Professional Documents
Culture Documents
Mục lục
Chương 2 – Quy Luật Quy Tắc Cơ Bản Của Đoán Quẻ...................................................................2
Chương 3 – Lý Luận Bốn Tầng Thứ Của Hào..................................................................................8
Ứng dụng cụ thể của bốn tầng thứ hào....................................................................................8
Chương 4: Phán Đoán Quyền Sinh Khắc Của Hào........................................................................12
4.1. Hào phùng xung đối với quyền sinh khắc ảnh hưởng.........................................................12
4.1.1. Cùng tầng thứ hào tương xung....................................................................................12
4.1.1.1. Nhật kiến cùng nguyệt kiến tương xung..............................................................12
4.1.1.2. Hào động cùng hào động tương xung..................................................................13
4.1.1.3. Hào tĩnh cùng hào tĩnh tương xung......................................................................13
4.1.1.4. Hào biến cùng hào biến tương xung....................................................................13
4.1.2. Hào tầng thứ cao xung hào tầng thứ thấp....................................................................13
4.1.2.1. Nhật, Nguyệt kiến xung hào biến........................................................................13
4.1.2.2. Nhật, nguyệt xung hào động................................................................................15
4.1.2.3. Nhật, Nguyệt kiến xung hào tĩnh.........................................................................15
4.1.2.4. Hào biến xung hào động trong quẻ chủ...............................................................17
4.1.2.5. Hào biến xung hào tĩnh trong chủ quẻ.................................................................19
4.1.2.5. Hào động xung hào tĩnh.......................................................................................19
4.2. Hào phùng hợp đối với ảnh hưởng của quyền sinh khắc....................................................19
4.2.1. Lục hợp........................................................................................................................20
4.2.2. Tam hợp.......................................................................................................................22
4.3. Nhập Mộ đối với quyền sinh khắc ảnh hưởng....................................................................25
4.3.1. Nhập mộ.......................................................................................................................25
4.3.2. Xuất mộ.......................................................................................................................28
4.4. Không vong đối với quyền sinh khắc ảnh hưởng................................................................33
4.5. Phán đoán tiêu chuẩn vượng suy cùng quyền sinh khắc của hào quẻ.................................38
4.5.1. Xác định hào tĩnh trong quẻ có hay không quyền sinh khắc.......................................38
4.5.2. Phán định hào động trong quẻ có hay không quyền sinh khắc....................................40
4.5.3. Phán đoán quyền sinh khắc của hào biến....................................................................41
Mỗi một vị dự trắc sư tựu giống như một phán định viên, phán định viên cấp quốc
tế hay cấp quốc gia đẳng cấp khác biệt, đều có căn cứ nên phán định viên nắm
chắc quy tắc quy luật cơ bản của thi đấu để ít nhiều sẽ cùng trình độ thuần thục
đến để đánh giá. Trình độ cao thấp của dự trắc sư, mấu chốt là xem độ chuẩn
xác cao thấp của dự đoán, bạn nắm chắc đoán quẻ cơ bản quy luật, quy tắc càng
nhiều, đều có thể vận dụng linh hoạt thông thạo, độ chuẩn xác của đoán quẻ
cũng càng cao.
Tại trong lục hào dự trắc, có trên hàng trăm hàng ngàn loại quy luật, quy tắc bên
trong đoán quẻ, mỗi lần đoán một quẻ đều được dùng trên hàng chục loại quy
luật, quy tắc, nếu như trong đó có một loại quy tắc nhỏ bạn không nắm chắc tốt,
vậy thì quẻ này sẽ không có phương pháp đoán xuống tới được, miễn cưỡng bỏ
qua đoán chỉ là che đậy, là phỏng đoán, không phải trên ý nghĩa chân chính của
dự đoán .
Vì vậy nắm chắc quy luật, quy tắc cơ bản của đoán quẻ là điều kiện hàng đầu để
đoán chuẩn quẻ, vì vậy tác giả đem tại chương này cùng trong chương tiết sau
không ngừng tỉ mỉ trình bày quy luật, quy tắc cơ bản giữa lục hào, cố gắng cung
cấp cho độc giả một nhận thức rõ ràng. Đối với một số quy tắc, quy luật có tranh
luận, tác giả dựa vào kinh nghiệm cá nhân, cũng đưa ra cách xem của chính
mình, còn như chính xác hay không tôi cho rằng: thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất
để kiểm nghiệm chân lý, không nên mê tín ở cổ thư và danh nhân. Phải hấp thu
để soi lại, dùng thực tiễn đi nghiệm chính.
Hình, xung, hợp, hại thực chất cũng là một loại hình thức biểu hiện đặc thù của
sinh khắc, bất kể tại trên tứ trụ hay lục hào dự trắc học, đều là căn cứ ngũ hành
sinh khắc chế hoá hình xung hợp hại quy luật cơ bản đến thể hiện giữa ngũ hành
để suy đoán sinh khắc cát hung. Tất cả sách mệnh lý lục hào đều giảng sinh khắc
chế hoá hình xung hợp hại, nhưng đến cùng ứng dụng ra sao, toàn bộ các sách
không tỉ mỉ nói rõ, càng là tại trong lục hào dường như hình và hại không có quá
lớn tác dụng, giống nhau chỉ dựa sinh khắc khán, kỳ thực hình hại cũng cần
Thường là giữa ngũ hành có hình, xung, hợp, hại những quan hệ đặc thù này,
đều là có đủ ưu tiên sinh quyền, tại hào trong cùng một tầng thứ, đầu tiên luận
hợp cùng xứng tiếp đó lại luận hình, tiếp theo luận hại, sau cùng mới luận
không có đặc thù quan hệ giữa ngũ hành sinh khắc. Đây là một nguyên tắc
lớn. Khi hào thuộc tầng thứ bất đồng, những sinh khắc thứ tự khiến phát sinh
thay đổi, dưới tầng thứ sinh khắc chế hoá hình xung hợp hại giữa các hào đều
nhường chỗ tại hào tầng thứ trên.
Trong quẻ hào thế Ngọ hoả động, đến sinh hào thượng Phụ Mẫu Tuất Thổ, cũng
có thể lấy sinh hào sơ Phụ mẫu Thìn thổ. Mà thực tế trên Quan quỷ Ngọ Hoả tuy
khoảng cách Phụ mẫu thìn thổ gần, nhưng sinh thìn thổ lực lượng đều không lớn
bằng sinh tuất thổ lực lượng. Vì sao? Bởi vì Ngọ và Tuất có quan hệ bán hợp, có
ưu tiên sinh khắc quyền, mà Ngọ và Thìn không có quan hệ đặc thù. Ngọ, Tuất
có bán hợp quan hệ giống như có quan hệ thân thuộc, bạn bè tốt quan hệ, tự
nhiên sẽ mang cái tốt nhiều cấp cho Tuất thổ, mà Thìn thổ và Ngọ hoả không có
quan hệ đặc thù nào, giống như quan hệ bình thường hoặc không quá quen
thuộc và cơ bản là người không quen biết.
Vì vậy hào thế nếu như có một vật giống nhau phải tặng cho người, mà lại có hai
người đều cần vật này, theo lẽ thường đoán vật của hào Thế tất nhiên là cấp cho
người có quan hệ đặc thù với chính mình, ví dụ như người thân, bằng hữu… mà
người không quen thuộc, không có quan hệ nào, sẽ không có được, trừ phi là
hào Thế nhiều đồ vật, cũng là nói rằng rất vượng, cũng có thể lấy để cấp cho
Thìn thổ một chút, nhưng chỉ cần có Tuất thổ tồn tại, Thìn thổ đạt được chỗ tốt
thường là so với Tuất thổ ít hơn. Như không có Tuất Thổ, chỉ có Thìn thổ thì tự
nhiên nơi tốt sẽ được cấp cho Thìn thổ. Đây là sinh, nếu như là tương khắc quan
hệ, tự nhiên là trước luận đặc thù quan hệ đó.
Quẻ này hào sơ Thê tài Sửu thổ động, khắc hào thượng Phụ mẫu Tý thủy lực
lượng lớn, khắc Phụ mẫu Hợi thủy lực lượng nhỏ. Vì Tý và Sửu có quan hệ hợp,
mà Sửu và Hợi không có đặc thù quan hệ, vì vậy khi phụ mẫu Tý thủy là dụng, sẽ
bị tượng hợp trú, như phụ mẫu tý thủy nhược, thì bị hợp khắc, không có quyền
sinh khắc. (Còn như Tị Thân hợp, Thân vượng lấy hợp luận, Thân nhược lấy bị
khắc luận, lúc này Thân kim mất đi quyền sinh khắc, Mão Tuất hợp cũng giống
vậy.)
Như đoán cạnh tranh quan vị, tại không xem xét các nhân tố điều kiện khác, quan
vị này ứng với ai được vậy? Trong quẻ, Quan quỷ Sửu thổ động, là dưới tình
huống của Dụng thần, Quan này nhất định là Ứng phương đạt được, mà cùng
hào Thế vô duyên. Bởi vì Quan quỷ Sửu thổ và hào Ứng có quan hệ hợp, mà
cùng hào Thế không có đặc thù quan hệ, tự nhiên trước tiên luận hợp. Quan hợp
hào Ứng, Quan cùng hào Thế vô duyên, đây là một điểm rất quan trọng.
