You are on page 1of 5

TỰ TÌNH II

Mở bài

Thơ là thư ký của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn thi sĩ. Nó phản ánh cuộc sống của
con người, xã hội,để qua đó người nghệ sĩ bộc lộ nỗi long mình. Hay cách nói khác mỗi bài
thơ chính là tiếng hát của trái tim, được thể hiện như một hình thức nghệ thuật vô cùng
cao quý, tinh vi. Trong những nhà thơ tiêu biểu như Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Xuân
Diệu,Hồ Xuân Hương nổi lên như một hiện tượng độc đáo, được mệnh danh là “Bà chúa
thơ Nôm”. Bà đem tiếng lòng mình và những người phụ nữ xưa vào thi ca. Bà có cuộc đời
và tình duyên éo le, trắc trở đã mượn ngòi bút để cất lên tiếng nói thương cảm của thân
phận của người phụ nữ. Hồ Xuân Hương đã để lại cho văn học Việt Nam nhiều bài thơ có
giá trị như “Bánh trôi nước, Mời trầu”. Không thể không kể đến tác phẩm “Tự tình II”. Bài
thơ chứa nhiều cung bậc cảm xúc vừa buồn tủi vừa phẫn uất trước duyên phận éo lê và
khát vọng hạnh phúc trong tâm hồn nhà thơ.

Canh khuya văng vẳng trống canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non.

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.

Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.

Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con !”.

Thân bài

“Tự tình II” nằm trong chùm thơ Tự tình gồm ba bài. Bài thơ được viết theo thể thơ thất
ngôn bát cú Đường luật, nhưng cái đặc sắc ở đây là tác giả không viết bằng chữ Hán mà
viết bằng chữ Nôm. Bà đã “Việt hóa” thể thơ để bộc lộ suy nghĩ người Việt, tâm hồn
người Việt. Nhan đề “Tự tình” tự giải bày tâm trạng,tình cảm của mình hay là sự hé mở
nỗi long khó nói của tác giả. Nữ sĩ đã cảm nhận cuộc sống qua những âm thanh, quang
cảnh lạnh buồn, vắng lặng và tự cảm thương cho số phận hẩm hiu của bà. Đó cũng là số
phận chung của những người phụ nữ trong Xã hội đương thời.

Mở đầu bài thơ tác giả đề cập đến không gian, thời gian qua hai câu đề:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non”

Đêm đã về khuya là khi tác giả đang thao thức trong nỗi cô đơn, đợi chờ. Tính từ “văng
vẳng” khiến ta nhận ra không gian vừa mệnh mông vừa vắng lặng lúc nửa đêm. Ở đây, Hồ
Xuân Hương đã khéo léo sử dụng bút pháp nghệ thuật lấy động tả tính. ”Trống canh dồn”
tiếng trông canh thôi thúc, gấp gáp, liên hồi thể hiện bước đi dồn dập của thời gian. Tiếng
trống của tâm trạng rối bời nuối tiếc thời gian nuối tiếc tuổi xuân. Đêm khuya là khoảng
thời thời gian tâm lý thấm đẫm trữ tình, là lúc vạn vật chìm trong giấc ngủ, là lúc lòng
người sâu lắng nhất, là lúc con người đối diện với chính bản thân mình. Cái buồn man mác
thắm đượm bài thơ, len lỏi trong từng câu chữ được gợi ra từ sự tĩnh lặng của đêm
khuya. Không gian và thời gian đã được mở ra như thế này, rất tài tình và tinh tế. Nhà thơ
đã cảm nhận sự bẽ bang của duyên phận qua câu thơ “ Trơ cái hồng nhan với nước non”.
Từ “trơ” được đảo lên đầu câu gây ấn tượng mạnh mẽ. “Trơ” là tủi hổ, thể hiện sự chua
chát của cuộc đời. Thêm vào đó là hai từ “Hồng nhan” chỉ sắc đẹp của người con gái mà
lại đi với từ “cái”- từ để chỉ đồ vật, chỉ là món hàng mua vui cho đàn ông không hơn không
kém. Cái hồng nhan “trơ” ra với “ nước non” câu thơ gơi ra sự hồng nhan bạc phận, nỗi
xót ra càng thấm thía, đau xót. Nhịp điệu 1/3/3 nhấn mạnh sự bẽ bàng ấy.

