You are on page 1of 38

ĐẠI HỌC UEH

TRƯỜNG KINH TẾ, LUẬT VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

KHOA KINH TẾ

BÀI THI GIỮA KÌ

DỰ ÁN NHÓM KHÔNG THUYẾT TRÌNH

Môn học: Kinh Tế Vĩ Mô Trung Cấp

Giảng viên: Châu Văn Thành

Mã lớp học phần: 22C1ECO50110101

Khóa – Lớp: K46 – AE001

Thành viên:
1. Hoàng Quang Sáng - 31201020491
2. Nguyễn Thị Thanh Trúc - 31201022608
3. Trần Đào Lan Anh - 31201023935
4. Cao Vũ Hạnh Nguyên - 31201020411
5. Lê Hoàng Minh Tâm - 31201024343
6. Trần Hữu Trung Tín – 31201021870
Bảng phân công công việc và đánh giá

STT
Họ và tên thành viên Ngày, tháng, Phần trăm Liệt kê ngắn gọn các hoạt động
năm sinh tham gia và mục chính đã tham gia (viết
bởi từng thành viên)

1 Hoàng Quang Sáng 24/08/2002 100%


- Lý thuyết về The "cost-push"
theory"

- Mô hình tổng cung, tổng cầu

- Chính sách giải quyết lạm


phát của Trung Quốc

2 Nguyễn Thị Thanh Trúc 24/04/2002 100% - Nguyên nhân lạm phát
- Vẽ biểu đồ, tìm data
- Chính sách giải quyết lạm
phát khi có đại dịch COVID-19

3 Cao Vũ Hạnh Nguyên 26/09/2002 100% - Khái niệm lạm phát


- Phân tích chuyên gia E
- Tổng hợp giải pháp từ các lý
thuyết và chuyên gia

4 Trần Đào Lan Anh 13/10/2002 100% - Lý thuyết về "The structural


theory"
- Phân tích chuyên gia D
- Chính sách giải quyết lạm
phát của Trung Quốc

5 Lê Hoàng Minh Tâm 09/09/2002 100% - Lý thuyết về "Quantity theory,


"The Keynesian theory"
- Phân tích chuyên gia B

1
- Giải pháp của chiến tranh Nga
và Ukraine cho vấn đề lạm phát
Việt Nam:

6 Trần Hữu Trung Tín 24/07/2002 75% - Phân tích chuyên gia A, C
- Chính sách giải quyết lạm
phát khi có biến đổi khí hậu

Phần I: Tổng quan lý thuyết về lạm phát 4


1. Khái niệm lạm phát: 4
2. Nguyên nhân lạm phát: 4
2.1. Lạm phát do cầu kéo: 4
2.2. Lạm phát do chi phí đẩy: 5
2.3. Lạm phát do cơ cấu: 6
2.4. Lạm phát do nhập khẩu: 7
2.5. Lạm phát do xuất khẩu: 7
2.6. Lạm phát tiền tệ: 7
3. Sơ lược về mô hình AS-AD: 7
4. Lý thuyết chi phí đẩy: 9
4.1. Khái niệm: 9
4.2. Giải pháp và hệ quả đi kèm: 9
5. Lý thuyết về lạm phát cấu trúc: 10
5.1. Khái niệm: 10
5.1.1. Tổng quan về lý thuyết lạm phát cấu trúc: 10
5.1.2. Lý do : 10
5.1.3. Điểm nghẽn trong lạm phát cấu trúc: 11
5.2. Giải pháp cơ bản và hệ quả: 11
6. Học thuyết kinh tế KEYNES: 12
6.1.Định nghĩa: 12
6.2. Tác động: 12

2
7. Quantity Theory of Money: 14
7.1. Định nghĩa: 14
7.2. Giải pháp và hệ quả: 15
Phần II: Câu hỏi thảo luận 15
Câu 1: Theo bạn, chuyên gia nào có đề xuất phù hợp với bối cảnh Việt Nam hơn 15
Chuyên gia A: Lập luận rằng lạm phát chỉ mới là cảnh báo và chủ yếu từ phía cung 15
Chuyên gia B: Lạm phát nhập khẩu và lạm phát tiền tệ do nới lỏng tài khóa và tiền tệ 17
Chuyên gia C: Tin vào lạm phát xuất phát từ yếu tố chi phí đẩy nhiều hơn 19
Chuyên gia D: Vị chuyên gia D cho rằng lạm phát đến từ cả phía cung và cầu, bên cạnh
những nhân tố từ phía cung được phân tích từ ông chuyên gia A, B, C thì vị chuyên gia D
còn cho rằng nhân tố từ phía cầu từ gói kích thích hồi phục kinh tế nhiều tham vọng của
Chính phủ. 22
Câu 2: Bạn ủng hộ ý kiến của chuyên gia nào? Giải thích rõ vì sao.
26
Câu 3: Giả sử bạn được yêu cầu nêu giải pháp góp phần giải quyết áp lực lạm phát ở Việt Nam,
nội dung đề xuất của bạn sẽ là gì? 28
3.1. Giải pháp của chiến tranh Nga và Ukraine cho vấn đề lạm phát Việt Nam: 28
3.2. Chính sách cho Việt Nam để có thể kiểm soát lạm phát khi có Covid cũng như phục
hồi nền kinh tế 29
3.3. Kiểm soát lạm phát: Tham khảo trường hợp từ Trung Quốc: 31
3.4. Kiểm soát lạm phát: Tham khảo trường hợp từ Mỹ: 32
3.6. Biện pháp từ biến đổi khí hậu: 33
Nguồn tham khảo: 35

3
Phần I: Tổng quan lý thuyết về lạm phát
1. Khái niệm lạm phát:

“Lạm phát là sự gia tăng bền bỉ và kéo dài của mức giá chung, hay được hiểu là sự tăng lên
của mức giá chung theo thời gian và sự mất giá trị của một loại tiền tệ nào đó. Mức giá
chung tăng lên sẽ làm cho sức mua của đồng tiền bị giảm, kéo theo đó là một số tiền, số
lượng hàng hóa, dịch vụ sẽ được mua ít hơn so với trước đó. Lạm phát cũng là sự mất giá
đồng tiền của 1 quốc gia này so với quốc gia khác. Có thể hiểu lạm phát theo 2 nghĩa: Một
là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của 1 quốc gia. Hai là lạm phát của
1 loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu.”

2. Nguyên nhân lạm phát:

2.1. Lạm phát do cầu kéo:

Theo kinh tế học Keynes, khi tổng cầu mà cao hơn so với tổng cung thì sẽ gây ra lạm phát.
Điều này thì được giải thích thông qua sơ đồ AD-AS. Đường tổng cầu AD dịch chuyển sang
phải trong khi đường tổng cung AS giữ nguyên sẽ khiến cho mức giá và sản lượng cùng
tăng, do đó gây nên lạm phát.

Tổng cầu: AD = C + I + G + X – IM tăng có thể do các yếu tố của tổng cầu tăng.

+ Tăng tiêu dùng hộ gia đình (C): Thu nhập khả dụng của hộ gia đình tăng có thể là do
Chính sách của Chính phủ như: giảm thuế, tăng các khoản chi về chuyển nhượng của

4
Chính phủ đối với hộ gia đình và các khoản thu nhập khác mà họ nhận được dùng chi tiêu
cho tiêu dùng. Các khoản thu nhập tăng dẫn đến tiêu dùng tăng.

+ Đầu tư của tư nhân tăng (I) gồm các khoản: Đầu tư cố định vào sản xuất kinh doanh,
đầu tư vào nhà ở và đầu tư cho hàng tồn kho. Đầu tư của tư nhân tăng có thể do các khoản
đầu tư được tăng lên.

+ Chi tiêu của Chính phủ (G) tăng bao gồm: Chi cho đầu tư phát triển, khoản chi thường
xuyên và chi chuyển nhượng. Chi tiêu của Chính phủ tăng làm tổng cầu tăng và gây ra lạm
phát.

+ Xuất khẩu ròng ( X – IM) thay đổi: Nhập khẩu tỉ lệ thuận với sản lượng và thu nhập của
cả nền kinh tế, với giá tương đối giữa các hàng hóa trong nước và hàng hóa nhập khẩu; tỷ
lệ nghịch với tỷ giá ngoại tệ.

Ngược lại, xuất khẩu không bị ảnh hưởng bởi thu nhập và sản lượng của nền kinh tế. Mà tỉ
lệ thuận với tỷ giá ngoại tệ, với sản lượng và thu nhập nước ngoài và giá tương đối giữa
hàng hóa trong nước của mặt hàng xuất khẩu với giá hàng hóa đó trên thị trường thế giới.

Từ những điều trên ta thấy, xuất khẩu ròng bị ảnh hưởng tổng hợp bởi các yếu tố chi phối
việc xuất, nhập khẩu. Khi giá trị của xuất khẩu lớn hơn so với nhập khẩu tức là xuất khẩu
ròng dương và tăng sẽ làm cho tổng cầu tăng.

2.2. Lạm phát do chi phí đẩy:

Những điều chỉnh, thay đổi không có lợi cho sản xuất như: giá nhiên liệu, giá than, giá điện
tăng mạnh làm cho các yếu tố đầu vào của sản xuất tăng làm cho chi phí sản xuất tăng. Các
doanh nghiệp sẽ buộc phải tăng giá làm cho cung tiền thực tế và tổng cầu giảm.

Ngoài ra, thiên tai và dịch bệnh cũng có thể làm cho tổng cung ngắn hạn giảm, đẩy giá lên
cao.

5
2.3. Lạm phát do cơ cấu:

Cơ cấu kinh tế là do sự phân bổ nguồn lực để phát triển về kinh tế. Tổng cung của nền kinh
tế chịu ảnh hưởng của cơ cấu kinh tế. Do đó, có thể ảnh hưởng đến cung, cầu của thị trường.
Sự thay đổi này làm cho mức giá chung thay đổi và ảnh hưởng đến lạm phát.

Lạm phát do cơ cấu là do cân đối trong quan hệ cung, cầu bị mất đi trong trung và dài hạn.
Mất cân đối trong cán cân thu-chi ngân sách cũng như cán cân thương mại.

Khi nền kinh tế bị rơi vào tình trạng suy thoái hay khủng hoảng, nếu tốc độ tăng trưởng của
tổng cung quá chậm so với tổng cầu, gây ra mất cân đối mạnh trong cung-cầu trung và dài
hạn sẽ gây ra lạm phát tăng cao. Nguyên nhân chủ yếu do năng lực sản xuất của nền kinh tế
tăng chậm so với mức tăng của đầu tư. Tổng cung trong trung-dài hạn tăng chậm do hiệu
quả của việc đầu tư thấp, trình độ khoa học – công nghệ, chất lượng của nguồn nhân lực, kết
cấu của hạn tầng thấp và đang cải thiện chậm. Đặc biệt là do sự bất hợp lý trong cơ cấu kinh
tế ở các nước đang phát triển làm cho năng lực sản xuất của nền kinh tế đó yếu kém.