Có độc giả sẽ hỏi, Quan quỷ Sửu thổ khoảng cách cùng hào Thế gần, khoảng
cách với hào Ứng xa, cần phải lấy cái gần là trước tiên mới đúng? Tại trong lục
hào, hào động cùng các hào khác là không phân xa gần, bởi vì nó là hào
động sẽ có tính lưu động, có thể vận động trên bất kỳ hào nào, cùng tất cả hào
Trong quẻ, hào Tý, hào Sửu, hào Mão động, có Tý Sửu hợp, có Tý Mão hình,
đến cùng luận cái nào? Vì hợp xung tại trước, vì vậy đầu tiên luận hợp xung,
nên lấy Tý Sửu hợp đến luận, Tý thủy không hình Mão mộc, cũng sẽ là nói Tý
thủy không thể chủ động sinh Mão mộc, nhưng bất đồng ở Mão mộc không hình
Tý thủy. Mão mộc hình Tý thủy, là Mão mộc chủ động trộm tiết ra Tý thủy lực
lượng, khiến Tý thủy giảm lực. Tý Sửu hợp, kết quả cũng là Tý thủy bị hợp khắc
giảm lực. Quẻ này nếu như Sửu thổ là hào tĩnh, thì trước (đầu tiên) luận Tý Mão
hình, Tý thủy chủ động sinh Mão mộc, Mão mộc cũng tích cực trộm tiết lực lượng
của Tý thủy. Tại thực tế đoán trong quẻ sẽ có dạng này tin tức: như hào Tý, hào
Sửu, hào Mão đều động, là hào Tài Tý thủy cùng Sửu hợp còn bị Mão mộc hình.
Nói rõ tiền tài này bị huynh đệ nơi đại biểu là người, sự, vật hợp mất (bị lừa) là
chính mình chủ động cấp cho huynh đệ đó. Mão mộc hình Tý thủy, Mão mộc chủ
động trộm rút Tý thủy, Tý thủy bị động sinh Mão mộc. Nói rõ có một bộ phận tiền
tài hao tổn là bị hào Quan Mão mộc đại biểu là người, sự, vật chủ động phải mất
đi, không là chính mình chủ động cấp đi, chính mình không nguyện ý cầm đưa
cho hào Quan đó, không là chủ động nắm lấy đưa cho hào quan đó, Tựu giống
như hàng ngày trong sinh hoạt, bị động hướng phải nhà nước nộp thuế, bị động
cầm tiền giao cho chồng… Khán là đoán những việc gì, khán Quan quỷ tại trong
việc cụ thể nơi đoán đại biểu cái gì? Cũng nghĩa là đối ứng là thế nào người, sự,
vật, lấy điều này suy ra tiền tài là cấp cho ai, bị người thế nào, sự, vật hao phí đi.
Kỳ thực giữa ngũ hành có sinh khắc chế hoá hình xung hợp hại, đều không đơn
thuần chỉ là một loại quan hệ sinh khắc, cũng đã cho thấy giữa nhân thế những
nội hàm của sự vật này. Như đã nói ở trên thì tin tức của tượng cũng đều theo
ngũ hành sinh khắc chế hoá hình xung khắc hại đây là một góc độ chắt lọc ra
Sinh khắc chế hoá hình xung hợp hại, tức phải luận nó thực chất là một loại quan
hệ sinh khắc, cũng phải càng sâu một tầng để khán đến cái khác đồng dạng đã
cho thấy một đăng tin tức của tượng. Chỉ đơn giản luận sinh khắc sẽ có một số
quá đơn giản, quá hạn hẹp. Tục ngữ nói đến rất hay, sư phụ đưa vào cửa, tu
hành tại cá nhân. Dạy hay không dạy là vấn đề của sư phụ, học hay không học,
có thể hay không thể học một biết mười linh hoạt vận dụng, cái đó sẽ là vấn đề
của chính đồ đệ. Học dịch, không thể đơn giản dựa vào sách vở, chỉ dựa vào sư
phụ từng câu từng chữ truyền, hoàn toàn bón miệng, đem đạo lý đưa cho bạn
một cách thấu đáo, phần còn lại hoàn toàn dựa vào tự thân đi ngộ!
Hợp và hại có thế nào khác biệt? Ngoài ra có lần lượt ưu tiên, nó thực chất hai
cái đều là một loại quan hệ sinh khắc, nhưng, đồng dạng cũng cho thấy một loại
tượng tin tức, như Sửu Ngọ tương hại, thực chất là Ngọ hoả sinh Sửu thổ, hoặc
nói Sửu thổ trộm rút lực của Ngọ hoả. Là một loại tượng thế nào vậy? Tựu là ta
Ngọ hoả cấp cho bạn Sửu thổ chỗ tốt đi giúp bạn, nhưng không quá cam tâm tình
nguyện. Tương hại mà! Chủ không quá thân thiện, giống như bình thường tôi có
thể đem tiền cho bạn vay, hoặc giúp đỡ bạn, nhưng tôi không quá tình nguyện,
tôi phải nói vài câu với bạn.
Mà Ngọ và Mùi tương hợp tuy cũng là Ngọ hoả sinh Mùi thổ, nhưng thể hiện
tượng tin tức sẽ không giống nhau; Ngọ hoả như bất động, vậy thì Ngọ hoả tình
nguyện cầm chỗ tốt cấp cho Mùi thổ, không chút oán thán, thậm chí còn sẽ nói:
tiền bạn cứ cầm hết đi dùng, không đủ lại đến lấy, hiển thị một loại tin tức đặc biệt
thân thiện, tình nguyện, chủ động, bởi vì là hợp mà. Hợp có hợp tốt, có ý tình
nguyện. Cái khác như hình, xung các đại tượng đều có thể đi liên tưởng, tại đây
sẽ không từng cái nói ra chỉ tiết.
Nói tóm lại chỉ cần nhiều liên tưởng đi ngộ, rất nhanh sẽ có thể đề cao lên một
tầng thứ, sẽ không nắm sinh khắc chế hoá hình xung hợp hại chỉ cho rằng một
loại đơn thuần của ngũ hành sinh khắc. Xem xong chương này các bạn sẽ có
cảm tưởng thế nào?
Để độc giả xem thuận tiện, càng sâu hơn nhận thức về 3 tầng thứ của hào của
Lý lão sư, tác giả tại chương này tuy có một số trình bày lặp lại, chủ yếu là cấp
những độc giả không đọc qua các tác phẩm của Lý lão sư một nhận thức lý luận
từ đầu đến cuối, để tránh hết mất cảm xúc, khiến cho một bộ phận độc giả có thể
càng thích lý giải nội dung tư tưởng của cuốn sách này. Tóm lại một câu, độc giả
là thượng đế, mục đích sáng tác của cuốn sách này là khiến mỗi một vị độc giả
đều có thể theo đó được lợi.
Nguyên tắc sinh khắc giữa các hào là: hào tầng thứ trên có quyền sinh khắc
hào tầng thứ dưới, mà hào tầng thứ dưới không có quyền sinh khắc hào tầng thứ
trên, hào tầng thứ trên đối với hào tầng thứ dưới là quyền chủ động sinh khắc.
Tại trong quái cùng tầng thứ hào ở giữa có thể tương hỗ phát sinh tác dụng sinh,
khắc, xung, hợp. Khi có hào tầng trên can dự, hợp xung sinh khắc ở giữa chúng
nó đều nhường ở tại hào tầng thứ trên, hào cùng thuộc tầng thứ tương sinh
tương khắc là một loại kiềm chế và lưu thông, ai cũng không tổn thương được ai,
chỉ có khi song phương lực lượng tương quan quá chênh lệch hoặc nhiều hào
động, cùng hào động hình thành tam hợp cục đến khắc một cái hào động đơn
độc, hào động này mới có thể bị chế trụ mà bị thương.
Nắm chắc lý luận bốn tầng thứ của hào, có thể chọn ra trong quẻ hào ngũ hành ở
giữa tương sinh tương khắc thứ tự, ngăn ngừa rơi vào trong ngũ hành tuần hoàn
ác tính.
Ví dụ: Chị của một cô gái ra bên ngoài trị bệnh cát hung thế nào? Có thể hay
không an toàn đạt được mục đích?
Quẻ này dụng thần là Huynh đệ Tý thủy. Trong quái hào Thế Tý thủy và hào động
Thân kim cùng Quan quỷ Thìn thổ hình thành tam hợp cục; còn có Quan quỷ
Thìn thổ động xung Tuất thổ; Nguyệt lệnh Mão mộc còn hợp Quan quỷ Tuất thổ;
nhật kiến Tuất thổ còn xung Quan quỷ Thìn thổ; Hào biến Tị hỏa sinh Quan quỷ
Thìn thổ, còn hợp hào Phụ mẫu Thân kim, còn nhập nhật mộ… Những quan hệ
rắc rối phức tạp làm thế nào duỗi thẳng ra? Dựa vào lý luận bốn tầng thứ của
hào, những vấn đề này sẽ giải quyết dễ dàng.
Nguyên trong quẻ có Thân Tý Thìn tam hợp cục, hào biến Tị hỏa hợp Thân kim
thành lập hay không? Như Thân Tý Thìn thành lập, có bị thành tượng hợp trú,
người sẽ không thể đi.
Khán quẻ, đầu tiên khán nhật, nguyệt đối với tác dụng sinh khắc xung hợp của
quẻ hào. Vì nhật, nguyệt là đệ nhất tầng thứ hào trong quẻ, tất cả hợp xung
quan hệ đều nhường tại nhật nguyệt. Vì vậy bên trong quẻ có Thân Tý Thìn tam
hợp cục, nhưng phải nhường chỗ cho nhật kiến Tuất xung Quan quỷ Thìn thổ, đã
phá đi tam hợp cục, Huynh đệ Tý thủy Dụng thần không bị hợp trú, Đoán kỳ có
thể đi thành công.