Nhận thức được điều đó, người con gái ấy đau khổ, cô đơn tuyệt vọng cùng cực nhưng
không biết chia sẻ điều này với ai, nàng đành mượn rượu để bày tỏ lòng mình.

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”

Cụm từ “say lại tỉnh” như một vòng luẩn quẩn lặp đi lặp lại, tình duyên như trở thành trò
đùa, càng say càng tỉnh. Mong muốn chút niềm an ủi từ thiên nhiên, cảnh vật, tác giả
dùng câu thơ tả cảnh ngụ tình. Thời gian cứ trôi đi không ngừng lại, mỗi khoảnh khắc trôi
qua lòng người con gái nặng trĩu vì những bộn bề lo toan của cuộc đời, hình ảnh vầng
trăng bóng xế khuyết chưa tròn cho thấy cuộc đời không trọn vẹn còn nhiều dở dang,
hình ảnh vầng trăng nói về sự muộn màng dang dở của nhà thơ. Sự đối lập “say-
tỉnh,khuyết-tròn” đã gợi lên cho người đọc cảm giác chênh vênh, không xác định ranh giới
giữa hi vọng mong manh và hiện thực phũ phàng. Cuộc đời của Hồ Xuân Hương không
phải là cuộc đời trọn vẹn, mà bà gặp rất nhiều biến số thăng trầm trong cuộc sống, càng
tài giỏi, càng xinh đẹp thì bà lại càng cô đơn, đau khổ, suốt cuộc đời mình bà không có lấy
một tấm chồng trọn vẹn mà phải chịu kiếp san sẻ tình yêu của mình cho người khác, vì
thế trong thơ bà đã từng thốt lên: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”, câu thơ là tiếng
thở dài, là lời vọng lại từ trái tim và tâm can của một người thấu hiểu lẽ đời. Dù xinh đẹp,
tài giỏi nhưng Hồ Xuân Hương vẫn không tránh khỏi số mệnh đau khổ, phũ phàng bị đọa
đầy về thân xác lẫn tâm hồn.

Từ hình ảnh “vầng trăng” tác giả chuyển sang mượn thiên nhiên để miêu tả tâm trạng

“ Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”

Hình ảnh rêu được đưa ra đây nhưng mang những dụ ý sâu xa của tác giả Hồ Xuân
Hương. Rêu là loài mỏng manh nhỏ bé nhưng lại có sức sống vô cùng mạnh mẽ, không
dừng lại đó, ở bất cứ một điều kiện nào thì nó vẫn có thể tươi tốt, dù là điều kiện sống
như thế nào đi chăng nữa. Bằng việc sử dụng những động từ mạnh: Xiên ngang, đâm
toạc, người đọc thấy được sự bất lực của tác giả bị dồn nén đã lâu nay bộc phát muốn
đứng lên để tự khẳng định chính mình. Nghệ thuật đảo ngữ góp phần làm rõ hơn tinh
thần phản kháng của Hồ Xuân Hương, người con gái ấy muốn thoát khỏi những ràng buộc
của hoàn cảnh của lễ giáo phong kiến để có thể tự khẳng định chính mình. Dường như
cuộc đời không dành cho Hồ Xuân Hương nhiều ưu ái mà đã cột chặt bà vào số mệnh
hẩm hiu, cay đắng tột cùng, để đến cuối bài thơ chúng ta chỉ còn nghe thấy tiếng thở than
ngao ngán choa cuộc đời, cũng là tiếng thở dài cho một thân phận buồn tủi, cô đơn

“ Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con”

