You are on page 1of 8

PHÂN TÍCH BÀI THƠ TỰ TÌNH II

Nhà phê bình văn học Hegel đã từng nói: “Thi ca là thứ nghệ thuật chung của tâm hồn đã trở nên tự do,
không bó buộc vào nhận thức giác quan vê vật chất bên ngoài. Thay vì thế nó diễn ra riêng tư trong không
gian bên trong và thời gian bên trong của tác giả và cảm xúc”.
Đúng, văn chương đích thực phải là thứ văn chương “chín đủ cảm xúc” (Xuân Diệu), cũng là thứ văn
khi đọc lên mà ta như thấy được cả thế giới tâm hồn, tình cảm của người cầm bút, nhất định phải là thứ văn
mà sau khi gấp lại, người ta vẫn bâng khuâng mãi khôn nguôi. Tự Tình II của Hồ Xuân Hương là một kiểu
văn như thế. Nó khiến ta xúc động nghẹn ngào trước những tâm sự cay đắng của người phụ nữ Việt Nam
thời phong kiến, đồng thời trân trọng vẻ đẹp và khát vọng sống của họ.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Nửa đầu bài thơ là khoảng thời gian nghệ thuật “Đêm khuya”, khoảng thời gian thường gợi buồn nhất.
Trong ca dao xưa, đêm khuya và chiều tà là lúc những làn sóng cảm xúc cuộn lên trong lòng người con xa
xứ:
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”
Dịch bánh xe thời gian qua mảng văn học trung đại, khoảng thời gian này cũng xuất hiện khá nhiều tác
phẩm văn học
“Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn”
(Bà Huyện Thanh Quan)
Dường như, trời chiều là lúc dòng tâm sự đọng lại, bước chân của đêm tối nặng nề chậm chạp khiến cho
lòng người nặng trĩu. Đây cũng là lúc người vợ lẽ hay người góa phụ cảm nhận sâu sắc và thấm thía nhất nỗi
bất hạnh cô đơn. Từng tiếng trống dồn dập, thúc giục, guồng quay thời gian cứ tiếp tục trôi đi mà nào có đợi
chờ gì tuổi xuân của một người phụ nữ vân khao khát hạnh phúc lứa đôi nhưng sớm phải chịu cảnh chăn đơn
gối chiếc.
Âm thanh tiếng trống lại “văng vẳng”, một thứ thanh âm hết sức mờ nhạt, mơ hồ, từ xa dội vào tâm hồn
người phụ nữ. Quả thật, âm thanh từ xa nên mờ nhạt hay chính tâm hồn người phụ nữ đang xao động mải mê
tìm kiếm một thứ phù du xa xôi nên thanh âm của tiếng trống nhạt mờ thoáng qua như một làn gió nhẹ.
Hồng nhan là một người con gái đẹp, nhưng “cái hồng nhan” gợi cho ta liên tưởng tới một vật vô tri vô
giác. “Trơ cái hồng nhan”, cụm từ trần trụi, thô mộc gợi ra bóng hình người con gái đẹp nhưng tâm hồn lại
quá chai sạn mọi cảm xúc, cảm giác. Đặt “hồng nhan” bên cạnh “nước non” ta đã phần nào thấy được sự đối
lập giữa một bên nhỏ bé, một bên rộng lớn, một bên yếu ớt, một bên bao phủ choáng ngợp khắp bốn phương.
Tuy nhiên, sự đối lập ở đây không những không làm cho hình ảnh hồng nhan bị che khuất, bị lu mờ mà
trái lại càng tô đậm cho mối sầu vạn kỉ, mệt mỏi, cô độc thấu tận tim gan. Trong hoàn cảnh khổ đau, kiếp
người đó tưởng như đã hóa đá nhưng không, thấm sâu trong trái tim con người ấy là một tâm trạng bồn chồn
không yên:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Tìm đến rượu để quên đi nỗi đau nhưng trớ trêu thay, càng uống, nỗi đau càng thấm thía, càng khắc sâu
vào trong trái tim mong manh, yếu đuối. Say lại tỉnh, tỉnh lại say, quá trình diễn ra lặp đi lặp lại như một
vòng tuần hoàn. Cuộc đời người phụ nữ chỉ chìm đắm trong chuỗi ngày tẻ nhạt cùng với tâm trạng u uất.
Chợt ta nhớ đến nàng Thúy Kiều đáng thương, nàng cũng từng bị giam cầm trong chuỗi thời gian vô vị đó:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Hai con người ấy, hai thân phận khác nhau nhưng cùng chung một số phận, một hoàn cảnh, eo le đáng
thương làm sao. Hình ảnh “vầng trăng bóng xế” có lẽ là một hình ảnh ẩn dụ hơn là một hình ảnh tả thực.
