You are on page 1of 26

CÁC VẤN ĐỀ ÔN TẬP GDH

Vấn đề 1: Phân biệt các khái niệm: Giáo dục (theo nghĩa rộng), Dạy học và Giáo dục (theo
nghĩa hẹp)
Giáo dục (theo nghĩa rộng) là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch,
có nội dung và bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục tới người được giáo dục trong
các cơ quan giáo dục, nhằm hình thành nhân cách cho họ.
Giáo dục (theo nghĩa hẹp) là quá trình hình thành cho người được giáo dục lí tưởng,
động cơ, tình cảm, niềm tin, những nét tính cách của nhân cách, những hành vi, thói quen cư 
xử đúng đắn trong xã hội thông qua việc tổ chức cho họ các hoạt động và giao lưu.
Dạy học là quá trình tác động qua lại giữa người dạy và người học nhằm giúp cho người
học lĩnh hội những tri thức khoa học, kĩ năng hoạt động nhận thức và thực tiễn, phát triển các
năng lực hoạt động sáng tạo, trên cơ sở đó hình thành thế giới quan và các phẩm chất nhân
cách của người học theo mục đích giáo dục.
* Phân biệt các khái niệm trên
Các khái niệm trên gắn với các quá trình giáo dục (theo nghĩa rộng), quá trình giáo
dục (theo nghĩa hẹp) và quá trình dạy học được phân biệt ở sự khác nhau về việc thực hiện
chức năng trội của chúng:
- Chức năng trội của giáo dục (theo nghĩa rộng): phát triển nhân cách toàn diện ở người
học sinh bao gồm cả năng lực và phẩm chất
- Chức năng trội của giáo dục (theo nghĩa hẹp): phát triển về mặt phẩm chất ở người học
sinh
- Chức năng trội của dạy học triển về mặt năng lực ở người học sinh

Vấn đề 2: Hãy trình bày và phân tích các chức năng xã hội của giáo dục, từ đó rút ra
những kết luận sư phạm cần thiết.
Giáo dục là quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa nhà giáo dục và người được
giáo dục nhằm hình thành và phát triển nhân cách theo những yêu cầu của xã hội.
Với tư cách là một hiện tượng xã hội, giáo dục tác động vào từng cá nhân để trở thành
những nhân cách theo yêu cầu phát triển của xã hội. Giáo dục tác động đến các lĩnh vực
của đời sống xã hội, đến các quá trình xã hội mà con người là chủ thể. Những tác động đó,
xét dưới góc độ xã hội học, được gọi là những chức năng xã hội của giáo dục. Giáo dục
trong xã hội xã hội chủ nghĩa đã thực hiện 3 chức năng xã hội của mình: Chức năng kinh
tế- sản xuất; chức năng chính trị- xã hội và chức năng tư tưởng- văn hóa.
1. Chức năng kinh tế - sản xuất
Giáo dục tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo nên sức lao động mới có chất lượng cao
hơn, thay thế sức lao động cũ đã lạc hậu, đã già cỗi hoặc đã mất đi bằng cách phát triển
những năng lực chung và năng lực chuyên biệt của con người, nhằm tạo ra một năng suất
lao động cao hơn, thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế xã hội.
Xã hội hiện đại đặt ra những yêu cầu cao đối với chất lượng nguồn nhân lực: có trình
độ học vấn cao, có tay nghề vững vàng, năng động, sáng tạo, linh hoạt để thích nghi, đáp
ứng được những yêu cầu của tiến trình phát triển xã hội. Dạy học theo tiếp cận năng lực là
một trong giải pháp quan trọng để phát triển năng lực hành động cho người học trong các
nhà trường, đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động hiện nay.
Kết luận sư phạm:
- Giáo dục luôn gắn kết với thực tiễn xã hội.
- Tiếp tục thực hiện mục tiêu: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
- Hệ thống giáo dục nhà trường không ngừng đổi mới nhằm phát triển năng lực hành
động cho người học, đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn nghề nghiệp.
2. Chức năng chính trị - xã hội
Giáo dục tác động đến cấu trúc xã hội, tức là tác động đến các bộ phận, các thành phần
xã hội (các giai cấp, các tầng lớp, các nhóm xã hội...) làm thay đổi tính chất mối quan hệ
giữa các bộ phận, thành phần đó bằng cách nâng cao trình độ văn hóa chung cho toàn thể
xã hội.
Giáo dục trở thành phương tiện, công cụ để khai sáng nhận thức, bồi dưỡng tình cảm,
củng cố niềm tin, kích thích hành động của tất cả các lực lượng xã hội, nhằm duy trì, củng
cố thể chế chính trị- xã hội cho một quốc gia nào đó.
Giáo dục xã hội chủ nghĩa góp phần làm cho cấu trúc xã hội trở nên thuần nhất, làm
cho các giai cấp, các tầng lớp, các thành phần xã hội.. ngày càng xích lại gần nhau.
Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước, đại diện cho quyền lực “của
dân, do dân, vì dân” trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
giáo dục là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Giáo dục phục vụ cho mục
tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Kết luận sư phạm:
- Người giáo viên luôn phải nắm vững quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp
luật của nhà nước.
- Giúp học sinh hiểu, tin tưởng và thực hiện theo đường lối, chủ trương của Đảng, pháp
luật của nhà nước
3. Chức năng tư tưởng – văn hóa
Với chức năng tư tưởng- văn hóa, giáo dục tham gia vào việc xây dựng một hệ tư
tưởng chi phối toàn xã hội, xây dựng một lối sống phổ biến trong xã hội bằng cách phổ cập
giáo dục phổ thông với trình độ ngày càng cao cho mọi tầng lớp xã hội.
Thông qua giáo dục, những tư tưởng xã hội được thấm đến từng con người, giáo dục
hình thành ở con người thế giới quan, giáo dục ý thức, hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo
đức xã hội. Nhờ giáo dục, tất cả các giá trị văn hoá của nhân loại, của dân tộc, của cộng
đồng được bảo tồn và phát triển, trở thành hệ thống giá trị của từng con người.
Kết luận sư phạm
- Đa dạng hóa các loại hình và phương thức đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc
dân,nhằm tạo cơ hội cho người dân được đi học và học suốt đời
- Sử dụng sức mạnh của các phương tiện thông tin đại chúng.
 Trong ba chức năng xã hội của giáo dục, chức năng kinh tế - sản xuất là chức năng quan
trọng nhất, nó là cơ sở để thực hiện chức năng chính trị - xã hội, chức năng tư tưởng – văn
hóa.

Vấn đề 3. Trình bày các tính chất của Giáo dục


Tính phổ biến, vĩnh hằng của giáo dục
- Giáo dục chỉ có ở xã hội loài người, nó là một phần không thể tách rời của đời sống xã
hội, giáo dục có ở mọi thời đại, mọi thiết chế xã hội khác nhau.
- Giáo dục xuất hiện cùng với sự xuất hiện của xã hội và nó mất đi khi xã hội không tồn
tại, là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân và xã hội
loài người.
- Như vậy, giáo dục tồn tại cùng với sự tồn tại của xã hội loài người, là con đường đặc
trưng cơ bản để loài người tồn tại và phát triển.
Tính lịch sử của giáo dục (Giáo dục chịu sự quy định của xã hội)
- Giáo dục là một hoạt động gắn liền với tiến trình đi lên của xã hội, ở mỗi giai đoạn phát
triển của lịch sử đều có nền giáo dục tương ứng, khi xã hội chuyển từ hình thái kinh tế – xã
hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác thì toàn bộ hệ thống giáo dục tương ứng cũng
biến đổi theo.
- Giáo dục chịu sự quy định của xã hội, nó phản ánh trình độ phát triển kinh tế – xã hội và
đáp ứng các yêu cầu kinh tế – xã hội trong những điều kiện cụ thể. Giáo dục luôn biến đổi
trong quá trình phát triển của lịch sử loài người, không có một nền giáo dục rập khuôn cho
mọi hình thái kinh tế – xã hội, cho mọi giai đoạn của mỗi hình thái kinh tế – xã hội cũng như
cho mọi quốc gia, chính vì vậy giáo dục mang tính lịch sử. Ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau
thì giáo dục khác nhau về mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục. Các
chính sách giáo dục luôn được hoàn thiện dưới ảnh hưởng của những kinh nghiệm và các kết
quả nghiên cứu.
Tính giai cấp của giáo dục
- Trong xã hội có giai cấp, giáo dục bao giờ cũng mang tính giai cấp.
- Giáo dục thuộc về một giai cấp xác định – giai cấp thống trị xã hội.
- Giáo dục được sử dụng như một công cụ để duy trì và củng cố vai trò thống trị của
mình.
- Giáo dục cũng được sử dụng như một công cụ, phương tiện để đấu tranh giai cấp – đối
với giai cấp bị bóc lột, bị thống trị.
- Giáo dục làm phương tiện đánh tranh, lật đổ giai cấp thống trị
- Tính giai cấp của giáo dục thường được biểu hiện qua mục đích giáo dục và nó chi phối,
định hướng chính trị đối với sự vận động và phát triển của giáo dục.
- Theo V.I.Lênin: Trong xã hội có giai cấp, không thể có thêm một nền giáo dục, một nhà
trường nào lại đứng trên hay đứng ngoài giai cấp.
Ở Việt Nam, mục đích của Nhà nước ta là hướng tới xóa bỏ áp bức bóc lột, từ đó hướng
tới sự bình đẳng, công bằng trong giáo dục. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, bên cạnh
những mặt tích cực cơ bản vẫn có những mặt trái khó tránh được, nhà nước ta đã cố gắng đưa
ra những chính sách đảm bảo công bằng trong giáo dục như:
– Mọi công dân đều có quyền tiếp cận hệ thống giáo dục.
– Đảm bảo cho những học sinh, sinh viên có năng khiếu, tài năng tiếp tục được đào tạo
lên cao bất kể điều kiện kinh tế, hoàn cảnh, giới tính, dân tộc, tôn giáo v.v. .
– Tiến hành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục.
– Đa dạng, mềm dẻo các loại hình đào tạo, các loại hình trường lớp nhằm tạo cơ hội học
tập cho mọi tầng lớp nhân dân.

