tự thời gian.
Tuy các nhà phê bình tấn công vào câu đề cập năm thứ hai đời Nê-bu-cát-nết-sa,
cho là không chính xác, cách giải thích tương đối khá dễ dàng. Nê-bu-cát-nết-sa đã bắt
Đa-ni-ên và các đồng bạn của ông đem đi ngay sau khi vua ấy chiến thắng người Ai-cập
tại Cạt-kê-mít, việc rất có thể là đã xảy ra vào tháng 5&6 dương lịch, năm 605 TC.
Wiseman vạch rõ: “Hậu quả của chiến thắng của người Ba-by-lôn xảy ra ngay tức khắc
2.2 Tất Cả Những Người Khôn Ngoan Đều Được Triệu Vời (Đa-ni-ên 2:2-3)
“2Vậy, vua truyền đòi các đồng-bóng, thuật-sĩ, thầy bói và người Canh-đê để cắt
nghĩa chiêm bao cho vua. Họ bèn đến chầu trước mặt vua. 3Vua nói cùng họ rằng: Ta
đã thấy một chiêm bao; và lòng ta bối rối, muốn biết chiêm bao đó”.
Vì cớ sự hoang mang, dường như vua Nê-bu-cát-nết-sa đã lập tức truyền lịnh tập
họp cả bốn hạng người được kể là khôn ngoan mà ở đây mô tả là “các dồng bóng
(astrologers), thuật-sĩ, thầy bói (sorcerers: thầy phù thủy) và người Canh-đê”. Danh hiệu
“những người khôn ngoan” không xuất hiện trong câu 2, nhưng được tìm thấy trong câu
27. Có nhiều bảng liệt kê tương tự xuất hiện qua suốt sách Đa-ni-ên (1:20; 2:10, 27 4:7;
5:7, 11, 15). Những người khôn ngoan dường như là cách mô tả tổng quát cả bốn hạng
người trên, rất thường được đề cập riêng rẽ (2:12, 13, 14, 18, 24, 48 4:6, 18 5:7, 8), còn
người Canh-đê thì còn được đề cập ở nhiều chỗ khác nữa (1:4; 2:4; 3:8; 5:11). Thuật sĩ
thì được dịch ra từ một chữ Hi-bá-lai có nghĩa là cây bút, do đó, theo Leupold có thể ám
chỉ một học giả chứ không phải một thuật sĩ (magician) theo nghĩa thông thường. Thầy
bói cũng được dịch là “chiêm tinh gia”, ám chỉ người có tài năng bói toán hay giao tiếp
với kẻ chết theo Leupold, nhưng cũng được hiểu là các “chiêm tinh gia” theo Young.
Cách dịch nầy gợi ý việc nghiên cứu các vì sao để tiên đoán tương lai. Tuy nhiên, Young
2.3 Nhà Vua Đòi Hỏi Phải Kể Lại Cả Giấc Chiêm Bao Lẫn Giải Nghĩa Nó (Đa-ni-
ên 2:4-6)
“4Những người Canh-đê nói cùng vua bằng tiếng A-ram rằng: Tâu vua, chúc vua
sống đời đời! Xin thuật chiêm bao cho những kẻ tôi tớ vua, và chúng tôi sẽ giải nghĩa.
5Vua trả lời cho những người Canh-đê rằng: Sự ấy đã ra khỏi ta. Nếu các ngươi không
nói cho ta biết chiêm bao đó thể nào và lời giải nó ra làm sao, thì các ngươi sẽ bị phân
thây, nhà các ngươi sẽ trở nên đống phân. 6Nhưng nếu các ngươi tỏ chiêm bao và lời
giải nó cho ta, thì các ngươi sẽ được lễ vật, phần thưởng, và vinh hiển lớn từ nơi ta. Các
ngươi hãy tỏ cho ta chiêm bao đó và lời giải nó thế nào”.
Người Canh-đê thay mặt cả nhóm người đó và làm người phát ngôn của họ, để
tâu lên với vua. Câu “nói bằng tiếng A-ram” đưa vào một đoạn văn dài viết bằng chữ A-
ram thay vì bằng chữ Hi-bá-lai, bắt đầu ở câu 4 và được tiếp tục cho đến hết chương 7.
2.4 Lời Đòi Hỏi Của Nhà Vua Được Lặp Lại (Đa-ni-ên 2:7-9)
“7Họ lại tâu lần thứ hai rằng: Xin vua kể chiêm bao cho những kẻ tôi tớ vua, và
chúng tôi sẽ cắt nghĩa. 8Vua rằng: Ta biết chắc các ngươi tìm cách để hưỡn thì giờ, vì
các ngươi thấy sự ấy đã ra khỏi ta. 9Nhưng, nếu các ngươi không tỏ cho ta biết chiêm
bao, thì cũng chỉ có một luật cho các ngươi; vì các ngươi đã điều đình với nhau đem
những lời giả dối bậy bạ nói cùng ta, cho đến ngày giờ sẽ thay đổi. Vậy, hãy nói chiêm
bao cho ta, và ta sẽ biết rằng các ngươi có thể giải nghĩa được”.
Bị đặt đối diện với quyết định tối hậu của vua, những người khôn ngoan lặp lại
lời thỉnh cầu của họ, là xin vua kể cho họ giấc mộng của mình, và một lần nữa, họ khẳng
định là sẽ có thể giải nghĩa nó. Dường như nếu quả thật nhà vua đã quên mất giấc chiêm
bao thì có lẽ những người khôn ngoan nầy sẽ cố gắng đưa ra một câu trả lời nào đó. Sự
kiện là họ đã không hậu thuẫn cho ý kiến bảo rằng nhà vua đã cố ý muốn giữ lại điều
vua đã biết. Cả khi nhà vua không nhớ hết chi tiết của giấc chiêm bao, và không thể kể
lại vừa đủ, để tạo được nền tảng cho cách giải nghĩa, rất có thể là nhà vua vốn đã nhận
chân được tâm địa của những người khôn ngoan đó rồi. Dầu sao, họ đã không thử đưa
ra mưu mẹo đó.
Tuy nhiên, nhà vua đã ngắt ngang lời tâu của họ, vạch rõ rằng nhà vua biết chắc
là họ chỉ muốn trì hoãn mà thôi. Câu “ta biết chắc” nói ngay từ đầu, là nhằm nhấn mạnh
điều đó. Nhà vua tố cáo những người khôn ngoan là muốn “trì hoãn”, nguyên văn là
muốn “mua thì giờ”, “vì các ngươi thấy sự ấy đã ra khỏi ta”. Câu cuối cùng nầy lặp y lại
câu nói trên câu 5, với cùng một vấn đề về việc giải nghĩa, và có thể được dịch là “vì các
2.5 Lời Thỉnh Cầu Cuối Cùng Của Những Người Khôn Ngoan Bị Từ Khước (Đa-
ni-ên 2:10-13)
“10Những người Canh-đê tâu lại cùng vua rằng: Chẳng có người nào trên đất nầy
có thể tỏ ra việc của vua; vì chẳng có vua nào, chúa nào, người cai trị nào đem việc như
thế hỏi đồng bóng, thuật sĩ, hay người Canh-đê nào. 11Vì sự vua đòi là hiếm có, và
không ai có thể tỏ cho vua được, chỉ có các vị thần không ở với loài xác thịt. 12Vậy nên
vua phát tức mình và giận dữ lắm, bèn truyền mạng lịnh giết chết hết những bác sĩ của
Ba-by-lôn. 13Vậy mạng lịnh đó đã truyền ra; người ta hầu đem giết hết thảy những bác
sĩ, lại tìm Đa-ni-ên cùng đồng bạn người để giết”.
Tuy những người Canh-đê quả quyết rằng họ có thể giải nghĩa được giấc chiêm
bao, nhưng bị cụt hứng vì nhà vua đòi hỏi họ phải kể lại chính giấc chiêm bao nữa. Bằng
những lời lẽ hết sức nhã nhặn mà họ có thể nói được, họ đã cố gắng tâu lên cho Nê-nu-
cát-nết-sa biết rằng điều nhà vua đòi hỏi đó là vô lý, và “chẳng có vua nào, chúa nào,
người cai trị nào” lại chờ đợi những người khôn ngoan của mình một sự tiết lộ như vậy.
Những người Canh-đê vốn biết rằng họ đang đứng trước mặt một nhà vua có quyền uy
tuyệt đối. Họ thú nhận rằng điều nhà vua đòi hỏi đó là vượt khỏi tri thức con người, là
điều mà bọn họ đang có. Họ cố gắng nịnh bợ nhà vua, bằng cách tôn xưng Nê-bu-cát-
nết-sa là “vua, chúa và người cai trị” mà nêu muốn nhập chung lại để dịch, chúng ta chỉ
có thể bảo là “một vị đế vương vĩ đại và quyền uy” như Young đã gợi ý. Ý muốn nói ở
đây là Nê-bu-cát-nết-sa vốn là một nhà vua vĩ đại và đầy quyền uy như vậy, nên mới
mong muốn các tôi tớ mình cũng phải có một tri thức như vậy. Điều nhà vua đòi hỏi đó
“14Bấy giờ Đa-ni-ên lấy sự khôn ngoan và tri thức mà nói với A-ri-ốc, quản thị
vệ của vua, đã đi ra đặng giết những bác sĩ của Ba-by-lôn. 15Người cất tiếng nói cùng
A-ri-ốc, quản thị vệ của vua, rằng: Sao lại có mạng lịnh nghiêm cấp dường ấy ra từ vua?
A-ri-ốc bèn kể chuyện cho Đa-ni-ên rõ. 16Tức thì Đa-ni-ên vào, xin vua cho mình một
hạn nữa, hầu có thể giải nghĩa điềm chiêm bao đó cho vua”.
Khi Đa-ni-ên được báo tin về chiếu chỉ của vua, sách chép: “Bấy giờ, Đa-ni-ên
lấy sự khôn ngoan trí thức mà nói với A-ri-ốc, quản thị vệ của vua”. Tuy trước đây,
người ta vẫn khó tố cáo được những người khôn ngoan là kém nhã nhặn, dường như
trong cách Đa-ni-ên tiếp cận vấn đề, ông còn tỏ ra đĩnh đạc và bình tĩnh hơn nữa. Như
Keil mô tả: “Nhờ cuộc gặp gỡ và phân trần phải trái với A-ri-ốc của Đa-ni-ên, việc thi
hành chiếu chỉ của nhà vua đã được đình hoãn”.
Với tư cách quản thị vệ của vua, A-ri-ốc cũng kiêm thêm trách nhiệm chỉ huy
việc thi hành án xử tử, tuy có lẽ bản thân ông ta không phải trực tiếp sát hại những người
khôn ngoan. Vì đã quen thuộc với sự tàn bạo của thời đại mình, dường như A-ri-ốc đã
không hề thắc mắc gì cả về chiếu chỉ của vua. Tuy nhiên, khi Đa-ni-ên đặt vấn đề: “Sao
lại có mạng lịnh nghiêm cấp dường ấy ra từ vua?” đã có một cuộc thảo luận với Đa-ni-
ên, để thông báo cho ông biết rõ tình hình. A-ri-ốc đã chịu dành thì giờ để giải thích cho
một kẻ đã bị án tử hình cho chúng ta thấy cả cách tiếp cận nhã nhặn của Đa-ni-ên, lẫn
thái độ kính trọng của ông ta đối với Đa-ni-ên. Có người căn cứ vào từ ngữ “nghiêm
cấp” ở đây để bảo rằng cách nói như vậy là mâu thuẫn với tánh tình vốn rất thận trọng
của ông. Tuy nhiên, một chiếu chỉ ra lệnh xử tử những người chưa hề có cơ hội ngỏ lời
với nhà vua như vậy, rõ ràng là quá nghiêm khắc, và tạo cơ hội để A-ri-ốc có thế giải
thích với vua.
Câu 16 chỉ tóm tắt ngắn gọn điều đã thật sự xảy ra. Chắc Đa-ni-ên đã nói với A-
ri-ốc là ông có thể giải mộng cho vua, khiến A-ri-ốc sẵn sàng cộng tác với ông trong
2.7 Đa-Ni-Ên Và Các Đồng Bạn Cầu Nguyện Xin Đức Chúa Trời Ban Sự Khôn
Ngoan (Đa-ni-ên 2:17, 18)
“17Đoạn, Đa-ni-ên trở về nhà, và tỏ sự ấy cho các bạn mình là Ha-na-nia, Mi-sa-
ên và A-xa-ria. 18Người xin họ cầu Đức Chúa Trời ở trên trời dủ lòng thường xót họ về
sự kín nhiệm nầy, hầu cho Đa-ni-ên và đồng bạn mình khỏi phải chết với những bác sĩ
khác của Ba-by-lôn”.
Đa-ni-ên về nhà và không để mất thì giờ, đã thông báo ngay cho ba người bạn
của ông. Chủ đích của ông thật là rõ ràng, ấy là muốn họ cùng hiệp ý với ông để cầu
nguyện, xin Đức Chúa Trời tiết lộ chuyện bí mật ấy. Vì họ đang gặp nguy hiểm như
nhau, cho nên họ cũng có thể cùng nhau cầu đảo. Họ phải tìm cầu “ơn thương xót của
Đức Chúa Trời” nhiều khi bằng cách lợi dụng lòng thương xót của người ta (Đa-ni-ên
1:9; Xa-cha-ri 7:9), nhưng thông thường hơn, thì phải tìm cầu nơi chính Đức Chúa Trời
(Nê-hê-mi 9:28; Ê-sai 63:7; Đa-ni-ên 9:9, vv). Ơn thương xót của Đức Chúa Trời tương
phản rõ rệt với chiếu chỉ của Nê-bu-cát-nết-sa, truyền lịnh xử tử những người khôn
ngoan, không chút xót thương.
2.8 Lời Cầu Nguyện Của Đa-ni-ên Được Nhậm (Đa-ni-ên 2:19-23)
“19Vậy sự kín nhiệm được tỏ ra cho Đa-ni-ên trong sự hiện thấy ban đêm; Đa-
ni-ên bèn ngợi khen Chúa trên trời. 20Đoạn, Đa-ni-ên cất tiếng nói rằng: Ngợi khen danh
Đức Chúa Trời đời đời vô cùng! vì sự khôn ngoan và quyền năng đều thuộc về Ngài.
21Chính Ngài thay đổi thì giờ và mùa, bỏ và lập các vua; ban sự khôn ngoan cho kẻ
khôn ngoan, và sự thông biết cho kẻ tỏ sáng. 22Chính Ngài tỏ ra những sự sâu xa kín
nhiệm, Ngài biết những sự ở trong tối tăm, và sự sáng ở với Ngài. 23Hỡi Đức Chúa Trời
của tổ phụ tôi! Tôi cảm ơn và ngợi khen Ngài, vì Ngài đã ban cho tôi sự khôn ngoan và
2.9 Đa-ni-ên Kể Lại Việc Mặc Khải Điều Bí Mật (Đa-ni-ên 2:24-28)
“24Vậy nên Đa-ni-ên đến nhà A-ri-ốc, là người vua đã truyền cho diệt những bác
sĩ của Ba-by-lôn; và nói cùng người như vầy: Đừng diệt những bác sĩ của Ba-by-lôn;
nhưng hãy đưa tôi vào trước mặt vua, thì tôi sẽ giải nghĩa điềm chiêm bao cho vua.
25Bấy giờ A-ri-ốc vội vàng dẫn Đa-ni-ên đến trước mặt vua, và tâu cùng vua như vầy:
Tôi đã tìm thấy một người trong những con cái Giu-đa bị bắt làm phu tù, người ấy sẽ
cho vua biết sự giải nghĩa đó. 26Vua cất tiếng nói cùng Đa-ni-ên, mà người ta vẫn gọi
là Bên-tơ-xát-xa, rằng: Quả thật rằng ngươi có thể tỏ cho ta biết điềm chiêm bao đã thấy,
và lời giải nó chăng? 27Đa-ni-ên ở trước mặt vua trả lời rằng: Sự kín nhiệm mà vua đã
đòi, thì những bác sĩ, thuật sĩ, đồng bóng, thầy bói đều không thể tỏ cho vua được.
“29Hỡi vua, khi vua nằm trên giường, có những tư tưởng về sự xảy đến sau nầy,
thì Đấng hay tỏ sự kín nhiệm đã cho vua biết sự sẽ xảy đến. 30Về phần tôi, sự kín nhiệm
đó đã tỏ ra cho tôi, không phải vì tôi có sự khôn ngoan gì hơn người nào sống; nhưng để
được giải nghĩa cho vua hiểu, và cho vua biết những ý tưởng trong lòng mình”.
Nê-bu-cát-nết-sa vừa chớp nhoáng bước lên địa vị quyền thế của một trong những
nhà chinh phục và hoàng đế của thế giới cổ đại. Vua ấy đã bắt đầu sự nghiệp huy hoàng
của mình ngay trong lúc vua cha hãy còn sống, nhưng sau khi vua cha thăng hà, vua ấy
đã nhanh chóng củng cố được ưu thế của mình và tự lập làm vua với uy quyền tuyệt đối
trên cả đế quốc Ba-by-lôn. Toàn cõi Tây Nam Á châu đều ở dưới quyền vua, và lúc ấy,
đã không còn có đối thủ nào đáng cho vua ấy phải quan tâm đến nữa. Trong tình hình
“31Hỡi vua, vua nhìn xem, và nầy, có một pho tượng lớn. Pho tượng đó to lớn và tực rỡ
lạ thường; đứng trước mặt vua, và hình dạng dữ tợn. 32Đầu pho tượng nầy bằng vàng
ròng; ngực và cánh tay bằng bạc; bụng và vế bằng đồng; 33ống chơn bằng sắt; và bàn
chơn thì một phần bằng sắt, một phần bằng đất sét. 34Vua nhìn pho tượng cho đến khi
có một hòn đá chẳng phải bởi tay đục ra, đến dập vào bàn chơn bằng sắt và đất sét của
tượng, và làm cho tan nát. 35Bấy giờ, sắt, đất sét, đồng, bạc và vàng đều cùng nhau tan
nát cả; trở nên như rơm rác bay trên sân đạp lúa mùa hạ, phải gió đùa đi, chẳng tìm nơi
2.12 Phần Giải Nghĩa: Ba-by-lôn Là Cái Đầu Bằng Vàng (Đa-ni-ên 2:36-38)
“36Đó là điềm chiêm bao. Bây giờ chúng tôi sẽ giải nghĩa ra trước mặt vua. 37Hỡi
vua, vua là vua các vua, vì Chúa trên trời đã ban nước, quyền, sức mạnh, và sự vinh hiển
2.13 Phần Giải Nghĩa: Vương Quốc Thứ Hai Và Thứ Ba Tiếp Theo Đó (Đa-ni-ên
2:39)
“39Nhưng sau vua, sẽ dấy lên một nước khác, kém nước của vua; rồi một nước
thứ ba, tức là đồng, sẽ cai quản khắp đất”.
Đa-ni-ên chỉ đề cập thật vắn tắt hai vương quốc thứ hai và thứ ba, tượng trưng
bằng phần trên và phần dưới của thân thể. Tuy cách đề cập vắn tắt là thế, nhưng các nhà
phê bình vẫn không chịu để mất thì giờ để dành biệt lệ là bỏ qua cho cách giải nghĩa
thông thường rằng ở đây, Đa-ni-ên đã ngụ ý ám chỉ hai đế quốc Mê-đô Ba-tư và Hi-lạp,
mà sau nầy ông sẽ nêu đích danh (Đa-ni-ên 5:28; 8:20, 21 11:2). Câu bảo rằng nước thứ
hai “kém” hơn, có nghĩa là kém hơn vê phẩm, nhưng không nhất thiết là thua kém về đủ
mọi mặt.
Thật ra thì đế quốc Ba-tư có lãnh thổ rộng hơn Ba-by-lôn cổ đại, còn đế quốc Hi-lạp lại
còn rộng lớn hơn cả đế quốc Ba-tư nữa. Đế quốc La-mã lại có phạm vi rộng lớn hơn tất
cả. Tuy nhiên, nếu suy luận rằng các vương quốc tiếp theo đó không hề kém hơn căn cứ
trên khu vực địa lý rộng lớn hơn, tức là đã hiểu sai cả giấc chiêm bao lẫn giời giải nghĩa
nó của Đa-ni-ên. Đa-ni-ên không hề bảo rằng cái đầu có kích thước to lớn hơn thân thể,
nhưng bản chất của kim loại vàng vốn quí báu hơn bạc và đồng rất nhiều, vì hai kim loại
sau rõ ràng là thua kém hơn. Sử ký cũng khẳng định rằng đế quốc Mê-đô Ba-tư và đế
quốc của A-lịch-sơn tiếp theo đó, vốn thiếu mất phần trung ương tập quyền và tổ chức
tốt, vốn là đặc điểm của đế quốc Ba-by-lôn. Pho tượng mà Đa-ni-ên căn cứ vào để giải
nghĩa thì chính xác hơn nhiều. Dường như Đa-ni-ên ngụ ý bảo rằng sự thua kém của các
đế quốc tiếp sau không hề ngăn cấm việc chúng có thể kiểm soát một khu vực địa lý
rộng lớn hơn, vì ông đặc biệt nhấn mạnh rằng “nước thứ ba...sẽ cai quản khắp đất”.
Giá trị cứ ngày càng đi xuống của bốn kim loại gợi ý về sự thoái hóa của loài
người qua các thời đại, như ngụ ý của Sáng 4. Các nhà văn cổ điển như Hesiod (Tác
2.14 Phần Giải Nghĩa: Đế Quốc Thứ Tư: La-mã (Đan 2:40-45)
“40Lại có một nước thứ tư mạnh như sắt; vì sắt hay đập vỡ và bắt phục mọi vật,
thì nước ấy cũng sẽ đập vỡ và nghiền nát như là sắt vậy. 41Còn như vua đã thấy bàn
chân và ngón chân nửa bằng đất sét nửa bằng sắt, ấy la một nước sẽ phải phân chia ra;
nhưng trong nước đó sẽ có sức mạnh của sắt, theo như vua đã thấy sắt lộn với đất sét.
42Những ngón chân nửa sắt nửa đất sét, nước đó cũng nửa mạnh nửa giòn. 43Vua đã
thấy sắt lộn với đất sét, ấy là chúng nó lộn nhau bởi giống loài người; song không dính
cùng nhau, cũng như sắt không ăn với đất sét. 44Trong đời các vua nầy, Chúa trên trời
sẽ dựng nên một nước không bao giờ bị hủy diệt, quyền nước ấy không bao giờ để cho
một dân tộc khác; song nó sẽ đánh tan và hủy diệt hết các nước trước kia, mà mình thì
đứng đời đời; 45theo như vua đã xem thấy hòn đá đục ra từ núi, chẳng phải bởi tay, đã
đập vỡ sắt, đồng, đất sét, bạc và vàng. Đức Chúa Trời lớn đã cho vua biết sự sau nầy sẽ
đến. Điềm chiêm bao nầy là thật, và lời giải nó là chắc chắn”.
Đế quốc thứ tư trong giấc chiêm bao của Nê-bu-cát-nết-sa, được biểu tượng bằng
các ống chân và bàn chân của pho tượng, rõ ràng là quan trọng nhất. Đa-ni-ên quan tâm
đến đế quốc thứ tư nầy nhiều hơn tất cả các đế quốc trước đó nhập chung lại. Vì nhiều
trường phái giải kinh khác nhau bất đồng ý kiến với nhau nhiều về vương quốc thứ tư
nầy hơn các vương quốc đi trước, thiết tưởng cần chú ý đặc biệt việc thật ra thì Đa-ni-
ên đã nói gì.
Cách giải nghĩa đầu tiên về đế quốc thứ tư nhấn mạnh trên sự vững mạnh của đôi
ống chân bằng sắt và phần năng lực của chúng để đập tan và chế phục mọi vật chống lại
nó. Dĩ nhiên điều đó quả đúng là đặc điểm của La-mã cổ đại. Như Leupold vạch rõ: “Các
“46Bấy giờ vua Nê-bu-cát-nết-sa sấp mặt xuống, lạy Đa-ni-ên, và truyền dâng lễ
vật cùng đồ thơm cho người. 47Đoạn, vua cất tiếng nói cùng Đa-ni-ên rằng: Quả thật,
Đức Chúa Trời các ngươi là Đức Chúa Trời của các thần, và là Chúa của các vua; chính
Ngài là Đấng tỏ ra những sự kín nhiệm, vì ngươi đã có thể tỏ ra sự kín nhiệm nầy. 48Vua
bèn tôn Đa-ni-ên lên sang trọng và ban cho người nhiều lễ vật trọng. Vua lập người cai
trị cả tỉnh Ba-by-lôn, và làm đầu các quan cai những bác sĩ của Ba-by-lôn. 49Đa-ni-ên
cầu xin vua, thì vua lập Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết Nê-gô cùng cai trị tỉnh Ba-by-lôn,
còn Đa-ni-ên thì chầu nơi cửa vua”.