Trăng xế bóng hay cũng là cuộc đời người phụ nữ đã ngả chiều. Trăng thường gợi kỉ niệm, gợi sự tròn đầy
viên mãn của hạnh phúc lứa đôi, bao cuộc tình thủy chung nồng thắm cũng diễn ra dưới ánh trăng, nhờ vầng
trăng chứng giám:
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời

Đinh ninh hai miệng một lời song song”


Nhưng giờ đây, ánh trăng sắp tàn như cuộc tình dang dở của người phụ nữ đã đến hồi dang dở. Nhưng
Xuân Hương là thế, một người phụ nữ không bao giờ chịu thua hoàn cảnh, luôn tìm cho mình một lối đi
khác người, rất ngông, rất lạ đó, làm sao có thể để nỗi đau lấn át lí trí, tâm hồn? Trong tột cùng của khổ đau,
cô độc, nữ sĩ vẫn tin ở chính mình, tìm thấy nguồn sức mạnh lớn lao để làm động lực:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”
Đưa con mắt lạc lõng ngắm nhìn mọi vật xung quanh, nhân vật trữ tình thấy “rêu từng đám” đang xiên
ngang mặt đất, “đá” đang đâm toạc chân mây. “Xiên ngang, đâm toạc” là những động từ rất mạnh, cùng
nghệ thuật đảo ngữ được sử dụng rất đắt đã diễn tả được sức mạnh của sự sinh tồn trong những vật nhỏ bé,
đơn sơ.
Màu xanh non của rêu hiện diện trên sắc màu xám xịt của đất như khẳng định sức sống mãnh liệt của
rêu. Không những thế, nó còn như biểu hiện của một tia hy vọng nhỏ bé nhưng hết sức thiết tha thoát khỏi xã
hội đương thời phàm tục, dơ bẩn, cũng chính là thoát khỏi kiếp sống cô độc, lẻ loi như đang bóp nghẹt tuổi
xuân của người phụ nữ.
Những hòn đá rắn rỏi chen vào khung trời rộng lớn nhưng trống trải cũng đủ làm khung cảnh trở nên
sinh động hơn bao giờ hết. Chỉ với hai hình ảnh giản dị, nhỏ bé nhưng nữ sĩ đã đưa người đọc từ sự xót xa
trước những khổ đau của người phụ nữ sang trân trọng sức mạnh tinh thần, vẻ đẹp tính cách của họ.
Đó cũng chính là một trong những nét độc đáo tạo nên cái “ngông” trong thơ của Hồ Xuân Hương. Tạo
cho người đọc cảm giác mạnh, bất ngờ, đúng là chỉ có được trong nữ sĩ có một không hai của văn học Việt
Nam. Hai câu thơ cuối cùng:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con"
Nhưng cho dù có thể hiện mình mạnh mẽ và đầy niềm tin như thế nào nhưng người phụ nữ vẫn không
thể phủ nhận hiện thực khắc nghiệt. Hai câu cuối cùng cất lên như một tiếng thở dài đầy chua xót, đắng cay,
ngán ngẩm về kiếp sống của một kiếp hồng nhan bị giam cầm trong hai từ “định mệnh”. Tuổi xuân- nhan
sắc, hai thứ một khi đã ra đi thì không bao giờ có thể quay lại.
Mùa xuân của thiên nhiên đất trời như đã được lập trình để quay trong một vòng tuần hoàn không có
điểm kết thúc, nhưng trớ trêu thay, mùa xuân của đời người lại hữu hạn, xuân năm ngoái có thể là sự cách
biệt với xuân năm nay. Chính vì vậy, mỗi mùa xuân đi qua, người phụ nữ lại càng một héo hon, già nua
trong sự vui tươi, hồi sinh của đất trời. Qua đây ta cũng thấy được ý thức của con người về bản thân mình
với tư cách cá nhân, có ý thức về giá trị của tuổi thanh xuân và sự sống.
Mảnh tình có ý diễn tả chút tình cảm nhỏ nhoi nhưng ở đây lại phải san sẻ, cuối cùng chỉ còn lại là tí
con con không đáng kể. Đọc câu thơ, ta thấy thấm trong từng câu chữ la tâm trạng xót xa của một người phụ
nữ tài hoa bạc mệnh Hồ Xuân Hương. Cuộc đời của người phụ nữ ấy là một chuỗi những đắng cay tủi nhục,
là cuộc đời của những dòng nước mắt lăn dài: qua hai lần đò đều không viên mãn. Làm lẽ ông Tổng Cóc,
sau đó là ông phủ Vĩnh Tường nhưng cả hai lần, người phụ nữ bất hạnh này đều không có được hạnh phúc
tương xứng.
