Professional Documents
Culture Documents
Văn
Văn
21
Viết đoạn văn nghị luận khoảng 1 trang giấy thường (2/3 trang A4) trình bày suy nghĩ của em về vấn đề sau:
Phải chăng tri thức làm nên giá trị con người?
Định hướng đáp án:
Hình thức: Đúng hình thức đoạn văn, có câu chủ đề, đủ số lượng khoảng 1 trang giấy; không mắc lỗi chính tả,
diễn đạt, ngữ pháp: 2 điểm
Nội dung: 8 điểm. Cần làm rõ các yêu cầu sau:
- khẳng định được vấn đề: Mối quan hệ giữa tri thức và giá trị con người.
- Giải thích: tri thức là gì? (hiểu biết, học vấn,...); giá trị con người là gì? (phẩm chất, chỗ đứng, đóng góp của
con người cho xã hội)
- Tại sao con người cần phải có tri thức? (Để có hiểu biết phong phú làm trí tuệ được cao minh: để giải quyết
những vấn đề của cuộc sống đặt ra, đem lại thuận lợi và thành công; khẳng định giá trị bản thân; đóng góp tốt
hơn cho xã hội; )
- Bàn luận vấn đề: Tri thức góp phần làm nên đạo đức, đem đến cách ứng xử tốt hơn; phải gắn với thực tiễn và
nhân cách đẹp=> phê phán những người học mà không hành; tài không đi kèm với đức.
- Bài học: Cần rèn luyện trau dồi tri thức, nhân cách.
- Liên hệ bản thân: Là học sinh cần làm gì để rèn đức luyện tài?
BTVN 20.6.2021
Có ý kiến cho rằng: Ứng xử là tấm gương phản ánh nhân cách con người.
Em hãy trình bày suy nghĩ của em về ý kiến trên (trong khoảng 2/3 trang A4 hoặc một trang giấy viết học sinh)
Định hướng đáp án:
Hình thức: Đúng hình thức đoạn văn, có câu chủ đề, đủ số lượng khoảng 1 trang giấy; không mắc lỗi chính tả,
diễn đạt, ngữ pháp: 2 điểm
Nội dung: 8 điểm. Cần làm rõ các yêu cầu sau:
- Giải thích khái niệm: Ứng xử là cách hành động, đối đãi, cư xử với người khác; từ đó mọi người có thể đánh
giá ta là người như thế nào. => Nhận định trên là hoàn toàn đúng đắn.
- Phân tích: Nhân cách ứng xử là thước đo giá trị của con người( Người có văn hóa, giáo dục sẽ có cách ứng xử
văn minh; ngược lại những người cư xử thô lỗ cục cằn thiếu hiểu biết..)
Ứng xử đúng mực: giúp ta được mọi người yêu thương, tôn trọng; xã hội từ đó phát triển hơn. Văn hóa ứng xử
cũng phản ánh nhân cách con người.
- Chứng minh: dẫn chứng về ứng xử đẹp: Chủ tịch Hồ Chí Minh: Bác yêu thương, quan tâm, gần gũi với chiến sĩ
đồng bào => Bác được yêu mến kính trọng.
- Bàn luận: Phê phán những người giả tạo, cư xử thiếu chân thực chỉ vì lợi ích cá nhân; những người chưa biết
cách cư xử văn minh; những đứa con bất hiếu, học sinh hỗn láo...
- Liên hệ và bài học: cần cư xử đúng mực, rèn đức luyện tài, hoàn thiện bản thân.
BT TRÊN LỚP CN 27.6.2021
Viết một đoạn văn khoảng 2/3 trang A4 để trình bày suy nghĩ của em về vấn đề sau: Trung thực là một trong
những đức tính cao quý nhất của con người.
Trung thực là 1 trong những đức tính cao quý nhất của con ng
- Giải thích: trung thực là thật thà,thành thật, không nói dối,ko che dấu sự thật.
- Biểu hiện: thẳng thắn nhận lỗi khi mắc lỗi, ko tham lam lấy của ng khác làm của mình, ko sản xuất kinh doanh
sp kém chất lượng,sp giả; ko quay cóp gian lận trong học tập thi cử...
- Vai trò:
Trong học tập: trung thực để có hiệu quả học tập tốt nhất,từ đó đạt được thành công, hoàn thiện nhân cách.
Trung thực thì mới có kiến thức thực, làm giàu tri thức bản thân,tạo uy tín với khách hàng. Góp phần xây dựng
xh văn minh,phát triển.
Là thước đo đạo đức,chuẩn mực xã hội.
- Bàn luận: phê phán sự gian dối trong học tập,làm việc,kinh doanh.
- bài học,liên hệ: Rèn luyện,bồi dưỡng trung thực trong cs,học tập; lên án những hành vi thiếu trung thực; biểu
dương khen ngợi để lan truyền hành động trung thực trong cộng đồng.
BTVN CN 27.6.2021
Viết một đoạn văn khoảng 2/3 trang giấy thi trình bày suy nghĩ của em về sự hi sinh thầm lặng của những con
người cao quý trên đất nước ta trong đai dịch Covid-19 hiện nay.
Gia đình có vai trò rất quan trọng đối với sự trưởng thành và hạnh phúc của mỗi con người. Gia đình chính là
nơi mà mọi người có thể chia sẻ với nhau những niềm vui trong cuộc sống. Là nơi mà có những người mình yêu
thương và muốn bảo vệ. Gia đình chính là nguồn động lực thúc đẩy con người trở nên tốt hơn. Sự trưởng thành
của một đứa trẻ có gia đình hoàn toàn khác với một đứa trẻ không có gia đình. Một đứa trẻ lớn lên và trưởng
thành dưới sự yêu thương và bao bọc của gia đình chắc hẳn phải hạnh phúc hơn với đứa trẻ không có gia đình.
Gia đình ở đây không có nghĩa là có cả cha và mẹ mà gia đình ở đây nghĩa là có người để yêu thương, có
người để bảo vệ và có người để bản thân có thể dãi bày những cảm xúc, những tâm sự của bản thân. Một
người có người thân nhưng không cảm thấy hạnh phúc, không thể dãi bày tâm sự và không có sự yêu thương
thì đấy không phải là gia đình. Ngoài việc có một gia đình ra thì việc có một gia đình hạnh phúc là điều rất cần
thiết.Chỉ khi có một gia đình hạnh phúc thì con người mới có thể trưởng thành và cảm thấy hạnh phúc.
17 Jul 2021
Định hướng đáp án:
* Hình thức: 2 điểm; đúng kiểu đoạn văn quy nạp, có câu kết; không mắc lỗi dùng từ, chính tả, ngữ pháp; diễn
đạt, liên kết câu.
* Nội dung: 8 điểm, đảm bảo các ý sau:
Hoàn cảnh và tâm trạng của Kiều thể hiện qua 6 câu thơ đầu:
- Kiều ở lầu Ngưng Bích thực chất là bị giam lỏng (khoá xuân).
- Nàng trơ trọi giữa một không gian mênh mông, hoang vắng: “bốn bề bát ngát xa trông”. Cảnh “non xa”, “trăng
gần” gợi hình ảnh lầu Ngưng Bích đơn độc, chơi vơi giữa mênh mông trời nước. Từ trên lầu cao nhìn ra chỉ thấy
những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Cái lầu trơ trọi ấy giam một thân phận trơ trọi, không một
bóng hình thân thuộc bầu bạn, không cả bóng người.
- Hình ảnh “non xa” “trăng gần”, “cát vàng”, “bụi hồng” có thể là cảnh thực mà cũng có thể là hình ảnh mang tính
ước lệ để gợi sự mênh mông, rợn ngợp của không gian, qua đó diễn tả tâm trạng cô đơn của Kiều.
- Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Tất cả như giam hãm con người, như khắc
sâu thêm nỗi cô đơn khiến Kiều càng bẽ bàng, chán ngán, buồn tủi “bẽ bàng mây sớm đèn khuya” sớm và
khuya, ngày và đêm, Kiều “thui thủi quê người một thân” và dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót đau thương
khiến tấm lòng Kiều như bị chia xẻ: “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Vì vậy, dù cảnh có đẹp đến mấy,
tâm trạng Kiều cũng không thể vui được.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích của Nguyễn Du không chỉ khắc họa chân thực đến hoàn cảnh tội nghiệp của
nàng Kiều trong trắng, đêm ngày phiền muộn với những nỗi niềm mông lung, mà còn thể hiện tài năng của tác
giả với bút pháp tả cảnh sinh động :“ Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung Bốn
bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia Bẽ bàng mây sớm đèn khuya Nửa tình nửa cảnh như
chia tấm lòng……Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa Buồn trông ngọn nước
mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu?Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Buồn
trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”(2)Trước hết, đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng
Bích” chính là một bức tranh thủy mặc thanh tao, tuyệt đẹp. (3)Đầu tiên, sáu câu thơ đầu của đoạn trích đã hiện
lên thật thơ mộng cùng ánh trăng lung linh, rặng núi xa xa giữa không gian khoáng đạt. (4) Núi thì thấp thoáng,
mờ ảo, trăng thì gần gũi, vừa trông như thể mặt gương lại phẳng mịn như tấm lụa trắng vắt giữa nền đêm tối,
quả thực, sắc tối mờ của núi hòa cùng vẻ trăng trắng của trăng đã khoác lên tòa lầu một vẻ đẹp thật huyền ảo;
từ “vẻ”, “xa”, “tấm” lại càng gợi lên điều đó. (5) “Bốn bề bát ngát xa trông/Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”,
không gian quanh lầu Ngưng Bích cũng thật khoáng đạt, từ “bát ngát”, “xa trông”, “cồn nọ”, “dặm kia” mở ra
khoảng đêm bao la, bất tận, thoáng đãng nhưng đồng thời, nó cũng gợi lên sự xa cách giữa những sự vật, làm
tòa lầu trông thật nhỏ bé, đơn độc giữa cả vùng thiên nhiên rộng lớn. (6) Ta có thể nói, cảnh lầu về đêm qua vài
câu thơ đã hiện lên thật sống động, đẹp tựa một bức tranh, khung cảnh nơi đây như chứa đựng mọi tinh hoa
của thiên nhiên đất trời nhưng đồng thời, nó cũng thật hiu quạnh, hoang vắng, gợi sự bơ vơ. (7) Trong tám câu
thơ cuối, phong cảnh xung quanh lầu cũng được Nguyễn Du khắc họa vô cùng sắc nét. (8) Qua cặp câu đầu,
người đọc được đắm chìm trong cảnh bể chiều hôm rợn ngợp sóng nước, điểm trên đó là một cánh buồm thấp
thoáng đằng xa. (9) Có lẽ vì là buổi chiều, cảnh mang một nét buồn mênh mang, vẻ đợi chờ, từ láy “xa xa” và
“thấp thoáng” lại càng diễn tả chân thực sự xa vời, lúc ẩn lúc hiện của con thuyền, của “thuyền ai” đấy xa cách.
(10) Trong cặp câu thứ hai, Nguyễn Du tả cảnh sóng nước vồn vã, vùi mình đầy vô tình xuống bãi cát vàng,
mang theo những cánh hoa mong manh, chóng tàn, cụm từ “trôi man mác” đã nhấn mạnh sự lênh đênh vô định,
yếu ớt mặc dòng nước đưa đi, cũng như người phụ nữ trong thời phong kiến đành vô vọng phó mặc số phận
cho dòng đời trái ngang. (11) Cặp câu thứ ba hiện lên với cảnh cỏ ủ ê, buồn rầu nằm dài trên đường chân mây,
tạo thành dải xanh bất tận làm lòng người lạc lối, u uất với những nỗi buồn miên man. (12) Trong cặp câu cuối,
tác giả đã tả cảnh sóng nước dữ dội xô mình ghềnh đá lúc nắng tàn, tạo nên âm thanh làm kinh đảm lòng người,
đảo ngữ ầm ầm cùng động từ mạnh: “cuốn”, “kêu” lại càng khắc họa sinh động vang âm “ầm ầm”, đầy mãnh liệt
ấy. (13) Trong tám câu thơ cuối, mỗi cặp câu diễn tả một vẻ riêng biệt nhưng vì lẽ nàng Kiều đã nhìn cảnh với
ánh mắt sầu tủi, chúng đều nhuốm nỗi buồn mênh mang, Nguyễn Du từng viết: “Cảnh nào cảnh chả đeo sầu/
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, quả thật là vậy, vì nàng “buồn trông” mà cảnh vật hiện lên đẹp nhưng u
uất đến kì lạ! (14) Đây cũng chính là nét đặc sắc trong nghệ thuật tả cảnh của ngòi bút tài hoa, nghệ thuật tả
cảnh ngụ tình, qua những hình ảnh thiên nhiên phong phú, và dưới ánh mắt “buồn trông” của nàng thiếu nữ bất
hạnh, nỗi lòng thổn thức chan chứa bao tâm sự đã được bày tỏ thật sâu sắc, khiến người đọc xót thương thay;
xuyên suốt bài thơ, Nguyễn Du cũng lồng những nỗi thổn thức của nàng Kiều vào trong những câu thơ tả cảnh.
(15) Trong đó, có thể kể đến sự lẻ loi, cô quạnh, nỗi buồn miên man nơi đất khách quê người qua cảnh lầu hiu
vắng chỉ có trăng bầu bạn, cảnh biển sóng nước mênh mông và màu xanh “rầu rầu” của nội cỏ; nỗi xót xa, đau
đáu về thân phận lạc loài trong hình ảnh cánh hoa mỏng manh trôi dạt trên dòng nước; hay sự lo lắng, hãi hùng
đầy dự cảm về kiếp phận bất hạnh, trắc trở phía trước qua hình ảnh “bụi hồng” và tiếng sóng lòng “ầm ầm” dữ
dội. (16) Đây đúng là đỉnh cao của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình.
"Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa ? Trong khoảng vũ trụ, đất nào
sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không
phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại
nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ
Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các
ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một
trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua
truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như thời nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi
hại, được mất ấy đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy
nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy, ta
phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng
tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị
giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!"
Lời phủ dụ của vua Quang Trung trong đoạn trích “Hoàng Lê Nhất Thống Chí Hồi thứ mười bốn” đã thể hiện rõ
nét tinh thần hướng tới tự do của cả dân tộc và ý chí quyết chiến quyết thắng giành lại đất nước. Chi tiết “Trong
khoảng vũ trụ, đất nào sao nấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị” chính
là lời khẳng định đanh thép về chủ quyền độc lập của dân tộc ta. Bên cạnh đó, ngài cũng lên án gay gắt hành vi
xâm lăng chủ quyền lãnh thổ, cướp bóc của cải, đày đọa, giết hại tàn nhẫn nhân dân ta của quân Thanh , khơi
dậy tinh thần chiến đấu, lòng thương dân, niềm căm hận và ý chí quyết chiến quyết thắng bảo vệ quê hương,
đất nước: “Từ đời Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người
mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi.” Đây chính là những lời dụ sâu sắc của bậc tướng dành
cho quân lính để nêu cao tinh thần, ý thức bảo vệ chủ quyền dân tộc. Đất nước ta trải qua bao lần xâm lược mới
có ngày hòa bình chính là nhờ công của các vị tướng vĩ đại: “đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh
Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn
chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa binh đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi chúng
về phương Bắc”. Đó chính là những tấm gương sáng để noi theo, để tiếp bước ông cha bảo vệ bờ cõi, là một
truyền thống quý báu của dân tộc Đại Việt nhằm khơi dậy niềm tự hào dân tộc, khích lệ quân lính trước cuộc
chiến đầy hiểm nguy và thức tỉnh những kẻ “ăn ở hai lòng”. “ Ở các thời ấy, Bắc Nam riêng phận, bờ cõi lặng
yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Minh đến đây, dân ta không đến nỗi khổ như thời nội thuộc xưa kia.