Bội chi ngân sách cao làm gia tăng tổng phương tiện thanh toán, tổng đầu tư cho xã hội.
Mức chi ngân sách cao là do hiệu quản đầu tư ngân sách nhà nước thấp, do đó làm ảnh
hưởng đến cân đối tổng cung-cầu trong trung và dài hạn.

Khi thâm hụt ngân sách kèm với thâm hụt trong cán cân thương mại lớn, gây ra đồng tiền
nội tệ bị mất giá so với ngoại tệ, làm lạm phát gia tăng.

6
2.4. Lạm phát do nhập khẩu:

Khi các hàng hóa nhập khẩu tăng giá thì giá bán hàng hóa đó ở trong nước cũng tăng lên.
Điều này làm cho mức giá chung tăng lên dẫn đến lạm phát.

2.5. Lạm phát do xuất khẩu:

Tổng cầu của hàng hóa cao hơn so với tổng cung khi xuất khẩu tăng. Trong khi đó, hàng hóa
phục vụ cho xuất khẩu dẫn đến lượng hàng trong nước giảm xuống làm cho tổng cung chênh
lệch thấp hơn tổng cầu, gây ra lạm phát.

2.6. Lạm phát tiền tệ:

Khi lượng cung tiền lưu thông tăng, làm cho lượng tiền trong nền kinh tế nhiều thì tiêu dùng
cùng với đó sẽ tăng lên làm cho giá trong thị trường tăng, dẫn đến lạm phát.

Cung tiền tăng khi NHTW thực thi chính sách tiền tệ mở rộng. Khi in thêm tiền để hỗ trợ
thâm hụt ngân sách làm cung tiền tăng liên tục.

Việc giữ tỷ giá luôn cố định cũng có có thể làm tăng cung tiền. Khi mà tỷ giá ngoại tệ giảm,
NHTW bơm nội tệ nhằm mua ngoại tệ để nâng giá của ngoại tệ, làm mức tiền của nền kinh
tế tăng.

Lạm phát chịu ảnh hưởng rất lớn của chính sách tiền tệ. Do đó, năng lực của các nhà hoạch
định định chính sách cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát. Các quyết định sai hay tình trạng
chậm trễ trong quá trình đưa ra quyết định, việc không nhanh nhạy với những biến đổi cũng
là một nguyên nhân gây ra lạm phát. Độ trễ trong chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa
dẫn đến việc thực thi các chính sách, kiểm soát lạm phát và quản lý kinh tế vĩ mô, ổn định
tăng trưởng kém hiệu quả.
3. Sơ lược về mô hình AS-AD:

Mô hình AS-AD là lý thuyết nền tảng trong kinh tế học vĩ mô và cũng là công cụ quan trọng
đối với các nhà làm chính sách. Mô hình này được dùng để giải thích sự biến động trong
ngắn hạn của nền kinh tế và sự dịch chuyển từ ngắn hạn sang dài hạn của nền kinh tế này.
Qua đó, giải thích và trực quan hóa các nguyên nhân thay đổi của các biến số vĩ mô quan
trọng bao gồm mức giá (lạm phát), GDP (tăng trưởng ngắn hạn) và việc làm (tỉ lệ thất
nghiệp). Giao điểm của ba đường AD (tổng cầu), LRAS (tổng cung dài hạn) và SRAS (tổng
cung ngắn hạn) chính là điểm cân bằng của nền kinh tế.

7
Mức sản lượng đạt mức tiềm năng (Y = Ȳ = Yp) – tương đương tốc độ tăng trưởng năm đó
đạt mức tăng trưởng trung bình thông thường của giai đoạn xem xét; mức giá tại E tương
ứng mức giá cân bằng hay mức giá đúng như kỳ vọng của người dân (PE = Pe) – tương ứng
với tỷ lệ lạm phát ổn định và có thể kiểm soát được; và cũng theo lý thuyết, tỷ lệ thất nghiệp
ứng với mức sản lượng tiềm năng tại E chính là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Đường tổng cầu
AD dịch chuyển sang phải/trái có thể xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau như: thay
đổi chính sách tài khóa và/hay chính sách tiền tệ, thay đổi của các thành phần tổng cầu, và
các cú sốc phía cầu.

Các cú sốc cung sẽ làm dịch chuyển đường tổng cung ngắn hạn SRAS. Sự dịch chuyển
đường tổng cung dài hạn LRAS được quyết định bởi các nhân tố vốn (K), lao động (L) và
công nghệ (T) trong dài hạn, từ đây sẽ kéo theo thay đổi mức sản lượng tiềm năng Yp và
đường SRAS dịch chuyển kéo theo. Cú sốc cung thường phức tạp và khó giải quyết hơn so
với cú sốc cầu.

8
4. Lý thuyết chi phí đẩy:

4.1. Khái niệm:

Sự gia tăng tiền lương nhanh hơn năng suất lao động. Liên đoàn lao động ép người sử dụng
lao động tăng lương đáng kể, do đó làm tăng chi phí sản xuất của hàng hóa. Đến lượt người
sử dụng lao động, tăng giá của họ Mỹ phẩm. Mức lương cao hơn cho phép người lao động
mua càng nhiều trước đó, mặc dù giá cao hơn. Mặt khác, tăng giá khiến các công đoàn đòi
hỏi vẫn cao hơn tiền công. Bằng cách này, các nước xoắn ốc chi phí tiền lương, do đó, dẫn
đến chi phí đẩy hoặc lạm phát do tiền lương đẩy. Lạm phát do chi phí đẩy có thể còn trầm
trọng hơn khi đi lên điều chỉnh tiền lương để bù đắp cho việc tăng giá sinh hoạt. Một số lĩnh
vực của nền kinh tế có thể bị ảnh hưởng bởi sự gia tăng tiền lương và giá cả sản phẩm của
họ có thể tăng lên. Trong nhiều trường hợp, sản phẩm của họ được sử dụng làm đầu vào cho
sản xuất các mặt hàng trong các lĩnh vực khác. Do đó, chi phí sản xuất của các lĩnh vực khác
sẽ tăng và do đó thúc đẩy giá của các sản phẩm của họ. Do đó, lạm phát đẩy tiền lương trong
một một số lĩnh vực của nền kinh tế có thể sớm dẫn đến lạm phát tăng giá trong toàn bộ nền
kinh tế. Hơn nữa, sự gia tăng trong giá nguyên liệu thô nhập khẩu có thể dẫn đến chi phí đẩy
lên lạm phát. Một nguyên nhân khác của lạm phát do chi phí đẩy là do lợi nhuận đẩy lạm
phát. Các công ty theo chủ nghĩa độc tài và độc quyền tăng giá của sản phẩm của họ để bù
đắp sự gia tăng lao động và chi phí sản xuất để thu lợi nhuận cao hơn. Có không hoàn hảo
cạnh tranh trong trường hợp của các công ty như vậy, họ có thể giá quản lý của sản phẩm
của họ. Do đó, lạm phát do lợi nhuận đẩy được gọi là lạm phát theo giá được quản lý hoặc
giá đẩy lạm phát.

4.2. Giải pháp và hệ quả đi kèm:

Các chính sách để giảm lạm phát do chi phí đẩy có thể bao gồm chính sách tiền tệ, tài khóa
và cả chính sách phụ cung. Chính phủ có thể theo đuổi chính sách tài khóa giảm phát (thuế
cao hơn, chi tiêu thấp hơn) hoặc các cơ quan quản lý tiền tệ có thể tăng lãi suất. Điều này sẽ
làm tăng chi phí đi vay và giảm chi tiêu và đầu tư của người tiêu dùng.

Vấn đề với việc sử dụng lãi suất cao hơn là mặc dù nó sẽ làm giảm lạm phát, nhưng nó có
thể dẫn đến sự sụt giảm lớn trong GDP.

9
5. Lý thuyết về lạm phát cấu trúc:

Khoảng 40 năm trước, khái niệm lạm phát cơ cấu đã được đưa vào thảo luận và nghiên cứu
kinh tế. Nó liên quan đến ảnh hưởng của các yếu tố cơ cấu đến lạm phát. Phân tích cấu trúc
cố gắng nhận ra cách thức các hiện tượng kinh tế và tìm ra gốc rễ của căn bệnh vĩnh viễn và
sự tàn phá như lạm phát, đánh giá mối quan hệ hợp pháp giữa các hiện tượng.

5.1. Khái niệm:

5.1.1. Tổng quan về lý thuyết lạm phát cấu trúc:

Lạm phát cơ cấu là lạm phát do những thay đổi trong cơ cấu của cung và cầu. Dưới tác động
của sự thay đổi cơ cấu cung và cầu, một số ngành sẽ tăng nhu cầu về sản phẩm của mình,
trong khi ở các ngành khác, nhu cầu này sẽ giảm xuống. Và giá cả và tiền lương ở các ngành
giảm sản xuất sẽ không linh hoạt theo hướng giảm này, trong khi giá và tiền lương ở các
ngành tăng sản xuất sẽ tăng lên, thì mức chung của cả giá cả và tiền lương trong nền kinh tế
sẽ tăng lên. Hiện tượng được thảo luận sẽ trở nên mạnh mẽ hơn khi nguồn cung không linh
hoạt và không thể thích ứng ngay với những thay đổi đang diễn ra.

5.1.2. Lý do :

Lạm phát cơ cấu là lạm phát phổ biến ở hầu hết các nước đang phát triển. Tình trạng này là
do sự vận hành của yếu kém cơ cấu (nút thắt về nguồn cung, thiếu cơ sở hạ tầng, v.v.) tồn tại
trong một nền kinh tế đang phát triển. Việc thiếu đáp ứng để cung cấp đầy đủ hoặc sản xuất
để tăng nhu cầu là nguyên nhân của lạm phát cơ cấu. Việc tăng cung tiền và chi tiêu của
chính phủ chỉ có thể giải thích một phần kịch bản lạm phát. Kết quả của những điểm yếu
kém này, một số lĩnh vực của nền kinh tế như nông nghiệp sẽ chứng kiến ​tình trạng thiếu
cung, trong khi một số lĩnh vực như hàng tiêu dùng sẽ chứng kiến ​nhu cầu quá mức. Các
nền kinh tế như vậy phải đối mặt với vấn đề vừa thiếu cung, vừa sử dụng tài nguyên cũng
như cầu quá mức trong một số lĩnh vực.

Do đó, lạm phát cơ cấu phát sinh khi người sản xuất không thể điều chỉnh cơ cấu sản xuất
của mình một cách hiệu quả trước những thay đổi của cơ cấu nền kinh tế. Những thay đổi
này có thể liên quan đến:

- Nhu cầu về sản phẩm


- Công nghệ sản xuất

10
- Cạnh tranh mà các nhà sản xuất chống lại

5.1.3. Điểm nghẽn trong lạm phát cấu trúc:

Lạm phát được thảo luận cũng có thể xuất hiện khi cấu trúc chung của những gì người tiêu
dùng, công ty hoặc thậm chí chính phủ đang yêu cầu sẽ thay đổi đột ngột và các nhà sản
xuất sẽ không thể dễ dàng thay đổi cấu trúc tham gia nguồn lực, và do đó cấu trúc của chính
sản xuất. Ngoài ra, nó cũng có thể được kích hoạt bằng cách thực hiện đổi mới đáng kể.
Những thay đổi trong cơ cấu nền kinh tế gây ra sự xuất hiện của những khuyết điểm của
chiến lược và sẽ có sự xuất hiện của cái gọi là điểm nghẽn trong các kênh cung ứng. Nếu
nguồn cung đối với bất kỳ hàng hóa nào đột ngột tăng lên và đó sẽ là một điểm nghẽn, giá
của nó cũng sẽ cao hơn, và sự gia tăng này sẽ được chuyển sang giá của nhiều sản phẩm mà
nó cần. Các điểm nghẽn chính của các kênh cung ứng, các nền kinh tế đang phát triển thúc
đẩy hình thức lạm phát cấu trúc là:

5.2. Giải pháp cơ bản và hệ quả:

Và hiện tại chưa có gì được thực hiện để giải quyết các vấn đề cơ bản của lạm phát cơ cấu
đang gây ra rất nhiều rắc rối hiện nay của chúng ta.

