You are on page 1of 112

Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

TỰ TÌNH II

*Dàn ý phân tích “Tự tình II” của Hồ Xuân Hương

a, Mở bài

- Trình bày những nét tiêu biểu về nữ sĩ Hồ Xuân Hương: Nữ sĩ được mệnh danh: “Bà
chúa thơ Nôm” với rất nhiều những bài thơ thể hiện sự trân trọng vẻ đẹp và niềm cảm
thông, thương xót cho số phận những người phụ nữ.

- Giới thiệu bài thơ Tự tình II: Đây là một trong số 3 bài thơ trong chùm thơ Tự tình thể
hiện nỗi niềm buồn tủi trước cảnh ngộ lỡ làng.

b, Thân bài

1. Hai câu đề: Nỗi niềm buồn tủi, chán chường

• Câu 1: Thể hiện qua việc tái hiện bối cảnh:

- Thời gian: Đêm khuya, trống canh dồn – nhịp gấp gáp, liên hồi của tiếng trống thể
hiện bước đi thời gian gấp gáp, vội vã ⇒ Con người chất chứa nỗi niềm, bất an

- Không gian: “văng vẳng”: lấy động tả tĩnh ⇒ không gian rộng lớn nhưng tĩnh vắng

⇒ Con người trở nên nhỏ bé, lạc lõng, cô đơn

• Câu 2: Diễn tả trực tiếp nỗi buồn tủi bằng cách sử dụng từ ngữ gây ấn tượng mạnh:

- Từ “trơ” được nhấn mạnh: nỗi đau, hoàn cảnh “trơ trọi”, tủi hờn, đồng thời thể hiện
bản lĩnh thách thức, đối đầu với những bất công ngang trái.

- Cái hồng nhan: Kết hợp từ lạ thể hiện sự rẻ rúng

⇒ Hai vế đối lập: “cái hồng nhan” đối với “với nước non”

⇒ Bi kịch người phụ nữ trong xã hội

2. Hai câu thực: Diễn tả rõ nét hơn tình cảnh lẻ loi và nỗi niềm buồn tủi

• Câu 3: Hình ảnh người phụ nữ cô đơn trong đêm khuya vắng lặng với bao xót xa

- Chén rượu hương đưa: Tình cảnh lẻ loi, mượn rượu để giải sầu

- Say lại tỉnh: vòng luẩn quẩn không lối thoát, cuộc rượu say rồi tỉnh cũng như cuộc
tình vương vít cũng nhanh tàn, để lại sự rã rời

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

⇒ Vòng luẩn quẩn ấy gợi cảm nhận duyên tình đã trở thành trò đùa của số phận

• Câu 4: Nỗi chán chường, đau đớn ê chề

- Hình tượng thơ chứa hai lần bi kịch

+ Vầng trăng bóng xế: Trăng đã sắp tàn ⇒ tuổi xuân đã trôi qua

+ Khuyết chưa tròn: Nhân duyên chưa trọn vẹn, chưa tìm được hạnh phúc viên mãn,
tròn đầy ⇒ sự muộn màng dở dang của con người

- Nghệ thuật đối → tô đậm thêm nỗi sầu đơn lẻ của người muộn màng lỡ dở

⇒ Niềm mong mỏi thoát khỏi hoàn cảnh thực tại nhưng không tìm được lối thoát.

3. Hai câu luận: Nỗi niềm phẫn uất, sự phản kháng của Xuân Hương

- Cảnh thiên nhiên qua cảm nhận của người mang niềm phẫn uất và bộc lộ cá tính:

+ Rêu: sự vật yếu ớt, hèn mọn mà cũng không chịu mềm yếu

+ Đá: im lìm nhưng nay phải rắn chắc hơn, phải nhọn hoắt lên để “đâm toạc chân mây”

+ Động từ mạnh xiên, đâm kết hợp với bổ ngữ ngang, toạc: thể hiện sự bướng bỉnh,
ngang ngạnh

+ Nghệ thuật đối, đảo ngữ ⇒ Sự phản kháng mạnh mẽ dữ dội, quyết liệt

⇒ Sức sống đang bị nén xuống đã bắt đầu bật lên mạnh mẽ vô cùng

⇒ Sự phản kháng của thiên nhiên hay cũng chính là sự phản kháng của con người

4. Hai câu kết: Quay trở lại với tâm trạng chán chường, buồn tủi

• Câu 7:

- Ngán: chán ngán, ngán ngẩm

- Xuân đi xuân lại lại: Từ “xuân” mang hai ý nghĩa, vừa là mùa xuân, đồng thời cũng là
tuổi xuân

⇒ Mùa xuân đi rồi trở lại theo nhịp tuần hoàn còn tuổi xuân của con người cứ qua đi
mà không bao giờ trở lại ⇒ chua chát, chán ngán.

• Câu 8:

- Mảnh tình: Tình yêu không trọn vẹn

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

- Mảnh tình san sẻ: Càng làm tăng thêm nỗi chua xót ngậm ngùi, mảnh tình vốn đã
không được trọn vẹn nhưng ở đây còn phải san sẻ

- Tí con con: tí và con con đều là hai tính từ chỉ sự nhỏ bé, đặt hai tính từ này cạnh nhau
càng làm tăng sự nhỏ bé, hèn mọn

⇒ Mảnh tình vốn đã không được trọn vẹn nay lại phải san sẻ ra để cuối cùng trở thành
tí con con

⇒ Số phận éo le, ngang trái của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, phải chịu thân
phận làm lẽ

5. Nghệ thuật

- Ngôn ngữ thơ điêu luyện, bộc lộ được tài năng và phong cách của tác giả

+ Sử dụng từ ngữ, hình ảnh giàu sức tạo hình, giàu giá trị biểu cảm, đa nghĩa

- Thủ pháp nghệ thuật đảo ngữ: câu hỏi 2, câu 5 và câu 6

- Sử dụng động từ mạnh: xiên ngang, đâm toạc.

c, Kết bài

- Khẳng định lại những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm

- Thông qua bài thơ thể hiện giá trị hiện thực và bộc lộ tấm lòng nhân đạo sâu sắc của
một nhà thơ “phụ nữ viết về phụ nữ”

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

CẢM NHẬN TỰ TÌNH II

Thơ là thư kí của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn thi sĩ. Nó phản ánh cuộc sống
của con người, xã hội, để qua đó người nghệ sĩ bộc bạch nỗi lòng mình. Hay nói cách
khác, mỗi bài thơ chính là tiếng hát của trái tim, được thể hiện như một hình thức nghệ
thuật cao quý, tinh vi. Thững nhà thơ tiêu biểu như Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Xuân
Diệu… Hồ Xuân rong nHương nổi lên như một hiện tượng văn học độc đáo. Được
mệnh danh là “bà chúa thơ Nôm”, Xuân Hương đem “tiêng lòng” của mình và những
người phụ nữ xã hội xưa vào thi ca. Bà có cuộc đời và tình duyên éo le, trắc trở nên đã
mượn ngòi bút để cất lên tiếng nói thương cảm cho thân phận người phụ nữ. Hồ Xuân
Hương đã để lại cho văn học Việt Nam nhiều bài thơ giá trị như “Bánh trôi nước”, “mời
trầu”… Tiêu biểu trong đó là “Tự tình II”. Bài thơ đã bộc lộ tâm trạng vừa buồn tủi vừa
phẫn uất trước duyên phận éo le và khát vọng hạnh phúc trong tâm hồn nhà thơ.

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non.

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.

Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mối tình san sẻ tí con con.”

“Tự tình II” Nằm trong chùm thơ Tự tình gồm 3 bài. Bài thơ được viết theo thể thất
ngôn bát cú Đường luật, nhưng cái đặc sắc ở đây là tác giả không viết bằng chữ Hán mà
là chữ Nôm. Bà đã “Việt hóa” thể thơ của người Hoa để bộc lộ suy nghĩ người Việt, tâm
hồn người Việt. Đúng như giáo sư Lê Trí Viễn từng nói: “Dưới ngòi bút của Hồ Xuân
Hương, Đường luật mất hẳn cốt cách quý tộc mà ngoan ngoãn cung hiên vần điệu cần
xứng của mình cho và sử dụng theo ý muốn”. Nhan đề “Tự tình” của bài thơ là tự bộc
lộ, giãi bày tâm trạng, tình cảm của mình, hay nói cách khác, đây chính là sự hé mở nỗi
lòng khó nói của tác giả.

Hai câu đề đã mở ra thời gian và không gian nghệ thuật rất đặc biệt:

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non.”

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Đêm đã về khuya, là khi tác giả đang thao thức trong nỗi cô đơn, đợi chờ. Tính từ
“văng vẳng” đã được nữ sĩ sử dụng rất tự nhiên, tinh tế, khiến ta cùng lúc nhận ra
không gian vừa mênh mông vừa vắng lặng lúc nửa đêm. Ở dây, Xuân Hương đã khéo
léo sử dụng bút pháp nghệ thuật quen thuộc của thi pháp cổ điển là lấy động tả tĩnh.
“Trống canh dồn”, tiếng trống canh thôi thúc, gấp gáp, liên hồi thể hiện bước đi dồn
dập của thời gian. Tiếng trống của tâm trạng – tâm trạng rối bời vì thời gian trôi qua
nhanh có nghĩa là tuổi xuân của nhà thơ cũng qua mau. Cách cảm nhận bước đi của
thời gian qua tiếng trống điểm canh là cách cảm nhận rất đỗi Á Đông. Đó là thời gian
tâm lí thấm đậm chất trữ tình. Đêm khuya là lúc vạn vận chìm trong giấc ngủ, đó lại
cũng là lúc lòng người sâu lắng nhất, là lúc con người đối diện với chính bản thân
mình. Mở đầu bài thơ, ta đã cảm nhận được cái buồn man mác len lỏi trong từng câu
chữ được gợi ra từ sự tĩnh lặng của đêm khuya. Tiếng trống văng vẳng không quá gần
mà lại nghe thấy cái nhịp “dồn” vội vàng , gấp gáp… Bởi, đó là tiếng trống gợi sự bước
đi của thời gian, gợi sự tàn phá và nó được nghe bằng tâm trạng của người phụ nữ
mang tâm thức cô đơn, ám ảnh trước thời gian. Không gian và thời gian đã được mở ra
như thế, rất tài tình và tinh tế. Nhà thơ đã cảm nhận sự bẽ bàng của duyên phận qua
câu thơ “Trơ cái hồng nhan với nước non”. Từ “trơ” được đảo lên đầu câu gây ấn tưởng
mạnh mẽ. “Trơ” là tủi hổ, là bẽ bàng. Thêm vào đó là hai từ “hồng nhan” là để chỉ sắc
đẹp của người con gái, mà lại đi với từ “cái” thì thật rẻ rúng, mỉa mai. Cái hồng nhan
“trơ” ra với nước non, với không gian, thời gian. Câu thơ đã gợi lên sự hồng nhan bạc
phận. Vì vậy, nỗi xót xa càng thấm thía, đau xót. Nhịp điệu 1/3/3 cũng là để nhấn mạnh
sự bẽ bàng. Trong văn cảnh này, chữ “trơ” không chỉ là tủi hổ, bẽ bàng mà còn là thách
thức. “Từ “trơ” kết hợp với nước non thể hiện sự bền gan, thanh đố. Như vậy ở đay ra
thấy được bên cạnh nỗi đau Xuân Hương là bản lĩnh Xuân Hương.