Vì quá kinh ngạc trước ý nghĩa lạ lùng của pho tượng và phần chứng minh rằng
Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên vốn vĩ đại hơn bất cứ một vị thần nào khác mà mình thờ
lạy, nên Nê-bu-cát-nết-sa đã quì xuống lạy Đa-ni-ên và truyền lịnh dâng lễ vật và xức
dầu thơm cho ông. Các nhà phê bình đã không bỏ lỡ cơ hội để chỉ trích Đa-ni-ên rằng
Phần ký thuật về pho tượng bằng vàng được dựng lên trong đồng bằng Đu-ra ghi
lại phản ứng của Nê-bu-cát-nết-sa đối với điều đã được mặc khải trong chương 2, mà
bản thân vua ấy được biểu tượng bằng cái đầu bằng vàng. Sự can đảm gây kinh ngạc
cho mọi người và việc các bạn của Đa-ni-ên được giải cứu - họ khước từ việc thờ lạy
pho tượng - đã là nguồn cảm hứng cho dân sự Đức Chúa Trời trong những giờ gặp thử
thách tương tự. Tuy nhiên, cả chương sách nói chung thường bị xem như chỉ là một cái
nhìn xuyên suốt vào lịch sử để cung cấp cho hậu thế các đặc điểm của giai đoạn ấy. Các
công trình dành cho việc nghiên cứu các lời tiên tri của Đa-ni-ên thường bỏ qua hoàn
toàn mà không xét đến chương 3, như S.P.Tregelles và Robert D.Culver đã làm. Nhiều
người khác, như Geoffrey R.King giải thích chương ấy chẳng những như sách sử ký, mà
còn như một ẩn dụ và lời tiên tri nữa. Việc giới thiệu pho tượng vàng của Nê-bu-cát-nết-
sa trong chương 3 ngay sau giấc chiêm bao của vua ấy về pho tượng lớn vẽ ra các thời
kỳ dân ngoại, cả khi người ta hoàn toàn bỏ qua các ngụ ý ẩn dụ của nó, cũng rõ ràng là
có dụng ý không những muốn nói lên chân lý thuộc linh nói chung, mà còn nói lên các
đặc điểm của các thời kỳ dân ngoại nữa. Cho nên việc nghiên cứu chương sách nầy
không những cung cấp cho chúng ta những cái nhìn xuyên suốt thuộc linh, mà còn đóng
góp vào việc trình bày toàn thể ý nghĩa tiên tri trong sách Đa-ni-ên nữa.
“1Vua Nê-bu-cát-nết-sa làm một pho tượng bằng vàng, cao sáu mươi cu-đê và
ngang sáu cu-đê, để đứng trong đồng bằng Đu-ra, thuộc tỉnh Ba-by-lôn. 2Đoạn, vua Nê-
bu-cát-nết-sa sai nhóm các quan trấn thủ, lãnh binh, các công tước, các quan đề hình,
thủ kho, các nghị viên, quản đốc, và các quan làm đầu các tỉnh, để dự lễ khánh thành
pho tượng mà vua Nê-bu-cát-nết-sa đã dựng lên. 3Vậy, các quan trấn thủ, lãnh binh, các
công tước, các quan đề hình, thủ kho, các nghị viên, quản đốc, và hết thảy những người
làm đầu các tỉnh đều nhóm lại để dự lễ khánh thành pho tượng mà vua Nê-bu-cát-nết-sa
3.2 Ba Đồng Bạn Của Đa-ni-ên Bị Những Người Canh-đê Tố Cáo (Đa-ni-ên 3:8-
12)
“8Khi ấy, có mấy người Canh-đê đến gần để tố cáo những người Giu-đa. 9Vậy
họ cất tiếng và tâu cùng vua Nê-bu-cát-nết-sa rằng: Hỡi vua, nguyền vua sống đời đời!
10Hỡi vua, chính vua đã ra lịnh, hễ người nào nghe tiếng còi, kèn, đờn cầm, đờn sắt,
quyển, sáo và các thứ nhạc khí, thì phải sấp mình xuống để thờ lạy tượng vàng; 11và kẻ
nào không sấp mình xuống để thờ lạy tượng đó, sẽ phải quăng vào giữa lò lửa hực. 12Vả,
ở đây có mấy người Giu-đa kia mà vua đã lập lên cai trị tỉnh Ba-by-lôn, tức là Sa-đơ-
rắc, Mê-sác và A-bết-nê-gô; hỡi vua, những người ấy không kiêng nể vua một chút nào.
Họ chẳng thờ các thần của vua và cũng chẳng lạy tượng vàng vua đã dựng”.
Tuy phần ký thuật có tính cách lịch sử đưa ra trước đó bởi Đa-ni-ên không có
chép là Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-nê-gô không chịu sấp mình xuống trước pho tượng
vàng, những người Canh-đê là các chiêm tinh gia trong triều đã đến với nhà vua để tố
cáo họ. Chắc chắn là đã có chuyện số người Do-thái được Nê-bu-cát-nết-sa bổ nhiệm
cai trị tỉnh Ba-by-lôn nầy vốn bị thù ghét, vì họ thuộc một chủng tộc khác và thuộc về
một dân tộc bị bắt làm tù binh. Điều cũng hết sức rõ ràng đối với số người Canh-đê nầy,
là những người Do-thái đó đã không thờ lạy các thần của Ba-by-lôn, và thật sự, là một
thành phần ngoại lai trong chính quyền. Họ thấy trong sự kiện những người Do-thái nầy
không chịu thờ lạy hình tượng là một cơ hội để tố cáo với vua. Từ ngữ “tố cáo” dịch một
“13Bấy giờ, vua Nê-bu-cát-nết-sa tức mình nổi giận, truyền điệu Sa-đơ-rắc, Mê-
sác và A-bết-nê-gô đến, thì những người đó bị điệu đến trước mặt vua. 14Vua Nê-bu-
cát-nết-sa cất tiếng nói cùng họ rằng: Hỡi Sa-đơ-rắc, Mê-sác, A-bết-nê-gô, có phải các
ngươi cố ý không thờ thần ta và không lạy tượng vàng mà ta đã dựng lên chăng? 15Vậy,
bây giờ khi các ngươi nghe tiếng còi, kèn, đờn cầm, đờn sắt, quyển, sáo và các thứ nhạc
khí, mà các ngươi sẵn sàng sấp mình xuống đất để quì lạy pho tượng mà ta đã làm nên,
thì được; nhưng nếu các ngươi không quì lạy, thì chính giờ đó các ngươi sẽ phải quăng
vào giữa lò lửa hực. Rồi thần nào có thể giải cứu các ngươi khỏi tay ta? 16Sa-đơ-rắc,
Mê-sác và A-bết-nê-gô tâu lại cùng vua rằng: Hỡi Nê-bu-cát-nết-sa, về sự nầy, không
cần chi chúng tôi tâu lại cho vua. 17Nầy, hỡi vua! Đức Chúa Trời mà chúng tôi hầu việc,
có thể cứu chúng tôi thoát khỏi lò lửa hực, và chắc cứu chúng tôi khỏi tay vua. 18Dầu
chẳng vậy, hỡi vua, xin biết rằng chúng tôi không hầu việc các thần của vua, và không
thờ phượng pho tượng vàng mà vua đã dựng”.
Lý luận và lời tố cáo của số người Canh-đê đó đã gây ảnh hưởng tức khắc trên
Nê-bu-cát-nết-sa, lúc ấy xem sự bất tuân lịnh của Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-nê-gô
chẳng những là điều đe dọa cho nền an ninh chính trị, mà còn là sự đối đầu với bản thân
nhà vua nữa. Tuy nhiên, do sự kiện rất có thể họ đã giữ chức vụ được mấy năm và rõ
ràng là đã tỏ ra thành công trong nhiệm vụ, cho nên dầu rất tức giận, Nê-bu-cát-nết-sa
vẫn ban cho họ một lối thoát mà có lẽ những kẻ thua kém họ sẽ không thể nào có được.
Trong cơn tức giận cao độ, nhà vua truyền điệu họ đến trước mặt mình. Vua hỏi họ hai
câu, một là “Có phải các ngươi không chịu thờ lạy các thần của ta hay không?” Và “Có
phải các ngươi không chịu thờ lạy tượng vàng mà ta đã dựng... hay không?” Sự kiện nhà
vua phân biệt việc thờ lạy các thần và thờ lạy pho tượng tuy có liên hệ với nhau, nhưng
dường như xác nhận cho quan niệm rằng việc thờ lạy trước hết vốn có tính cách chính
trị, tuy việc họ không chịu thờ lạy các thần của vua đã là điều đáng bị kết tội rồi. Nhà
vua cho họ một cơ hội để tuân thủ lịnh phải thờ lạy, truyền lặp lại phần cử nhạc và bắt
buộc mọi người phải quì lạy. Vua truyền hết sức rõ ràng nếu họ không chịu làm như vậy,
3.4 Các Đồng Bạn Của Đa-ni-ên Bị Quăng Vào Lò Lửa Hực (Đa-ni-ên 3:19-23)
“24Bấy giờ, vua Nê-bu-cát-nết-sa lấy làm lạ, vội vàng đứng dậy, cất tiếng nói
cùng các nghị viên rằng: Những kẻ bị ta trói mà quăng vào giữa lửa có phải là ba người
không? Họ tâu cùng vua rằng: Tâu vua, phải. 25Vua lại nói: Nầy, ta thấy bốn người
“28Vua Nê-bu-cát-nết-sa lại cất tiếng nói rằng: Đáng ngợi khen Đức Chúa Trời
của Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-nê-gô! Ngài đã sai thiên sứ Ngài và giải cứu các tôi tớ
Ngài nhờ cậy Ngài, họ đã trái mạng vua, và liều bỏ thân thể mình, hầu để không hầu
việc và không thờ phượng thần nào khác ngoài Đức Chúa Trời mình. 29Cho nên ta ban
chiếu chỉ nầy: Bất kỳ dân nào, nước nào, thứ tiếng nào, hễ có người nói xấu đến Đức
Chúa Trời của Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-nê-gô, thì sẽ bị phân thây, nhà nó sẽ phải
thành ra đống phân, vì không có thần nào khác có thể giải cứu được thể nầy. 30Vua bèn
thăng chức cho Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-nê-gô trong tỉnh Ba-by-lôn”.
Ở cuối chương 2, Nê-bu-cát-nết-sa đã thừa nhận Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên làm
sao, thì ở đây, nhà vua ấy cũng thừa nhận quyền phép của Đức Chúa Trời của Sa-đơ-
rắc, Mê-sác và A-bết-nê-gô và ban hành một chiếu chỉ bằng thể thể văn Đông phương
nhằm kỷ niệm biến cố vừa xảy ra y như vậy. Trước hết, vừa thừa nhận quyền phép giải
cứu của Đức Chúa Trời, “đã sai thiên sứ Ngài và giải cứu các tôi tớ Ngài nhờ cậy Ngài”.
Việc các thần ngoại đạo dùng các sứ giả thi hành ý đồ của họ vốn là điều được mọi người
tin tưởng, cho nên Nê-bu-cát-nết-sa đã phân tích biến cố ở đây theo cách đó. Tuy không
có chứng cớ hiển nhiên rằng nhân vật thứ tư ở trong lò lửa hực với Sa-đơ-rắc, Mê-sác
và A-bết-nê-gô thật ra là một vị thần hay thiên sứ - như chúng ta đã thấy Nê-bu-cát-nết-
sa kết luận căn cứ vào những gì nhà vua đã thấy - rất có thể rằng Đấng đã bảo vệ cho
Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-nê-gô chính là Đấng Chrsit, hiện ra dưới hình thiên sứ. Từ
ngữ “Con Đức Chúa Trời” (3:25 con trai của các thần) vốn được dịch ra từ chữ A-ram
bar 'elãhin, có nghĩa là “một vị thần”. Trong câu 28, Nê-bu-cát-nết-sa giải thích nó thành
Chương sách chiếm một phần khá lớn trong sách Đa-ni-ên nầy vốn vượt xa một
câu chuyện sâu sắc về thế nào Đức Chúa Trời có thể đánh hạ một kẻ kiêu ngạo. Chẳng
có gì để chúng ta nghi ngờ rằng đây là tuyệt đỉnh của tiểu sử thuộc linh của Nê-bu-cát-
nết-sa, vốn bắt đầu bằng việc nhà vua từng thừa nhận đời sống thiện hảo, ngay lành của
Đa-ni-ên và các bạn ông, được tiếp tục bằng việc giải nghĩa giấc chiêm bao về pho tượng
trong chương 2, và được đẩy mạnh hơn bằng từng trải của ba đồng bạn của Đa-ni-ên.
Bối cảnh của phần ký thuật nầy là mối quan tâm rõ rệt của nhà tiên tri Đa-ni-ên
đối với con người mà mình đã phục vụ rất nhiều năm qua. Đa-ni-ên vốn là một con người
hay cầu nguyện, chắc đã từng cầu nguyện cho Nê-bu-cát-nết-sa và nóng lòng muốn thấy
một vài chứng cớ hiển nhiên rằng Đức Chúa Trời đang tác động trong lòng nhà vua. Nếu
từng trải của Nê-bu-cát-nết-sa trong chương 4 vốn không phải là điều Đa-ni-ên được
thấy trước, thì kết quả của nó chắc cũng gần đúng với điều mà ông kỳ vọng hơn hết. Tuy
có một số người như Leupold tiếp sau Calvin, “nghi ngờ chẳng hay từng trải của Nê-bu-
cát-nết-sa có dẫn đến việc vua ấy ăn năn trở lại đạo hay không”, rất có thể rằng chương
sách nầy đã đưa Nê-bu-cát-nết-sa đến chỗ đặt lòng tin cậy vào Đức Chúa Trời của Đa-
ni-ên. Cả khi đây chỉ là một bài học về sự tiến bộ thuộc linh của một người trong tay
Đức Chúa Trời, chương nầy cũng là một viên ngọc quí về phương diện văn chương.
Trong ánh sáng của sự mặc khải trong sách Đa-ni-ên về tầm hạn rộng lớn của thế
lực dân ngoại bắt đầu ở chương 2, từng trải của Nê-bu-cát-nết-sa dường như mặc lấy
4.1 Phần Nhập Đề Cho Bản Tuyên Ngôn Của Nê-bu-cát-nết-sa (Đa-ni-ên 4:1-3)
“1Vua Nê-bu-cát-nết-sa truyền cho hết thảy các dân, các nước, các thứ tiếng, ở
trên khắp đất, rằng: Nguyền cho sự bình an các ngươi được thêm lên! 2Ta lấy làm tốt
lành mà rao cho các ngươi những dấu lạ và sự lạ mà Đức Chúa Trời Rất Cao đã làm ra
đối với ta. 3Ôi! Những dấu lạ của Ngài lớn lao là dường nào! những sự lạ của Ngài mạnh
sức là dường nào! nước Ngài là nước còn mãi mãi, và quyền thế Ngài từ đời nọ đến đời
kia”.
Tuy rõ ràng mấy câu đầu nầy là một nhập đề cho chiếu chỉ của Nê-bu-cát-nết-sa,
nhiều bản dịch đã có cách trình bày bản dịch khác với bản Massorah bắt đầu bản chiếu
chỉ ở cuối chương 3. Bản Septuagint cũng dịch chương 4 khác nhiều với bản Hi-bá-lai
A-ram mà bản King James Version đã noi theo. Charles tóm tắt những dị biệt như sau:
“Trong bản Massorah mà các bản Theodotion, Vulgate và Peshitto noi theo, cả phần
thuật sự đều được trình bày dưới hình thức một chiếu chỉ hay một bức thư của Nê-bu-
cát-nết-sa cho thần dân mình. Nó bắt đầu bằng một lời chào “hết thảy các dân, các nước,
các thứ tiếng ở trên khắp đất” rồi tiếp tục vạch rõ ý nhà vua muốn cho họ biết các dấu lạ
4.2 Những Người Khôn Ngoan Không Giải Nghĩa Được Giấc Chiêm Bao (Đa-ni-
ên 4:4-7)
“4Ta, Nê-bu-cát-nết-sa, ở yên lặng trong cung ta, và thạnh vượng trong đền ta.
5Ta thấy một điềm chiêm bao làm cho ta sợ sệt; những ý tưởng của ta ở trên giường, và
những sự hiện thấy của đầu ta làm cho ta bối rối. 6Vậy ta truyền chiếu chỉ, đem hết thảy
những bác sĩ của Ba-by-lôn đến trước mặt ta, hầu cho họ giải nghĩa điềm chiêm bao cho
ta. 7Bấy giờ, những đồng bóng, thuật sĩ, người Canh-đê và thầy bói đều đến, ta kể điềm
chiêm bao trước mặt họ, nhưng họ không giải nghĩa cho ta”.
Trong phần kể lại từng trải của mình, Ne-bu-cát-nết-sa mô tả địa vị được an toàn
và sống sung túc trong cung điện mình trước khi thấy giấc chiêm bao. Trong những ngày
đầu đời trị vì của mình, nhà vua rất tích cực trong công cuộc chinh phạt quân sự. Giờ
4.3 Đa-ni-ên Kể Lại Giấc Chiêm Bao Của Vua (Đa-ni-ên 4:8-18)
“28Hết thảy những sự đó đều đến cho vua Nê-bu-cát-nết-sa. 29Khi khỏi mười hai
tháng, vua đi dạo trong hoàng cung Ba-by-lôn, 30thì cất tiếng mà nói rằng: Đây chẳng
phải là Ba-by-lôn lớn mà ta đã dựng, bởi quyền cao cả ta, để làm đế đô ta, và làm sự
vinh hiển oai nghi của ta sao? 31Lời chưa ra khỏi miệng vua, thì có tiếng từ trên trời
xuống mà rằng: Hỡi vua Nê-bu-cát-nết-sa, đã báo cho ngươi biết rằng: Ngôi nước đã lìa
khỏi ngươi. 32Ngươi sẽ bị đuổi khỏi giữa loài người, sẽ ở với thú đồng; sẽ bị buộc phải
ăn cỏ như bò, rồi bảy kỳ sẽ trải qua trên ngươi, cho đến khi ngươi nhận biết rằng Đấng
Rất Cao cai trị trong nước của loài người, và Ngài muốn ban cho ai tùy ý. 33Trong chính
giờ đó, lời nói ấy đã ứng nghiệm cho vua Nê-bu-cát-nết-sa, vua bị đuổi khỏi giữa loài
người; ăn cỏ như bò; thân thể vua phải thấm nhuần sương móc trên trời, cho đến tóc vua
cũng mọc như lông chim ưng, móng vua thì giống như móng loài chim chóc”.
Tuy phần ứng nghiệm của giấc chiêm bao đã không xảy ra ngay tức khắc, bản
chiếu chỉ đã tóm lược việc ấy hết sức ngắn gọn, “hết thảy những sự đó đều đến cho vua
“34Đến cuối cùng những ngày đó, ta đây, Nê-bu-cát-nết-sa, ngước mắt lên trời,
trí khôn đã phục lại cho ta, và ta xưng tạ Đấng Rất Cao. Ta bèn ngợi khen và làm sáng
danh Đấng sống đời đời, uy quyền Ngài là uy quyền còn mãi mãi, nước Ngài từ đời nọ
Gần 70 năm trôi qua kể từ các biến cố của chương 1 sách Đa-ni-ên. Nê-bu-cát-
nết-sa đã thăng hà năm 562 TC. Đa-ni-ên không ghi lại các vua nối ngôi tiếp sau Nê-bu-
cát-nết-sa, còn sách vở ngoài Kinh Thánh thì có phần nào khá lộn xộn. Một phần ký
thuật khả dĩ chấp nhận được của Berosus trong quyển sách thứ ba của ông và được tìm
thấy trong một mảnh tàn thư mà Josephus còn giữ được, tóm tắt giai đoạn lịch sử nằm
giữa lúc Nê-bu-cát-nết-sa băng năm 562 TC và năm Ba-by-lôn thất thủ vào 539 TC.
Theo Berosus thì Nê-bu-cát-nết-sa thăng hà sau 43 năm trị vì và được con trai
vua là Ê-vinh Mê-rô-đác nối ngôi. Vị vua nầy cai trị rất độc đoán và phóng túng, nên đã
bị Neriglisar ám sát sau khi chỉ trị vì được hai năm. Neriglisar chiếm lấy ngôi vua suốt
bốn năm tiếp theo đó. Khi vua nầy băng thì con trai vua là Laborosoarchod bấy giờ chỉ
là một cậu bé, cai trị được ba tháng cho đến khi có mưu phản, và kết quả là ấu vương đã
bị đập chết. Bọn phản loạn đưa Nabonidus là một người trong nhóm lên ngôi và trị vì
được 17 năm trước khi bị Si-ru người Ba-tư đánh bại. Nabonidus bỏ Ba-by-lôn trốn sang
Borsippa, nhưng bị bắt buộc phải đầu hàng Si-ru. Nabonidus được cho phép sinh sống
tại Carmania cho đến ngày qua đời, nhưng không được phép trở về xứ Ba-by-lôn.
“Văn bản thật sự của Berosus như sau: “Sau khi bắt đầu xây bức tường thành như
tôi đã nói, Nabuchodonosor lâm bệnh và thăng hà sau khi đã trị vì được 43 năm, và nước
được chuyển sang cho con trai vua là Ê-vinh Mê-rô-đác. Vua nầy cai trị cách độc đoán
và phóng túng, trở thành nạn nhân của một mưu phản, bị ám sát bởi anh rể là Neriglisar,
sau khi trị vì được hai năm. Sau khi vua ấy băng, Neriglisar, kẻ đã ám sát vua, lên nối
ngôi và cai trị bốn năm. Con trai vua ấy, Laborosoardoch - chỉ là một cậu bé - chiếm
ngôi được chín tháng, thì vì tình trạng đồi trụy, nên bị ám sát do một cuộc mưu phản
chống lại vua ấy, và các ấu vương bị các bạn mình đập chết. Sau khi vua ấy bị ám sát,
Nghiên Cứu Sách Đa-ni-ên. Trang 137
một hội đồng được triệu tập và mọi người đồng ý trao vương quốc cho Nabonidus, là
một người Ba-by-lôn trong đảng của họ. Trong thời trị vì của vua nầy, các vách thành
tuyệt đẹp được xây lên liền nhau nằm vắt ngang con sông, bằng gạch và ô dước
(bitumen). Năm thứ 17 đời trị vì của vua ấy, Si-ru từ Ba-tư kéo một đạo quân lớn đến,
và sau khi chế phục được phần còn lại của vương quốc, đã tiến thẳng về Ba-by-lôn. Kinh
hoàng vì quân Si-ru kéo đến, Nabonidus dẫn quân mình ra chận đánh và bị thua, bèn
chạy trốn với một số ít người theo, đến giam mình tại thị trấn Borsippa. Si-ru chiếm Ba-
by-lôn và sau khi truyền lịnh san bằng các vách phía ngoài của thành phố, vì bức tường
ấy có hình dạng rất khủng khiếp, đáng sợ, liền tiếp tục kéo quân đến vây Borsippa.
Nabonidus qui hàng ngay mà không chống cự gì cả, nên được Si-ru đối xử rất nhân đạo,
chỉ truất ngôi vua ấy khỏi xứ Ba-by-lôn, nhưng cho xứ Carmania để cư trú. Tại đó,
Nabonidus sống những ngày còn lại của cuộc đời mình, rồi cũng qua đời ở đó” (Flavius
Josephus “Against Apion" trong Josephus I 221-25).
Phần ký thuật của Berosus được Josephus giữ lại đó đã được các chứng cứ khác
hậu thuẫn cho, chẳng hạn như một mảnh tàn thư ngắn của Abydenus, được Eusebius lưu
giữ.
Trước khi phát giác được cây tháp hình trụ của Nabonidus, người ta không tìm được
trong số các tài liệu văn học ngoài Kinh Thánh một dấu vết nào ghi chép về Bên-xát-xa
mà sách Đa-ni-ên tuyên bố là vua Ba-by-lôn. Do đó, các nhà phê bình tính cách chân
thực và sử tính của sách Đa-ni-ên được tự do để thắc mắc rằng chẳng hay một nhân vật
như vậy đã có thật hay không. Từ ngày công trình nghiên cứu của Raymond Dougherty
liên hệ đến Nabonidus và Bên-xát-xa được công bố, căn cứ trên cây tháp hình trụ của
Nabonidus và nhiều nguồn tài liệu khác nữa, thì người ta không còn cơ sở để đặt vấn đề
về sử tính tổng quát của Bên-xát-xa nữa, mà chỉ còn có các chi tiết trong phần ký thuật
của Kinh Thánh chưa được các nguồn tài liệu ngoại kinh chứng thực, là còn bị các nhà
phê bình công kích mà thôi. Montgomery nhấn mạnh rằng câu chuyện ấy “không có thật
trong lịch sử” (unhistorical) nhưng “tuy nhiên, có hàm chứa những điều có thật khiến
người ta nhớ lại lịch sử có thật”.