Vấn đề 4: Hãy phân tích vai trò của yếu tố giáo dục đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách, từ đó rút ra những kết luận sư phạm cần thiết.
Trả lời:
1. Khái niệm con người, cá nhân và nhân cách
- Con người là một thực thể sinh vật- xã hội mang bản chất xã hội, là chủ thể của hoạt
động nhận thức và thực tiễn, của những quan hệ xã hội và giao tiếp.
- Cá nhân là một thực thể sinh vật- xã hội- văn hóa với các đặc điểm về sinh lý, tâm lý và
xã hội trong sự liên hệ thống nhất với các chức năng xã hội chung của loài người.
- Nhân cách là hệ thống giá trị làm người mà cá nhân đạt được với sự trưởng thành về
phẩm chất và năng lực trong quá trình thực hiện các chức năng xã hội của mình, được xã hội
đánh giá và thừa nhận.
2. Khái niệm sự phát triển cá nhân
Phát triển cá nhân thực chất là khẳng định bản chất xã hội của con người, khẳng
định trình độ phát triển nhân cách của chính cá nhân. Sự phát triển nhân cách cá nhân
được biểu hiện qua những dấu hiệu sau:
- Sự phát triển về mặt thể chất: Thể hiện ở sự tăng trưởng về chiều cao, trọng lượng,
cơ bắp, sự hoàn thiện chức năng các giác quan, sự phối hợp các chức năng vận động của
cơ thể.
- Sự phát triển về mặt tâm lý: Thể hiện sự biến đổi cơ bản trong đời sống tâm lý của cá
nhân: trình độ nhận thức, khả năng tư duy, quan điểm, lập trường, thói quen, xúc cảm, tình
cảm, tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu, ý chí, v.v...
- Sự phát triển về mặt xã hội: Thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử trong các mối quan hệ
với những người xung quanh, ở tính tích cực nhận thức tham gia vào các hoạt động cải
biến, phát triển xã hội.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân
Yếu tố Vai trò

Sinh học (Di truyền – Bẩm sinh) Tiền đề vật chất

Môi trường Điều kiện

Giáo dục Chủ đạo

Hoạt động cá nhân Quyết định trực tiếp

4. Khái niệm giáo dục


Giáo dục là quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa nhà giáo dục và người được
giáo dục nhằm hình thành và phát triển nhân cách theo những yêu cầu của xã hội.
5. Vai trò của yếu tố giáo dục
Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách, bởi
vì nó được thực hiện theo định hướng thống nhất vì mục đích nhân cách lý tưởng mà xã hội
đang yêu cầu.
6. Vai trò của yếu tố giáo dục đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách được thể
hiện:
- Giáo dục không chỉ vạch ra chiều hướng, mục tiêu hình thành và phát triển nhân cách
của học sinh mà còn tổ chức, chỉ đạo, dẫn dắt học sinh thực hiện quá trình đó đến kết quả
mong muốn.
- Giáo dục là những tác động tự giác có điều khiển, có thể mang lại những tiến bộ mà
các yếu tố di truyền bẩm sinh hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể tạo ra được do tác
động tự phát.
- Giáo dục có sức mạnh cải biến những nét tính cách, hành thành phẩm chất lệch lạc
không phù hợp với yêu cầu, chuẩn mực của xã hội. Đó chính là kết quả quan trọng của
giáo dục lại đối với trẻ em hư hoặc người phạm pháp.
- Giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người khuyết tật hoặc thiểu năng
do bệnh tật, tai nạn hoặc bẩm sinh, di truyền tạo ra. Nhờ có sự can thiệp sớm, nhờ có
phương pháp giáo dục, rèn luyện đặc biệt cùng với sự hỗ trợ của các phương tiện khoa học
có thể giúp cho người khuyết tật, thiểu năng phục hồi một phần chức năng đã mất hoặc
phát triển các chức năng khác nhằm bù trừ những chức năng bị khiếm khuyết, giúp cho họ
hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng.
- Giáo dục là những tác động có điều khiển và điều chỉnh cho nên không những thích
ứng với các yếu tố di truyền, bẩm sinh, môi trường, hoàn cảnh trong quá trình hình thành
và phát triển nhân cách mà nó còn có khả năng kìm hãm hoặc thúc đẩy các yếu tố ảnh
hưởng đến quá trình đó theo một gia tốc phù hợp mã di truyền và môi trường không thể
thực hiện được.
Chú ý: Liên hệ để xây dựng ví dụ minh họa cho từng nội dung
7. Kết luận sư phạm
- Cần có nhận thức đúng đắn về vai trò của giáo dục đến sự hình thành và phát triển nhân
cách.
- Biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục ở người học
- Tổ chức quá trình giáo dục một cách khoa học, hợp lý:
+ Phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý HS
+ Yêu cầu giáo dục mang tính vừa sức với HS
+ Tổ chức các hoạt động và giao lưu đa dạng, phong phú cho HS
+ Lựa chọn nội dung giáo dục phù hợp và các phương pháp giáo dục khoa học
+ Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa nhà giáo dục và người được giáo dục
+ Khơi dậy khả năng tiềm ẩn, tố chất di truyền, tính tích cực trong hoạt động cá nhân của
học sinh nhằm mang lại hiệu quả cho quá trình giáo dục
Vấn đề 5: Đặc điểm, bản chất của quá trình giáo dục
1. Khái niệm quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp)
Quá trình giáo dục là một quá trình trong đó dưới vai trò chủ đạo của nhà giáo dục, người
được giáo dục tự giác, tích cực, chủ động tự giáo dục nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo
dục.
2. Những căn cứ xác định bản chất của quá trình giáo dục
- Quá trình xã hội hóa cá nhân: Đây là quá trình biến cá nhân thành một thành viên của xã
hội, có đầy đủ các giá trị xã hội để tham gia vào các hoạt động xã hội.
- Mối quan hệ giữa nhà giáo dục và người được giáo dục : Đây là mối quan hệ sư phạm –
một loại quan hệ xã hội đặc thù.
3. Bản chất của Quá trình giáo dục
Bản chất của quá trình giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống, tổ chức các hoạt động và
giao lưu cho người được giáo dục tham gia một cách tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo nhằm
chuyển hóa những yêu cầu và những chuẩn mực của xã hội quy định thành hành vi và thói
quen hành vi tương ứng ở họ trên cơ sở đó, thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục.
a. Quá trình giáo dục – quá trình xã hội nhằm giúp đối tượng giáo dục biến các yêu cầu
khách quan thành yêu cầu chủ quan của cá nhân
Quá trình giáo dục nhằm hình thành và phát triển cá nhân con người trở thành những
thành viên xã hội. Những thành viên này phải thỏa mãn được hai mặt: vừa phù hợp (thích
ứng) với các yêu cầu xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển, vừa có khả năng tác động cải tạo, xây
dựng xã hội làm cho nó tồn tại và phát triển. Những nét bản chất của cá nhân con người chính
là do các mối quan hệ xã hội hợp thành. Quá trình giáo dục là quá trình làm cho đối tượng
giáo dục ý thức được các quan hệ xã hội và các giá trị của nó, biết vận dụng vào các lĩnh vực
của đời sống xã hội: kinh tế, văn hóa – xã hội, đạo đức, tôn giáo, pháp luật, gia đình, ứng xử
… nhằm thỏa mãn nhu cầu của cá nhân và yêu cầu của xã hội.
Khi đứa trẻ mới sinh ra, ý thức, nhân cách của nó chưa được hình thành. Các chuẩn mực,
các quy tắc … của xã hội vốn tồn tại khách quan bên ngoài, độc lập với đứa trẻ. Quá trình trẻ
lớn lên trong môi trường văn minh của xã hội loài người, thẩm thấu những giá trị văn hóa của
loài người để tạo ra nhân cách của chính mình – quá trình xã hội hóa con người. Đó là quá
trình giúp trẻ biến những yêu cầu khách quan của xã hội thành ý thức, thành niềm tin và thái
độ, thành những thuộc tính, những phẩm chất nhân cách của cá nhân. Bên cạnh đó, quá trình
này cũng giúp đối tượng biết loại bỏ khỏi bản thân những quan niệm, những biểu hiện tiêu
cực, tàn dư cũ, lạc hậu không còn phù hợp với xã hội hiện đại.
b. Quá trình giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống, hoạt động và giao lưu cho đối tượng
giáo dục
Quá trình giáo dục là quá trình hình thành bản chất người – bản chất xã hội trong mỗi cá
nhân một cách có ý thức, là quá trình tổ chức để mỗi cá nhân chiếm lĩnh được các kinh
nghiệm xã hội.
Hoạt động và giao lưu là hai mặt cơ bản, thống nhất trong cuộc sống của con người và
cũng là điều kiện tất yếu của sự hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân. Tâm lí học đã
khẳng định: hoạt động và giao lưu vừa là nguồn gốc vừa là động lực của sự hình thành và
phát triển nhân cách.
Các thuyết về hoạt động đã chứng tỏ là con người muốn tồn tại và phát triển phải có hoạt
động và giao lưu. Nếu các hoạt động và giao lưu của cá nhân (hoặc nhóm người) được tổ
chức một cách khoa học với các điều kiện, phương tiện hoạt động tiên tiến, phong phú, cá
nhân được tham gia vào các hoạt động và giao lưu đó thì sẽ có rất nhiều cơ hội tốt cho sự phát
triển.
Chính vì vậy quá trình giáo dục vừa mang tính chất của hoạt động, vừa mang tính chất
của giao lưu. Giáo dục là một quá trình tác động qua lại mang tính xã hội giữa nhà giáo dục
và đối tượng giáo dục, giữa các đối tượng giáo dục với nhau và với các lực lượng, các quan hệ
xã hội trong và ngoài nhà trường.
4. Kết luận sư phạm
- Cần tổ chức các hoạt động và giao lưu đa dạng, phong phú, hấp dẫn cho học sinh.
- Bồi dưỡng tính tự tin và tinh thần tập thể cho học sinh trong khi tổ chức các hoạt động
giáo dục
- Phát huy tính tích cực của học sinh trong các hoạt động do nhường tổ chức….