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”

Ở hai câu đề, nữ thi sĩ đã tái hiện cho chúng ta thấy một không gian vắng lặng lúc đêm
khuya. Trong thời khắc ấy, khi chủ thể trữ tình vẫn còn thao thức chưa ngủ ắt hẳn có
điều gì trăn trở. Như thách thức số phận, nhà thơ mượn rượu để quên đi nỗi sầu. Cụm
từ “say lại tỉnh” như là một vòng luẩn quẩn lặp đi lặp lại, tình duyên như trở thành trò
đùa, càng say lại càng tỉnh, càng cảm nhận nỗi đau thân phận. Mong muốn chút niềm
an ủi từ thiên nhiên, cảnh vật, tác giả dùng câu thơ tả cảnh ngụ tình. Câu thơ là ngoại
cảnh mà cũng là tâm cảnh, tạo nên sự đồng nhất giữa ánh trăng và con người. Cảnh
tình của Xuân Hương được thể hiện qua hình ảnh thơ chứa đựng sự éo le: Trăng sắp
tàn mà vẫn “khuyết chưa tròn”. Tuổi xuân đã trôi qua mà tình duyên còn chưa trọn

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

vẹn. Hương rượu để lại vị đăng chát, hương tình thoảng qua để chỉ còn “phận hẩm
duyên ôi”. Sự đối lập giữa “say”-“tỉnh”, “khuyết”-“tròn” đã gợi lên cho người đọc cảm
giác chông chênh, không xác định được ranh giới giữa không và có, say và tỉnh. Cặp từ
trái nghĩa đã giúp ta nhận ra được điều đó giữa hi vọng mong manh về hạnh phúc và
hiện thực phũ phàng.

Từ hình ảnh “vầng trăng” nhà thơ bắt đầu chuyển sang mượn thiên nhiên để miêu tả
tâm trạng:

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.”

Hai câu thơ tả cảnh được cảm nhận qua tâm trạng cũng như mang theo nỗi niềm phẫn
uất của con người. Những sinh vật bé nhỏ như đám rêu kia cũng không chịu mềm yếu,
khuất phục mà phải xiên ngang mặt đất trỗi dậy mạnh mẽ. Đá đã rắn chắc lại phải cứng
cáp hơn để “đam toạc chân mày”. Biện pháp đảo ngữ trong hai câu luận đã làm nổi bật
sự phẫn uất của cỏ cây, cũng như sự phẫn uất trong tâm trạng. Không chỉ vậy những
động từ mạnh “xiên, đâm” cũng được kết hợp với bổ ngữ “ngang”, “toạc” độc đáo thể
hiện sự bướng bỉnh, ngang trái. Điều đó đã thể hiện một phong cách Xuân Hương,
không chỉ phẫn uất mà còn phản kháng, không khuất phục trước số phận đau khổ,
muốn vươn lên bằng chính sức sống mãnh liệt của mình. Với tài năng sử dụng từ ngữ,
hình ảnh mạnh mẽ, táo bạo, lấy cảnh ngụ tình, hai câu thơ đã gợi lên cảnh vật sinh
động, đầy sức sống. Đó cũng chính là tâm hồn đầy sức sống, cõi lòng nhiều khao khát
của Xuân Hương.

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mối tình san sẻ tí con con.”

Đến hai câu kết, Hồ Xuân Hương đã bộc bạch hết nỗi cay đắng của đời người. “Ngán”
là ngán ngẩm với nỗi đời éo le, với vòng xoáy của số phận. Từ “xuân” nay mang hai
nghĩa, vừa là mùa xuân, vừa là tuổi xuân. Mùa xuân qua đi rồi lại trở lại với thiên
nhiên, với muôn nghìn cây cỏ, hoa lá. Nhưng, với con người thì tuổi xuân qua là không
bao giờ quay trở lại. Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” cũng mang hai ý
nghĩa khác nhau. Từ “lại” thứ nhất nghĩa là thêm lần nữa, từ “lại” thứ hai nghĩa là trở
lại. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Thủ pháp nghệ thuật
tăng tiến, nhấn mạnh vào sự nhỏ bé dần, làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn. “Mảnh
tình” đã bé lại phải “san sẻ” thành ra ít ỏi, chỉ còn “tí con con” nên càng xót xa, tội
nghiệp. Câu thơ kết thúc trong nỗi xót xa, mỉa mai đến tội nghiệp của “cái hồng nhan”

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

trong xã hội phong kiến xua. Câu thơ là nỗi lòng của người phụ nữ vừa đau buồn vừa
thách thức duyên phận, gắng gượng nhưng vẫn rơi vào bi kịch. Vì vậy, ý nghĩa nhân
văn của bài thơ càng sâu sắc, thấm thía hơn.

Trái tim Xuân Hương đã thức giấc để đập nhịp cùng những tâm hồn của người phụ nữ.
Hồ Xuân Hương đối với văn học là quá khứ, nhưng bài học và những cảm xúc mà bà
mang lại cho thế hệ ngày nay vẫn tồn tại, hiện hữu. Đó là bài học về sự vượt qua khó
khăn, chiến thắng đau khổ. Cuộc đời nữ sĩ Xuân Hương đã hai lần chồng và đều thất
bại, nhưng trong tim bà vẫn giữ nguyên nhịp đập hy vọng về hạnh phúc và tình yêu.

Tự tình II là bài thơ tự than thân, tự bộc lộ, tự bày tỏ nỗi lòng của người phụ nữ lận đận
tình duyên nhưng luôn khao khát có được một tình yêu trọn vẹn, xứng đáng với tấm
chân tình của mình. Đặc sắc trong bút pháp của nữ sĩ cho thấy tài năng thi ca của tâm
hồn, với việc sử dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, thủ pháp tả cảnh ngụ tình, dùng
động từ mạnh kết hợp với đảo ngữ và các từ láy càng làng cho bài thơ trở nên sâu sắc,
thấm đẫm cái ý cái tình của người phụ nữ.

Những hình ảnh giản dị với tâm trạng uất ức, xót xa cho số phận hẩm hiu và cũng là bi
kịch, khát vọng hạnh phúc của Xuân Hương nói riêng hay chính người phụ nữ phong
kiến nói chung. Bài thơ đã truyền tải ý nghĩa nhân văn sâu sắc: Dù sống trong hoàn
cảnh cay nghiệt nhưng con người vẫn cố gắng vươn lên, thay đổi số phận, mong muốn
một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tự tình II mà Hồ Xuân Hương để lại sẽ vẫn có giá trị đến
muôn đời. Quả thật, Xuân Hương rất xứng đáng với danh xưng “Bà chúa thơ Nôm” khi
đã để lại cho đời những áng văn bất hủ.

___

Bài làm của Bảo Hân, học sinh trường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hà Nội.(Học sinh lớp Văn
cô Ngọc Anh) ❤️

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Đề bài: Sự giống nhau và khác nhau giữa hai bài thơ Tự tình I và Tự tình II của Hồ
Xuân Hương

Bài làm

– Giống nhau:

+ Cùng sử dụng thơ Nôm đường luật thể hiện cảm xúc của tác giả.

+ Đều mượn cảm thức về thời gian để thể hiện tâm trạng. Điều đó được thể hiện qua
kết cấu vòng tròn của hai bài thơ: mở đầu bằng thời gian và kết thúc cũng là thời gian

+ Đều sử dụng nhiều từ ngữ biểu cảm: văng vẳng, trở, cái hồng nhan, ngán, tí con con,
oán hận, rền rĩ, mõm mòn, già tom…

– Khác nhau:

+ Cảm xúc trong Tự tình I là nỗi niềm của nhà thơ trước duyên phận hẩm hiu, nhiều
mất mát, trước lẽ đời đầy nghịch cảnh, đồng thời là sự vươn lên của chính bản thân,
thách đố lại duyên phận.

+ Còn ở Tự tình II, cũng là sự thể hiện của bi kịch duyên phận muôn màng, cố gắng
vươn lên nhưng cuối cùng cũng không thoát được bi kịch. Chính vì thế bi kịch như
được nhân lên, phẫn uất hơn. Sự khác nhau đó chính là do cảm xúc chủ đạo trong từng
bài thơ.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Đề bài: “Tự tình II” khát vọng về một tình yêu lớn

Bài làm

Trong văn học trung đại Việt Nam, Hồ Xuân Hương - một nữ sĩ tài hoa lắm truân
chuyên đã để lại bộ ba thi phẩm "Tự tình" đặc sắc và da diết tình người, tình đời: Tự
tình (I), Tự tình (II), Tự tình (III). Trong đó, bài thơ Tự tình (II) được xem là điển hình
cho tâm trạng cô đơn và nỗi lòng quạnh hiu của tác giả khi tuổi đã chiều tà bóng xế.
Tiếng lòng ấy cũng chính là khát vọng tình yêu của người phụ nữ trong xã hội phong
kiến trọng nam khinh nữ đương thời.

Bài thơ mở đầu bằng âm thanh của tiếng trống báo canh dồn dập, thúc bách và hình
tượng con người trong hoàn cảnh cô độc, lẻ loi: Đêm khuya văng vẳng trống canh
dồn/Trơ cái hồng nhan với nước non. Đọc hai câu thơ, điều đầu tiên chúng ta dễ dàng
phát hiện ra sự đối lập trong nghệ thuật miêu tả thời gian và không gian của tác giả.
Thời gian là đêm đã về khuya, lúc mà con người được nghỉ ngơi, yên an và hạnh phúc
bên người thân trong gia đình mình. Bao nhiêu âu lo tất bật của một ngày được lắng lại
qua giấc ngủ say nồng, êm ấm. Ngược lại, hình tượng con người - có thể xem đây là cái
tôi trữ tình tác giả - lại thao thức không yên trước không gian nước non rộng lớn: "Trơ
cái hồng nhan với nước non". Một chữ "trơ" kết hợp với lượng từ "cái" đi trước hai chữ
"hồng nhan" càng làm nổi bật hơn thân phận người phụ nữ rẻ rúng và thương tâm. Hai
câu thơ đầu được tập trung giới thiệu một hoàn cảnh, đúng hơn là một tình cảnh mà ở
đó thông qua nghệ thuật đối lập để làm nổi bật tâm trạng của tác giả.

Trong hoàn cảnh tràn đầy nỗi niềm chua chát ấy, tác giả đành cất chén tiêu sầu giữa
đêm khuya thanh vắng. Nhưng tiếng trống cầm canh vẫn không thôi dồn dập như báo
hiệu thời gian đang gấp gáp, tàn phai. Càng uống rượu dường như tác giả càng tỉnh ra,
càng nhận thấy nỗi sầu trống trải đến vô biên. Vầng trăng trên đỉnh trời xa như minh
chứng cho tâm trạng nhà thơ cũng tràn đầy se sắt. Trăng và người, tất cả cứ chơi vơi,
hao khuyết, "say lại tỉnh" giữa ngổn ngang của sự thế trớ trêu: Chén rượu hương đưa
say lại tỉnh/Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.

Hai câu thơ tả thực hoàn cảnh cô đơn, ủ dột nên cũng buồn da diết như một tiếng thở
dài ngao ngán, xót xa cho tình cảnh bóng lẻ đơn côi trên con đường duyên phận của
nhà thơ. Nhưng vượt lên trên nỗi đau thân phận và sự trắc trở trong tình duyên, con
mắt nhìn đời của nữ sĩ vẫn cứ nồng nàn và tràn đầy khao khát. Dường như trong cảm
quan của Hồ Xuân Hương, sau mỗi lần thất bại ê chề về tình duyên, con mắt xuân tình
của nhà thơ vẫn cứ mong ngóng, trái tim vẫn cứ run rẩy đợi chờ một hơi ấm tình yêu.
Thế nên, cái cảnh hao khuyết của vầng trăng lẻ bóng, chén rượu buồn thương rồi cũng

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

vụt qua nhanh mà nhường chỗ cho những gì non tơ, rún rẩy xuân tình vẫn len lỏi mà
bừng thức cựa quậy trở dậy. Hai câu thơ luận được nhìn qua con mắt rạo rực của Xuân
Hương nên cảnh sắc hiện ra thật sống động: Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám/ Đâm
toạc chân mây đá mấy hòn.