Mọi việc lợi hại, được mất ấy đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại khác. Nay người Thanh lại sang, mưu
đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa.” cũng
là lời khẳng định đanh thép về chủ quyền nước ta đã được chia rõ nhưng quân phương Bắc lại chưa một lần
ngưng dã tâm xâm lược nước ta. Những câu nói cuối của Quang Trung chính là lời tuyên bố đưa quân ra đánh
giặc ngoại xâm để giành lại chủ quyền tự do cho dân tộc, kêu gọi quân lính đồng tâm hiệp lực đánh đuổi giặc, và
cũng là lời răn đe dành cho những kẻ thay lòng khi bị phát giác. Qua lời phủ dụ này, ta đã thấy được trí tuệ sáng
suốt, suy nghĩ sâu sắc, nhạy bén, quyết đoán của vị anh hùng vĩ đại của dân tộc Quang Trung cùng tình đoàn
kết, quyết chiến quyết thắng của một đội quân hùng mạnh, mang tới cho đất nước sự tự do và chủ quyền dân
tộc.
BTVN 1.8
Viết một đoạn văn diễn dịch khoảng 12 câu phân tích vẻ đẹp của hình tượng hoàng đế Quang Trung
Dưới ngòi bút tài tình của các nhóm tác giả Ngô gia văn phái, hình ảnh vị hoàng đế vĩ đại Quang Trung đã được
khắc họa vô cùng sắc nét, chân thực qua đoạn trích “Hoàng Lê Nhất Thống Chí Hồi thứ mười bốn”. Đầu tiên,
ngài chính là một người anh hùng có tấm lòng yêu nước vô cùng sâu sắc. Mọi việc làm của Quang Trung trong
đoạn trích đều là vì sự nghiệp đánh giặc cứu nước, chứng tỏ ông luôn lo lắng cho đất nước, cho dân chúng. Lời
phủ dụ của Quang Trung thể hiện đậm nét tinh thần dân tộc, ý chí quyết chiến quyết thắng, đồng thời là lời
khẳng định đanh thép về chủ quyền và nền độc lập của dân tộc: “đất nào sao nấy, đều đã phân biệt rõ ràng,
phương nam, phương bắc chia nhau mà cai trị. Bên cạnh đó, Quang Trung còn rất tự tin, quyết đoán, mạnh mẽ
với các quyết định của mình, Nghe tin mất nước, tướng thua chạy nhưng ngài không hề nao núng mà dứt khoát
“định thân chinh cầm quân đi ngay”. Chỉ trong một tháng, ngài làm được rất nhiều việc: lên ngôi, xuất quân,
tuyển và duyệt binh, quét sạch quân thù. Ngài còn tự tin khẳng định “ phương lược tiến đánh đã có tính sẵn,
chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được người Thanh”, hẹn các tướng ăn tết ở Thăng Long vào mồng bảy.
Quang Trung chính là vị vua có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén và tầm nhìn xa trông rộng. Ông sáng suốt trong việc
nhìn nhận thời thế: quyết định lên ngôi để lấy chính danh đế dẹp giặc, hiểu tình hình và địa thế đất Thăng Long,
hiểu ta hiểu địch. Ngài cũng vô cùng sáng suốt trong việc dùng người, xét việc: ngài hiểu sở trường của các
tướng để các tướng hỗ trợ nhau đánh giặc, lấy văn trợ võ, nhìn nhận Ngô Thì Nhậm là bậc đại trí, nhiều lần mời
gặp. Ông khen chê đúng người đúng việc giúp các tướng, quân và lính nhìn nhận được mặt yếu kém nhưng
cũng không trách tội nặng. Hơn hết, ông còn có tài dụng binh như thần, là linh hồn của chiến lược thần tốc: Bãi
binh bố trận hợp lí, đại binh có kỉ luật và khí thế, am hiểu thiên văn địa lí, và luôn làm cho địch ở trong thế bị
động.
BTVN 8.8
Phân tích vẻ đẹp nhân cách của một người vợ thuỷ chung, đức hạnh ở Vũ Nương. (viết đoạn văn diễn dịch 12
câu)
(1)Trong tác phẩm “ Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ
đã miêu tả sâu sắc vẻ đẹp của phẩm giá và lòng tự trọng ở Vũ Nương.
(2)Trước hết, Vũ Nương là con người giàu lòng tự trọng, tình nghĩa,
mang trong mình một phẩm giá cao quý, chuẩn mực của người phụ nữ
trong thời kì Trung đại. (3)Lòng tự trọng của Vũ Nương đã thể hiện ở
việc nàng luôn coi trọng phẩm giá của mình nên sống rất khuôn phép dù
chồng ở nhà hay vắng nhà. (4)Do vậy, khi bị người chồng là Trương
Sinh nghi oan mình thất tiết, nàng không thể chịu được nỗi oan khuất
nên đã tự vẫn để chứng minh sự trong sạch của bản thân. (5)Quan niệm
của nàng là “chết trong hơn sống đục”, và cách ra đi của nàng rất bình
tĩnh , thể hiện sự kỹ càng trong suy nghĩ. (6)Trước khi ra bến Hoàng
Giang tự vẫn, Vũ Nương tắm gội chay sạch, khấn vái thần linh chứng
giám. (7)Khi đến bến Hoàng Giang, trước khi nhảy xuống sông, việc
nàng thề độc, lấy cả thân thể, danh dự sau khi chết để thề đã cho người
đọc cảm nhận được ý thức phẩm giá trang trọng của người phụ nữ này.
(8)Có lẽ, thần sông hay những vị thần tiên khác cũng cảm nhận được nỗi
oan ức cay đắng của Vũ Nương nên đã rẽ một đường nước cho cô ấy
thoát chết. (9) Dù được sống sung sướng nơi thủy cung nhưng nàng vẫn
đau đáu muốn về nhân gian để rửa nỗi oan. (10)Điều này đã thể hiện lối
sống tình nghĩa, chung thủy, có trước có sau của Vũ Nương. (11) Nàng
luôn nhớ thương quê nhà, trở về vì nỗi “Ngựa Hồ gầm gió Bắc, chim
Việt đậu cành Nam”, và chỉ ở lại thủy cung hầu hạ Linh Phi để báo đáp
ân tình của ân nhân cứu mạng. (12)Từ đó, Vũ Nương là người phụ nữ
mười phân vẹn mười, đại diện cho đạo đức truyền thống, xứng đáng
được trân trọng, yêu thương và được hưởng hạnh phúc. (13)Qua những
hình ảnh trên, ta thấy được ngòi bút cảm thông và nhân đạo của Nguyễn
Dữ đối với Vũ Nương và phẩm giá, lòng tự trọng cao quý của nàng.
BTVN 15.8
Viết đoạn văn tổng phân hợp khoảng 15 câu phân tích nguyên nhân cái chết của Vũ Nương để thấy ngòi bút
hiện thực và nhân đạo của Nguyễn Dữ trong CNCGNX.
“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ đã cho ta thấy cái chết đầy oan ức
của Vũ Nương do người chồng của nàng vô tình mang đến(1). Gia đình đang ấm êm, hạnh
phúc thì chiến tranh ập tới, vợ chồng phải xa nhau, phải sống trong “mối tình muôn dặm quan san”, vậy mà sau
ba năm xa cách, bởi nỗi buồn mất mẹ già, chàng Trương khi nghe con nói về chiếc bóng mà nàng Vũ Nương đã
đùa là cha liền nảy sinh tức giận(2). Chàng vốn hay đa nghi, cả ghen, nghe con nói vậy liền nghi ngờ rằng vợ
hư, về nhà chàng “la um lên cho hả giận”, đánh đuổi người vợ mòn mỏi ba năm một lòng một dạ chờ chồng về
từ nơi chiến trường bom khói(3). Nhưng cái thật sự đã đẩy Vũ Nương đến cái chết không đơn giản là lời nói thơ
dại của đứa con nhỏ hay tính đa nghi của chàng Trương mà là bản chất của xã hội phong kiến đương thời, đây
mới chính là nguyên nhân thật sự(4). Trong một xã hội mà chế độ nam quyền sản sinh, sự phân biệt đẳng cấp
trong hôn nhân khiến người phụ nữ có tiếng nói và địa vị yếu ớt, thấp hèn, chính Vũ Nương cũng tự biết thân
phận của mình vô cùng nhỏ bé, nàng luôn biết nàng là “con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”, còn chồng nàng
thì được sinh ra trong sự nuôi dưỡng của chế độ gia trưởng, tính độc đoán, vũ phu bao trùm lên hầu hết người
đàn ông ở xã hội này(5). Người chồng trong xã hội ấy được coi thường, khinh miệt người vợ, họ nói điều nào thì
điều ấy đúng, họ tự ý kết tội mà không cần bằng chứng, họ không cho phép người vợ được thanh minh, họ tự
cho mình quyền định đoạt số phận người vợ(6). Lễ giáo phong kiến đè nặng lên người phụ nữ những bổn phận
và định kiến dường như áp đặt quá chặt chẽ lên thân phận người con gái, xã hội đề cao danh tiết và không chấp
nhận người phụ nữ mang tiếng nhuốc nhơ, không chỉ vậy, khi bị chồng đuổi đi, nàng không thể tìm được một
cuộc sống mới hay về nhà cha mẹ đẻ vì xã hội không cho phép người phụ nữ tồn tại ngoài gia đình, Vũ Nương
cũng
không muốn cha mẹ mình bị vạ lây nên nàng không thể đi đâu cả, đành phải chọn đến cái chết đầy oan ức(7).
Người phụ nữ ở xã hội này bị trói buộc bởi những giáo điều khắc nghiệt, mất tự do, mất quyền lựa chọn chính
cuộc sống của mình, người phụ nữ dù có đức hạnh đến trọn vẹn như Vũ Nương nhưng chỉ vì một người chồng
độc đoán được sinh ra trong xã hội phong kiến như Trương Sinh thì cũng không thể thanh minh, giải oan(8). Cái
bóng mà nàng đùa với con là chi tiết thắt nút, nó đưa Vũ Nương vào oan ức và cũng khiến Vũ Nương được giải
oan, cái bóng mà nàng gửi gắm bao nhung nhớ tâm tình đến chồng lại là thứ đẩy nàng đến cái chết, nhưng cái
bóng đó lại gợi cho ta liên tưởng đến cái bóng khác, đó là cái bóng trong lòng người, ẩn dụ cho sự ngờ vực, cơn
ghen tuông mù quáng của Trương Sinh, hay là cái bóng trong xã hội, bóng ma phong kiến đổ trùm lên thân phận
con người(9). Chính cái bóng đen tối ấy đã bóp méo cái bóng ân tình vốn tốt đẹp, vốn chan chứa tình cảm của
người vợ hiếu hạnh, đạo đức, suy cho cùng, Trương Sinh cũng chỉ là nạn nhân của cái bóng ấy, chẳng ai có tội,
chỉ là họ được sinh ra trong sự nuôi dưỡng của cái bóng mà thôi(10). Qua văn bản, ta có thể thấy nỗi oan ức tày
trời của Vũ Nương khi bị đẩy vào cái chết không rõ căn nguyên, tác giả cũng từ đó ngầm phê phán xã hội mục
nát, coi phụ nữ thấp hèn, khinh miệt con gái, một xã hội bất công hàng trăm năm đã nuôi dưỡng những con
người “trọng nam khinh nữ”,đến tận hiện tại, vẫn còn những người sống trong
tư tưởng lỗi thời ấy, ta nên sống bình đẳng vì sinh mạng ai cũng đáng giá và ai cũng có quyền quyết định số
phận của chính họ(11).
a) Đoạn trích trên trích từ tác phẩm nào, của ai? Tác phẩm đó được viết bằng thể thơ nào và văn tự gì? (2 điểm)
b) Nêu biện pháp tu từ nổi bật nhất trong đoạn thơ trên và tác dụng của nó đối với việc thể hiện nội dung của
đoạn trích này. (1 điểm)
c) Viết đoạn khoảng 5 câu chỉ ra nét đặc sắc của câu thơ cuối. (2 điểm)
Câu 2:
"Chuyện người con gái Nam Xương" (Nguyễn Dữ) đã phản ánh thân phận nhỏ bé, mong manh của người phụ
nữ trong xã hội phong kiến cổ hủ, bất công. Hãy viết đoạn văn tổng phân hợp khoảng 12-15 câu phân tích để
làm rõ điều này. (5 điểm)
Câu 1:
a)
Đoạn trích trên trích từ văn bản ;Kiều ở lầu Ngưng Bích#39; trong tác phẩm ;Truyện
Kiều; của Nguyễn Du. Tác phẩm được viết theo thể thơ lục bát, văn tự Nôm.
b)
Biện pháp nổi bật nhất trong đoạn thơ là biện pháp điệp ngữ: từ ;buồn trông; xuất
hiện bốn lần ở đầu mỗi cặp câu thơ lục bát, với nghĩa gốc là ánh nhìn cánh vật nào
cũng thấy buồn. Việc lặp lại từ này nhiều lần nhằm mục đích nhấn mạnh nỗi buồn
nhiều tầng như những lớp sóng vỗ vào tâm tư của nàng Kiều trong thời gian nàng ở
lầu Ngưng Bích.
c)
Câu thơ ;Buồn trông gió cuốn mặt duềnh/Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi;
ở cuối đoạn trích ;Kiều ở lầu Ngưng Bích; của Nguyễn Du là một câu thơ đặc sắc,
vừa tả thực tâm trạng của Kiều lúc này, vừa dự báo một tương lai không lành đang
chờ cô ở phía trước. Thật vậy, vào buổi chiều (chiều hôm), cụ thể là hoàng hôn, gió
mạnh xô sóng vào đá, tiếng sóng ầm ầm làm khiếp đảm lòng người. Những động
từ mạnh (cuốn, kêu) càng làm rõ tâm trạng của Kiều lúc này: nỗi buồn trùng điệp
như những con sóng xô bờ vỗ vào tâm tư nàng, cùng với đó là sự lo sợ, kinh đảm.
Tiếng sóng không chỉ ;kêu quanh ghế ngồi; mà ở đây còn là tiếng sóng số phận,
đầy dự cảm không lành về một tương lai đầy sóng gió đang đến rất gần với Thúy
Kiều. Những nét đặc sắc nêu trên vừa khiến hai câu thơ này trở nên sâu sắc, vừa
thể hiện tài năng của Nguyễn Du với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình và những ẩn ý
phía sau mỗi hình ảnh của ông trong tác phẩm Truyện Kiều.