5.1 Bữa Tiệc Của Bên-Xát-Xa Để Tôn Vinh Các Thần Của Ba-by-lôn (Đa-ni-ên
5:1-4)
“5Chính giờ đó, có những ngón tay của bàn tay người hiện ra, viết trên vôi tường
cung vua, đối ngay chỗ để chân đèn, và vua trông thấy phần bàn tay đó đương viết. 6Bấy
giờ vua biến sắc mặt, các ý tưởng làm cho vua bối rối; các xương lưng rời khớp ra, và
hai đầu gối chạm vào nhau. 7Vua kêu lớn tiếng truyền với các thuật sĩ, người Canh-đê,
và thầy bói đến. Đoạn, vua cất tiếng và nói cùng những bác sĩ của Ba-by-lôn rằng: Ai
đọc được chữ nầy và giải nghĩa ra cho ta, thì sẽ được mặc màu tía, được đeo vòng vàng
vào cổ, và được dự bậc thứ ba trong việc chính trị nhà nước. 8Bấy giờ hết thảy bác sĩ
của vua đều vào; nhưng họ không đọc được chữ, cũng không thể cắt nghĩa cho vua được.
9Vua Bên-xát-xa lấy làm bối rối lắm; sắc mặt người đổi đi; các quan đại thần đều bỡ
ngỡ”.
Đang khi bữa tiệc tiếp diễn với cảnh uống rượu và tiếng reo hò đề cao các thần
của Ba-by-lôn, thình lình có những ngón tay của một bàn tay người xuất hiện, viết lên
mặt tường vôi của cung điện. Khung cảnh khiến mọi người phải chú ý ngay lập tức, vì
người ta chỉ thấy co các ngón của một bàn tay đang viết chữ mà thôi.
Trong các đống đổ nát của cung điện Nê-bu-cát-nết-sa, các nhà khảo cổ học đã
phát giác được một phòng thiết triều rộng non 20m và dài độ 60m (56 x 173 feet) có lẽ
là nơi đã xảy ra bữa dạ tiệc. Vào khoảng giữa bức tường dài đối diện cửa vào, có một
chỗ lấn vào vách, rất có thể là phía trước đó vốn là chỗ cho nhà vua ngồi. Điều đáng ghi
nhận là ngay phía sau chỗ lõm vào vách đó được tô bằng vôi trắng như Đa-ni-ên đã mô
tả, chắc là một bối cảnh rất tốt để có thể viết lên như thế.
Nếu cần hình dung lại khung cảnh, rất có thể rằng bữa dạ tiệc đã được soi sáng
bằng những cây đuốc, chẳng những tạo ra một làn khói mờ, nhưng ánh sáng cũng chỉ đủ
soi sáng một phần nào cho cả căn phòng rộng lớn ấy mà thôi. Trong khi các chữ viết
theo Đa-ni-ên, xuất hiện “trên vôi tường cung vua, đối ngay chỗ để chân đèn” rất có thể
5.3 Đa-ni-ên Được Đề Nghị Làm Người Thông Giải (Đa-ni-ên 5:10-12)
“10Bà thái hậu, vì cớ lời của vua và các quan đại thần đã nói, bèn vào trong phòng
tiệc, cất tiếng nói rằng: Hỡi vua, chúc vua sống đời đời! Xin vua chớ để tư tưởng bối rối,
chớ đổi sắc mặt đi! 11Trong nước vua có một người, linh của các thần thánh ở trong nó.
Về đời vua cha, người ta thấy trong nó có ánh sáng, sự thông minh, khôn ngoan, như sự
khôn ngoan của các vị thần. Vậy nên vua Nê-bu-cát-nết-sa, cha vua, chính cha vua, đã
lập người lên làm đầu các đồng bóng, thuật sĩ, người Canh-đê và thầy bói, 12bởi vì Đa-
ni-ên mà vua đã đặt tên là Bên-tơ-xát-xa, trong người có linh tánh tốt lành, có sự thông
biết và khôn sáng để giải được những điềm chiêm bao, cắt nghĩa được những câu kín
nhiệm, và làm cho những sự hồ nghi tan chảy. Vậy bây giờ hãy sai gọi Đa-ni-ên, và
người sẽ giải nghĩa cho”.
Cơn khủng hoảng do việc những người khôn ngoan không giải nghĩa được các
chữ viết trên vách tường được giải quyết khi một người được mô tả là “bà thái hậu” bước
vào. Đã có nhiều cách suy diễn liên hệ đến lai lịch của nhân vật nầy, vì nó liên hệ đến
vấn đề rộng lớn hơn về phổ hệ của Bên-xát-xa. Cả Keil lẫn Leupold đều xem bà ta là
5.4 Đa-ni-ên Được Triệu Vời Đến Ra Mắt Vua (Đa-ni-ên 5:13-16)
“13Bấy giờ Đa-ni-ên được đem đến trước mặt vua. Đoạn, vua cất tiếng nói cùng
Đa-ni-ên rằng: Ngươi có phải là Đa-ni-ên, một trong các con cái phu tù Giu-đa, mà vua
cha ta đã điệu từ Giu-đa về chăng? 14Ta đã nghe nói về ngươi rằng linh của các thần ở
trong ngươi, và người ta đã thấy trong ngươi có ánh sáng, sự thông minh, và khôn ngoan
lạ thường. 15Bây giờ những bác sĩ và thuật sĩ đã được đem đến trước mặt ta để đọc
những chữ nầy và giải nghĩa cho ta; nhưng họ không giải nghĩa được. 16Ta nghe nói
rằng ngươi có thể giải nghĩa và làm cho những sự hồ nghi tan chảy. Vậy nếu ngươi đọc
được chữ nầy và giải nghĩa cho ta, thì sẽ được mặc màu tía, sẽ mang vòng vàng nơi cổ,
và dự chức thứ ba trong việc chính trị nhà nước”.
Khi Đa-ni-ên được triệu vời đến trước mặt vua, Bên-xát-xa đã tự đặt ra một câu
hỏi tự nhiên, nhằm xác định lý lịch của Đa-ni-ên. Dường như rõ ràng là Bên-xát-xa có
biết đôi điều về Đa-ni-ên vì hình thức câu hỏi của nhà vua trong câu 13, vượt quá phần
thông tin mà mẹ vua ấy đã cung cấp. Chẳng hạn nhà vua biết rằng Đa-ni-ên là một tù
“24Vậy nên từ nơi Ngài đã sai phần bàn tay nầy đến, và chữ đó đã vạch ra.
25Những chữ đã vạch ra như sau nầy: MÊ-NÊ, MÊ-NÊ, TÊ-KEN, U-PHÁC-SIN. 26Nầy
là nghĩa những chữ đó: Mê-nê là: Đức Chúa Trời đã đếm nước vua và khiến nó đến cuối
PTMN
RQNN
SL..
Nếu thêm vào với tính cách phức tạp của chữ A-ram, một ngôn ngữ được biết rõ,
một vài hình thức khác lạ nào đó lại được sử dụng, thì bắt buộc phải có sự mặc khải thiên
thượng mới có thể giải thích và giải nghĩa thích đáng được, và vấn đề các chữ ấy vốn
khó đọc cũng phải được kể đến.
Vì nếu chỉ căn cứ vào các phụ âm, người ta có thể đưa ra nhiều chữ khác nhau,
có người đã có một gợi ý khác. Mê-nê có thể được xem là tương đương với min trong
Ê-xê-chi-ên 45:12; Ê-xơ-ra 2:69; Tê-ken có thể được xem là tiêu biểu cho siếc-lơ
Phần ký thuật về Đa-ni-ên bị ném vào hang sư tử là một trong những truyện tích
quen thuộc nhất của Cựu Ước. Sự kiện một biến cố như vậy lại chiếm cùng một khoảng
rộng không gian trong Kinh điển tương ứng với cái nhìn toàn cảnh về lịch sử thế giới
được ghi lại trong chương 7 đưa đến kết luận rằng, theo quan điểm của Đức Chúa Trời,
thì đây là một biến cố quan trọng, không những cho riêng Đa-ni-ên, mà còn cho tất cả
những ai nghiên cứu Kinh điển nữa.
Tuy nhiên, theo quan điểm của giới học giả Kinh Thánh, thì người ta đã hướng
sự chú ý vào Đa-ri-út người Mê-đi, làm vua Ba-by-lôn lúc ấy, nhiều hơn là vào các biến
cố đã xảy ra trong chương sách đó. Lý do là vì nhiều nhà phê bình vô tín đối với sách
Đa-ni-ên đã căn cứ vào điều được họ gọi là một sai lầm lịch sử rõ ràng, vì họ cho rằng
Nghiên Cứu Sách Đa-ni-ên. Trang 161
trong sử ký đã không có một chỗ nào cho con người có cái tên đó. Sự sai lầm mà họ cho
là rõ rệt đó còn là một luận cứ quan trọng nữa mà họ đã dùng để chứng minh một niên
đại là thế kỷ thứ hai cho sách Đa-ni-ên, mà nếu quả đúng như vậy, thì các sự kiện đã thật
sự xảy ra bốn trăm năm trước đó đã trở thành lu mờ rồi. Vấn đề đã lôi cuốn nhiều học
giả, vẫn tiếp tục viết trọn cả những quyển sách để tranh luận các vấn đề liên hệ.
H.H.Rowley, người đã viết cả một bộ sách nghiên cứu quan trọng vấn đề ấy, đã
bắt đầu công trình của mình như sau: “Từ lâu, mấy câu đề cập Đa-ri-út người Mê-đi
trong sách Đa-ni-ên đã được nhìn nhận là tạo ra nhiều vấn đề lịch sử nghiêm trọng nhất
trong sách ấy”. Vấn đề mà ông ám chỉ, là sách Đa-ni-ên chép rằng Đa-ri-út người Mê-
đi, vào năm 62 tuổi, đã nhận được nước sau cái chết của Bên-xát-xa (Đa-ni-ên 5:31) và
vốn là “con trai của A-suê-ru, về dòng người Mê-đi, đã được lập làm vua cai trị nước
người Canh-đê” (Đa-ni-ên 9:1). Trong chương 6, chúng ta được biết Đa-ri-út tổ chức lại
cả vương quốc, đặt một trăm hai mươi quan trấn thủ và ba quan thượng thơ, trong đó
Đa-ni-ên đứng đầu. Bộ Bảy Mươi Dịch Giả thì dịch 6:28 là sau khi Đa-ri-út thăng hà,
Si-ru là vua Ba-tư lên cầm quyền, hàm ý rằng có một vương quốc Mê-đi dưới quyền cai
trị của Đa-ri-út đã được nối tiếp bằng một vương quốc Ba-tư dưới quyền cai trị của Si-
ru. Tuy nhiên, các nguồn ngoài Kinh Thánh đã vạch rõ rằng sự việc vốn không phải như
vậy.
Như D.J.Wiseman đã ghi rõ thành từng tiết mục, căn cứ vào những phát kiến của
ông trong Biên Niên Sử của Nabonidus, thì các biến cố đã thật sự xảy ra tóm lược như
sau: Ba-by-lôn bị Ugbaru, quan trấn thủ Gutium thống lãnh đạo quân của Si-ru đánh
chiếm, và vào thành phố Ba-by-lôn vào đêm Bên-xát-xa mở đại tiệc Nabonidus là cha
Bên-xát-xa đã trốn khỏi Ba-by-lôn hôm trước đó, chỉ để bị bắt và sau đó, đã chết trong
cảnh bị lưu đày. Lúc Ba-by-lôn thất thủ vào tay Ugbaru ngày 11 tháng Mười dl năm 539
TC, bản thân Si-ru vẫn còn ở với các đạo quân khác tại Opis, và chỉ mười tám ngày sau,
nhằm 29 tháng 10 dl năm 539 TC, mới thật sự đến Ba-by-lôn. Một người tên Ugbaru
được Si-ru bổ nhiệm cai trị Ba-by-lôn. Tám ngày sau khi Si-ru đến, thì Ugbaru chết. Nếu
phần sử ký chính xác về các biến cố xảy ra sau khi Ba-by-lôn thất thủ nầy là đúng, thì
“4Các quan thượng thơ và trấn thủ bèn tìm cớ kiện Đa-ni-ên về việc nước; nhưng
họ không thể tìm được một cớ nào, hay một sự xấu nào của người, bởi người là trung
thành, trong người chẳng có điều lỗi và cũng chẳng có sự xấu. 5Vậy những người đó nói
rằng: Chúng ta không tìm được một cớ nào mà cáo Đa-ni-ên nầy, nếu chúng ta chẳng
tìm trong sự thuộc về luật pháp Đức Chúa Trời nó”.
Cách phục vụ tuyệt vời và sự thanh liêm của Đa-ni-ên chẳng bao lâu đã trở thành
chướng ngại vật đối với tham vọng của các quan trấn thủ và hai quan thượng thơ mà ông
không chịu cộng tác với. Sự thanh liêm của Đa-ni-ên khiến họ không thể tham nhũng,
và việc ông được vua Đa-ri-út sủng ái khiến cho các quan chức đồng liêu sanh lòng ghen
tị. Trong những hoàn cảnh như vậy, thì lẽ tự nhiên là những người đó - phần đông có lẽ
nhỏ tuổi hơn Đa-ni-ên nhiều nhưng lại muốn cầm đầu - phải cố tìm một cách nào đó để
thanh toán Đa-ni-ên. Sự trung thành của Đa-ni-ên vốn triệt để, nên họ không thể tìm ra
một sơ sót hay lỗi lầm nào của ông khi thi hành nhiệm vụ. Nếu muốn loại trừ Đa-ni-ên,
họ phải tìm cho ra một phương pháp khác. Chính bọn người đó phải đi đến kết luận rằng
phương pháp duy nhất để cất bỏ Đa-ni-ên đi, là phải tạo ra sự tranh chấp giữa các qui
tắc chính thức (luật nước) với lương tâm của Đa-ni-ên và việc ông tuân thủ luật pháp
của Đức Chúa Trời. Kinh Thánh không tiết lộ tất cả những gì bọn người kia đã vận động
sau lưng Đa-ni-ên, nhưng rõ ràng là họ đã họp mặt với nhau nhiều lần để bàn bạc, cuối
cùng đã hình thành một âm mưu để chống lại Đa-ni-ên.
“6Các quan thượng thơ và trấn thủ đó bèn vào chầu vua và tâu rằng: Hỡi vua Đa-
ri-út, chúc vua sống đời đời! 7Hết thảy các quan thượng thơ trong nước, các quan lãnh
binh, các quan trấn thủ, các nghị viên và các đại thần đều đồng tình xin vua ra chỉ dụ,
lập một cấm lịnh nghiêm nhặt trong ba mươi ngày, hễ ai cầu xin thần nào hay một người
nào ngoài vua, thì, hỡi vua, kẻ ấy sẽ phải quăng vào hang sư tử. 8Bây giờ, hỡi vua, hãy
lập điều cấm đó và ký tên vào, hầu cho không đổi thay đi, theo như luật pháp của người
Mê-đi và người Phe-rơ-sơ, không thể đổi được. 9Vậy vua Đa-ri-út bèn ký tên lập cấm
lịnh đó”.
Sau khi đã nghỉ được một mưu kế, những kẻ âm mưu không để mất thì giờ, mà
đem ra thực hiện ngay. Trong một buổi vua thiết đại triều, họ dâng lên lời thỉnh cầu của
họ. Câu 6 dường như cho thấy tất cả bọn họ đều có mặt là điều xảy ra khá bất thường.
Sau khi tâu lên lời chúc tụng theo đúng nghi thức, người phát ngôn cho họ trình lên với
Đa-ri-út rằng toàn thể các quan chức mà họ kể tên trong câu 7 đều đồng ý dâng lên lời
thỉnh cầu. Có người phản bác rằng điều đã ký thuật đó là khó có thể xảy ra được, nếu
không nói là không thể có; nhưng chúng ta còn thấy nhiều chuyện càng lạ lùng hơn đã
từng xảy ra. Montgomery ghi nhận: “Đối với nhiều nhà giải kinh, lời thỉnh cầu nhà vua
hãy ký một sắc chỉ cầm cầu xin một vị thần hay một người nào khác hơn vua trong thời
hạn ba mươi ngày có vẻ phi lý, nên có thể là vì lý do đó mà bộ Bảy Mươi đã bỏ sót mục
nầy”. Nhưng ngay cả Montgomery cũng thêm: “nhưng nói chung thì những câu chuyện
như vậy rất có lý, lời lẽ trong lời thỉnh cầu có thể ngụ ý rằng đây là một lối nói châm
biếm ( Giăng 3:8) như khi vua thành Ni-ni-ve truyền lịnh cho cả người ta lẫn súc vật đều
phải mặc bao gai vậy. Lập trường của Behrmann hoàn toàn có thể chấp nhận khi ông
cho rằng câu chuyện ngụ ý đề cập một thỉnh cầu có tính cách tôn giáo (khác với Bevan
là có thể là bất luận một lời thỉnh cầu nào) và lúc ấy, nhà vua vốn là người duy nhất được
xem là đại diện cho Thượng Đế.
Họ thỉnh cầu nhà vua ký một sắc chỉ cấm mọi người dâng lên một lời cầu xin một
vị thần hay một người nào ngoài ra nhà vua, trong thời hạn ba mươi ngày. Hình phạt
6.4 Lòng Trung Thành Của Đa-ni-ên Khi Gặp Thử Thách (Đa-ni-ên 6:10, 11)
“10Khi Đa-ni-ên nghe rằng chỉ dụ đó đã ký tên rồi, thì về nhà mình (những cửa
sổ của phòng người thì mở về hướng Giê-ru-sa-lem). Tại đó, cứ một ngày ba lần, người
quì gối xuống, cầu nguyện, xưng tạ trước mặt Đức Chúa Trời mình, như vẫn làm khi
trước. 11Bấy giờ những người đó nhóm lại, thấy Đa-ni-ên đương cầu nguyện nài xin
trước mặt Đức Chúa Trời mình”.
Lòng trung thành lạ lùng của Đa-ni-ên trước một chiếu chỉ như vậy, cũng tương
tự như lòng trung tín của ba người bạn của ông trong chương 3 khi phải đứng trước lò
lửa hực. Theo phần ký thuật, thì tuy ông biết rằng sắc chỉ đã được ký, và ông nhất định
“12Họ bèn đến chầu vua và tâu cùng vua về cấm lịnh của vua rằng: Hỡi vua, vua
chẳng từng ký tên vào một cấm lịnh rằng trong ba mươi ngày, hễ ai cầu xin thần nào hay
người nào ngoài vua, thì sẽ phải quăng vào hang sư tử đó chăng? Vua trả lời rằng: Sự
đó là thật, theo như luật pháp của người Mê-đi và người Phe-rơ-sơ, không thể đổi được.
13Họ bèn đáp lại và tâu vua rằng: Đa-ni-ên, là một trong những con cái phu tù Giu-đa,
không có lòng kiêng nể vua chút nào, hỡi vua, dầu đến cấm lịnh vua đã ký tên cũng vậy;
song nó cứ một ngày cầu nguyện ba lần. 14Khi vua nghe những lời đó, thì lấy làm buồn
bã lắm; vua định lòng giải cứu Đa-ni-ên, và mãi đến khi mặt trời lặn, cố hết sức tìm thế
để giải cứu người. 15Nhưng các người đó nhóm lại cùng vua và tâu rằng: Hỡi vua, xin
biết rằng theo luật pháp của người Mê-đi và người Phe-rơ-sơ, hễ là cấm lịnh hay chỉ dụ
nào mà vua đã lập định rồi, thì không thể thay đổi được”.
“16Bấy giờ vua truyền điệu Đa-ni-ên đến, và phải ném người vào hang sư tử. Vua
cất tiếng nói cùng Đa-ni-ên rằng: Đức Chúa Trời ngươi là Đấng ngươi hằng hầu việc, sẽ
giải cứu ngươi. 17Người ta bèn đem đến một hòn đá chận nơi cửa hang. và vua đóng ấn
mình cùng ấn các đại thần nữa, hầu cho không có điều gì thay đổi được về Đa-ni-ên”.
Đúng theo chỉ dụ mình đã ký, Đa-ri-út phải truyền lịnh theo đúng hình thức là
ném Đa-ni-ên vào hang sư tử. Tuy nhiên, điều đáng chú ý nhất là trước khi bản án được
thi hành, Đa-ri-út đã nói với Đa-ni-ên” Đức Chúa Trời ngươi là Đấng ngươi hằng hầu
việc, sẽ giải cứu ngươi”. Câu nầy có thể dịch là “phải giải cứu ngươi” thì chính xác hơn
bản RSV đã dịch là “nguyện Đức Chúa Trời ngươi... giải cứu ngươi”. Ý muốn nói ở đây
là nhà vua ngụ ý bảo rằng: “Ta đã cố gắng hết sức để cứu ngươi, nhưng không cứu được.
Vậy thì Đức Chúa Trời ngươi phải cứu ngươi”. Điếu đáng ghi nhận trong sự tin chắc
nầy là lòng mộ đạo và trung tín với Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên đã gây ấn tượng mạnh
trên Đa-ri-út, khiến nhà vua tin chắc rằng Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên sẽ đến để giải
cứu Đa-ni-ên khi ông lâm vào cảnh cùng khốn nầy.
Tuy nhiên, chỉ dụ được thi hành. Đa-ni-ên bị ném vào hang sư tử, và một tảng đá
được lăn đến để chận cửa hang với dấu ấn của nhà vua đóng vào đó, chứng minh rằng
bản án đã được thi hành đúng như chỉ dụ. Chẳng còn có bàn tay của một con người nào
can thiệp gì vào đây được nữa, kể cả đôi tay của Đa-ni-ên.
Keil kể lại một câu chuyện lý thú về hang sư tử theo như cách người ta tạo ra nó
vào thời đại gần đây hơn. Keil nhận xét: “Chúng tôi không kể lại chuyện người đời xưa
đã xây các hang sư tử như thế nào. Trong tác phẩm Fez and Morocco, trang 77, G.Host
mô tả các hang sư tử theo như cách chúng được xây tại Ma-rốc. Theo lời kể lại của ông,
thì đó là một hang đá lớn hình vuông chìm dưới mặt đất, có vách ngăn ở giữa, có cửa để
người chăn giữ mở ra và đóng lại từ phía trên. Bằng cách ném đồ ăn vào, anh ta có thể
“18Sau đó, vua trở về cung mình, và suốt đêm kiêng ăn, cũng không đem bạn
nhạc đến trước mặt mình, và vua không ngủ được. 19Đoạn, vua dậy sớm, khi hừng sáng,
vội vàng đi đến hang sư tử. 20Khi vua đến gần hang, lấy giọng rầu rĩ mà kêu Đa-ni-ên;
vua cất tiếng nói cùng Đa-ni-ên rằng: Hỡi Đa-ni-ên, tôi tớ Đức Chúa Trời hằng sống!
Đức Chúa Trời ngươi mà ngươi hằng hầu việc, có thể giải cứu ngươi khỏi sư tử được
chăng?”
Hoàn toàn tương phản với Nê-bu-cát-nết-sa vốn chẳng hề tỏ ra thương xót gì ba
đồng bạn của Đa-ni-ên khi họ bị quăng vào lò lửa hực, Đa-ri-út đã chứng tỏ một mối
quan tâm hiếm thấy. Tuy nhà vua vốn quen thói tàn bạo, quen với việc xử tử các tội
phạm và bình thường vốn chẳng nghĩ gì đến họ nữa, ở đây, trường hợp của Đa-ni-ên đã
có một điều gì đó gây xúc động mạnh cho vua. Khi trong câu 18, nhà vua bảo với Đa-
ni-ên: “Đức Chúa Trời là Đấng ngươi hằng hầu việc, sẽ giải cứu ngươi”, rõ ràng là nhà
vua vốn không hề có chút đức tin thật sự nào vào việc Đa-ni-ên có thể được giải cứu mà
có lẽ chỉ có sự mê tín mơ hồ do các câu chuyện mà người ta đã kể lại cho nhà vua về
việc ba đồng bạn của Đa-ni-ên từng thoát nạn trước đó, cũng như sử sách có ghi lại
những lần dân Y-sơ-ra-ên đã được giải cứu cách lạ lùng. Kèm theo sự buồn rầu vì chuyện
của Đa-ni-ên, Kinh Thánh chép rằng nhà vua đã kiêng ăn, không tham gia trò giải trí
bằng âm nhạc như lệ thường và đã không ngủ được. Từ ngữ dịch là “bạn nhạc” ở đây
“21Bấy giờ Đa-ni-ên tâu cùng vua rằng: Hỡi vua, chúc vua sống đời đời! 22Đức
Chúa Trời tôi đã sai thiên sứ Ngài, và bịt miệng các sư tử, nên chúng nó không làm hại
chi đến tôi, bởi tôi đã được nhận là vô tội trước mặt Ngài. Hỡi vua, đối với vua cũng
vậy, tôi chẳng từng làm hại gì. 23Bấy giờ vua mừng rỡ lắm, và truyền đem Đa-ni-ên lên
khỏi hang. Vậy Đa-ni-ên được đem lên khỏi hang, và người ta không thấy một vết tích
nào trên người, bởi người đã nhờ cậy Đức Chúa Trời mình”.
Đáp lại tiếng gọi của nhà vua là giọng bình tĩnh của Đa-ni-ên cất lên từ hang sư
tử với lời tung hô bình thường: “Hoàng thượng vạn tuế”, khiến Đa-ri-út vô cùng kinh
“24Theo lịnh vua, những kẻ đã kiện Đa-ni-ên ấy cùng con cái và vợ họ đều bị
điệu đến quăng vào hang sư tử. Khi họ chưa đến dưới đáy hang, thì những sư tử đã vồ
lấy và xé xương hết thảy”.