Một phép đối rất chỉnh, bổ sung cho nhau làm nên một bức tranh thiên nhiên tràn đầy
sức sống. Phép đảo ngữ đã đưa các động từ mạnh lên đầu câu kết hợp với bổ ngữ đã
tạo nên một sắc thái khác thường. Từng đám rêu xanh tưởng chừng bé nhỏ, yếu ớt thế
mà giờ đây nó cũng biết "xiên ngang" để ngoi lên mặt đất mà sống trọn vẹn một cuộc
đời đúng nghĩa. Mấy hòn đá tưởng như vô tri vô giác đứng lặng lẽ bên trời kia giờ đây
cũng cựa quậy, muốn "đâm toạc" cả chân mây cho thoát kiếp tầm thường. Ô hay, đâu
phải cứ gì thiên nhiên, tất cả hành động quyết liệt ấy xuất phát từ cái nhìn rạo rực của
Xuân Hương cả đấy. "Thân này đâu đã chịu già tom" (Tự tình I), Xuân Hương nhất
quyết bứt phá, vươn dậy để khao khát đi tìm tình yêu chứ không chấp nhận cảnh
"Chén rượu hương đưa say lại tỉnh" quá ngao ngán, đơn điệu. Rõ ràng, trong hai câu 5
và 6, cảnh vật và tâm trạng con người cứ hô ứng, đồng điệu. Nhờ đó, chúng ta phát
hiện ra cái vẻ xuân tình nồng cháy của Hồ Xuân Hương qua bức tranh thiên nhiên sinh
động và tràn đầy sức sống, muốn vươn lên để thoát khỏi kiếp sống bé nhỏ, tầm thường.

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con

Xét về mặt nghệ thuật, có thể nói là Hồ Xuân Hương đã rất tuyệt bút ở hai câu thơ kết.
Từ ngôn ngữ đến giọng điệu và sự ngắt nhịp, tất cả đều hài hòa một cách tuyệt đối với
nội dung mà tác giả muốn biểu đạt. Thơ thất ngôn bát cú Đường luật thường hay ngắt
nhịp chẵn/lẻ (nhịp 4/3), nhưng ở đây cụ thể là câu cuối bài, tác giả sử dụng nhịp 2/2/1/2,
có cảm tưởng cứ ngắt đứt ra từng đoạn, đồng thời với giọng thơ đay nghiến, chua chát,
hình ảnh thơ tăng tiến (mảnh tình - san sẻ - tí - con con) đã diễn tả được tình cảnh đau
đớn, buồn thương của tâm hồn tác giả. Bi kịch về đời người với biết bao khát vọng tình
yêu và tuổi trẻ mãi mãi dừng lại phía bên kia rồi, giờ đây mỗi mùa xuân về càng chất
ngất nỗi muộn phiền không thể phôi pha.

Tự tình II của Hồ Xuân Hương là một bài thơ hay viết về nỗi niềm của người phụ nữ
trong xã hội phong kiến. Tâm trạng ấy chứa đựng cảm thức thời gian sớm tàn phai, úa
rụng của kiếp người trước cái vô thủy vô chung của vũ trụ. Cao hơn hết, đó còn là khát
vọng hiện sinh đầy nhân bản về tình yêu và hạnh phúc mà Hồ Xuân Hương là đại diện
tiêu biểu cho tiếng nói nữ quyền đầy bản lĩnh, giàu cá tính với một tiếng thơ đằm thắm,
ân tình. Nên đến bây giờ đọc bài thơ vẫn chứa chan cảm xúc…

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

(Bài viết của tác giả Lê Thành Văn)

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Đề bài: So sánh hình tượng người phụ nữ qua hai bài thơ “Tự tình II” của Hồ Xuân
Hương và “Thương vợ” của Trần Tế Xương

Bài làm

“Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” ( một con trai xem như có, mười con gái cũng
như không) Mới nghe qua hẳn ai trong chúng ta cũng không khỏi phê phán tư tưởng
lỗi thời, lạc hậu chứa đựng trong câu nói trên, bởi một lí do đơn giản, chúng ta đang
sống trong một xã hội công bằng bình đẳng.

Tuy nhiên, sẽ chẳng có gì đáng nói nếu đây là một xã hội phong kiến bất công, khi mà
quan niệm kia vẫn còn phổ biến rộng rãi. Đã sinh ra làm kiếp con người, ai mà không
phải trải qua những thăng trầm, sóng gió, ai mà không nếm qua những cay đắng trong
cuộc sống để rồi mới đạt được tới chân của hạnh phúc. Nhưng xưa kia, khi hạnh phúc
đối với người đàn ông bao la rộng lớn bao nhiêu thì với người phụ nữ, người vợ -
những người đã hết mình cống hiến cho gia đình, xã hội lại hạn hẹp và thu gọn bấy
nhiêu. Những nỗi thống khổ ấy đã có rất nhiều thi sĩ thấu hiểu. Họ gửi lòng cảm thông,
trân trọng, tiếc thương sâu sắc của mình qua nhiều tác phẩm và cũng đã rất khéo léo
khi xây dựng lên một hình ảnh người phụ nữa Việt Nam đảm đang, không những đẹp
về hình thức mà còn rất đẹp về tâm hồn, nhưng phải chịu cuộc đời long đong, lận đận,
vất vả, thân phận trôi nổi, bèo bọt với bao oan khiên trước sự vùi dập của xã hội phong
kiến.

Một trong những tác phẩm ấy hẳn phải kể tới “Tự tình (II) của nữ sĩ Hồ Xuân Hương
và “Thương vợ” của nhà thơ trào phúng Trần Tế Xương. Trong xã hội phong kiến thối
nát và hoang tàn, những người phụ nữ bé nhỏ không được coi trọng, cuộc đời thì long
đong lận đận, duyên tình trái ngang, có tài mà không được coi trọng (Hồ Xuân Hương),
hay cũng như việc làm của người vợ “bà Tú” ít được cảm thông dù cho quanh năm vất
vả. Họ như những con thiêu thân, những con thoi mải miết dệt hoa cho đời không
ngừng nghỉ để đổi lấy gì? Chả là gì cả? Họ chỉ đổi được nhiều thọt thòi , nhìu đau khổ
bế tắc cho chính mình.Họ cống hiến hết cho cuộc đời mà khồn hề đòi hỏi quyền lợi
ngoài tấm lòng cảm thông, chia sẻ và chút hạnh phúc riêng của mình:

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn.

Trơ cái hồng nhan với nước non”

Giữa đêm thanh vắng, tiếng trống canh vang lên, xa dần, xa dần, xa dần… để lại một
người phụ nữ ngồi quạnh hiu, đơn lẻ, khung cảnh ấy mới chua xót làm sao! Nửa đêm là
thời gian sum họp vợ chồng, là thời điểm của hạnh phúc lứa đôi. Vậy mà lại có 1 người

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

phụ nữ tỉnh dậy vào đúng thời khắc thiêng liêng ấy, hay vì cả đêm người phụ nữ ấy đã
không ngủ được. Vì thiếu vắng 1 điều gì đó, vì tâm trạng đang mang nặng một nỗi
niềm? Tiếng trống canh âm vang từ xa vọng lại như đang thúc giục thời gian qua mau,
gọi đến 1 điều vô cùng đáng sợ đối với 1 người đàn bà vẫn còn thân đơn gối chiếc: Tuổi
già - Tuổi già càng đến gần nghĩa là hi vọng càng tuột xa, mọi mong mỏi, khát khao
càng trở nên vô vọng. Tiếng trống dồn dập cứ xoáy vào tâm can tác giả, nó âm vang,
trong tâm tưởng, âm vang trong suy nghĩ, không tài nào dứt ra được. Dồn dập, hối hả,
tiếng trống không chỉ bao trùm lên không gian mà còn lên cả thời gian nữa, và ta tự hỏi,
đây có thật là tiếng trống hiện hữu trong đời sống thực tại hay phải chăng đó là tiếng
trống cất lên từ tấm lòng thổn thức của tác giả, tiếng trống ám ảnh về 1 bi kịch đang
ngày đến gần hơn với bà.

“Trơ cái hồng nhan với nước non”

Khi thời gian cứ lướt qua càng lúc càng dồn dập, thì cũng là lúc “cái hồng nhan" ngày
một “trơ” ra với đời. “Hồng nhan” là một từ dùng để chỉ nhan sắc, chỉ gương mặt xinh
đẹp của người phụ nữ. Đó là điều mà bất cứ người phụ nữ nào có được. cũng phải hết
sức tự hào, hết sức coi trọng và nâng niu. Nhưng từ “cái” gắn liền với “hồng nhan” như
một hòn đá kéo nặng cả câu thơ xuống, khi đập tan bao nhiêu niềm tự hào, bao nhiêu
trân trọng mà biến “hồng nhan” trở thành một thứ đồ vật tầm thường không hơn
không kém. Hồng nhan để làm gì khi nửa đêm phải tỉnh giấc, trong cái trống trải lạnh
lẽo đến đắng cay? Tác giả ý thức được nhan sắc của mình nhưng cũng ý thức được
những bất hạnh và chua xót mà mình đã, đang và sẽ phải nếm trải.

Hồng nhan để làm gì khi nó đâu phải là vĩnh cửu mà sẽ nhanh chóng vỡ tan theo từng
nhịp trống dồn.

Và khi nỗi đau lên đến đỉnh điểm, người phụ nữ sẽ trở nên “trơ” ra với “nước non”,
với cuộc đời. Từ “trơ” được đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh sự vô cảm, lạnh lùng,
thờ ơ trước những đớn đau đã trở nên quá quen thuộc. Còn gì đau xót hơn khi những
bất hạnh lại trở thành một điều gì đó rất thường tình, cứ đeo đẳng, bám lấy con người
ta và thậm chí khiến người ta trở nên nhàm chán, mất hết cảm xúc và trở nên trơ ra như
gỗ đá? Chưa hết, từ “trơ” trong câu thơ còn mang một nghĩa khác, một hàm ý cay đắng
và chua xót không kém: Trơ trọi. Tác giả nhận thấy mình không có gì cả, không có tình
yêu, không có hạnh phúc, chỉ đơn độc, lẻ loi một mình trong cuộc đời này.

Câu thơ như một lời đay nghiến, mỉa mai chính mình, có hồng nhan mà phải trơ ra
như thế. Thật đáng thương cho số phận của nhà thơ, đáng thương cho một kiếp người
tài hoa mà bất hạnh. Và cũng thật đáng thương cho những người phụ nữ đương thời bị

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

đè nén, áp bức với những hủ tục phong kiến đến mức xơ xác, héo mòn cả một phận
hồng nhan.

Nhưng, dù đáng thương, chua xót đến mức nào, chúng ta vẫn phải công nhận một
“bản lĩnh Xuân Hương” rất đáng nể phục trong hai câu thơ, khi mà “trơ” không chỉ là
một sự bẽ bàng hay vô cảm mà còn là thách thức. “Trơ” kết hợp với “nước non” và
“hồng nhan” đựoc xếp ngang tầm thiên nhiên vũ trụ đã cho ta thấy sự can đảm, dám
đương đầu với những gì lớn lao nhất, khó khăn nhất của bà. Đó quả thật là một ý chí
đáng nể phục, một bản lĩnh đáng ngưỡng mộ của Hồ Xuân Hương.

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xê khuyết chưa tròn”

Hồ Xuân Hương uống rượu mà như uống bao giọt sầu giọt tủi, như nuốt từng giọt
đắng giọt cay. Chén rượu là chén sầu mà người uống chẳng thể đổ đi đươc mà chỉ có
thể lặng lẽ, âm thầm nuốt vào cổ họng, để đau khổ cũng chẳng mất đi đâu mà lại trở lại
trong chính tâm trí mình. "Say lại tỉnh". Uống rượu có thể say, nhưng sau cơn say người
ta sẽ lại tỉnh. Những lần say và những cơn day ấy cư lối tiếp nhau thành một vòng tuần
hoàn nghiệt ngã của số phận. Cố say, cố quên, vậy mà lúc tỉnh dậy thì thấy bao nhiêu
dối trá, hững hờ của người đời vẫn còn đó, và nỗi đau khổ, bẽ bàng của mình cũng vẫn
còn nguyên. Và ta chợt nhớ một hình ảnh bẽ bàng. Tủi nhục của nàng kiều ngày nào:

“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh

Giật mình mình lại thương mình xót xa”

Trăng vốn là một biểu tượng của hạnh phúc, là hình ảnh đại diện cho cho những ước
mơ và hy vọng. Thế nhưng, hạnh phúc của Hồ Xuân Hương cũng như bao người phụ
nữ khác lại xót xa đến mức khuyết chưa tròn”, một hạnh phúc không hề trọn vẹn, một
cuộc đời còn dang dở với những éo le, trắc trở trong tình duyên. Hạnh phúc của bà chỉ
như vầng trăng khuyết mà bà không thể biết ngày mai trăng sẽ lại khuyết tiếp hay sẽ
tròn. Ánh trăng sáng mà lạnh lẽo vô cùng khi ẩn hiện trong nó một nỗi cô đơn, trống
vắng. Tuổi xuân của Xuân Hương đang dần mất đi mà tình duyên vẫn không được trọn
vẹn. Và sâu thẳm trong tâm trí bà, dù yếu ớt đến đâu vẫn luôn lóe lên một ánh lửa khát
khao, hy vọng, không chịu khuất phục mà muốn vùng lên thay đổi cuộc sống của mình.
Hai câu thơ tiếp theo đã nói lên điều ấy:

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn..”