Đến hai câu thơ kết, Hồ Xuân Hương đã bộc bạch hết nỗi cay đắng của đời người. Xuân là
mùa đẹp nhất trong năm, mùa xuân đem lại sức sống mãnh liệt, tươi mới nhưng mùa
xuân trong thơ Hồ Xuân Hương là nỗi chán ngán, mùa xuân tuổi xuân của nàng trôi đi một
cách vô nghĩa không mục đích, chỉ để lại tiếng thở dài cho số phận hẩm hiu, bất hạnh. Hai
từ “lại” trong cụm “xuân đi xuân lại lại” mang nghĩa khác nhau. Từ “lại” thứ nhất có nghĩa
them lần nữa, từ “lại” thứ hai là sự trở lại. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi
của tuổi xuân. Người phụ nữ ấy vẫn mong chờ một ngày nào đó được cảm nhận hạnh
phúc trọn vẹn thật sự, bằng cả trái tim nồng cháy của người đối diện, để nàng có thể trao
đi tất cả những gì được gọi là sự thuỷ chung, sự vẹn toàn của tình yêu. Đó cũng là nỗi uất
ức khi “Tình đã nhỏ, mà còn xé nhỏ hơn” thì cũng tương tự việc chia cắt trái tim. Thật
không còn gì có thể diễn tả được nỗi đau đó. Bằng nghệ thuật tăng tiến giảm dần, ta thấy
được sự ít ỏi, nhỏ bé của hạnh phúc trong cảnh cái cảnh chồng chung đáng phê phán, chê
trách ấy. Câu thơ kết thúc trong nỗi xót xa, mỉa mai đến tội nghiệp của “cái hồng nhan”
trong xã hội phong kiến xưa.
Với ngôn ngữ thơ Nôm giản dị, tự nhiên nhưng cũng sắc nhọn, với các biện pháp nghệ
thuật đảo, đối, dùng động từ mạnh, tả cảnh ngụ tình… bài thơ thể hiện tâm trạng vừa đau
đớn, vừa phẫn uất trước duyên phận, nhưng vẫn cố gắng vươn lên với khát khao sống,
khát khao hạnh phúc mãnh liệt, tuy vẫn rơi vào bi kịch. Trái tim của Hồ Xuân Hương đã
thức giấc cùng nhịp đập với những tâm hồn người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Xuân
Hương ôm trong mình nỗi đau của cả một thời đại. Nhà thơ cất lên tiếng nói nhân văn cho
số phận, khát khao của những người phụ nữ trong xã hội xưa khi mà với họ hạnh phúc là
một chiếc chăn qua hẹp Qua đó, thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Có thể nói,
đây là bài thơ tiêu biểu cho phong cách sáng tác thơ của Hồ Xuân Hương. Đó là sự thống
nhất giữa một trái tim yếu mềm, đa cảm, nhiều yêu thương và một bộ óc mẫn tiệt, thông
tuệ.

-Liên hệ:

Cùng với “Tự tình” của Hồ Xuân Hương, tác phẩm “Thương Vợ” của Trần Tế Xương cũng
nói lên tiếng lòng của người phụ nữ. Tuy đứng ở hai khía cạnh, hai góc nhìn khác nhau về
người phụ nữ, nhưng cả hai tác phẩm “Tự tình” và “Thương vợ” đều là những bài ca ca
ngợi vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Nếu như Hồ Xuân Hương đem đến
cho người đọc về hình ảnh người phụ nữ tài sắc, thủy chung, nhưng lại chịu nhiều bất
hạnh về cuộc sống và duyên phận thì Tú Xương mang đến cho chúng ta hình ảnh về đức
hi sinh, sự can đảm chịu thương chịu khó của người phụ nữ. Hơn nữa, vẻ đẹp truyền
thống của người phụ nữ càng đậm nét hơn khi chính họ là những con người bất hạnh
nhưng luôn ngời sáng lên những ước mơ. Hai tác phẩm đều phản ánh khát vọng vươn lên
làm chủ của người phụ nữ, bênh vực quyền sống, khát vọng hạnh phúc, thể hiện tính
nhân văn sâu sắc. Phẩm chất truyền thống đẹp đẽ đó đã trở thành nét đẹp đương đại với
phụ nữ Việt nam ngày nay: “Giỏi việc nước – đảm việc nhà”.

Kết bài

Qua bài thơ “Tự tình II”, ta thấy được tài năng cũng như trái tim nhân hậu của Xuân
Hương. Dù cho có đau khổ, bế tắc thì vẫn luôn kiên cường, mạnh mẽ. Hình ảnh của Xuân
Hương như một tấm gương sáng ngời về một người phụ nữ mạnh mẽ, thông minh, tài
năng, nhân hậu mà những người phụ nữ ở thời đại trước hay thời đại ngày nay đều nên
học tập. Không chỉ “ Tự tình II” mà tất cả những sáng tác của bà đều sẽ mãi in dấu trong
lòng người đọc qua nhiều thế hệ. Bởi ở bà, ta thấy được một con người mang đầy tinh
thần nhân đạo, là một Xuân Hương “kì nữ, kì tài”.

You might also like