Kết cuộc đáng buồn dành cho những kẻ tố cáo Đa-ni-ên được ghi lại bằng một
hành động đoán phạt công bình của Đức Chúa Trời đối với các kẻ thù của nhà tiên tri.
Theo Kinh Thánh, những kẻ tố cáo Đa-ni-ên luôn với vợ con chúng đều bị quăng vào
hang sư tử và lập tức bị bầy sư tử phân thây. Cách hình phạt dã man như vậy vốn rất
thông thường trong thế giới đời xưa, nhưng cũng không phải là không có những trường
hợp tương tự, như việc Đức Chúa Trời trừng phạt kẻ ác như đã được minh họa trong
“25Bấy giờ, vua Đa-ri-út viết cho hết thảy các dân, các nước, các thứ tiếng ở khắp
trên đất rằng: Nguyền cho sự bình an các ngươi được thêm lên! 26Ta ban chiếu chỉ rằng,
trong khắp miền nước ta, người ta phải run rẩy kính sợ trước mặt Đức Chúa Trời của
Đa-ni-ên; vì Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống và còn đời đời. Nước Ngài không bao
giờ bị hủy diệt, và quyền Ngài sẽ còn đến cuối cùng. 27Ngài cứu rỗi và giải thoát, làm
những dấu lạ, sự lạ, ở trên trời dưới đất, đã cứu Đa-ni-ên khỏi quyền thế sư tử. 28Đa-ni-
ên cứ được thạnh vượng như vậy trong đời vua Đa-ri-út và vua Si-ru là người Phe-rơ-
sơ”.
Trong việc giải nghĩa lời tiên tri của Kinh Thánh, chương 7 sách Đa-ni-ên chiếm
một địa vị có một không hai. Theo cách giải nghĩa của giới học giả bảo thủ, khải tượng
nầy của Đa-ni-ên cung ứng một lời tiên tri bao quát và chi tiết các biến cố tương lai mà
chúng ta bắt gặp khắp nơi trong Cựu Ước. Tuy cách giải nghĩa có khác nhau rất nhiều,
các học giả bảo thủ nói chung đều đồng ý - với vài ngoại lệ hiếm hoi - rằng Đa-ni-ên đã
vạch ra diễn tiến của bốn đại cường quốc thế giới, tức là Ba-by-lôn, Mê-đi Ba-tư, Hi-lạp
và La-mã, sẽ kết thúc bằng tuyệt đỉnh của lịch sử thế giới khi Chúa Jesus Christ tái lâm
và khai mạc vương quốc đời đời của Đức Chúa Trời, được hình dung bằng vương quốc
thứ năm và là cuối cùng, từ trời đến.
Được giải nghĩa như vậy, chương sách nầy là bố cuộc chính yếu cho các biến cố
tương lai, sẽ được bổ túc bằng các chi tiết được thêm vào sau nầy trong sách Đa-ni-ên
7.1 Khải Tượng Thứ Nhất Của Đa-ni-ên: Bốn Con Thú Lớn (Đa-ni-ên 7:1-3)
“1Năm đầu đời vua Bên-xát-xa, nước Ba-by-lôn, Đa-ni-ên đang nằm trên giường,
thì thấy chiêm bao, và những sự hiện thấy trong đầu mình. Người bèn viết chiêm bao đó
ra, và thuật lại đại lược các sự ấy. 2Vậy, Đa-ni-ên nói rằng: Đương đêm, ta nhìn xem
trong sự hiện thấy, và, nầy, có bốn hướng gió trên trời xô xát trên biển lớn. 3Đoạn, bốn
con thú lớn từ biển lên; con nọ khác con kia”.
Trong mấy câu mở đầu cho chương 7, Đa-ni-ên giới thiệu từng trải lạ lùng của
ông về “những giấc chiêm bao và khải tượng trong đầu mình khi nằm trên giường”, xảy
ra vào năm đầu tiên thời trị vì của Bên-xát-xa, vua Ba-by-lôn. Có lẽ đó là năm 553 TC,
14 năm trước ngày Ba-by-lôn thất thủ. Nabonidus nhà vua đang thật sự cai trị Ba-by-lôn
bấy giờ bắt đầu trị vì năm 556 TC, đã bổ nhiệm Bên-xát-xa làm nhiếp chính để cùng vua
ấy kiểm soát xứ Ba-by-lôn, trong khi vua ấy ngự giá thân chinh, kéo quân sang A-ra-bi.
Vì chính Nê-bu-cát-nết-sa thì đã băng hà năm 562 TC, chín năm trước khi Bên-xát-xa
lên cầm quyền, nên rõ ràng là biến cố trong chương 7, theo thứ tự thời gian, đã xảy ra
giữa hai chương 4 & 5 của sách Đa-ni-ên.
Khi ghi lại thời gian đặc thù mình có khải tượng là Đa-ni-ên vốn ý thức và cố tình
muốn vạch rõ nguồn gốc các khải tượng mà ông tiếp nhận được vốn xảy ra trong bối
cảnh lịch sử là thế kỷ thứ 6 TC. Khải tượng trong chương 8 được co biết niên đại là năm
thứ ba đời Bên-xát-xa. Theo Đa-ni-ên 9:1, 2, Đa-ni-ên từng biết được lời tiên tri của Giê-
rê-mi liên hệ đến 70 năm lưu đày vào năm đầu đời trị vì của Đa-ri-út người Mê-đi, và
sau đó, trong cùng chương sách ấy, ông có một khải tượng thứ ba nữa. Khải tượng thứ
tư của Đa-ni-ên trong các chương 10-12 xảy ra vào năm thứ ba đời Si-ru (10:1). Trong
chương 11 có đề cập một hoạt động trước đó của vị thiên sứ bổ sức cho Đa-ri-1ut người
Mê-đi vào năm đầu đời trị vì của vua ấy, là một biến cố lịch sử khác nữa có liên hệ với
“4Con thứ nhất giống như sư tử, và có cánh chim ưng. Ta nhìn xem cho đến khi
những cánh nó bị nhổ, nó bị cất lên khỏi đất, đứng hai chân như người ta, và nó được
ban cho lòng loài người”.
Đa-ni-ên mô tả con thú thứ nhất giống sư tử nhưng có cánh chim ứng. Trong lúc
Đa-ni-ên nhìn xem, hay như Leupold gợi ý là “tiếp tục nhìn” nghĩa là chăm chú theo dõi,
thì ông thấy các cánh của con thú bị nhổ đi, nó bị cất lên khỏi đất, bị đặt trên hai chân
để đứng như con người, và được ban cho lòng loài người, nghĩa là ban cho tâm trí con
người hay nhân tính. Các nhà chú giải sách Đa-ni-ên, dầu theo khuynh hướng tự do hay
bảo thủ, đều đồng ý với nhau rằng chương 7, theo một ý nghĩa, vốn là phần toát yếu của
chương 2 và bao quát cùng bốn đế quốc đã được đề cập ở đó. Cũng vậy, có sự đồng ý
rằng đế quốc thứ nhất chỉ bóng về thời trị vì của Nê-bu-cát-nết-sa hay đế quốc tân Ba-
by-lôn. Liên hệ đến sự nhận diện nầy, Rowley giải thích: “Về việc nầy thì có ít tranh cãi.
Trong Đa-ni-ên 2:38 chúng ta thấy Đa-ni-ên đặc biệt nói cho Nê-bu-cát-nết-sa biết: Vua
“5Nầy, một con thú thứ hai, in như con gấu; nó đứng nghiêng nửa mình, có ba
cái xương sườn trong miệng, giữa những răng; và người ta bảo nó rằng: Hãy chổi dậy,
hãy cắn nuốt nhiều thịt”.
Con thứ thứ hai trong khải tượng của Đa-ni-ên được mô tả là giống con gấu. Đang
khi Đa-ni-ên nhìn nó, thì con gấu đứng nghiêng về một phía và Đa-ni-ên nhận thấy có
“6Sau đó, ta nhìn xem, nầy, có một con thú khác giống như con beo, ở trên lưng
có bốn cánh như cánh chim. Con thú đó có bốn đầu, và được ban cho quyền cai trị”.
Đa-ni-ên tiếp tục mô tả khải tượng và vẽ ra tiếp theo đó một con thú thứ ba, khác
với cả hai con thú trước. Con thứ ba giống con beo trên lưng có bốn cánh và có bốn đầu.
Con thứ ba được mọi người nhận diện là đế quốc Hi-lạp. Điều duy nhất được nói về con
thú nầy là nó được ban cho quyền cai trị.
Câu “sau ta lại nhìn xem” ngụ ý có sự nhìn chăm chú cao độ. Trái với sư tử là
con thú thứ nhất, con beo nhỏ hơn và kém vẻ uy nghi hơn, nhưng lanh lẹ hơn và là con
thú ăn mồi đáng sợ hơn trong thời Cựu Ước. Sự lanh lẹ của con beo được dùng làm tiêu
chuẩn để so sánh trong HaKb 1:8, nơi bầy ngựa của người Canh-đê được mô tả là lanh
lẹ hơn beo. Đặc điểm của con beo là biết phục kích đợi mồi (Giê-rê-mi 5:6; Ô-sê 13:7)
rồi thình lình nhảy bổ vào các nạn nhân của nó thật nhanh nhẹn và thật nhẹ nhàng.
Ấn tượng về tốc độ lớn gắn liền với con beo được nhấn mạnh thêm bằng hiện
diện của bốn cánh trên lưng nó. Tuy các cánh nầy không được cho biết là cánh chim ưng
như trường hợp của con thú thứ nhất, hiện diện của chúng nhấn mạnh thêm ý niệm về
tốc độ. Điều rất có ý nghĩa, là việc ghi nhận rằng nó có đúng bốn cánh, phù hợp với bốn
cái đầu của con thú trong khi con thú trước chỉ co hai cánh như cánh chim ưng.
Bốn cái đầu rõ ràng là ám chỉ sự định hướng thông minh của con thú, và chỉ rõ
đế quốc thứ ba sẽ có sự phân quyền làm bốn, tương hợp với các đầu và tương phản với
những con thú đến trước.
Trong khi hăng say đưa ra ý kiến rằng đế quốc thứ ba là Ba-tư, các nhà phê bình
tự do đã nêu lên nhiều phản bác vu vơ, để đặt con thú thứ ba lên ngang hàng với Hi-lạp.
Tuy nhiên, đối diện với nó, lịch sử Hi-lạp dưới thời A-lịch-sơn Đại đế đã phù hợp hết
sức chính xác với những gì đã được mô tả ở đây.
Bằng sự lanh lẹ của một con beo, A-lịch-sơn Đại đế đã chinh phục phần lớn thế
giới văn minh suốt từ Ma-xê-đoan đến Phi châu và tiến về hứớng Đông đến tận Ấn-độ.
Đặc tính chớp nhoáng của các cuộc chinh phạt của vua ấy vốn vô tiền khoáng hậu trong
“7Sau ta lại nhìn xem trong sự hiện thấy ban đêm, nầy, một con thú thứ tư, dữ
tợn, rất mạnh, và có sức lắm. Con thú đó có những răng lớn bằng sắt; nó nuốt ăn và
nghiền nát, dùng chân giày đạp vật gì còn lại, nó khác với các con thú đã đến trước, và
có mười sừng. 8Ta suy xét những sừng đó, và, nầy, có một cái sừng nhỏ khác ở giữa
những sừng ấy mọc lên, và ba cái trong những sừng trước bị nhổ đi trước mặt nó. Nầy,
cái sừng đó có những mắt in như mắt người, và một cái miệng nói những lời xấc xược”.
Vấn đề then chốt trong việc giải nghĩa toàn quyển sách Đa-ni-ên, mà nhất là
chương 7, là việc nhận diện con thú thứ tư. Về điểm nầy, các nhà phê bình tự do nói
chung, nhấn mạnh rằng con thú thứ tư là Hi-lạp hay vương quốc của A-lịch-sơn đại đế.
Các học giả bảo thủ nói chung, trừ vài ngoại lệ, đồng nhất hóa con thú thứ tư với La-mã.
Lãnh địa của La-mã, bắt đầu với việc chiếm đóng Sicily năm 241 TC sau chiến
thắng đầu tiên trong cuộc tranh chấp Puni, đã nhanh chóng biến Địa Trung Hải thành cái
hồ của La-mã vào đầu thế kỷ thứ 2 TC. Tây-ban-nha bị chinh phục trước nhất, rồi sau
đó thì đến Carthage trong trận Zama ở Bắc Phi năm 202 TC. Sau khi đã bắt đầu bằng
việc chế phục khu vực phía Bắc Ý-đại-lợi, La-mã chuyển quân sang hướng Đông, đánh
chiếm Ma-xê-đoan, Hi-lạp và Tiểu Á. Quân của La-mã do đại tướng Pompey cầm đầu
“9Ta nhìn xem cho đến chừng các ngôi đã đặt, và có Đấng Thượng cổ ngồi ở trên.
Áo Ngài trắng như tuyết, và tóc trên đầu Ngài như lông chiên sạch. Ngôi Ngài là những
ngọn lửa, và các bánh xe là lửa hừng. 10Trước mặt Ngài, một sông lửa chảy ra và tràn
lan; ngàn ngàn hầu hạ Ngài và muôn muôn đứng trước mặt Ngài. Sự xét đoán đã sắm
sẵn, và các sách mở ra”.
Không có một hệ thống giải nghĩa Kinh Thánh nào dám tự hào là hoàn toàn đầy
đủ nếu nó chưa đưa ra được sự giải nghĩa thỏa đáng cho phần kết cuộc của khải tượng.
Có ba sự kiện chính đã nổi bật hẳn lên trong mấy câu từ 9-14. Trước hết, trong hai câu
9 và 10, Đa-ni-ên thấy một khải tượng trên trời vào ngày phán xét cuối cùng đối với các
dân các nước. Thứ hai, trong câu 11 và 12, cái sừng nhỏ tiêu biểu cho nhà vua cuối cùng,
lúc các dân ngoại cùng bị tiêu diệt với đế quốc của vua ấy. Thứ ba, là vương quốc thứ
năm, nước của con người cùng đến với đám mây trời, được đưa vào, bắt đầu cho nước
đời đời do Đức Chúa Trời cai trị. Rõ ràng là cả ba yếu tố nầy đã kết hợp lại để làm sáng
tỏ rằng đây là phần kết luận tóm tắt, có bản tính của một cơn đại họa, bắt đầu cho một
sự biến chuyển triệt để. Cách giải nghĩa phê bình, bảo rằng đế quốc thứ tư là của A-lịch-
sơn, đã không có phần giải nghĩa hợp lý nào cho bất kỳ yếu tố nào trong ba yếu tố vừa
nêu trên, chứ đừng nói là đã giải nghĩa được cả hai. Nếu đây quả là lời tiên tri chân chính,
thì nó thuộc về giai đoạn kết thúc trong tương lai, chưa hề được đế quốc Hi-lạp hay đế
quốc La-mã làm ứng nghiệm, căn cứ vào những gì sử ký đã ghi lại.
Trong câu 9, Đa-ni-ên thấy ở trên trời có các ngôi được thiết trí, và có Đấng
Thượng cổ ngự ngôi. Cả khung cảnh nầy phù hợp với điều Thánh Giăng đã thấy và ghi
lại trong Khải huyền chương 4&5. Đấng Thượng cổ dường như tương ứng với Đức Chúa
“11Bấy giờ ta nhìn xem vì cớ tiếng của những lời xấc xược mà sừng ấy nói ra.
Vậy ta nhìn xem cho đến chừng con thú bị giết, xác nó bị hủy diệt và bị phó cho lửa để
đốt. 12Còn những con thú khác cũng bị cất hết quyền, nhưng được làm dài đời sống
mình một mùa và một kỳ”.
7.8 Vương Quốc Thứ Năm Của Con Người Từ Trời Xuống (Đa-ni-ên 7:13, 14)
“13Ta lại nhìn xem trong những sự hiện thấy ban đêm, nầy, có một người giống
như con người đến với những đám mây trên trời; người tới đến Đấng Thượng cổ và bị
dẫn đến trước mặt Ngài. 14Người được ban cho quyền thế, vinh hiển, và nước; hầu cho
7.10 Đa-ni-ên Yêu Cầu Được Giải Nghĩa Về Con Thú Thứ Tư (Đa-ni-ên 7:19-22)
“19Bấy giờ ta muốn biết lẽ thật về con thú thứ tư, là con khác với hết thảy các
con khác, rất dữ tợn, răng thì bằng sắt, móng thì bằng đồng, nó cắn nuốt, nghiền nát, và
có gì còn lại thì giày đạp dưới chân. 20Ta cũng muốn biết lẽ thật về mười cái sừng ở
trên đầu nó, và về cái sừng khác mọc lên, và trước mặt nó ba sừng kia đã bị rơi xuống -
sừng nầy có những mắt và miệng nói những lời xấc xược, và hình dạng nó mạnh bạo
hơn những sừng khác. 21Ta nhìn xem, cái sừng đó tranh chiến cùng các thánh, và thắng
trận, 22cho tới khi Đấng Thượng-cổ đã đến, sự xét đoán đã ban cho các thánh của Đấng
Rất Cao và thì giờ đã đến, là khi các thánh được nước làm của mình”.
Khi đặt câu hỏi về con thú thứ tư, Đa-ni-ên ôn lại các đặc điểm mà ông trực tiếp
bận tâm nhất là các đặc điểm phân biệt con thú thứ tư với những con thú đến trước nó.
Sau phần kết thúc đưa ra trong câu 18, khi các thánh đã nhận được nước đời đời, và sau
khi con thú thứ tư đã bị diệt trừ, trong câu 19, Đa-ni-ên lại chú ý vào cuộc tranh chấp
dẫn tới việc đó, và các tiểu tiết cần phải được giải nghĩa. Trong số đó, có các phương
diện trong khải tượng đã được mô tả là “rất dữ tợn” nghĩa là khiến người ta khiếp sợ,
gồm các tiểu tiết như răng bằng sắt, móng bằng đồng, việc nó giày đạp các con thú khác
dưới chân, mười cái sừng, cái sừng khác mọc lên sau, ba cái sừng bị nhổ đi, và cái sừng
có những con mắt và miệng nói những lời đại ngôn, xem có vẻ mạnh bạo hơn các sừng
khác. Đa-ni-ên cũng thêm nhiều đặc điểm không được ông đưa ra trước đó khi kể lại
khải tượng, là móng con thú bằng đồng, cái sừng nhỏ trông mạnh bạo hơn các sừng khác,
cái sừng nhỏ tranh chiến với các thánh đồ và được thắng hơn ( Khải Huyền 11:7; 13:7)
và sự phán xét đã được thực hiện cho các thánh của Đấng Rất Cao.
Sự kiện Đa-ni-ên đặt các câu hỏi về đế quốc thứ tư chứ không thắc mắc về các đế
quốc trước đó, cũng bị các nhà phê bình xem như một bằng chứng khác nữa cho một
niên đại muộn màng về sau nầy của sách Đa-ni-ên. Họ lý luận rằng nếu quả thật Đa-ni-
7.11 Giải Nghĩa Khải Tượng Về Con Thú Thứ Tư (Đa-ni-ên 7:23-25)
“23Vậy người nói cùng ta như vầy: Con thú thứ tư sẽ làm nước thứ tư trên đất,
khác với hết thảy các nước, và nó sẽ nuốt cả đất, giày đạp và nghiền nát ra. 24Mười cái
sừng là mười vua sẽ dấy lên từ nước đó; và có một vua dấy lên sau, khác với các vua
trước, và người đánh đổ ba vua. 25Vua đó sẽ nói những lời phạm đến Đấng Rất Cao, và
định ý đổi những thời kỳ và luật pháp; các thánh sẽ bị phó trong tay người cho đến một
kỳ, những kỳ và nửa kỳ”.
Phần giải nghĩa khải tượng nầy vạch rõ trong câu 23 rằng con thú thứ tư tiêu biểu
cho vương quốc thứ tư, một nước trên đất nầy, khác hẳn các vương quốc trước, sẽ ăn
nuốt cả đất, nghĩa là sẽ cầm quyền trên cả thế gian. Trong quá trình bành trướng đó, nó
sẽ giày đạp và nghiền nát các vương quốc trước. Như vậy, cách giải nghĩa nầy đã loại
trừ ý niệm rằng vương quốc thứ năm ám chỉ sự trị vì của Đức Chúa Trời trong trời mới
đất mới (Khải Huyền 21:1-22:21) hay nó chỉ là một vương quốc thuộc linh, lần lần lan
tràn khắp nơi bằng cách thuyết phục người ta, như nước Đức Chúa Trời trên đất hiện
nay. Theo ngôn ngữ đã được dùng, việc giải nghĩa mấy câu 25-27 đòi hỏi vương quốc
thứ năm phải chiến thắng vương quốc thứ tư; vương quốc thứ năm về căn bản, phải là
một vương quốc về chính trị, có quyền thống trị, mặc dầu các đặc điểm thuộc linh của
nó có là gì đi chăng nữa. Như thế, nó cũng đòi hỏi điều đó phải được ứng nghiệm trong
tương lai, theo một cách thế là trong lịch sử, chưa hề có việc giống như vậy.
Mười cái sừng của khải tượng trong câu 24 được tuyên bố là mười vua sẽ dấy lên.
Rõ ràng là họ sẽ trị vì đồng thời với nhau, vì ba trong các vua ấy bị một cái sừng nhỏ là
một vua khác đánh đổ. Vua nầy khác với mười vua tức là mười cái sừng trước đó, và sẽ
chế phục được ba trong số các vua ấy.
7.12 Đế Quốc Thứ Tư Bị Tiêu Diệt Và Nước Đời Đời Được Thiết Lập (Đa-ni-ên
7:26-28)
“26Nhưng sự xét đoán sẽ đến, và người ta sẽ cất quyền thế khỏi nó, để diệt đi và
làm cho hủy phá đi đến cuối cùng. 27Bấy giờ nước, quyền thế và sự tôn đại của muôn
nước ở dưới cả trời, sẽ được ban cho dân các thánh của Đấng Rất Cao. Nước Ngài là
nước đời đời, và hết thảy các quyền thế đều hầu việc và vâng lời Ngài. 28Vậy, lời ấy
đến đây là hết. Còn như ta, Đa-ni-ên, các ý tưởng ta khiến ta bối rối lắm. Sắc ta biến cải,
dầu vậy, ta vẫn ghi nhớ những sự đó trong lòng ta”.
Như Đa-ni-ên đã chỉ ra trước đây, bây giờ người giải nghĩa xác nhận ý nghĩa của
khải tượng khi mô tả việc phán xét con thú thứ tư và vua nó, cất đi thế lực và quyền cai
trị, và thế nào cuối cùng, nó bị diệt trừ, nghĩa là cuối cùng nó sẽ bị diệt trừ hay sẽ bị trừ
diệt đời đời. Sau khi đế quốc thứ tư bị tiêu diệt, vương quốc trở thành vật sở hữu của
“dân các thánh của Đấng Rất Cao”. Điều nầy không có nghĩa là Đức Chúa Trời sẽ không
cai trị, vì câu 14 đã vạch rõ rằng quyền cai trị sẽ được ban cho Con Người, nhưng cho
thấy vương quốc ấy sẽ nhằm đem lợi ích và an vui đến cho các thánh đồ, tương phản với
từng trải trước đó của họ, khi bị bách hại. Trái với các đế quốc đi trước đều kết thúc
Có hai yếu tố quan trọng đánh dấu chương 8 sách Đa-ni-ên là khởi điểm của một
đoạn sách mới. Trước hết, bắt đầu từ chương nầy, ngôn ngữ trở về với Hi-bá-lai văn thay
vì tiếng A-ram như Đa-ni-ên đã dùng từ Đa-ni-ên 2:4 đến 7:28. Thứ hai, việc thay đổi
ngôn ngữ cũng phù hợp với tư tưởng mà chương sách nầy đưa vào. Từ đây cho đến hết
Nghiên Cứu Sách Đa-ni-ên. Trang 220
sách Đa-ni-ên, lời tiên tri tuy liên hệ đến các dân ngoại, vẫn đề cập lịch sử loài người
liên hệ đến dân Y-sơ-ra-ên. Do đó, tuy nhiều nhà giải kinh chia sách nầy ra làm hai phần
(1-6 và 7-12) có nhiều lý do chính đáng để chia sách Đa-ni-ên làm ba phần (1, 2-7, 8-
12).