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Bà không buông xuôi, không đầu hàng mà luôn cố gắng tìm cách để thay đổi vận
mệnh, cho dù những cố gắng đó mới chỉ dừng lại trong suy nghĩ. những uất hận ấy bị
đè nén, gò ép trong lòng bà đến không chịu nổi chỉ chực vỡ òa ra, bà khao khát muốn
đạp tung tất cả, muốn lật đổ mọi thứ, muốn tự do biết nhường nào. Nhưng dù sao, bà
vẫn chỉ là một người phụ nữ phong kiến, một thân phận nữ nhi cô độc, dù phá phách,
dù nổi loạn đến đâu thì tất cả vẫn chỉ kết thúc trong giới hạn ngôn từ. Bà không thể làm
gì hơn được nữa.... Thế nhưng , những vần thơ cuối bài lại là một mạch cảm xúc hoàn
toàn mới, nêu lên một chân lí mới dù cho vẫn còn chứa đựng biết bao đau thương:

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con ...”

Những khát khao, vùng vẫy, nổi loạn cuối cùng cũng đã bị dập tắt trong sự chán
chường, bất lực. Hồ Xuân Hương đã không thể vượt khỏi thân phận mình, vị thế nhỏ
nhoi cô độc của mình trong xã hội. Kết thúc bài thơ là một sự cam chịu được. thốt lên
trong một tiếng thở dài ngao ngán. Bà đã phát ngán, đã chán lắm rồi cái vòng xoáy luẩn
quẩn của số phận. Càng cố bao nhiêu thì càng thất bại bấy nhiêu, hi vọng càng nhiều thì
thất vọng càng lớn, càng chua xót. Bà chán ghét số phận hẩm hiu của mình, chán ghét
vòng tình duyên ngang trái luôn đeo đẳng, chán ghét hạnh phúc ít ỏi đến nỗi gần như
không tồn tại.

“Mảnh tình”, một cụm từ mang nặng nỗi trớ trêu của số phận. Tình yêu vốn là một
điều gì đó thật cao cả thiên nhiên, nhưng tình yêu của Hồ Xuân Hương lại như một
mảnh vỡ nhỏ bé được sẻ ra từ hạnh phúc của người khác. Tình yêu của bà rẻ mạt như
một sự bố thí, như một thứ đồ vật đã qua sử dụng người ta vứt lại cho bà. Đau xót biết
mấy, khi “mảnh tình” lại là một thứ được chia năm sẻ bảy mà bà chỉ được nhận duy
nhất một mảnh “tí con con”. Hạnh phúc ấy chẳng những không trọn vẹn mà còn nhỏ
bé, ít ỏi đến mức tội nghiệp. Tình duyên như thế thì có để làm gì, chỉ càng thêm tủi
nhục đắng cay.? Ấy thế mà, dù bị lãng quên, người phụ nữ không bao giờ tuyệt vọng,
đặt một dấu chấm hết cho cuộc đời mình. Họ vẫn vẫn khao khát sống mạnh mẽ, ước ao
hạnh phúc tròn đầy. Ý niệm ấy thật đáng trân trọng và cao đẹp làm sao!

Trải qua tác phẩm Tự tình 2 thấm đượm nỗi chua xót, đắng cay trong cuộc đời người
phụ nữ của Hồ Xuân Hương, có lẽ bài thơ : “Thương vợ” của Trần Tế Xương được coi
là chân dung hoàn chỉnh nhất về hình ảnh người phụ nữ VN trong xã hội phong kiến,
cam chịu số phận, vượt qua đắng cay để lo toan, gánh vác việc gia đình. Và phải nói
rằng, tình thương vợ sâu nặng của Trần Tế Xương thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả,
gian lao, và phẩm chất cao đẹp của người vợ:

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

"Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ 5 con với một chồng"

Ngày xưa, theo nho giáo, người phụ nữ có bổn phận thờ chồng, nuôi con. Nhưng thờ
chồng với bà bao hàm cả việc nuôi chồng, mặc dù đúng ra, người đàn ông là người trụ
cột trong gia đình về mọi mặt. Thương bà tú biết bao nhiêu khi bà xuất thân từ một gia
đình gia giáo, khá giả, khi ở với cha mẹ, bà không phải chịu cảnh một nắng 2 sương, vất
vả sớm hôm. Làm vợ ông Tú lận đận đường khoa thi cử, không nghề nghiệp nên bà
đành chấp nhận cảnh sống long đong, cơ cực, nuôi chồng, nuôi con.

“Quanh năm” là suốt cả năm, không trừ ngày nào dù mưa hay nắng, quanh năm còn là
năm này tiếp năm khác đến rã rời, mệt mỏi chứ đâu phải là 1 năm. Địa điểm bà tú buôn
bán là mom sông, như bối cảnh hiện lên hình ảnh bà tú tần tảo, tất bật ngược xuôi ,
không kể tới gian nan, nguy hiểm đang rình rập để nuôi đủ năm con với một chồng”.
Từ đó có thể thấy: cuộc sống vất vả, gian truân càng ngời lên phẩm chất cao đẹp của
người phụ nữ mà bà Tú là một ví dụ điển hình. Bà thực là người phụ nữ đảm đang,
tháo vát khi nuôi đủ cả con, cả chồng, đảm bảo đến mức:

“Cơm hai nửa”: Cá kho, rau muống

Quà một chiều: Khoai lang, lúc ngô”

(Thầy đồ dạy học)

Thế nhưng để đạt được những điều đó, bà tú đã phải cố gắng, phải lo rất nhiều, làm rất
nhiều, nhẫn nhịn cũng rất nhiều:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Thấm thía nỗi gian lao của vợ, Tú Xương mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về
bà Tú đầy tội nghiệp, không biết tự lúc nào đã hoá thành thân cò để lặn lội nơi sông
nước, eo sèo nơi quãng vắng thưa người, gợi lên một nỗi đau thân phận không riêng
của bà Tú mà là của biết bao người phụ nữ trong xã hội đương thời.

Trong ca dao người mẹ từng dặn con:

“Con ơi nhớ lấy câu này,

Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua”

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

“Buổi đò đông” không chỉ có lời phàn nàn, cáu gắt, những sự chen lấn xô đẩy mà còn
chứa đựng đầy bất trắc hiểm nguy. Tất cả đó đã làm nổi bật lên hình ảnh bà Tú đã vất
vả, đơn chiếc lại thêm sự bươn chải trong làm ăn. Vậy mà bà chẳng dám buông lấy một
lời kể lể, thở than:

“Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công”

Như vậy có thể nói bà Tú đã chấp nhận, đã thuận theo lòng trời, hay nói đúng hơn,
buộc phải chấp nhận, thuận theo lòng người, bởi lẽ bà là người phụ nữ đảm đang,
nhưng cũng rất mực thuỷ chung. Bà châp nhận cuộc hôn nhân duyên nợ này, cũng như
chấp nhận một ông đồ nho ngông:

“Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”

Và bà cũng đã chấp nhận nuôi chồng, nuôi con.

Còn nhà thơ thì chỉ biết tự trách mình:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không”

Ở cái thời mà xã hội đã có luật không thành văn bản đối với người phụ nữ “xuất giá
tòng phu” (lấy chồng theo chồng), đối với mối quan hệ vợ chồng thì “phụ xương, phụ
tùy” (chồng nói vợ theo), thế mà có 1 nhà nho giám sòng phẳng với bản thân, với cuộc
đời, dám tự nhận mình là “quân ăn lương vợ”, “ăn ở bạc”. Không những đã biết nhận
ra thiếu sót mà còn dám tự nhận khuyết điểm. Một con người như thế chẳng đẹp lắm
hay sao?

Như vậy, nói rằng bà Tú là hình ảnh rõ ràng nhất cho người phụ nữ trong xã hội VN
đương thời quả không sai, bởi lẽ thân phận người phụ nữ giai đoạn này là sự éo le, trắc
trở, khổ cực nhưng không có lấy một sự cảm thông, chia sẻ từ chồng, từ con.

Ta thấy, 2 bài thơ trên thật là những vần thơ đáng quý của Văn Học VN trung đại. Qua
những vần thơ ấy, hình ảnh người phụ nữ VN xưa kia hiện lên thật rõ nét, thật đẹp đẽ,
cao quí nhưng chứa đựng đầy chua xót, đắng cay. Tất cả đều nói chung về thân phận bé
nhỏ, số phận chìm nổi, bèo bọt, bị lệ thuộc vào XH của người phụ nữ xưa kia. Phải nói,
Hồ Xuân Hương va Trần Tế Xương đã đóng góp không nhỏ vào tiếng nói, tiếng khóc
chung để đòi quyền sống, quyền tự do, hạnh phúc cho 1 nửa nhân lọai, những con
người gánh vác trọng trách duy sự sống loài người trên trái đất.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Từ đó, ta có thể khẳng định rằng: vai trò, vị thế của nguời phụ nữ XH ngày càng nâng
cao và có đóng góp ngày 1 lớn cho sự phát triển chung trên mọi lĩnh vực. Song, không
phải đến bây giờ, giá trị người phụ nữ mới được bộc lộ và tỏa sáng. Nếu nhìn xuyên
suốt chiều dài lịch sử dân tộc, ngay cả trong những thời kì đen tối của chế độ phong
kiến trọng nam khinh nữ, người phụ nữ cả 1 đời bị ràng buộc bởi biết bao lễ giáo và
định kiến khắc nghiệt, họ vẫn là những viên ngọc sáng lấp lánh trong con mắt dân gian.

Đề bài: Phân tích bài thơ “Tự tình II” của Hồ Xuân Hương

Bài làm

Văn học không thể đi mãi trên ngọn cây cũng giống như con người không thể cứ lúc
nào cũng nghển cổ để hướng về những thứ tốt đẹp, tráng lệ nhưng lại không có thực tại
trần thế. Nói một cách đơn giản thì văn học sẽ chẳng bao giờ xa rời được cuộc sống vì
chỉ khi đối diện với chính cuộc sống ấy ta mới thấy những hiện thực bất công đến bẽ
bàng của số phận con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội phong kiến đương
thời. Và dường như chưa bao giờ họ lại được cảm thông, chia sẻ nhiều đến thế, đúng
như Nadimetlicmet đã từng nói rằng: “Con hãy lắng nghe nỗi buồn của cành cây héo
khô, của chim muông què quặt, của hành tinh lạnh ngắt. Nhưng trước hết con hãy lắng
nghe nỗi buồn của con người.” Phải chăng ta đã từng xót thương cho một nàng Kiều
gian truân, phải chăng ta đã từng phẫn uất cho một Vũ Nương bất hạnh,… Nhưng khi
đến với Hồ Xuân Hương, qua bài thơ “Tự tình II” do bà sáng tác và viết về chính cuộc
đời của bà thì niềm xót thương ấy lại càng thêm phần xót thương, sự phận uất ấy lại
càng thêm phần phẫn uất bởi lẽ số phận người đàn bà được mệnh danh là “Bà chúa thơ
Nôm” của dân tộc sao mà éo le, ngang trái đến vậy:

“Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

(Truyện Kiều_Nguyễn Du)

Thi phẩm “Tự tình II” nằm trong chùm thơ “Tự tình” gồm ba bài được viết bằng chữ
Nôm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Nhan đề bài thơ đã giúp ta phần nào hiểu
được nỗi niềm của Hồ Xuân Hương, tự tình là tự bộc lộ, giãi bày tâm trạng hay chính là
sự hé mở những nỗi lòng khó nói và dường như bà không chỉ nói cho riêng mình mà
còn nói cho cả biết bao số phận hẩm hiu người phụ nữ trong xã hội phong kiến luôn
khát vọng được sống, được hạnh phúc và yêu thương đến từ họ.