Người có thể đi thành công, việc này đại tượng đã định, bên dưới khán người an
toàn hay không? người là an toàn hay không, quan trọng xem Dụng thần Huynh
đệ Tý thủy thụ sinh thụ khắc trình độ, là có cứu hay không?
Dụng thần khắc ngưng Tý thủy tại nguyệt hưu tù, tại nhật thụ khắc, nói rõ hiện tại
cảnh ngộ rất không tốt, hoàn cảnh bên ngoài đối cô ấy bất lợi (nhật nguyệt đại
biểu ngoại giới hoàn cảnh). Đây là nguyên nhân bên ngoài, chính là phản ánh
chị gái của cô ấy bệnh rất nặng là một sự thật. Đến mức có thể hay không có cứu
có an toàn hay không, quan trọng phải xem nguyên nhân bên trong, ngay cả cơ
chế nội bộ của quẻ. Hiện trong quái, Kị thần Thìn thổ động, còn xung khởi Quan
quỷ Tuất thổ, Tuất thổ vì xung mà ám động, nhưng may mắn trong quái có
Trong quẻ Quan quỷ Tuất thổ ám động, nhưng còn bị nguyệt hợp Mão mộc hợp
trú, Thìn tuất xung nhường chỗ cho đệ nhị tầng thứ hào Mão Tuất hợp, xem đến
Tuất thổ do ám động còn bị nguyệt kiến hợp trú, giảm lực, mao bệnh của Tuất thổ
được giải quyết. Hào biến Tị hỏa do sinh bản vị hào động Thìn thổ, nên đối với
Thân kim hợp lực không lớn. Càng quan trọng một điểm là Tị hỏa nhập nhật mộ,
nguyệt kiến là đệ nhất tầng thứ hào có quyền lực ưu tiên thu hỏa nhập mộ, vì vậy
Tị hỏa không thể hợp trú Thân kim. Như vậy Thân kim tại trong quái cùng nhật
nguyệt toàn bộ đều không khắc ngũ hành của nó, Thân kim hoàn toàn có thể
thông Thìn thổ khắc Tý thủy quan, sinh Huynh đệ Tý thủy. Dụng thần nguy mà có
cứu ứng, và còn lâm thái tuế, nên người sẽ bình an đến nơi, không đến nỗi nguy
đến sinh mệnh.
Ngay lúc đó, tôi phân tích trọn cái quẻ sau đó đoán chị của cô ấy sinh mệnh sẽ
không nguy hiểm, lại sống mười năm cũng không việc gì. Người cầu đoán nói:
“Không quá có khả năng, bệnh viện kiểm tra là ung thư ruột giai đoạn cuối, buổi
sáng ngồi xe đi, đến thạch gia trang tìm thầy khí công chữa bệnh, trước khi đi
đau không chịu nổi, còn thình lình té ngã, chúng tôi đều lo lắng, người đến không
được thạch gia trang sẽ có lo âu về sinh mệnh… bạn cho là không chuẩn!” Tôi
nói: “tôi chỉ là căn cứ quẻ lý dự đoán, đến nỗi kết quả như nào ngày sau tự sẽ có
nghiệm chứng”. Trên thực tế, chị gái của cô ấy bình an đi đến thạch gia trang.
Sau đó còn phản hồi: chị gái của cô ấy bị chuẩn đoán nhầm là ung thư ruột, ở
năm 98 phẫu thuật trị khỏi.
Ứng dung bốn tầng thứ của hào lấy giải quyết hợp và xung tương hỗ quan hệ
phá giải. Dưới tình huống nào luận hợp giải xung? Dưới tình huống nào là xung
giải hợp? dưới tình huống nào gọi hai xung một? Dưới tình huống thế nào không
tính hai xung một hoặc ba xung một? Dưới tình huống nào là tranh hợp?… một
số vấn đề vướng mắc không rõ. Độc giả chỉ cần ghi nhớ: trong quẻ cùng tầng thứ
hào hợp xung đều nhường chỗ cho hợp và xung của tầng thứ hào trên, đây là
mọt quy tắc quan trọng. Nguyệt kiến và hào quẻ xung, nhật hợp có thể giải.
Nguyệt kiến và quẻ hào tương hợp, nhật xung có thể giải, nói trắng ra, chỉ cần
ghi nhớ thành thứ tự, sẽ có thể hiểu là xung giải hợp, hay là hợp giải xung.
Tại phương diện này Lý Hồng Thành đại sư tại <<Cụ thể đoán lục hào giảng
nghĩa>> trình bày và phân tích mười phần thấu triệt, độc giả có thể tử tế nghiên
cứu. Tại đây không cần từng cái đưa lên ví dụ, vì độc giả có duyên phận mua
sách của tôi, đại đa số đều đọc qua <<giảng nghĩa>> của Lý lão sư, nếu như lại
viết nội dung cùng Lý lão sư tương tự không có nơi sâu sắc hơn, sẽ không hề có
ý nghĩa, làm độc giả hao tiền xằng bậy. Chúng ta học dịch đều không dễ dàng, đa
số là trải qua gập ghềnh, sinh hoạt điều kiện túng quẫn khốn khổ, mới cùng mệnh
lý kết duyên, tiền tài vốn có sẽ không dư giả, nếu như lại khiến bọn họ bị lừa,
chẳng khác gì họa vô đơn chí, tình lý bất dung! Vì vậy tác giả viết bản này
<<tường chân>> khi nỗ lực đột phá và đi đến chỗ sâu sắc hơn, vì vậy muốn xem
cuốn sách này tốt nhất trước tiên xem <<Giảng nghĩa>> của Lý lão sư, tin tưởng
các bạn đối với sách này sẽ có lý giải càng tốt cùng tiếp thu những kiến thức đã
học.
4.1. Hào phùng xung đối với quyền sinh khắc ảnh
hưởng
Chúng ta hiểu, hào tương xung có hai loại hình thức: tức cùng tầng thứ hào
tương xung và hào tầng thứ cao xung hào tầng thứ thấp. Do đó hào tương xung
hình thức bất đồng, bản thân của hào vượng suy bất đồng, đối với hào bị xung
quyền sinh khắc ảnh hưởng là bất tương đồng.
MTC chú:
+ Cần làm rõ nguyên nhân: Hào Thổ tương xung song phương đều tăng
lực. Nguyên gốc: 土爻相冲双方均增力.
4.1.2. Hào tầng thứ cao xung hào tầng thứ thấp
Hào tầng thứ cao xung hào tầng thứ thấp có sáu loại tình huống:
+ 1, Nhật, nguyệt kiến xung biến hào.
+ 2, Nhật, nguyệt kiến xung hào động.
+ 3, Nhật, nguyệt kiến xung hào tĩnh.
+ 4, Hào biến xung hào tĩnh trong quẻ chủ.
+ 5, Hào biến xung hào động.
+ 6, Hào biến xung hào tĩnh.
MTC chú:
+ Ví dụ hào Tý (quẻ chủ) động biến Thân (quẻ biến), thì hào Thân là hào biến.
+ Ví dụ tháng Dần, hào Tý biến Thân, hào biến Thân bị tháng Dần xung tán (tháng Dần
thuộc tầng đệ nhất, hào biến là tầng đệ nhị, nên bị tầng cao hơn xung tán)
Ví dụ: ngày Giáp Tuất, tháng Dần, đoán hợp đồng có thể hay không ký thành
công? Quẻ Sơn lôi di, động hào 4, 5 biến Thiên Lôi Vô Vọng.
Đoán hợp đồng có thể hay không ký thành, một là xem Thế hào vượng suy, hai là
xem Ứng hào vượng suy, ba là xem Thế Ứng quan hệ, bốn là xem Phụ mẫu hào
vượng suy. Tổng hợp bốn phương diện này đến luận đoán việc này có thể thành
hay không.
Vượng suy của hào Thế đại biểu thực lực của bản thân, đại biểu bản thân đối
với thái độ ký hợp đồng, nỗ lực trình độ, hào Thế đắc nhật kiến bang phù còn
phát động, hóa Ngọ hỏa hồi đầu sinh, nói rõ bản thân có thực lực, một phát động
nói rõ đối với việc này áp dụng tích cực chủ động thái độ, có đủ điều kiện thành
sự tối thiểu.
Hào Ứng đại biểu đối phương, tại nguyệt hưu tù, tại nhật thụ khắc, một là có thể
đối phương không có thực lực, hai là đối phương áp dụng thái độ tiêu cực trong
việc ký hợp đồng, đối với việc này không có lòng tin, không có thành ý. Tóm lại
đây là hai phương diện tất có một, đối phương không tích cực việc này sẽ khó
thành công, chỉ hào Thế một đầu mong mỏi không được.
Hào Phụ mẫu đại biểu bản hợp đồng, hào Ứng lâm hào Phụ mẫu đại biểu đối
phương, hào năm Phụ mẫu là hợp đồng, hào Phụ mẫu tuy hưu tù, nhưng động
Nhật nguyệt kiến xung hào biến, hào biến bị xung thoát, xung tán, khiến không
thể phát huy tác dụng bình thường, đối với động tĩnh trong quẻ chủ không có
nhiều quyền sinh khắc.
Nguyệt, Nhật kiến [hào động vượng tướng] gọi là xung thoát, dựa vào giải pháp
kể trên có thể giải.