(*) Trình bày và phân tích các đặc điểm của quá trình giáo dục, từ đó rút ra những kết
luận sư phạm cần thiết (theo nghĩa hẹp)
Quá trình giáo dục là một quá trình trong đó dưới vai trò chủ đạo của nhà giáo dục, người
được giáo dục tự giác, tích cực, chủ động tự giáo dục nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo
dục.
2. Đặc điểm của quá trình giáo dục
a. Giáo dục là một quá trình có tính mục đích: Mọi tác động giáo dục đều có mục đích
nhất định.
Mục đích giáo dục xuất phát từ những yêu cầu xã hội về phẩm chất nhân cách con người,
bị chi phối bởi trình độ kinh tế xã hội.
- Giáo dục là một quá trình có tính lâu dài: Quá trình giáo dục nhằm hình thành những
phẩm chất, những nhân cách của cá nhân nên nó đòi hỏi một thời gian lâu dài mới đạt được
kết quả. Tính chất lâu dài của quá trình giáo dục được xem xét ở các góc độ sau:
+ Quá trình giáo dục được thực hiện trong suốt cả cuộc đời con người từ khi sinh ra cho
đến khi không còn sống nữa (Giáo dục suốt đời).
+ Việc hình thành một phẩm chất nhân cách cũng cần có thời gian lâu dài. Việc hình
thành và trở nên bền vững, ổn định của một hành vi, thói quen của cá nhân đòi hỏi một thời
gian lâu dài đi từ nhận thức đến niềm tin, thái độ đến hành vi thói quen, công việc đó không
phải một sớm một chiều mà có được.
+Quá trình hình thành một phẩm chất nhân cách đòi hỏi một thời gian lâu dài, việc sửa
đổi, cải tạo một nét nhân cách là đòi hỏi lâu dài hơn.
+ Những phẩm chất mới của nhân cách chỉ có được và trở nên vững chắc khi người
được giáo dục tiếp nhận và trải qua một thời gian tập luyện và thể nghiệm, thể hiện, đấu tranh
bản thân trong cuộc sống thực tế để trở thành kinh nghiệm sống của chính mình càng đòi hỏi
một thời gian lâu dài.
+ Kết quả tác động giáo dục, nhất là các tác động nhằm hình thành nhận thức mới, niềm
tin ...thường khó nhận thấy ngay và có thể kết quả đó lại bị biến đổi hoặc bị mất đi. Do đó
công tác giáo dục phải được tiến hành bền bỉ, liên tục theo một kế hoạch ổn định, lâu dài đồng
thời trong quá trình giáo dục phải phát huy cao độ tính tự giác, nỗ lực tự giáo dục kéo dài, liên
tục của người được giáo dục thì mới đạt được hiệu quả cả quá trình giáo dục.
Kết luận sư phạm: Trong quá trình giáo dục nhà giáo dục không được nôn nóng, vội
vàng, đốt cháy giai đoạn. Nhà giáo dục cần phải có đức tính kiên trì, bền bỉ, có tính tự kiềm
chế cao.
b. Giáo dục là một quá trình có tính phức tạp và chịu tác động bởi nhiều nhân tố:
Tính phức tạp được thể hiện ở chỗ:
+ Tính phức tạp của quá trình giáo dục trước hết nằm ở đối tượng của nó. Đối tượng
của quá trình giáo dục là con người, thực chất là tâm hồn con người, cái người khác không
trực tiếp nhìn thấy, còn đối tượng của các quá trình hoạt động khác có thể nhìn thấy được một
cách trực quan, có thể tri giác trực tiếp. Quá trình giáo dục tạo ra sự chuyển biến trong tâm
hồn mỗi con người cũng không thể đánh giá ngay được, khó định lượng được một cách rõ
ràng. Mỗi cá nhân là một thế giới đầy bí ẩn và hết sức phức tạp, đòi hỏi phải có thời gian và
điều kiện mới có thể nhận thức được.
+ Thứ hai kết quả quá trình giáo dục chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố khách
quan, chủ quan, bên trong, bên ngoài khác nhau. Vì vậy trong quá trình tiến hành giáo dục
nhà giáo dục cần quan tâm đến các điều kiện, các yếu tố khách quan, chủ quan, bên trong, bên
ngoài của quá trình giáo dục. Đó là các điều kiện kinh tế chính trị, tôn giáo, phong tục tập
quán, văn hoá...đặc điểm tâm sinh lý, hoàn cảnh sống, điều kiện gia đình...của đối tượng.
Muốn giáo dục có hiệu quả nhà giáo dục phải hiểu đối tượng, nắm bắt được đối tượng.
+ Thứ ba, kết quả quá trình giáo dục không nhìn thấy ngay được, không đánh giá ngay
được, là những cái khó định tính, định lượng một cách chính xác. Kết quả giáo dục phải có
thời gian, có điều kiện , hoàn cảnh mới bộc lộ ra ngoài. Vì vậy việc đánh giá con người, đánh
giá kết quả quá trình giáo dục phải hết sức thận trọng, đòi hỏi phải có phương pháp phù hợp,
phải có thời gian và hoàn. Kết quả của hoạt động giáo dục nhiều khi không tỷ lệ thuận với
cường độ lao động, với sự đầu tư... tất cả những điều đó nói lên tính khó khăn, phức tạp của
quá trình giáo dục.
c. Quá trình giáo dục bao giờ cũng mang tính cụ thể:
Quá trình giáo dục được thực hiện trong cuộc sống, hoạt động và giao lưu của mỗi cá
nhân. Với tư cách là người được giáo dục, tiếp nhận các tác động giáo dục theo những quy
luật chung mang tính khái quát, đồng thời giáo dục lại phải chú ý tới những đặc điểm riêng
biệt, cụ thể của đối tượng thì mới có hiệu quả do tránh được những tác động một cách cứng
nhắc, công thức giáo điều.
Tính cụ thể của quá trình giáo dục được thể hiện:
+ Tác động giáo dục theo từng cá nhân người được giáo dục với những tình huống
giáo dục cụ thể, riêng biệt.
+ Mỗi học sinh đề là một cá nhân có tính độc lập tương đối của nó về trình độ được
giáo dục, về kinh nghiệm sống, về thái độ, về tình cảm, thói quen…nên quá trình tác động
giáo dục phải phù hợp với cái riêng, cụ thể của họ, giáo dục phải đi sát, phù hợp với đối
tượng chính là thể hiện sự nhận thức đúng đắn về đặc điểm này của quá trình giáo dục.
+ Công tác giáo dục phải tính đến đặc điểm của từng loại đối tượng cụ thể: Đặc điểm
tâm lý lứa tuổi, điều kiện hoàn cảnh sống, những diễn biến phức tạp, éo le của từng tình
huống cụ thể để nhà giáo dục có thể tìm thấy hoặc dự đoán những nguyên nhân của các biểu
hiện (thái độ, hành vi, thói quen) từ đó mới có biện pháp phù hợp.
+ Quá trình giáo dục luôn phải giải quyết những mâu thuẫn, xung đột cụ thể giữa yêu
cầu, nhiệm vụ giáo dục và phẩm chất, năng lực tâm lý của người được giáo dục . Mâu thuẫn
trong quá trình giáo dục thường nảy khi học sinh phải giải quyết một nhiệm vụ giáo dục mới
nhưng trình độ giáo dục hiện có lại chưa đủ.
+ Quá trình giáo dục phải đặc biệt chú ý rèn luyện, luyện tập phương thức, thao tác, kỹ
năng thể hiện các yêu cầu, nội dung giáo dục, biến những yêu cầu từ bên ngoài thành nét tính
cách riêng, độc đáo của mỗi con người. Đó cũng chính là kết quả phải đạt được của quá trình
giáo dục.
+ Quá trình giáo dục được diễn ra trong thời gian, thời điểm, không gian với những
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
+ Kết quả quá trình giáo dục cũng mang tính cụ thể đối với từng loại đối tượng giáo
dục, đối với từng mặt, từng yêu cầu giáo dục hoặc tổng quát trọn vẹn của một quá trình giáo
dục cho những đối tượng cụ thể.
Vì giáo dục mang tính cá biệt, cụ thể tức là giáo dục phải phù hợp với từng cá nhân cụ
thể, từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể mới có hiệu quả nên trong quá trình giáo dục, nhà giáo
dục phải thực sự thương yêu học sinh, quan tâm sâu sát học sinh để hiểu tường tận về các em,
có vậy mới có thể có cách tác động phù hợp với từng đối tượng.
d. Quá trình giáo dục thống nhất biến chứng với quá trình dạy học
- Giáo dục và dạy học là hai quá trình có cùng mục đích là hình thành và phát triển
nhân cách, tuy nhiên chúng không đồng nhất.
- Dạy học nhằm tổ chức, điều khiển để người học chiếm lĩnh có chất lượng và hiệu
quả nội dung học vấn; giáo dục hình thành những phẩm chất đạo đức, hành vi, thói quen. . .
hai hoạt động này không tách biệt mà có quan hệ biện chứng với nhau. Trên cơ sở thực hiện
các nhiệm vụ dạy học thì thế giới quan và các phẩm chất đạo đức của học sinh được hình
thành và phát triển, ngược lại, giáo dục tốt các phẩm chất sẽ thúc đẩy hoạt động đạt kết quả
cao, dạy học là quá trình điều khiển được, còn quá trình giáo dục là quá trình phức tạp khó
kiểm soát.
- Học sinh là khách thể (đối tượng) của quá trình giáo dục, là chủ thể của quá trình tựu
giáo dục: Trong quá trình giáo dục học sinh luôn nhận các tác động giáo dục từ phía nhà giáo
dục các lực lượng giáo dục khác, khi đó học sinh là khách thể của quá trình giáo dục. Nhưng
khi tiếp nhận các tác động giáo dục đó, người học không hoàn toàn thụ động mà là một thực
thể xã hội, có ý thức mang tính tích cực, học sinh với tư cách là chủ thể của quá trình giáo dục
khi nó tự giác, chủ động và tích cực thực hiện các yêu cầu của giáo dục từ bên ngoài. Hiệu
quả quá trình giáo dục phụ thuộc rất lớn vào vào tính chủ thể này của người được giáo dục.
Tóm lại: Trên đây là những đặc điểm cơ bản của quá trình giáo dục. Để thực hiện tốt
quá trình giáo dục, các nhà giáo dục cần nghiên cứu kỹ và nắm vững được những đặc điểm
nêu trên của quá trình giáo dục.
Vấn đề 6 : Nội dung và phương pháp giáo dục
(*) Nội dung giáo dục
Nội dung giáo dục là hệ thống những tri thức, thái độ, hành vi, thói quen hành vi phù hợp
với những chuẩn mực xã hội quy định cần được giáo dục cho người được giáo dục.
Nội dung giáo dục trong nhà trường được thiết kế theo mục đích giáo dục, được chi tiết
hóa thành từng mảng cụ thể phù hợp với trình độ, lứa tuổi, theo từng cấp học, phù hợp với
từng tình huống giáo dục cụ thể.
Nội dung giáo dục trong nhà trường bao gồm giáo dục đạo đức và ý thức công dân, giáo dục
văn hóa, thẩm mỹ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động và hướng nghiệp, giáo dục môi
trường, giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản, giáo dục dân số, giáo dục phòng chống các tệ
nạn xã hội,…