Mở đầu bài thơ gợi lên cho độc giả nỗi niềm cô đơn buồn tủi giữa đêm khuya thanh
vắng của một tâm hồn đa sầu, đa cảm khiến ta không khỏi xót thương:

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non”

Khi màn đêm buông xuống chính là lúc con người ta được nghỉ ngơi, đoàn viên bên gia
đình, bỏ lại sau lưng biết bao lo toan, bộn bề của cuộc sống để cùng nhau chìm sâu vào
giấc ngủ ấm êm. Nhưng cũng chính lúc này, vẫn còn một người phụ nữ đang bơ vơ
giữa cái vô thủy, vô chung của không gian, của thời gian. Đêm nay hẳn cũng như bao
đêm khác, người phụ nữa ấy có bao giờ hết lẻ loi một mình đâu? Cái không gian tĩnh
lặng đến đáng sợ, không còn tiếng ồn ào láo nhiệt mà chỉ còn tiếng trống canh dồn hối
hả, giục giã như muốn đớp lấy thời gian, tàn phá không gian vậy. Tiếng trống canh đâu
có bình thường mà nó còn “văng vẳng” giữa không gian yên tĩnh, cái mô tip “văng
vẳng” dù có đùa vui đi chăng nữa nhưng cũng đầy não lòng: “Văng vẳng tai nghe tiếng
khóc gì” (Dỗ người đàn bà chồng chết) còn đến với “Tự tình II” thì nó lại não lòng gấp
bội. Tiếng trống “dồn” là một đặc sắc nghệ thuật được Hồ Xuân Hương khéo léo sử
dụng, tiếng trống canh thường được đánh một lần để điểm qua mỗi canh giờ vậy cớ sao
thi nhân lại cảm nhận nó một cách hối hả, giục giã đến thế? Dường như bà không nghe
được âm thanh tiếng trống ấy, tiếng trống mà bà nghe thấy đang được phát ra từ một
không gian hoàn toàn tách biệt với thế giới thực tại và nó vẫn luôn dồn dập trong lòng
bà như một tiếng lòng rạo rực muốn cất lên tiếng nói bất bình trước thời đại, nó còn là
bước đi hối hả của thời gian, là tâm trạng bức bối, rối bời của nhân vật trữ tình trong
tuyệt vọng. Tưởng rằng thủ pháp lấy động tả tĩnh sẽ giúp bức tranh thấm đượm nỗi
buồn trở nên vui tươi nhưng hóa ra chỉ làm mọi thứ đắm chìm vào nỗi ngao ngán trong
đêm chường, để rồi chỉ biết tự trách chính mình sao để thời gian tuổi xuân qua nhanh
đến vậy. Và khi mối tơ lòng không thể gỡ nhưng thời gian vẫn không ngừng trôi thì chỉ
còn đọng lại trong người phụ nữ là sự bất lực đến bẽ bàng mà thôi:

“Trơ cái hồng nhan với nước non”

Từ “trơ” được đảo lên đầu câu kết hợp nhịp thơ 1/3/3 bất thường như khắc sâu thêm
vào cái sự bẽ bàng. “Trơ” là tủi hổ, là trơ trụi, thêm vào đó là cách kết hợp từ độc đáo
hai từ “hồng nhan” vốn chỉ nhan sắc của người phụ nữ nay lại đi cùng từ “cái” nghe
mới rẻ rúng, mỉa mai biết nhường nào. Cái hồng nhan trơ với nước non không chỉ gợi
sự dãi dầu mà hơn thế là sự cay đắng cho số phận, câu thơ như chì chiết, mỗi lúc một
khơi sâu vào nỗi đau khôn tả, nó làm ta nhớ đến tâm trạng Thúy Kiều khi bị bỏ rơi
không chút đoái hoài:

“Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ”

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Nghệ thuật đối giữa “cái hồng nhan” với “nước non”, giữa thân phận nhỏ bé với tầm
vóc không gian lớn lao, bỏ lại nỗi đau phía sau là nỗi đau đớn thân phận, Hồ Xuân
Hương như muốn thách thức, bền gan, đối chọi với xã hội phong kiến hà khắc:

“Giơ tay với thử trời cao thấp

Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài”

Khi nỗi buồn đã thấm đến tận tâm can thì con người cũng chỉ biết mượn rượu giải sầu
và Hồ Xuân Hương cũng vậy, nhưng liệu rượu có giúp người phụ nữ ấy quên đi tất cả:

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”

Khi xưa Thúy Kiều rơi vào lầu xanh cũng uống rượu thâu đêm suốt sáng và rồi khi tỉnh
dậy thì cũng chỉ biết “Giật mình mình lại thương mình xót xa” còn sau này ta lại bắt
gặp Chí Phèo, khi gã tìm đến men rượu để quên đi tất cả nỗi đau của cuộc sống nhưng
rồi khi hắn tỉnh rượu thì lại càng thấm thía, càng thấy rõ cuộc đời mình bất hạnh là do
đâu, càng thấy rõ mình chẳng thể quay lại làm người lương thiện được nữa… Có lẽ Hồ
Xuân Hương cũng vậy, người phụ nữ ấy say để quên đi nỗi sầu nhưng uống rồi thì
thấm thía nỗi đau đến tột cùng. Từ “lại” hiện lên như một vòng luẩn quẩn mà thi nhân
mãi không thoát ra được, say rồi lại tỉnh mau như cuộc tình đến rồi cũng tan mau vậy.
Hương rượu khi ấy để lại vị đắng chát, hương tình khi ấy chỉ còn thoáng qua như trò
đùa của tạo hóa. Hồ Xuân Hương xinh đẹp thật đấy, tài giỏi thật đấy nhưng “Có tài mà
cậy chi tài/ Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Cuộc đời của người lấy chồng muộn, hai
lần làm lẽ rồi cũng hai lần góa bụa, suốt đời sống trong cảnh đơn côi, cuộc đời ấy đã
bao giờ được hưởng hạnh phúc trọn vẹn đâu, đã bao giờ có cho mình vầng trăng viên
mãn đâu, cho nên vầng trăng hạnh phúc đó chưa bao giờ thuộc về Hồ Xuân Hương, nó
chỉ có thể là trăng khuyết, trăng xế mà thôi:

“Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”

“Vâng trăng bóng xế” là bước đi của thời gian , ẩn dụ cho chính cuộc đời cả bà đã đi
qua tuổi xuân tươi đẹp. Vầng trăng phi logic như muốn nhận mạnh nỗi buồn duyên
phận hẩm hiu vẫn luôn mong chờ tình yêu đến với mình và cũng chính vâng trăng phi
logic ấy là nguồn cảm hứng để sau này thi sĩ Phi Tuyết Ba từng có bài thơ tuyệt bút:

“Anh ngỏ lời yêu em

Vào một đêm trăng khuyết

Bằng tình yêu tha thiết

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Biết tròn trước đêm rằm.

Em vui lúc trăng tròn

Chạnh lòng khi trăng khuyết

Anh ơi anh có biết

Trăng như tình lứa đôi

Sao anh vội ngỏ lời

Vào một đêm trăng khuyết

Để bây giờ thầm tiếc

Một vầng trăng chưa tròn.”

(Trăng khuyết)

Vầng trăng tuy đẹp đến bao nhiêu nhưng rồi “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Hai câu thực khép lại đã hé mở thân phận, cuộc đời người nữ sĩ, với nghệ thuật tiểu đối
đã giúp Hồ Xuân Hương bày tỏ nỗi xót xa, cay đắng cho thân phận dở dang, tình
duyên lỡ làng ngang trái.

Tản Đà từng nhận xét thơ của Hồ Xuân Hương rằng: “Trong thơ Hồ Xuân Hương có
quỷ” bởi lẽ mọi sự vật trong thơ bà lúc nào cũng cựa quậy, căng đầy sức sống:

“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”

Dưới ngòi bút tài hoa của nữ sĩ họ Hồ, những sự vật hèn mọn như đám rêu kia vẫn
không chịu nhỏ bé, những viên đá vô tri vô giác cũng không chịu đứng yên. Biện pháp
nghệ thuật đảo ngữ kết hợp động tự mạnh “xiên ngang”, “đâm toạc” cho ta thấy những
hoạt động dữ dội, phá phách, ngang ngạch và bướng bỉnh. Không phải “xiên thẳng”
mà phải là “xiên ngang”, chẳng phải “đâm rách” mà cứ là “đâm toạc” đó là cách dùng
từ rất “Xuân Hương”. Hai câu luận như nói lên chính tính cách của bà vậy, chẳng bao
giờ tuân theo lễ giáo, ngang ngạch, bướng bỉnh, dù ở hoàn bi thảm nhất nhưng trong
người phụ nữ ấy vẫn luôn ẩn chứa mạnh mẽ một sức sống, một khát khao đến cháy
bỏng:

“Ví đây đổi phận làm trai được

Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Say đến đâu rồi cũng phải tỉnh, ngày dài đến mấy thì cũng sang đêm, “xuân xanh” biết
bao vẫn phải úa tàn và ngang ngạch nhường cũng phải chịu thua trước cái xã hội
phong kiến mục nát “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng”:

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con”

“Ngán” là chán ngán, là ngán ngẩm. Hồ Xuân Hương ngán lắm rồi nỗi đời éo le bạc bẽo
bởi xuân cứ đi rồi xuân lại lại như một vòng luẩn quẩn. Từ “xuân” vừa dùng để chỉ
mùa xuân, vừa được dùng với nghĩa chỉ tuổi xuân. Mùa xuân đi rồi mùa xuân trở lại
với thiên nhiên, với đất trời:

“Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua, sân trước một nhành mai”

(Cáo tật thị chúng)

nhưng với con người thì tuổi xuân qua đi sẽ không bao giờ quay lại nữa. Trong cụm từ
“xuân lại lại” cũng mang hai nghĩa khác nhau, từ “lại” thứ nhất là thêm một lần nữa, từ
“lại” thứ hai nghĩa là trở lại. Mùa xuân thì trở lại nhưng tuổi xuân lại qua đi, qua đi mãi
không ngưng đó chính là cái gốc sâu xa của sự chán ngán đến khôn nguôi của nữ sĩ đa
sầu đa cảm. Thời gian vẫn luôn là thế lực nghịch đối với cuộc sống con người đặc biệt là
tuổi trẻ và tình yêu, nhiều khi chính bà dám thách thức nó để nở nụ cười chiến thắng
“Thân này đâu đã chịu già tom” nhưng rồi đành phải thừa nhận một thực tế phũ phàng
rằng: “Ngán lỗi xuân đi xuân lại lại”, cảm nhận của bà làm ta nhớ câu thơ của Nguyễn
Khuyến:

“Ngày xuân tuổi hạc càng cao

Non xanh nước biếc càng ngao ngán lòng”

Trong câu thơ cuối, nghệ thuật tăng tiến được Hồ Xuân Hương sử dụng khéo léo làm
cho nghịch cảnh của nhân vật trữ tình càng éo le hơn: mảnh tình – san sẻ - tí – con con.
Ở đây không còn là “Khối tình cọ mãi với non sông” mà là “mảnh tình”. “Mảnh tình”
vốn đã ít ỏi, đã nhỏ bé, đã không còn trọn vẹn nay lại còn phải sẻ ra mà chia, mà đong,
mà đếm gần như không còn lại gì cả (tí con con). Phải chăng đó chính là nỗi lòng của
người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, khi với họ, hạnh phúc chỉ là một chiếc chăn
quá nhỏ:

“Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.

Năm thì mười hoạ hay chăng chớ,

Một tháng đôi lần có cũng không.”

(Lấy chồng chung)

Nếu như đương thời chỉ có một Phạm Thái tài hoa mà ngang tàn, ngang tàn mà chân
thực, chân thực mà ngông nghênh, bảo thủ hay một Tố Như “lời văn tả ra hình như
máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy”, một Tố Như “có con mắt trọng
thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời” và đương nhiên cũng chỉ có một Hồ
Xuân Hương “học rộng mà thuần thục, dùng chữ ít mà đầy đủ, từ mới lạ mà đẹp đẽ,
thơ đúng phép mà văn hóa” khiến cho thi phẩm trường tồn cùng năm tháng cũng như
chẳng bao giờ mất đi cái giá trị nhân đạo cao đẹp của nó.