Nguyệt, Nhật kiến xung [hào động hưu tù] là xung tán, hào động vĩnh viễn không
có quyền sinh khắc, không thể giải.
Nguyệt kiến xung hào động không luận vượng suy đều là nguyệt phá. Nhưng
hào động vượng tướng hoặc tuy hưu tù nhưng hào động phùng nguyệt xung
không bị khắc, tại động hào trực nhật, hoặc phùng hợp với nhật, cũng có quyền
sinh khắc, ra khỏi tháng đó có quyền sinh khắc. Hào biến nguyệt phá cũng giống
như vậy.
Hào động hưu tù, còn bị chế, nguyệt phá vĩnh viễn không có quyền sinh khắc.
Nhật kiến xung hào tĩnh hưu tù có hai loại tình huống: Một chủng là chỉ xung
không khắc, một chủng là vừa xung vừa khắc.
Hào tĩnh hưu tù (tại nhật nguyệt kiến chỉ hưu tù đều không thụ khắc) nhật kiến chỉ
xung không khắc, xen vào giữa ám động cùng nhật phá là trạng thái giới hạn,
đến nỗi là ám động hay là nhật phá, xem trong quái động, biến hào ủng hộ hay
phản đối.
Như hào hưu tù tại nhật, nguyệt một mặt trở lên thụ khắc nhật kiến xung không
luận là chỉ xung không khắc, còn là vừa xung vừa khắc, hào này là nhật phá
không có quyền sinh khắc.
Hào tại nguyệt hưu tù gặp nhật thần vừa xung vừa khắc là nhật phá.
+ Sửu nguyệt, Dậu Nhật,hào Mão là nhật phá.
+ Tị nguyệt, Thân nhật, hào Dần là nhật phá.
Trên sách mệnh lý bất kỳ, không có trạng thái hào bị nhật xung giới hạn giữa ám
động cùng nhật phá, đều là hoặc cái này hoặc cái kia, không có trạng thái trung
gian, tại trong hiện thực rất nhiều sự vật đều là có tính hai mặt, trên khách quan
MTC chú: [hào tĩnh trực nhật] tức hào tĩnh lâm Nhật kiến, vậy là coi như
vượng.
Hào biến đối với bản vị hào động khi có quan hệ xung, hào biến chỉ cùng bản vị
hào động phát sinh tác dụng xung, KHÔNG lại cùng hào khác sản sinh ra sinh,
khắc, xung, hợp tác dụng. Bản vị hào động khi hưu tù, bị hào biến xung, mà xung
tán, mất đi quyền sinh khắc. Khi bản vị hào động vượng tướng, nếu như hào biến
đối với hào động chỉ xung không khắc, bản vị hào động giảm lực, nhưng còn có
Ví dụ: Ngọ nguyệt, Thìn nhật, đoán ra ngoài cầu tài có tiền hay không? Được quẻ
Lôi Phong Hằng, động hào 2,3 biến Lôi Địa Dự
Quẻ này hào Thế Dậu kim động hóa hồi đầu xung, Mão đối Dậu chỉ xung không
khắc, hào Thế Dậu kim chỉ là giảm lực, nhưng cẫn còn có quyền sinh khắc;
huống chi Nhật thần Thìn thổ sinh hợp Dậu kim, Mão Dậu xung nhường chỗ cho
Dậu Thìn hợp, này là hợp giải xung, hào Thế vượng tướng, không có mất đi
quyền sinh khắc, sẽ có điều kiện thành công, sẽ có năng lực đảm nhận tiền bạc.
Hào hai Phụ mẫu Hợi thủy động biến Tị hỏa hồi đầu xung, tuy chỉ xung không
khắc, nhưng Hợi thủy tại nguyệt hưu tù tại Nhật nhập mộ thụ khắc, Hợi thủy đã
không có quyền sinh khắc. Ở đây luận Hợi thủy nhập mộ, chỉ có khi Hợi thủy xuất
mộ, Tị hỏa mới có thể xung Hợi, Tị hỏa xung Hợi thủy hưu tù, xuất hay không
xuất mộ thì Hợi thủy đều không có quyền sinh khắc, Hợi thủy là Cừu thần mất đi
quyền sinh khắc, đối với cầu tài có lợi.
Trong quẻ hào Ứng Thê tài Tuất thổ, nhật xung là ám động sinh Thế, vì vậy đoán
cầu tài có thể được, nhưng có phản phúc, vì quái biến phản ngâm, chủ sự thể
phản phúc. Thực tế người này tại bên ngoài cầu tài phản phản phúc phúc, đến
đến đi đi, nhiều lần đi qua đi lại, sau cùng còn là được đến một số tiền khổ sở
kiếm được.
4.2. Hào phùng hợp đối với ảnh hưởng của quyền sinh
khắc
Tam hợp, lục hợp cục hợp mà KHÔNG HÓA luận là bán trú giảm lực, tạm thời
mất đi quyền sinh khắc. Cùng tầng thứ hào tác hợp, hợp mà không hóa, hai bên
đều giảm lực. Nếu như tác hợp một phương đặc biệt vượng, ngoài ra một
phương không vượng, hoặc là hào cao tầng cùng hào thấp tầng tác hợp, nếu
không một phương vượng tướng cùng hào tầng thứ thấp một phương khiến mất
đi quyền sinh khắc.
Tại trong quẻ lục hào, hào tĩnh cùng hào tĩnh chỉ có hợp tượng không có hợp lực,
vì hai bên đều tĩnh mà không động, loại này giống nhau không có lực lượng,
không luận hợp, nhưng có thể thể hiện một loại tượng tin tức.
Ví dụ:
+ Mùi nguyệt, Ngọ nhật, trong quẻ 2 hào Tuất, Mão cùng động, Mão Tuất
hợp hóa Hỏa thành công.
+ Hợi nguyệt Ngọ nhật, trong quẻ hào Tuất, Mão động, Mão Tuất hợp
không hóa, hai bên đều giảm. Mão Tuất hợp hóa Hỏa, [Hỏa thần] bị Nguyệt
Hợi thủy khắc, nên trường hợp này không hóa được.
Tại trong lục hợp, phàm nhật hoặc nguyệt cùng hào trong quẻ tương hợp đều là
hợp mà không hóa. Phàm hào động phùng nhật hoặc nguyệt hợp, không luận
vượng suy đều luận bán trú, tạm thời mất đi quyền sinh khắc. Nhưng hào Dụng
thần động phùng sinh hợp, bất luận hợp trú, là tăng lực, mà nguyên, kị, cừu,
nhàn thần không luận sinh hợp, khắc hợp đều là bán trú, tạm thời mất đi quyền
sinh khắc tương đương với hào tĩnh.
Phàm hào tĩnh phùng nhật, nguyệt hợp, có một số sách nói rằng hợp khởi, tác
giả cho rằng đều không toàn là như vậy, hào tĩnh phùng sinh hợp tại hào tĩnh
vượng tướng, cái gọi là hợp khởi, tương đương là hào động. Phùng nhật, nguyệt
cùng hào tĩnh là khắc hợp lúc, không luận hào vượng suy đều không luận hợp
khởi. Tại trong dự đoán xuất hành, dụng thần không luận động tĩnh, không luận
vượng suy, không luận sinh hợp hay là khắc hợp, không luận hợp hóa thành
công hay không, đều có một loại tượng hợp trú. Loại này thời gian, thường
thường thể hiện là một loại tượng tin tức, là vì sự bán trú, tượng tạm thời không
thể xuất hành, đến nỗi vì sao có sự bán trú, xem chủ hợp ngũ hành cùng là hào
nào, như dụng thần bị nhật nguyệt kiến lâm hào phụ mẫu hợp trú, là vì phụ mẫu,
xe cộ, văn thư mà việc bị bán trú.
Quẻ này rất dịch hữu đều đoán qua, toàn bộ nói Tử tôn Tuất thổ Dụng thần tại
nguyệt, nhật hưu tù, còn lâm bạch hổ, và nguyệt kiến hợp khắc tất là có huyết
quang tai họa cùng sự việc hung họa khác.
Tôi tử tế phân tích thử xem tượng quẻ, đoán rằng: con gái của bà ấy tại bên
ngoài tuyệt không hung hiểm, bình an vô sự, là vì việc liên quan đến tiền tài cùng
thông tấn vây hãm mà không điện thoại. Hôm nay là ngày Tuất, Tử Tôn dụng
thần xuất không, còn xung động hào hai Tử Tôn Thìn thổ, tất sẽ có tin tức. Quả
nhiên, giữa ngọ ngày Tuất, con gái của bà ấy gọi điện về nhà, nói rằng điện thoại
di động nợ cước, tại nơi khác không có cách nộp tiền, còn về đến thành phố nộp
phí sau đó vội vã rời đi, giờ mới gọi điện thoại cho gia đình.
Là vì sao đoán con gái của bà ấy tại bên ngoài bình an không hung hiểm? vì tôi
lấy Tử Tôn Tuất thổ là dụng, kiêm xem hào Tử Tôn thìn thổ, Tử Tôn Tuất thổ tại
nhật, nguyệt tuy hưu tù: nhưng vì Tuần không nên không bị khắc. Đây là thứ
nhất. Thứ hai, trong quẻ không có hào động khắc hào Tử Tôn, đây là nói rằng,
bên ngoài nhân tố nhật, nguyệt tuy đối với dụng thần bất lợi, nhưng nhân tố bên
trong của quẻ không có cho Dụng thần tạo thành thương hại, nguyên nhân bên
ngoài phải chế ước một hào nào đó, là phải dựa vào yếu tố bên trong khởi lên tác
dụng, mà quẻ này nguyên thần hào huynh đệ vượng tướng, hào Tử Tôn nguồn
sinh không đứt, nên đoán người an toàn.