Khải tượng đầu tiên trong số các khải tượng chính Đa-ni-ên thấy và ghi lại trong
chương 7, là bảng tóm tắt rộng rãi các thời kỳ của dân ngoại, nhấn mạnh các biến cố gay
cấn đưa đến tột đỉnh là sự tái lâm của Đấng Christ trên đất nầy. Bắt đầu ở chương 8, khải
tượng thứ hai của Đa-ni-ên liên hệ đến đế quốc Ba-tư và Hi-lạp có liên hệ với dân Y-sơ-
ra-ên. Dưới chính quyền Ba-tư, dân Y-sơ-ra-ên đã hồi hương để xây dựng lại đất nước
và thành Giê-ru-sa-lem. Dưới thời đô hộ của Hi-lạp, đặc biệt là dưới thời Antiochus
Epiphanes, thành phố ấy và đền thờ lại bị phá hoang một lần nữa. Đa-ni-ên chương 9
trình bày lịch sử dân Y-sơ-ra-ên từ thời E-xơ-ra và Nê-hê-mi cho đến khi bắt đầu nước
từ trời xuống khi Đấng Christ tái lâm, ngay trước đó là một cơn đại nạn cho dân Y-sơ-
ra-ên. Chương 10 và 11 mặc khải các biến cố liên hệ đến các Đế quốc Ba-tư và Hi-lạp
với dân Y-sơ-ra-ên, nhấn mạnh trên việc dân Y-sơ-ra-ên bị người ngoại bang áp bức.
Đoạn chót, 11:36-12:13 đề cập ngày tận cùng của kỷ nguyên nầy (the end of the age) là
giai đoạn hồi sinh của Đế quốc La-mã và dân Y-sơ-ra-ên được giải cứu. Năm chương
cuối của sách Đa-ni-ên đã được viết bằng Hi-bá-lai văn, ngôn ngữ của dân Y-sơ-ra-ên
là điều hết sức thích hợp.
“1Năm thứ ba, đời vua Bên-xát-xa, có sự hiện thấy tỏ ra cho ta, là Đa-ni-ên, sau
sự hiện thấy đã tỏ ra cho ta khi trước. 2Vậy ta thấy trong sự hiện thấy; vả, khi ta thấy thì
ta ở tại cung Su-sơ, về tỉnh Ê-lam; và trong sự hiện thấy, ta thấy mình ta ở cạnh sông U-
lai”.
Theo câu 1 thì khải tượng thứ hai của Đa-ni-ên xảy ra “năm thứ ba đời vua Bên-xát-xa”,
nói khác đi, là chừng hai năm sau khải tượng của chương 7. Vì việc đã xảy ra dưới thời
trị vì của Bên-xát-xa, cho nên rõ ràng là theo thứ tự thời gian thì cả hai chương 7 và 8
“3Ta ngước mắt lên và thấy, nầy, có một con chiên đực đứng gần sông, có hai cái
sừng; hai sừng nó cao, nhưng một cái thì cao hơn cái kia, và cái cao hơn thì mọc lên sau.
4Bấy giờ ta thấy con chiên đực ấy húc sừng mình vào phía tây, phía bắc và phía nam.
Không có thú vật nào chống cự cùng nó được, và chẳng ai có thể cứu được khỏi tay nó.
Nó muốn làm chi tùy ý, và nó càng lớn lên”.
Trong khải tượng, Đa-ni-ên thấy một con chiên đực có hai sừng không đều nhau,
cái nầy cao hơn cái kia, và cái cao hơn thì mọc sau trên đầu con chiên đực. Đa-ni-ên
chăm chú theo dõi, thì thấy con chiên đực húc sừng về phía Tây, phía Bắc và phía Nam.
Không có một người nào hay một con thú nào đứng vững trước mặt con chiên đực, hoặc
thoát khỏi thế lực của nó. Theo lời tóm tắt của Đa-ni-ên, thì con chiên đực muốn làm gì
tùy ý, và nó trở thành “vĩ đại”.
Lời giải nghĩa được đưa ra trong 8:20 là con dê đực đó là vương quốc Mê-đô Ba-
tư, hai sừng nó tiêu biểu cho hai vua lớn, Sự kiện con chiên đực tiêu biểu cho hai đế
quốc Mê-đi và Ba-tư trong tình trạng kết hợp nhau lại chứ không phải tách rời nhau ra,
là một bằng cớ quan trọng khác nữa chứng minh rằng các nhà phê bình đã sai lầm. Căn
cứ trên câu đề cập Đa-ri-út người Mê-đi, các nhà phê bình cố gắng chứng minh rằng Đa-
ni-ên đã sai lầm khi nói về hai vương quốc, trước là Mê-đi và sau đó là Ba-tư. Dĩ nhiên
là nói như vậy là phản lại sử ký; nhưng các nhà phê bình lại cố dùng nó để chứng minh
rằng Đa-ni-ên đã sai lầm. Tuy nhiên, các nhà phê bình đã gán cho Đa-ni-ên điều mà ông
không hề nói, và vấn đề vốn xuất phát từ lối giải nghĩa sai lầm của chính họ. Như Young
nói: “Cả ở đây cũng như bất cứ chỗ nào khác, Đa-ni-ên không hề quan niệm là có một
vương quốc Mê-đi độc lập”. Về phương diện sử ký, chính hai vương quốc Mê-đi và Ba-
tư kết hợp lại mới là nhà vô địch không ai chống lại nổi qua gần hai thế kỷ, cho đến khi
A-lịch-sơn đại đế xuất hiện trên sân khấu.
Cách vẽ ra hai cái sừng tiêu biểu cho hai góc cạnh lớn của Đế quốc Mê-đô Ba-tư,
tức là của người Mê-đi và người Ba-tư, là vô cùng chính xác, vì người Ba-tư đã đến sau,
được hình dung bằng cái sừng cao hơn, và cũng nổi bật hẳn lên và hùng cường hơn. Các
“5Khi ta nhìn xem sự đó, nầy, một con dê đực đến từ phía tây, đi khắp trên mặt
đất mà không đụng đến đất; con dê đó có cái sừng mọc rõ ra giữa hai con mắt nó. 6Nó
đến tận chỗ con chiên đực có hai sừng, mà ta đã thấy đứng gần sông; nó hết sức giận
chạy đến nghịch cùng chiên đực ấy. 7Ta thấy nó đến gần con chiên đực, nổi giận húc
nó, làm gãy hai cái sừng; con chiên đực không có sức nào chống lại; con dê vật nó xuống
đất, giày đạp lên trên, và chẳng ai có thể cứu con chiên đực khỏi tay nó được”.
“8Con dê đực làm mình nên lớn lắm; nhưng khi nó đã mạnh, thì cái sừng lờn của
nó gãy đi, và ở chỗ đó, có bốn cái sừng mọc rõ ra hướng về bốn gió trên trời”.
Đang khi Đa-ni-ên thấy trong khải tượng là con dê đực đang thắng thế, thì một diễn biến
bất ngờ xảy ra. Cái sừng lớn giữa hai mắt con dê đực bị gãy đúng lúc nó đạt tới tột đỉnh
sức lực của nó. Từ chỗ đó mọc lên bốn cái sừng được mô tả là “rẽ ra hướng về bốn gió
trên trời”. Các nhà giải kinh, cả bảo thủ lẫn tự do đều giải thích câu nầy ám chỉ cái chết
“bất đắc kỳ tử” của A-lịch-sơn, và việc vương quốc của vua ấy bị chia thành bốn phần
lớn. A-lịch-sơn, sau khi đã chinh phục được phần lớn của thế giới nhiều hơn bất kỳ một
vua nào khác trước mình, đã không thể chinh phục chính bản thân. Vua ấy đã phung phí
8.5 Cái Sừng Nhỏ Mọc Vượt Lên (Đa-ni-ên 8:9, 10)
“9Bởi một trong các sừng, có mọc ra một cái sừng nhỏ, lớn lên rất mạnh, về
phương nam, phương đông, lại hướng về đất vinh hiển. 10Nó lớn lên đến cơ binh trên
trời; làm cho đổ xuống đất một phần cơ binh và một phần trong các ngôi sao, rồi nó giày
đạp lên”.
Trong khi tương đối ít có bất đồng ý kiến về lai lịch của con chiên đực và con dê
đực, trong thực tế, mọi ý kiến trái ngược nhau đều tập trung vào ý nghĩa của cái sừng
nhỏ được mô tả trong câu 9&10. Theo ký thuật của Đa-ni-ên, thì cái sừng nhỏ mọc lên
từ một trong bốn cái sừng đã được đề cập trong câu 8. Cái sừng ấy thoạt đầu thì nhỏ,
nhưng lại “lớn lên rất mạnh” về ba hướng: hướng Nam, hướng Đông và hướng về đất
vinh hiển. Ngụ ý của câu nầy, là điểm được đề cập là Sy-ri, thì “hướng Nam” là Ai-cập,
“hướng Đông” là Mê-đô Ba-tư cổ, hay xứ Ạt-mê-ni, và “đất vinh hiển” hay “đất vui
thích” ám chỉ xứ Palestine hay Ca-na-an, nằm giữa Sy-ri và Ai-cập. Nguyên văn từ ngữ
“vui thích” hay ngày nay gọi là “tươi đẹp” được ghép với từ ngữ “đất” của Đa-ni-ên 11
“11Nó làm mình nên lớn cho đến tướng cơ binh; nó cất của lễ hằng dâng khỏi
Ngài, và nơi thánh của Ngài bị quăng xuống. 12Vì cớ tội lỗi thì cơ binh được phó cho
nó, luôn với của lễ thiêu hằng dâng; và nó ném bỏ lẽ thật xuống đất, nó làm theo ý mình
và được thạnh vượng. 13Bấy giờ ta nghe một đấng thánh đương nói, và một đấng thánh
khác nói cùng đấng đương nói, rằng: Sự hiện thấy nầy về của lễ thiêu hằng dâng và về
tội ác sanh ra sự hủy diệt, đặng phó nơi thánh cùng cơ binh để bị giày đạp dưới chân, sẽ
còn có cho đến chừng nào? 14Người trả lời cùng ta rằng: Cho đến hai ngàn ba trăm buổi
chiều và buổi mai; sau đó nơi thánh sẽ được thanh sạch”.
Cho đến 8:11 thì chẳng có gì khó khăn để tìm ra việc khải tượng đã ứng nghiệm
với lịch sử của các giai đoạn Mê-đô Ba-tư, A-lịch-sơn đại đế và sau A-lịch-sơn. Tuy
nhiên, bắt đầu ở câu 11, các nhà giải kinh có ý kiến rất khác nhau về việc chẳng hay ý
chính trong khúc sách nầy vốn ngụ ý ám chỉ Antiochus Epiphanes và được ứng nghiệm
trọn vẹn vào sinh thời của vua ấy, hay khúc sách nầy đề cập trước nhất hoặc sau đó, còn
ám chỉ ngày tận cùng của kỷ nguyên nầy, tức là giai đoạn có cơn đại nạn đến ngay trước
khi Đức Chúa Giê-xu Christ tái lâm. Cách giải nghĩa khác nhau xa đến nỗi khiến người
nghiên cứu sách Đa-ni-ên phải bối rối. Như Montgomery vạch rõ, hai câu 11 và 12 là
”...đoạn sách ngắn khó nhất trong sách nầy”.
8.7 Khải Tượng Được Giải Nghĩa Liên Hệ Với Kỳ Sau Rốt (Đa-ni-ên 8:15-19)
“15Khi mà ta, Đa-ni-ên, nhìn xem sự hiện thấy đó, và ta tìm cách để rõ nghĩa,
nầy, có như hình dạng người nam đứng trước ta. 16Ta nghe tiếng một người nam từ giữa
bờ sông U-lai, kêu và bảo rằng: Gáp-ri-ên, hãy cho người nầy hiểu sự hiện thấy đó.
17Người bèn đến gần chỗ ta đứng; khi người đã đến, ta kinh hãi và ngã sấp mặt xuống
đất. Người bảo ta rằng: Hỡi con người, hãy hiểu biết; vì sự hiện thấy đó có quan hệ với
kỳ sau rốt. 18Khi người đang nói với ta, ta ngủ mê sấp mặt xuống đất; nhưng người đụng
đến ta, khiến cho ta đứng dậy. 19Người bảo ta rằng: Nầy, ta sẽ bảo cho ngươi biết điều
sẽ đến trong kỳ sau rốt của sự thạnh nộ; vì điều nầy quan hệ với kỳ định cuối cùng”.
Sau khi chép lại cả khải tượng và giải nghĩa một phần rồi, bây giờ, Đa-ni-ên trực
tiếp bước vào để dự phần trong khải tượng để tìm lời giải đáp như trong chương 7 vậy.
Theo câu 15, thì Đa-ni-ên “tìm cách để rõ nghĩa”, và để đáp lại ước muốn của ông, có
một nhân vật đứng trước mặt ông, được mô tả là “có hình dạng người nam” nhưng rõ
ràng đó là một vị thiên sứ. Trong câu 16, thiên sứ Gáp-ri-ên được đề cập đích danh, và
một giọng đàn ông ngõ lời với Đa-ni-ên để chỉ vẽ cho ông hiểu khải tượng. Giọng đàn
ông nầy có thể là của Thiên sứ trưởng Mi-chen hoặc cả của chính Đức Chúa Trời nữa,
nhưng văn bản không xác định là ai. Calvin tin rằng người lên tiếng ở đây chính là Đấng
Christ. Young vạch rõ ràng từ ngữ chỉ con người trong câu 15 là gãber, nghe giống như
Gáp-ri-ên, và nói lên sức mạnh hay quyền lực. Thêm vào đó là el, từ ngữ chỉ Đức Chúa
Trời, để tạo thành tên Gáp-ri-ên.
8.8 Lời Giải Nghĩa Về Con Chiên Đực Và Con Dê Xồm Đực (Đa-ni-ên 8:20-22)
“20Con chiên đực mà ngươi đã thấy, có hai sừng, đó là các vua nước Mê-đi và
Phe-rơ-sơ. 21Con dê xồm đực, tức là vua nước Gờ-réc; và cái sừng lớn ở giữa hai con
mắt, tức là vua đầu nhất. 22Về sừng đã gãy đi, có bốn sừng mọc lên trong chỗ nó; tức là
bốn nước bởi dân tộc đó dấy lên, song quyền thế không bằng sừng ấy”.
Phần giải nghĩa khải tượng về con chiên đực và con dê đực như được đưa ra trong
hai câu 20,21 cho thấy rõ ràng những gì chúng tôi đã nói trong phần chú giải trước đây.
Điều có ý nghĩa nhất là sự kiện hai nước Mê-đi và Ba-tư được xem là một đế quốc duy
nhất, bác bỏ khái niệm tự do cho rằng Đa-ni-ên dạy đế quốc Mê-đi vốn tách rời với đế
quốc Ba-tư mà các nhà theo chủ trương tự do dùng để biện minh cho cách giải thích của
họ rằng các đế quốc thứ hai và thứ ba của Đa-ni-ên chương 7 là Mê-đi và Ba-tư. Mọi
người đều đồng ý rằng lịch sử đã không hậu thuẫn cho chủ trương đó và lối giải nghĩa
tự do quyết đoán rằng Đa-ni-ên đã sai lầm. Ở đây thì vấn đề đã được chính Đa-ni-ên làm
sáng tỏ, và rõ ràng là các nhà phê bình đã phạm vào cái tội gán cho Đa-ni-ên điều ông
không hề dạy. Con dê đực được mô tả là “dê xồm” cũng được gọi là “vua nước Gờ-réc”,
rõ ràng đề cập một vương quốc toàn diện, vì cái sừng lớn giữa hai con mắt đã được nhận
diện là nhà vua đầu nhất. Trong thực tế, mọi người đều đồng ý rằng đó là A-lịch-sơn đại
đế.
Bốn vương quốc được hình dung bằng bốn cái sừng thay vào chỗ cái sừng lớn đã
bị gãy đi, được đồng nhất hóa với vốn vương quốc dấy lên từ nước của con dê đực.
Chúng được mô tả là không được quyền thế bằng cái sừng lớn. Ngoại trừ các nhà giải
kinh cượng giải rằng điều nầy liên hệ đến đế quốc La-mã vốn không thấy có điểm giống
nhau nào, rõ ràng bốn vương quốc ấy là của bốn đại tướng của A-lịch-sơn đã chia nhau
đế quốc của vua ấy như chúng ta đã ghi nhận trước đây. Phần đông các nhà giải kinh
đồng ý rằng mấy câu 20-22 đã hoàn toàn ứng nghiệm trong lịch sử liên hệ đến các đế
“23Đến kỳ sau rốt của nước chúng nó, khi số những kẻ bội nghịch đã đầy, thì sẽ
dấy lên một vua là người có bộ mặt hung dữ và thấu rõ những lời mầu nhiệm. 24Quyền
thế người sẽ lớn thêm, nhưng không phải bởi sức mình. Người làm những sự tàn phá lạ
thường; và được thạnh vượng, làm theo ý mình, hủy diệt những kẻ có quyền và dân
thánh. 25Người dùng quyền thuật làm nên chước gian dối mình được thắng lợi. Trong
lòng người tự làm mình nên lớn, và trong lúc dân ở yên ổn, người sẽ hủy diệt nhiều kẻ;
người nổi lên chống với vua của các vua, nhưng người sẽ bị bẻ gãy chẳng bởi tay người
ta. 26Vả, sự hiện thấy về các buổi chiều và các buổi mai mà đã nói đến là thật. Nhưng
ngươi hãy giữ kín sự hiện thấy đó, vì nó quan hệ với sau nhiều ngày”.
Trong đoạn sách nầy của Đan 8, một cá nhân được tả vẽ bằng lời tiên tri là sẽ có
những đặc điểm sau đây: (1) kẻ ấy sẽ xuất hiện “trong kỳ sau rốt của nước chúng nó”
nghĩa là của bốn vương quốc của câu 22; (2) kẻ ấy sẽ hiện ra “khi số những kẻ bội nghịch
đã đầy”; (3) kẻ ấy sẽ là “một vua, là người có bộ mặt hung dữ và thấu rõ những lời mầu
nhiệm”, nghĩa là có diện mạo táo bạo, có tài giải các câu đố nát óc, một dấu hiệu của trí
thông minh (I. Các Vua 10:1); (4) kẻ ấy sẽ có quyền thế lớn, nhưng quyền ấy vốn do
một nơi khác (hoặc là Đức Chúa Trời, Sa-tan hay A-lịch-sơn đại đế); (5) kẻ ấy sẽ thực
hiện nhiều việc lớn, kể cả việc tiêu diệt dân Y-sơ-ra-ên, là dân có quyền và thánh; (8) do
các chính sách của mình “người dùng quyền thuật (craft: pháp thuật) làm nên chước gian
dối mình được thắng lợi” lúc nào cũng bận rộn với các âm mưu (IMacabê 1:16-51),
nghĩa là cứ ngày càng làm điều ác nhiều hơn; (7) kẻ ấy sẽ tự tôn mình lên, như Antiochus
Epiphanes vậy; (8) bằng phương tiện hòa bình giả tạo, kẻ ấy sẽ hủy diệt nhiều người; (9)
kẻ ấy sẽ chống lại “vua của các vua”; (10) cuối cùng “người sẽ bị bẻ gãy chẳng bởi tay
người ta” (Antiochus chết vì một chứng bịnh ghê tởm) nghĩa là quyền thế của kẻ ấy sẽ
bị tiêu diệt mà không do loài người can thiệp vào. Cuối cùng, Đa-ni-ên được bảo đảm
“27Bấy giờ, ta, Đa-ni-ên, mê mẩn và đau ốm trong mấy ngày; đoạn ta chổi dậy
và làm việc vua. Ta rất lấy làm lạ về sự hiện thấy ấy, nhưng chẳng ai rõ ý nó”.
Hậu quả của khải tượng ban cho Đa-ni-ên nầy làm ông kiệt sức, và ông ghi lại
rằng ông bị mê mẩn và đau ốm luôn mấy ngày sau đó. Sau khi bình phục, ông phải làm
bù các công việc đối với nhà vua. Jeffrey ghi nhận rằng căn cứ vào việc Đa-ni-ên trở lại
phục vụ nhà vua ngay sau đó, ta có thể chứng minh rằng bấy giờ ông đang ở tại Ba-by-
lôn, và sự hiện diện của ông tại Su-sơ là hoàn toàn trong khải tượng mà thôi.
Đặc tính gay cấn của khải tượng và các hàm ý lạ lùng của nó tuy Đa-ni-ên chưa
thấu hiểu, vẫn chờn vờn trong tâm trí ông. Nhưng ông không tìm được ai để giải nghĩa
trọn vẹn cho ông. Rõ ràng sở dĩ khải tượng ấy đã được ban cho Đa-ni-ên với dụng ý
muốn ông hãy ghi lại nó như một lời tiên tri có lợi cho các thế hệ mai hậu, chứ không
phải cho bản thân Đa-ni-ên. Khác với những lần trước, Đa-ni-ên đã là người giải nghĩa
sự mặc khải của Đức Chúa Trời, giờ đây, ông trở thành người ghi chép mà không hiểu
hết những gì mình đã viết hoặc kinh nghiệm.
Điểm nhấn mạnh của Đa-ni-ên chương 8 là lời tiên tri của nó liên quan đến dân
Y-sơ-ra-ên, và vì lý do đó, cái sừng nhỏ được đưa ra, nổi bật hẳn lên, cả trong khải tượng
lẫn trong phần giải nghĩa. Các thời kỳ dân ngoại tuy chưa phải hoàn toàn là giai đoạn
dân Y-sơ-ra-ên bị bách hại, thường vẫn đem đến cho họ sự thử thách lớn lao. Trong bốn
đại đế quốc mà Đa-ni-ên báo trước, chỉ có đế quốc Ba-tư là tỏ ra tương đối tử tế với dân
Y-sơ-ra-ên. Như chính Đấng Christ đã vạch rõ trong Lu-ca 21:24; đặc điểm của các thời
kỳ dân ngoại là việc thành Giê-ru-sa-lem bị giày đạp, và dân Y-sơ-ra-ên bị chế phục và
bách hại.
Tiếp theo hai khải tượng của chương 7 & 8, khải tượng thứ ba của nhà tiên tri Đa-
ni-ên liên hệ đến chương trình của Đức Chúa Trời vạch ra cho dân Y-sơ-ra-ên, mà tuyệt
“1Năm đầu Đa-ri-út, con trai A-suê-ru, về dòng người Mê-đi, đã được lập làm
vua trị nước người Canh-đê; 2đang năm đầu về triều người, ta, Đa-ni-ên, bởi các sách
biết rằng số năm mà lời Đức Giê-hô-va đã phán cùng Đấng tiên tri Giê-rê-mi, để cho
trọn sự hoang vu thành Giê-ru-sa-lem, là bảy mươi năm”.
Theo câu mở đầu chương 9, thì khải tượng thứ ba của Đa-ni-ên xảy ra “năm đầu
đời Đa-ri-út, con trai A-suê-ru, về dòng người Mê-đi”. Nói khác đi, các biến cố về bữa
đại tiệc của Bên-xát-xa trong chương 5 vốn xảy ra giữa các khải tượng của hai chương
8 & 9. Chương 6 cần gắn đúng vào điểm nào trong thứ tự các biến cố thì không rõ ràng
“3Ta để mặt hướng về Chúa là Đức Chúa Trời, lấy sự khấn nguyện, nài xin, với
sự kiêng ăn, mặc bao gai, đội tro mà tìm. 4Vậy, ta cầu nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời
ta, và ta xưng tội cùng Ngài mà rằng: Ôi! Chúa là Đức Chúa Trời cao cả và đáng khiếp
sợ! Ngài giữ lời giao ước và sự nhân từ đối với những kẻ yêu Ngài và giữ các điều răn
Ngài”.
Được khích lệ vì biết rõ ý định của Đức Chúa Trời sẽ phục hồi thành Giê-ru-sa-lem, giờ
đây Đa-ni-ên tìm cách chuẩn bị thật đầy đủ để dâng lên những lời xưng tội và khẩn xin
9.3 Bài Cầu Nguyện Xưng Tội Của Đa-ni-ên (Đa-ni-ên 9:5-14)
“5Chúng tôi đã phạm tội, làm sự trái ngược, ăn ở hung dữ, chúng tôi đã bạn
nghịch và đã xây bỏ các giềng mối và lệ luật của Ngài. 6Chúng tôi đã không nghe các
tôi tớ Ngài là các đấng tiên tri, đã lấy danh Ngài mà nói cùng các vua, các quan trưởng,
các tổ phụ chúng tôi và cùng cả dân trong đất. 7Hỗi Chúa, sự công bình thuộc về Ngài,
còn sự hổ mặt về chúng tôi, như ngày nay; sự ấy bao trùm người Giu-đa, dân cư Giê-ru-
sa-lem, hết thảy người Y-sơ-ra-ên ở gần ở xa, trong mọi nước mà Ngài đã làm cho họ
tan tác, vì cớ những sự gian ác họ đã phạm nghịch cùng Ngài. 8Hỡi Chúa, sự hổ mặt
thuộc về chúng tôi, về các vua, các quan trưởng, các tổ phụ chúng tôi, bởi chúng tôi đã
phạm tội nghịch cùng Ngài. 9Những sự thương xót và tha thứ đều thuộc về Chúa là Đức
Chúa Trời chúng tôi; bởi chúng tôi đã bạn nghịch cùng Ngài. 10Chúng tôi đã chẳng nghe
lời Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi, đặng bước đi trong luật pháp mà Ngài đã cậy
tôi tớ Ngài là các đấng tiên tri để trước mặt chúng tôi. 11Hết thảy người Y-sơ-ra-ên đã
phạm luật pháp Ngài và xây đi để không vâng theo tiếng Ngài. Vậy nên sự rủa sả, và thề
nguyền chép trong luật pháp Môi-se là tôi tớ Đức Chúa Trời, đã đổ ra trên chúng tôi, vì
chúng tôi đã phạm tội nghịch cùng Ngài. 12Ngài đã làm cho chắc các lời đã phán nghịch
cùng chúng tôi, cùng các quan án đã đoán xét chúng tôi, mà khiến tai vạ lớn đến trên
chúng tôi; vì khắp dưới trời chẳng hề có tai vạ nào giống như đã làm ra trên Giê-ru-sa-
lem. 13Cả tai vạ nầy đã đến trên chúng tôi như có chép trong luật pháp Môi-se; mà chúng
tôi cũng không nài xin ơn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, đặng xây bỏ khỏi sự gian
ác mình và thấu rõ đạo thật của Ngài. 14Bởi cớ đó, Đức Giê-hô-va ngắm xem và giáng
tai vạ ấy trên chúng tôi; vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi là công bình trong mọi
việc Ngài làm. chỉn chúng tôi không vâng theo tiếng Ngài”.