Xuyên suốt trong bài thơ Tự tình (II) là tâm trạng, thái độ của Hồ Xuân Hương vừa đau
buồn, vừa phẫn uất trước duyên phận, gắng gượng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch.
Trước sự trớ trêu của số phận, người phụ nữ luôn khát khao hạnh phúc, vẫn muốn
cưỡng lại sự nghiệt ngã do tạo hóa trêu ngươi, đồng thời qua bài thơ cho ta thấy tài
năng độc đáo của “Bà chúa thơ Nôm” trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ và hình tượng
nhân vật.

(Bài viết của Page Thích Văn Học)

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Đề bài: Phân tích “Tự tình II” của Hồ Xuân Hương

Bài làm

Nhà phê bình văn học Hegel đã từng nói: “Thi ca là thứ nghệ thuật chung của tâm hồn
đã trở nên tự do, không bó buộc vào nhận thức giác quan vê vật chất bên ngoài. Thay vì
thế nó diễn ra riêng tư trong không gian bên trong và thời gian bên trong của tác giả và
cảm xúc”. Đúng, văn chương đích thực phải là thứ văn chương “chín đủ cảm xúc”
(Xuân Diệu), cũng là thứ văn khi đọc lên mà ta như thấy được cả thế giới tâm hồn, tình
cảm của người cầm bút, nhất định phải là thứ văn mà sau khi gấp lại, người ta vẫn bâng
khuâng mãi khôn nguôi. Tự Tình II của Hồ Xuân Hương là một kiểu văn như thế. Nó
khiến ta xúc động nghẹn ngào trước những tâm sự cay đắng của người phụ nữ Việt
Nam thời phong kiến, đồng thời trân trọng vẻ đẹp và khát vọng sống của họ.

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non

Chén rượu hương đưa say lại tình

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn

Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đã mấy hòn

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại Mảnh tình san sẻ tí con con”

Nửa đầu bài thơ là khoảng thời gian nghệ thuật “Đêm khuya”, khoảng thời gian
thường gợi buồn nhất. Trong ca dao xưa, đêm khuya và chiều tà là lúc những làn sóng
cảm xúc cuộn lên trong lòng người con xa xứ:

“ Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”

Dịch bánh xe thời gian qua mảng văn học trung đại, khoảng thời gian này cũng xuất
hiện khá nhiều tác phẩm văn học

“Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn

Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn”

(Bà Huyện Thanh Quan)

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Dường như, trời chiều là lúc dòng tâm sự đọng lại, bước chân của đêm tối nặng nề
chậm chạp khiến cho lòng người nặng trĩu. Đây cũng là lúc người vợ lẽ hay người góa
phụ cảm nhận sâu sắc và thấm thía nhất nỗi bất hạnh cô đơ. Từng tiếng trống dồn dập,
thúc giục, guồng quay thời gian cứ tiếp tục trôi đi mà nào có đợi chờ gì tuổi xuân của
một người phụ nữ vân khao khát hạnh phúc lứa đôi nhưng sớm phải chịu cảnh chăn
đơn gối chiếc.

Âm thanh tiếng trống lại “văng vẳng”, một thứ thanh âm hết sức mờ nhạt, mơ hồ, từ xa
dội vào tâm hồn người phụ nữ. Quả thật, âm thanh từ xa nên mờ nhạt hay chính tâm
hồn người phụ nữ đang xao động mải mê tìm kiếm một thứ phù du xa xôi nên thanh
âm của tiếng trống nhạt mờ thoáng qua như một làn gió nhẹ.

Hồng nhan là một người con gái đẹp, nhưng “cái hồng nhan” gợi cho ta liên tưởng tới
một vật vô tri vô giác. “Trơ cái hồng nhan”, cụm từ trần trụi, thô mộc gợi ra bóng hình
người con gái đẹpnhưng tâm hồn lại quá chai sạn mọi cảm xúc, cảm giác. Đặt “hồng
nhan” bên cạnh “nước non” ta đã phần nào thấy được sự đối lập giữa một bên nhỏ bé,
một bên rộng lớn, một bên yếu ớt, một bên bao phủ choán ngợp khắp bốn phương. Tuy
nhiên, sự đối lập ở đây không những không làm cho hình ảnh hồng nhan bị che khuất,
bị lu mờ mà trái lại càng tô đậm cho mối sầu vạn kỉ, mệt mỏi, cô độc thấu tận tim gan.

Trong hoàn cảnh khổ đau, kiếp người đó tưởng như đã hóa đá nhưng không, thẩm sâu
trong trái tim con người ấy là một tâm trạng bồn chồn không yên:

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”

Tìm đến rượu để quên đi nỗi đau nhưng trớ trêu thay, càng uống, nỗi đau càng thấm
thía, càng khắc sâu vào trong trái tim mong manh, yếu đuối. Say lại tỉnh, tỉnh lại say,
quá trình diễn ra lặp đi lặp lại như một vòng tuần hoàn. Cuộc đời người phụ nữ chỉ
chìm đắm trong chuỗi ngày tẻ nhạt cùng với tâm trạng u uất. Chợt ta nhớ đến nàng
Thúy Kiều đáng thương, nàng cũng từng bị giam cầm trong chuỗi thời gian vô vị đó:

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”

Hai con người ấy, hai thân phận khác nhau nhưng cùng chung một số phận, một hoàn
cảnh, eo le đáng thương làm sao. Hình ảnh “vầng trăng bóng xế” có lẽ là một hình ảnh
ẩn dụ hơn là một hình ảnh tả thực. Trăng xế bóng hay cũng là cuộc đời người phụ nữ
đã ngả chiều. Trăng thường gợi kỉ niệm, gợi sự tròn đầy viên mãn của hạnh phúc lứa

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

đôi, bao cuộc tình thủy chung nồng thắm cũng diễn ra dưới ánh trăng, nhờ vầng trăng
chứng giám:

“Vầng trăng vằng vặc giữa trời

Đinh ninh hai miệng một lời song song”

Nhưng giờ đây, ánh trăng sắp tàn như cuộc tình dang dở của người phụ nữ đã đến hồi
dang dở…Nhưng Xuân Hương là thế, một người phụ nữ không bao giờ chịu thua hoàn
cảnh, luôn tìm cho mình một lối đi khác người, rất ngông, rất lạ đó, làm sao có thể để
nỗi đau lấn át lí trí, tâm hồn? Trong tột cùng của khổ đau, cô độc, nữ sĩ vẫn tin ở chính
mình, tìm thấy nguồn sức mạnh lớn lao để làm động lực:

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”

Đưa con mắt lạc lõng ngắm nhìn mọi vật xung quanh, nhân vật trữ tình thấy “rêu từng
đám” đang xiên ngang mặt đất, “đá” đang đâm toạc chân mây. “Xiên ngang, đâm toạc”
là những động từ rất mạnh, cùng nghệ thuật đảo ngữ được sử dụng rất đắt đã diễn tả
được sưc mạnh của sự sinh tồn trong những vật nhỏ bé, đơn sơ. Màu xanh non của rêu
hiện diện trên sắc màu xám xịt của đất như khẳng định sức sống mãnh liệt của rêu.
Không những thế, nó còn như biểu hiện của một tia hy vọng nhỏ bé nhưng hết sức thiết
tha thoát khỏi xã hội đương thời phàm tục, dơ bẩn, cũng chính là thoát khỏi kiếp sống
cô độc, lẻ loi như đang bóp nghẹt tuổi xuân của người phụ nữ.

Những hòn đá rắn rỏi chen vào khung trời rộng lớn nhưng trống trải cũng dủ làm
khung cảnh trở nên sinh động hơn bao giờ hết. Chỉ với hai hình ảnh giản dị, nhỏ bé
nhưng nữ sĩ đã đưa người đọc từ sự xót xa trước những khổ đau của người phụ nữ
sang trân trọng sữ mạnh tinh thần, vẻ đẹp tính cách của họ. Đo cũng chính là một trong
những nét độc đáo tạo nên cái “ngông” trong thơ của Hồ Xuân Hương. Tạo cho người
đọc cảm giác mạnh, bất ngờ, đúng là chỉ có được trong nữ sĩ có một không hai của văn
học Việt Nam.

Hai câu thơ cuối cùng:

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con

Nhưng cho dù có thể hiện mình mạnh mẽ và đầy niềm tin như thế nào nhưng người
phụ nữu vẫn không thể phủ nhận hiện thực khắc nghiệt. Hai câu cuối cùng cất lên như
một tiếng thở dài đày chua xót, đắng cay, ngán ngẩm về kiếp sống của một kiếp hồng

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

nhan bị giam cầm trong hai từ “định mệnh”. Tuổi xuân- nhan sắc, hai thứ một khi đã ra
đi thì không bao giờ có thể quay lại. Mùa xuân của thiên nhiên đất trời như đã được lập
trình để quay trong một vòng tuần hoàn không có điểm kết thúc, nhưng trớ trêu thay,
mùa xuân của đời người lại hữu hạn, xuân năm ngoái có thể là sự cách biệt với xuân
năm nay. Chính vì vậy, mỗi mùa xuân đi qua, người phụ nữ lại càng một héo hon, già
nua trong sự vui tươi, hồi sinh của đất trời. Qua đây ta cũng thấy được ý thức của con
người về bản thân mình với tư cách cá nhân, có ý thức về giá trị của tuổi thanh xuân và
sự sống.

Mảnh tình có ý diễn tả chút tình cảm nhỏ nhoi nhưng ở đây lại phải san sẻ, cuối cùng
chỉ còn lại là tí con con không đáng kể. Đọc câu thơ, ta thấy thâm trong từng câu chữ la
tâm trạng xót xa cảu một người phụ nữ tài hoa bạc mệnh Hồ Xuân Hương. Cuộc đời
của người phụ nữ ấy là một chuỗi những đắng cay tủi nhục, là cuộc đời của những
dòng nước mặt lăn dài: qua hai lần đò đều không viên mãn. Làm lẽ ông Tổng Cóc, sau
đó là ông phủ Vĩnh Tường nhưng cả hai lần, người phụ nữ bất hạnh này đều không có
được hạnh phúc tương xứng.

Nhưng ẩn sâu trong từng câu chữ không phải là một sự tuyệt vọng, đau xót, càng
không phải bởi vì đó chính là Hồ Xuân Hương- người phụ nữ mạnh mẽ, bản lĩnh, có đủ
dũng cảm để đương đầu lại với cả hiện thực phong kiến, cả những quy tắc lễ giáo ràng
buộc. Ta như thấy những tia hy vọng tuy nhỏ bé nhưng hết sức mạnh mẽ, có cơ sở: thi
sĩ vẫn muốn tiếp tục đem san sẻ với mong ước chân thành đẻ cho nhân tình thế thái đỡ
xanh như lá, bạc như vôi.

Bài thơ “Tự tình” không những thành công trên phương diện nội dung mà ở phương
diện nghệ thuật cũng đạt được những thành tựu đáng kể. Cách sử dụng từ ngữ cảu Hồ
Xuân Hương hết sức giản dị, giàu sức biểu cảm, táo bạo nhưng cũng không kém phần
tinh tế. Cách sử dụng từ ngữ cũng góp phần tạo nên tính đa thanh của tác phẩm: khi thì
tủi hổ phiền muộn, lúc phản kháng bực dọc, khi lại chua chát chán chường nhưng vẫn
ánh lên niềm lạc quan hy vọng. Ngoài ra tác giả còn sử dụng những vế tiểu đối như
“hồng nhan” – “nước non” hay phép tăng tiến,… Với những nét đặc sắc về nghệ thuật
ấy, Hồ Xuân Hương đã góp phần hoàn thiện một tiếng thơ hết sức táo bạo, mới lạ cho
nền văn học trung đại Việt Nam.