(*) Trình bày khái niệm và đặc điểm của phương pháp giáo dục
Phương pháp là một thành tố quan trọng của quá trình giáo dục. Thực tiễn hoạt động
giáo dục cho thấy: trong cùng một hoạt động giáo dục với mục tiêu, chủ thể, đối tượng, điều
kiện, phương tiện thực hiện hoạt động là như nhau nhưng kết quả của hoạt động mang lại
khác nhau. Có thể lí giải sự khác nhau này chính là do phương pháp tiến hành hoạt động đó có
sự khác nhau.
Phương pháp là từ gốc tiếng Hy Lạp “Metodos” có nghĩa là con đường theo dõi đối
tượng.
Phương pháp cũng đồng nghĩa với biện pháp kỹ thuật, biện pháp khoa học, tổ hợp
những quy luật, nguyên tắc chỉ đạo hoạt động của con người đạt đến mục đích đặt ra…
Theo quan niệm của Hêghen: “Phương pháp là ý thức về hình thức vận động bên trong
của nội dung sự vật” (V.I.Lênin, 1963, Bút kí triết học, Nxb Sự thật, tr 103). Hình thức vận
động bên ngoài nhưng lại có liên quan đến nội dung (các quy luật) của sự vật. Điều này có
nghĩa là muốn có phương pháp thì cần phải nhận thức và hành động tuân theo các quy luật
của sự vật hiện tượng mà con người đã nhận thức được.
Theo Paplop: “Phương pháp khoa học là những quy luật nội tại của sự vận động của tư
duy với tư cách là sự phản ánh chủ quan về thế giới khách quan” … “là những quy luật khách
quan được “chuyển” và “dịch” trong ý thức của con người và được sử dụng một cách có ý
thức và có hệ thống như một phương tiện để giải thích và cải tạo thế giới” (Tôđo Páp lốp,
1949, Lí luận phản ánh, Mát cơ va, Sách tiếng Nga). Như vậy muốn có phương pháp thì cần
phải nhận thức được quy luật khách quan và hành động phù hợp với quy luật khách quan đó.
Từ các quan niệm nêu trên về phương pháp ta có thể định nghĩa một cách khái quát về
phương pháp như sau: Phương pháp là con đường, là cách thức hoặc trình tự thực hiện các
công việc cụ thể để đạt được mục tiêu đặt ra.
Như chúng ta đã biết, bản chất của quá trình giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống, các
hoạt động và giao lưu cho người được giáo dục tham gia nhằm giúp người được giáo dục
chuyển hóa các yêu cầu chuẩn mực xã hội thành hành vi và thói quen hành vi tương ứng ở họ.
Chính vì vậy, bản chất phương pháp giáo dục là cách thức tổ chức cuộc sống, các hoạt động
và giao lưu cho người được giáo dục tham gia ở gia đình, nhà trường và xã hội nhằm đạt được
các mục tiêu giáo dục đặt ra.
Trong quá trình giáo dục luôn bao gồm sự tác động qua lại của hai chủ thể giáo dục là
nhà giáo dục giáo dục) và người được giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục đặt ra. Mỗi
chủ thể có vai trò, chức năng riêng trong quá trình giáo dục. Nhà giáo dục có vai trò là người
tổ chức các hoạt động giáo dục nhằm tạo môi trường giáo dục tích cực để người được giáo
dục tham gia trên cơ sở đó thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục. Bên cạnh đó, người được giáo
dục với tư cách là chủ thể hoạt động quyết định sự lựa chọn các tác động giáo dục từ môi
trường và quyết định sự phát triển nhân cách của bản thân. Vì vậy trong quá trình giáo dục,
phương pháp giáo dục được hiểu như sau:
 Phương pháp giáo dục là hệ thống cách thức hoạt động của nhà giáo dục và người
được giáo dục thực hiện trong sự thống nhất với nhau nhằm thực hiện tốt các nhiệm
vụ giáo dục phù hợp với mục đích giáo dục đặt ra. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu
giáo dục đặt ra đòi hỏi hệ thống các cách thức hành động của nhà giáo dục phải phù
hợp với bản chất, quy luật của quá trình giáo dục và đối tượng giáo dục.
Phương pháp giáo dục là một khái niệm phức hợp, có nhiều bình diện, phương diện khác
nhau. Có thể nêu ra một số đặc trưng của phương pháp giáo dục như sau:
- Phương pháp giáo dục dựa trên cơ sở định hướng của mục đích giáo dục.
- Phương pháp giáo dục là sự thống nhất của cách thức tổ chức của nhà giáo dục và cách
thức tham gia tích cực tự giáo dục của người được giáo dục.
- Phương pháp giáo dục thực hiện thống nhất tác động tới nhận thức, thái độ và hành vi
ứng xử của người được giáo dục trong quá trình giáo dục.
- Phương pháp giáo dục là sự thống nhất của logic nội dung giáo dục và lôgic tâm lý của
người được giáo dục.
- Phương pháp giáo dục có tính khách quan và chủ quan.
- Phương pháp giáo dục là sự thống nhất của cách thức hành động với điều kiện phương
tiện giáo dục.
- Phương pháp giáo dục phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện và đặc điểm tâm sinh lý của
đối tượng giáo dục cụ thể.
 Kết luận: để có hiệu quả của hoạt động giáo dục đòi hỏi nhà giáo dục khi lựa chọn, sử
dụng các phương pháp giáo dục cần phải tìm hiểu, nghiên cứu kĩ mục đích, mục tiêu,
nội dung, nhiệm vụ, đối tượng, phương tiện, môi trường, hoàn cảnh giáo dục cụ thể.