Nhưng ẩn sâu trong từng câu chứ không phải là một sự tuyệt vọng, đau xót, càng không phải bởi vì đó
chính là Hồ Xuân Hương- người phụ nữ mạnh mẽ, bản lĩnh, có đủ dũng cảm để đương đầu lại với cả hiện
thực phong kiến, cả những quy tắc lễ giáo ràng buộc. Ta như thấy những tia hy vọng tuy nhỏ bé nhưng hết
sức mạnh mẽ, có cơ sở: thi sĩ vẫn muốn tiếp tục đem san sẻ với mong ước chân thành để cho nhân tình thế
thái đỡ xanh như lá, bạc như vôi.
Bài thơ “Tự tình” không những thành công trên phương diện nội dung mà ở phương diện nghệ thuật
cũng đạt được những thành tựu đáng kể. Cách sử dụng từ ngữ của Hồ Xuân Hương hết sức giản dị, giàu sức
biểu cảm, táo bạo nhưng cũng không kém phần tinh tế. Cách sử dụng từ ngữ cũng góp phần tạo nên tính đa
thanh của tác phẩm: khi thì tủi hổ phiền muộn, lúc phản kháng bức xúc, khi lại chua chát chán chường
nhưng vẫn ánh lên niềm lạc quan hy vọng.
Ngoài ra tác giả còn sử dụng những vế tiểu đối như “hồng nhan” – “nước non” hay phép tăng tiến,…
Với những nét đặc sắc về nghệ thuật ấy, Hồ Xuân Hương đã góp phần hoàn thiện một tiếng thơ hết sức táo
bạo, mới lạ cho nền văn học trung đại Việt Nam.
Cùng với “ Tự tình II”, Hồ Xuân Hương còn đóng góp rất nhiều tác phẩm khác vào nền văn học trung
đại như “Bánh trôi nước”, “Cảnh làm lẽ”, “Quả mít”. Nhưng dù viết về đối tượng nào thì cuối cùng điều mà
nữ sĩ muốn phản ánh là số phận, cuộc đời cùng với tài năng và tính cách của người phụ nữ trong xã hội
phong kiến.
Ngoài ra bà còn chĩa thẳng ngòi bút của mình vào cả một bộ máy phong kiến cổ hủ, lạc hậu, ràng buộc
mọi quyền sống, quyền hạnh phúc của người phụ nữ bằng một thái độ mạnh mẽ, cứng rắn đậm chất “ngông”
của bà, điều này lại một lần nữa tô đậm dấu ấn rất riêng trong phong cách nghệ thuật Hồ Xuân Hương lên
văn đàn Việt Nam.

BÀI VIẾT PHÂN TÍCH "THƯƠNG VỢ" (TRẦN TẾ XƯƠNG) ĐẦY ĐỦ, CHI TIẾT NHẤT
“Văn học nằm ngoài những quy luật của băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Thơ văn Tú
Xương là một trường hợp như vậy. Thể xác của ông hơn 100 năm nay đã hòa tan làm một cùng với đất mẹ
nhưng sự nghiệp văn chương của con người tài hoa ấy chưa bao giờ ngừng sống làm lay chuyển lòng người,
bất chấp mọi thử thách của thời gian.
Nhắc đến Tú Xương ta không thể không nhắc đến “Thương vợ” bài thơ trữ tình thấp thoáng nụ cười
hóm hỉnh, trào phúng bản thân và bày tỏ tấm lòng yêu thương, kính trọng của ông đối với người vợ tần tảo
hy sinh suốt một đời vì chồng, vì con, vì gia đình.
Tú Xương lấy vợ năm ông 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn. Cuộc đời của Tú Xương là cuộc đời của
một nghệ sĩ nhưng trước hết ông là một nhà trí thức phong kiến thuộc loại nhà Nho “Dài lưng tốn vải” phải
sống nương tựa nhờ vào người vợ của mình. Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu. Điều
đó đã đi vào trong thơ ca của ông “Tiền bạc phó cho con mụ kiếm” hoặc “Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ”.
Trong bài “Thương vợ” cũng vẫn là những vấn đề ấy được thể hiện sâu sắc qua tám câu thơ thất ngôn
bát cú Đường luật. Hai câu đề mở ra một không gian, thời gian và công việc của bà Tú. Một công việc vất
vả, cơ cực và gian nan vô cùng:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Nghề buôn bán theo quan niệm của người xưa là con đường đầu tiên để làm giàu “Phi thương bất phú”
nhưng công việc của bà Tú thì lại đối lập hoàn toàn. Chỗ buôn bán ở đây không phải là vùng đất tốt, bằng
phẳng mà ở “mom sông”. Theo cách hiểu của Xuân Diệu: “là cái địa điểm cheo leo chênh vênh, chứ không
phải ở cái bến ngang sông tấp nập bình thường”.