Chính phủ cần có chủ động trong việc điều tiết dòng vốn giữa cung và cầu. Tránh những ảnh
hưởng do sự chênh lệch từ phía nguồn cung khi cung cấp quá nhiều sản phẩm gây ra dư thừa

11
và ảnh hưởng từ phía cầu khi nhu cầu mua hàng của người dân tăng cao nhưng lại không có
đủ nguồn lực để đáp ứng. Việc đảm bảo chuỗi cung ứng hoạt động hiệu quả sẽ giúp trong
quốc gia giảm thiểu được lạm phát. Ngoài ra, cần giám sát được các yếu tố sản xuất như tiền
lương, thuế gián thu và giá nguyên vật liệu. Đây thường là nguyên nhân chủ yếu đẩy chi phí
sản xuất lên cao, làm lượng hàng hóa mà các doanh nghiệp cung ứng giảm xuống. Doanh
nghiệp cần ít công nhân hơn, làm cho thất nghiệp tăng, lượng hàng hóa cung ứng không đủ
cũng là nguyên nhân dẫn đến tình hình lạm phát của quốc gia.
6. Học thuyết kinh tế KEYNES:

6.1.Định nghĩa:

Đây là lý thuyết kinh tế do nhà kinh tế học người Anh John Maynard Keynes (1883-1946)
và các đồng nghiệp đề xuất. Keynes tin rằng chính phủ nên sử dụng sức mạnh tài khóa để hỗ
trợ tăng trưởng và ổn định kinh tế cũng như vượt qua các chu kỳ suy thoái thường gặp ở
hầu hết các nền kinh tế phương Tây. Cuối cùng, Keynes lập luận trong tác phẩm Lý thuyết
chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ (1935) rằng các chính phủ trở thành những nhà quản lý
năng động của nền kinh tế, thao túng các chính sách thuế và chi tiêu. Theo Keynes, thâm hụt
chi tiêu kích thích tăng trưởng khu vực tư nhân trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng thấp.
Những người chỉ trích lý thuyết kinh tế của Keynes, đặc biệt là những người theo chủ nghĩa
tiền tệ, cho rằng sự ổn định kinh tế đạt được tốt nhất bằng cách kiểm soát tăng trưởng tín
dụng và cung tiền. Các nhà tiền tệ chỉ trích lý thuyết kinh tế của Keynes vì ​phụ thuộc quá
nhiều vào chi tiêu của chính phủ và các chính sách tài khóa, mà họ cho rằng đã kích thích
quá mức nền kinh tế, gây ra tỷ lệ lạm phát cao và góp phần vào một phần của chu kỳ bùng
nổ và phá sản kinh tế diễn ra từ giữa những năm 1970.

6.2. Tác động:

Tác động tới chính sách tài khóa:

- Theo lý thuyết kích thích tài khóa của Keynes, chi tiêu của chính phủ tăng lên cuối cùng
sẽ dẫn đến hoạt động kinh doanh bổ sung và thậm chí là chi tiêu nhiều hơn. Lý thuyết này
cho rằng chi tiêu làm tăng tổng sản lượng và tạo ra nhiều thu nhập hơn. Nếu người lao
động sẵn sàng chi tiêu nhiều hơn thu nhập của họ, kết quả là tăng trưởng tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) thậm chí có thể lớn hơn mức kích thích ban đầu của chính phủ.

- Độ lớn của hệ số nhân Keynes liên quan trực tiếp đến xu hướng tiêu dùng cận biên. Chi
phí của một người tiêu dùng trở thành thu nhập của người khác. Thu nhập của người này

12
sau đó trở thành một khoản chi phí và cứ thế chu kỳ tiếp tục. Keynes và những người theo
ông tin rằng các cá nhân nên tiết kiệm ít hơn và chi tiêu nhiều hơn để tăng xu hướng tiêu
dùng cận biên nhằm tạo ra toàn dụng lao động và tăng trưởng kinh tế.

Tác động tới chính sách tiền tệ:

- Kinh tế học Keynes tập trung vào các giải pháp từ phía cầu cho các cuộc suy thoái. Sự
can thiệp của chính phủ vào phát triển kinh tế là một vũ khí quan trọng của kinh tế học
Keynes trong cuộc chiến chống thất nghiệp, thiếu việc làm và nhu cầu tiêu dùng yếu. Việc
nhấn mạnh vào sự can thiệp trực tiếp của chính phủ vào nền kinh tế khiến các nhà kinh tế
học theo trường phái Keynes đối mặt với những lập luận về giới hạn của chính phủ đối với
ảnh hưởng của thị trường. Hạ lãi suất là một cách để các chính phủ can thiệp hợp lý vào
các hệ thống kinh tế, từ đó tạo ra nhu cầu kinh tế tích cực.

- Các nhà kinh tế học theo trường phái Keynes cho rằng nền kinh tế không ổn định nhanh
chóng mà cần có sự can thiệp tích cực làm tăng nhu cầu ngắn hạn trong nền kinh tế. Họ
cho rằng tiền lương và việc làm đáp ứng chậm hơn với nhu cầu thị trường, đòi hỏi sự can
thiệp của chính phủ để giữ cho chúng đi đúng hướng. Giá cả cũng không phản ứng nhanh
chóng, chỉ có sự can thiệp của chính sách tiền tệ sẽ thay đổi dần chúng. Chính sự thay đổi
chậm chạp của giá cả cho phép chính sách tiền tệ sử dụng lượng tiền cung ứng như một
công cụ điều chỉnh lãi suất để khuyến khích đi vay và cho vay.

- Tăng trưởng nhu cầu trong ngắn hạn bắt đầu bằng việc cắt giảm lãi suất sẽ tái tạo hệ
thống kinh tế và khôi phục việc làm cũng như nhu cầu về dịch vụ. Các hoạt động kinh tế
mới sau đó tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng và việc làm. Nếu không có sự can thiệp, các
nhà lý thuyết Keynes tin rằng, chu kỳ sẽ bị gián đoạn và tăng trưởng thị trường trở nên dễ
bay hơi hơn và chịu sự biến động quá mức. Giữ lãi suất thấp là một nỗ lực để kích thích
chu kỳ kinh doanh bằng cách khuyến khích các doanh nghiệp và cá nhân vay thêm tiền.
Khi khuyến khích cho vay, các doanh nghiệp và cá nhân thường tăng chi tiêu. Chi tiêu mới
này kích thích nền kinh tế. Tuy nhiên, lãi suất thấp hơn không phải lúc nào cũng trực tiếp
dẫn đến cải thiện kinh tế.

Giải pháp xử lý lạm phát và hệ quả phát sinh:

- Áp dụng việc sử dụng sức mạnh tài khóa để hỗ trợ tăng trưởng và ổn định kinh tế cũng
như vượt qua các chu kỳ suy thoái thường gặp. Việc chính phủ giảm lãi suất thấp trực tiếp
trong lý thuyết Keynes sẽ kích cầu người tiêu dùng, can thiệp vào hợp lý vào các hệ thống
kinh tế, từ đó tạo ra nhu cầu kinh tế tích cực. Việc người lao động sẵn sàng chi tiêu nhiều

13
hơn thu nhập của họ, kết quả là tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thậm chí có thể
lớn hơn mức kích thích ban đầu của chính phủ. Bên cạnh đó, việc tăng và giảm thuế cũng
góp phần giúp chính phủ giảm thiểu lạm phát.

- Tuy nhiên, việc ​phụ thuộc quá nhiều vào chi tiêu của chính phủ và các chính sách tài
khóa, có nguy cơ tạo nên sự kích thích quá cho mức nền kinh tế, gây ra tỷ lệ lạm phát cao
và góp phần vào một phần của chu kỳ bùng nổ và phá sản kinh tế nếu như không được điều
chỉnh hợp lí.
7. Quantity Theory of Money:

7.1. Định nghĩa:

Lý thuyết số lượng tiền là một giả thuyết cho rằng sự thay đổi về giá cả liên quan đến sự
thay đổi trong việc cung cấp tiền bạc. Lý thuyết này cho thấy có một mối quan hệ tỷ lệ thuận
với cơ khí và cố định giữa những thay đổi trong cung tiền và mức giá chung. Đây phổ biến,
mặc dù gây nhiều tranh cãi, xây dựng lý thuyết số lượng tiền được dựa trên một phương
trình của chuyên gia kinh tế Mỹ Irving Fisher.

Lý thuyết số lượng của tiền được cho là một trong những lý thuyết lâu đời nhất các học
thuyết kinh tế còn sót lại. Nói một cách đơn giản, nó khẳng định rằng những thay đổi trong
mức chung của giá cả chung được quyết định chủ yếu bởi những thay đổi của lượng tiền
trong lưu thông. Lý thuyết số lượng tiền đã hình thành cốt lõi trung tâm của phân tích tiền tệ
cổ điển thế kỷ 19, cung cấp khuôn khổ khái niệm chủ đạo để diễn giải trong các sự kiện tài
chính đương đại và hình thành nền tảng trí tuệ của các quy định chính sách chính thống
được thiết kế để duy trì bản vị vàng. David Hume (1711-1776) đã cung cấp phân tích quy
trình động đầu tiên về tác động của sự thay đổi tiền tệ lan truyền từ khu vực này sang khu
vực khác của nền kinh tế, thay đổi tương đối như thế nào. Giá cả và số lượng trong quá trình
này. Anh ấy đã cung cấp đáng kể sàng lọc, xây dựng và mở rộng lý thuyết lượng về tiền
David Ricardo (1772-1823), người có ảnh hưởng nhất trong các nhà kinh tế học cổ điển, cho
rằng sự mất cân bằng như vậy có tác động phù du và không quan trọng trong phân tích cân
bằng dài hạn. Với tư cách là nhà lãnh đạo của Balloonist, Ricardo cho rằng lạm phát ở Anh
chỉ là kết quả của việc Ngân hàng Trung ương Anh vô trách nhiệm về vấn đề tiền tệ, khi vào
năm 1797, dưới sự căng thẳng của Chiến tranh Napoléon; Nước Anh đã rời bỏ tiêu chuẩn
vàng để trở thành một tiêu chuẩn giấy không thể thay đổi được. Ricardo không khuyến
khích các cuộc thảo luận về tác động đầu ra có lợi có thể có và việc làm của việc bơm tiền.