Câu 2:
Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ là một tác phẩm
tiêu biểu nói về số phận của người con gái trong xã hội xưa thông qua hình tượng
Vũ Nương – một người con gái đức hạnh. Có thể thấy, phẩm chất của nàng (thủy
chung với chồng, nâng niu gia đình, hiếu thảo với mẹ chồng, giàu tình nghĩa,…)
khiến cho người đọc nghĩ nàng xứng đáng có một cuộc sống hạnh phúc. Thế
nhưng, xã hội phong kiến đầy tàn ác và bất công đã ngăn cản Vũ Thị Thiết đến với
bến bờ hạnh phúc ấy. Trước hết, trong hôn nhân giữa một người ;con kẻ khó; và
một người con nhà hào phú, đã có một sự phân biệt đẳng cấp đáng kể, khiến cho
người vợ ở địa vị thấp kém, mong manh. Tiếp đến, chế độ phong kiến, cụ thể là
chế độ nam quyền đã sinh ra những con người vũ phu, độc đoán, có quyền quyết
định mọi thứ trong nhà như Trương Sinh. Hai điều này đã khiến cho chàng Trương
dễ dàng tin lời đứa con ngây thơ của mình để mắng nhiếc và đuổi vợ đi mà không
cần suy xét, còn Vũ Nương dù đã một mực thanh minh nhưng địa vị của nàng
không cho phép nàng có tiếng nói trong gia đình ấy. Hình ảnh ;cái bóng; khi đó lại
trở thành một hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng của tác phẩm, khi mà trò chơi chỉ
bóng đùa con của người mẹ lại vô tình trở thành nguyên nhân dẫn đến việc người
mẹ ấy bị đuổi đi, rồi phải tìm đến cái chết. Ngoài ;cái bóng; đùa con, còn có một
;cái bóng; khác đè nặng lên Vũ Nương, đó chính là bóng ma phong kiến, bóng ma
với những phong tục cổ hủ, bất công đè nặng lên thân phận con người. Điểm đen
tối cuối cùng trong xã hội ấy cũng chính là những phong tục, lễ giáo ấy; chúng quá
đề cao danh dự, phẩm giá con người, vì thế không chấp nhận những người phụ nữ
đã mang tiếng nhuốc nhơ. Cùng với đó, lễ giáo này cũng không cho phép họ tồn tại
ngoài phạm vi gia đình: khoảnh khắc nhà gái trao dâu cho nhà trai cũng đồng nghĩa
với việc người con dâu đã là người nhà chồng; họ không có quyền quay về vì nếu
vậy sẽ chỉ làm cho bố mẹ thêm khổ, vừa vì phải nuôi con khi tuổi già sức yếu, vừa
phải chịu những lời gièm pha từ người đời. Vì thế, khi bị đuổi khỏi nhà chồng, Vũ
Nương chẳng còn cách nào khác ngoài cách tìm đến cái chết để chứng minh sự
trong sạch của mình – một cái chết bi thương, oan khuất. Tóm lại, trong ;Chuyện
người con gái Nam Xương;, bằng ngòi bút hiện thực phê phán của mình, Nguyễn
Dữ đã phản ánh thân phận nhỏ bé, mong manh của những người phụ nữ trong xã
hội phong kiến cổ hủ, bất công; những con người đức hạnh như Vũ Nương sẽ
không có chỗ tồn tại trong thế giới ấy, mà chỉ có cách chọn cái chết nếu muốn bảo
toàn danh tiết của mình.
BTVN 22.8
Các yếu tố kì ảo có ý nghĩa như thế nào đối với "Chuyện người con gái Nam Xương"? (trình bày tự do thành
đoạn/bài theo ý thích)
BTVN 29.8
Viết đoạn văn khoảng 2/3 trang bàn về vai trò của tự học.
Trong xã hội hiện nay,những kiến thức nhà trường dạy là chưa đủ để đảm bảo
cho học sinh tích lũy kiến thức cũng như phát triển nhân cách, cùng với sự hoành
hành của dịch Covid-19 khiến việc học online là bắt buộc, việc tự học đóng vai trò
tối quan trọng trong việc quyết định thành bại của việc học đối với mỗi học sinh
chúng ta. ;Tự học; ở đây được hiểu là ý thức tự rèn luyện tích cực để thu nhận kiến
thức và hoàn thiện kỹ năng của bản thân. Tự học có nhiều hình thức, như là tự mày
mò, tìm kiếm kiến thức, học dưới sự hướng dẫn của thầy cô, hoặc rèn luyện thông
qua những bài khó…. Tuy vậy, dù theo bất cứ hình thức nào, ý thức tự giác của
người học vẫn là yếu tố quan trọng nhất trong việc tự học. Chính vì điều này, nên
vai trò đầu tiên của tự học là rèn luyện ý thức học tập chủ động, độc lập, sáng tạo,
không ỷ lại vào người khác; từ đó, ta biết cách để phát hiện và hoàn thiện những
khiếm khuyết của bản thân. Không những thế, tự học và tự tìm hiểu vấn đề còn
giúp mỗi học viên nhận thức và hiểu sâu hơn về nó, giúp học nhớ lâu và có thể vận
dụng được kiến thức từ tự học vào thực tiễn. Trong bối cảnh học online do dịch
Covid-19, tự học càng trở nên quan trọng hơn vì nếu không tự học, người học sẽ
không thể tích lũy được nhiều kiến thức như ở trên lớp; song song với đó, nếu
không có ý thức tự học, việc học online sẽ trở nên kém hiệu quả hoặc thậm chí
phản tác dụng, khi học sinh bị phân tâm vào những công việc khác như chơi game,
xem phim, dùng mạng xã hội,… Kể cả với người trưởng thành, đã đi làm, tinh thần
tự học, tự tìm kiếm và sáng tạo ra những giải pháp hiệu quả khi làm việc vẫn là cực
kì quan trọng, giúp ta vươn lên, thành công trong sự nghiệp. Trong lịch sử dân tộc,
chúng ta có rất nhiều những tấm gương tiêu biểu về tinh thần tự học như Hồ Chí
Minh, Nguyễn Hiền, Cao Bá Quát… Nhờ tinh thần tự học, họ đã vượt qua mọi
hoàn cảnh khó khăn để trở thành những bậc hiền tài, làm rạng danh quê hương, đất
nước. Tuy nhiên, bên cạnh những tấm gương nêu trên, trong xã hội còn tồn tại rất
nhiều người không có ý thức tự học, lười nhác, ý lại. Vì thế, những người đó không
thể có đủ kiến thức cần thiết để có thể vươn lên trong học tập và trong cuộc sống
sau này, nhất là trong thời đại 4.0 khi thông tin và kiến thức luôn luôn đổi mới với
tốc độ chóng mặt. Không những thế, với tính lười nhác, ỷ lại, họ không được người
khác tôn trọng và có chỗ đứng tốt trong xã hội hiện nay. Là một học sinh, tôi nhận
thức rõ tầm quan trọng của việc tự học và luôn cố gắng tự tìm hiểu, mày mò những
hiểu biết mới để hoàn thiện bản thân và không bị tụt lại trong một thế giới luôn
luôn biến đổi khó lường theo từng phút giây như hiện tại. Qua những điều trên,
một lần nữa ta khẳng định vai trò lớn lao của việc tự học đối với mọi người, dù là
học sinh hay người trưởng thành trong bối cảnh dịch bệnh như hiện nay, và cả
BT TRÊN LỚP
Trình bày suy nghĩ của em về lời bàn về đọc sách của Chu Quang Tiềm: “Học vấn không chỉ là chuyện đọc sách,
nhưng đọc sách vẫn là một con đường quan trọng của học vấn”.
Trong vấn đề đọc sách, Chu Quang Tiềm có một câu nói rất đúng đắn: ;Học vấn
không chỉ là chuyện đọc sách, nhưng đọc sách vẫn là một phần quan trọng của học
vấn;. Vế đầu của nhận định này nói rằng, học vấn không chỉ được quyết định bởi
đọc sách. Điều này là chính xác, vì học vấn là tập hợp của những kiến thức, hiểu
biết và trình độ mà mỗi cá nhân đã và đang tích lũy trong suốt cuộc đời học tập,
tìm tòi và tham khảo; đọc sách chỉ là một phương thức để giúp cho người học có
thể đạt được học vấn, chứ không phải là tất cả. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa
là hai vế của nhận định mâu thuẫn với nhau, vì học vấn dẫu được tích bằng nhiều
con đường như tra cứu thông tin trên mạng, học hỏi người khác,… nhưng những
con đường đấy có thể chứa rủi ro. Chẳng hạn như, tra cứu nhiều trên mạng làm hại
mắt và tiềm ẩn nguy cơ thông tin sai, người khác cũng chưa chắc biết được những
điều mình muốn học hỏi… Vì vậy, việc đọc sách – tinh hoa từ một hoặc nhiều thế
hệ đi trước của nhân loại – vẫn là một phương pháp đáng tin cậy trong việc nâng
cao học vấn. Đọc sách dù ở thời kì nào thì cũng là quan trọng, vì ta sẽ không thể
nào tạo ra tri thức, thành tựu mới nếu không có nền tảng từ những tri thức, thành
tựu cũ. Hơn nữa, sách không bị giới hạn bởi hoàn cảnh; dù bạn có đang ở đâu, làm
gì, bạn cũng hầu như luôn có thể giở sách ra đọc để tích lũy thêm kiến thức, cải
thiện học vấn. Vậy, làm thế nào để đọc sách hiệu quả? Câu trả lời nằm ngay trong
chính tác phẩm ;Bàn về đọc sách;: chọn cho tinh, đọc cho kĩ, chọn cho đúng
chuyên môn, kiến thức cần học. Khi chọn tinh, đọc kĩ, ta sẽ có thể tiếp thu kiến
thức trong sách một cách hiệu quả nhất; còn việc chọn cho đúng mục đích học tập
sẽ giúp chúng ta tiết kiệm thời gian quý báu bằng việc tránh được việc đọc nội
dung không có ích, thậm chí nguy hại. Dẫu tầm quan trọng của đọc sách là lớn đến
như vậy, trong xã hội vẫn còn không ít người lười đọc, không chịu mở mang kiến
thức hoặc đọc sách vô bổ, tốn thời gian. Không những thế, dù ;học vấn không chỉ
là chuyện đọc sách; nhưng cũng có những người chỉ cần đọc, tự hài lòng với vốn
kiến thức từ việc đọc mà không tìm kiếm những nguồn khác để bổ sung tri thức,
học vấn; những đối tượng nêu trên thường sẽ không có đủ kiến thức cần thiết để
thành công, nhất là trong thời thế xã hội thay đổi từng ngày như hiện nay. Là một
học sinh, tôi luôn cố gắng phát huy tối đa lợi thế của việc đọc sách, cùng với đó
liên tục tìm tòi, mở rộng hiểu biết của mình về thế giới bằng nhiều hình thức khác
như Internet, nhà trường, bạn bè,… Qua những điều trên, một lần nữa ta khẳng
định sự hợp lí của nhận định ;Học vấn không chỉ… quan trọng của học vấn.; và
rút ra bài học: Học vấn được xây dựng bởi một quá trình dài, không thể chỉ dựa
vào đọc sách, nhưng mỗi chúng ta vẫn cần phải hiểu được tầm quan trọng của việc
đọc và phối hợp nó với các hình thức học khác để sở hữu đủ kiến thức, sẵn sàng
chinh phục đỉnh cao trong tương lai, hoặc ít nhất là thành công trong sự nghiệp.
BTVN 5.9
Phân tích một điểm yếu của người Việt Nam mà em nhận thấy, từ đó nêu ra cách khắc phục.
Ngày nay, xã hội ngày càng phát triển và con người cũng trở nên văn minh, hiện đại hơn. Tuy nhiên, trên thế
giới vẫn còn nhiều người tin vào những điều mê tín dị đoan và theo em, đó cũng là một trong những điểm yếu
của người Việt Nam chúng ta. Vậy mê tín dị đoan là gì? Mê tín dị đoan là những mù quáng, tin tưởng thái quá
vào những hiện tượng siêu nhiên hay những điều phản khoa học, ví dụ như bói toán hay bùa phép. Mê tín dị
đoan có tác hại rất lớn đối với cá nhân và xã hội. Hiện tượng này có thể gây nên lãng phí về mặt tài chính hay
mất mát của người dân. Biểu hiện của mê tín dị đoan là Điều này bao gồm việc cúng tế, đốt thải tiền bạc vàng
mã vừa tốn kém lại gây ô nhiễm môi trường hay trả tiền để đi xem bói. Ngoài ra, có những trường hợp bị mắc
bệnh nhưng không đến bệnh viện mà lại tin rằng chỉ những thầy cúng mới chữa được khỏi bệnh, dẫn đến việc
bệnh không khỏi, trở nên trầm trọng hơn và thậm chí là tử vong. Thêm vào đó, những người mê tín dị đoan có
thể lôi kéo bạn bè, người thân hay những người xung quanh tham gia, gây ảnh hưởng đến trật tự xã hội.
Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này là tư duy lệch lạc và trình độ văn hóa hạn hẹp của một số người, khiến họ
tin rằng những linh hồn hay ma quỷ có tồn tại và chúng phù hộ hay oán trách con người khi làm điều sai trái. Do
đó, họ đốt vàng mã hay tiền bạc để gửi cho thế giới bên kia, hoặc khi bị bệnh thì lại cho rằng bị ma quỷ ám nên
mới đi tìm thầy cúng. Qua đó, ta có thể thấy sự nghiêm trọng của hiện tượng mê tín dị đoan. Để khắc phục điểm
yếu này, ta phải thường xuyên tuyên truyền, giúp họ phân biệt giữa tín ngưỡng và mê tín dị đoan, đồng thời phát
hiện và tố giác những người lợi dụng điều này để trục lợi.
BT TRÊN LỚP 12.9
Viết một đoạn văn bàn về ý nghĩa của việc xác lập mục tiêu trên hành trình của mỗi người.
Đời người ai cũng sẽ có một lối đi, một sự nghiệp riêng; dù vậy, việc xác định mục
tiêu trên hành trình đó luôn là một điều vô cùng quan trọng với mỗi chúng ta, bất
kể đang trong hoàn cảnh gì, theo con đường nào. Trước hết, ta cần hiểu rằng, ;mục
tiêu; chính là cái đích đến mà ta muốn đạt được và đôi khi là cả thành quả khi ta
đạt được nó. Theo định nghĩa này, ;mục tiêu; có thể được đặt ra trong gần như mọi
việc, mọi nhiệm vụ, từ những việc đơn giản trong cuộc sống hàng ngày đến những
việc lớn lao, hệ trọng. Tầm quan trọng của việc xác định mục tiêu trước hết nằm ở
chính nội lực của chúng ta. Mục tiêu giống như một ngọn hải đăng vậy, nó sẽ giúp
ta định hướng được những gì ta cần làm để đến được với nó, qua đó tạo cho chúng
ta thêm động lực để đạt được mục tiêu. Ngoài ra, việc biết được những gì cần làm
và những khó khăn trong việc thực hiện mục tiêu sẽ giúp con người ta có thể tìm ra
giải pháp để vượt qua chúng. Tiếp đến, việc xác định mục tiêu, dù là trong ngắn
hạn hay trong cả đời, cũng sẽ mang lại cho mỗi chúng ta một động lực sống, lí
tưởng sống để sống một cuộc đời thật sự ý nghĩa. Khi hoàn thành được mục tiêu,
nó sẽ khiến chúng ta thỏa mãn, hạnh phúc, hoặc thúc đẩy chúng ta đặt ra một đích
đến xa hơn để tiếp tục nỗ lực. Dù ở trong trường hợp nào, mục tiêu cũng chính là
nền tảng để mỗi con người sống một cuộc sống hạnh phúc và ý nghĩa. Cuối cùng,
việc đặt mục tiêu góp phần giúp ta hoàn thiện bản thân. Giống như câu ;Biết địch
biết ta, trăm trận trăm thắng;, mỗi khi đặt mục tiêu, chúng ta thường sẽ phải suy
nghĩ xem điểm mạnh và điểm yếu của bản thân là gì, mình đang ở đâu, và thi
thoảng là những trở ngại lớn như thế nào. Điều đó sẽ giúp chúng ta có thể suy
ngẫm và phát huy điểm mạnh của mình, đồng thời khắc phục những điểm yếu để
hoàn thành mục tiêu. Thế nhưng, trong xã hội hiện đại vẫn còn một số người sống
mà không có mục tiêu, định hướng rõ ràng; họ để mặc cho đời xô đẩy, ;tới đâu thì
tới;, ;nước đến chân mới nhảy;. Những người này sẽ thường bị rơi vào hoàn cảnh
khó khăn khi làm việc hay học tập, đặc biệt khi những trở ngại mới phát sinh vì họ
không có định hướng, mục tiêu rõ ràng; cuộc sống của họ sẽ trở nên thiếu ý nghĩa
và họ cũng khó lòng đạt được thành công trong sự nghiệp. Vậy, cần đặt mục tiêu
như thế nào? Mục tiêu xuất phát từ những mong muốn của chúng ta, nên việc đầu
tiên cần làm khi đặt mục tiêu là xác định xem bạn muốn đạt mục tiêu ở mặt nào,
lĩnh vực gì? Ngoài ra, như đã nói ở trên, chúng ta cần suy nghĩ kĩ về năng lực của
bản thân và những trở ngại khi thực hiện mục tiêu để đặt ra mục tiêu phù hợp.