Chỉ bằng lục thần cùng tại nhật, nguyệt hưu tù, mà không chú trọng nhân tố bên
trong của quẻ tổ hợp là đoán quẻ không tốt đó. nếu người đã an toàn, phải xem
là vì việc gì gây trở ngại không thể gọi điện thoại, nguyệt kiến mão hợp Tử Tôn
Tuất thổ. Mão là hào phụ mẫu, là điện thoại, thông tấn, văn thư, phòng ốc. Nhật
kiến dậu hợp Tử Tôn thìn thổ. Dậu là hào tài chủ tiền tài, kinh tế, phí dụng. Hai
Đoán quẻ phải có liên tưởng tư duy, phải giỏi ở nắm tin tức vặt vãnh tổ hợp tại
cùng một điểm, lấy ra manh mối, dựa vào hiểu biết xã hội, phù hợp sự việc dự
đoán thực tế tình huống đó là một bộ phận tin tức. Trong ví dụ này, phụ mẫu hợp
Tử Tôn, phụ mẫu còn đại biểu nhà cửa, xe cộ, nếu như tôi lấy ra nguyên nhân sự
việc vì xe cộ, nhà ở mà không gọi điện thoại, hiển nhiên là không quá phù hợp
thực tế, vì là xe cộ, nhà ở phương diện xuất hiện vấn đề không đến nỗi dẫn đến
không thể gọi điện thoại, mà chỉ là thông tấn phương diện phát sinh vấn đề không
thể gọi điện càng phù hợp thực tế.
Đồng lý, hào tài hợp hào Tử Tôn, dự đoán thiếu phí, càng phù hợp thực tế. Tóm
lại, chỉ lấy quẻ luận quẻ, xa rời thực tế chỉ nhận quẻ lý, lý luận của bạn trình độ lại
cao, quẻ lý của bạn cơ sở lại tốt, cũng rất khó dự đoán được chính xác. Vì là
đoán quẻ không phải là không có điều kiện, phải đoán chuẩn một quẻ, tất phải là
cần có nhất định điều kiện mới được, phải căn cứ điều kiện đã biết, kết hợp thực
tế dự đoán, dự trắc của bạn mới có thể đạt đến tinh tế chính xác.
Tam hợp cục có hai loại tình huống, một loại là thực hợp cục, sẽ là trong quẻ hình
thành tam hợp cục của ba hào đều động, hoặc nhật, nguyệt, động, hào biến cùng
trong quẻ cái khác hào động hình thành tam hợp cục; khác một loại tình huống là
đãi hợp cục, tức là trong tam hợp cục có một hào không động hoặc phùng
Không, chờ khi điền thực trực nhật sẽ thành cục.
Tam hợp cục thiếu một chữ, nhiều một chữ đều không thể thành cục, chờ nhật,
nguyệt tu bổ chỗ khuyết thiếu đó một chữ sẽ thành cục. Nhiều một chữ tất phải
đều là động hào, như một tĩnh một động không tính. Nhiều một chữ đợi nhật,
nguyệt hợp mất chữ thừa ra đó mới có thể thành cục.
Tam hợp cục thành cục sau đó, đồng dạng cũng có hợp mà không hóa cùng hợp
hóa thành công hai loại tình huống, tịnh không là ba chữ họp lại đều động, sẽ có
thể hợp hóa thành công. Tam hợp cục hợp hóa thành công tất phải là tại nhật,
nguyệt có hóa thần, và nhật nguyệt một phương không thể có ngũ hành khắc hóa
thần, bằng không luận hợp mà không luận hóa, hợp mà không hóa, luận bán trú,
Ví dụ: Trần mỗ hỏi kỳ tới có thể hay không lên chức? Thân nguyệt Tân Mão nhật
(KV: Ngọ Mùi), được quẻ Sơn Thiên Đại Súc, động hào 3,5 biến Phong Trạch
Trung Phu.
Trong quẻ hào Thế được nhật kiến sinh phù có khí, nhưng nguyệt xung là nguyệt
phá. Hào Ứng Tý thủy động, hào ba Thìn thổ động cùng nguyệt kiến Thân hình
thành Thân Tý Thìn tam hợp cục. Bởi vì tam hợp cục không có hóa thần dẫn hóa
nên hợp mà không hóa, hào Ứng Tý thủy bị bán trú không thể sinh hào Thế Quan
quỷ Dần mộc, vì vậy hào Thế Quan quỷ Dần mộc dụng thần nguyệt phá không có
cứu, đoán trong kỳ tới không có thể được lên chức. Quả nhiên như vậy.
Không luận tam hợp, lục hợp hào tầng thứ thấp tam hợp phải nhường chỗ cho
hào tầng thứ cao hợp. Tại trong lục hào hợp và xung hỗ giải hỗ phá thứ tự là:
Trước tiên hợp xung của quẻ chủ, quẻ biến có thể giải quẻ chủ này hợp xung;
hợp xung của hào quẻ biến cùng hào chủ quẻ, nguyệt, nhật có thể giải; hợp xung
của nguyệt kiến cùng hào biến, hào trong quẻ chủ, nhật kiến có thể giải; nhật kiến
cùng hào quẻ hợp xung, tiến vào ngày của nhật, nguyệt có thể giải. Tìm ra điều
Ví dụ: Vương mỗ hỏi đến đại liên làm việc có thể đi thành công hay không? Tuất
nguyệt Kỷ Dậu nhật, được quẻ Hỏa Sơn Lữ, động hào 1,4 biến Sơn Hỏa Bí.
Đoán xuất hành quan trọng xem hào Thế bị hợp trú hay không, hợp trú là có sự
bán trú đi không được. Phùng xung là có thể đi thành công, đương nhiên cũng
cần tham khảo hào Thế vượng suy, có hay không quyền sinh khắc.
Quẻ này hào Thế động cùng hào Ứng Dậu kim tác hợp bán trú, nhưng nguyệt
kiến xung hào Thế giải được Dậu Thìn hợp, bất lợi là nhật kiến là Dậu kim, còn
cùng hào Thế hợp, hợp này đã giải nguyệt kiến cùng hào Thế xung.
Tại trong hàng loạt hợp xung hỗ giải hỗ phá, cuối cùng là lấy nhật kiến cùng hào
Thế hợp đến luận, hào Thế bị bán trú, mất đi quyền sinh khắc, và hào Thế còn
hóa Mão mộc hồi đầu khắc, vì vậy tất vì có vấn đề trói buộc đi không được. Vì
sao đi không được vậy? Trong quẻ nhật thần Dậu kim hợp trú hào Thế, nhật thần
là hào tầng thứ cao, là hào Thế tự thân có sự việc khó được giải thoát. Nhật thần
Dậu kim là hào tài, hào Thế còn hóa Phụ mẫu Mão mộc hồi đầu khắc. Chủ yếu là
vì hai trở lực lớn này khiến hào Thế đi không được. Hào Tài chủ vấn đề kinh tế,
hào Phụ mẫu chủ văn thư, chứng kiện, hợp đồng các loại. Vì vậy có thể phán
đoán chủ yếu là vì vấn đề của phương diện hợp đồng kinh tế, mà bán trú tạm
thời đi không thành. Thực tế là vì để hoàn thành đúng thời hạn một hạng mục
hợp đồng kinh tế mà không thể đi khỏi, không đi thành công.
4.3.1. Nhập mộ
Nhập mộ là trong lục hào một loại đặc thù quy định, hào quẻ bất luận vượng suy,
phùng cao tầng thứ mộ đều có nhập mộ chi tượng. Hào trong quẻ chỉ nhập mộ ở
hào tầng thứ cao hơn mình, không nhập mộ tại hào cùng tầng thứ hay tầng thứ
thấp hơn.
Hào quẻ tại trong thời kỳ nhập mộ mất đi quyền sinh khắc, nhưng cũng không
nhận hào khác sinh và khắc. Hình thức của hào nhập mộ chủ yếu là:
+ 1, Bất cứ hào nào mà nhập mộ ở nhật thần, nguyệt kiến thì đều gọi là
nhập Mộ.
+ 2, Hào tĩnh chỉ có thể nhập mộ của hào động trong quẻ.
+ 3, Hào động có thể nhập mộ tại hào biến.
1. Bất luận hào động, biến, tĩnh phùng nhật, nguyệt là mộ, tất nhập mộ.
Ví dụ: Tháng Kỷ Mùi, ngày Nhâm Tý, được quẻ Sơn Thủy Mông, động hào 6,
biến Địa Thủy Sư.
MTC chú:
+ hào PM Dần Mộc, vòng TS của Mộc khởi TS ở Hợi, tới Mùi là Mộ. Nguyệt
kiến là Mùi, nên hào Dần nhập mộ ở Nguyệt kiến.
Trong quẻ hào thượng Phụ mẫu Dần mộc cùng sơ hào Phụ mẫu Dần mộc đều
nhập nguyệt mộ, tạm thời mất đi quyền sinh khắc, nhưng cũng không nhận hào
động biến khác sinh khắc. Như hào thượng Phụ mẫu Dần mộc động hóa Dậu kim
hồi đầu khắc, hiện Phụ mẫu Dần mộc nhập nguyệt mộ, tạm thời không nhận Dậu
kim khắc, chờ xuất mộ lúc mới bị khắc.