9.4 Đa-ni-ên Khẩn Xin Tha Thứ Và Trùng Hưng (Đa-ni-ên 9:15-19)
“15Bây giờ, hỡi Chúa là Đức Chúa Trời chúng tôi, Ngài đã lấy tay mạnh đem dân
Ngài ra khỏi đất Ê-díp-tô, đã làm nên cho mình một danh tiếng như ngày nay; còn chúng
tôi đã phạm tội, đã làm việc ác. 16Hỡi Chúa, tôi cầu xin Chúa cứ mọi sự công bình Ngài
khiến cơn giận và thạnh ộ của Ngài xây khỏi thành Giê-ru-sa-lem Ngài, tức là núi thánh
Ngài; vì ấy là bởi tội lỗi chúng tôi và sự gian ác tổ phụ chúng tôi mà Giê-ru-sa-lem và
“20Ta còn đang nói và cầu nguyện, xưng tội lỗi ta và tội lỗi dân Y-sơ-ra-ên ta, và
ta dâng lời nài xin trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời ta, vì núi thánh Đức Chúa Trời
ta; 21Vậy ta còn nói trong khi cầu nguyện, nầy, Gáp-ri-ên, người mà ta đã thấy trong sự
hiện thấy lúc đầu tiên, được sai bay mau đến đụng ta độ lúc dâng lễ chiều hôm. 22Người
dạy dỗ ta và nói cùng ta rằng: Hỡi Đa-ni-ên, bây giờ ta ra để ban sự khôn ngoan và thông
sáng cho ngươi. 23Lời phán dặn đã ra từ khi ngươi bắt đầu nài xin; và ta đến để tỏ lời
đó cho ngươi, vì ngươi đã được yêu quí lắm. Vậy hãy suy nghĩ sự đó và hãy hiểu biết sự
hiện thấy”.
Đang khi Đa-ni-ên dâng lên lời khẩn xin với Đức Giê-hô-va thì lời đáp lại đã ở
trên đường đến với ông qua trung gian một sự giả của thiên đàng, là thiên sứ Gáp-ri-ên.
Trong câu 20 Đa-ni-ên ngụ ý bảo rằng vị thiên sứ vốn đã được sai đi ngay từ lúc ông bắt
đầu cầu nguyện. Như Đa-ni-ên mô tả, việc ấy được thực hiện khi “Ta còn đang nói và
cầu nguyện, xưng tội lỗi ta và tội lỗi dân Y-sơ-ra-ên ta, và ta dâng lời nài xin trước mặt
Giê-hô-va Đức Chúa Trời ta vì núi thánh Đức Chúa Trời ta”. Theo câu 21, thì Gáp-ri-ên
chạm đến người Đa-ni-ên độ lúc dâng lễ chiều hôm. Rõ ràng bài cầu nguyện Đa-ni-ên
ghi lại đầy chỉ là phần tóm tắt bài cầu nguyện thật sự được ông thốt ra, có lẽ là khá dài
và kết thúc vào giờ dâng của lễ chiều hôm.
9.6 Sự Mặc Khải Về Bảy Mươi Tuần Lễ Cho Dân Y-Sơ-Ra-Ên (Đa-ni-ên 9:24)
9.7 Sự Ứng Nghiệm Của Sáu Mươi Chín Tuần Lễ (Đa-ni-ên 9:25)
“25Ngươi khá biết và hiểu rằng từ khi ra lịnh tu bổ và xây lại Giê-ru-sa-lem, cho
đến Đấng chịu xức dầu, tức là vua, thì được bảy tuần lễ, và sáu mươi hai tuần lễ; thành
đó sẽ được xây lại, có đường phố và hào, trong kỳ khó khăn”.
Ngay tại khởi điểm của phần mặc khải chi tiết về bảy mươi tuần lễ, Đa-ni-ên được
khuyến cáo phải tìm hiểu các sự kiện chính trong lời tiên tri ( 9:22). Calvin hiểu việc đó
là một nhấn mạnh sự kiện “Ngươi khá biết và hiểu rằng” chứ không phải chỉ là một lời
khuyên bảo suông. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra là chẳng hay Đa-ni-ên có thật sự hiểu
điều đó hay không. Rõ ràng là Đa-ni-ên đã không hiểu một số khía cạnh sau đó của lời
tiên tri ( 12:8) tuy lời trấn an tổng quát của Đức Chúa Trời về mục đích của Ngài, chắc
đã an ủi được Đa-ni-ên. Tốt hơn thì chúng ta nên xem đó như một lời khuyến cáo. Lịch
sử của công việc giải nghĩa mấy câu nầy đã xác nhận sự kiện lời tiên tri nầy vốn khó
(hiểu) và đòi hỏi phải có tài phân biện thuộc linh.
9.8 Các Biến Cố Được Nói Tiên Tri Là Sẽ Xảy Ra Sau Tuần Lễ Thứ Sáu Mươi
Chín (Đa-ni-ên 9:26)
“26Sau sáu mươi hai tuần lễ đó, Đấng chịu xức dầu sẽ bị trừ đi, và sẽ không có
chi hết. Có dân của vua hầu đến sẽ hủy phá thành và nơi thánh; cuối cùng nó sẽ như bị
nước lụt ngập, có sự tranh chiến cho đến cuối cùng; những sự hoang vu đã định”.
Để tóm tắt giai đoạn sáu mươi chín tuần lễ, câu 25 chép rằng giai đoạn ấy sẽ là
của “Đấng chịu xức dầu (Mê-si) tức là vua”. Phần đông các nhà giải kinh đều giải nghĩa
là câu nầy ám chỉ Đức Chúa Giê-xu Christ. Tuy nhiên, Montgomery có một lối giải thích
khác: “được xức dầu (Mê-si) là hình dung từ của vua, thầy tế lễ ( IIMacabê 1:10), nhà
tiên tri, và theo nghĩa thuộc linh là của các vị tộc trưởng (Thi Thiên 105:15) và cả cho
Si-ru, là “người được xức dầu của ta” trong Ê-sai 45:1... Từ ngữ thứ hai 'vua' (bản Anh
văn là prince) chỉ người đứng đầu vốn được dùng chỉ các sĩ quan thuộc nhiều cập bậc
khác nhau, chỉ người cầm đầu một nhóm các quan chức, nhất là các nhân vật của đền
thờ, thí dụ trong Đa-ni-ên 11:22 chỉ thầy tế lễ thượng phẩm; chỉ các nhà quí tộc hay
vương tử, chẳng hạn trong Gióp 29:10; 31:37, rồi chỉ nhà vua, xuất hiện như một tước
vị rất sớm của vua trong dân Y-sơ-ra-ên, chẳng hạn trong I. Sa-mu-ên 9:16, và cả các
nhà vua ngoại quốc nữa. Vì cả hai từ ngữ ở đây đều có nghĩa mơ hồ, mà cách chúng kết
hợp lại với nhau cũng không nhằm chỉ đúng chức vị nào, cho nên người ta có thể đề nghị
ba ứng viên: Si-ru 'người được xức dầu' của Ê-sai 45:1; Xô-rô-ba-bên, người đã được
chào đón như Mê-si vào thời Phục quốc, và nhân vật đồng thời với ông, là thầy tế lễ Giê-
hô-sua”.
Rõ ràng là Montgomery đã phải nhọc công để chứng minh cho lối giải nghĩa
không có Đấng Christ trong đó. Con số các học giả thừa nhận sách Đa-ni-ên là một tác
phẩm chân chính và nhận rằng từ ngữ trong câu 25 ám chỉ Đấng Christ, vốn chiếm đa
phần. Như Young nói: “Cách giải nghĩa theo quan điểm phúc âm từ xưa, là cách giải
“27Người sẽ lập giao ước vững bền với nhiều người trong một tuần lễ, và đến
giữa tuần ấy, người sẽ khiến của lễ và của lễ chay dứt đi. Kẻ hủy phá sẽ đến bởi cánh
gớm ghiếc, và sẽ có sự giận dữ đổ trên nơi bị hoang vu, cho đến kỳ sau rốt, là kỳ đã
định”.
Tuy chúng ta nhận xét là đã có rất nhiều ý kiến khác nhau trong việc giải nghĩa
Đa-ni-ên 9:24-26, vấn đề chính vốn là phần ứng nghiệm của chúng là chẳng liên hệ gì
với Đấng Christ như các nhà phê bình tự do chủ trương, hay có liên hệ với Đấng Christ
như quan điểm của các học giả bảo thủ về khúc sách nầy. Trong giới học giả nảo thủ, sự
chia rẽ quan trọng là giữa hai cách giải nghĩa phi thiên-hi-niên và tiền thiên-hi-niên. Tuy
nhiên, cách giải nghĩa khác nhau đó đã đi đến một đầu mối trong câu 27. Ở đây, rõ ràng
là phải có sự chọn lựa giữa việc ứng nghiệm theo nghĩa đen - đòi hỏi một cách giải nghĩa
tương lai với một khoảng cách giữa tuần lễ thứ sáu mươi chín và thứ bảy mươi - hoặc
nhiều cách lựa chọn khác, thừa nhận rằng câu 27 chưa cho thấy một sự ứng nghiệm rõ
rệt nào cả.
Đối lập với cách giải nghĩa là phần ứng nghiệm câu nầy hãy còn ở trong tương
lai, đã có ít nhất bốn quan điểm khác được đưa ra: (1) Quan điểm tự do, cho rằng tuân
lễ thứ bảy mươi đã ứng nghiệm nơi các biến cố tiếp sau cuộc bách hại thời Ma-ca-bê
CHƯƠNG 10: KHẢI TƯỢNG VỀ VINH QUANG CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Ba chương cuối cùng của sách Đa-ni-ên ghi lại một sự mặc khải dài về lời tiên tri
cho tương lai mà không chỗ nào khác trong Kinh điển có thể sánh kịp. Như Leupold nói:
“Thật khó có gì khác trong Kinh Thánh giống như các chương sách nầy, nhất là chương
11. Lời lẽ, khải tượng và phần tiên báo tỉ mỉ đã được kết hợp vào nhau theo một cách
thức không thấy có ở chỗ nào khác trong Kinh điển”. Chẳng hạn như toàn thể nội dung
của chương 10 là phần dẫn nhập, vạch rõ đặc tính rộng lớn của lời tiên tri tiếp theo đó.
Phần vào đề đã thật sự được mở rộng ngay từ câu đầu tiên của chương 11. Đoạn tiếp
theo Đa-ni-ên 11:2-12:4, được chia làm hai phần lớn, phần đầu 11:2-35 đề cập phần
tương lai gần từ Đa-ri-út đến Antiochus, phần thứ hai, 11:36-12:4 đề cập tương lai xa là
các thời kỳ cuối cùng ngay trước khi Đấng Christ tái lâm. Một thông điệp và mặc khải
cuối cùng được ban cho Đa-ni-ên trong 12:5-13. Ba chương cuối cùng nầy là khải tượng
thứ tư của Đa-ni-ên, gồm thâu các sợi dây tiên tri có ý nghĩa, nhất là khi chúng có liên
hệ với Xứ Thánh và dân Y-sơ-ra-ên.
“1Năm thứ ba đời vua Si-ru nước Phe-rơ-sơ, có một sự tỏ ra cho Đa-ni-ên cũng
gọi là Bên-tơ-xát-xa. Sự tỏ ra đó là thật, tức là sự chiến tranh lớn. Đa-ni-ên hiểu sự đó,
và rõ được ý của sự hiện thấy”.
Hầu như tất cả các chi tiết của câu đầu tiên trong chương sách nầy đều bị các nhà
giải kinh đem ra bình luận. Niên đại của khải tượng “Năm thứ ba đời vua Si-ru, nước
Phe-rơ-sơ” (536 TC) bị công kích là mâu thuẫn với 1:21, nơi Đa-ni-ên được bảo là “cứ
ở đó cho đến năm đầu đời vua Si-ru”. Như chúng tôi đã lưu ý trong phần chú giải chương
1, 1:21 không hề bảo rằng Đa-ni-ên qua đời hay kết thúc sự nghiệp của mình vào năm
đầu đời vua Si-ru, mà chỉ bảo rằng ông cứ tiếp tục cho đến ngày xảy ra biến cố giới thiệu
vương quốc Mê-đi và Ba-tư. Tuy bộ Bảy Mươi Dịch Giả có thay đổi 10:1 thành ra “năm
thứ nhất” việc muốn làm cho hòa hợp ấy vốn chẳng có gì cần thiết cả.
Giới phê bình cũng chuyển sang phản đối câu “Si-ru, vua nước Phe-rơ-sơ”.
Montgomery cùng với nhiều nhà phê bình tự do, chủ trươgn rằng “Cách gọi Si-ru là vua
nước Phe-rơ-sơ không được dùng vào thời ấy: Vua Phe-rơ-sơ vốn được dành cho tước
hiệu là đại vương, nhà vua lớn, vua của các vua; hoặc sau khi vua ấy đã chinh phục được
đế quốc Ba-by-lôn, thì được gọi là 'vua của Ba-bên', 'vua các nước'. Cách gọi 'vua nước
Phe-rơ-sơ' chỉ thấy có nơi người Hi-lạp về sau nầy ma thôi”. Tuy các học giả đồng ý
rằng bình thường Si-ru vốn không được gọi đơn giản là “vua nước Phe-rơ-sơ” mà mãi
về sau danh hiệu ấy mới được dùng, thì ít nhất, chúng ta cũng tìm thấy danh hiệu ấy
được dùng một lần. Dầu sao thì tại sao Si-ru lại không thể được gọi là “vua nước Phe-
rơ-sơ” cho dù đó không phải là cách thức thông thường mà người ta gọi vua ấy? Young
thì nói cách yếu ớt rằng: “Cách gọi Si-ru như vậy vốn là cách dùng của thời đó (mặc dầu
Montgomery đã nói)”. Lại nữa, tại sao cách gọi tên người trong Kinh điển lại phải theo
đúng cách dùng đời xưa? Câu nầy thật hết sức rõ ràng, và chỉ thời mà khải tượng xảy ra.
Vào năm thứ ba đời Si-ru, vua Ba-tư khá muộn màng về sau của sự nghiệp của Đa-ni-
ên, khoảng bảy mươi hai năm sau, khi ông bị bắt đưa sang Ba-by-lôn lúc hãy còn là
thanh niên, có một “sự” - đúng hơn thì nên dịch là “có lời” - đã được mặc khải cho Đa-
10.2 Phần Chuẩn Bị Của Đa-ni-ên Cho Khải Tượng (Đa-ni-ên 10:2, 3)
“2Trong những ngày đó, ta, Đa-ni-ên, đang buồn rầu trải ba tuần lễ trọn. 3Ta
chẳng ăn bánh ngon, thịt và rượu chẳng vào miệng ta, và ta không xức dầu chi hết cho
đến chừng ba tuần đã mãn”.
Nhằm chuẩn bị cho sự mặc khải quan trọng tiếp theo đây, Đa-ni-ên đã trải qua ba
tuần lễ âu sầu, không ăn các khẩu phần của bàn ăn vua cấp, kiêng cữ rượu thịt, cũng
không xức dầu cho mình. “Bánh ngon” theo nguyên văn là “bánh ưa thích, ao ước” tương
đương với “bánh hoạn nạn” trong Phục Truyền Luật Lệ Ký 16:3, tức là bánh không men
10.3 Khải Tượng Đầy Vinh Quang Của Đa-ni-ên Về Đức Chúa Trời (Đa-ni-ên
10:4-6)
“4Ngày thứ hai mươi bốn tháng giêng, ta ở kề bờ sông lớn Hi-đê-ke. 5Ta nhướng
mắt nhìn xem, nầy, một người mặc vải gai, chung quanh lưng thắt đai bằng vàng ròng
U-pha. 6Mình người như bích ngọc; mặt người như chớp, và mắt như đuốc cháy; tay và
chân như đồng đánh bóng; và tiếng nói như tiếng đám đông”.
Theo câu 4, thì ngày thấy khải tượng là ngày 24 tháng Giêng, nghĩa là tháng 4 dl
hay tháng A-bíp (Xuất Ê-díp-tô Ký 23:15), được biết về sau trong Cựu Ước là tiếng Ni-
san (Nê-hê-mi 2:1). Kinh Thánh không tiết lộ hai mươi mốt ngày âu sầu (than khóc, tang
tóc: mourning) bắt đầu khi nào, nhưng dường như rõ ràng là chúng kết thúc vào ngày
hai mươi bốn tháng ấy. Thông thường thì năm mới bắt đầu bằng một đại lễ hai ngày
mừng trăng mới (I. Sa-mu-ên 20:18, 19, 34) và dĩ nhiên là trong khi ngày lễ vui vẻ đang
tiếp diễn mà Đa-ni-ên lại kiêng ăn, thì không thích hợp chút nào. Rất có thể là Đa-ni-ên
đã giữ Lễ Vượt Qua ngày 14 và Lễ Bánh không men tiếp theo đó, từ ngày rằm cho đến
ngày hai mươi mốt. Nếu khải tượng đến với ông sau hai mươi mốt ngày âu sầu than
10.4 Hiệu Quả Của Khải Tượng Trên Đa-ni-ên (Đa-ni-ên 10:7-9)
“7Ta, Đa-ni-ên, chỉ có một mình ta xem sự hiện thấy đó, vì những kẻ ở cùng ta
không thấy sự hiện thấy đó; nhưng họ run rẩy quá, chạy trốn để ẩn mình. 8Vậy ta sót lại
một mình, và thấy sự hiện thấy lớn đó thì chẳng còn sức nữa. Mặt ta biến sắc cho đến tái
đi, và ta không còn sức nữa. 9Song ta còn nghe tiếng của những lời người, và vừa nghe
xong, ta ngủ mê đi, nằm sấp mặt xuống đất”.
Khải tượng mà Đa-ni-ên thấy chỉ hiện rõ cho một mình ông mà thôi, còn số người
tháp tùng ông thì không thấy. Tình hình dường như cũng tương tự như số người đã theo
thánh Phao-lô trên con đường đi Đa-mách (Công Vụ Các Sứ Đồ 9:7; 22:9) ngoại trừ ở
đây, những người đó tuy chẳng nghe thấy gì cả nhưng dường như có cảm thấy một điều
gì đó khiến họ kinh hãi vô cùng. Khi số người theo Đa-ni-ên chạy trốn để tìm chỗ ẩn
thân, thì Đa-ni-ên bị bỏ lại một mình, như ông vạch rõ trong câu 8. Tuy nhiên, việc số
người kia không thấy được khải tượng, thật khó bảo là vì họ thiếu tri giác thuộc linh như
Leupold gợi ý. Chắc chắn là trong cả đám người đó, chỉ một mình Đa-ni-ên mới có đủ
phẩm cách thuộc linh để tiếp nhận khải tượng, nhưng việc chọn lựa người tiếp nhận khải
tượng vốn do ý chỉ Đức Chúa Trời, còn đám người tháp tùng Đa-ni-ên thì không được
phép thấy khải tượng, vốn chỉ được định cho một mình Đa-ni-ên mà thôi.
Sự kiện đám người kia không thấy khải tượng và chạy trốn làm sáng tỏ rằng đây
là một biến cố đã thật sự xảy ra trên bờ sông Ti-gơ-rơ, và không phải là Đa-ni-ên chỉ ở
đó trong khải tượng mà thôi. Số người theo Đa-ni-ên không thuộc về một thành phần
của khải tượng, và việc họ bỏ đi mở đường cho việc Đa-ni-ên có được từng trải nầy rõ
ràng hơn cho riêng ông mà thôi.
10.5 Một Thiên Sứ Phục Hồi Sức Lực Cho Đa-ni-ên (Đa-ni-ên 10:10, 11)
“10Bấy giờ có một bàn tay rờ đến ta, khiến ta dậy, chống đầu gối và bàn tay trên
đất. 11Đoạn, người đó nói cùng ta rằng: Hỡi Đa-ni-ên, là người rất được yêu quí, hãy
hiểu những lời ta nói cùng ngươi, và hãy đứng thẳng lên, vì bây giờ ta đã được sai đến
cùng ngươi. Khi người đã nói cùng ta lời ấy, ta đứng lên và run rẩy”.
Trong câu 10, Đa-ni-ên ghi lại rằng trong cảnh cùng cực đó, có một bàn tay chạm
đến ông, nâng ông lên vừa đủ để ông có thể chống đầu gới và bàn tay trên đất. Nếu khải
tượng nguyên thủy là hiện diện của chính Đức Chúa Trời, thì rõ ràng đây là một nhân
vật khác, rất có thể là một thiên sứ. Sách chép rằng vị thiên sứ ấy “khiến ta dậy”, một
hành động tương tự như đánh thức Đa-ni-ên khỏi giấc ngủ vậy.
Vị thiên sứ ngỏ lời với Đa-ni-ên và ban cho ông danh hiệu là “người rất được yêu
quí”. Tuy Đức Chúa Trời vốn yêu mến toàn thể thế gian đến nỗi đã ban Con Ngài làm
Cứu Chúa, có một số người, do mối liên hệ đặc biệt giữa họ với Đức Chúa Trời, vốn là
đối tượng cho một tình yêu thương khác thường của Đức Chúa Trời. Mặc dầu phạm
10.6 Mục Đích Cuộc Thăm Viếng Của Vị Thiên Sứ (Đa-ni-ên 10:12-14)
“12Đoạn, người bảo ta rằng: Hỡi Đa-ni-ên, đừng sợ, vì kể từ ngày đầu mà ngươi
đã chuyên lòng hiểu, hạ mình ngươi xuống trước mặt Đức Chúa Trời ngươi, thì những
lời ngươi đã được nghe, và vì cớ những lời ngươi mà ta đã đến. 13Song vua nước Phe-
rơ-sơ đã ngăn trở ta trong hai mươi mốt ngày; nhưng, nầy, Mi-ca-ên là một trong các
quan trưởng đầu nhứt, đã đến mà giúp đỡ ta, và ta ở lại đó với các vua Phe-rơ-sơ. 14Bây
giờ ta đến để bảo ngươi hiểu sự sẽ xảy đến cho dân ngươi trong những ngày sau rốt; vì
sự hiện thấy nầy chỉ về nhiều ngày lâu về sau”.
Sau đó, Đa-ni-ên còn được khích lệ thêm bằng lời khuyên: “Hỡi Đa-ni-ên, đừng
sợ”. Để làm dịu bớt nỗi lo sợ càng tăng của Đa-ni-ên, vị thiên sứ cho ông biết rằng ngay
từ lúc ông bắt đầu cầu thay ba tuần lễ trước đó, thì Đức Chúa Trời đã muốn nhậm lời
cầu nguyện của ông và sai một thiên sứ đến với ông. Khi có một người đến với Đức
Chúa Trời như Đa-ni-ên, mở lòng mình ra để tìm hiểu và tự trừng phạt mình trước mặt
Đức Chúa Trời, thì người ấy sẽ được an tâm biết bao! Chúng ta có thể trông đợi được
Đức Chúa Trời đáp lại rằng những lời cầu nguyện của mình đã được lắng nghe và một
“15Trong khi người nói cùng ta những lời đó, ta cúi mặt xuống đất và làm thinh.
16Nầy, có đấng bộ dạng như các con trai loài người rờ đến môi ta. Ta bèn mở miệng,
nói cùng đấng đứng trước mặt ta rằng: Hỡi chúa tôi, sự buồn rầu trở lại trên tôi vì cớ sự
hiện thấy nầy, tôi không còn sức nữa. 17Thể nào đầy tớ chúa tôi nói được cùng chúa tôi?
Vì về phần tôi, tức thì không còn một chút sức lực nào trong tôi, và cũng không còn hơi
thở trong tôi nữa!”
Một lẫn nữa, sự bạc nhược lại tràn ngập trong người Đa-ni-ên. Ông làm thinh,
sấp mặt xuống đất. Ở đây, Calvin bài bác quan niệm cho rằng Đa-ni-ên tỏ ra ân hận về
chức vụ tiên tri của mình, đã vạch rõ: “Khi sấp mặt xuống đất như vậy, là ông tỏ lòng
tôn kính; còn khi ông làm thinh không nói, là để bày tỏ sự kinh ngạc”.Câu 15 không
vạch rõ Đa-ni-ên có thật sự té sấp mặt xuống đất hay không, nhưng hậu quả rất có thể
chính là điều Calvin đã nhấn mạnh.