Đừng đặt mục tiêu quá cao, bởi khi đó áp lực lên bản thân bạn sẽ là quá lớn, khiến
bạn càng khó đạt được nó; cũng đừng đặt mục tiêu quá thấp để làm mất đi cơ hội
và lãng phí tiềm năng của bạn. Là một học sinh, tôi luôn luôn đặt ra mục tiêu trong
những sự kiện quan trọng, rồi dồn hết tâm sức vào nó để cố gắng thành công. Dù là
học tập hay chơi game, tôi cũng luôn biết được giới hạn của mình nằm ở đâu, điểm
mạnh, yếu của bản thân là gì để đặt mục tiêu phù hợp, song song với đó là phát huy
điểm mạnh và khắc phục điểm yếu để thành công. Qua những điều trên, một lần
nữa ta thấy được tầm quan trọng của việc đặt mục tiêu trong cuộc sống của mỗi
chúng ta và rút ra bài học về cách đặt mục tiêu hiệu quả.
BTVN 12.9
Ai cũng phải đứng trước nhiều sự lựa chọn trên mỗi chặng đường đời. Sự lựa chọn thể hiện con người chúng
ta. Viết một đoạn/bài văn ngắn bàn về vấn đề đó.
Cuộc đời không bao giờ hoàn toàn đi theo ý ta muốn, và nhiều lúc chúng ta sẽ phải
lựa chọn giữa các ngã rẽ cuộc đời; sự lựa chọn này thể hiện rõ các khía cạnh của
mỗi con người chúng ta, từ tính cách đến cảm xúc, lí trí. Các ;ngã rẽ cuộc đời; ở
đây hiểu là những lựa chọn sẽ dẫn chúng ta đến những cuộc đời, số phận khác
nhau. Chúng thường liên quan đến những thời điểm quan trọng của chúng ta, như
khi ta chọn lựa ngành nghề, định hướng một startup (khởi nghiệp), bắt đầu những
mối quan hệ tình cảm… Bởi mỗi lựa chọn sẽ đưa con người ta đến với một số phận
khác nhau trong tương lai, sự lựa chọn của mỗi người trước hết cho thấy được tính
cách chung của họ. Lấy ví dụ đơn giản trong việc lựa chọn trường học: giữa việc
lựa chọn các trường tư và trường công, việc chọn trường tư sẽ phần nào cho thấy
bạn là một người ưa thích những sự đổi mới và sáng tạo; ngược lại, nếu chọn
trường công, bạn thường thiên về phương thức học tập truyền thống và muốn tiết
kiệm chi phí học cho gia đình. Bạn thích điều gì, đó là lựa chọn của bạn. Tuy
nhiên, đôi khi dù một người rất muốn đi theo một con đường mà họ thích, nhưng vì
hoàn cảnh, họ đã quyết định theo đuổi hướng đi khác, dù đó có thể không phải là
điều họ mong muốn. Vì vậy, lựa chọn của mỗi người còn cho thấy họ ưu tiên lợi
ích của bản thân, hay họ nghĩ cho nhiều người khác. Tiếp đến, bản lĩnh của mỗi
chúng ta cũng được thể hiện rõ nét thông qua những sự lựa chọn. Bản lĩnh là sự
dũng cảm, dám nghĩ dám làm, không ngại thử thách, sẵn sàng chịu trách nhiệm cho
quyết định của mình. Giữa những phương án có thể được tính đến, việc bạn có
dám làm, dám lựa chọn hay không mới là yếu tố tiên quyết để quyết định bạn có
thể thành công với lựa chọn của mình. Nếu không bản lĩnh, bạn sẽ không dám đi
theo những con đường mà bạn cho là quá mạo hiểm, qua đó làm đánh mất đi cơ
hội cũng như tiềm năng của chính mình. Cuối cùng, đứng trước những lựa chọn,
điều mà bạn cần phải biết chính là những thuận lợi và khó khăn bạn sẽ phải trải
qua, qua đó xác định xem liệu bản thân có đủ năng lực và động lực để thành công
hay không. Điều này sẽ cho thấy rằng mỗi người có hiểu được chính bản thân mình
không. Nếu có, họ sẽ chọn được con đường phù hợp; nếu không, họ sẽ dễ bị ;đứt
gánh giữa đường; và có số phận không tốt. Có thể thấy, việc chọn lựa giữa những
ngã rẽ cuộc đời là vô cùng khó khăn khi nó phản ánh rõ tính cách, bản lĩnh, năng
lực và quyết tâm của mỗi con người. Vậy, ta cần làm gì khi đứng trước những
phương án cần chọn? Trong những phân tích ở trên, tôi cũng đã nêu ra giải pháp:
hãy cân nhắc hoàn cảnh và mong muốn của bạn, cố gắng chọn con đường nào cân
bằng giữa cả hai thứ đó nhất, và một khi đã chọn thì phải chuẩn bị đủ quyết tâm,
động lực để theo đuổi nó đến cùng. Với những quyết định cần được đưa ra ngay,
bạn cần phải trải qua nhiều biến cố hay sự kiện trong cuộc đời để tích lũy kinh
nghiệm, qua đó đưa ra lựa chọn nhanh và chính xác nhất. Là một học sinh, trước
những lựa chọn về môn chuyên hay đường đời, tôi luôn suy nghĩ kĩ lưỡng về
những chông gai, vất vả sẽ phải trải qua, và so sánh những lợi ích nó mang đến so
với những gì tôi phải hi sinh cho nó, để xem mục tiêu đó có khả thi hay không. Sau
khi làm tất cả điều trên và tham khảo những ý kiến bên ngoài, tôi mới đưa ra quyết
định; điều đó giúp tôi luôn theo đuổi đến cùng và không hối hận với con đường mà
tôi đã chọn. Tóm lại, ta thấy lựa chọn giữa các ngã rẽ cuộc đời là một việc quan
trọng mà ai cũng phải trải qua, nó thể hiện những phẩm chất và bản lĩnh của một
con người; qua đó, ta rút ra bài học rằng: càng từng trải sự đời, trải qua nhiều lần
cân nhắc và lựa chọn, ta càng có thể đưa ra những lựa chọn khó khăn một cách
nhanh và tốt hơn, đề sau này ta chẳng phải hối hận gì về nó.
BT TRÊN LỚP 19.9
Viết đoạn văn diễn dịch khoảng 12 câu phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí trong bài thơ Đồng chí.
Tình đồng chí trong bài thơ “Đồng chí” của tác giả Chính Hữu được hình thành
từ những điểm chung hết sức giản dị. (1) Những người lính đều có cùng nguồn gốc
xuất thân, đều là những người nông dân, cùng đến từ những làng quê nghèo của đất
nước: “Quê hương anh nước mặn, đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
(2) Cấu trúc câu sóng đôi “quê hương anh” - “làng tôi” đã gợi lên sự hoà hợp của
hai nhân vật từ thuở đầu gặp mặt. (3) Chất liệu dân gian có trong cấu thơ đã gợi lên
cái cơ cực, khó khăn của bao miền quê, gợi sự đồng cảm giữa những người lính có
chung cảnh ngộ. (4) Hai câu thơ đầu của bài thơ rất giản dị, giàu tính dân tộc, làm
lay động trái tim người đọc. (5) Họ còn có chung một lý tưởng chiến đấu. (6) Từ
những người xa lạ, lòng yêu nước, ý chí chiến đấu để bảo vệ nền độc lập cho Tổ
quốc đã đưa họ về cùng một đội ngũ: “Anh với tôi đôi người xa lạ/ Tự phương trời
chẳng hẹn quen nhau”. (7) Cách dùng từ “đôi” đã thể hiện sự gắn bó, không thể
tách rời của hai người lính, gợi lên một sự gần gũi, thân thiết từ khi mới gặp gỡ. (8)
Họ là những người lính trong cùng một đội ngũ, có cùng hoàn cảnh, cùng lý tưởng
chiến đấu, cùng nhau luyện tập, cùng ra chiến trường: “Súng bên súng, đầu sát bên
đầu”. (9) Những người đồng đội cùng sinh hoạt, cùng trải qua khó khăn, gian khổ,
cùng nhau sẻ chia về cả vật chất lẫn tinh thần, khiến hai nhân vật thêm phần đồng
cảm: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.” (10) Sau bao gắn bó, họ trở thành đôi
tri kỉ, thể hiện một tình bạn đong đầy sự thấu hiểu, cảm thông và trân trọng lẫn
nhau. (11) Câu thơ “Đồng chí!” đặc biệt ngắn, nhưng lại là một tiếng gọi rưng rưng
một tình cảm thiêng liêng. (12) Câu thơ là một câu cảm thán tràn đầy cảm xúc, là
một khoảnh khắc xúc động, nghẹn ngào, là một sự đúc kết rất sâu sắc về nguồn cội
của tình đồng chí. (13)
BTVN 19.9
Viết đoạn văn tổng phân hợp khoảng 12 câu phân tích ba câu thơ sau để làm rõ hoàn cảnh và tâm tư của anh
bộ đội cụ Hồ trong bài thơ Đồng chí:
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính."
BTVN: Hoàn cảnh và tâm tư của người lính: Định hướng đáp án:
* Hình thức: Đúng hình thức và kiểu đoạn văn, có câu chủ đề, câu kết, không mắc các lỗi chính tả, dùng từ, diễn
đạt, ngữ pháp: 2đ
* Nội dung: 8 điểm; đảm bảo các ý sau:
- Trước hết, họ thấu hiểu cảnh ngộ, mối bận lòng của nhau về chốn quê nhà: hoàn cảnh còn nhiều khó khăn
thiếu thốn.
- Không những thế, họ còn thấu hiểu lí tưởng, ý chí lên đường giải phóng quê hương của bạn mình, chú ý phân
tích từ mặc kệ;
- Những người lính còn thấu hiểu cả nỗi nhớ quê nhà luôn đau đáu, thường trực trong tâm hồn của nhau: phân
tích hình ảnh hoán dụ và nhân hóa trong câu thơ: giếng nước gốc đa - nhớ người ra lính.
=> Quê hương nhớ người lính mà thực ra là người lính đang nhớ nhà. Nỗi nhớ hai chiều nên càng da diết, khôn
nguôi. Nhưng chính nỗi nhớ quê hương ấy lại là động lực mạnh mẽ giúp người lính quyết tâm chiến đấu.
Dưới ngòi bút giản dị mà đầy chất trữ tình của nhà thơ Chính Hữu trong tác phẩm “Đồng chí”, hoàn cảnh và tâm
tư của bộ đội thời kì đầu gian khổ của chiến dịch Việt Bắc hiện ra thật xúc động. (2) Những Hoàn cảnh, tâm tư
ấy của người bạn được giãi bày bởi nhân vật trữ tình “tôi”, khiến ta càng hiểu rằng tình đồng chí là tình cảm vượt
lên trên cả những tình bạn thông thường: hiểu bạn như hiểu chính bản thân mình. (3) Người chiến sĩ cảm thông
cho hoàn cảnh gia đình ái ngại của bạn: “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày/ Gian nhà không mặc kệ gió lung
lay”. (4)Gia đình neo đơn, gian nhà đã đơn sơ nay còn thiếu vắng bóng người, người ra đi chiến trận làm sao có
thể không day dứt được. (5) Với một người nông dân xuất thân từ miền quê nghèo của đất nước, nhà cửa,
ruộng vườn để cày cấy là tài sản vô giá:vừa là chỗ dựa cho gia đình, vừa gắn bó, mang một ý nghĩa tinh thần
lớn lao đối với họ. (6) Giờ đây đi xa,hình ảnh quê nhà hiu quạnh, lẻ loi trong gió bão lại càng xót xa đến nhường
nào. (7) Những người đồng chí còn thấu hiểu cả cho tâm tư, nỗi lòng của nhau. (8) Ra đi vì tiếng gọi của Tổ
quốc, nhưng chắc hẳn trong lòng họ vẫn còn những bứt rứt vì chưa chăm lo hết được cho gia đình, lo toan về
nhà cửa, ruộng vườn, thương xót cho người thân ở lại, nếu thiếu vắng đi một người sẽ vất vả, nhọc nhằn thêm
bao phần. (9) Dù bên ngoài có thể họ “mặc kệ”, dứt khoát ra đi, quê nhà vẫn là một phần không thể thiếu trong
trái tim, vì rằng, nếu không hướng về nơi đó, làm sao có thể ngoảnh lại để hình dung, âu lo về gia đình, vợ con,
về căn nhà thân thương đang chống chọi với gió, với bão? (10) Nỗi nhớ nhung đôi phương ấy được khắc họa rõ
nhất qua câu: “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. (11) Biện pháp nghệ thuật nhân hóa và hoán dụ ở đây
giúp ta hiểu thêm về hình ảnh thân thương này, rằng người thân nơi hậu phương và cả những gì nhỏ nhất chốn
quê hương cũng một lòng hướng về người chiến sĩ. (12) Càng Nhung nhớ da diết bao nhiêu, họ lại càng vững
tâm vượt qua mọi khó khăn, gian khổ bấy nhiêu; đó chính là nguồn động lực lớn lao của bộ đội lúc bấy giờ. (13)
Chỉ với ba câu thơ, tác giả Chính Hữu đã khắc họa nên những thổn thức khôn nguôi, cảm động trong lòng các
chiến sĩ, góp phần tô đậm thêm lòng can đảm vượt qua hoàn cảnh của họ, cũng như thêm chứng minh cho tình
đồng chí: thấu hiểu, cảm thông và luôn gắng chia sẻ với nhau – đó là “tri kỉ”!