(*)Trình bày hệ thống các phương pháp giáo dục


1. Khái niệm phương pháp giáo dục
Phương pháp giáo dục là hệ thống cách thức hoạt động của nhà giáo dục và người được
giáo dục thực hiện trong sự thống nhất với nhau nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục
phù hợp với mục đích giáo dục đặt ra.
2. Một số cách phân loại các phương pháp giáo dục
Quá trình giáo dục là một quá trình phức tạp, các phương pháp giáo dục được hiểu trên
nhiều bình diện khác nhau và có cách phân chia nhóm phương pháp giáo dục gọi tên khác
nhau.
Sau đây là một số cách phân loại các phương pháp giáo dục:
- Dựa trên cơ sở lực lượng giáo dục tham gia vào quá trình giáo dục ta có các phương
pháp giáo dục: Nhóm phương pháp giáo dục gia đình, nhóm phương pháp giáo dục xã hội,
nhóm phương pháp giáo dục đoàn thể, nhóm phương pháp giáo dục nhà trường.
- Dựa trên cơ sở nội dung giáo dục, ta có các phương pháp giáo dục: phương pháp
giáo dục đạo đức, phương pháp giáo dục thẩm mỹ, phương pháp giáo dục pháp luật....
- Dựa trên cơ sở đặc điểm tâm lý lứa tuổi của đối tượng giáo dục ta có các phương
pháp giáo dục: phương pháp giáo dục trẻ trước tuổi học, phương pháp giáo dục học sinh tiểu
học, phương pháp giáo dục học sinh THPT....
- Dựa trên cơ sở tiếp cận phương thức tác động giáo dục trực tiếp hay gián tiếp đối
tượng giáo dục ta có: phương pháp giáo dục tác động “tay đôi”, phương pháp “bùng nổ sư
phạm”, phương pháp giáo dục tác động song song, phương pháp tạo dư luận…
- Dựa trên cơ sở quy trình các khâu của quá trình giáo dục, ta có 3 nhóm phương pháp
giáo dục sau đây:
+ Nhóm các phương pháp hình thành ý thức cá nhân của người được giáo dục về
các chuẩn mực xã hội quy định (Đàm thoại, Kể chuyện, Giảng giải, Nêu gương)
+ Nhóm các phương pháp tổ chức hoạt động hình thành hành vi và thói quen hành
vi ứng xử cho người được giáo dục phù hợp với các chuẩn mực xã hội (CMXH) quy định
(Phương pháp giao việc, Phương pháp tập luyện, Phương pháp rèn luyện)
+ Nhóm các phương pháp kích thích và điều chỉnh hành vi ứng xử của người được
giáo dục phù hợp với các CMXH quy định (Khen thưởng, Trách phạt, Phương pháp thi đua )
Các cách phân chia phương pháp giáo dục nêu trên đều dựa trên các cách tiếp cận
khác nhau và tùy thuộc vào mục đích, mục tiêu giáo dục đặt ra mà nhà giáo dục lựa chọn, sử
dụng các phương pháp giáo dục cho phù hợp.
3. Hệ thống các phương pháp giáo dục
Theo cách phân loại phổ biến về hệ thống các phương pháp giáo dục - cách phân loại
dựa trên cơ sở logic của quá trình giáo dục, hệ thống các phương pháp giáo dục bao gồm:
(1) Nhóm các phương pháp hình thành ý thức cá nhân của người được giáo dục
- Đàm thoại
- Kể chuyện
- Giảng giải
- Nêu gương
(2) Nhóm các PP hình thành hành vi và thói quen hành vi của người được giáo dục
- Yêu cầu sư phạm
- Luyện tập
- Rèn luyện
(3) Nhóm các PP kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi ứng xử của người được giáo
dục
- Khen thưởng
- Trách phạt
- Thi đua
Cách phân chia các phương pháp giáo dục thành 3 nhóm phương pháp nêu trên chỉ có
tính chất tương đối. Quá trình giáo dục tác động tới người được giáo dục không nhất thiết
phải tuần tự tác động tới nhận thức, cảm xúc, tình cảm rồi mới tác động tới hành vi, thói quen
hành vi ứng xử của người được giáo dục. Trong thực tiễn giáo dục, các tác động giáo dục luôn
đan xen vào nhau, hỗ trợ cho nhau và thực hiện một cách linh hoạt với những đặc điểm tâm lý
lứa tuổi của người được giáo dục khác nhau, trong những tình huống, bối cảnh giáo dục đa
dạng của cuộc sống.
(*) Trình bày và phân tích nội dung của PP đàm thoại trong giáo dục. Liên hệ thực tiễn
Đàm thoại là phương pháp trò chuyện chủ yếu giữa nhà giáo dục và người được giáo dục
về các chủ đề có liên quan đến các CMXH nói chung, các chuẩn mực đạo đức, pháp luật,
thẩm mỹ nói riêng bằng một hệ thống các câu hỏi do nhà giáo dục chuẩn bị trước.
Các loại đàm thoại: tùy vào mục tiêu của hoạt động đàm thoại, ta có các loại như sau: đàm
thoại gợi mở, đàm thoại củng cố, hệ thống hoá...

Ý nghĩa của phương pháp đàm thoại:


+ Thông qua đàm thoại, người được giáo dục có cơ hội giải thích, đánh giá những sự
kiện, hiện tượng có liên quan đến các hành vi tích cực hay tiêu cực, giải thích những tình
huống đạo đức, pháp luật…trên cơ sở đó nắm vững được những tri thức về các CMXH quy
định và từ đó rút ra những kết luận bổ ích cho bản thân.
+ Thông qua đàm thoại, người được giáo dục có điều kiện để khắc sâu, phát triển, hệ
thống hoá những vấn đề có liên quan đến các CMXH đã được giáo dục, từ đó hình thành, phát
triển xúc cảm, tình cảm tích cực đối với các CMXH.
+ Qua đàm thoại sẽ hình thành và phát triển được ở người được giáo dục niềm tin đối
với các CMXH và trên cơ sở đó hình thành được ý thức cá nhân của người được giáo dục đối
với các CMXH quy định.
Yêu cầu thực hiện phương pháp đàm thoại:
+ Công tác chuẩn bị đàm thoại:
Nhà giáo dục cần xác định rõ chủ đề, mục tiêu, nội dung của buổi đàm thoại; xây dựng
hệ thống câu hỏi (chính – phụ) và thông báo cho người được GD chuẩn bị trước.
+ Tổ chức đàm thoại: Người tổ chức nêu lên chủ đề, mục tiêu, nội dung và các câu hỏi
đặt ra của buổi đàm thoại; Sau đó tổ chức trò chuyện giữa nhà giáo dục với người được giáo
dục và giữa những người được giáo dục với nhau; Các ý kiến được lật đi lật lại cho đến khi
hoàn thành mục tiêu chủ đề đàm thoại.
+ Kết thúc đàm thoại: Nhà giáo dục cần kích thích những người được giáo dục rút ra
những kết luận, bài học cần thiết đối với bản thân và những người xung quanh. Sau cùng nhà
giáo dục tổng kết đánh giá kết quả đàm thoại.
Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ

(*)Trình bày và phân tích nội dung của PP kể chuyện trong giáo dục. Liên hệ thực tiễn
Kể chuyện là phương pháp tác động rất mạnh mẽ tới cảm xúc của người nghe thông qua
cách thức kể chuyện của người kể và các nhân vật, tình huống trong nội dung của cốt truyện.
Vì vậy, kể chuyện là phương pháp được sử dụng rất phổ biến trong quá trình giáo dục với
những người được giáo dục nhỏ tuổi.
- Định nghĩa kể chuyện là phương pháp nhà giáo dục dùng lời nói, điệu bộ, cử chỉ, nét
mặt để thuật lại một cách sinh động một câu chuyện có ý nghĩa giáo dục.
Ý nghĩa của phương pháp kể chuyện:
+ Qua nội dung truyện kể và cách thức kể chuyện, người được giáo dục sẽ hình thành
phát triển tri thức, xúc cảm tình cảm tích cực, niềm tin đúng đắn đối với các CMXH.
+ Người được giáo dục sẽ học tập được những gương tốt và tránh được những gương
phản diện với óc phê phán nhận xét, đánh giá thông qua nội dung câu chuyện.
Yêu cầu khi thực hiện phương pháp kể chuyện:
+ Lựa chọn truyện kể: Nhà giáo dục cần trên cơ sở mục tiêu giáo dục, với đối tượng
giáo dục cụ thể xác định chủ đề truyện kể; Lựa chọn cốt truyện được xây dựng phong phú,
hấp dẫn chứa đựng các tình huống giáo dục hướng tới mục tiêu giáo dục; Lưu ý khối lượng
truyện kể phải phù hợp về mặt thời gian, phù hợp với trình độ nhận thức, đặc điểm tâm sinh lý
người được giáo dục.
+ Người kể chuyện phải thể hiện lời nói sinh động, giọng nói, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt
phải phù hợp với các tình tiết, các nhân vật trong cốt truyện. Nhằm gây sự tập trung chú ý,
cảm xúc mạnh mẽ cho người được giáo dục; Lưu ý có thể có thể kết hợp với băng hình, các
bức tranh ảnh minh hoạ cho những tình huống nổi bật.
+ Sau khi kể chuyện : Đối với người được giáo dục tuổi nhỏ, nhà giáo dục có thể yêu
cầu trẻ tập kể lại và nêu một số câu hỏi cho người được giáo dục trao đổi nhằm khắc sâu
những bài học về các CMXH, củng cố niềm tin đối với các CMXH và phát triển năng lực
tưởng tượng sáng tạo của người được giáo dục.
Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ

(*) Trình bày và phân tích nội dung của phương pháp giảng giải trong giáo dục. Liên hệ
thực tiễn
Giảng giải là phương pháp trong đó, nhà giáo dục dùng lời nói để giải thích, chứng minh
các CMXH đã được quy định, nhằm giúp cho người được giáo dục hiểu và nắm được ý nghĩa,
nội dung, quy tắc thực hiện các chuẩn mực này.
Ý nghĩa phương pháp giảng giải:
+ Người được giáo dục nắm vững những tri thức về các CMXH một cách tự giác trên
cơ sở những luận cứ, luận chứng khoa học, ví dụ cụ thể, rõ ràng… thông qua cách phân tích,
giảng giải của nhà giáo dục.
+ Thông qua giảng giải giúp hình thành niềm tin ở người được giáo dục về các CMXH
quy định.
+ Qua giảng giải người được giáo dục tránh được các tình trạng: nắm các CMXH, mù
quáng, máy móc, hình thức dẫn đến những hành vi tương ứng không tự giác.
Yêu cầu trong quá trình giảng giải:
+ Chuẩn bị nội dung diễn giải đầy đủ, chính xác, đáp ứng các câu hỏi: Tại sao? Nội
dung gồm? Thực hiện theo quy tắc nào?
+ Khi giảng giải phải:
● Lời nói: rõ ràng, khúc chiết, không lan man dài dòng.
● Lập luận: chính xác, dễ hiểu, lô gíc.
● Minh họa: Tranh ảnh, băng hình (nếu cần), giáo dục thực tế gần gũi đời thường
của người được giáo dục.
● Có thể và nên thu hút người được giáo dục tham gia vào giải thích chứng
minh… và rút ra kết luận trong quá trình giảng giải.
● Nên liên hệ để người được giáo dục liên hệ với thực tế, với bản thân.
Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ

(*)Trình bày và phân tích nội dung của PP nêu gương trong giáo dục. Liên hệ thực tiễn
Nêu gương là phương pháp dùng những tấm gương sáng của các cá nhân hoặc của tập thể
để kích thích những người được giáo dục học tập và làm theo.
Phương pháp nêu gương có thể dùng những tấm gương tốt để người được giáo dục học
tập và gương xấu để tránh những hành vi tương tự.
+ Nêu gương tốt (chính diện) nhằm giúp người được giáo dục khắc phục những khó
khăn gặp phải của bản thân, học tập và làm theo gương tốt, hướng vào những hành vi tích cực
(làm việc thiện).
Ví dụ về những tấm gương tốt: học sinh học giỏi, giúp đỡ bạn, giúp đỡ những người có
hoàn cảnh khó khăn, luôn có trách nhiệm, nhiệt tình trong các hoạt động, “sinh viên nghèo
vượt khó”, “các nhà doanh nghiệp trẻ”, lao động giỏi, dũng cảm hy sinh vì nước vì dân, …
+ Nêu gương xấu (gương phản diện) nhằm giúp người được giáo dục phân tích, tránh
hành vi tương tự.
Ví dụ gương xấu như: lười học, chơi bời lêu lổng, cờ bạc rượu chè, ăn cắp, gây gổ, ăn
nói vô lễ, trốn thuế…
Ý nghĩa phương pháp nêu gương:
+ Qua nêu gương, nhà giáo dục sẽ giúp người được giáo dục phát triển năng lực phê
phán, đánh giá được hành vi của người khác và rút ra những kết luận bổ ích.
+ Người được giáo dục biết học những gương tốt đồng thời biết tránh gương xấu trong
cuộc sống và các hoạt động thực tiễn.
+ Qua việc phân tích, đánh giá của nhà giáo dục về những tấm gương sẽ giúp người
được giáo dục hình thành niềm tin về các CMXH và mong muốn có những hành vi phù hợp
với các CMXH quy định.
Yêu cầu thực hiện phương pháp nêu gương:
+ Trên cơ sở: mục tiêu, nội dung giáo dục cụ thể, đặc điểm tâm sinh lí của người
được giáo dục, nhà giáo dục lựa chọn những tấm gương sáng và gương phản diện cho phù
hợp. Tránh lạm dụng những gương phản diện vì dễ dẫn tới tác dụng phản giáo dục.
+ Những tấm gương lựa chọn phải thoả mãn điều kiện sau đây:
● Gần gũi với cuộc sống đời thường của người được giáo dục, tránh xa lạ, không
thích hợp.
● Có tính điển hình, cụ thể. Tránh lan man, chung chung.
● Phải có tính khả thi với người được giáo dục. “Tránh” quá lý tưởng nên người
được giáo dục chỉ có thể “chiêm ngưỡng” mà không bắt chước được.
+ Trong quá trình nêu gương, nhà giáo dục nên khuyến khích người được giáo dục
liên hệ thực tế, nêu những tấm gương cần học tập, phê phán và tham gia tích cực vào phân
tích, đánh giá những tấm gương đó để rút ra kết luận bổ ích.
+ Nhà giáo dục cần phải tự rèn luyện, xây dựng nhân cách bản thân trở thành là một
tấm gương sáng trước người được giáo dục.
Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ

(*) Trình bày và phân tích nội dung của phương pháp nêu yêu cầu sư phạm trong giáo
dục. Liên hệ thực tiễn
Giao việc (nêu yêu cầu sư phạm) là phương pháp nhà giáo dục lôi cuốn người được
giáo dục vào các hoạt động đa dạng với những công việc nhất định, với những nghĩa vụ cá
nhân và xã hội nhất định mà người được giáo dục phải hoàn thành.
Ý nghĩa của phương pháp giao việc:
Qua thực hiện công việc, hoạt động được giao người được giáo dục sẽ hình thành những
hành vi, thói quen phù hợp với các yêu cầu công việc được giao, yêu cầu của các CMXH quy
định và được thể hiện những kinh nghiệm ứng xử của mình trong mối quan hệ đa dạng.
Yêu cầu thực hiện phương pháp giao việc:
+ Trước khi giao việc, nhà giáo dục cần giúp người được giáo dục ý thức đầy đủ về ý
nghĩa xã hội và ý nghĩa cá nhân của công việc phải làm và kích thích họ tự giác, tích cực hoạt
động thực hiện công việc được giao.
+ Nhà giáo dục đưa ra những yêu cầu cụ thể mà người được giáo dục phải hoàn thành
và giúp họ định hướng đúng đắn toàn bộ chuỗi hành động phải hoàn thành.
+ Giao việc phải tính tới hứng thú, năng khiếu, điều kiện thực tiễn và tính khả thi của
hoạt động của người được giáo dục nhằm phát huy thế mạnh ở họ trong hoạt động.
+ Quá trình thực hiện hoạt động nhà giáo dục cần theo dõi, giúp đỡ tạo điều kiện (nếu
cần) để người được GD hoàn thành mọi yêu cầu của công việc được giao.
+ Cần kiểm tra đánh giá công khai kết quả hoàn thành công việc của cá nhân hay tập
thể người được giáo dục. Lưu ý: nhà giáo dục luôn có nhận xét cụ thể, những chỉ dẫn hỗ trợ
và khuyến khích, động viên người được giáo dục tiếp tục tham gia các hoạt động thực tiễn.
+ Có thể phát huy ý thức tự quản của tập thể học sinh bằng việc để tập thể học sinh
giao việc cho cá nhân trong các hoạt động của lớp mà không nhất thiết giáo viên giao việc.
Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ

(*)Trình bày và phân tích nội dung của PP luyện tập trong giáo dục. Liên hệ thực tiễn
Tập luyện là phương pháp tổ chức cho người được giáo dục thực hiện một cách đều đặn
và có kế hoạch các hoạt động nhất định, nhằm biến những hành động đó thành những thói
quen ứng xử ở người được giáo dục.
Ý nghĩa của phương pháp luyện tập:
+ Người được giáo dục có môi trường hoạt động thực tiễn để trải nghiệm, củng cố, phát
triển niềm tin đối với các CMXH và biến ý thức cá nhân về các CMXH thành những hành vi
tương ứng ở họ.
+ Người được giáo dục có môi trường hoạt động thực tiễn để lặp đi lặp lại các hành vi
hoạt động theo quy trình xác định trên cơ sở đó tạo lập thành những thói quen hành vi ứng xử
tương ứng ở họ, đảm bảo tính bền vững của hành vi ứng xử phù hợp với các CMXH quy định
ở người được giáo dục.
Yêu cầu khi thực hiện phương pháp luyện tập:
+ Nhà giáo dục cần giúp cho người được giáo dục nắm được quy tắc hành vi và hình
dung rõ hành vi đó cần thực hiện như thế nào? để giúp họ có thể định hướng cho việc thực
hiện hành vi qua tập luyện.
+ Trong những trường hợp cần thiết, nhà giáo dục có thể làm mẫu cho người được giáo
dục về những hành vi cần tập luyện.
+ Cần tạo điều kiện cho người được giáo dục tập luyện theo quy tắc hành vi, theo mẫu
hành vi đã giới thiệu.
+ Nhà giáo dục cần khuyến khích người được giáo dục tập luyện thường xuyên, lặp đi
lặp lại những hành vi đã tập luyện qua việc thực hiện chế độ sinh hoạt hàng ngày, các hoạt
động thực tiễn của cuộc sống.
+ Nhà giáo dục cần tiến hành kiểm tra uốn nắn thường xuyên hành vi hoạt động của
người được giáo dục theo yêu cầu quy trình chuẩn đồng thời khuyến khích, động viên họ tự
kiểm tra, tự uốn nắn hành vi của mình trong quá trình luyện tập.
Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ

(*)Trình bày và phân tích nội dung của PP rèn luyện trong giáo dục. Liên hệ thực tiễn
Rèn luyện là phương pháp tổ chức cho người được giáo dục được thể nghiệm ý thức, tình
cảm, hành vi của mình về các CMXH trong những tình huống đa dạng của cuộc sống. Qua đó
hình thành và củng cố được những hành vi phù hợp với các CMXH đã quy định.
Ý nghĩa của phương pháp rèn luyện:
+ Thông qua những tình huống, hoạt động mới, đa dạng của cuộc sống thực, người được
giáo dục được trải nghiệm là chính mình đưa ra những quyết định và chịu trách nhiệm với
những quyết định đó. Trên cơ sở đó nhận ra mình là ai, những cái phù hợp và chưa phù hợp từ
đó điều chỉnh bản thân đáp ứng yêu cầu của CMXH.
+ Chính trong quá trình “thâm nhập” vào những tình huống mới, đa dạng của cuộc sống,
người được giáo dục phải tiến hành cuộc đấu tranh động cơ để tự xác định động cơ đúng đắn,
định hướng cho hoạt động nhằm giải quyết đúng đắn những tình huống đó. Điều đó sẽ giúp
cho ý thức về các CMXH ở người được giáo dục được khắc sâu, phát triển đảm bảo những
hành vi, hoạt động tương ứng mang tính tự giác, bền vững cao và hình thành thói quen hành
vi tương ứng ở họ.
+ Quá trình được trải nghiệm, lặp đi lặp lại những hành vi đó trong những tình huống
khác nhau của cuộc sống thực sẽ giúp người được giáo dục biến những hành vi đó trở thành
thói quen bền vững.
Yêu cầu:
+ Tạo cơ hội cho người được giáo dục “Thâm nhập” vào những tình huống đa dạng từ
đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó của cuộc sống thực.
+ Tạo cơ hội cho người được giáo dục dựa vào kết quả của tập luyện, lặp đi lặp lại
những hành vi đó trong những tình huống khác nhau của cuộc sống thực để những hành vi đó
trở thành thói quen bền vững.
+ Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm tra của nhà giáo dục và tự kiểm tra của người được giáo
dục
+ Tổ chức liên tục có hệ thống các hoạt động thông qua tình huống tự nhiên của cuộc
sống thực hoặc tạo ra những tình huống thích hợp nhằm thu hút người được giáo dục tích cực
tham gia.
Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ

(*)Trình bày và phân tích nội dung của PP khen thưởng trong giáo dục. Liên hệ thực
tiễn
Khen thưởng là phương pháp biểu thị sự đồng tình, sự đánh giá tích cực của nhà giáo dục
đối với thái độ, hành vi ứng xử của người được giáo dục trong những tình huống nhất định
nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đặt ra.

Ý nghĩa của khen thưởng:


+ Khen thưởng là cách thức để khẳng định hành vi của người được giáo dục là đúng
đắn, phù hợp với các CMXH đã quy định.
+ Qua việc khen thưởng sẽ giúp người được giáo dục tự khẳng định những hành vi tốt
của mình, củng cố và phát triển niềm tin đối với các CMXH có liên quan đến những hành vi
tốt của mình đã thực hiện.
+ Khen thưởng sẽ kích thích người được giáo dục duy trì, phát triển những hành vi tích
cực đồng thời tránh được những hành vi tiêu cực không phù hợp các CMXH.
Vì vậy có thể nói: khen thưởng là phương pháp rất quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc đối
với người được giáo dục, khen thưởng mang lại sức mạnh và niềm tin cho người được
giáo dục trong quá trình học tập và rèn luyện bản thân.
Các hình thức khen thưởng: Để lựa chọn đưa ra quyết định về hình thức và mức độ
khen thưởng phù hợp với người được giáo dục , đòi hỏi nhà giáo dục cần căn cứ vào: tính
chất, mức độ, phạm vi ảnh hưởng, động cơ, sự nỗ lực của người được giáo dục … đối với
hành vi tích cực đó mà nhà giáo dục có hình thức, mức độ khen thưởng phù hợp.
Ví dụ: về các mức độ khen thưởng đối với hành vi tích cực của người được giáo dục
(theo chiều tăng dần):
+ Tỏ thái độ đồng tình, ủng hộ những hành vi tốt một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
+ Tỏ lời khen với những hành vi tốt.
+ Biểu dương những hành vi tốt.
+ Tặng giấy khen, bằng khen có kèm thưởng
Lưu ý: thưởng có thể bằng nhiều hình thức như vật phẩm, tiền mặt, học bổng, chuyến
du lịch…
Yêu cầu khi thực hiện khen thưởng:
+ Đảm bảo khen thưởng trên cơ sở hành vi thực tế đạt được của người được giáo dục.
VD: Nhà giáo dục cần xem xét hành vi đó thể hiện có phù hợp với các CMXH hay
không? Có động cơ đúng đắn không? Có tính phổ biến, tính thường xuyên không?
+ Đảm bảo khen thưởng phải khách quan, công bằng không vì thiên vị mà đánh giá cao,
thành kiến mà đánh giá thấp.
+ Đảm bảo khen thưởng phải kịp thời, đúng lúc, đúng chỗ, tránh khen thưởng ở những nơi
không thích hợp, tuỳ tiện quá sớm hay quá muộn.
+ Đảm bảo kết hợp khen thưởng thường xuyên với khen thưởng quá trình.
+ Đảm bảo khen thưởng phải gây được dư luận tập thể đồng tình, ủng hộ.
Vì khi dư luận tập thể đồng tình, ủng hộ sẽ làm tăng thêm giá trị, ý nghĩa của hành vi tốt,
kích thích người được GD tiếp tục phát triển hành vi tốt và kích thích, định hướng cho những
người khác noi theo những hành vi tốt.