14
Irving Fisher (1876-1947) đã viết ra phương trình trao đổi viz nổi tiếng của mình. MV = PT.
Phương trình này và các phương trình khác, chẳng hạn như phương trình cân bằng tiền mặt
của Cambridge, tương ứng với việc sử dụng toán học trong phân tích kinh tế địa lý mới nổi,
xác định chính xác các điều kiện mà định đề tỷ lệ có hiệu lực. Fisher và các nhà kinh tế học
tân cổ điển khác, chẳng hạn như Arthur Cecil Pigou (1877-1959) ở Cambridge, đã chứng
minh rằng việc kiểm soát tiền tệ có thể đạt được trong một chế độ ngân hàng dự trữ phân
đoạn thông qua việc kiểm soát một kho dự trữ tiền quyền lực cao được xác định ngoại sinh.

7.2. Giải pháp và hệ quả:

- Theo lý thuyết số lượng tiền tệ, khi nhà nước giảm lượng cung tiền vào trong lưu thông
tiền tệ quốc gia. Trong ngắn hạn, điều này sẽ làm giảm lượng tiền trong thị trường từ đó
giảm cầu tiêu dùng và điều chỉnh được lạm phát của quốc gia. Việc tăng giá cả trong khi
giá cả ở nước nhập khẩu giảm, nên dòng tiền sẽ di chuyển từ nước có giá cả cao sang nước
có giá cả thấp. Quá trình này tiếp tục cho đến khi có sự cân bằng giữa khối lượng tiền thực
tế và khối lượng tiền tự nhiên.

- Bên cạnh đó, nhu cầu gia tăng và cùng với nó sự gia tăng giá cả lương thực thực phẩm.
Sự gia tăng giá cả lương thực, cùng với sự giá tăng giá cả hàng tiêu dùng làm sụt giảm tiền
lương thực tế, điều này khuyến khích các công ty thu nhận thêm nhân công. Về sau, sự gia
tăng nhu cầu lao động đẩy tiền lương tăng lên và tiền lương tiếp tục tăng cho đến khi
ngang bằng với sự gia tăng giá cả và tiền tệ. Từ đó giải quyết triệt để được vấn đề trong
ngắn hạn của lạm phát
Phần II: Câu hỏi thảo luận
Câu 1: Theo bạn, chuyên gia nào có đề xuất phù hợp với bối cảnh Việt Nam hơn

Dựa trên bối cảnh Việt Nam, chúng em nhận thấy đề xuất của chuyên gia D là phù hợp trong
giai đoạn từ cuối năm 2021, đầu năm 2022. Qua dữ liệu thu thập được, nguyên nhân lạm
phát của thời điểm này đến từ cả phía cung và phía cầu (trùng khớp với nhận định của
chuyên gia D). Cụ thể như sau:

Chuyên gia A: Lập luận rằng lạm phát chỉ mới là cảnh báo và chủ yếu từ phía cung

Thứ nhất, về sức cầu của năm nay (2022) chưa được cải thiện nhiều. Tổng mức bán lẻ hàng
hóa và dịch vụ tiêu dùng xã hội 8 tháng đầu năm chỉ tăng 15,1% so với cùng kỳ năm ngoái,
nhưng doanh thu dịch vụ du lịch ăn uống tăng 48,1% so với cùng kỳ 2021 - đóng góp chủ
yếu. Nguyên nhân là do tính bảo thủ về giá của một số tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh.

15
Với tình hình vừa sau đại dịch (2021), cầu về các mặt hàng hoá khác ngoài lương thực thực,
thực phẩm vẫn trong tình trạng rất thấp, có mặt hàng được xem là không có. Điều đó tạo sự
cân bằng về cung nên được một số chuyên gia nhận định là không gây sức ép lên giá trị lạm
phát. Tuy nhiên, trong tình hình sau đại dịch xu hướng giao hàng tận nơi với chi phí giao
hàng trung bình từ 60-70 nghìn đồng lại là vấn đề gia tăng chi phí có ảnh hưởng nhất định
đến lạm phát.

Thứ hai, tình hình giá dầu tăng mạnh do thiếu hụt nguồn cung nhập khẩu gây nên tình trạng
tỷ lệ lạm phát tăng cao vào những tháng giữa năm (cao nhất đạt 3,36% tháng 6 năm 2022).
Gây nên những biến động tăng giá của các mặt hàng như gas, nguyên vật liệu sản xuất. Mặc
dù giá xăng dầu tăng cao và giá nguyên vật liệu dùng cho sản xuất tăng, do sức mua của
người tiêu dùng yếu nên cộng đồng doanh nghiệp chấp nhận giảm bớt lợi nhuận để không
tăng giá bán sản phẩm cũng là yếu tố góp phần kiểm soát lạm phát 4 tháng đầu năm 2022.

Giá nhập khẩu tăng cao đến 126,7 điểm cũng là nguyên nhân gây lạm phát. Các sản phẩm
hàng hoá sản xuất bằng nguyên vật liệu nhập khẩu hay các chủ thể kinh doanh ăn lợi nhuận
giá chênh lệch sẽ đẩy giá các mặt hàng này lên cao gây lạm phát.

Thứ ba, các chi phí phát sinh trong và sau đại dịch đè nặng lên nhà sản xuất (xét nghiệm,
giao thông vận tải, nguyên vật liệu, chuỗi cung ứng). Bắt buộc họ phải tăng giá cả sản phẩm
làm ra để có thể duy trì lợi nhuận, hoạt động sản xuất.

16
Kết luận: Các lập luận của chuyên gia A xoay quanh lý thuyết cấu trúc về lạm phát và có các
luận điểm xác đáng về lạm phát từ phía cung. Tuy nhiên, điều này là chưa đủ và chưa giải
thích toàn diện lạm phát của Việt Nam

Chuyên gia B: Lạm phát nhập khẩu và lạm phát tiền tệ do nới lỏng tài khóa và tiền tệ

- Theo lý thuyết lượng tiền tệ:

+ Từ biểu đồ được thu thập ta có thể thấy được, lượng cung tiền của Việt Nam tăng đều từ
tháng 1 năm 2020 đến tháng 12 năm 2020 và cũng tương tự trong năm 2021. Lí do ở đây là
việc chính phủ đẩy mạnh cung tiền để giảm thiểu tác động của Covid-19 đến với người
dân. Điều này cũng vô tình dẫn đến lạm phát ở Việt Nam.

+ Việc tăng cung tiền kéo dài làm dịch chuyển đường tổng cầu AD sang phải (từ AD1 đến
AD3, AD3 và AD4 trong khi đường tổng cung AS dịch chuyển từ AS1 đến AS2, AS3 và
AS4. Kết quả là mức giá tăng dần từ P1 đến P2, P3 và P4. Như vậy, lạm phát xảy ra khi
cung tiền tệ tăng lên liên tục theo thời gian.

17
- Theo học thuyết của Keynes về tác động của chính sách tài khóa đến lạm phát:

+ Tại thời điểm ban đầu, khi nền kinh tế đang ở tại điểm cân bằng E1 (là giao điểm của
đường tổng cầu AD1 và tổng cung AS1) tại đó tổng sản phẩm ở mức tỷ lệ tự nhiên Yn và
mức giá P1. Với việc Chính phủ tăng chi tiêu liên tục sẽ làm đường tổng cầu dịch chuyển
từ AD1 đến AD2 và nền kinh tế dịch chuyển đến điểm cân bằng E1’ – tại đó tổng sản
phẩm trên mức tự nhiên Y’. Khi đó, đường tổng cung sẽ dịch chuyển từ AS1 đến AS2, tại
đó, điểm cân bằng tại E2, ở đó, tổng sản phẩm lại quay về mức tự nhiên Yn nhưng giá cả
đã tăng đến P2. Nhưng với việc chi tiêu của Chính phủ gia tăng liên tục cũng khiến cung
tiền liên tục gia tăng và lạm phát sẽ xuất hiện (có thể là lạm phát do cầu kéo hoặc phí đẩy).
Chính vì vậy, theo quan điểm của Keynes thì lạm phát xuất hiện khi chi tiêu của Chính phủ
gia tăng liên tục nhằm mở rộng việc làm và thu nhập của dân chúng, kích thích tăng trưởng
kinh tế.

18
+ Ở Việt Nam, vào đầu quý 2 năm 2020, chính phủ đã ban hành gói an sinh xã hội 61.580
tỷ đồng để hỗ trợ bà con gặp khó khăn do dịch bệnh Covid-19. Bên cạnh đó là gói tín dụng
giảm lãi và cho vay mới giá trị xấp xỉ 300.000 tỷ đồng, gói hỗ trợ gia hạn thuế và tiền thuê
đất 180.000 tỷ đồng, gói hỗ trợ phí và lệ phí tối thiểu 40.000 tỷ đồng, gói giảm giá điện
11.000 tỷ đồng và gói hỗ trợ cước internet, viễn thông 15.000 tỷ đồng. Thêm nữa là các dự
án đầu tư công và hợp tác công-tư với tổng trị giá lên đến 700.000 tỷ đồng sẵn sàng kích
hoạt để “bơm” tiền vào nền kinh tế. Vào năm 2021, tổng số tiền thuế và thu ngân sách thực
tế đã gia hạn, miễn, giảm theo các chính sách đã ban hành là khoảng 26,7 nghìn tỷ đồng và
14,95 triệu người lao động được nhận hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp với tổng kinh phí ước
tính trên 26 nghìn tỷ đồng.

Kết luận: Chuyên gia B tin rằng lạm phát của quốc gia bị ảnh hưởng bởi lượng cung tiền và
chính sách tài khóa của quốc gia đó. Việc các quốc gia chủ động trong việc điều tiết các
yếu tố trên sẽ góp phần đảm bảo kiểm soát được khi có lạm phát xảy ra. Mặc dù vậy,
nhưng vẫn chưa phản ánh đầy đủ các yếu tố gây nên lạm phát của Việt Nam.

Chuyên gia C: Tin vào lạm phát xuất phát từ yếu tố chi phí đẩy nhiều hơn

Lạm phát chi phí đẩy là lạm phát do chi phí sản xuất tăng.
Với mô hình tổng cung tổng cầu. Khi xảy ra lạm phá với yếu tố chi phí đẩy làm cho
đường tổng cung ( AS₀) dịch sang bên trái (đường tổng cung lạm phát AS₁). Làm cho mức
giá chung (P) tăng nhưng giảm về sản lượng (Y). Với lượng cầu ( AD₀) hàng hoá không
đổi sẽ gây ra tình trạng kinh tế tiêu cực. Do đó, nếu không có biện pháp ứng phó kịp thời
có thể dẫn đến suy thoái kinh tế.

19
Các nguyên nhân gây nên lạm phát do chi phi đẩy:

Đối với giai hậu đại dịch hiện nay, chi phí lao động được gia tăng với hai nguyên do chính là
giá lao động tăng cao do thiếu hụt nguồn lao động và chi phí kèm lao động (xét nghiệm, y
tế,...). Nguồn cung nguyên liệu: thiếu hụt gây tăng giá nguyên liệu. Ngoài ra, đối với những
quốc gia nhập khẩu nguyên liệu thô nhiều thì việc tăng giá của chúng cũng sẽ khiến chi phí
sản xuất tăng, sau đó là giá bán sản phẩm tăng. Nguyên nhân của sự tăng giá này thường là
do mặt bằng giá cả quốc tế tăng hoặc tỷ giá hối đoái không ổn định.