Những câu thơ “Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau
tay nắm lấy bàn tay”trong bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu chính là những lời thơ giản dị, sâu sắc,
chứa đựng tình đồng chí thắm thiết, thiêng liêng. Những chi tiết “áo anh rách vai”, “quần tôi có vài mảnh vá”, và
“Chân không giày” đều gợi nên sự khắc khổ, gian lao nơi chiến trường vào mùa đông lạnh giá. Họ thiếu thốn
điều kiện, đến cái ăn, cái mặc còn không có đủ. Những không vì vậy mà họ trở nên bi quan, tuyệt vọng, tiêu
cực. Trái ngược với những đêm mùa đông lạnh lẽo, tối tăm, u ám, buồn bã, nguy hiểm, những nụ cười tươi tắn
mang niềm tin, hi vọng luôn nở trên môi họ. Đó là nụ cười bị tê cứng bởi sự khắc nghiệt của trời đông, nhưng
cũng đồng thời đó cũng là nụ cười rạng rỡ nhất, chứa chan bao hi vọng, mang theo niềm tin chiến thắng mọi
hoàn cảnh khắc nghiệt, là ánh sáng soi chiếu khích lệ tinh thần đồng đội. Họ động viên nhau, đồng hành cùng
nhau vượt qua muôn vàn chong gai, khắc nghiệt nơi chiến trường, là sự sẻ chia mọi khó khăn. “Thương nhau
tay nắm lấy bàn tay” chính là những lời thơ mộc mạc về sự sẻ chia mọi khó khăn, động viên nhau của những
người đồng chí. Con người ta nắm tay khi muốn truyền cho nhau hơi ấm, giúp cho đôi bàn tay lạnh giá trở nên
ấm áp hơn. Những cái nắm tay chứa chan bao yêu thương đó đã truyền hơi ấm của cơ thể cho nhau, truyền sự
ấm áp, tiếp thêm động lực, tiếp thêm năng lượng, truyền lửa, truyền sự lạc quan vượt qua khỏi hoàn cảnh bom
đạn nguy hiểm và mùa đông buốt giá để cùng cố gắng. Đó cũng là lời nhắn nhủ của người chiến sĩ dành cho
người đồng chí của mình, rằng họ sẽ luôn đồng hành bên nhau, cùng nhau vượt qua mọi gian lao, vất vả.
BTVN 03.10
Trình bày cảm nhận về vẻ đẹp của câu thơ cuối trong bài thơ Đồng chí (viết đoạn văn tổng phân hợp 10-15 câu)
Trong bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu, câu thơ cuối: “Đầu súng
trăng treo” là một câu kết bài tương đối khác biệt, ẩn chứa nhiều ý nghĩa. Câu
này xuất hiện trong hoàn cảnh hai người đồng chí đang “đứng bên nhau chờ
giặc tới’’, chuẩn bị cho trận đánh quan trọng và có thể là cuối cùng trong cuộc
đời của họ. Ngay trong khoảnh khắc chờ đợi đó, họ đã nhìn thấy vầng trăng –
thứ chợt mang tới một thoáng mộng mơ trên hành trình chiến đấu đầy gian khổ
của họ. Về nghĩa gốc, câu thơ chỉ mũi súng của người lính chĩa thẳng lên trời,
như chạm vào vầng trăng – một hình ảnh mang đầy ý nghĩa biểu tượng. Cụ thể,
súng – trăng như song hành cùng với nhau và cùng với người lính để chiến đấu,
bảo vệ Tổ quốc. Tiếp đó, khẩu súng và vầng trăng là hai hình ảnh vừa đối lập,
vừa hòa hợp với nhau: súng đại diện cho chiến tranh, hiện thực, sức mạnh và ý
chí; trăng là biểu tượng cho hòa bình và tâm hồn lãng mạn, đồng thời thể hiện
ước mơ về một ngày mai bình yên, tươi đẹp. Tựu trung lại, một hình ảnh là hiện
thân cho người lính, cái còn lại thể hiện lí tưởng cao cả cùng hình ảnh quê
hương, cả hai đều hòa vào làm một tạo nên sức mạnh, quyết tâm và ý chí của
người lính bộ đội cụ Hồ. Không chỉ có vậy, cấu trúc đặc biệt của câu thơ đã góp
phần không nhỏ trong việc tạo ra ý nghĩa của câu. Việc câu có 4 chữ cho phép
tác giả sử dụng nhịp 2/2, nhằm tạo ra sự cân xứng, hài hòa cho câu thơ và hình
ảnh. Điều này khiến cho khẩu súng như trở nên bớt khô cứng, đồng thời làm
tăng sự mộng mơ, bay bổng được thể hiện trong cuộc đời lính. Hai thanh bằng
cuối câu “trăng treo” tạo nên giọng điệu ngân nga, qua đó mở ra không gian
mênh mông lan tỏa, tăng sức chân thực và biểu cảm cho câu thơ. Tóm lại, câu
thơ “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ Đồng chí không chỉ rất đặc biệt về cấu
trúc mà còn mang nhiều nét đặc sắc về mặt hình ảnh; là một câu kết hàm súc, cô
đọng mà ý nghĩa, khẳng định sự song hành của ý chí, sức mạnh và lí tưởng cao
đẹp của người lính trong hành trình chiến đấu đầy gian khổ.
BTVN 10.10
Phân tích vẻ đẹp tâm hồn người lính trong khổ 3,4 của BTVTĐXKK bằng một đoạn văn tổng phân hợp khoảng
12-15 câu.
Chú ý: chỉ nói ngắn gọn về hoàn cảnh, tập trung khai thác phẩm chất người lính.
Khổ 3 và 4 của bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã cho ta thấy tinh thần chiến
đấu lạc quan, kiên cường của người lính bất chấp gian khổ. Trên chiếc xe không kính, người chiến sĩ đã gặp rất
nhiều khó khăn như nắng gắt khiến bụi phun trắng xóa, mưa rừng dữ dội xối xả ướt áo. Tác giả đã dùng những
động từ mạnh như “phun”, “tuôn” và “xối” để nhấn mạnh sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Ngoài ra, bụi bẩn, mưa
ướt càng trở nên bất tiện, khó chịu, cản trở đường hành quân. Tuy vậy, người lính vẫn mang một thái độ coi
thường gian khổ, thể hiện qua các cụm từ “chưa cần rửa”, “chưa cần thay”. Thêm vào đó, cụm từ “lái trăm cây
số nữa” thể hiện tinh thần hết mình vì nhiệm vụ, gạt phăng mọi trở ngại. Người chiến sĩ còn mang tác phong xuề
xòa, đậm chất lính thể hiện qua sự vui tươi, lạc quan, luôn tìm thấy tiếng cười trong gian khổ cùng với giọng điệu
hóm hỉnh, bông đùa của anh. Cụm từ “ừ thì” như một cái tặc lưỡi thản nhiên chấp nhận mọi khó khăn một cách
nhẹ nhàng. Cùng với đó, hình ảnh so sánh “bụi phun tóc trắng như người già” mang đầy chất bông đùa, hài
hước, tự trào một cách dí dỏm. Vẻ đẹp của người lính còn được thể hiện qua hình ảnh “phì phèo châm điếu
thuốc”, gợi nên tác phong nghịch ngợm hay tiếng cười ha ha gợi nên vẻ trẻ trung và hồn nhiên. Câu thơ “Mưa
ngừng, gió lùa khô mau thôi” thể hiện sự thích thú của người chiến sĩ trước cái tiện lợi của xe không kính: giúp
hóa giải khó khăn và bất tiện. Như vậy, qua 2 khổ thơ trên, ta có thể thấy thái độ lạc quan và tươi trẻ của người
lính trước những gian khó, giúp anh đẩy lùi mọi khó khăn trên chặng đường hành quân.
Ngay hai câu đầu khổ thơ cuối bài “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, tác giả
Phạm Tiến Duật đã sử dụng điệp ngữ: “không có” ba lần, “không có kính, không có
đèn, không có mui”, đi kèm là biện pháp liệt kê sự thiếu thốn của chiếc xe (1). Qua đó,
tác giả đã thành công trong việc nhấn mạnh sự khó khăn, gian khổ, nhấn mạnh một
chiếc xe thiếu đi những bộ phận bình thường, gây trở ngại cho người lính trên đường
hành quân (2). Không chỉ thế, phép điệp ngữ và liệt kê được sử dụng rất tinh tế trong
hai câu đầu khổ thơ thứ bảy đã tạo được kết cấu đầu-cuối tương ứng, đồng thời cũng
đã điệp lại và tăng tiến khó khăn của người lính so với khổ thơ đầu tiên: “không có
kính, kính vỡ đi rồi - không có kính, không có đèn, không có mui, thùng xe xước” (3).
Nhưng tiếp sau nửa đầu, nửa cuối của khổ thơ đã tạo ra một sự tương phản với khó
khăn mà người bộ đội gặp phải (4). Mặc dù khó khăn, gian khổ mà người lính gặp phải
là vô vàn, anh vẫn luôn giữ cho mình tinh thần lạc quan, vượt lên gian khó (5). Anh
“vẫn chạy” dù cho chiếc xe thiếu thốn, anh vẫn hướng đến miền Nam cho dù vẫn gặp
nhiều trở ngại, anh vẫn luôn mang trong mình một tinh thần kiên cường, bất khuất (6).
Người lính sẽ vượt qua khó khăn chỉ với “một trái tim” (7). Đó là hình ảnh hoán dụ về
người chiến sĩ yêu nước, đồng thời cũng là ẩn dụ về tính yêu nước, từ đó ta càng thấy
được niềm động lực to lớn giúp người lính có sức mạnh để đứng trên nghịch cảnh (8).
Tác giả Phạm Tiến Duật đã khắc hoạ một sự tương phản giữa muôn vàn cái “không”
về vật chất, xe không kính, không đèn, không mùi với chỉ duy nhất một cái “có” về
mặt tinh thần”, một trái tim yếu nước đã giúp tôn lên sức mạnh của lòng yêu nước, ý chí
giải phóng miền Nam, đồng thời cũng lí giải về động cơ bất diệt của chiếc xe (9). Tóm
lại, khổ thơ cuối cùng đã lí giải sức sống mãnh liệt của chiếc xe, đồng thời ca ngợi sức
mạnh dân tộc cùng ý chí kiên cường của người lính lái xe (10).
BTVN 17.10
Phân tích vẻ đẹp của tinh thần lạc quan ở người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính (đoạn văn
tổng hợp khoảng 12-15 câu).
BTVN: Phân tích tinh thần lạc quan của người lính lái xe trong bài thơ BTVTĐXKK; Định hướng đáp án:
* Hình thức: Đúng hình thức và kiểu đoạn văn, có câu chủ đề và câu kết; không mắc các lỗi chính tả, dùng từ,
diễn đạt, ngữ pháp. 2 điểm
* Nội dung: 8 điểm; đảm bảo các ý sau: Vẻ đẹp tinh thần lạc quan của người lính lái xe:
- Khổ 1:
+ Hai câu thơ đầu : giọng điệu thản nhiên pha chút ngang tàng , lời thơ mang tính khẩu ngữ, hình ảnh độc đáo,
là cách lí giải dí dỏm về những chiếc xe không kính; thể hiện tư thế hiên ngang, coi thường gian khổ của người
lính lái xe.
+ Thủ pháp đảo ngữ, đưa từ "ung dung" lên đầu câu đã gợi lên sự bình thản, điềm nhiên đến kì lạ của những
người lính.
+ Thủ pháp liệt kê "nhìn đất", "nhìn trời", "nhìn thẳng" cho thấy tư thế vững vàng, bình thản, dũng cảm của
những người lính lái xe.
- Khổ 2:
+ Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác "xoa mắt đắng": tinh thần dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn, gian khổ
của người lính
+ Cấu trúc lặp "không có ... ừ thì..." cùng kết cấu phủ định "chưa có ...": Thể hiện thái độ coi thường, bất chấp
gian khổ.
- Khổ 3,4:
+ Hình ảnh so sánh độc đáo "bụi phun tóc trắng như người già", "mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời", "phì phèo
châm điếu thuốc", "lái trăm cây số nữa", tiếng cười ha ha
=> Sự ngang tàng, phơi phới, lạc quan của những người lính, họ luôn hướng về phía trước, tìm thấy niềm vui
trong khó khăn, cái tiện lợi trong bất tiện.
- Khổ 5,6 : dù cuộc đời lính vất vả hiểm nguy, nhưng họ vẫn lạc quan: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm” - Điệp từ “lại
đi” giống như nhịp bước hành quân của người lính trên đường hành quân.
+ Hình ảnh “trời xanh thêm”: tinh thần lạc quan, yêu đời hướng về tương lai phía trước. Niềm tin và trái tim nhiệt
huyết vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Tinh thần lạc quan ở người lính lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của tác giả Phạm Tiến Duật
được thể hiện vô cùng rõ nét. Hai câu thơ đầu tiên tác giả đã sử dụng kết hợp từ phủ định và điệp ngữ “không”
lặp lại ba lần cùng một loạt các động từ mạnh “giật”, “rung” nhằm khắc họa hiện thực khốc liệt về sự ác liệt của
bom đạn và không khí dữ dội của tuyến lửa Trường Sơn, phơi bày hiện thực bề bộn với những gian lao chồng
chất, ngổn ngang của đời chiến sĩ. Tuy nhiên, bất chấp sự hiểm nguy và cái chết trong gang tấc, người lính vẫn
mang giọng điệu tự nhiên, hóm hỉnh, thản nhiên, coi thường gian khổ trong suốt hai câu thơ. Sang đến hai câu
tiếp theo, về tư thế lái xe của người lính đã có sự thay đổi .về độ dài và sử dụng từ “ta” để chỉ chung những
người lính, gợi sự kiêu hãnh, ngang tàng kết hợp cùng nghệ thuật đảo ngữ “ung dung” nhấn mạnh sự chủ động
bình thản của các người lính, tương phản với không khí chiến tranh mưa bom bão đạn nơi chiến trường ở câu
hai với điệp ngữ “nhìn” cùng nhịp thơ 2/2/2 đầy vững chắc, mạnh mẽ ở câu cuối khổ gợi hình ảnh người chiến sĩ
tự tin, quả cảm, hiên ngang. Tầm nhìn của người chiến sĩ ôm trọn cả đất trời bao la và ánh mắt thẳng thắn, kiên
định, ngời sáng chính nghĩa, toát lên khí phách anh hùng cho cả câu thơ. Tinh thần chiến đấu lạc quan, kiên
cường, bất chấp gian khổ của người lính được thể hiện rõ qua khổ thơ thứ ba và bốn.Tác giả đã sử dụng khéo
léo nghệ thuật liệt kê các động từ mạnh “phun”, “tuôn”, “xối” và điệp ngữ “không có kính” nhằm nhấn mạnh sự
khắc nghiệt của thiên nhiên và sự bất tiện của chiếc xe không có kính - bụi bẩn, mưa ướt cản trở đường hành
quân. Tuy nhiên, chi tiết “chưa cần rửa”, “chưa cần thay” đã cho ta thấy rằng người lính rất coi thường những
gian khổ ấy và vô cùng vui tươi, lạc quan, tìm thấy tiếng cười trong gian khổ. Bụi phun trắng xóa gây mất tầm
nhìn, cản trở đường hành quân nhưng trong mắt người lính lại được so sánh một cách bông đùa, hài hước, tự
trào đầy dí dỏm “như người già”. Tác phong của người lính vừa kiên cường lại xen một chút nghịch ngợm, hồn
nhiên qua hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc”, “cười ha ha”. Anh không hề cảm nhận được sự bất tiện của
chiếc xe không kính mà trái lại lại rất thích thú trước cái tiện lợi của nó - “gió lùa mau khô”. Qua đó, ta có thể thấy
là thái độ lạc quan, tươi trẻ của người lính đã đẩy lùi hết thảy những khó khăn trên chặng đường hành quân.