“Mom sông” đã cụ thể hóa địa điểm buôn bán của bà Tú nơi “đầu sóng ngọn gió”, đối mặt với bao nguy
hiểm khi nước xuống thì còn, nước lên thì mất. Thời gian ở đây là “quanh năm” hết ngày này qua tháng
khác. Thời gian đằng đẵng chẳng bao giờ được nghỉ ngơi. Một công việc nhọc nhằn, vất vả mà người vợ
phải gánh vác để lo cho gia đình.
Trước đây với quan niệm “Trọng nam khinh nữ”, “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” những việc lớn
như kinh tế gia đình phải do người đàn ông lo liệu nhưng người gánh vác trách nhiệm ấy ở đây là bà Tú -
người đàn bà giàu lòng yêu thương, giàu nghị lực có thể “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Đủ ở đây nuôi
cho đủ miếng cơm manh áo. Một người làm mà bảy miệng ăn ta thấy trách nhiệm nặng nề đặt lên đôi vai
người phụ nữ gia đình.
Trong câu thơ này có sử dụng nghệ thuật đối năm con là số nhiều nhưng lại được đặt ngang hàng để đối
với một chồng là số ít. Đủ cơm ăn áo mặc cho năm con ngang bằng với số tiền bạc để nuôi một chồng. Như
ta đã biết cuộc đời ông Tú ngắn ngủi và đơn giản, 37 năm, dường như gói gọn trong ba việc chính: đi học, đi
thi và làm thơ. 15 tuổi bắt đầu đi thi, 22 năm ròng rã còn lại vẫn đi thi, trải liền tám khóa lều chõng mỗi lần
lên kinh dự thi là biết bao chi phí, tiền của do một tay bà Tú trang trải. Khép lại hai câu đề miêu tả không
gian, thời gian và công việc của bà Tú đến hai câu thực mở ra một hình ảnh “thân cò”:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo nước mặt buổi đò đông”
Câu thơ gợi cho ta nhớ đến hình ảnh quen thuộc trong ca dao: “Con cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo đưa
chồng tiếng khóc nỉ non”. Hình ảnh ấy gắn liền với thân phận người phụ nữ Việt Nam tần tảo sớm hôm lo
cho gia đình. Bà Tú ở đây là thân cò một thân phận, số phận cụ thể gợi một sự mỏng manh, nhỏ bé trước
cuộc đời. Tác giả sử dụng lối viết đảo ngữ “lặn lội thân cò” làm cho hình ảnh ấy càng trở nên cụ thể, sâu sắc
hơn.
Chắc hẳn bà Tú cũng không quên lời dặn của cổ nhân “Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua” nhưng vì
miếng cơm manh áo gia đình mà phải liều lĩnh đối mặt với chốn hiểm nguy để rồi phải “eo sèo” nơi “đò
đông”. Hai tính từ ở đầu câu và cuối câu đối nhau vừa có tính gợi hình lại gợi cảm.
Dường như nhà thơ đang rất cảm thông và thương xót cho thân phận của vợ mình mà như nhỏ lệ trước
hình ảnh ấy. Hai câu thơ có thể được coi là hay nhất trong bài cũng như khiến cho con người ta rung động
nhất khi tái hiện về hình ảnh người vợ trong thơ Tú Xương.
Nếu như ở bốn câu thơ đầu tác giả giữ vị trí, đóng vai trò là người chồng đứng ở bên ngoài “khách
quan” để quan sát, nhận xét và cảm thông cho bà Tú thì bốn câu thơ sau Tú Xương nhập thân vào trong tâm
tư, nỗi niềm của người vợ để cất lên tiếng than “chủ quan” và chân thực hơn. Hai câu luận là lời than thở mà
Tú Xương nói hộ lòng vợ:
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Chữ “duyên” theo nghĩa Hán Việt có nghĩa là duyên cớ làm phát sinh việc gì đó. Duyên theo quan niệm
của Phật giáo là phần trời định cho con người gặp gỡ, có khả năng yêu nhau và trở thành vợ chồng, giúp các
cặp đôi yêu thương gắn kết trong cuộc đời. “Tu trăm năm mới thành bạn đồng hành, tu ngàn năm mới được
chung chăn gối” dân gian tạo thành một cặp duyên và nợ.