VD: Ngày Dậu tháng Thìn. Quẻ Hỏa Địa Tấn, động hào 5, biến Thiên Địa Bĩ.
Quẻ này Thê tài Mão mộc, nhập mộ tại hào năm Phụ mẫu Mùi thổ, mà không
nhập mộ tại sơ hào Phụ mẫu Mùi thổ.
MTC chú: hào 5 là hào động, sơ hào là hào tĩnh.
Ngoài ra, hào tĩnh tuy có thể nhập mộ tại hào động trong quẻ, nhưng như hào mộ
này bị hào thượng tầng thứ (nhật, nguyệt, biến) khắc chế thụ thương hoặc hợp,
xung mất đi quyền sinh khắc lúc, hào tĩnh cũng không nhập mộ tại hào động này.
(Nói ngắn gọn, hào động tự thân phải có quyền sinh khắc mới có thể thu hào tĩnh
nhập mộ).
Ví dụ: Ngày Bính Dần, tháng Nhâm Dần, quẻ Trạch Thủy Khốn động hào 1,2 biến
Trạch Lôi Tùy.
3. Hào động có thể nhập mộ tại hào biến, có thể nhập nhật, nguyệt mộ.
Hào động có thể nhập mộ tại hào biến, nhưng hào động không nhập mộ tại hào
động, vì là cùng tầng thứ - quyền lực bình đẳng.
Hào biến KHÔNG nhập mộ tại hào động; Nhật, nguyệt cũng không nhập mộ tại
hào động biến.
Hào động nhập mộ tại hào biến, nó chỉ có thể nhập mộ tại hào biến bản vị, mà
không thể nhập mộ tại hào biến do hào động khác biến ra.
Khi hào biến thụ chế mất đi quyền sinh khắc lúc, hào động cũng không thể nhập
mộ tại hào biến, đồng lý ở hào tĩnh nhập mộ tại hào động.
Quẻ này, hào Ứng Thê tài Tý thủy biến Huynh đệ Thìn thổ, Tý thủy nhập mộ tại
hào biến Thìn thổ. Quan quỷ Dần mộc không nhập mộ tại hào biến Mùi thổ do
hào Thế Ngọ hỏa biến ra.
4.3.2. Xuất mộ
Bên trên đã trình bày chủ yếu hình thức nhập mộ thông thường, xuất mộ có ba
loại hình thức: một là xung mộ; hai là xung hào nhập mộ; ba là hợp mộ.
Có sách nói rằng hào nhập nhật mộ qua tháng sẽ xuất mộ; hào nhập nguyệt mộ
qua tháng sẽ xuất mộ. Tại thực tế trong dự trắc đều không như vậy, giống nhau
nói đến hào nhập mộ, tất đợi hợp xung giải mộ, vì là nhập mộ sẽ có để lại nhập
mộ này một loại nguyên tượng, loại này nguyên tượng tất chờ hợp xung mới có
thể giải trừ.
Do ở hình thức của hào nhập mộ bất đồng, phương thức của giải mộ sẽ bất
đồng, sau đây đem các loại hình thức nhập mộ cùng giải mộ phương thức từng
cái tường thuật như sau:
1. Hào tĩnh, hào động, hào biến nhập nhật, nguyệt mộ cùng phương thức
phá mộ là xung hào mộ mà không thể xung nhật, nguyệt.
Ví dụ: đoán bệnh cho bằng hữu vào ngày Kỷ Mùi tháng Thìn, được quẻ Sơn
Phong Cổ, động hào 3,6, biến Địa Thủy Sư.
Nên đoán tháng Thân kim xung dụng thần Dần mộc, dụng thần bị xung xuất mà
thụ khắc, tất bệnh tình nguy kịch!
Có độc giả sẽ hỏi: là vì sao không đoán ngày Thân dụng thần bị xung xuất mộ là
thời gian có tai họa vậy? Vì là ngày Thân tuy đem dụng thần Dần mộc xung xuất
bị khắc, tình huống dĩ nhiên không hay, nhưng, một là dụng thần Dần mộc tại
tháng Thìn có dư khí là một loại có khí chi tượng; hai là kị thần Quan quỷ Dậu kim
bị nguyệt kiến hợp trú, tạm thời không có quyền sinh khắc, vì vậy dụng thần nguy
mà có cứu. Tiếp theo đến tháng Tị, Ngọ dụng thần tuy hưu tù, nhưng nhập nhật
mộ, loại này nguyên tượng còn tồn tại, qua ngày, qua tháng đều không có giải
mộ, huống hồ Kị thần Dậu kim tại tháng Tị hỏa hưu tù khắc Dụng thần, lực cũng
giảm; tháng Mùi dụng thần vẫn còn nhập mộ không bị khắc; tháng Thân bất
đồng, Thân kim đem Huynh đệ Dần mộc xung xuất, Dần mộc tại tháng Thân là
ngộ Tuyệt địa, Kị thần Thân, Dậu kim tại tháng là vượng tướng, vì vậy có thể
đem Dần mộc chế tử, mà ứng tử vong tai họa.
3. Hào động nhập mộ tại hào biến, giải mộ phương thức có ba loại, một là
xung hào; hai là xung mộ; ba là hợp mộ. Tại trong lục hào chỉ có nhập mộ tại
hào động, biến, tại khi hợp mộ có thể giải mộ.
Ví dụ: Ngày Bính Ngọ tháng Thân, Lưu mỗ đoán đệ đệ ra ngoài vào ngày nào trở
về? Được quẻ Lôi Hỏa Phong, động hào 3, biến Thuần Chấn.
Trong quẻ dụng thần Huynh đệ Hợi thủy động, nói rõ người đã có suy nghĩ lên
đường, nhưng động mà hóa mộ, chỉ có khi xuất mộ mới có quyền sinh khắc,
người cũng sẽ về nhà.
Ngày Ngọ, Huynh đệ Hợi thủy vẫn còn tại trong mộ ra không được, ngày Mùi,
cũng vậy; ngày Thân, cũng phá không được mộ; ngày Dậu, Dậu Thìn hợp, hợp
hóa kim, tháng có Thân kim dẫn hóa thành công, Thìn trên tính chất của mộ phát
sinh biến hóa, có thể giải mộ. Nên đoán ngày Dậu người có thể trở về. Thực tế
chính là ngày này người đã về đến.
Hào nhập mộ vượng tướng, tại trong nhập mộ kỳ hạn, không luận dụng thần vẫn
là kị thần đều phát huy không được tác dụng, cũng không nhận ngũ hành khắc
sinh và khắc, chỉ có xuất mộ lúc, mới có thể bình thường phát huy chức năng
sinh khắc, mới nhận hào khác ngũ hành sinh khắc.
Hào hưu tù nhập mộ tại trong thời kỳ nhập mộ không được sinh, cũng không bị
khắc, xuất mộ sẽ nhận sinh khắc.
Ví dụ 2: Ngày Quý Tị tháng Mùi, một người nào đó tự dự đoán ngày mai có an
toàn hay không? Được quẻ Phong Hỏa Gia Nhân động hào 2, biến Phong Thiên
Tiểu Súc.
Trong quẻ có thể lấy ra dạng này tượng tin tức là: hào ứng là huynh đệ nơi đi
đến, địa điểm đi là nơi làm việc, hào ứng là quan quỷ sửu thổ, nói rõ là chính phủ
đơn vị, quan của sửu thổ là tạp khí, (Tý Ngọ Mão Dậu là chính; Dần Thân Tị Hợi
Dụng thần Huynh đệ Hợi thủy động hóa mộ, có thể lấy ra tượng của dạng này:
dụng thần hóa mộc, đây là mộ của hào Quan quỷ, là chính phủ, quốc gia đó,
không phải tư nhân đó, mộ khố này còn lâm Đằng Xà, Đằng xà có tượng nhỏ và
dài, hào mộ Quan quỷ Thìn thổ đem dụng thần Huynh đệ Hợi thủy thu nhập trong
mộ cùng một chỗ động (lấy hào động chi ý) là một loại thế nào tượng vậy? Xe
hơi, xe lửa, phi cơ, tàu thủy…, những thứ này có khả năng chuyên chở, ký gửi
người và vật, đều có thể coi là nghĩa rộng của mộ khố. Vì vậy có thể đoán anh
em của anh ấy là ngồi trên tàu lửa trở về đó (mộ là trong xe lửa của nhà nước).
Đoán là ngồi xe lửa, cũng là kết hợp Đằng Xà thon và dài hình tượng. Như Phụ
mẫu hoặc mộ khố của dụng thần tại hào năm, sáu lâm Đằng xà động, thanh long
động, đó có thể là ngồi phi cơ. Thanh long có phi long chi tượng, rồng tại trên
trời, mà hào ngũ, lục là hào thiên, là nơi cao, vì vậy có tượng ngồi phi cơ, nhưng
đoán quẻ cũng phải kết hợp thực tế và ứng kỳ tổng hợp đến xem, không thể
cứng nhắc.
Tại đây chỉ đối với một bộ phận quẻ làm ví dụ để lấy ra tượng tin tức, nhưng giới
hạn trong chủ đề không thể tại đây đối với mỗi một quẻ ví dụ đều từng cái giải
thích kỹ càng tỉ mỉ, rất nhiều quẻ ví dụ không đề cập tới tượng tin tức của chủ đề,
cũng không thể chi tiết từng cái tại trong sách.