Nghệ thuật liệt kê “kính”, “đèn”, “mui” kết hợp điệp ngữ “không có” ở khổ cuối tạo nên kết cấu đầu - cuối tương
ứng nhằm nhấn mạnh sự thiếu thốn, gian khổ lúc bấy giờ. Chiếc xe mất đi cả những bộ phận thông thường, gây
khó khăn cho hoạt động. Tuy nhiên. dù thiếu đi những bộ phận cơ bản, chiếc xe “vẫn chạy”, vẫn kiên cường, bất
khuất vượt qua khó khăn. Điều khiến cho chiếc xe không kính kiên cường vượt qua giông bão chính là “trái tim”
được tác giả nhắc tới trong câu thơ cuối cùng. Trái tim là hoán dụ về người chiến sĩ yêu nước, cũng là ẩn dụ về
tình yêu nước. Đó là sự tương phản mãnh liệt giữa hàng vạn cái “không” của vật chất với cái “có” duy nhất về
tinh thần - lòng yêu nước nồng nàn. Từ đó, sức mạnh của lòng yêu nước, ý chí giải phóng miền Nam thân yêu
đã được thể hiện đầy tự hào. Và hơn hết, qua toàn bộ bài thơ, ta cảm nhận rõ được vẻ đẹp của tinh thần lạc
quan ở người lính lái xe trong hoàn cảnh vô cùng thử thách.
Trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, Huy Cận đã miêu tả cảnh biển hoàng hôn và hình ảnh đoàn thuyền ra khơi
đánh cá thật kì vĩ, tráng lệ qua khổ thơ:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Hai câu thơ đầu đã mở ra khung cảnh thiên nhiên vào
buổi hoàng hôn. Đây là lúc mọi vạn vật đi vào trạng thái
nghỉ ngơi nhưng cũng là khởi đầu của cuộc lao động,
chinh phục biển khơi đầy hứng khởi của người dân chài.
Biện pháp so sánh “Mặt trời xuống biển như hòn lửa”
khiến hình ảnh mặt trời trở nên gần gũi, hiền lành, nhỏ bé
như hòn lửa cháy đỏ trong bếp. Hình ảnh “sóng” và
“đêm” cũng được ẩn dụ và nhân hóa: sóng biển vỗ như
chiếc then cài ngang còn màn đêm buông xuống như cánh
cửa đóng sập. Không gian biển đêm vốn là chốn mưu sinh
nhiều nguy hiểm, bất trắc nhưng qua cái nhìn lãng mạn
của tác giả, biển gần gũi, ấm áp và an toàn như ngôi nhà
thứ hai, bao bọc, che chở cho những người dân chài. Và ở
đây, thiên nhiên trở thành phông nền cho con người xuất
hiện. Hai câu thơ tiếp theo đã khắc họa không khí đoàn
kết, đông vui, đầy hứng khởi của những người lao động.
Hai chữ “đoàn thuyền” đã gợi ra không khí lao động tập
thể tấp nập, hăng say trên đoàn thuyền đánh cá. Từ “lại”
trong câu thơ đã cho ta hiểu nhịp sống đều đặn của người
dân chài đã trở thành quy luật: khi hoàng hôn buông
xuống, họ lại bắt đầu hành trình lao động chăm chỉ lao
động của mình. Giữa không gian biển cả mênh mông, bao
la, con người hiện lên đầy ung dung, tự tin, lay gọi vũ trụ
thức cùng mình trên hành trình đánh cá. Tiếng hát được
nhân hóa hiên lên khỏe khoắn, lạc quan, gợi ra niềm vui,
tinh thần phấn chấn của những người dân chài có sức
mạnh để cùng với cơn gió thổi căng buồm đẩy thuyền ra
khơi. Qua khổ thơ đầu, tác giả đã khắc họa khởi đầu của
cuộc lao động chinh phục biển khơi đầy hứng khởi của
những người dân chài, từ đó miêu tả niềm vui tươi, tự tin
của con người giữa khung cảnh thiên nhiên thơ mộng.
BTVN 31.10
Viết đoạn văn diễn dịch khoảng 10-12 câu phân tích 3 câu đầu của bài thơ Bếp lửa, trong đó có một câu ghép,
một phép nối để liên kết câu.
Biểu điểm:
- kiểu đoạn, câu chủ đề: 1 điểm
- Yêu cầu Tiếng Việt: 1 điểm
- Hành văn: 1 điểm
- Nội dung: 7 điểm
Khổ thơ thứ ba trong bài thơ “Bếp lửa” của tác giả Bằng Việt đã khắc họa tình bà cháu thắm thiết sâu nặng (1)
Cuộc sống
của hai bà cháu đầy nhưng khó khăn, vất vả, khi trong nhà chỉ có bà đã già yếu
cùng người cháu nhỏ thơ ngây sống nương tựa nhau, bố mẹ phải đi công tác xa
nhà: “Mẹ cùng cha công tác bận không về”. (2) Quãng thời gian tám năm ròng
rã đã đè nặng lên đôi vai bà nỗi vất vả, nhọc nhằn. (3) Nỗi cô đơn của hai bà
cháu được thể hiện gián tiếp qua tiếng kêu khắc khoải của chim tu hú. (4) Âm
thanh ấy gợi ra bước đi của thời gian, gợi lên những kỉ niệm về bà cùng nỗi
nhớ da diết trong lòng người cháu. (5) Bà phải thay cha mẹ làm trụ cột trong
gia đình, nuôi dưỡng cháu cả về thể chất và tâm hồn. (6) Đồng thời, bà còn là
hậu phương vững chắc, giúp bố mẹ cháu yên tâm công tác nơi chiến trường.
(7) Bà nuôi cháu lớn, dạy bảo cháu học tập, bà kể cháu nghe những câu
chuyện trong cuộc sống: “Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế”, “Cháu ở
cùng bà, bà bảo cháu nghe/ Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”. (8) Biện
pháp liệt kê đã khắc họa rõ nét lòng biết ơn của cháu đối với bà, nhấn mạnh
nhưng công lao của bà. (9) Người cháu nhỏ thương bà vất vả, nhọc nhằn vì
cuộc sống mưu sinh khổ cực: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. (10)
Thông qua tiếng kêu của tu hú, người cháu muốn thể hiện tình cảm, nỗi niềm
sẻ chia của mình với bà. (11) Câu hỏi tu từ kết hợp với phép nhân hóa đã khắc
họa nỗi thấu hiểu và sẻ chia những gian khó, cùng nỗi cô đơn mà bà phải gánh
vác: “Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà/ Kêu chi hoài trên những cánh đồng
xa?”. (12)
BTVN 7.11
Viết đoạn văn quy nạp phân tích đoạn thơ sau trong bài Bếp lửa:
"Năm giặc đốt làng... niềm tin dai dẳng"
Trong đoạn văn có một phép lặp để liên kết câu và một câu cảm thán.
Biểu điểm:
- kiểu đoạn, câu chủ đề: 1 điểm
- Yêu cầu Tiếng Việt: 1 điểm
- Hành văn: 1 điểm
- Nội dung: 7 điểm
BTVN 14.11
Viết đoạn văn tổng phân hợp phân tích tình huống truyện Làng (Kim Lân)
Dưới ngòi bút tự nhiên, mộc mạc, thấm đượm tình người của tác giả Kim Lân, tình huống truyện Làng được xây
dựng vừa bất ngờ, éo le nhưng cũng vô cùng đắt giá. Đầu tiên, tình huống truyện là tình thế đặc biệt, sự kiện có
tính vấn đề được tạo dựng, sắp xếp để thể hiện chủ đề tác phẩm, dụng ý của tác giả. Tình huống truyện được
xây dựng như một yếu tố nghệ thuật đặc trưng của truyện ngắn, đặc sắc và mang những nét riêng thu hút người
đọc. Tình huống truyện “Làng” được xây dựng là tình huống “tin đồn thất thiệt” về việc làng Chợ Dầu theo Tây
mang theo hai bước ngoặt. Ban đầu, ông hai khi nghe tin làng theo giặc thì vô cùng bàng hoàng, nhục nhã, lo
sợ, và khi ông Hai nghe tin cải chính lại như được hồi sinh. Tình huống chính là sự hiểu lầm và hóa giải hiểu
lầm, thể hiện sâu sắc chủ đề, tư tưởng và nhân vật. Tình huống truyện vô cùng bất ngờ, là tin đồn ập xuống như
sét đánh ngang tai, được xây dựng đối lập với lòng tự hào của ông Hai dành cho mảnh đất quê hương với lòng
yêu nước, lí tưởng chiến đấu cao đẹp. Chính sự đối lập ấy đã tạo nên một cơn chấn động trong cuộc sống, làm
biến đổi sâu sắc tâm lí nhân vật, khiến truyện trở nên kịch tính. Không chỉ vậy, tình huống truyện còn vô cùng éo
le: tin đồn giáng xuống một đòn chí mạng vào lòng ông Hai, khiến ông từ lòng tự hào về quê hương trở nên nhục
nhã. Sự dằn vặt này đã tạo nên chiều sâu chân thực cho truyện. Hoàn cảnh xung đột giữa tình làng và nghĩa
nước để nhân vật đấu tranh tâm lí, giằng xé lựa chọn đã tạo nên tính đắt giá chân thực cho truyện, khiến nó trở
nên cuốn hút, sâu sắc hơn. Quyết định của nhân vật đã thể hiện chủ đề yêu nước, ủng hộ kháng chiến. Tình
huống của truyện Làng mang đến những ý nghĩa sâu sắc, tưởng như một thứ lửa vàng, một thử thách để kiểm
chứng lòng yêu nước, thương làng của ông Hai.
(1) Trong truyện ngắn Làng (Kim Lân), giây phút nghe tin đồn làng mình theo Tây, lòng ông Hai nặng trĩu với bao
tâm trạng ngổn ngang: bàng hoàng, tủi hổ, ngậm ngùi cay đắng; đây chính là mở đầu cho những dằn vặt nội tâm
sau này (2) Trước đó, ông còn vui cười, thảnh thơi ngắm trời nhìn đất, nghĩ vẩn vơ về khung cảnh làng quê yên
bình chung quanh. (3) Ấy vậy mà khi một toán người tản cư ùa tới, mang theo “tin đồn thất thiệt” rằng làng Chợ
Dầu đã tiếp tay cho giặc, ông như biến thành một con người hoàn toàn khác. (4) Phản ứng trước hết của ông là
đau đớn tột cùng: “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại”, “da mặt tê rân rân” lộ rõ vẻ xót xa, xấu hổ. (5) Đến mãi một lát
sau ông mới kìm lại được cảm xúc, cố buông ra vài tiếng để cố biện minh, bào chữa vì không tin được vào tai
mình: “Liệu có thật không hở bác? Hay chỉ lại….”. (6) Câu hỏi mà nghẹn lại như có gì đó mắc trong cổ họng
cùng với dấu ba chấm bỏ lửng đã cho ta thấy sự tủi thẹn, cay đắng. (7) Có lẽ vì ông Hai yêu làng tha thiết, vì ông
Hai là người hiểu làng mình nhất, gắn bó với làng mình hơn ai hết, tin đồn như một cú sét đánh ngang tai, giáng
một đòn chí tử vào lòng ông. (8) Và cũng vì ông là một con người có lòng yêu tổ quốc nồng thắm: càng yêu làng
bao nhiêu thì yêu nước bấy nhiêu nên sự việc diễn ra đột ngột như vậy đã càng làm tâm trí ông rối bời, đặt ông
vào một tình cảnh éo le, ngặt nghèo giữa tình làng và nghĩa nước. (9) Đây là chi tiết đắt giá, là bước ngoặt tạo
thế đối lập với hoàn cảnh trước đó, khiến câu chuyện trở nên kịch tính, thu hút hơn; và lại càng chứng tỏ sự thấu
hiểu nhân vật của Kim Lân: tâm lý nhân vật được miêu tả một cách tinh tế, phát triển dần từ nỗi tủi thẹn đến
xung đột gay gắt. (10) Cuối cùng, ông ngậm ngùi, lặng lẽ tìm cớ ra về như chạy trốn khỏi cái ám ảnh đang bao
trùm tâm trí ông. (11) Ẩn sau lời độc thoại cùng với tiếng cười nhạt “Hà, nắng gớm, về nào…” là tất cả những nỗi
hổ thẹn đang dồn nén chất chứa trong lòng ông Hai. (12) Những lời đàm tiếu, những lời kết tội của đám người
tản cư vẫn văng vẳng trong đầu ông, như cố tình khơi lên nỗi đau ông đang cố nén lại.
BTVN 21.11
Phân tích diễn biến tâm trạng ông Hai khi trở về nhà sau khi nghe tin đồn (Từ đoạn "Về đến nhà..." đến "rõ cái
cơ sự này chưa?")
Yêu cầu: viết đoạn quy nạp, trong đó có một phép nối để liên kết câu và một câu phủ định.
Nội dung: 7 điểm
Hành văn: 1 điểm
Kiểu đoạn và câu chủ đề: 1 điểm
Phép nối và câu phủ định: 1 điểm
"Cá nhụ, cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long."