Với tình hình giá dầu tăng mạnh đầu năm nay do đứt gãy nguồn cung bởi chiến tranh quân
sự ảnh hưởng đến nhiều nước nhập khẩu xăng dầu và trong đó có Việt Nam. Gây gia tăng
giá thành nhập khẩu các mặt hàng nguyên nhiên vật liệu (chiếm 37% tổng chi phí).

20
Biểu đồ thay đổi giá các mặt hàng nhu yếu phẩm và lạm phát

Nhìn chung, theo biểu đồ ta thấy việc giá của những mặt hàng nhu yếu phẩm trên tăng hay
giá tăng không quá ảnh hưởng đến tỷ lệ lạm phát (ngoại trừ giá thực phẩm có đường giá trị
gần tương tự).

Với việc gia tăng giá lương thực, thực phẩm, xăng thì theo biểu đồ ta thấy chỉ số lạm phát có
xu hướng giảm. Tuy nhiên, tỉ lệ lạm phát năm nay 2022 vào tháng 9 ở mức 3,84% cao nhất
năm nay và khá cao với ba năm vừa qua (2019,2020,2021) Việc Nhà nước tăng thuế hàng
hoá cũng sẽ gây áp lực tới nhà sản xuất khiến sản phẩm bị đẩy giá lên cao.

Kết luận:

Nhìn chung để khắc phục chi phí đẩy ta cần quan tâm vào hai khía cạnh là quan tâm vào
việc giảm hoặc giữ ổn định chi phí sản xuất và duy trì giá cả sản phẩm đầu ra.

Lạm phát chi phí đẩy đóng vai trò lớn trong gia tăng lạm phát ở nước ta thời gian hậu đại
dịch nhưng không hoàn toàn chính xác. Còn có nhiều nguyên nhân khác như chênh lệch cầu
của các loại hàng hoá quá lớn, chi phí giao hàng,...

21
Chuyên gia D: Vị chuyên gia D cho rằng lạm phát đến từ cả phía cung và cầu, bên cạnh
những nhân tố từ phía cung được phân tích từ ông chuyên gia A, B, C thì vị chuyên gia D
còn cho rằng nhân tố từ phía cầu từ gói kích thích hồi phục kinh tế nhiều tham vọng của
Chính phủ.

Chính vì vậy cũng đã đặt ra câu hỏi có nên đánh đổi giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
hay không.

Các tác động tích cực của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế

Thứ nhất, theo các kênh tiết kiệm và đầu tư, lạm phát có thể ảnh hưởng tích cực đến sự phát
triển kinh tế. Theo Sidrauski (1967), tích trữ tiền mặt mất giá nhanh hơn so với đầu tư, do đó
đầu tư sẽ hấp dẫn hơn trong môi trường có lạm phát thấp hợp lý. Luôn luôn có độ trễ trong
tăng trưởng tiền lương khi nền kinh tế trải qua lạm phát vì có độ trễ giữa việc tăng giá đầu ra
và tăng chi phí đầu vào. Theo Tobin (1972), lạm phát vừa phải đóng vai trò như “chất bôi
trơn” của nền kinh tế bằng cách cho phép các nhà sản xuất mua đầu vào lao động với chi phí
thực tế thấp hơn, do đó làm tăng tiết kiệm. Họ khuyến khích tăng quy mô sản xuất bằng
cách tiết kiệm và đầu tư.

Thứ hai, thông qua tác động kích cầu cho thấy lạm phát có mối quan hệ tích cực với tăng
trưởng. Khi giá cả tăng, mọi người có xu hướng sử dụng nhiều hơn hoặc mua nhiều hàng
hơn để dự trữ, điều này làm tăng nhu cầu. Bên cạnh đó, lạm phát thường kéo theo việc giá
đồng nội tệ sẽ bị phá, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và có xu hướng tăng xuất
khẩu. Sự gia tăng nhu cầu xuất khẩu kích thích sự gia tăng nhu cầu đối với hàng hoá và dịch
vụ trong nước - một nguồn cung cấp cho xuất khẩu. Trong tổng hợp Keynes, một nền kinh
tế bị ảnh hưởng bởi cả tổng cầu và tổng cầu. Tuy nhiên, yếu tố quyết định ảnh hưởng trực
tiếp đến sản lượng và công việc là tổng cầu. Lý do cho sự đi lên của nền kinh tế là do tổng
cầu thường xuyên thấp hơn tổng cầu dẫn đến việc tiết kiệm trong việc sử dụng thu nhập. Để
an toàn, Nhà nước áp dụng các chính sách như mở rộng khóa tài chính và tiền tệ để tăng
tổng cầu, trong đó tỷ lệ cắt giảm sẽ tạo ra ngày càng lớn, từ đó kích thích tăng trưởng. người
tích cực sử dụng tiền mặt để sử dụng, đầu tư kinh doanh.

Tuy nhiên, tổng cầu thường thấp hơn tổng cung do khuynh hướng tiết kiệm trong sử dụng
thu nhập, đó là nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế. Để đảm bảo tăng trưởng cần có sự
can thiệp của Nhà nước thông qua các chính sách như mở rộng chính sách tài khóa, tiền tệ
nhằm nâng cao tổng cầu, trong đó việc giảm lãi suất sẽ tạo ra lạm phát, từ đó kích thích mọi
người sử dụng tiền mặt để tiêu dùng, đầu tư kinh doanh.

22
Thứ ba, Nhà nước có thể thông qua việc tăng cung tiền để tăng cường phát triển giáo dục -
đào tạo, khoa học - công nghệ, xây dựng cơ sở hạ tầng, .... Đầu tư xây dựng thêm trường
học, cơ sở giáo dục, viện nghiên cứu, nâng lương cho cán bộ, xây dựng nhà máy, xí
nghiệp,… sẽ góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trình độ khoa học và công nghệ,
đáp ứng điều kiện cơ sở hạ tầng phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế.

Các tác động tiêu cực của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế

Trước hết, lạm phát làm thay đổi giá cả tương đối và phân bổ nguồn lực không chính xác.
Fischer (1993) cho rằng do giá cả tương đối thay đổi bất lợi, lạm phát làm sai lệch trong việc
phân phối các nguồn lực. Khi có lạm phát trong nền kinh tế, sự thay đổi giá của các mặt
hàng khác nhau dẫn đến thay đổi giá tương đối của chúng, sự lựa chọn của người tiêu dùng
bị biến dạng và thị trường không có khả năng phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả.

Thứ hai, lạm phát làm suy giảm đầu tư - hoạt động nguồn, đầu vào của nền kinh tế. Tính
không chắc chắn trong sự biến động của lạm phát chính là nguyên nhân làm suy giảm đầu tư
trong dài hạn. Fischer (1993) đã xây dựng lược đồ nhằm xác định “kênh truyền tải” từ thực
thi chính sách kinh tế vĩ mô đến tăng trưởng như sau: lạm phát tăng→đầu tư suy giảm→tỷ
lệ tăng năng suất suy giảm→tăng trưởng kinh tế suy giảm. Theo Choi và đồng sự (1996),
Azariadas và Smith (1996) cho rằng, nếu lạm phát tăng cao sẽ làm giảm mức lãi suất thực tế
mà người đi vay phải trả cho người cho vay, thậm chí âm. Tình huống đó dẫn tới có nhiều
người muốn trở thành người đi vay hơn là người tiết kiệm, do đó tạo ra sự mất cân bằng
trong thị trường vốn và tín dụng. Bên cạnh đó, lạm phát cao còn làm biến dạng thuế (Romer,
2001) làm suy giảm động cơ tiết kiệm của các chủ thể gửi tiền mà tiết kiệm lại là nguồn của
đầu tư. Lạm phát cao còn gây ra “chi phí mòn giày”, “chi phí thực đơn”, “nhầm lẫn và bất
tiện”.

Thứ ba, lạm phát có thể tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế thông qua những thay đổi
trong chính sách tỷ giá. Bởi lạm phát thường kéo theo việc nâng tỷ giá làm tăng chi phí nợ
nước ngoài tính bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp và Chính phủ có nợ vay nước ngoài, từ
đó gia tăng nguy cơ vỡ nợ của các doanh nghiệp và Chính phủ. Đối với một số nền kinh tế
mở nhưng tỷ giá hối đoái không hoàn toàn linh hoạt, lạm phát có thể làm thâm hụt cán cân
thương mại. Khả năng cạnh tranh của một quốc gia có lạm phát cao sẽ bị xóa mòn bởi sự
tuân thủ tỷ giá danh nghĩa cố định (Hossain và Chowdhury, 1996).

Số liệu thực tế

23
Năm 2019, tỷ lệ lạm phát tăng dần qua các quý, từ quý 1/2019 là 1,83% đến quý 4/2019 là
2,78%. Qua đó cho thấy tăng trưởng luôn ổn định khi lạm phát ở dưới mức 4%. Khi lạm
phát có xu hướng tăng thì tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm, điều đó được thể hiện rõ
trong biểu đồ năm 2020

Trong năm 2020:

Đại dịch COVID-19 kéo dài đã đẩy kinh tế thế giới rơi vào trạng thái khủng hoảng trầm
trọng nhất kể từ năm 1930, GDP năm 2020 tăng 2,91% (Quý I tăng 3,68%; quý II tăng
0,39%; quý III tăng 2,69%; quý IV tăng 4,48%), tuy là mức tăng thấp nhất của các năm
trong giai đoạn 2011-2020 nhưng trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh
hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội thì đây là thành công lớn của Việt Nam với
mức tăng trưởng năm 2020 thuộc nhóm cao nhất thế giới. Lạm phát cơ bản tháng 12/2020
tăng 0,07% so với tháng trước và tăng 0,99% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản
bình quân năm 2020 tăng 2,31% so với bình quân năm 2019.

24
Nếu lạm phát cơ bản tăng nhanh và chỉ số giá tiêu dùng tăng cao hơn mục tiêu chính phủ đề
ra là 4%, nguy cơ lạm phát cao hơn sẽ trở thành hiện thực. Để giảm áp lực lạm phát, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam cần chuẩn bị chuyển sang thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất
và giảm lượng tiền lưu thông.

Kết luận:

Trong bối cảnh Việt Nam giai đoạn cuối năm 2021, đầu năm 2022, chính phủ không nên cố
chấp theo đuổi mục tiêu giữ lạm phát thấp bằng mọi giá, mà cần thực hiện các biện pháp
thích hợp ổn định lạm phát để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và tránh những cú sốc
lạm phát. Các cơ quan chuyên môn đưa ra những dự báo rằng CPI năm 2022 có thể vượt
mức 4% nếu thị trường chung còn nhiều bất lợi, nhất là khi khủng hoảng năng lượng tiếp tục
leo thang. Việc kiểm soát lạm phát năm 2022 sẽ chỉ đạt mục tiêu khi các phương hướng, giải
pháp về quản lý, điều hành giá tiếp tục được triển khai quyết liệt, hiệu quả để hạn chế tác
động từ diễn biến giá cả thế giới có thể tác động.