10.8 Đa-ni-ên Lại Được Thêm Sức Lần Thứ Ba (Đa-ni-ên 10:18, 19)
“18Bấy giờ đấng có bộ dạng người nam lại rờ đến ta và khiến ta nên mạnh.
19Người bảo ta rằng: Hỡi người rất được yêu quí, đừng sợ hãi; nguyền cho sự bình an ở
với ngươi! Hãy mạnh bạo! Phải, hãy mạnh bạo đi! Khi người đương nói cùng ta, ta lại
được sức, mà nói rằng: Hỡi Chúa, xin hãy nói, vì chúa đã khiến tôi nên mạnh”.
Lần thứ ba trong chương sách nầy, Đa-ni-ên lại được bổ sức một cách siêu nhiên,
do có người đến, chạm vào người ông. Leupold tin rằng chính vị thiên sứ đã được đề
cập ở câu 10 và tiếp theo đó, là người đã bổ sức cho Đa-ni-ên mỗi lần như vậy. Tuy
nhiên, vì số các thiên sứ phục vụ rất đông, không có lý do đặc biệt nào để bảo rằng Đa-
ni-ên đã không được nhiều hơn là một vị thiên sứ phục vụ ông. Phần mô tả trong câu 16
cũng như trong câu 18 sẽ là không cần thiết, nếu chỉ có duy nhất một vị thiên sứ dự vào
10.9 Vị Thiên Sứ Giới Thiệu Phần Mặc Khải (Đa-ni-ên 10:20, 21)
“20Người lại nói cùng ta rằng: Ngươi có biết tại sao ta đến cùng ngươi chăng?
Bây giờ ta trở về để đánh trận cùng vua của Phe-rơ-sơ, và khi ta đi, kìa, vua của Gờ-réc
sẽ đến. 21Nhưng ta sẽ truyền bảo cho ngươi biết mọi điều đã ghi chép trong sách chân
thật. Không có ai giúp ta để chống với chúng nó, ngoài Mi-ca-ên, là vua các ngươi”.
Bây giờ, đã đến lúc sẵn sàng để trình bày phần mặc khải quan trọng tiếp theo đây.
Vị thiên sứ lại nêu lên câu hỏi: “Ngươi có biết tại sao ta đến cùng ngươi chăng?” Các
nhà phê bình đã nhận thấy rằng mấy câu kết luận cho chương 10 nầy là một nhầm lẫn,
vì là những lời lặp lại không cần thiết và lộn xộn. Montgomery quả quyết rằng văn bản
ở đây đã bị chép sai. Tuy nhiên, phê bình như vậy là bỏ qua tình trạng suy nhược và bối
rối của Đa-ni-ên. Điều hết sức tự nhiên, là sau khi thấy Đa-ni-ên thoát khỏi tình trạng
hôn mê và không nói được, thì bây giờ, phải xét xem ông đã có thể nghĩ đến mục đích
của bức thông điệp mà vị thiên sứ sắp đưa đến hay chưa. Vị thiên sứ tiết lộ là mình phải
trở lại để “đánh trận cùng vua của Phe-rơ-sơ” và ngụ ý là sau đó, lại sẽ phải đánh trận
CHƯƠNG 11: LỊCH SỬ THẾ GIỚI TỪ ĐA-RI-ÚT CHO ĐẾN THỜI KỲ CUỐI
CÙNG
Phần nhập đề dài dòng của chương 10 cho khải tượng thứ tư và là cuối cùng đã
được ban cho Đa-ni-ên được nối tiếp trong chương 11 bằng việc mặc khải các biến cố
quan trọng bắt đầu với Đa-ri-út người Mê-đi(539TC) và kéo dài cho đến nhà vua ngoại
bang của thời kỳ cuối cùng. Chương 11 được chia ra thật tự nhiên thành hai phần lớn.
Phần đầu, từ câu 1-35, mô tả các vua quan trọng của đế quốc Ba-tư và sau đó là chi tiết
của một số biến cố quan trọng của đế quốc thứ ba tiếp sau A-lịch-sơn Đại đế, kết thúc
với Antiochus Epiphanes (175-164 TC). Cả giai đoạn từ khi Antiochus Epiphanes băng
cho đến thời kỳ cuối cùng bị bỏ qua, không có biến cố nào đề cập thời kỳ hiện tại của
hội thánh, và phần thứ hai, từ câu 36-45 đề cập nhà vua ngoại bang cuối cùng sẽ cầm
quyền khi Đấng Christ tái lâm. Tiếp theo đây là lời tiên tri thêm vào trong chương 12 về
1335 ngày cuối cùng, một giai đoạn gồm có cơn đại nạn, việc Chúa Giê-xu tái lâm và
11.1 Bốn Vua Quan Trọng Của Mê-Đô Ba-Tư (Đa-ni-ên 11:1, 2)
“1Trong năm đầu đời vua Đa-ri-út, người Mê-đi, ta đã dấy lên để giúp đỡ người
và làm cho mạnh. 2Bây giờ ta sẽ cho ngươi biết sự chân thật. Nầy, còn có ba vua trong
nước Phe-rơ-sơ sẽ dấy lên, lại vua thứ tư có nhiều của cải hơn hết thảy; và khi của cải
làm cho vua đó nên mạnh, thì người xui giục mọi người nghịch cùng nước Gờ-réc”.
Câu mở đầu chương 11 thường bị xem là câu kết thúc cho chương 10. Trong đó,
vị thiên sứ được thấy trong 10:18, tuyên bố rằng mình tiếp tay để xác nhận vai trò và
củng cố thế lực cho Đa-ri-út người Mê-đi ngay khi vua ấy bắt đầu trị vì tại Ba-by-lôn.
Câu bảo rằng vị thiên sứ “dấy lên” trong câu 1 có lẽ đã được dùng theo nghĩa là đứng
vững theo tư thế quân sự để chống lại kẻ thù, như trong 10:13. Sở dĩ vị ấy phải đứng như
vậy thường được hiểu là để hậu thuẫn cho Đa-ri-út người Mê-đi, nhằm xác nhận vai trò
và “củng cố thế lực” cho vua ấy; nhưng cũng có thể là chữ “người” vốn không ám chỉ
Đa-ri-út người Mê-đi - vì vị thiên sứ còn phải chống lại vua Ba-tư (10:13) nữa - nhưng
ám chỉ Mi-ca-ên, là vua dân Y-sơ-ra-ên đang chiến đấu bên cạnh họ (10:21). Vào năm
đầu đời trị vì của Đa-ri-út người Mê-đi, lúc thế lực của cường quốc thế giới bây giờ là
Ba-by-lôn bị chuyển sang cho Mê-đô Ba-tư, thì vị thiên sứ đứng bên cạnh Mi-ca-ên là
thiên thần hộ mệnh cho dân Y-sơ-ra-ên cho đến khi chuyển được vương quốc nầy từ chỗ
thù nghịch, trở thành nước ban đặc ân cho dân Y-sơ-ra-ên. Câu chuyện trong chương 6
chứng minh rằng vào năm đầu thời trị vì của Đa-ri-út, đã có nhiều nỗ lực nhằm khiến
vua ấy chống lại dân Y-sơ-ra-ên. Nhân cơ hội ấy, Đức Chúa Trời đã sai thiên sứ Ngài
đến để bịt miệng bầy sư tử (Đa-ni-ên 6:22). Việc Đa-ni-ên được vị thiên sứ ấy giải cứu
11.2 Sự Dấy Lên Và Suy Tàn Của A-Lịch-Sơn Đại Đế (Đa-ni-ên 11:3, 4)
“5Vua phương nam sẽ được mạnh; nhưng một trong các tướng của vua sẽ được
mạnh hơn vua, và có quyền cai trị; quyền người sẽ lớn lắm”.
Bắt đầu câu 5, cuộc tranh giành giữa nhiều vua khác nhau ở phương Nam, tức là Ai-cập,
với các vua của phương Bắc, tức là Sy-ri, bắt đầu, và được Đa-ni-ên vẽ ra trong lời tiên
tri của ông cho đến thời của Antiochus IV Epiphanes (175-164 TC) là một giai đoạn
khoảng 150 năm. Trong câu 8, vua phương Nam được đồng nhất hóa với Ai-cập và bộ
Bảy Mươi Dịch Giả dịch là phương Nam qua cả khúc sách nầy. Sy-ri thì không được
nêu đích danh, vì vào thời Đa-ni-ên viết sách nầy, đã không hề có một nước mang tên
như vậy, và nếu chép như vậy thì sẽ gây lẫn lộn rắc rối. Khi vẽ lại những cuộc tranh
giành giữa Ai-cập và Sy-ri, lời tiên tri vốn có tính cách chọn lọc mà không ghi lại tất cả
các vua, nhưng phần lai lịch thì thường rất rõ ràng.
Vua phương Nam trong câu 5 có thể là Ptolemy I Soter (323-285 TC). Vị tướng
được đề cập là “sẽ được mạnh hơn vua” là vua Sy-ri, Seleucus I Nicator (312-281 TC).
Các tướng nầy xưng vương năm 306 TC. Seleucus bấy giờ trốn khỏi Antigonus ở Ba-
by-lôn và tạm thời liên kết với Ptolemy I. Họ kết hợp lực lượng với nhau và đánh bại
Antigonus, dọn đường cho Seleucus kiểm soát trọn khu vực Tiểu Á châu đến tận Ấn độ,
cho đến khi vua ấy trở thành hùng cường hơn cả Ptolemy đang cai trị Ai-cập. Cho nên
Kinh Thánh mới chép Seleucus “mạnh hơn vua (Ptolemy) và có quyền cai trị, quyền
người sẽ lớn lắm”. Điều nầy cũng giải thích đặc tính của câu trước đó, là “cũng không
như quyền đã dùng mà cai trị trước nữa”. Sự dấy lên của Ptolemy làm vua Ai-cập và
Seleucus làm vua Sy-ri với vùng lãnh thổ chung quanh đã đặt nền tảng cho hai triều đại
11.4 Công Chúa Ai-Cập Được Gả Cho Vua Sy-Ri (Đa-ni-ên 11:6)
“6Đến cuối cùng mấy năm, các vua đó sẽ đồng minh với nhau; công chúa vua
phương Nam đến cùng vua phương Bắc để kết hòa hảo. Nhưng sức của cánh tay công
chúa chắc không được lâu; quyền của vua phương Bắc và cánh tay người cũng chẳng
còn; nhưng công chúa và những kẻ đã dẫn nó đến, và người sanh ra nó, cùng kẻ đã giúp
đỡ nó trong lúc đó đều sẽ bị nộp”.
Câu “đến cuối cùng mấy năm” có nghĩa là “sau một thời gian nhiều năm” ( II. Sử
Ký 18:2; Đa-ni-ên 11:8, 13). Thời gian trôi qua, là tự nhiên đã có chuyện giao hôn, vì lý
do chính trị giữa Ai-cập và Sy-ri, như đã được vẽ ra trong câu 6. Những kẻ tham dự là
vua phương Nam, Ptolemy II Philadelphus (285-246 TC) và con gái vua ấy, Berenice,
được gả cho Antiochus II Theos (261-246 TC) vào khoảng năm 252 TC. Antiochus I
Soter (281-261 TC) đã bị bỏ qua không đề cập. Cuộc hôn nhân được thực hiện khi
Ptolemy Philadelphus yêu cầu Antiochus phải ly dị vợ là Laodiceia (hay Laodice) để
cuộc hôn nhân được dễ dàng. Ý đồ của ông ta là muốn tạo một bầu không khí hòa hảo
giữa hai quốc gia. Tuy nhiên, như câu 6 cho thấy, sự giao hảo nầy đã không thành công,
vì “sức của cánh tay công chúa chắc không được lâu” nghĩa là công chúa đã không có
đủ thế lực về thể xác hay chính trị khiến không có phía nào trong hai cánh đàn ông được
hưng vượng cả. Như đã được vạch rõ “quyền của vua phương Bắc và cánh tay người
cũng chẳng còn; nhưng công chúa và những kẻ đã dẫn nó đến, và người sanh ra nó, cùng
kẻ đã giúp đỡ nó trong lúc đó đều sẽ bị nộp”. “Kẻ đã giúp đỡ nó” tức là “kẻ đã được
nàng làm vợ”. Chỉ sau hai năm kết hôn, Ptolemy băng, và Antiochus trở lại với người
vợ trước là Laodiceia. Tuy nhiên, để báo thù, Laodiceia đã ám sát chồng mình luôn với
người vợ Ai-cập của vua ấy là Berenice và đứa con trai hãy còn nhỏ của Antiochus và
Berenice. “Người sanh ra nó” dĩ nhiên ám chỉ Ptolemy II mà cái chết đã nhanh chóng
làm nẩy sinh những cuộc ám sát tiếp sau đó.
“7Một chồi ra từ rễ công chúa, dấy lên để nối ngôi nó, mà đến cùng cơ binh, vào
trong đồn lũy vua phương Bắc, đánh và thắng được. 8Người bắt cả các thần họ làm phu
tù đem sang nước Ê-díp-tô, cả các tượng đúc và các khí mạnh bằng vàng bằng bạc nữa;
đoạn trong vài năm, người sẽ không đánh vua phương Bắc. 9Vua nầy sẽ tiến vào nước
vua phương Nam, nhưng lại trở về xứ mình”.
Sau các biến cố ở câu 6, một nhà vua mới lên ngôi tại Ai-cập, được biết dưới danh
hiệu là Ptolemy III Euergetes (246-221 TC) đã chiến thắng vua phương Bắc Seleucus
Callinicus (247-226 TC) bằng quân sự, và như lời tiên tri vạch rõ, vua ấy đã “vào trong
đồn lũy vua phương Bắc” bắt các vương tử đem về Ai-cập làm con tin, cũng mang về
các hình tượng, các khí mạnh quí giá bằng bạc bằng vàng. Câu “một chồi ra từ rễ công
chúa” có nghĩa là dòng họ bà con gần của Berenice. Nhân vật được đề cập chính là người
con trai do cha mẹ công chúa Berenice sanh ra, tức là anh (hay em trai) của công chúa,
Ptolemy III Euergetes, người nối ngôi cho Ptolemy Philadelphus.
Việc bắt các thần làm phu tù và đem các tượng đúc về Ai-cập cho thấy vương
quốc phương Bắc hoàn toàn bị chế phục ( Ê-sai 46:1, 2; Giê-rê-mi 48:7; 49:3; Ô-sê
10:5). Để kỷ niệm chiến công của mình, Ptolemy Euergetes dựng đài kỷ niệm Marmor
Adulitanum khoe rằng mình đã chế phục được Mê-sô-bô-ta-mi, Ba-tư, Susiana, Mê-đi
và tất cả các nước xa đến tận Bactria.
Trong quyển chú giải của mình, Jerome có mô tả cuộc chinh phạt của Ptolemy
Euergetes như sau:
“Vua ấy đến với một đạo quân lớn tiến vào tỉnh của vua phương Bắc là Seleucus
Callinicus đang cùng với mẹ là Laodice cai trị tại Sy-ri, và đánh họ tơi bời, chẳng những
chiếm Sy-ri, mà còn chiếm luôn Cilicia và các vùng xa vượt khỏi sông Ơ-phơ-rát, và
gần hết cả Á châu nữa. Rồi khi nghe tin có một cuộc dấy loạn nổi lên tại Ai-cập, vua ấy
tàn phá vương quốc của Seleucus và đem về làm chiến lợi phẩm 40.000 ta-lâng bạc,
cùng các khí mạnh quí giá và các tượng thần đến con số là 2500. Trong số đó, có các
11.6 Cuộc Chiến Tranh Giữa Seleucus Và Antiochus Iii Đại Đế Chống Ptolemy
Philopator (Đa-ni-ên 11:10-19)
“10Hai con trai vua phương bắc đi chiến trận, nhóm một đoàn cơ binh lớn, sẽ
đến, sẽ tràn ra và đi qua; chúng nó sẽ trở về và chiến trận cho đến đồn lũy vua phương
nam. 11Bấy giờ vua phương nam tức giận, ra ngoài để đánh nhau cùng vua phương bắc,
sắp sẵn sàng một cơ binh đông, và cơ binh của vua phương bắc phải phó vào tay người.
“20Bấy giờ có một vua khác sẽ nối ngôi người, sai kẻ bức hiếp đi qua nơi vinh
hiển của nước; nhưng trong mấy ngày người sẽ phải bại hoại, chẳng vì cơn giận dữ hay
trận chiến tranh nào cả”.
Nhà vua Seleucid cai trị giữa thời của Antiochus Đại đế và Antiochus Epiphanes
là Seleucus Philopator, được đề cập ở đây là kẻ bức hiệp bằng việc đánh thuế trên dân
Y-sơ-ra-ên. Vì thế lực đang lên của La-mã, hằng năm vua ấy phải nộp cống cho người
La-mã đến hàng ngàn ta-lâng. Muốn góp cho đủ số tiền lớn lao đó, Seleucus bắt buộc
phải đánh thuế trên các xứ mình cai trị, kể cả các loại thuế đặc biệt đánh trên dân Do-
thái do một người thâu thuế tên là Heliodorus (IIMacabê 3:7) lấy từ các kho tàng của
đền thờ tại Giê-ru-sa-lem. Như Zocler vạch rõ: “Ngay sau khi Heliodorus được lịnh cướp
bóc của đền thờ, thì Seleucus Philopator bị cất đi thình lình và bí mật. Việc nầy giải thích
cho câu “nhưng trong mấy ngày người sẽ bị bại hoại” (Đa-ni-ên 11:20) rất có thể là do
chính tên Heliodorus đã đầu độc nhà vua”. Việc nầy mở đường cho giai đoạn bách hại
khủng khiếp của Antiochus Epiphanes tiếp theo đó.
“21Lại có kẻ đáng khinh dể lên thay vì vua đó, mà người ta không tôn người làm
vua; nhưng người sẽ đến lúc yên ổn, dùng lời siểm nịnh mà mưu chiếm lấy nước.
22Những cơ binh đầy tràn, sẽ bị thua và vỡ tan trước người, cả đến vua của sự giao ước
cũng vậy. 23Dầu có lập hòa ước với vua kia, người cũng làm việc cách dối trá; đem quân
đến và được mạnh bởi một dân ít người”.
Bắt đầu ở câu 21, một đoạn dài của chương sách nầy được dành cho một nhà vua
tương đối không có danh tiếng bao nhiêu của xứ Sy-ri, trị vì từ năm 175-164 TC, mà
trước đây từng được nói bóng là “cái sừng nhỏ” (Đa-ni-ên 8:9-14, 23-25). Vua nầy cai
trị vào thời nước Sy-ri suy tàn, và La-mã đang dấy lên ở phương Tây, và chỉ nhờ băng
hà vào năm 164 TC, vua ấy mới khỏi bị La-mã làm nhục. Theo quan điểm của Kinh điển
và lời mặc khải của vị thiên sứ cho Đa-ni-ên, thì đây là nét quan trọng nhất của toàn thể
đế quốc thứ ba. Lý do khiến Antiochus IV Epiphanes nổi bật hẳn lên, là việc vua ấy làm
ô uế đền thờ và bàn thờ của người Do-thái, và việc vua ấy bách hại dữ dội dân tộc đó.
Đúng với cả đoạn sách bắt đầu cho chương 8, sự thống trị của các dân ngoại trước nhất
vốn được nhìn từ mối liên hệ giữa nó với tiến trình của dân Do-thái. So với người tiền
nhiệm là Seleucus IV Philopator, thì vua nầy được mô tả là “kẻ đáng khinh dể”. Danh
hiệu Epiphanes có nghĩa là “quang vinh” mà Antiochus tự đặt cho mình rất phù hợp với
ý đồ của vua ấy là muốn được người ta xem mình là thần. Phần mô tả ở đây là theo quan
điểm mà Đức Chúa Trời nhìn vào vua ấy vì cớ đời sồng vô luân vô đạo, bách hại và thù
ghét dân sự của Đức Chúa Trời. Cuộc đời vua ấy có điểm đặc sắc là gồm toàm âm mưu,
tùy thời, tham quyền, còn danh dự thì chỉ là chuyện thứ yếu.
Câu “người ta không tôn người lên làm vua” ám chỉ sự kiện vua ấy đã cướp ngôi
chứ không phải là đã được ngôi trong vinh dự. Lúc tiên vương băng hà, đã có nhiều
người muốn được lên ngôi. Có lẽ người hợp pháp nhất để có thể được lên ngôi là
Demetrius, người con trai hãy còn nhỏ của Seleucus III là em vua ấy, bấy giờ đang bị
giữ làm con tin tại La-mã. Seleucus IV cũng có một con trai nhỏ, cũng có tên là
Antiochus ở tại Sy-ri nhưng hãy còn rất bé. Antiochus IV là em trai của Seleucus IV
“24Người sẽ nhân lúc yên ổn chiếm lấy các khu đất tốt nhất trong tỉnh, và sẽ làm
điều mà tổ phụ và liệt tổ người chưa hề làm; lấy những đồ đã cướp đã giựt được và của
cải mà chia cho những người theo mình; lập mưu đánh các đồn lũy, nhưng chỉ trong một
thì mà thôi. 25Đoạn, vua đó lại phấn chấn sức mình và lòng mình, dùng một cơ binh lớn
đánh vua phương nam. Vua phương nam sẽ đi đánh giặc bằng một cơ binh lớn và mạnh
lắm; nhưng người không thể chống cự lại được, bởi vì sẽ có người ta lập mưu nghịch
cùng người. 26Những kẻ ăn trong bàn vua sẽ làm cho vua bại hoại; cơ binh người sẽ tràn
ra và nhiều người bị giết và ngã xuống”.
Antiochus luôn luôn tích cực hành động để mở rộng vương quốc của mình, hoặc
bằng các âm mưu quân sự hay chính trị. Theo câu 24 thì cũng như các tổ tiên mình, vua
ấy đã cướp lấy nhiều nơi trù phú nhất trong nước cho mình. Lời tiên báo “người sẽ nhân
lúc yên ổn chiếm lấy” có nghĩa là vua ấy sẽ tấn công kẻ thù trong thời bình, lúc họ không
ngờ. Khác với cha mình, Antiochus IV đã không dùng của cải chiếm được theo lối đó
để mưu cầu lợi ích cho riêng mình, cho bằng dùng nó để mua chuộc người khác, khiến
họ cộng tác với mình. Câu “lấy những đồ đã cướp, đã giựt được mà chia” cho thấy cách
vua ấy đã phân phát các của cải mình thâu tóm được. Theo IMacabê 3:30 thì “vua ấy sợ
rằng mình không có đủ ngân quĩ như trước để chi phí và làm quà tặng mà vua ấy phí
phạm nhiều hơn các vua về trước”.
“27Có hai vua ấy, trong lòng chỉ chực làm hại; ngồi cùng bàn tiệc mà nói dối;
song sự đó chẳng thành, vì sẽ còn có sự cuối cùng nơi kỳ đã định. 28Vua sẽ trở về đất
mình với nhiều của cải lắm; lòng người đã rắp đối địch cùng giao ước thánh, và người
sẽ làm theo ý mình, và trở về đất mình”.
Tuy nhiên, cuộc chiến giữa Sy-ri và Ai-cập đã đưa đến nhiều hòa ước không được
thực thi. Như câu 27 cho thấy, các vua cả Ai-cập lẫn Sy-ri đều không tôn trọng các hòa
ước mình đã ký kết, “ngồi cùng bàn tiệc mà nói dối, song sự đó chẳng thành”. Như phần
cuối của câu 27 vạch rõ, bất chấp mọi âm mưu, Antiochus đã làm ứng nghiệm lời tiên
tri theo đúng lịch trình.
Từ Ai-cập trở về với nhiều của cải, Antiochus bắt đầu tỏ ra thù ghét dân Y-sơ-ra-
ên và bộc lộ lòng tham muốn đối với số của cải của đền thờ. Việc nầy được vạch rõ trong
câu “lòng người đã rắp đối địch cùng giao ước thánh”.
11.11 Antiochus Bị La-Mã Chống Đối, Bách Hại Người Do-Thái (Đa-ni-ên 11:29-
31)
“29Đến kỳ đã định, người sẽ trở lại và vào phương nam; nhưng lần sau không
giống như lần trước. 30Vì những tàu ở Kít-tim sẽ đến nghịch cùng người; cho nên người
sẽ lo buồn và trở về. Người sẽ tức giận nghịch cùng giao ước thánh, và làm theo ý mình.
Người sẽ trở về, và coi trọng những kẻ bỏ giao ước thánh. 31Những quân lính của người
Nghiên Cứu Sách Đa-ni-ên. Trang 335
mộ sẽ dấy lên, làm ô uế nơi thánh cùng đồn lũy, cất của lễ thiêu hằng dâng, và lập sự
gớm ghiếc làm ra sự hoang vu”.