(1)Ông Hai luôn tự hào, hãnh diện về tinh thần kháng chiến của làng mình vậy nên ông như sụp đổ, đau đớn sau
khi nghe tin đồn rằng làng mình theo tây.(2) Đó là lúc ông trở về nhà sau khi nghe tin dữ,ông nằm vật ra giường,
rũ rượi, kiệt quệ vì nỗi lo âu, đau đớn đang trĩu nặng trong ông.(3) Ông thẫn thờ rồi nhìn lũ con trẻ dại vô tội lại
mang tiếng Việt gian, lòng ông như quặn lại, từng giọt nước mắt cứ thế rơi ra, ông khóc vì thương con và tủi
thân.(4) Những câu hỏi độc thoại nội tâm đầy xót xa “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó
cũng bị người ta rẻ rung hắt hủi đấy ư?” cùng với lời than thân cay đắng “Khốn nạn,bằng ấy tuổi đầu…” đã phần
nào thể hiện sự đau đớn, dằn vặt trong ông (5)Càng thương con ngây thơ vô tội, ông càng căm giận người làng
bán nước(6)Ông tức giận tột cùng, nắm chặt hai tay mà rít “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà
đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này” đã bày tỏ hết thái độ căm phẫn bọn bán nước ở ông(6)
Vậy mà chỉ sau vài giây, ông lại ngờ ngợ, tự phản biện và bào chữa cho người làng căn cứ vào sự hiểu biết của
ông về họ(7)Vì thế,ông không muốn tin vào lời đồn(8) Nhưng đó không phải là tin đồn vô căn cứ, ông nghĩ đâu
phải tự nhiên người tản cư lại bịa ra những chuyện ấy,hơn nữa còn chỉ đích danh người làng theo tây là thằng
chánh Bệu(9) Lúc tin lúc ngờ, ông Hai như phân thành hai nửa, đấu tranh nội tâm dữ dội(10) Buộc phải tin, ông
đau đớn, cực khổ, tự nhận liên đới vì nỗi nhục phản quốc bằng giọng điệu vật vã “Chao ôi!Cực Nhục chưa, cả
làng Việt gian!”, sẽ không một ai chấp nhận kẻ bán nước(11) Vì thế, ông lo lắng cho cuộc sống đầy khó khăn
sau này khi không có kế mưu sinh, nơi ở (12)Hơn nửa tình đồng hương luôn mãnh liệt trong ông, ông luôn lo
lắng và thương cho những người tản cư cùng làng nhưng không hay biết rằng làng mình theo tây(13) Bằng
những câu văn độc thoại nội tâm cùng với câu hỏi tu từ dồn dập, đoạn văn đã khắc họa nỗi ê chề,đau đớn trong
tâm hồn ông Hai vì đồng hương bán nước như một dòng chảy dữ dội trong tâm trạng ông
CHÚ THÍCH:
Câu 7 là câu phủ định
Câu 11 là phép nối
Qua tác phẩm “Làng”, nhà văn Kim Lân đã khắc họa vô cùng chân thật, cảm
động tâm lí nhân vật ông Hai – nhân vật đại diện cho lý tưởng của người nông
dân thời đại cách mạng qua cuộc trò chuyện của ông Hai với đứa con út. (1)
Ông Hai buồn tủi, đơn độc, ông không biết giãi bày cùng ai nên đành trò chuyện
với đứa con ba tuổi như một cách giải tỏa những gánh nặng trong lòng. (2)
Những câu hỏi thường ngày ông vẫn hỏi con và dạy con trả lời nay lại mang ý
nghĩa sâu sắc. (3) Ông lão hỏi con về làng, như muốn nhắc nhở con về nguồn
cội và cho thấy rằng ông luôn nghĩ về làng. (4) Ông Hai hỏi con trai rằng con có
thích về làng không, gián tiếp bộc lộ tâm tình của ông, bản thân ông cũng thầm
mong được về làng sau bao lâu xa cách. (5) Ông ôm khít con vào lòng vì câu trả
lời của con như nói cho nỗi lòng của ông, khiến cho nỗi nhớ làng trào dâng, làm
ông không khỏi xúc động. (6) Tâm lý của ông Hai rất con người, rất thật, dù đã
quyết thù làng như ông vẫn không thể dứt bỏ được tình cảm với làng. (7) Ông
hỏi con ủng hộ ai để củng cố trong lòng ông tinh thần kháng chiến, vượt qua
cảm xúc yêu mến đối với làng trước đó. (8) Lời đáp của con cũng chính là lời
ông Hai thường dạy con, ông khóc vì xúc động khi nghe thấy tiếng khối óc và
con tim mình trong đó, khóc vì xót xa cho nỗi oan mang tiếng người làng Việt
gian của mình. (9) Lời độc thoại nội tâm của ông Hai như một lời thề với anh
em đồng chí, với cụ Hồ: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu
trên cổ xét soi cho bố con ông.” (10) Lời thề của ông lão rất dứt khoát, minh
bạch, được nhấn mạnh bằng phép điệp ngữ và câu đơn xuống dòng. (11)
BTVN 28.11
Viết đoạn văn quy nạp khoảng 12 câu phân tích tâm trạng ông Hai khi nghe tin đồn cải chính (truyện ngắn Làng).
Trong bài làm có một câu ghép, một phép nối để liên kết câu:
Nội dung: 7 điểm
Câu chủ đề và kiểu đoạn: 1 điểm
Tiếng Việt: 1 điểm
Hành văn: 1 điểm
Khi nghe được tin đồn cải chính, ông Hai hết sức vui mừng, mọi gánh
nặng tâm lý, những lo toan mà ông đã phải chịu đựng suốt mấy ngày cũng
không còn nữa. (1) Ông lấy lại được dáng vẻ tươi tỉnh, hoạt bát thường ngày,
miệng ông bỏm bẻm nhai trầu, mắt hấp háy cười. (2) Ông hào phóng cho quà
các con, muốn cùng các con chia vui, ông lão chưa đến bực cửa bác Thứ đã
bô bô. (3) Ông Hai khoe tin cải chính với mọi người xung quanh bằng một
cách hết sức đặc biệt, lạ lùng. (4) Ông lão háo hức khoe, giọng điệu vô cùng
phấn khích, lật đật chạy đi khoe khắp mọi nơi. (5) Ông cứ múa tay lên mà
khoe rằng nhà ông bị Tây đốt, còn đặc biệt nhấn mạnh việc nhà bị “đốt nhẵn”.
(6) Chi tiết ông Hai mừng rỡ vì nhà mình bị Tây đốt là một chi tiết hết sức vô
lý, kỳ lạ bởi lẽ mất nhà chính là mất đi sản nghiệp của cha ông, là không còn
nơi để trở về, nhưng thay vì buồn khổ thì ông lại vui mừng cực độ. (7) Tuy
vậy, chi tiết ấy ngược lại cũng là một chi tiết hợp lí vì ông Hai sử dụng chi
tiết Tây đốt nhà như một bằng chứng đanh thép cho việc làng ông không phải
là làng Việt gian. (8) Ông lão nhấn mạnh việc nhà ông bị giặc “đốt nhẵn” như
muốn khẳng định mức độ triệt để chống Tây của làng ông, cũng như sự khủng
bố của Tây khi làng ông đấu tranh chống giặc. (9) Cái tin bị đốt nhà như liều
thuốc tái sinh cho ông Hai vì nó đã giúp khôi phục danh dự cho ông và làng
của ông. (10) Ông Hai là đại diện cho hình ảnh của những người nông dân
yêu nước, không màng quyền lợi riêng tư mà đặt sự nghiệp chung lên trên hết.
(11) Tin cải chính như hồi sinh ông Hai, khiến cho ông vô cùng mừng rỡ,
giúp cho lòng yêu làng trong ông lại một lần nữa hòa hợp với tình yêu nước
BTVN 5.12
Trong bài thơ Đồng chí, Chính Hữu đã viết rất xúc động về người chiến sĩ thời kháng chiến chống Pháp:
(…) Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. (…)
2. Đoạn thơ trên là lời của ai nói với ai? Đoạn thơ nêu lên những biểu hiện chủ yếu nào của tình đồng chí? (1
điểm)
3. Qua đoạn thơ, em thấy gì về những anh bộ đội cụ Hồ trong thời kì kháng chiến chống Pháp? (1 điểm)
4. Nêu tên một bài thơ khác viết về tình bạn trong chương trình Ngữ văn THCS và chép ra 2 câu thơ viết về tình
đồng chí trong một bài thơ khác của chương trình Ngữ văn 9 (1 điểm)
5. Dựa vào đoạn thơ trên, hãy viết một đoạn văn (khoảng 12 câu) theo cách lập luận tổng hợp – phân tích – tổng
hợp trong đó có sử dụng phép thế và một câu phủ định để làm rõ sự đồng cảm, sẻ chia giữa những người đồng
đội. (Gạch dưới câu phủ định và những từ ngữ dùng làm phép thế). (6 điểm)
(Chú ý: kiểu đoạn- 1 điểm; Tiếng Việt- 1 điểm; Hành văn- 1 điểm; Nội dung: 3 điểm)
Định hướng đáp án đề bài tập đọc hiểu:
1. Giải thích ý nghĩa nhan đề bài thơ ( 1 điểm)
Đồng chí: (đồng là cùng; chí là chí hướng) Đồng chí là chung chí hướng, chung lý tưởng. Người cùng trong một
đoàn thể chính trị hay một tổ chức cách mạng thường gọi nhau là “đồng chí”. Từ sau Cách mạng tháng Tám
1945 “đồng chí” là cách xưng hô quen thuộc trong các cơ quan, đoàn thể cách mạng, đơn vị bộ đội. Vì vậy, tình
đồng chí là bản chất cách mạng của tình đồng đội và thể hiện sâu sắc tình đồng đội.
- Nhan đề thể hiện tình đồng chí cao cả, điểm tựa của những người lính trong chiến tranh gian khổ.
2. Đoạn thơ trên là lời của ai nói với ai? Đoạn thơ nêu lên những biểu hiện chủ yếu nào của tình đồng chí? (1
điểm)
- Đoạn thơ là lời của người lính nói với đồng đội mình.
- Đoạn thơ thể hiện:
+ Sự cảm thông sâu xa những hoàn cảnh, tâm tư, nỗi niềm sâu kín của nhau.
+ Thể hiện sự đồng cam, cộng khổ trong cuộc đời quân ngũ của những người lính.
3. Qua đoạn thơ, em thấy gì về những anh bộ đội cụ Hồ trong thời kì kháng chiến chống Pháp? (1 điểm)
- Người lính yêu nước, có tình yêu quê hương gia đình sâu sắc nhưng nén tình riêng để ra trận cứu nước.
- Họ có tình đồng chí sâu sắc.
4. Nêu tên một bài thơ khác viết về tình bạn trong chương trình Ngữ văn THCS và chép ra 2 câu thơ viết về tình
đồng chí trong một bài thơ khác của chương trình Ngữ văn 9 (1 điểm)
- Bài thơ viết về tình bạn: Bạn đến chơi nhà – Nguyễn Khuyến
- Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy.
5. Dựa vào đoạn thơ trên, hãy viết một đoạn văn (khoảng 12 câu) theo cách lập luận tổng hợp – phân tích – tổng
hợp; trong đó có sử dụng phép thế và một phủ định để làm rõ sự đồng cảm, sẻ chia giữa những người đồng đội.
(Gạch dưới câu phủ định và những từ ngữ dùng làm phép thế). (6 điểm)
* Hình thức:
- Đúng hình thức và kiểu đoạn văn, có câu chủ đề, câu kết: 1 điểm
- Không mắc các lỗi diễn đạt, dùng từ, chính tả, ngữ pháp: 1 điểm
- Yêu cầu tiếng Việt: câu phủ định, phép thế; gạch chân. 1 điểm
*Nội dung: 3 điểm; đảm bảo các ý sau:
- Trước hết, họ thấu hiểu cảnh ngộ, mối bận lòng của nhau về chốn quê nhà:
Đó là một hoàn cảnh còn nhiều khó khăn: neo người, thiếu sức lao động “ ruộng …cày”
+ Hình ảnh “gian nhà không” đã diễn tả cái nghèo về vật chất và thiếu thốn cả người trụ cột trong gia đình các
anh. Ruộng nương, căn nhà là những tài sản quý giá, gần gũi, gắn bó, vậy mà họ sẵn sàng bỏ lại nơi hậu
phương.
- Không những thế, họ còn thấu hiểu lí tưởng, ý chí lên đường giải phóng quê hương của bạn mình.
+ Từ “mặc kệ”: quyết tâm ra đi của những người lính; họ gửi lại quê hương, ruộng nương, gian nhà và cả những
tình cảm buồn vui của thời thơ ấu cho người thân yêu để lên đường cầm súng đánh giặc cứu nước.
- Những người lính còn thấu hiểu cả nỗi nhớ quê nhà luôn đau đáu, thường trực trong tâm hồn của nhau.
+ Hình ảnh “giếng nước gốc đa”: vừa là nhân hóa, lại vừa là hoán dụ biểu trưng cho quê hương, người thân nơi
hậu phương luôn luôn dõi theo và nhớ nhung người lính da diết.
+ Câu thơ nói quê hương nhớ người lính mà thực ra là người lính đang nhớ nhà. Nỗi nhớ hai chiều nên càng da
diết, khôn nguôi. Nhưng chính nỗi nhớ quê hương ấy lại là động lực mạnh mẽ giúp người lính quyết tâm chiến
đấu.
- Những người lính còn cùng nhau trải qua những khó khăn gian khổ của đời lính:
+ Họ chia sẻ, đùm bọc lẫn nhau khi mắc phải bệnh tật. Hình ảnh: “ớn lạnh, sốt run người, ướt mồ hôi” : là
những biểu hiện cụ thể để nói về căn bệnh sốt rét rừng rất nguy hiểm khi mà trong chiến tranh không hề có đủ
thuốc men để chạy chữa. Đây là một hình ảnh xuất phát từ cái nhìn chân thực của người lính trong chiến tranh.
+ Từ “với” trong cụm từ “anh với tôi” đã diễn tả sự sẻ chia của người lính đối với người bạn của mình khi bị ốm
sốt rét.
=> Chính sự quan tâm giữa những người lính đã trở thành điểm tựa vững chắc để họ vượt qua những gian khổ,
khó khăn.
+ Người lính đồng cam, cộng khổ khi phải đối diện với sự thiếu thốn, khó khăn về vật chất: Phép liệt kê "áo rách
vai, quần vài mảnh vá, chân không giày" miêu tả chính xác, cụ thể những thiếu thốn của người lính.
- Những người lính “thương” người đồng đội của mình: cái nắm tay hơn vạn lời nói, họ dành cho nhau
những tình cảm thân thương như người ruột thịt.
BTVN 12.12
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
2, Câu văn thể hiện yếu tố nghị luận trong đoạn trích là: “Vậy mỗi chúng ta hãy học cách viết
những nỗi đau buồn, thù hận lên cát và khắc ghi những ân nghĩa lên đá.”
3, Hành động viết lỗi lầm của người khác lên đá và khắc những ân nghĩa của người khác với
mình lên đá của nhân vật trong đoạn trích thể hiện lòng bao dung, vị tha và lòng biết ơn của
nhân vật.
4,
Trong cuộc sống, không ai là hoàn hảo, ai cũng có lúc mắc sai lầm. Vì vậy, chúng ta cần được khoan dung. Vậy
bao dung là gì? Bao dung là có tấm lòng rộng mở, độ lượng, tha thứ cho lỗi lầm của người khác và cho họ cơ
hội để sửa sai. Bao dung không chỉ đối với người khác mà baodung còn đối với chính bản thân mình. Bao dung
là đức tính quý báu mà mỗi người cần có. Một Biểu hiện điển hình của bao dung là khi cha mẹ tha thứ cho lỗi
lầm của con cái và giúp chúng sửa sai. Vậy tại sao chúng ta phải có lòng bao dung? Tha thứ cho người khác
cũng chính là để giảm gánh nặng cho chính mình, bao dung giúp chúng ta sống đẹp, chân thành, cởi mở. Bao
dung giúp người khác cũng như chính mình có cơ hội để sửa sai và khiến cho mối quan hệ xã hội trở nên tốt
đẹp. Bao dung giúp ta nhận được sự kính trọng từ người khác. Một dẫn chứng tiêu biểu là trong thời kỳ chống
Mỹ cứu nước, quân dân ta đã đối xử rất nhân đạo với lính mỹ bị bắt và họ đã vì cảm động mà tự khai ra thông
tin. Tuy nhiên, ta không được khoan dung thái quá, những người không biết nhận lỗi và sửa lỗi thì không xứng
đáng được khoan dung mà chỉ tạo cơ hội cho họ lặp lại lỗi lầm và lòng khoan dung sẽ bị sử dụng sai mục đích.
Hơn nữa, trong xã hội hiện nay vẫn còn tồn tại một số người nhỏ nhen, ích kỷ, chỉ nghĩ đến bản thân
mình,những người này đáng bị lên án. Vậy khoan dung là đức tính cao quý mà ai cũng cần phải đạt được, bản
thân em sẽ tập cách mở lòng, tha thứ cho người khác để hình thành nếp sống đẹp.
BTVN 19.12
Phần I: (7điểm):
Cho câu thơ: “Không có kính, rồi xe không có đèn...”
Câu 1(1đ):
Hãy chép tiếp 3 câu thơ còn lại để hoàn thành khổ thơ
Câu 2(1đ):
Những câu thơ trên trích trong bài thơ nào? Tác giả là ai? Nêu hoàn cảnh sáng tác bài thơ ấy.