25
Câu 2: Bạn ủng hộ ý kiến của chuyên gia nào? Giải thích rõ vì sao.
Thông qua thảo luận và số liệu thu thập, nhóm em đồng ý với nhận định của chuyên gia E.
Bởi cục diện kinh tế thể giới đã thay đổi do ảnh hưởng của chiến tranh Ukraine - Nga cuối
tháng hai năm 2022, tạo ra hiệu ứng domino và các căng thẳng địa chính trị trên toàn cầu
nên sự điều chỉnh chọn mục tiêu NGDPT hợp lý là cần thiết. Từ đó, việc xem xét các yếu tố
tạo nên lạm phát xoay vòng và kỳ vọng lạm phát ảnh hưởng thế nào đến lạm phát để đặt
mục tiêu NGDPT theo thực tế.

Lạm phát xoay vòng (vòng xoáy lạm phát), ảnh hưởng của kỳ vọng đến lạm phát
Vòng xoáy lạm phát được hiểu là mối tương quan giữa sự gia tăng tiền lương và tăng giá
hàng hóa. Đó sự gia tăng giá liên tục được duy trì bởi xu hướng tăng lương và tăng chi phí
tác động lẫn nhau.
Một vòng xoáy giá tiền lương đại diện cho mối quan hệ giữa cung và cầu, cũng như tiền
lương và giá cả. Một vòng xoáy lạm phát bắt đầu khi có một phong trào tăng giá, khi giá
nguyên liệu tăng mạnh, giá tiêu dùng và đầu tư (P) sẽ tăng dẫn đến việc công đoàn yêu cầu
mức lương (W) cao hơn để có thể duy trì được thu nhập thực tế (W/P) của công nhân. Nếu
công đoàn thành công thì chi phí tiền lương của các doanh nghiệp từ đó cũng sẽ được tăng
theo. Khi giá hàng hóa bắt đầu tăng lên, nhân viên gây áp lực lên người sử dụng lao động vì
mức lương tăng nhưng ngay khi tiền lương tăng, chi phí hàng hóa trở nên cao hơn. Do đó,
giá hàng hóa càng cao, càng nhiều công nhân yêu cầu tăng lương.

Khi giá cả tăng lên do sức ép của cầu, nó được gọi là lạm phát do cầu kéo. Cầu tăng thường
là kết quả của việc tăng cung tiền hoặc tăng chi tiêu của chính phủ. Khi điều này xảy ra,

26
đường tổng cầu dịch chuyển sang phải. Tại điểm cân bằng ngắn hạn mới này, cả mức sản
lượng và mức giá đều cao hơn.

Với GDP thực tế cao hơn mức toàn dụng, mức tăng GDP không bền vững. Tỷ lệ thất nghiệp
giảm xuống dưới tỷ lệ tự nhiên, gây áp lực lên tiền lương thực tế và giá đầu vào. Chi phí sản
xuất tăng dẫn đến giảm tổng cung trong ngắn hạn, cho đến khi GDP thực tế quay trở lại
GDP toàn dụng. Mặc dù sản lượng giảm trở lại GDP của toàn dụng lao động, nhưng mức
giá hiện nay thậm chí còn cao hơn. Tuy nhiên, nếu ngân hàng trung ương tiếp tục tăng tốc
độ cung tiền, chu kỳ này sẽ tiếp tục, nâng mức giá theo một vòng xoáy đi lên.

Ví dụ:
Một trong những ví dụ là vòng xoáy tiền lương - giá cả xảy ra ở Hoa Kỳ vào năm 1970, đây
là khi OPEC tăng giá dầu do lạm phát xảy ra trong nước. Lạm phát này đã được kiềm chế
bởi chính phủ Hoa Kỳ sử dụng chính sách tiền tệ. Khi chính sách tiền tệ đang được sử dụng
để kiềm chế lạm phát, các ngân hàng trung ương đặt ra một mức giới hạn cho tỷ lệ lạm phát
tại thời kỳ đó. Một nghiên cứu trước đây được thực hiện vào năm 2018 của nhiều tác giả về
Nhắm mục tiêu lạm phát đã kết luận rằng thay vì dựa hoàn toàn vào chính sách tiền tệ để
ngăn chặn vòng xoáy giá cả tiền lương, các chính phủ nên đưa ra quyết định dựa trên những
diễn biến xung quanh lạm phát.
Trong một vòng xoáy giá tiền lương, sự gia tăng tiền lương dẫn đến sự gia tăng chi phí hàng
hóa và ngược lại. Vòng xoáy chi phí - giá cả có thể tiếp diễn mãi mãi hoặc thậm chí có xu
hướng tăng cường, hình thành kỳ vọng cao về lạm phát, nếu kì vọng lạm phát trong tương
lai là tương đối cao thì người tiêu dùng sẽ có xu hướng tiêu dùng nhiều hơn trong hiện tại vì
giá của nó đang rẻ hơn tương lai, từ đó làm cho lạm phát ngày càng gia tăng với tốc độ càng
cao. Theo báo cáo của Bộ lao động Mỹ về CPI trong tháng 8/2022, lạm phát của Mỹ vẫn
đang duy trì ở mức cao, cụ thể tăng 0,1% so với tháng trước và tăng 8,3% so với cùng kỳ
năm 2021.
Ví dụ: mục tiêu lạm phát của FED là 2%, nhưng lạm phát kỳ vọng tại Mỹ đang là 1%. Có
nghĩa ràng người dân Mỹ đang không tin vào chính sách của FED có hiệu quả. Việc kỳ vọng
lạm phát ở mức thấp cũng khiến cho hành vi của các doanh nghiệp và người tiêu dùng thay
đổi, các hành động của họ sẽ kiến lạm phát thực tế tiến gần tới mức 1% hơn, khiên FED gặp
khó khăn hơn trong việc đưa lạm phát trở lại mức 2%.
Giải pháp:
Kiềm chế một vòng xoáy lạm phát là một điều rất quan trọng trong việc đạt được sự ổn định
nền kinh tế. Có một vài cách để ngăn chặn điều này ví dụ như việc chính phủ thông qua

27
nhiều chính sách của Ngân hàng Trung ương, một số chính sách tiền tệ, lãi suất, chính sách
thị trường mở và yêu cầu dự trữ các chính sách tiền tệ khác. Cách đơn giản nhất để tác động
lên lạm phát kỳ vọng đó là chính sách tiền tệ. Chẳng hạn, khi Fed thực hiện chính sách nới
lỏng tiền tệ vào tháng 3 năm nay, bằng việc hạ lãi suất chính sách cũng như tung ra gói QE
không giới hạn ra thị trường, điều này trong tương lai sẽ dẫn đến lạm phát tăng, và các nhà
đầu tư thị trường cũng kỳ vọng như vậy, khiến lạm phát kỳ vọng liên tục tăng lên kể từ thời
điểm đó.
Câu 3: Giả sử bạn được yêu cầu nêu giải pháp góp phần giải quyết áp lực lạm phát ở
Việt Nam, nội dung đề xuất của bạn sẽ là gì?

3.1. Giải pháp của chiến tranh Nga và Ukraine cho vấn đề lạm phát Việt Nam:

- Cần có giải pháp tổng thể và ổn định để đảm bảo nguồn cung xăng dầu (gồm cả trong
nước và nhập khẩu) không bị đứt gãy; điều tiết hệ thống phân phối, tránh đứt đoạn nguồn
cung, ảnh hưởng tới đời sống của người dân và các hoạt động sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp.

- Chính phủ cần chỉ đạo rà soát, đánh giá và đề xuất phương án phù hợp đối với việc điều
hành Quỹ bình ổn giá xăng dầu, như cân nhắc cả phương án có nên duy trì hay không, giải
pháp thay thế là gì. Về lâu dài, chính phủ nên có những chiến lược tăng tính tự cường, đặc
biệt là phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, tăng nguồn năng lực dự trữ và năng lực
phân tích, dự báo trên cơ sở thông tin, dữ liệu và khoa học.

- Cần theo dõi sát sao diễn biến căng thẳng Nga - Ukraine và động thái, chính sách của
phương Tây để có tổng hợp, phân tích, báo cáo và đề xuất giải pháp ứng phó kịp thời.
Chính phủ, bộ, ngành tiếp tục nỗ lực trong công tác điều hành kinh tế - xã hội theo hướng
quyết liệt, kịp thời, hiệu quả, phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng 6%-6,5% và kiểm soát lạm
phát khoảng 4% trong năm 2022.

- Sau khi đánh giá tác động của việc Nga bị tách khỏi hệ thống SWIFT, khả năng hệ thống
thanh toán thay thế của Nga, ngân hàng Nhà nước nên phối hợp với cơ quan liên quan để
có những chính sách và giải pháp hỗ trợ các định chế tài chính, doanh nghiệp xuất nhập
khẩu Việt Nam.

- Cần tăng niềm tin bằng chính sách cụ thể, không để người dân chỉ thấy giá giảm trên tivi
và các trang thông tin đại chúng. Điều này có thể khiến tăng lạm phát kỳ vọng. Trong điều

28
hành giá cần tránh tăng đồng loạt, nhất là các nhóm ngành y tế, giáo dục... cộng hưởng vào
đà tăng hàng hóa.

- Doanh nghiệp khi tham gia hoạt động xuất khẩu lưu ý áp dụng các biện pháp phòng ngừa
rủi ro khi giao kết hợp đồng với khách hàng nước ngoài trong thời gian xung đột như: cân
nhắc thấu đáo trong lựa chọn các ngân hàng thanh toán, áp dụng các phương thức thanh
toán an toàn hơn, đặc biệt là trong bối cảnh cấm vận, trước khi giao kết hợp đồng.

3.2. Chính sách cho Việt Nam để có thể kiểm soát lạm phát khi có Covid cũng như
phục hồi nền kinh tế

Về các giải pháp đối với Việt Nam cần thiết ngay lúc này là phục hồi nền kinh tế, tiếp tục
tăng trưởng, kiểm soát lạm phát, đồng thời phải dập dịch Covid và ngăn không cho nó quay
trở lại. Thực tế sau khi mở cửa nền kinh tế trở lại, việc bùng phát dịch vẫn xảy ra đâu đó.
Song, chúng ta đã có kinh nghiệm từ đợt chống dịch trước, nên tuyệt đối không để tình trạng
“bế quan tỏa cảng” tại một vài địa phương một lần nữa tái xuất hiện. Bởi về lâu dài là phải
ổn định kinh tế vĩ mô lấy lại đà tăng trưởng cần thiết. Song song đó, khuyến khích DN phục
hồi, khởi nghiệp, tiếp tục tăng thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) và xuất khẩu để năng động
hóa kinh tế, chuẩn bị cho giai đoạn tới. Cần có giải pháp kiểm soát dịch bệnh nhanh và hiệu
quả hơn.