“Đến kỳ đã định” nghĩa là do chính Đức Chúa Trời đã định, Antiochus IV cầm
đầu một cuộc viễn chinh khác nữa chống Ai-cập, định bắt sống Ptolemy Philometor,
nhưng cuối cùng, bị bắt buộc phải rút quân khỏi Ai-cập vì không đánh chiếm được thành
phố Alexandria. Sự thành công của vua ấy vốn chẳng hơn gì chuyến viễn chinh trước
như Kinh Thánh chép “lần sau không giống như lần trước”. Một cuộc xâm lăng Ai-cập
khác nữa lại xảy ra khoảng năm 168 TC. Tuy nhiên, lần nầy vua ấy lại chạm trán gần
Alexandria với một quan khâm sai của La-mã là Gaius Popillius Laenas, đòi hỏi vắn tắt
rằng vua ấy phải rời bỏ Ai-cập, bằng không sẽ bị La-mã tấn công. Người ta kể lại rằng
viên khâm sai đã vẽ một vòng tròn quanh Antiochus IV và bảo rằng vua ấy phải quyết
định trước khi bước ra khỏi vòng tròn. Thay vì liều mạng đánh nhau với La-mã, và tuy
hết sức bất mãn, Antiochus IV đã phải lập tức rút quân khỏi Ai-cập để nhượng xứ ấy
cho thế lực của La-mã. Về phương diện tiên tri, thì việc ấy vốn được vạch rõ trong câu
3o “vì những tàu ở Kít-tim sẽ đến nghịch cùng người” thường vẫn được xem như một
biểu tượng tiêu biểu cho thế lực La-mã từ phương Tây đến, vượt qua Kít-tim, ám chỉ
đảo Chíp-rơ nằm về phía Tây vương quốc của Antiochus IV. Hạm đội của Laenas kéo
rốc sang Ai-cập sau chiến thắng của La-mã đối với Perseus, người Ma-xê-đoan gần
Pydna, nằm về phía Nam Tê-sa-lô-ni-ca (tháng 6 dl, 168 TC). Trong bộ Bảy Mươi Dịch
Giả, mấy chữ “tàu ở Kít-tim” được dịch là “người La-mã”, tuy không phải là cách dịch
chính xác, nhưng đã nói lên đúng ý nghĩa của câu ấy.
Bực mình vì bị thua người La-mã tại Ai-cập dường như Antiochus Epiphanes trút
hết cơn thạnh nộ của mình vào dân Do-thái, như đã nhấn mạnh ở câu 30 “người sẽ tức
giận nghịch cùng giao ước thánh”. Sử ký của giai đoạn nầy được viết ra trong hai sách
Macabê. Câu thêm vào “coi trọng những kẻ bỏ giao ước thánh” vạch rõ việc vua ấy kết
thân với những kẻ đứng về phe mình, sẽ trở thành những kẻ được vua ấy sủng ái và che
chở ( IMacabê 2:18, IIMacabê 6:1).
Trong quá trình chống lại dân Do-thái, Antiochus đã làm ô uế bàn thờ thánh trong
đền thờ bằng việc dâng một con heo trên bàn thờ và ngăn cấm việc tiếp tục dâng lên các
11.12 Những Cơn Bách Hại Cuối Cùng Đối Với Dân Y-Sơ-Ra-Ên (Đa-ni-ên 11:32-
35)
“32Người dùng lời nịnh hót mà dỗ dành những kẻ làm sự dữ nghịch cùng giao
ước; nhưng dân sự biết Đức Chúa Trời mình sẽ mạnh mẽ mà làm. 33Những kẻ khôn
sáng trong dân sẽ dạy dỗ nhiều người; nhưng họ sẽ phải ngã bởi gươm, bởi ngọn lửa,
bởi sự phu tù và sự cướp bóc lâu ngày. 34Trong khi họ sa ngã, họ cũng sẽ được cứu một
ít; song nhiều kẻ sẽ lấy lời nịnh hót mà theo họ. 35Trong những kẻ khôn sáng sẽ có mấy
người sa ngã, hầu cho luyện lọc chúng nó, làm cho tinh sạch và trắng, cho đến kỳ sau
rốt, vì việc đó còn có kỳ nhất định”.
Việc Antiochus tiếp tục chống lại Do-thái giáo được nói tiên tri trong câu 32, cho
thấy vua ấy đã làm thế nào để cố gắng khiến cho họ bị bại hoại. Nhưng phản ứng mạnh
“Vua sẽ làm theo ý muốn mình; kiêu ngạo và lên mình cao hơn hết các thần; nói
những lời lạ lùng nghịch cùng Đức Chúa Trời của các thần. Người sẽ được may mắn
cho đến khi cơn thạnh nộ Chúa được trọn, bởi vì điều gì đã có chỉ định thì phải ứng
nghiệm”.
Ta có thể nhận thấy một sự gián đoạn rõ rệt bắt đầu từ câu 36, được câu “kỳ sau
rốt” trong câu 35 đưa vào. Cho đến đây thì lời tiên tri đề cập các đế quốc Ba-tư và Hi-
lạp đã ứng nghiệm theo từng chi tiết và chính xác lạ lùng. Tuy nhiên, bắt đầu từ câu 36,
là một tình hình khác hẳn. Chưa hề có nhà giải kinh nào dám bảo rằng mình đã tìm thấy
phần ứng nghiệm chính xác cho phần còn lại của chương sách nầy. Tuy Zocler và một
số người khác cố nối kết Đa-ni-ên 11:36-45 với Antiochus, ngay từ thời rất xa xưa, nhiều
học giả Kinh Thánh đã thừa nhận rằng ở đây chắc nhằm vào một nhà vua khác. Chẳng
hạn như Ibu-Ezra đồng nhất hóa vua nầy với Constantin đại đế, Rashi và Calvin cho
rằng vua ấy là Đế quốc La-mã nói chung, và Jerome, Theodoret với Luther cùng với
nhiều người khác nữa, thì đồng nhất hóa vua ấy với Antichrist của Tân Ước. Tương phản
với đoạn sách trước, đoạn nầy không thấy trùng hợp đặc biệt với lịch sử. Cho nên các
học giả xem đoạn nầy là Kinh điển chân chính, thường cho rằng phần nầy hãy còn ở
trong tương lai, và chưa được ứng nghiệm.
11.14 TÔN GIÁO CUỐI CÙNG CỦA THẾ GIỚI (Đa-ni-ên 11:37-39)
“37Người sẽ không đoái xem các thần của tổ phụ mình, cùng kẻ mà đàn bà vẫn
mến. Người sẽ chẳng coi thần nào ra gì; bởi vì người tôn mình lên cao hơn hết cả.
38Nhưng người sẽ ở chỗ mình tôn kính thần của các đồn lũy; người sẽ lấy vàng, bạc, đá
quí, và những vật tốt đẹp mà tôn kính thần tổ phụ mình không biết. 39Người sẽ cậy thần
lạ giúp cho mà lấy các đồn lũy vững bền, và người sẽ ban thêm sự vinh hiển cho kẻ nào
nhận mình. Người cho họ cai trị nhiều người, và chịu tiền bạc mà chia đất”.
“40Đến kỳ sau rốt, vua phương nam sẽ tranh chiến cùng người. Vua phương bắc
đem xe binh, lính kỵ và nhiều tàu, xông đến vua đó như cơn gió lốc. Người sẽ lấn vào
các nước, tràn tới và đi qua. 41Người sẽ vào đến đất vinh hiển, và nhiều nước sẽ bị đổ.
Song những người Ê-đôm, người Mô-áp và những kẻ làm đầu trong dân Am-môn sẽ
thoát khỏi tay người. 42Người sẽ giang tay ra trên các nước, và đất Ê-díp-tô sẽ không
thoát khỏi. 43Người sẽ chiếm lấy các của báu, vàng và bạc, cùng hết thảy đồ quí báu của
Ê-díp-tô. Dân Li-by và dân Ê-thi-ô-bi sẽ theo sau người”.
“Kỳ sau rốt” đã được đưa vào ở câu 35 lại được đề cập trong phần mở đầu câu 40
để vạch rõ rằng cuộc chiến đấu bằng quân sự ở đây là đặc điểm của kỳ sau rốt (the end
of the age). Bản tính tổng quát và vị trí của trận chiến cũng được chỉ rõ. Nhà vua đã được
đề cập trong mấy câu 11:36-39 bây giờ bị “vua phương nam” và “vua phương bắc” tấn
công. Ngay từ đầu chương nầy, vua phương nam luôn luôn là Ai-cập và ám chỉ các trận
chiến tranh của thế kỷ thứ ba và thứ hai TC, vốn đã ứg nghiệm rồi. Ở đây, vua phương
nam rõ ràng là một lãnh tụ chính trị và một lực lượng quân sự từ phía Nam xứ Thánh
đến, nhưng rất có thể sẽ gồm nhiều nước hơn là chỉ một mình Ai-cập mà thôi, nên có thể
gọi là đạo quân Phi châu. Trong các sách của Ma-ca-bê hay Livy, Polybius và Appian
đều không hề thấy chép về những chiến dịch như vậy. Sử ký đã không hề mô tả một trận
chiến tranh như thế.
Vua phương bắc vốn được nhận diện là Sy-ri trong những lời tiên tri đã ứng
nghiệm vào thế kỷ thứ 3 và thứ 2 TC cũng rõ ràng là gồm vùng lãnh thổ rộng lớn hơn là
khu vực mà người Sy-ri chiếm lấy thời bấy giờ, và rất có thể là gồm mọi lực lượng chính
trị và quân sự của các nước nằm về phía Bắc xứ Thánh, do đó, từ ngữ nầy có thể gồm
luôn nước Nha cũng như nhiều nước liên hệ.
Vấn đề hết sức tự nhiên là mối liên hệ giữa trận đánh nầy với trận đánh được mô
tả trong Êx 38,39 khi có một lực lượng quân sự quan trọng từ phương Bắc kéo xuống
tấn công xứ Y-sơ-ra-ên. Văn mạch trong Ê-xê-chi-ên mô tả thời bấy giờ là một thời kỳ
hòa bình cho dân Y-sơ-ra-ên (Ê-xê-chi-ên 38:8, 11, 14) có thể nên đồng nhất hóa tốt
“44Song những tin tức từ phương đông và phương bắc sẽ đến làm cho người bối
rối; người sẽ giận lắm mà đi ra để tàn phá và hủy diệt nhiều người. 45Người sẽ đặt các
trại của cung mình ở khoảng giữa biển cùng núi vinh hiển và thánh. Song người sẽ đến
sự cuối cùng mình, và chẳng có ai đến giúp đỡ người cả”.
Thêm vào những khó khăn mà nhà vua nầy phải đương đầu do cuộc xâm lăng từ
cả phương Bắc lẫn phương Nam, giờ đây lại có tin báo một đạo quân đông đảo từ phương
Đông kéo đến, tiếp theo lại là một cuộc xâm lăng khác từ phía Bắc. Rõ ràng là chiến trận
phải kéo dài trong một thời gian nào đó, và phải có nhiều hơn là một trận đánh. Tin tức
từ phương Đông báo về có thể ám chỉ cuộc xâm lăng khổng lồ được mô tả trong Khải
Huyền 9:13-21 16:12. Theo Khải Huyền 9:16, đây là một đạo quân gồm hai trăm triệu
người, vượt sông Ơ-phơ-rát để tràn xuống xứ Thánh. Tuy một đạo quân như vậy có quân
số làm chúng ta phải choáng váng, khiến nhiều nhà giải kinh cho rằng đó chỉ là một con
số biểu tượng chứ không phải theo nghĩa đen, nhưng căn cứ vào sự bùng nổ dân số ngày
nay tại Á châu, một đạo quân hai trăm triệu người không phải là chuyện không thể có.
Chỉ một mình nước Trung Hoa đỏ mà thôi, đã rêu rao là họ hiện có một quân đội hai
trăm triệu người. Cả khi con số nầy chỉ có nghĩa biểu tượng, nó cũng hình dung ra một
đạo quân chắc chắn là vô cùng đông đảo.
Đồng thời, có tin báo là một cuộc xâm lăng khác cũng đến từ phương Bắc. Để
chống lại cả hai cuộc xâm lăng nầy, nhà vua sẽ phóng ra những cuộc phản công mà hậu
quả sẽ là có vô số người phải vong mạng, và vẫn"đặt được các trại của cung mình ở
“1Trong kỳ đó, Mi-ca-ên, quan trưởng lớn, là đấng đứng thay mặt con cái dân
ngươi sẽ chổi dậy. Lúc đó sẽ có tai nạn, đến nỗi từ khi mới có nước đến kỳ đó cũng
chẳng có như vậy bao giờ. Bấy giờ, trong vòng dân sự ngươi, kẻ nào được ghi trong
quyển sách kia thì sẽ được cứu”.
Câu mở đầu chương 12, trong kỳ đó, vạch rõ rằng khúc sách nầy nói về cùng một
thời gian với mạch văn trước, nghĩa là “kỳ sau rốt” (11:40). Hành động trong câu 1 ở
đây không phải là tiếp sau các biến cố trước đây, nhưng là trùng hợp với chúng về thứ
tự thời gian. Chương 11 đề cập trước hết các khía cạnh chính trị và tôn giáo của kỳ sau
rốt. Bây giờ, chương 12 nối liền mọi điều đó với dân Y-sơ-ra-ên. Ở đây, chữ nghĩa vạch
rõ rằng đây là kỳ hoạn nạn cho dân Y-sơ-ra-ên “đến nỗi từ khi mới có nước đến kỳ đó
cũng chẳng có như vậy bao giờ”. Hiểu câu “con cái dân ngươi theo một nghĩa nào khác
hơn là dân Y-sơ-ra-ên, là chẳng hiểu gì cả đến ý nghĩa trước sau như một của từ ngữ dân
ngươi qua suốt cách Đa-ni-ên. Dân sự ở đây là một “dân tộc” tức là dân Y-sơ-ra-ên.
Thời kỳ tai nạn chưa hề có trước đây mà câu nầy đề cập, là một đại đề mục của
cả Cựu và Tân Ước. Ngay từ rất sớm trong Phục Truyền Luật Lệ Ký 4:30, đã có lời báo
“2Nhiều kẻ ngủ trong bụi đất sẽ thức dậy, kẻ thì để được sự sống đời đời, kẻ thì
để chịu sự xấu hổ nhơ nhuốc đời đời”.
Về tuyệt đỉnh của thời kỳ đại nạn được mô tả trong mạch văn trước đây, câu 2
tiết lộ sẽ có sự sống lại từ kẻ chết. Cả các nhà giải kinh tự do lẫn bảo thủ đều xem khúc
sách nầy là sự thúc đẩy chính yếu của lời hứa về phước hạnh tối hậu cho người công
chính đã chịu khổ trong giai đoạn đại nạn trước. Như Montgomery diễn tả: “Sự cuối
cùng của một bạo chúa vô đạo, phải có mặt tích cực của nó là phước hạnh của người
ngay lành”.
“3Những kẻ khôn sáng sẽ được rực rỡ như sự sáng trên vòng khung; và những kẻ
dắt đem nhiều người về sự công bình sẽ sáng láng như các ngôi sao đời đời mãi mãi”.
Sau khi số người công chính sống lại, việc trung tín làm chứng nhân của họ sẽ được ban
thưởng. Điều có ý nghĩa là sách đã không chép gì về việc trừng phạt kẻ gian ác cả. Sự
sống lại của họ sẽ không xảy ra trước một ngàn năm sau đó, theo Khải Huyền 20:1-15
và cuộc phán xét cuối cùng trước toà án lớn màu trắng, sẽ gồm luôn việc phán xét những
kẻ gian ác đã chống lại Đấng Christ khi Ngài tái lâm, và sẽ bị hủy diệt theo 19:17-21.
Điểm chính yếu của Khải huyền 20 là các thánh đồ, dầu đang còn sống hay đã qua đời
đều có trông mong được phần thưởng đầy vinh dự, lúc cơn đại nạn kết thúc, và Đấng
Christ tái lâm.
Căn cứ vào câu 2, chúng ta được biết là họ sẽ được sự sống đời đời. Như Young
vạch rõ: “Đây là lần đầu tiên từ ngữ nầy xuất hiện trong Cựu Ước”. Thêm vào việc nhận
được sự sống đời đời, những người sống lại để được sống đời đời đó còn được nhận
phần thưởng đầy vinh quang nữa. Họ được mô tả là “khôn sáng” ở chỗ có thể nhìn xuyên
suốt qua sự vô tín và gian ác của thế hệ họ để đặt lòng tin quyết vào các giá trị vô hình
của đức tin họ. Họ cũng đã ăn ở cư xử thật khôn ngoan sáng suốt, nghĩa là, họ đã biết
vâng lời Đức Chúa Trời. Vì lý do đó, phần thưởng của họ, ấy là họ sẽ sáng rỡ như ánh
hào quang của thiên đàng và thực hiện cùng một chức năng là “rao truyền sự vinh hiển
của Đức Chúa Trời” (Thi Thiên 19:1). Trong một vế đối tự nhiên của văn chương Hi-
bá-lai, họ được mô tả là đã “dắt đem nhiều người về sự công bình”. Phần của những
người đã gây ảnh hưởng tốt trên người khác để đưa họ đến chỗ cũng có đức tin, cũng sẽ
chói sáng như các ngôi sao đời đời mãi mãi. Ở phần bối cảnh, là những câu đề cập đặc
biệt sự kiện “những kẻ khôn sáng trong dân sẽ dạy dỗ nhiều người” (Đa-ni-ên 11:33),
đã ứng nghiệm hồi thế kỷ thứ 2 TC, và câu đề cập “những kẻ khôn sáng” trong 11:35,
“4Còn như ngươi, hỡi Đa-ni-ên, ngươi hãy đóng lại những lời nầy, và hãy đóng
ấn sách nầy cho đến kỳ cuối cùng. Nhiều kẻ sẽ đi qua đi lại, và sự học thức sẽ được thêm
lên”.
Sau khi từng trải được một phần mặc khải có tầm rộng bao la - bắt đầu với các
vua Ba-tư, mở rộng đến giai đoạn Ma-ca-bê, rồi nhảy vọt sang kỳ sau rốt và cơn đại nạn,
gồm có sự sống lại và phần thưởng cho người công chính - bây giờ Đa-ni-ên được dạy
phải “đóng lại những lời nầy, và hãy đóng ấn sách nầy”. Câu nầy vạch rõ rằng phần mặc
khải ở đây, tuy đã soi sáng và trấn an chính Đa-ni-ên, vốn không nhằm trước nhất là giải
thích các biến cố ấy cho chỉ một mình ông mà thôi. Trước nhất, những lời tiên tri đã
được mặc khải đó phải được ứng dụng cho những người sống “trong kỳ cuối cùng”. Thật
vậy, toàn thể phần mặc khải, cả đến các phần đã ứng nghiệm cho đến 11:35 đều nhằm
mục đích giúp đỡ những người muốn trông cậy vào Đức Giê-hô-va khi gặp hoạn nạn
vào cuối thời đại nầy. Điều rất có ý nghĩa, là cho đến thế kỷ thứ hai mươi nầy, tuy hai
mươi lăm thế kỷ đã trôi qua, lời tiên tri của Đa-ni-ên chưa bao giờ thích hợp hơn cho
việc tìm hiểu diễn tiến của lịch sữ và các biến cố hãy còn chờ đợi để sẽ xảy ra trong
tương lai.
“5Bấy giờ, ta, Đa-ni-ên, nhìn xem, và nầy, có hai người khác đang đứng, một
người ở bờ bên nầy sông, một người ở bờ bên kia. 6Một người hỏi người mặc vải gai
đang đứng ở trên nước sông, rằng: Đến cuối cùng những sự lạ nầy được bao lâu? 7Ta
nghe người mặc vải gai đứng trên nước sông, người cất tay hữu và tay tả lên trời, chỉ
Đấng hằng sống mà thề rằng sẽ trải qua một kỳ, những kỳ, và nửa kỳ; và khi quyền của
dân thánh đã bị tan tác hết, thì các sự nầy đều xong. 8Ta, Đa-ni-ên, nghe những điều đó,
nhưng ta không hiểu. Và ta nói rằng: Lạy chúa tôi, cuối cùng các sự nầy sẽ ra thể nào?”
Đến phần kết thúc khải tượng nầy, Đa-ni-ên vẫn còn đứng trên bờ sông như ở chương
10 để quan sát cảnh tượng, thì nhận thấy có hai người, mỗi người trên một bờ sông, Ta
có thể cho rằng con sống nầy là sông Hi-đê-ke (10:4) nghĩa là sông Ti-gơ-rơ theo tên
hiện đại hơn. Hai người mà Đa-ni-ên theo dõi đó có thể là hai thiên sứ, tương hợp với
từng trải trong chương 10 của ông. Một trong hai người đó hỏi một câu hết sức rõ ràng
nhờ vào ánh sáng của những lời tiên tri quan trọng vừa được nói ra trước đó. “Đến cuối
cùng những sự lạ nầy được bao lâu?” Câu 7 có đề cập “người mặc vải gai” rõ ràng chính
là người từng được mô tả trong hai câu 5 và 6 của chương 10.
Đa-ni-ên theo dõi, thì thấy người mặc vải gai đưa tay trái lên trời “chỉ Đấng hằng
sống” mà thề. “Đấng hằng sống” chắc ám chỉ Đức Chúa Trời. Rồi vị ấy bảo rằng yếu tố
thời gian thuộc về kỳ sau rốt, gồm “một kỳ, những kỳ và nửa kỳ”. Tuy vị thiên sứ thứ
hai không tham gia phần mặc khải nầy, điều nầy rất có thể là để phù hợp với quan niệm
về một nhân chứng để xác lập một quan điểm (Phục Truyền Luật Lệ Ký 19:15; 31:28;
II. Cô-rinh-tô 13:1). Sự kiện người phát biểu ý kiến đưa cả hai tay lên trời cho thấy tính
cách nghiêm trọng của lời thề. Bình thường thì chỉ đưa một tay lên mà thôi (Sáng Thế
Ký 14:22; Phục Truyền Luật Lệ Ký 32:40). Rõ ràng là thông điệp nầy đã được ban truyền
nhân danh Đức Chúa Trời, và trong một phạm vi nào đó, cũng tương tự với tư tưởng
trong 32:40.
“9Người trả lời rằng: Hỡi Đa-ni-ên, hãy đi; bởi vì những lời nầy đã đóng lại và
đóng ấn cho đến kỳ cuối cùng. 10Sẽ có nhiều kẻ tự làm nên tinh sạch và trắng, và được
luyện lọc. Nhưng những kẻ dữ sẽ cứ làm điều dữ; trong những kẻ dữ chẳng ai sẽ hiểu;
song kẻ khôn sáng sẽ hiểu. 11Từ kỳ trừ bỏ của lễ thiêu hằng dâng và sự gớm ghiếc làm
cho hoang vu sẽ được lập lên, thì sẽ có một phàn hai trăm chín mươi ngày. 12Phước thay
cho kẻ đợi, và đến một ngàn ba trăm ba mươi lăm ngày! 13Còn ngươi, hãy đi, cho đến
có kỳ cuối cùng. Ngươi sẽ nghỉ ngơi; và đến cuối cùng những ngày, ngươi sẽ đứng trong
sản nghiệp mình”.
Trong câu 9, một lần nữa, Đa-ni-ên được cho biết là điều đã mặc khải cho ông sẽ
không được thấu hiểu trọn vẹn cho đến kỳ sau rốt. Đa-ni-ên đã không bị quở trách vì
tánh hiếu kỳ của ông, và đặt vấn đề như vậy chỉ là tự nhiên mà thôi. Tuy nhiên, chủ đích
đầu tiên của mặc khải là dành cho những người sẽ sống vào kỳ sau rốt. Phần giải nghĩa
của lịch sử xác nhận cho lời tiên tri, và lời tiên tri đã ứng nghiệm là cần thiết, trước khi
có thể hiểu được những lời tiên tri cuối cùng.
Tuy nhiên, nhằm trả lời cho một phần câu hỏi của Đa-ni-ên liên hệ đến mục đích
của các biến cố đã được mặc khải, trong câu 10, nhà tiên tri được cho biết rằng kỳ sau
rốt sẽ đưa đến kết cuộc gồm hai phương diện: thứ nhất, một hậu quả của nó là thanh lọc
các thánh đồ, và thứ hai, nó sẽ làm bộc lộ đặc tính thật sự gian ác của lòng dạ con người.
Cũng vậy, người “khôn sáng” sẽ có thể và “sẽ hiểu” được các biến cố của kỳ sau rốt,
còn kẻ dữ, kẻ ác, thì sẽ chẳng một ai hiểu được. Muốn thấu suốt các lời tiên tri thì người
ta bị đòi hỏi phải có cái nhìn xuyên suốt thuộc linh đặc biệt và lời dạy bảo của Đức
Thánh Linh. Tuy qua suốt Kinh Thánh, kỳ sau rốt đã được mô tả hết sức chi tiết, rõ ràng
là kẻ ác, kẻ dữ sẽ không thể nào lợi dụng được phần mặc khải thiên thượng đó; nhưng
lẽ tất nhiên, đó chính là nguồn an ủi và chỉ dẫn cho những người thật sự tin cậy Đức
Chúa Trời. Sự mặc khải thiên thượng thường được ban cho theo một cách thức là giấu
kín đối với kẻ dữ, kẻ ác, và chỉ có những người có tâm trí thuộc linh mới thấu hiểu mà
thôi.