Dưới cái nhìn của Tú Xương duyên thì chỉ có một mà nợ thì hai, duyên ít nợ nhiều. Ngẫm cho kĩ bà Tú
lấy được ông Tú cũng là một cái duyên nhưng với người chồng “hờ hững” ấy thì nợ lại nhiều hơn. Chính vì
điều đó đã khiến cho sự vất vả cực nhọc của một thân phận được nâng lên thành định mệnh của cả một kiếp
người. Vì là duyên là nợ nên “âu đành phận”. Âu có nghĩa là cam chịu, đành là chấp nhận.
Vì là cam chịu và chấp nhận điều đó nên “năm nắng mười mưa dám quản công”. Các số từ theo thứ tự:
một, hai, năm, mười được sắp xếp theo sự tăng tiến cho thấy khó khăn chồng chất khó khăn trên đôi vai của
bà Tú. “Âu đành phận” và “dám quản công” được đặt ở cuối mỗi câu thơ cho thấy cách ứng xử của người
làm vợ luôn nhẫn nhục, chịu đựng tất cả vì chồng con.
Khép lại bài thơ hai câu kết được nâng lên thành tiếng chửi. Thác ra giọng bà Tú, Tú Xương đã chửi rủa
cái bạc bẽo của cha mẹ nhà chồng và vô tích sự của bản thân đối với vợ.
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Những bà mẹ chồng xưa kia thường là “nỗi kinh hoàng” của những nàng dâu, vì quan niệm phong kiến
hôn nhân gả bán cho phép người ta “mua” vợ cho con khác nào mua người làm không công mà đối xử tệ bạc
với con dâu. Ta đã từng bắt gặp tiếng chửi ấy nhẹ nhàng mà thâm thúy trong ca dao như: “Tiếng đồn cha mẹ
anh hiền/ Cắn cơm không vỡ, cắn tiền vỡ đôi” hay “Trách cha trách mẹ nhà chàng/ Cầm cân chẳng biết là
vàng hay thau”.
Tú Xương không chỉ là một nhà thơ trữ tình mà còn nổi tiếng là nhà thơ trào phúng. Thơ ông không chỉ
là tiếng chửi bọn quan lại phong kiến dốt nát mà còn là những vần thơ tự trào bản thân. Trong câu thơ trên
nhà thơ mượn lời vợ mình để chửi chính bản thân mình là một người chồng “hờ hững”, vô tích sự không
gánh đỡ gì được cho vợ mà ngược lại còn làm nặng trĩu thêm cái gánh nợ đời trên đôi vai của bậc hiền phụ.
Nhà thơ coi mình là kẻ chẳng ra gì cũng là một cách để ca ngợi, đề cao vợ theo cái cách chưa từng thấy
trong thơ văn trung đại: “Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó/ Quắc mắt khinh đời cái bộ anh”. Cái đặc sắc của hai
câu kết tuy là tiếng chửi nhưng vẫn mang hàm ý đùa vui, tự cười, tự trách mình nhưng vẫn là để bày tỏ sự
cảm thông với vợ.
Tú Xương cùng với Nguyễn Khuyến là hai đại diện cuối cùng cho nền văn học trung đại Việt Nam cuối
thế kỉ XIX, hai nhà thơ tiêu biểu và đặc sắc cho những vần thơ tự trào. Thơ ông với những cách tân mới mẻ
về ngôn ngữ viết theo xu hướng khẩu ngữ hóa, sử dụng ngôn ngữ đời thường nhưng vẫn đảm bảo âm điệu
trữ tình và có sức gợi hình, gợi cảm.
“Thương vợ” là một bài thơ hay có sự kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ dân gian với ngôn ngữ bác học
một cách tinh xảo, phong phú khắc họa được chân dung bà Tú và bộ lộ được tâm trạng, tình cảm của Tú
xương dành cho vợ của mình. Cùng với đó là cách ngắt nhịp truyền thống trong thơ Đường luật là 4/3 và
2/2/3 càng làm cho bài thơ trở nên mềm mại, uyển chuyển.
Bài thơ “Thương vợ”của Trần Tế Xương thể hiện được ân tình sâu nặng và tình cảm chân thành của nhà
thơ đối với hiền phụ của mình. Trước Tú Xương hiếm có thi nhân nào mà có những bài thơ viết về vợ hay và
lắng đọng, sâu sắc như ông. Bài thơ không chỉ cho thấy một tâm hồn cởi mở, đôn hậu của nhà thơ đối với vợ
mà còn chứng tỏ tài năng, thi bút của một thi sĩ biết vận dụng và sáng tạo ngôn ngữ dân gian.