(*)Trình bày và phân tích nội dung của phương pháp trách phạt trong giáo dục. Liên
hệ thực tiễn
Trách phạt là phương pháp biểu thị sự không đồng tình, sự phản đối, sự phê phán những
hành vi sai trái của người được giáo dục so với các CMXH quy định.
Ý nghĩa của việc trách phạt:
+ Trách phạt sẽ buộc người mắc lỗi trong ứng xử phải ngừng ngay hành vi sai trái một
cách tự giác, nâng cao ý thức tự kiềm chế trong tương lai không tái phạm nữa mà trái lại có
những hành vi đúng đắn, tích cực phù hợp với các CMXH quy định.
+ Tạo cơ hội nhắc nhở những người khác không vi phạm các CMXH, không rơi vào
những hành vi sai trái như người bị trách phạt.
Các hình thức trách phạt :
Tùy vào từng trường hợp mà nhà giáo dục có thể đưa ra quyết định hình thức, mức độ
trách phạt phù hợp theo mức độ tăng dần như sau: Nhắc nhở (khuyên bảo), chê trách, phê
bình, cảnh cáo, buộc thôi học, đuổi học.
Khi đưa ra quyết định lựa chọn hình thức, mức độ trách phạt đòi hỏi nhà giáo dục cần căn
cứ vào các yếu tố sau đây:
+ Loại hình của hành vi sai lệch là học tập, lao động hay ứng xử ? sẽ có cách trách phạt
khác nhau.
+ Tính chất của hành vi sai lệch (Nghiêm trọng hay không nghiêm trọng? thường xuyên
hay không thường xuyên? cố tình hay vô ý?).
+ Phạm vi và mức độ tai hại do hành vi sai lệch gây ra (Tai hại nhiều hay ít?, ở diện rộng
hay diện hẹp?)
Yêu cầu khi trách phạt:
+ Đảm bảo trách phạt phải khách quan: Nhà giáo dục phải thận trọng xem xét đánh giá
những hành vi sai lệch của người được giáo dục, cũng như đưa ra những quyết định về mức
độ, hình thức trách phạt sao cho đúng đắn, chính xác và thỏa đáng. Tránh tình trạng đánh giá
sai, không phù hợp với thực tế (Quá cao hay quá thấp)
+ Đảm bảo trách phạt phải công bằng: Nhà giáo dục khi đưa ra quyết định trách phạt cần
phải công bằng với mọi người, tránh thiên vị mà trừng phạt nhẹ, thành kiến mà trừng phạt
nặng.
+ Đảm bảo khi trách phạt phải làm cho người được giáo dục thấy rõ được sai lầm của
mình và chấp nhận hình thức, mức độ trách phạt đối với mình “Tâm phục, khẩu phục”.
Cụ thể: Khi trách phạt phải làm cho người được giáo dục thấy rõ được lý do bị trách phạt,
tính tất yếu của sự trách phạt; Người được giáo dục thể hiện thái độ ân hận về lỗi lầm của
mình và chấp nhận tính hợp lý của hình thức và mức độ trách phạt. Có như vậy người được
giáo dục mới quyết tâm sửa chữa sai lầm, không tái phạm.
+ Đảm bảo tôn trọng nhân phẩm của người bị trách phạt: Cụ thể: Khi trách phạt
nhà giáo dục không được làm nhục, không xúc phạm tới thể xác người bị trách phạt; Không
dùng trách phạt để trả thù; Phải chỉ ra hướng để giúp cho người bị trách phạt sửa chữa sai lầm
một cách tích cực và tự tin; Đồng thời luôn tỏ thái độ chân thành, lòng tin tưởng ở sự tiến bộ
của họ.
+ Đảm bảo tính cá biệt trong trách phạt: Khỉ trách phạt, nhà giáo dục cần quan
tâm tới đặc điểm tâm sinh lý (xu hướng, năng lực, vốn kinh nghiệm, tính cách, điều kiện hoàn
cảnh…) của từng cá nhân người mắc lỗi trong từng bối cảnh cụ thể để có cách thức giáo dục
phù hợp.
+ Đảm bảo trách phạt của nhà giáo dục phải tạo được dư luận tập thể đồng tình với
sự trách phạt. Sự đồng tình của dư luận tập thể với việc trách phạt của nhà giáo dục sẽ tạo
thêm sức mạnh hỗ trợ người bị trách phạt quyết tâm nhanh chóng sửa chữa sai lầm đồng thời
ngăn chặn những người khác không vi phạm sai lầm.
Sinh viên liên hệ để lấy ví dụ

(*)Trình bày và phân tích nội dung của PP thi đua trong giáo dục. Liên hệ thực tiễn
Thi đua là phương pháp thông qua các phong trào hoạt động tập thể nhằm kích thích
khuynh hướng tự khẳng định ở người được giáo dục, thúc đẩy họ đua tài gắng sức, hăng hái
nỗ lực vươn lên ở vị trí hàng đầu và lôi cuốn những người khác cùng tiến lên giành thành tích
cá nhân hay tập thể cao nhất.
Phong trào thi đua có thể tổ chức trong các hoạt động học tập, lao động, vệ sinh trường
lớp, văn hóa văn nghệ, thể dục, thể thao…của tập thể các lớp, các câu lạc bộ ở nhà trường…
VD: “Người đạt điểm cao nhất trong tháng”, “Người có nhiều đóng góp xây dựng bài nhất
trong tháng”…; “Lớp học xanh, sạch, đẹp”….
Ý nghĩa của phương pháp thi đua:

+ Thi đua kích thích nhu cầu khẳng định bản thân của người được giáo dục. Những người
được giáo dục sẽ nỗ lực hết mình tham gia vào quá trình hoạt động thi đua để giành thắng lợi
cao nhất trên cơ sở đó đạt được các mục tiêu giáo dục đặt ra.
+ Thi đua tạo môi trường hoạt động tích cực và hiệu quả của những người giáo dục
tham gia trên cơ sở đó mục tiêu giáo dục đạt được hiệu quả cao.
+ Trong hoạt động thi đua, với sự nỗ lực hết mình của người tham gia, người được giáo
dục sẽ tự nhận thức, đánh giá được bản thân mình trên cở sở đó có sự điều chỉnh kịp thời đối
với bản thân.
Yêu cầu khi thực hiện phương pháp thi đua:
+ Mục tiêu thi đua phải được xác định: cụ thể, rõ ràng và thiết thực
+ Các hoạt động thi đua cần phải động viên được tất cả mọi người được giáo dục hăng
hái tham gia với động cơ đúng đắn.
+ Các hình thức hoạt động thi đua phải thể hiện sự sáng tạo, mới mẻ, hấp dẫn người
được giáo dục tham gia.
+ Thi đua cần có phương thức đánh giá kết quả thi đua tường minh, công khai kích thích
sự tham gia hết mình của các thành viên và cần có so sánh công khai kết quả thi đua mà họ
đạt được.
+ Tiến hành sơ tổng kết các hoạt động thi đua đều đặn để giúp người được giáo dục điều
chỉnh kịp thời hoạt động của bản thân trên cơ đó đạt hiệu quả cao nhất của hoạt động thi đua.
+ Nhà giáo dục cần biểu dương khen thưởng công bằng, thích đáng các cá nhân và tập
thể đạt thành tích cao hoặc có nhiều nỗ lực trong thi đua.

(*)Trình bày những yêu cầu khi lựa chọn, sử dụng các phương pháp giáo dục
Không có phương pháp giáo dục nào là vạn năng đối với mọi nhà giáo dục, cho mọi
đối tượng giáo dục, trong mọi tình huống, điều kiện giáo dục…
Mỗi nhóm phương pháp, mỗi phương pháp giáo dục có ưu, nhược điểm riêng và thực
hiện với những nhiệm vụ giáo dục nhất định. Do đó, trong quá trình giáo dục đòi hỏi nhà giáo
dục cần biết lựa chọn, phối hợp các phương pháp giáo dục để đạt được mục tiêu GD đặt ra.
Mục đích của nhà giáo dục sử dụng các phương pháp giáo dục để giúp người được
giáo dục tự chuyển hóa yêu cầu của các CMXH quy định thành hành vi và thói quen hành vi
ứng xử tương ứng ở họ trên cơ sở đó thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục.
Vì vậy trong hoạt động thực tiễn giáo dục, đòi hỏi nhà giáo dục khi lựa chọn, sử dụng
các phương pháp cần lưu ý những điều sau đây:
+ Khi lựa chọn phối hợp các phương pháp giáo dục cần dựa trên cơ sở: Mục đích,
nhiệm vụ giáo dục xác định; Nội dung giáo dục cụ thể; Đặc điểm của đối tượng giáo dục ;
Năng lực sư phạm của nhà giáo dục; Những điều kiện, bối cảnh thực tế của vấn đề giáo dục.
+ Trong quá trình vận dụng các phương pháp giáo dục cần đảm bảo được sự thống
nhất giữa hoạt động giáo dục - vai trò chủ đạo của nhà giáo dục với hoạt động tự giáo dục -
vai trò tự giác tích cực, độc lập năng động của người được giáo dục.
Tuyệt đối tránh 2 xu hướng:
1. Nếu quá đề cao vai trò của nhà giáo dục, coi nhẹ, coi thường vai trò của người được
giáo dục. Điều đó sẽ dẫn đến hiệu quả giáo dục áp đặt mang tính hình thức.
2. Nếu hạ thấp vai trò nhà giáo dục, quá đề cao vai trò người được giáo dục. Điều đó dẫn
đến hậu quả người được giáo dục tự do, vô tổ chức trong giáo dục.

You might also like