Đầu tiên để ứng phó với dịch Covid-19, cần triển khai nhanh và tối đa hóa tiêm phòng
vacxin cũng như đối với các mũi tiêm nhắc lại. Các cơ sở y tế vẫn giữ vững các phòng ban
cũng như đảm bảo đủ cơ sở vật chất để điều trị đối với các bệnh nhân Covid-19. Đồng thời,
luôn chuẩn bị những kịch bản để đối phó khi bùng dịch trở lại cũng như xuất hiện thêm các
chủng virus mới.

Chính sách tài khóa:

Đối tượng trọng tâm phải hướng tới về ngắn hạn trong chính sách tài khóa của Chính phủ là
hỗ trợ doanh nghiệp và vấn đề an sinh xã hội.

Về vấn đề hỗ trợ doanh nghiệp: Với dư địa tài khóa còn có thể cho phép gia tăng chi tiêu
công, thể hiện qua việc nợ công của Việt Nam năm 2020 chỉ ở mức 3,63 triệu tỷ đồng, tương
ứng chiếm 56,8% GDP, thấp hơn mức trần nợ công do Quốc hội quy định là 65% và theo dự
báo trong 5–7 năm tới, nợ công của Việt Nam vẫn sẽ vẫn nằm dưới ngưỡng cho phép (Bộ tài
chính, 2020), Chính phủ có thể tiếp tục thực hiện các chính sách hoãn, giảm nộp thuế và các
khoản thu khác, ngoài ra có thể khuyến khích thưởng cho các doanh nghiệp nộp thuế đúng

29
hạn (tương tự như Romania). Tuy nhiên, cần điều chỉnh theo hướng mở rộng đối tượng thụ
hưởng để đảm bảo có sự công bằng với mọi thành phần, đối tượng kinh tế, song phải thu
hẹp để chỉ hỗ trợ những đối tượng bị ảnh hưởng chứ không phải với tất cả mọi doanh nghiệp
như hiện nay. Việc dàn trải chính sách hỗ trợ như vậy sẽ gây tốn kém cho ngân sách mà lại
không tập trung vào đúng đối tượng bị thiệt hại. Hơn nữa, cần thu thập dữ liệu để xem xét
mức độ ảnh hưởng bởi dịch bệnh của các nhóm đối tượng là như thế nào, từ đó có hình thức
và mức độ hỗ trợ phù hợp.

Về vấn đề an sinh xã hội: Trong ngắn hạn, điều quan trọng nhất là Chính phủ cần tiếp tục
triển khai các gói hỗ trợ tiền mặt cho các đối tượng yếu thế trong xã hội như: Người lao
động thất nghiệp, các đối tượng chính sách, hộ nghèo bị ảnh hưởng của đại dịch COVID-19.
Chính sách này một mặt có thể kích cầu tiêu dùng, mặt khác có thể giúp ổn định tâm lý
người dân trong xã hội. Bên cạnh đó, có thể đưa ra thêm các chính sách đặc thù về hỗ trợ an
sinh xã hội như: Hỗ trợ chi phí chăm sóc sức khỏe cho trẻ em; miễn hay giảm kinh phí công
đoàn, cũng như mở rộng đối tượng miễn giảm; hỗ trợ đặc biệt cho các ngành nghề bị ảnh
hưởng nghiêm trọng bởi dịch Covid-19 như: Vận tải, hàng không và du lịch thông qua việc
tiếp nhận các khoản vốn ưu đãi đặc biệt từ ngân sách của chính phủ, gia hạn thời gian nộp
thuế. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là cần lưu ý tránh hiện lạm dụng chính sách để trục
lợi. Về phía chi thường xuyên, chính phủ cần nỗ lực cắt giảm để tập trung nguồn lực cho chi
cho hỗ trợ dịch và phát triển.

Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào hoạt động đầu tư, trong
đó nguồn vốn từ Nhà nước chiếm 1/3 tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Không những vậy, vốn
nhà nước còn có nhiệm vụ thiết kế, xây dựng hạ tầng cơ bản, tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của các khu vực kinh tế khác. Do vậy, về dài hạn cần đẩy
mạnh tăng tỷ trọng cho các dự án đầu tư phát triển, đặc biệt là các dự án dự án có tính liên
vùng trọng điểm quốc gia , cụ thể như: Các dự án trọng điểm như: Sân bay Long Thành, cao
tốc Bắc – Nam..., và các dự án áp dụng công nghệ cao và sản xuất các sản phẩm xanh, thân
thiện với môi trường, từ đó góp phần kết nối các địa phương địa với nhau, kích thích tăng
trưởng kinh tế cả nước theo hướng bền vững. Điều quan trọng là phải đảm bảo được tính
hiệu quả của các khoản chi này, minh bạch, công khai trong quá trình lựa chọn nhà thầu.

Chính sách tiền tệ:

Về ngắn hạn, Ngân hàng Nhà nước có thể xem xét nới lỏng thêm về quản trị rủi ro tín dụng
tại các Ngân hàng Thương mại như: Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
CAR giúp các Ngân hàng Thương mại có thêm nguồn vốn hoạt động. Ngoài ra, Ngân hàng
Nhà nước có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các Ngân hàng Thương mại bằng cách đẩy

30
mạnh cho vay của các lĩnh vực như: Bất động sản, nhà ở có thể bằng cách ưu đãi lãi suất cho
những người chứng minh được thu nhập ổn định trong thời gian dài. Lý do là vì thị trường
bất động sản là thị trường có khả năng thúc đẩy phục hồi kinh tế nhanh.

Cuối cùng, về dài hạn, Ngân hàng Nhà nước cần yêu cầu các Ngân hàng Thương mại đẩy
nhanh việc triển khai các dịch vụ điện tử của ngân hàng và phát triển FinTech. Điều này
hướng tới mục tiêu là tận dụng được các lợi thế của các dịch vụ trên, trong đó, quan trọng
nhất là hạn chế tiếp xúc xã hội, dãn cách xã hội cũng như đảm bảo hệ việc thanh toán diễn ra
một cách nhanh chóng, thuận lợi, từ đó hỗ trợ tốt nhất cho các lĩnh vực kinh tế khác.

Ngoài ra, việc tăng cường phân tán đầu tư công nhân và tư nhân, đầu tư ra nước ngoài để
giảm thiểu rủi ro cũng là một giải pháp ngăn ngừa lạm phát. Vì khi phân tán đầu tư ra nước
ngoài sẽ làm giảm dòng tiền đổ vào Việt Nam. Từ đó, thay đổi tỉ giá hối đoái giữa Việt Nam
đồng (VND) với các dòng tiền ngoại tệ khác.

3.3. Kiểm soát lạm phát: Tham khảo trường hợp từ Trung Quốc:

Hầu hết các nhà chính sách trên các quốc gia trên thế giới đều nhận định rằng: Lạm phát
đang dần vượt khỏi sự kiểm soát của chính phủ và làm gia tăng sự bất ổn định của sức khỏe
nền kinh tế thế giới. Thế nhưng, một nước gần như là ngoại lệ và có chỉ số CPI ổn định và
thấp qua các năm gần đây – Trung Hoa đại lục

Tình hình lạm phát của Trung Quốc:

Mức chi tiêu đầu tư vốn cao làm gia tăng lạm phát của Trung Quốc từ năm 1991 đến 2011,
chính quyền đã nhanh chóng kiểm soát tình hình và trong thập kỷ qua, CPI của Trung Quốc
hiếm khi vượt quá 2%, so với 5,4% trong năm 2011. Trong đại dịch Covid 19, đặc biệt là ở
Thâm Quyến và Thượng Hải, đã phải trả giá nặng nề cho nền kinh tế của Trung Quốc. Trong
quý thứ hai năm 2022, GDP của Thượng Hải đã giảm gần 14%. Trong khi đó, khu vực bất
động sản - là một đóng góp chính cho tổng cầu từ trước giờ - đang trở thành một lực cản đối
với nền kinh tế. Vào năm 2020, chính phủ Trung Quốc đã giới thiệu "ba dòng màu đỏ" để
hạn chế quyền truy cập của ngành vào tín dụng: các khoản nợ của nhà phát triển không được
vượt quá 70% tài sản, khoản nợ ròng của họ không được vượt quá vốn chủ sở hữu và việc
nắm giữ tiền mặt của họ phải bằng với việc vay ngắn hạn.

Mối đe dọa từ lạm phát nhập khẩu. Tác động của đại dịch, cùng với tác động Domino của
Chiến tranh Ukraine, đang làm tăng kỳ vọng lạm phát ở hầu hết các nước phương Tây, vốn
đã tăng nhanh về giá tiêu dùng: CPI ở cả Hoa Kỳ và Vương quốc Anh vượt quá 9% trong

31
tháng 6, trong khi CPI của khu vực đồng Euro vượt quá 8%. Tương tự như vậy, ở châu Á,
CPI của Hàn Quốc đã tăng 6% hàng năm vào tháng 6, mức tăng lớn nhất kể từ tháng 11 năm
1998. Sự gia tăng CPI của Nhật Bản-2,4%-đã vượt quá mục tiêu của ngân hàng trung ương
trong tháng thứ ba liên tiếp. Là một nhà nhập khẩu năng lượng và thực phẩm lớn, Trung
Quốc sẽ cảm thấy khó khăn khi tự bảo vệ mình khỏi xu hướng toàn cầu.

Chính sách giải quyết lạm phát của Trung Quốc: (Gia tăng kiểm soát từ khu vực công)

Đầu tiên, các nhà nhập khẩu năng lượng và thực phẩm của Trung Quốc đều là các doanh
nghiệp khổng lồ, thuộc sở hữu nhà nước, do nhà nước kiểm soát mà quyết định giá cả được
quy định chặt chẽ. Cho đến khi kỳ vọng lạm phát được hình thành, sự gia tăng chi phí nhập
khẩu không được chuyển cho người tiêu dùng. Điều này được phản ánh trong Chỉ số giá sản
xuất của nhà sản xuất Trung Quốc, ít ổn định hơn CPI trong những năm qua.

Thứ hai, ngay cả khi Trung Quốc nhập khẩu nhiều hàng hóa quan trọng, những người được
bao gồm trong CPI phần lớn được cung cấp trong nước. Và, như với các nhà nhập khẩu, giá
được tính bởi các nhà sản xuất nhà nước ở tầng lớp thượng lưu của nền kinh tế Trung Quốc
không phản ánh đầy đủ những thay đổi trong chi phí của họ, do sự kiểm soát của chính phủ.

3.4. Kiểm soát lạm phát: Tham khảo trường hợp từ Mỹ:

Tình hình lạm phát của Mỹ:

Lạm phát hàng năm của Hoa Kỳ trong quý đầu tiên của năm nay trung bình chỉ dưới 8,0% -
tỷ lệ cao thứ 13 trong số 44 quốc gia được kiểm tra. Tỷ lệ lạm phát trong quý đầu tiên ở Hoa
Kỳ gần gấp bốn lần mức của nó trong quý đầu tiên của năm 2020. Đến tháng 8/2022, tỷ lệ
Lạm phát của Mỹ ở mức 8,26%, so với 8,52% của tháng trước và 5,25% của năm ngoái.
Mức này cao hơn mức trung bình dài hạn là 3,26%.