Đề bài: Qua bài Bánh trôi nước, Tự tình (bài II) của Hồ Xuân Hương và bài Thương vợ của Trần
Tế Xương, anh (chị) hiểu những gì về người phụ nữ Việt Nam thời xưa?
Người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến xưa là một đề tài quen thuộc, để thương, để nhớ cho
chủ nghĩa nhân đạo trong văn học. Chỉ qua một số ít bài thơ trong số đó như “Bánh trôi nước”, “Tự tình”
(Hồ Xuân Hương), “Thương vợ” (Trần Tế Xương) ta đã phần nào cảm nhận được vẻ đẹp và nỗi bất hạnh của
những số phận éo le này.
Xã hội phong kiến với nhiều thành kiến về người phụ nữ cùng những hủ tục lạc hậu đã đè nén, bóp
nghẹt quyền sống của họ. Họ bị “vùi liễu dập hoa tơi bời” như nàng Kiều của Nguyễn Du. Hoặc không thì
cũng chẳng còn đất sống như Vũ Nương của Nguyễn Dữ,...
Số phận người phụ nữ là một phần nội dung quan trọng trong thơ Hồ Xuân Hương. Qua đó, nữ sĩ làm
sống lại đời sống, tâm tư người phụ nữ trong xã hội xưa. Điều đặc biệt nằm ở chỗ bà viết những điều ấy
thông qua lăng kính chủ quan của một cái “tôi” đầy cá tính. Hay nói cách khác, bằng việc cất lên tiếng nói cá
nhân, Xuân Hương làm sống lại hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa. Trong thơ bà, ta hay bắt gặp giọng
điệu tự sự, tâm tình rất thật, đầy tâm trạng (“Tự tình I, II, III”, “Mời trầu”, “Bánh trôi nước”,...).
Ngược lại, thơ Tú Xương cũng giống như thơ của nhiều bậc Nho sĩ “đại trượng phu” khác. Người phụ
nữ ít xuất hiện trong thơ những nhà thơ ấy. Nếu có, hẳn phải vào một trường hợp đặc biệt (như khi vợ mất ở
Nguyễn Khuyến chẳng hạn). Tú Xương viết “Thương vợ” - viết về vợ ngay khi vợ còn sống là một trường
hợp hiếm có trong văn học trung đại.
Tuy khác nhau, một bên là phụ nữ viết về phụ nữ; một bên là nam giới nhìn về phụ nữ. Song, ở chùm
thơ “Bánh trôi nước”, “Tự tình” (Hồ Xuân Hương), “Thương vợ” (Tú Xương) điều ta dễ nhận thấy là cả hai
nhà thơ đều gặp nhau ở niềm đồng cảm với vẻ đẹp của người phụ nữ cũng như số phận long đong, bất hạnh
của họ.
Nhắc đến người phụ nữ là nhắc về cái đẹp. Không phải tự nhiên cổ kim đều ngợi ca phái nữ là phái đẹp:
đẹp cả ngoại hình, đẹp cả tâm hồn, việc làm, hành động. Hoá thân vào viên bánh trôi bé nhỏ, người phụ nữ
tự sự về mình, họ ý thức được vẻ đẹp ngoại hình của chính họ: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”. Cách nói
“thân em” tác giả sử dụng đã rất quen thuộc trong ca dao. Nó gợi đến những vẻ đẹp đẽ, trong sáng, mỏng
manh của nữ giới: “Thân em như dải lụa đào”, “Thân em như giếng giữa đàng”, “Thân em như hạt mưa
sa”,... Trong “Bánh trôi nước”, “thân em” được gắn với hình ảnh viên bánh trôi “vừa trắng”, “vừa tròn”. Đối
với viên bánh trôi, có được dáng hình “vừa trắng lại vừa tròn” là hoàn mĩ lắm. Nó chứng tỏ sự xinh xắn, vừa
vặn, đẹp đẽ của hình dáng “tròn”; lại khẳng định phẩm chất trong sạch của bột, có vậy mới có được màu sắc
“vừa trắng”. Được ví như viên bánh trôi hoàn hảo như vậy, người phụ nữ được ngợi ca, khẳng định về vẻ
đẹp ngoại hình. Trong “Tự tình”, Hồ Xuân Hương đã táo bạo đặt tên, gọi tên vẻ đẹp ấy bằng ba chữ: “cái
hồng nhan”. Gọi như vậy đã mặc nhiên thừa nhận cái đẹp ở phái yếu. Chẳng những vậy, nữ sĩ còn đạt cái
đẹp ấy đối sánh cùng non nước: “Trơ cái hồng nhan với nước non”. Nhịp thơ 1/3/3 đã nhấn mạnh từ “trơ” -
tức là phơi ra, lộ ra. Phơi ra, lộ ra điều gì? Nhịp thơ đặc biệt trên đã trả lời. Đó là môi tương quan giữa “cái
hồng nhan” và “non nước”. Viết như vậy để thấy được vẻ đẹp lớn lao, kì vĩ của “cái hồng nhan”.