Không vong cũng là trong lục hào nạp giáp một loại đặc thù quy định, hào Tuần
Không không luận vượng suy, tại trong thời kỳ Tuần Không thì không có quyền
sinh khắc, cũng không nhận hào khác sinh và khắc. Chỉ có lúc xuất không, điền
thực, xung không, mới có quyền sinh khắc; Hào hưu tù phùng không tại trong
Tuần Không là tị không không bị khắc, chờ khi xuất không bị khắc.
MTC chú:
+ [giải không] là cách nói gom lại của xuất Không, điền thực, xung Không.
+ xuất Không: ngày Bính Ngọ nằm trong tuần Giáp Ngọ, Dần Mão bị KV, đến hết ngày
Quý Sửu thì Dần Mão mới xuất không (tức là hết tuần Giáp Thìn)
+ xung Không: ngày Bính Ngọ nằm trong tuần Giáp Ngọ, Dần Mão bị KV, thì ngày Thân
Dậu xung Dần Mão.
+ điền thực:
Cổ thư nắm Tuần Không phân làm hai loại: một loại là chân không; một loại là
giả không. Cái gọi là chân không tựu là hào hưu tù phùng không, không luận
xuất hay không xuất không đều không có quyền sinh khắc. Cái gọi là giả không,
tựu là hào có khí, xuất không sau đó liền sẽ có quyền sinh khắc.
Không là không thực, lạc không, không thật, giả tạo các ý nghĩa ví dụ. Như
đoán chung vốn làm ăn, hào Ứng phùng không chủ đối phương không thật, hào
Thế Tuần Không chủ bản thân không thật, tâm lý không có chuẩn bị…
MTC chú:
+ lạc không (落空: hỏng, hụt hẫng, tan vỡ, biến mất)
Hào Tuần Không, phương thức giải không chỉ có hai loại: một loại là xuất
không, một loại khác là xung không, tức xung hào Tuần Không, hào Tuần Không
giống nhau, xung không chỉ có thể phát huy một nửa lực lượng, chỉ có xuất
không mới có thể toàn bộ phát huy lực lượng.
Thông thường dự đoán sự tình xung quanh trong một tháng, là dựa vào ngày
đoán xuất không, nhưng đoán quẻ quý tại linh hoạt, căn cứ nơi đoán sự dài ngắn
kỳ, cần tình hình khắc nhau đến xem, ví dụ đoán niên vận, hào nào đó Tuần
Không, cần dựa vào tháng là đơn vị đoán ra không kỳ. Đoán sự tình trong một
ngày cũng không thể dựa vào ngày đoán xuất không, mà cần lấy thời thần là đơn
vị luận xuất không.
Ví dụ: Lâm mỗ hỏi quan vận. Ngày Giáp Tý tháng Thân, được quẻ Phong Thủy
Hoán, động hào 3,5,6 được quẻ Địa Phong Thăng.
MTC chú:
+ Ngày Giáp Tý, KV ở Tuất Hợi.
+ QQ là Thủy Hợi, ở hào gốc QQ là Phục ở hào 4, bị lâm KV; ở hào biến là hào 2, hào 5,
đều lâm KV.
Hào Thế là người hỏi, tại nguyệt hưu tù, tại nhật thụ khắc, tuy trong quẻ có Phụ
mẫu Mão động mà tương sinh, nhưng Phụ mẫu Mão mộc động hóa hồi đầu khắc.
MTC chú:
+ QQ Hợi Thủy có khí, lại là Phục thần, nên chờ xuất Không mới ứng. Xuất Không ở đây
có thể là ngày Hợi, tháng Hợi.
Một người phụ nữ hỏi chồng ra ngoài khi nào về? Ngày Bính Thìn tháng Dậu,
được quẻ Thủy Trạch Tiết, động hào 3 biến Thủy Thiên Nhu.
MTC chú:
+ Ngày Bính Thìn, KV ở Tý Sửu.
+ Hỏi chồng, lấy Dụng thần là QQ.
Ví dụ: Lưu mỗ gọi điện thoại hỏi nhà lúc nào có thể bán được? Ngày Tân Mùi
tháng Dậu, được quẻ Thủy Thiên Nhu, động hào 1,4 biến Trạch Phong Đại Quá.
MTC chú:
+ Ngày Tân Mùi, KV ở Tuất Hợi
Thủy Thiên Nhu (họ Khôn, quy hồn) Trạch Phong Đại Quá
- - Tý Tài ĐX - - Mùi HĐ
--- Tuất HĐ KV CTr --- Dậu Tử
- - Thân Tử Thế ChT --- Hợi Tài KV
--- Thìn HĐ TL --- Dậu Tử
--- Dần QQ P: PM Tị HV --- Hợi Tài KV
--- Tý Tài Ứng BH - - Sửu HĐ
Hào Thế đại biểu người hỏi, hào Ứng đại biểu khách mua nhà, hào Ứng Thê tài
Tý thủy đại biểu nhà muốn bán, có độc giả sẽ hỏi, không phải hào Phụ mẫu đại
biểu nhà ở sao? bạn là vì sao nói hào Tài đại biểu nhà ở? Vì là hiện tại nhà muốn
Vượng suy của hào cùng quyền sinh khắc, là căn cứ để phán đoán cát hung căn
bản nhất. Không biết vượng suy, đối với quyền sinh khắc của hào nắm chắc
không tốt, sẽ không thể đoán quẻ bình thường. Vì vậy tiết này là ưu tiên hàng
đầu trong học lục hào, độc giả nhất thiết phải cẩn thận lĩnh hội, linh hoạt nắm
vững, tuyệt đối đừng cưỡi ngựa ngắm hoa.
Phán đoán vượng suy của quẻ hào chủ yếu là căn cứ nhật nguyệt đến đánh giá
đó. Chúng ta hiểu, nhật, nguyệt đều là hào đệ nhất tầng thứ. Nhật, nguyệt kiến
đồng công đồng quyền. Một cái cụ thể quẻ hào có hay không quyền sinh khắc,
nhật, nguyệt kiến cùng tự thân trạng thái của hào là nhân tố chủ yếu. Tuần
không, nhập mộ, phùng hợp, phùng xung mà mất đi quyền sinh khắc là tính tạm
thời.
4.5.1. Xác định hào tĩnh trong quẻ có hay không quyền sinh
khắc.
Hào tĩnh trong quẻ là tầng thứ thấp nhất, nó chỉ có thể tại cùng hào ở tầng thứ
giữa phát sinh sinh khắc, mà không thể đi sinh khắc hào động.
1. Hào tĩnh tại nhật, nguyệt hai phương đều hưu tù liền không có quyền
sinh khắc.
VD: Ngày Dần tháng Mão, lên quẻ Phong Thiên Tiểu Súc, PM trì Thế ở hào
sơ Tý Thủy. Hào Thế là hào tĩnh. Thế Phụ mẫu Tý thủy tại nhật, nguyệt hai
nơi đều hưu tù vô khí, hào Thế không có quyền sinh khắc, sẽ không có đủ
điều kiện chủ yếu nhất, cơ bản nhất để thành sự.
2. Hào tĩnh tại nhật, nguyệt một phương thụ khắc, một phương hưu tù
không có quyền sinh khắc.
3. Hào tĩnh tại nhật, nguyệt song phương đều thụ khắc càng không có
quyền sinh khắc.
4. Hào tĩnh tại nhật, nguyệt một phương được sinh một phương bị khắc, ở
tại giới hạn trạng thái, có hay không quyền sinh khắc quan trọng xem trong
quẻ hào động có ủng hộ hay phản đối, chú ý lý thuyết này là bị khắc mà
không phải vừa xung vừa khắc.
VD: Ngày Mão tháng Tý, lên quẻ XXX. Hào hai PM Tị hỏa tại nguyệt thụ
khắc, tại nhật được mão mộc sinh, ở vào trạng thái giới hạn. Như trong quẻ
5. Hào tĩnh nhập mộ tại nhật, nguyệt, hào động tạm thời không có quyền
sinh khắc. Còn về xuất mộ sau đó có hay không quyền sinh khắc, quan trọng
xem hào tĩnh tại nhật, nguyệt trạng thái (không xem trạng thái trong quẻ lý), là tại
trạng thái giới hạn thượng tuyến hay là hạ tuyến, tại trạng thái giới hạn thượng
tuyến xuất mộ sau đó có quyền sinh khắc, tại hạ tuyến sẽ không có quyền sinh
khắc.
6. Hào tĩnh tuần không, tạm không có quyền sinh khắc. Còn về xuất không,
xung không sau đó có hay không quyền sinh khắc, quan trọng là xem hào tĩnh
này là tại trạng thái giới hạn thượng tuyến hay là hạ tuyến.
7. Hào tĩnh bị nhật hoặc nguyệt bị một phương hợp trú, như là sinh hợp
hào tĩnh có tượng hợp khởi, lực lượng của nó tương đương ở hào động.
Như là khắc hợp hào này tạm thời không có quyền sinh khắc, đến nỗi chờ tiến
vào khi nhật, nguyệt giải hợp sau đó có hay không quyền sinh khắc, cũng là xem
hào này là tại trạng thái giới hạn thượng tuyến hay là hạ tuyến.
8. Hào tĩnh bị hào động hợp trú, không luận sinh hợp hay là khắc hợp, tạm
thời mất đi quyền sinh khắc, chờ hào thượng tầng thứ giải hợp sau đó, có hay
không quyền sinh khắc quan trọng là xem hào này là tại trạng thái giới hạn
thượng tuyến hay là hạ tuyến.