Bất kể mức độ lạm phát tuyệt đối ở mỗi quốc gia là bao nhiêu, hầu hết đều có sự khác biệt
về cùng một mô hình cơ bản: mức tương đối thấp trước khi đại dịch COVID-19 xảy ra vào
quý đầu tiên của năm 2020; tỷ lệ cố định giảm trong thời gian còn lại của năm đó và đến
năm 2021, do nhiều chính phủ cắt giảm mạnh hầu hết các hoạt động kinh tế; và tỷ giá tăng
bắt đầu từ giữa đến cuối năm 2021, khi thế giới vật lộn để trở lại mức bình thường.

Lần tăng lãi suất vượt mức thứ ba liên tiếp khi ngân hàng trung ương phải vật lộn để chống
lại lạm phát bỏ chạy, làm tăng chi phí của mọi thứ. Cục Dự trữ Liên bang đã công bố một
đợt tăng lãi suất mạnh nữa vào thứ Tư khi ngân hàng trung ương đang đấu tranh để kiềm chế

32
lạm phát đang tăng vọt. Fed đã tăng lãi suất chuẩn của mình thêm 0,75 điểm phần trăm, lần
tăng lãi suất vượt mức thứ ba liên tiếp, đưa lãi suất của Fed lên 3% -3,25% và tăng chi phí
của mọi thứ từ nợ thẻ tín dụng và thế chấp đến tài chính của công ty.

Ngân hàng trung ương báo hiệu sẽ có thêm nhiều đợt tăng, dự đoán lãi suất sẽ đạt 4,4% vào
cuối năm và sẽ không bắt đầu giảm cho đến năm 2024. Fed dự kiến việc tăng lãi suất sẽ ảnh
hưởng đến giá nhà ở và thị trường việc làm - nâng tỷ lệ thất nghiệp từ 3,7% lên 4,4% trong
năm tới - và giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Biện pháp:

Một trong những công cụ chính mà Fed sử dụng để khắc phục lạm phát là tăng lãi suất. Đây
là một ví dụ về chính sách tiền tệ.

Mục tiêu của FOMC là thúc đẩy việc làm tối đa, giá cả ổn định và lãi suất dài hạn vừa phải.
Fed sử dụng lãi suất như một đòn bẩy để tăng trưởng nền kinh tế hoặc đặt hệ thống phanh
lên nó. Nếu nền kinh tế đang chậm lại, FOMC sẽ giảm lãi suất để giúp các doanh nghiệp vay
tiền, đầu tư và tạo việc làm rẻ hơn. Lãi suất giảm cũng cho phép người tiêu dùng vay và chi
tiêu nhiều hơn, giúp thúc đẩy nền kinh tế.

Mặt khác, nếu nền kinh tế tăng trưởng quá nhanh và lạm phát đang nóng lên, Fed có thể tăng
lãi suất để cắt giảm chi tiêu và vay nợ. Lãi suất huy động vốn thấp hơn sẽ làm tăng cung tiền
bằng cách khuyến khích hoạt động cho vay, đi vay và kinh doanh trên thị trường mở nhiều
hơn. Mặt khác, tỷ lệ cao hơn không khuyến khích cho vay và giảm cung tiền.

3.6. Biện pháp từ biến đổi khí hậu:

Nhu cầu về nguyên nhiên vật liệu ngày càng nhiều. Dẫn đến việc khai thác tài nguyên thiên
nhiên; cạnh tranh, tranh giành nguồn tài nguyên phục vụ cho nhu cầu tăng trưởng khiến tài
nguyên cạn kiệt, môi trường ô nhiễm, khí hậu biến đổi. Mặc dù biến đổi khí hậu không
hoàn toàn là tác động tiêu cực nhưng nếu xét về mặt tổng thể biến đổi khí hậu vẫn là một
tác động gây thiệt hại lớn. Những tổn thất do biến đổi khí hậu gây ra cùng với những chi
phí phải bỏ ra để khắc phục thiệt hại lạm giảm mức tăng trưởng kinh tế cho thế giới và cho
nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam.

Thứ nhất, Biến đổi khí hậu sẽ mang lại suy giảm diện tích canh tác, thời tiết thay đổi ảnh
hưởng đến mùa, nghiêm trọng hơn là mấy môi trường sinh sống cho các loài thực vật hữu
ích. Từ đó mất đi nguồn cung cho các sản phẩm về nông nghiệp, công nghiệp lẫn y dược.

33
Đẩy giá của nguồn nguyên vật liệu này lên cao khi phải nhập khẩu với chênh lệch tỷ giá
hối đoái, đầu cơ tích trữ,... điều kiện để lạm phát gia tăng.

Thứ hai, những thiên tai (bão, lũ, sạt lở, hạn hán,...) xảy ra gây thiệt hại lên người dân và
doanh nghiệp. Từ đó nhà nước phải chi tiêu ngân sách cho khắc phục thiên tai lên cơ sở hạ
tầng gây thiếu hụt ngân sách không còn khả năng kích cung phát triển kinh tế. Đối với
doanh nghiệp, thiệt hại từ nhẹ đến nặng gây tăng chi phí phát sinh (thông thoái, thải lọc, vệ
sinh,...), trì trệ hoạt động sản xuất kinh doanh (hạn chế vận chuyển, nguồn cung vật liệu
không đủ sản xuất) đến phá sản (chịu thiệt hại trực tiếp). Từ đó, doanh nghiệp phải đẩy giá
hàng hoá lên cao bù lỗ đến việc không còn đủ lượng cung hàng hoá trên thị trường với hậu
quả tương tự. Đối với người dân chịu thiên tai, ảnh hưởng quá lớn đến cuộc sống của họ sẽ
mất đi lượng chi tiêu sinh hoạt hay chi tiêu cho một số mặt hàng thiếu yếu lúc bấy giờ là
lượng cầu trong tổng cầu sẽ tăng ở một số mặt hàng và giảm ở phần còn lại khi nguồn cung
không thay đổi sẽ gây nên sự mất cân bằng về cầu. Tất cả đều là điều kiện gây lạm phát.

Thứ ba, nước ta là nước kinh tế đang phát triển nên việc khai khoán cho công nghiệp là
việc quan trọng. Biến đổi khí hậu gây nên khó khăn trong việc khai thác hay biến mất của
nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên buộc nền công nghiệp nước ta phải tăng lượng nguyên
nhiên liệu công nghiệp nhập khẩu với giá thành cao. Và việc tăng giá thành sản phẩm là
không tránh khỏi. Nhất là các ngành công nghiệp dựa trên môi trường tự nhiên như thuỷ
điện, năng lượng gió, mặt trời, dầu mỏ, khai thác,...

Đề xuất biện pháp khắc phục:

Để có thể đưa các chủ trương, chính sách đó của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống,
đồng thời tổng kết, phát huy được các sáng kiến của người dân trong quá trình ứng phó với
biến đổi khí hậu, “sống chung với lũ”, “sống chung với mặn”... có một số nội dung cần
được quan tâm nhiều hơn:

- Nghiên cứu mối quan hệ, tác động qua lại giữa biến đổi khí hậu và tăng trưởng kinh
tế, đánh giá cụ thể hơn những hoạt động của con người vì mục tiêu tăng trưởng kinh
tế mà làm ô nhiễm môi trường, dẫn tới biến đổi khí hậu. Đưa ra những khuyến cáo cụ
thể nhằm ngăn ngừa lạm biến đổi khí hậu trong tương lai.
- Phân tích rõ hơn những ngành, nghề, lĩnh vực có tiềm năng phát triển, khai thác
những nguồn lợi do tác động của biến đổi khí hậu mang lại để có hướng phát triển,
khai thác và tận dụng. Chẳng hạn như “nắng nóng cao kéo dài, lượng mưa ít đi thì có

34
thể tạo những thuận lợi cho các ngành nghề, như từ làm ruộng muối, phơi sấy nông,
hải sản và thực phẩm... đến các hoạt động du lịch bãi biển hay sản xuất quang điện...”
- Nghiên cứu về thay đổi cơ cấu sản xuất của các ngành để có thể phù hợp cũng như
ứng đối phần nào với biến đổi khí hậu trong tương lai. Tránh việc trì trệ trong chuỗi
cung ứng, đứt quãng nguồn cung nguyên vật liệu gây tăng giá thành hay trì trệ nền
kinh tế.
- Nâng cao năng lực của nền kinh tế để tăng sức chịu đựng đối với biến đổi khí hậu qua
việc đổi mới mô hình tăng trưởng, hướng tới tăng trưởng xanh, đầu tư xanh; cơ cấu
lại nền kinh tế, lựa chọn các ngành kinh tế phù hợp để tập trung phát triển; nâng cao
tính thiết thực và hiệu quả liên kết vùng trong tổng thể nền kinh tế, chuyển đổi giống
cây trồng, vật nuôi.
- Mở những cuộc hội thảo khảo sát những ý kiến, sáng kiến của người dân trong việc
ứng phó với các hiện tượng biến đổi khí hậu. Sau đó tăng cường nguồn lực để hỗ trợ,
nâng cao hơn nữa tính chủ động, tính dài hạn trong các biện pháp đó. Đã có những
sáng tạo, ý kiến của người vô cùng hợp lý và phù hợp trong phòng tránh biến đổi khí
hậu.
- Sử dụng năng lượng sạch như khí thiên nhiên, nhiên liệu sinh học, năng lượng mới,
năng lượng tái tạo cũng như cấp phép hạn mức phát thải các chất ô nhiễm không khí
cho các doanh nghiệp.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường; trong đó, có những chế tài xử
phạt đủ mạnh để răn đe các đối tượng vi phạm. Tăng cường giám sát xả, thoát chất
thải, đảm bảo đúng quy định về quy trình và bảo vệ môi trường đối với các dự án
phát triển công nghiệp. Ngoài ra, tăng tỷ lệ chi ngân sách cho hoạt động môi trường,
khuyến cáo đầu tư cho công tác thu thập số liệu và xây dựng mô hình đánh giá, cảnh
báo tác động của biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường đến nền kinh tế.

Những phân tích trên chỉ là một phần nhỏ về biến đổi khí hậu từ đó gây nên những
ảnh hưởng đến nền kinh tế nước ta tạo ra chỉ số tiêu cực về kinh tế-lạm phát.

Chú thích số liệu:

Bảng số liệu:
https://docs.google.com/spreadsheets/d/1mn62yFcETRWl8GdC8UPGfcjN-c0Dgrix
1BfJPQ5ryMg/edit?usp=sharing
Nguồn tham khảo:

1. The World Bank

35
2. Tổng cục Thống kê
3. Bộ tài chính
4. Các kịch bản Kinh tế Vĩ mô Việt Nam qua lăng kính mô hình Tổng Cung - Tổng
Cầu
5. Hậu covid-19 và giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam
6. Olivera, J. H. (1964). On Structural Inflation and Latin-American Structuralism'. Oxford
economic papers, 321-332.
7. Argy, V. (1970). Structural inflation in developing countries. Oxford economic
papers, 22(1), 73-85.
8. Yeldan, A. E. (1993). Conflicting interests and structural inflation: Turkey,
1980-1990. The Pakistan Development Review, 303-327.
9. ASIAN Development Bank - ADP

36
37

You might also like