Không chỉ xinh xắn, vừa mắt. Nhắc đến người phụ nữ còn là nhắc đến những đức quý của con người:
tảo tần, chịu thương chịu khó, kiên trung son sắt. Bằng tình thương vô bờ đối với vợ, Tú Xương đã không
kìm nén lòng thương, sự cảm phục đức tảo tần của bà Tú:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.
“Mom sông” là phần đất ở bờ nhô ra phía lòng sông, vị trí ấy khá nguy hiểm, có thể sạt lở bất cứ lúc
nào; tàu thuyền thường ghé qua để buôn bán trao đối nhanh chóng. Vậy mà ấy là nơi bà Tú “quanh năm”
suốt tháng “buôn bán” đối mặt với vất vả, hiểm nguy. Mượn hình ảnh con cò trong ca dao, Tú Xương viết về
vợ thật cảm động:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.
“Quãng vắng” thì đơn chiếc, nguy hiểm; “đò đông” thì sớm sủa, lam lũ. Đã vậy, hai từ “lặn lội”, “eo
sèo” lại được đảo lên để khắc sâu vất vả một đời làm vợ. Vậy nhưng bà Tú vẫn bươn trải, xoay sở để: “Nuôi
đủ năm con với một chồng”. Sự đảm đang ấy ta bắt gặp ở hầu hết người phụ nữ Việt Nam. “Đằng sau thành
công của một người đàn ông đều có bàn tay của người phụ nữ”. Vì vậy nhắc đến một Tú Xương - một nhà
thơ “thư kí của thời đại”, “hiện thực và trữ tình” ta không thể không nhắc đến công lao bà Tú.
Hồ Xuân Hương trừu tượng và khái quát hơn khi nhắc đến nét đẹp trong phẩm chất của một nửa yếu
mềm trong thế giới. Họ trải qua bao nhiêu long dong, lận đận “Bảy nổi ba chìm với nước non”, ở đây, ta lưu
ý rằng Hồ Xuân Hương luôn đặt người phụ nữ sánh với non nước. Cách viết ấy đối lập với quan niệm xã
hội, khẳng định vị thế, vai trò người phụ nữ trong đời sống đất nước. Dẫu gian nan, chìm nổi, dẫu bị giập
vùi, giày xéo “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” nhưng ở người phụ nữ vẫn sáng người vẻ đẹp trung trinh son sắt:
“Mà em vẫn giữ tấm lòng son”. Từ đầu đến cuối bài thơ “Bánh trôi nước” nữ sĩ vẫn mượn hình ảnh chiếc
bánh trôi để viết về người phụ nữ. Viên đường thắm đỏ mà bánh trôi bao bọc, ôm ấp bên trong như tấm lòng
son sắt thuỷ chung, là tâm hồn trung trinh với những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Bước vào thơ ca, vẻ “đẹp người đẹp nết” của người phụ nữ được tô đậm, ngợi ca thật sâu sắc.
Với những gì đã có và đã làm, người phụ nữ xứng đáng được hưởng cuộc sống ấm êm, hạnh phúc.
Nhưng với người phụ nữ xa, chân lí ấy quá xa vời. Với họ “hồng nhan” là “bạc mệnh”. Xã hội bất công, mục
ruỗng đẩy họ vào những hoàn cảnh éo le, họ phải chịu nhiều oan trái, bất hạnh.
Như viên bánh trôi dẫu xinh xẻo, đẹp đẽ “vừa trắng lại vừa tròn” nhưng vẫn phiêu đạt “bảy nổi ba
chìm”... Người phụ nữ dẫu vẹn toàn là thế vẫn không tránh khỏi cái “đa truân” của “kiếp hồng nhan”. Hết
“bảy nổi ba chìm” phiêu dạt, đến số phận cuộc đời mình cũng không thể tự chủ “Rắn nát mặc dầu tay kẻ
nặn”. Phải vậy thôi, không còn cách khác. Phải số “thập nữ viết vô“, họ sống theo đạo tam tòng “tại gia tòng
phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, hôn nhân cũng là “cha mẹ đặt đâu con ngồi đây”. Có bao giờ trong
xã hội phong kiến người phụ nữ được sống cho riêng mình? Cả cuộc đời chỉ lê gót theo chân kẻ khác....