Tóm lại mà nói, hào tĩnh có hay không quyền sinh khắc quan trọng là xem nhật,
nguyệt kiến đối với nó có ủng hộ hay phản đối. Một sinh một khắc là giới hạn
trạng thái; một phương sinh một phương chỉ là hưu tù, mà không bị khắc, hào
tĩnh có quyền sinh khắc; song phương đều phù càng là có quyền sinh khắc; một
phương khắc một lâm trì, hào tĩnh cũng có quyền sinh khắc.
VD: Ngày Mão tháng Thân, lên quẻ Sơn Hỏa Bí. Hào Thế Quan quỷ Mão
mộc tại nguyệt bị khắc, nhật phùng Mão là lâm trị, hào Thế Quan quỷ mão
mộc vượng tướng, nên có quyền sinh khắc.
Hào 6 Quan quỷ Dần mộc tại tháng Thân, là vừa xung vừa khắc, là nguyệt
phá, không có quyền sinh khắc.
Nếu như nhật thần là Dần, tất Quan quỷ Dần mộc là trị nhật (lâm nhật
kiến), cùng nguyệt lệnh đồng lực đồng quyền, nguyệt kiến xung không bại
4.5.2. Phán định hào động trong quẻ có hay không quyền
sinh khắc
1. Hào động có hay không quyền sinh khắc ở trạng thái giới hạn, hào động
ở vào trạng thái trung hòa, nó có hay không quyền sinh khắc xem trong quẻ
hào khác ủng hộ hay phản đối.
Trạng thái giới hạn là: Hào động tại nhật nguyệt song phương đều hưu
tù, nhưng không bị khắc.
MTC: hào động lại Nhật hưu tù nhưng nguyệt bình hòa thì lực của hào
động sẽ ở trên mức giới hạn - bình tuyến, được nguyệt sinh là lực lớn hơn
nữa, ở cao thêm so với mức giới hạn - thượng tuyến)
VD: Ngày Sửu tháng Sửu, lên quẻ Phong Thiên Tiểu Súc, động hào 6 biến
Thủy Thiên Nhu.
Phong Thiên Tiểu Súc (họ Tốn) Thủy Thiên Nhu
--- Mão HĐ - - Tý PM
--- Tị Tử --- Tuất Tài
- - Mùi Tài Ứng - - Thân QQ
--- Thìn Tài P: Quan Dậu --- Thìn Tài
--- Dần HĐ --- Dần HĐ
--- Tý PM Thế --- Tý PM
MTC chú:
+ hào HĐ Mão Mộc, nên khởi TS ở Hợi, tới Sửu là Quan đới. Có thể tác giả cho rằng lực
của Quan đới là hưu tù?
Hào thượng Huynh đệ Mão mộc tại nhật, nguyệt hưu tù không bị khắc, ở tại trạng
thái trung hòa, còn có đủ một điểm quyền sinh khắc, nhưng động hóa Ngọ hỏa
tiết khí, đã không có lực kiếp tài, đương nhiên đây là nguyên quái một loại trạng
thái, gặp tiến vào lúc mão mộc lâm vượng địa lúc liền có thể kiếp tài, phùng tị,
ngọ, mùi, thân, tuất sẽ mất đi quyền sinh khắc, vô lực kiếp tài. (Cũng thế mà nói
trong quẻ Huynh đệ động việc tất ứng phá tài không thể tránh, ngày nào phá tài?
Tất tại Huynh đệ trị vượng chi nhật).
3. Hào động bị nhật, nguyệt, hào biến xung phá không có quyền sinh khắc.
4. Hào động nhập mộ tại hào biến, nhập mộ tại nhật nguyệt, tạm thời không
có quyền sinh khắc, lúc xuất mộ có hay không quyền sinh khắc, quan trọng xem
hào này tại trạng thái giới hạn thượng truyến hay là hạ tuyến
5. Hào động phùng Không, tại thời kỳ Tuần không tạm không có quyền sinh
khắc; xuất không sau đó có hay không quyền sinh khắc, cần xem hào này là tại
trạng thái giới hạn thượng tuyến hay là hạ tuyến.
6. Hào động tại nhật, nguyệt hai nơi chỉ là hưu tù, không bị khắc, nhưng
hóa thoái, hóa tiết, hóa tuyệt sinh khắc quyền giảm nhẹ, hóa hồi đầu khắc,
không có quyền sinh khắc, như hóa hồi đầu sinh, hóa tiến thần có quyền
sinh khắc.
7. Hào động tại nhật, nguyệt một phương nhận sinh, một phương thụ khắc,
hào động có quyền sinh khắc.
8. Hào động tại nhật, nguyệt hai phương đều được sinh phù, càng có quyền
sinh khắc.
9. Hào động tại nhật, nguyệt một phương hưu tù, một phương thụ khắc,
hoặc cùng tại song phương đều bị xung khắc, đều không có quyền sinh
khắc.
(Hào động tĩnh chỉ cần tại nhật nguyệt một phương hưu tù một phương thụ khắc
trở lên sẽ không có quyền sinh khắc, hai phương hưu tù tại trạng thái giới hạn
(hào động còn chút có quyền sinh khắc), một phương nhận sinh một phương thụ
khắc hào động có quyền sinh khắc, hào tĩnh tại giới hạn).
1. Hào biến khi lâm giới hạn trạng thái là: tại nhật nguyệt một phương thụ
khắc, một phương hưu tù, là ở trạng thái trung hòa, tức trạng thái giới hạn.
MTC chú: ở đây lại định nghĩa trạng thái giới hạn (hay trạng thái trung
hòa): hào bị nhật nguyệt 1 phương thục khắc, 1 phương hưu tù. Vì vậy cần
tổng hợp hoặc xem lại cách định nghĩa của tác giả.
2. Hào biến tại nhật, nguyệt chỉ có khi song phương đều bị khắc mới không
có quyền sinh khắc.
MTC: hào bị 2 thần khắc thì mất hết lực, tức là ở phần hạ tuyến. Mất lực,
tức không có sức mạnh đi gây chiến hoặc hỗ trợ đối tượng khác.
3. Hào biến nhập mộ tại nhật, nguyệt, tạm thời không có quyền sinh khắc;
lúc xuất mộ có hay không quyền sinh khắc, cần xem hào biến ở tại giới hạn trạng
thái thượng tuyến hay là hạ tuyến.
4. Hào biến lâm Tuần không, trong thời gian Tuần không tạm không có
quyền sinh khắc; lúc phùng xung, xuất không có hay không quyền sinh khắc,
cần xem hào biến ở tại trạng thái giới hạn thượng tuyến hay hạ tuyến.
5. Hào biến bị nhật, nguyệt hợp trú, tạm không có quyền sinh khắc; lúc giải
hợp có hay không quyền sinh khắc, cần xem hào biến ở tại trạng thái giới hạn
thượng tuyến hay là hạ tuyến.
6. Hào biến bị nguyệt phá, chỉ cần không phải triệt để phá, ra khỏi tháng
hoặc trị nhật, liền có quyền sinh khắc, hào biến bị nhật phá vĩnh viễn không
có quyền sinh khắc.
Quyền sinh khắc của hào biến là lớn-hay-nhỏ cùng có-hay-không, chỉ bởi (nhận)
nhật, nguyệt đến chế ước. Không nhận hào khác trong quẻ chủ, biến chế ước.
Ví dụ: Thang mỗ hỏi cầu tài, ngày Mậu Tý tháng Mùi được quẻ Địa Thiên Thái,
động hào 5 ra quẻ Thủy Thiên Nhu.
Địa Thiên Thái (họ Khôn, lục hợp) Thủy Thiên Nhu
- - Dậu Tử Ứng ChT - - Tý Tài
- - Hợi Tài TL --- Tuất HĐ
- - Sửu HĐ HV - - Thân Tử
--- Thìn HĐ Thế BH --- Thìn HĐ
--- Dần QQ P: PM Tị ĐX --- Dần QQ
--- Tý Tài CTr --- Tý Tài
Hào năm Thê tài Hợi thủy là tiền mong muốn có, Hợi thủy hào Tài lâm nhật,
nguyệt một bên thụ khắc, một bên được trợ còn phát động, hào Tài có quyền sinh
khắc, nhưng bất lợi là, hào Tài hợi thủy động hóa Tuất thổ là hồi đầu khắc,
nguyệt kiến cùng hào biến Tuất thổ là hào tầng thứ trên của hào Tài hợi thủy, hợp
lực đem hào Tài Hợi thủy chế phục, khiến hào Tài mất đi quyền sinh khắc, không
những cầu không được tài, ngược lại còn bị họa phá tài. Sau đó quả nhiên bị phá
tài, mà là phá tài lớn, hào Dụng thần tại lâm nhật hoặc nguyệt vượng tướng bị
chế phục là họa lớn, dụng thần hưu tù bị chế phục là họa nhỏ, như quẻ cầu tài
hào tài vượng vướng, bị Huynh đệ chế phục, là phải phá tài lớn, như hưu tù bị
khắc nói rõ số tiền nhìn không lớn .
MTC chú:
Tóm lại mà nói, quyền sinh khắc của hào lớn nhỏ cùng có hay không, là phán
đoán cát hung quan trọng. Đối với vượng suy của hào tiêu chuẩn phán đoán
quyền sinh khắc, tác giả tại phía trên đã có tường tận trình bày. Độc giả nhất thiết
phải từng cái hiểu rõ kỹ càng. Đây là lợi dụng ngũ hành nguyên lý đoán quẻ tối
cơ bản tối trọng yếu là một hạng ngạnh công phu.