Cùng với “ Tự tình II”, Hồ Xuân Hương còn đóng góp rất nhiều tác phẩm khác vào nền
văn học trung đại như “Bánh trôi nước”, “Cảnh làm lẽ”, “Quả mít”,… Nhưng dù viết
về đối tượng nào thì cuối cùng điều mà nữ sĩ muốn phản ánh là số phận, cuộc đời cùng
với tài năng và tính cách của người phụ nữu trongn xã hội phong kiến. Ngoài ra bà còn
chĩa thẳng ngòi bút của mình vào cả một bộ máy phong kiến cổ hu, lạc hậu, ràng buộc

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

moi quyền sống, quyền hạnh phúc của người phụ nữ bằng một thái độ mạnh mẽ, cứng
rắn đậm chất “ngông” của bà, điều này lại một lần nữa tô đậm dấu ấn rất riêng trong
phong cách nghệ thuật Hồ Xuân Hương lên văn đàn Việt Nam.

*Nhận định hay dùng cho thi sĩ Hồ Xuân Hương và bài thơ “Tự tình II”

1. “Họ ném cả trái tim của họ, ném cả cuộc đời của họ vào cuộc đời cũng như những
nhà trữ tình vĩ đại trong xã hội cũ, thơ của họ là máu và nước mắt mặc cái áo trào
phúng đó thôi” (Xuân Diệu)

2. Xuân Diệu khi nói về Bà đã cho rằng Hồ Xuân Hương “Tài thật, bạo gan thật”

3. “Bà chúa thơ Nôm” (Xuân Diệu)

4. “Trong thơ Hồ Xuân Hương có quỷ” (Tản Đà)

5. Thơ Nôm của Hồ Xuân Hương đã khẳng định rất rõ, vì thế mà thơ của Bà rất tinh tế,
sáng tạo cả nội dung lẫn hình thức, không gò bó mà luôn luôn khoáng đạt. Nhiều nhà
nghiên cứu từ trước cho đến nay coi Bà là “võ lâm cao thủ ngữ ngôn”, và theo Xuân
Diệu: “Bà chúa của động từ, âm thanh, màu sắc, ngay cả chữ nghĩa Bà cũng vặn chéo”

6. Xuân Diệu đã nhận định: “Hồ Xuân Hương ra cái gương mẫu hoàn toàn nhất về việc
dân tộc hóa và đại chúng hóa những điệu thơ vay mượn của nước ngoài”

7. Nhà thơ Pháp Jăng Rixtat – một nhà thơ có tên tuổi ở Châu Âu gần đây trong bài tựa
bản dịch thơ Hồ Xuân Hương sang tiếng Pháp, đã coi Hồ Xuân Hương là: “…một trong
những tên tuổi lớn nhất của văn học Việt Nam và không chút nghi ngờ, là một trong
những nữ sĩ hàng đầu của châu Á, …”

8. Lê Trí Viễn có viết: “Thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói tâm tình của người phụ nữ, thể
hiện một bản lĩnh sống mạnh mẽ khác thường

9. Thi sĩ Dimitrova người Bulgaria ca ngợi bà: “Hồ Xuân Hương là một trong những
hiện tượng văn học độc đáo nhất của Việt Nam trong toàn bộ nguồn thơ mà tôi được
biết trên nền thơ thế giới qua tất cả các thời đại.”

10. Tốn Phong viết: “Tứ thơ dồi dào nhưng vẫn tỏ ra vui mà không buông tuồng; buồn
mà không đau thương; khốn khổ mà không lo phiền; cùng mà không bức bách. Thật là
do tính tình nghiêm chỉnh mà ra. Cho nên, khi hát lên, ngâm lên những lời thơ ấy, thì
tay cứ muốn múa, châm cứ muốn dậm mà không tự biết. Lưu Hương Ký tuy đầy vẻ
gió, mây, trăng, móc, nhưng đều tự đáy lòng mà phát ra, biểu hiện thành lời nói, lại
cũng đều đúng với cái ý trên kia là xuất phát từ mối tình mà biết dừng lại trên ân
nghĩa.”

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

11.Tốn Phong đã dẫn lời khen của Cư Ðình: “Cổ Nguyệt Ðường Xuân Hương học rộng
mà thuần thục, dùng chữ ít mà đầy đủ, từ mới lạ mà đẹp đẽ, thơ đúng phép mà văn
hoa. Thức là một bậc tài nữ.”

12. GS Hoàng Xuân Hãn nhận xét:

Một người thẩm phán về mặt hình thức văn thái (Cư Ðình), một người xét về mặt ý tứ
văn (Tốn Phong). Cả hai lời phẩm bình đều đúng. Riêng về mặt thơ Nôm, ta nhận thấy
có kỹ thuật chắc, lời nghiêm nghị mà bóng bảy, từ thiết tha. Nhưng thơ trữ tình mà
không có gì lả lơi hay bỡn cợt, trái với hầu hết những thơ Nôm mà ta thường đọc trong
các sách báo dưới mục “Thơ Hồ Xuân Hương”.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

THƯƠNG VỢ
*Dàn ý phân tích “Thương Vợ”

a) Mở bài

- Đôi nét về tác giả Trần Tế Xương: một tác giả mang tư tưởng li tâm Nho giáo, tuy cuộc
đời nhiều ngắn ngủi

- Thương vợ là một trong số những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về
bà Tú

b) Thân bài

- Hai câu đề

+ Hoàn cảnh bà Tú: mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội “mom sông”

Thời gian “quanh năm” : làm việc liên tục, không trừ ngày nào, hết năm này qua năm
khác

Địa điểm “mom sông” : phần đất nhô ra phía lòng sông không ổn định.

=> Công việc và hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định.

+ Lí do:

“nuôi” : chăm sóc hoàn toàn

“đủ năm con với một chồng” : một mình bà Tú phải nuôi cả gia đình, không thiếu cũng
không dư.

=> Bản thân việc nuôi con là người bình thường, nhưng ngoài ra người phụ nữ còn nuôi
chồng => hoàn cảnh éo le trái ngang.

Cách dùng số đếm độc đáo “một chồng” bằng cả “năm con”, ông Tú nhận mình cũng là
đứa con đặc biệt. Kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 thể hiện nỗi cực nhọc của vợ.

=> Bà Tú là người đảm đang, chu đáo với chồng con.

- Hai câu thực

+ Lặn lội thân cò khi quãng vắng: có ý từ ca dao “Con cò lặn lội bờ sông” nhưng sáng
tạo hơn nhiều (cách đảo từ lặn lội lên đầu hay thay thế con cò bằng thân cò):

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

“Lặn lội” : Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng

Hình ảnh “thân cò” : gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn -> gợi tả nỗi đau thân phận và
mang tính khái quát

“khi quãng vắng” : thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm
lo âu

=> Sự vất vả gian truân của bà Tú càng được nhấn mạnh thông qua nghệ thuật ẩn dụ.

+ “Eo sèo… buổi đò đông”: gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc

"Buổi đò đông": Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cảnh đông đúc cũng chứa đầy những
sự nguy hiểm, lo âu

-> Nghệ thuật đảo ngữ, phép đối, hoán dụ, ẩn dụ, sáng tạo từ hình ảnh dân gian nhấn
mạnh sự lao động khổ cực của bà Tú.

=> Thực cảnh mưu sinh của bà Tú: Không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm đồng
thời thể hiện lòng xót thương da diết của ông Tú.

Những đức tính cao đẹp của bà Tú

- Hai câu luận

+ “Một duyên hai nợ” : ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên “âu đành phận”, Tú
Xương cũng tự ý thức được mình là “nợ” mà bà Tú phải gánh chịu

+ “nắng mưa” : chỉ vất vả

+ “năm”, “mười” : số từ phiếm chỉ số nhiều

+ “dám quản công” : đức hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, ở bà hội tụ cả sự tần
tảo, đảm đang, nhẫn nại.

=> Câu thơ vận dụng sáng tạo thành ngữ, sử dụng từ phiếm chỉ vừa nói lên sự vất vả
gian lao vừa nói lên đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.

- Hai câu kết

+ Bất mãn trước hiện thực, Tú Xương đã vì vợ mà lên tiếng chửi:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”: tố cáo hiện thực, xã hội quá bất công với người phụ nữ, quá
bó buộc họ để những người phụ nữ phải chịu nhiều cay đắng vất vả.

+ Tự ý thức:

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

“Có chồng hờ hững”: Tú Xương ý thức sự hờ hững của mình cũng là một biểu hiện của
thói đời.

+ Nhận mình có khiếm khuyết, phải ăn bám vợ, để vợ phải nuôi con và chồng.

=> Từ tấm lòng thương vợ đến thái độ đối với xã hội, Tú Xương cũng chửi cả thói đời
đen bạc.

c) Kết bài

- Khẳng định lại giá trị về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

- Liên hệ, bày tỏ quan điểm, suy nghĩ của bản thân về người phụ nữ trong xã hội hôm
nay.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

CẢM NHẬN THƯƠNG VỢ

Hình ảnh người phụ nữ luôn là đề tài muôn thuở trong nền thi ca Việt Nam. Tuy nhiên,
thơ văn viết về người vợ bằng tình cảm của người chồng đã ít, nay lại viết “tế sống”
người vợ còn hiếm hoi hơn. Và Trần Tế Xương là người đàn ông đã đưa hình ảnh người
vợ của mình vào những dòng thơ trữ tình nhưng cũng không kém phần trào phúng.
Trần Tế Xương hay còn gọi là Tú Xương, giống trong buổi giao thời đầy nghèo khổ nửa
thực dân nửa phong kiến. Ông là người thông minh ham học có tài làm thơ nhưng lại
lận đận trong thi cử. Ông nổi tiếng trong hai mảng thơ trữ tình và trào phúng có pha
chút giọng cười châm biếm, sắc sảo bắt nguồn từ tâm huyết với dân với nước với đời.
Tú Xương đã từng được mệnh danh là nhà thơ trào phúng xuất sắc nhất của văn học
Việt Nam cuối thể kỷ XIX. Những tác phẩm ông để lại chủ yếu là thơ Nôm và có nhiều
bài rất đặc sắc, có thể nói là tuyệt mỹ cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Minh chứng rõ
nhất là bài thơ Thương vợ. Tú Xương đã bộc lộ tình yêu thương, sự trân trọng và cả nỗi
ăn năn trước sự hi sinh của vợ trong bài thơ này:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Một duyên, hai nợ, âu đành phận,

Năm nắng, mười mưa, dám quản công.

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:

Có chồng hờ hững cũng như không!”

Thương vợ nằm trong những sáng tác của Tú Xương về bà Tú cũng là một trong những
bài thơ hay, cảm động nhất của ông về vợ mình. Bài thơ được viết bằng chữ Nôm với
những ngôn từ bình dị và hình ảnh đẹp đẽ. Nó không chỉ đề cập đến nhiều khía cạnh
trong xã hội mà còn là tiếng lòng tha thiết đầy xót xa của Tú Xương – nạn nhân của xã
hội bấy giờ, đã biến con người trở nên vô tích sự với chính bản thân và gia đình. Đồng
thời bài thơ cũng giúp người đọc thấy được đức hi sinh to lớn của người phụ nữ xưa
đối với gia đình.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Mở đầu tác phẩm Tú Xương giới thiệu về hoàn cảnh và công việc mưu sinh của bà Tú:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng.”

Mạch cảm xúc của thi phẩm dần được mở ra với bức tranh toàn cảnh về nỗi khó nhọc lo
toan của bà Tú. Câu vào đề như để giới thiệu hoàn cảnh lam lũ vất vả qua cách nêu thời
gian, địa điểm. Tác giả sử dụng từ “quanh năm” – cụm từ chỉ một khoảng thời gian rất
dài, lặp đi lặp lại như một vòng tuần hoàn khép kín của tự nhiên, tác giả đã diễn tả
được nỗi vất vả triền miên của bà Tú trải hết ngày này qua tháng khác, mặc kệ nắng
mưa. Chỉ có thế cũng đã đủ để lại trong lòng độc giả một hình ảnh tần tảo, đầu tắt mặt
tối của bà Tú. Thế nhưng chưa dừng lại ở đó, cách cân đo đong đếm thời gian như thế
còn góp phần làm bật lên cái không gian buôn bán của bà thông qua hình ảnh “mom
sông”. Địa thế “mom sông” đầy trắc trở hiểm nguy khôn lường lại là chỗ làm ăn buôn
bán hàng ngày của người phụ nữ. Thời gian dài đằng đặng kết hợp với địa điểm trắc
trở càng tôn lên hình ảnh bà Tú tảo tần, hết lòng hết sức vì miếng cơm manh áo cho cả
gia đình. Với giọng thơ hỏm hỉnh cùng tài năng trong nghệ thuật thơ trào phúng, Tú
Xương đã làm nên một câu thơ thứ hai như lời lên án gay gắt xã hội phong kiến đã biến
những người đàn ông vốn là trụ cột trong gia đình thành kẻ vô tích sự, sống dựa dẫm
và cả đời “ăn lương vợ”.