Là bậc nho sĩ Hán học, đứng trước nỗi vất vả truân chuyên của vợ, Tú Xương cũng gạt đi cái “sĩ diện”
của tầng lớp mà nhìn thẳng vào thực tại:
“Nuôi đủ năm con với một chồng”
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”.
Gánh nặng gia đình đè nặng lên vai, tưởng như có thể đong đếm được “năm con”, “một chồng” - ngần
ấy kẻ ăn bám, ngần ấy con người phải “nuôi đủ”! Bao nhiêu chua xót đời bà nằm ở chữ “một chồng”. Những
tưởng lấy chồng để chung sức “tát bể Đông” ngờ đâu “một duyên hai nợ” để anh chồng chỉ là gánh nợ đời
đeo bám cuộc đời bà. “Năm nắng mười mưa” vất vả bà đâu có “dám quản công”. “Lam lũ” đa đoan đến nỗi
anh chồng vô tích sự cũng phải động lòng đạp đổ lệ thường xã hội, ý thức giai cấp mà cất tiếng chửi đời giúp
bà:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”.
Có ra mặt ca thán cũng là chồng chửi thay, cuộc đời than giúp, những người phụ nữ dẫu có táo bạo,
mạnh mẽ như Hồ Xuân Hương cũng nào có to tiếng. Họ chỉ trầm lắng cất tiếng “Tự tình” lúc canh khuya cô
độc:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”.
Chao ôi! Còn gì bẽ bàng hơn đối với một người phụ nữ, mà đó lại là một người phụ nữ đẹp? Không bạn
bè, không người san sẻ, trông bốn bề hỏi ai là kẻ tri âm. Đêm khuya là thời điểm con người phải đối diện với
chính mình, tự chất vấn, tự suy ngẫm, tự phán xét. Xuân Hương dùng từ rất đắt “trơ” - “trơ cái hồng nhan
với nước non”. Đằng sau từ ấy là bao nhiêu ngơ ngác, buồn tủi. Những tưởng chỉ bậc chính nhân quân tử
mới mượn rượu giải sầu. Nhưng không, ở người phụ nữ cũng có những nỗi buồn không thể san lấp:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
Người ta uống rượu đang tỉnh thành say, say để quên đi mọi lo toan phiền muộn, ở đây, Xuân Hương
càng uống, càng say, càng tỉnh “say lại tỉnh”. “Tỉnh” lại càng thấm thía hơn nỗi cô độc, buồn phiền. Bực bội,
tức tối, nhà thơ cũng chỉ trút vào những hình ảnh thơ mạnh mẽ thế này:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”.
Dùng phép đảo ngữ “xiên ngang mặt đất”, “đâm toạc chân mây” chẳng những khiến khung cảnh trở lên
dữ dội mà nhịp thơ cũng rắn rỏi, mạnh mẽ hơn 4/3, 4/3. Qua đó bộc lộ tâm trạng bức bách, đang quẫy đạp
đòi giải phóng của nhà thơ. Nhưng Xuân Hương vẫn là Xuân Hương, dù “cứng cỏi đến thành ngổ ngáo” thì
bà vẫn là một người phụ nữ. Sau những vần thơ phá phách bà trở lại cái trầm lắng thuở ban đầu:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”.
Vẫn biết mùa xuân là tươi đẹp nhưng xuân là xuân của đất trời, xuân của ai kia chứ không phải xuân của
người thiếu phụ. Bởi “mỗi năm mỗi tuổi nó đuổi xuân đi”. “Xuân lại lại” - tức là xuân lại về, lại đến, nó chỉ
báo hiệu người ta thêm già, thêm hẩm hiu bẽ bàng. Vậy nên nữ sĩ “ngán nỗi” xuân đến xuân đi. Ngán ngẩm
hơn thế là nỗi tình duyên không thoả ý: “Mảnh tình san sẻ tí con con”. Theo sau cái già nua của tuổi tác còn
là sự phai nhạt của tình duyên. “Mảnh tình” đã nhỏ bé, đã bị cắt xén ít nhiều nay phải “san sẻ” lẫn nhau chia
năm sẻ bẩy - (biết làm sao khi “Trai quân tử năm thê bảy thiếp/ Gái chính chuyên chỉ có một chồng”?!). Để
rồi mỗi người chỉ còn tí chút “tí con con”. Cái nhỏ bé mong manh của chút tình hiếm hoi là nguyên nhân gây
lên nỗi cô độc, éo le của người thiếu phụ đang độ tuổi rực rỡ. Khi ấy, bao nhiêu xuân sắc, son trẻ chỉ là bi
kịch của đời người mà thôi. Rõ ràng, khi ấy, bất hạnh là điều không người phụ nữ nào tránh khỏi.

You might also like