Câu 3(1đ):
Hình ảnh những chiếc xe được miêu tả ở khổ thơ trên có điều gì khác so với khổ thơ đầu của bài thơ? Tác giả
khắc họa sự khác nhau đó nhằm mục đích gì?
Câu 4(3,5đ):
Hãy viết một đoạn văn theo cách lập luận quy nạp (khoảng 10 đến 12 câu) nêu cảm nhận của em về hình ảnh
những chiếc xe không kính và vẻ đẹp người chiến sĩ lái xe trong khổ thơ trên, trong đoạn có sử dụng câu ghép
(có gạch chân).
Câu 5(0,5đ):
Kể tên một tác phẩm khác cũng viết về đề tài người lính và ghi rõ tên tác giả.
Phần I: (3điểm): Đọc câu chuyện sau và trả lời câu hỏi:
Có một anh chàng lúc học phổ thông suốt ngày chìm đắm trong Internet, nửa đêm thường vượt tường trốn ra
khỏi trường để lên mạng.
Một hôm như thường lệ anh ta lại trèo tường ra ngoài, nhưng mới trèo được một nửa thì vội vã rút chân lại, sắc
mặt rất kì lạ, không nói không rằng.
Về sau anh ta chăm chỉ học hành, không lên mạng nữa, các bạn học còn tưởng rằng hôm đó anh ta gặp ma.
Sau này anh thi đỗ vào một trường nổi tiếng, nhân dịp này bạn bè mới hỏi chuyện trước kia, anh ta trầm ngâm
hồi lâu rồi mới nói: “Hôm đó cha tôi đến đưa tiền sinh hoạt, nhưng không nỡ ở khách sạn, nên ngồi ở chân
tường cả một đêm”.
Có tình thân, chúng ta sẽ có động lực để cố gắng tiến lên phía trước.
Tất cả những gì chúng ta làm, đều là vì thân nhân của mình, hi vọng tất cả những đứa con đều thấu hiểu được
sự vất vả của cha mẹ.
Câu 1(0,5đ):
Ghi lại lời dẫn trực tiếp có trong câu chuyện trên và chỉ rõ dấu hiệu nhận biết.
Câu 2(0,5đ):
Tại sao anh chàng luôn chìm đắm trong Internet lại chăm chỉ học hành, không lên mạng nữa?
Câu 3(2đ):Từ câu chuyện trên, hãy viết một đoạn văn nghị luận khoảng 2/3 trang giấy thi
trình bày suy nghĩ của em về vai trò của tình cảm gia đình trong cuộc sống của mỗi chúng ta.
BTTL 26.12
1. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" cho em biết điều gì sâu sắc về ý nghĩa, chủ đề tác phẩm? (5
điểm)
2. Phân tích tác dụng của phép nhân hóa trong các câu thơ của bài "Mùa xuân nho nhỏ": "Ơi con chim chiền
chiện/Hót chi mà vang trời" (viết đoạn văn khoảng 3- 5 câu (5 điểm)
BTVN 26.12
Viết đoạn văn diễn dịch khoảng 12 câu phân tích vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong khổ đầu bài
thơ Mùa xuân nho nhỏ.
BTTL 9.1
Viết đoạn văn quy nạp 12 câu phân tích khổ cuối bài Mùa xuân nho nhỏ.
BTVN 9.1
Phân tích khổ đầu bài thơ Viếng lăng Bác bằng một đoạn văn tổng phân hợp để thấy niềm xúc động của người
con miền Nam khi lần đầu được ra thăm lăng Bác.
Trong đoạn văn có một câu ghép, một phép lặp để liên kết câu (Yêu cầu chú thích rõ)
Nội dung: 7 điểm
Tiếng Việt: 1 điểm
Kiểu đoạn: 1 điểm
Hình thức: 1 điểm
BTTL 23.1
1. Tại sao nhan đề bài thơ là "Viếng lăng Bác" nhưng ở câu đầu, tác giả lại dùng từ "thăm"?
2. So sánh hình ảnh tre ở khổ đầu và khổ cuối bài thơ VLB. (trả lời thành đoạn văn ngắn khoảng 7-10 câu,
không yêu cầu về kiểu đoạn)
BTTL 6.2
Viết đoạn văn diễn dịch khoảng 10 câu phân tích khổ cuối bài thơ Sang thu.
BTVN 6.2
Khổ đầu của bài thơ Nói với con đã nhắn nhủ về tình gia đình thắm thiết, là điểm tựa của tuổi thơ con. Hãy phân
tích để làm rõ ý kiến trên bằng một đoạn văn tổng phân hợp. Trong đoạn văn có sử dụng một phép lặp để liên
kết câu và một lời dẫn gián tiếp. (chú thích)
Hình thức: 1đ
Tiếng Việt: 1 điểm
Kiểu đoạn: 1 điểm
Nội dung: 7 điểm
BTTL 13.2
Viết một đoạn văn tổng phân hợp khoảng 12 câu phân tích vẻ đẹp của đồng mình và người đồng mình trong các
câu thơ:
"Người đồng mình yêu lắm con ơi...
... Con đường cho những tấm lòng."
(Nói với con-Y Phương)
BTVN 13.2
Phân tích hình ảnh người đồng mình trong khổ hai của bài thơ Nói với con bằng một đoạn văn quy nạp. Trong
đoạn văn có sử dụng một phép thế để liên kết câu và một khởi ngữ. (chú thích)
Hình thức: 1đ
Tiếng Việt: 1 điểm
Kiểu đoạn: 1 điểm
Nội dung: 7 điểm
BTTL 20.02-nnsxx
Viết đoạn văn khoảng 12-15 câu theo kiểu diễn dịch phân tích hoàn cảnh sống và chiến đấu của các nữ thanh
niên xung phong trong truyện NNSXX.
BTVN 20.02-NNSXX
Hãy phân tích để làm rõ vẻ đẹp trong công việc của ba cô thanh niên xung phong bằng một đoạn văn tổng phân
hợp khoảng 12 câu. Trong đoạn văn có sử dụng một phép nối để liên kết câu và một khởi ngữ (chú thích)
Hình thức: 1 điểm
Tiếng Việt: 1 điểm
Kiểu đoạn: 1 điểm
Nội dung: 7 điểm
Tôi thích nhiều bài. Những bài hành khúc bộ đội hay hát trên những ngả đường mặt trận. Tôi thích dân ca quan
họ mềm mại, dịu dàng. Thích Ca-chiu-sa của Hồng quân Liên Xô. Thích ngồi bó gối mơ màng: “Về đây khi mái
tóc còn xanh xanh…”. Đó là dân ca Ý trữ tình giàu có, phải lấy giọng thật trầm. Thích nhiều. Nhưng tôi không
muốn hát lúc này. Tôi đâm cáu với chị Thao, mặc dù, tôi hiểu, những tình cảm gì đang quay cuồng trong chị. Chị
cứ đưa mắt nhìn Nho, lấy tay sửa cái cổ áo, cái ve áo và tóc nó. Chị không khóc đó thôi, chị không ưa cả nước
mắt. Nước mắt đứa nào chảy trong khi cần cái cứng cỏi của nhau này là bị xem như bằng chứng của một sự tự
nhục mạ.
Không ai nói với ai, nhưng nhìn nhau, chúng tôi đọc thấy trong mắt nhau điều đó.
(SGK tập 2,tr 119)
Phân tích những vẻ đẹp của các nữ thanh niên xung phong được thể hiện trong đoạn trích trên bằng một đoạn
văn quy nạp khoảng 12 câu, trong đó có một lời dẫn trực tiếp, một thành phần khởi ngữ (gạch chân, chú thích)
(3 ĐIỂM)
-Nội dung: 2 điểm
-Hình thức: 1 điểm
+ quy nạp: chú thích câu chủ đề và kiểu đoạn (0.25 đ)
+ viết đoạn văn, số câu: (0.25đ)
+ lời dẫn trực tiếp: (0.25 đ)
+ khởi ngữ: (0.25 đ)
Đoạn 1: “…Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít: ba lần. Tôi có nghĩ đến cái chết.
Nhưng một cái chết mờ nhạt, không cụ thể. Còn cái chính: liệu mìn có nổ, bom có nổ không? Không thì làm cách
nào để châm mìn lần hai? (SGK tập 2, tr118)
Đoạn 2: “…Tôi thích nhiều bài. Những bài hành khúc bộ đội hay hát trên những con đường mặt trận. Tôi thích
dân ca quan họ mềm mại dịu dàng. Thích Ca-chiu-sa của Hồng quân Liên Xô. Thích ngồi bó gối mơ màng: “Về
đây khi mái tóc còn xanh xanh…” Đó là dân ca Ý trữ tình, phải lấy giọng thật trầm…” (SGK tập 2, tr119)
1. (1 điểm) Nêu hoàn cảnh sáng tác của truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi.
2. (1 điểm) Các nhân vật trong đoạn trích trên sống trong hoàn cảnh như thế nào?
3. (1 điểm) Liệt kê các câu rút gọn trong hai đoạn văn trên. Nêu tác dụng của việc sử dụng những kiểu câu như
thế trong hai đoạn văn.
4. (1 điểm) Qua những điều nhân vật tôi “nghĩ” và “thích” trong hai đoạn văn, em hãy ghi ra ngắn gọn những vẻ
đẹp đáng trân trọng của con người này.
BTTL 6.3
PHẦN 1:
c. (2đ) Từ hai câu thơ "Rừng cho hoa/Con đường cho những tấm lòng" và chủ đề của bài thơ « Nói với con »,
hãy viết một bài/đoạn văn khoảng ½-2/3 trang giấy thi (1-1.5 trang giấy học sinh) trình bày suy nghĩ của em về
ân tình của quê hương với mỗi người.
BTVN 6.3
Câu 2: Viết một đoạn văn quy nạp 10-12 câu làm rõ vẻ đẹp của “người đồng mình” trong bài thơ “Nói với con”.
Câu 3: Viết một đoạn văn tổng phân hợp 12 câu nêu cảm nhận của em về tấm lòng người cha trong bài thơ “Nói
với con”
BTTL 13.3
Câu 4 ( 6 điểm).
Đọc kĩ đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi:
"...Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục ..."
(Sách Ngữ văn 9 - tập 2, tr. 72)
d. (4 điểm) Viết một đoạn văn tổng hợp – phân tích – tổng hợp khoảng 15 câu nêu cảm nhận của em về những
phẩm chất cao đẹp của người đồng mình qua những lời cha nói với con trong đoạn thơ trên. Trong đoạn văn có
sử dụng câu chứa thành phần biệt lập tình thái và một lời dẫn trực tiếp. (Gạch chân, chú thích rõ)
BTVN 13.3
Câu 4 (2 điểm):
Về đoạn thơ "Người đồng mình thương lắm con ơi... làm phong tục"
a. (0.5 điểm) Giải thích ý nghĩa cụm từ "người đồng mình" trong đoạn thơ trên.
b. (1 điểm): Tại sao ở đoạn trước tác giả dùng từ «yêu» (người đồng mình yêu lắm con ơi» nhưng ở đoạn này,
tác giả lại dùng từ «thương» ở câu thơ đầu?
c. (0.5 điểm) Chép ra và nêu tên tác giả, tác phẩm của một câu thơ khác trong chương trình cũng có từ
«thương», thể hiện tình cảm tương tự như ở đoạn trích này.
Câu 5: (3 điểm)
Bằng một đoạn văn diễn dịch khoảng 12 câu, hãy phân tích bức tranh thiên nhiên mùa thu qua cảm nhận tinh tế
của Hữu Thỉnh qua khổ hai bài "Sang thu".
BTTL 20.3
Phân tích khổ 4,5 bài thơ Mùa xuân nho nhỏ bằng một đoạn văn tổng phân hợp để thấy ước nguyện cao đẹp
của nhà thơ. Trong đoạn văn có một câu ghép, một phép lặp để liên kết câu (Yêu cầu chú thích rõ)
BTVN 20.3
Phân tích khổ 2,3 bài thơ Mùa xuân nho nhỏ bằng một đoạn văn quy nạp để thấy vẻ đẹp của mùa xuân đất
nước. Trong đoạn văn có một câu phủ định nhằm khẳng định và một phép nối để liên kết câu (Yêu cầu chú thích
rõ)
Nội dung: 2 điểm
Tiếng Việt: 1 điểm
Kiểu đoạn: 0.5 điểm
Hình thức: 0.5 điểm
1. Nêu tên tác phẩm, tác giả và hoàn cảnh ra đời tác phẩm có đoạn thơ trên. (1 điểm)
2. Khổ thơ đầu tác giả dùng đại từ “tôi” và đến khổ thơ này chuyển sang đại từ “ta”. Việc chuyển đổi đại từ có ý
nghĩa gì? (0.5 điểm)
3. Em hiểu như thế nào về cụm từ “mùa xuân nho nhỏ trong đoạn thơ trên? (0.5 điểm)
4. Hãy viết một đoạn văn khoảng 12 câu theo cách lập luận quy nạp nêu cảm nhận của em về cách sống đẹp
qua những ước muốn lặng lẽ mà cháy bỏng trong đoạn trích trên của nhân vật trữ tình. Trong đoạn văn của em
có sử dụng phép nối để liên kết câu và một câu phủ định (chú thích rõ từ ngữ chứa phép liên kết và câu phủ
định). (4 điểm)
Phần II: đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi bên dưới:
“Ngạn ngữ có câu: Thời gian là vàng. Nhưng vàng thì mua được mà thời gian không mua được. Thế mới biết
vàng có giá mà thời gian là vô giá.
Thật vậy, thời gian là sự sống. Bạn vào bệnh viện mà xem, người bệnh nặng, nếu kịp thời chạy chữa thì sống,
để chậm là chết.
Thời gian là thắng lợi. Bạn hỏi các anh bộ đội mà xem, trong chiến đấu, biết nắm bắt thời cơ, đánh địch đúng lúc
là thắng lợi, để mất thời cơ là thất bại.
Thời gian là tiền. Trong kinh doanh, sản xuất hàng hóa đúng lúc là lãi, không đúng lúc là lỗ.
Thời gian là tri thức. Phải thường xuyên học tập thì mới giỏi. Học ngoại ngữ mà bữa đực, bữa cái, thiếu kiên trì,
thì học mấy cũng không giỏi được.
Thế mới biết, nếu biết tận dụng thời gian thì làm được bao nhiêu điều cho bản thân và cho xã hội. Bỏ phí thời
gian thì có hại và về sau hối tiếc cũng không kịp.”
(Phương Liên, Thời gian là vàng, Ngữ văn 9, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam, tr.36)
a. Nêu hai biện pháp nghệ thuật chính được sử dụng trong văn bản trên. Trình bày tác dụng của một trong hai
biện pháp nghệ thuật đó với nội dung của văn bản. (1 điểm)
b. Xét về cấu tạo, câu “Thế mới biết, nếu biết tận dụng thời gian thì làm được bao nhiêu điều cho bản thân và
cho xã hội.” là kiểu câu gì? (0.5 điểm)
d. Từ thông điệp của văn bản trên, kết hợp với hiểu biết về đời sống, em hãy trình bày ý kiến của mình (trong
khoảng 2/3 trang giấy A4 hoặc 1 trang giấy học sinh) về ý kiến “Cần biết quý thời gian”.(2 điểm)