“Trống hầu vừa dứt, bố lên thang

Hỏi ra quan ấy ăn lương … vợ”

(Quan tại gia – Trần Tế Xương)

Đôi vai của bà Tú đã nặng nay lại càng nhân lên những nỗi gian truân khi phải “bất đắc
dĩ” trở thành trụ cột trong gia đình. Từ “đủ” vừa biểu thị chất lượng vừa biểu thị số
lượng. Bên cạnh đó cách đặt hai từ số đếm “năm” và “một” tưởng chừng khập khiễng
nhưng lại hóa độc đáo và mới lạ. Tú Xương tự chế giễu mình khi so sánh bản thân với
năm người con. Ông tự cho mình là “đứa con đặc biệt”, ngầm nâng cao vị thế của người

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

vợ lên một thứ bậc thiêng liêng. Hơn thế nữa, cấu trúc năm-một cùng từ “với” chất
chứa bao nỗi hổ thẹn của người chồng phải sống dựa vào vợ. Hai câu mở đầu đã thể
hiện được tất cả những đức tính cao đẹp của bà Tú: chịu thương, chịu khó để nuôi đủ
gia đình. Qua đó Tú Xương cũng khéo léo thể hiện sự biết ơn của mình, đồng thời còn
là sự hổ thẹn khi phải đặt mình tương đồng với những đứa con thơ. Thật xót xa, ngậm
ngùi biết bao!

Thấu hiểu được những nỗi lo toan, vất vả của người vợ, Tú Xương liên tưởng đến hình
ảnh con cò trong ca dao:

“Cái cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”

để cực tả nỗi khổ tâm của bà Tú trong hai câu thực:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”

Tú Xương sử dụng từ “thân cò” vừa thể hiện cái tính riêng, sự sáng tạo mang tính thời
đại trong phong cách thơ của mình, vừa đồng nhất thân phận của bà Tú nói riêng và
hình ảnh của người phụ nói chung với hình ảnh mỏng manh của “cái cò”. Tiếp đó chữ
“thân” tuy đơn giản nhưng nghe thật cay đắng, nó gợi cho người đọc về một thứ gì đó
nhỏ bé tội nghiệp đến vô cùng. “khi quãng vắng” là một cụm từ rất đặc biệt, nó không
chỉ gợi lên cái không gian rợn ngợp, cảm giác đầy nguy hiểm rình rập nơi mom sông
heo hút mà còn diễn tả nỗi khắc khoải của thời gian. Cùng với nghệ thuật đảo ngữ, từ
láy “lặn lội” đã nhấn mạnh hình ảnh vất vả mưu sinh đến xót xa, gầy guộc của người
phụ nữ. Nếu câu thơ thứ ba gợi lên nỗi cực nhọc đơn chiếc thì câu thứ tư lại là sự vật
lộn với cuộc sống bán mua đông đúc. Một lần nữa Tú Xương lại dùng biện pháp đảo
ngữ với từ láy tượng thanh “eo sèo” gợi sự tấp nập ồn ã để nhấn mạnh cảnh tượng
thường tình nơi chợ búa gắn liền với người phụ nữ có “năm con với một chồng”. Hình
ảnh “buổi đò đông” cũng góp phần làm bật lên một bà Tú cần mẫn, tất bật. Buổi đò

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

đông cùng với “khi quãng vắng” đã tạo nên sự nguy hiểm, gian lao gấp nhiều lần. Ông
cha ta có câu “ sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua” nhưng vì cuộc sống, vì cơm áo gạo
tiền cho chồng con mà bà Tú đã phải dấn thân vào chốn hiểm nguy đó. Hai câu thực dù
đối nhau về từ ngữ “buổi đò đông”- “khi quãng vắng” nhưng lại tiếp nhau về ý làm nổi
lên sự lam lũ gian truân của người phụ nữ nhỏ bé này.

Đến với hai câu thơ tiếp theo, Tú Xương như nhập vai vào chủ thể trữ tình nhằm mượn
lời vợ để ngầm ca ngợi những hi sinh âm thầm mà bà dành cho chồng con:

“Một duyên, hai nợ, âu đành phận,

Năm nắng, mười mưa, dám quản công.”

Theo quan niệm phong kiến xưa, “duyên” và “nợ” là hai định nghĩa hết sức thiêng
liêng về mối quan hệ vợ chồng do ông trời định sẵn, xuất phát từ sợi chỉ hồng của ông
tơ bà nguyệt. Thế nhưng khi đưa vào lời thơ Tú Xương, hai thứ đó trở nên nặng nề như
một lời than thở khi duyên chỉ có một mà nợ lại tới hai. Bên cạnh đó việc sử dụng hai
thành ngữ song song với nhau “một duyên hai nợ” – “năm nắng mười mưa” vừa đối
nhau về từ, vừa đối nhau về ý đã khiến cho câu thơ trầm lắng trước nỗi khổ tâm của bà
Tú. Không những thế sự đối lập này còn thể hiện rất rõ tài năng văn chương điêu luyện
của thi sĩ. Đức hi sinh cao cả của bà Tú còn được nhắc đến qua hai cụm từ “âu đành
phận” và “dám quản công”. Nguyên nhân dẫn đến sự lam lũ hi sinh âm thầm đầy cam
chịu của bà tuy giản đơn mà cao quý. Đó là vì mối nhân duyên với người chồng và đàn
con thơ. Từ việc pha trộn lời thơ đan xen với những thành ngữ và biện pháp đảo ngữ
cực kì tinh tế, nhà thơ Tú Xương đã khắc họa thành công tấm chân tình của người vợ
với đầy đủ đức hi sinh, tần tảo như một người phụ nữ Việt Nam truyền thống.

Vì thương vợ, thương cho thân phận đời nữ nhi mà lại sắm vai trụ cột trong gia đình,
Tú Xương đã tự trách bản thân mình. Hai câu thơ cuối cũng vì thế giống như tiếng chửi
vừa cay đắng vừa phẫn nộ cho những định kiến khắt khe:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:

Có chồng hờ hững cũng như không!”

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Mạch cảm xúc của thi phẩm dường như có sự chuyển biến đột ngột. Tú Xương không
còn ẩn mình sau những dòng thơ để tán dương vợ mà đã xuất hiện để nói thay, để
trách ông chồng, để trách phận mình của bà Tú. “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc” là một cách
nói rất phù hợp với phong cách thơ trào phúng đó là sự giận đời vì cái xã hội thối nát
lúc bấy giờ. Thêm vào đó ít ai biết được rằng đằng sau tiếng chửi đời đầy dứt khoát ấy
lại là một bi kịch của con người chất chứa bao nỗi đau xót. Tú Xương chửi cái “thói đời”
nhưng cũng là sự chửi mình, tự chửi một đống nam nhi đang trên đường công danh mà
không giúp được vợ lại thành kẻ ăn bám. Tú Xương coi mình là một người “hờ hững”
trong trách nhiệm của một kẻ làm cha, làm chồng. Thế nhưng nếu nhìn nhận lại sự việc
thì Tú Xương quả là đáng thương hơn đáng trách. Bởi, suy cho cùng chính xã hội kia đã
đẩy ông vào đường cùng. Hai câu thơ khép lại tác phẩm là lời tự rủa mình, rủa đời của
Tú Xương nhưng lại mang đậm ý nghĩa lên án xã hội sâu sắc, góp phần khẳng định tình
cảm của ông với vợ mình. Người ấy tuy “ăn lương vợ” nhưng rất chu đáo luôn dõi theo
bà, đặc biệt luôn tỏ lòng biết ơn của mình đối với người phụ nữ ông yêu thương. Thi
phẩm kết thúc thật bất ngờ vừa thấm đượm được cái bi, cái bất hạnh trong nỗi niềm
riêng của tác giả, vừa dí dỏm hài hước.

Tấm lòng thương vợ của Tú Xương đối với cả thời quá khứ và hiện tại vẫn là tấm
gương sáng cho bao người. Bài thơ giữ nguyên giá trị cùng với ý nghĩa nhân văn sâu
sắc về sự yêu thương, trân trọng và thấu hiểu những nỗi đau, sự hi sinh của người phụ
nữ cho gia đình. Đồng thời đó cũng là tiếng nói phê phán sự bất công của xã hội phong
kiến thối nát, mục ruỗng.

Như vậy, bài thơ Thương vợ là một thi phẩm mang đậm tính nhân văn sâu sắc. Với
chất thơ bình dị mà trữ tình mang chút trào phúng, Tú Xương đã thành công trong việc
khắc họa một bức chân dung về người phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ, vừa mộc mạc chất
phác, vừa cứng rắn mạnh mẽ. Vì vậy quả thật Tú Xương chính là thi nhân viết thơ về
vợ hay và cảm động nhất. Ông đã để lại cho đời những áng văn chân thành xúc động
và đầy giá trị.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Đề bài: Phân tích “Thương vợ” của Trần Tế Xương

Bài làm

Nào có nghĩa gì cái chữ nho,


Ông nghè ông cống cũng nằm co.
Chi bằng đi học làm thầy phán,
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò.”

Thầy phán (Trần Tế Xương)

Có lẽ đoạn thơ trên cũng đã phác họa được phần nào xã hội của ta lúc bấy giờ. Và
Trần Thế Xương – một con người sống trong nỗi thế thái nhân tình ấy chỉ có thể gác
tiếng lòng qua những vần thơ in màu hiện thực. Trần Tế Xương sinh năm 1870 mất năm
1907, quê ở Nam Định. Ông từng thi đỗ tú tài nên được mọi người gọi là Tú Xương. Các
sáng tác của ông chủ yếu là thơ Nôm gồm nhiều thể thơ khác nhau, văn tế, phú và câu
đố. Tác phẩm của Tú Xương bắt nguồn từ tâm huyết của nhà thơ với dân với đời thể
hiện sự trào phúng và đậm chất trữ tình. Trong số đó, có lẽ “Thương vợ” là bài thơ cảm
động nhất khi mang lời tâm sự tràn đầy tình yêu của ông dành cho bà Tú. Chúng ta
cũng đã không ít lần bắt gặp hình ảnh của bà Tú trong thơ ông như:

“Đầu sông bãi bến, đua tài buôn chín bán mười
Trong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợ”

(Tế sống vợ)

Vậy đến với “Thương vợ”, bà Tú được nhà thơ khắc họa thế nào, ta sẽ cùng bước vào
trang thơ ấy.

“Quanh năm buôn bán ở mom sông


Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.”
Nét đặc sắc của bài thơ “Thương vợ” có lẽ chính là tình cảm mà tác giả gửi gắm vào
đó, một chân tình chỉ có thể mượn thơ cất lên. Và thật vậy, ở sáu câu thơ đầu tiên, hình
ảnh người vợ tần tảo, người mẹ đôn hậu đầy sự hy sinh hiện ra trướt mắt người đọc,

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

đồng thời vang lên đâu đó nỗi bất lực của tác giả. Đó cũng là một nỗi đau âm ỉ trong
mỗi vần thơ:
“Quanh năm buôn bán ở mon sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Ở hai câu thơ đâu, bà Tú – người phụ nữ chịu thương chịu khó, lúc nào cũng đầu tắt
mặt tối với việc buôn bán. “Quanh năm” là một chuỗi thời gian liên tiếp ngày này qua
ngày khác, tháng này qua tháng khác và năm này qua năm khác mà bà Tú tất bật với
gánh nặng trên vai không lúc nào ngơi nghỉ. Bà Tú bán ở “mom sông” là phần đất bờ
sông nhô ra, một thế đất chênh vênh gợi một cuộc sống đầy cơ cực của người phụ nữ
“nuôi đủ năm con với một chồng”. Chỉ với từ “đủ” cũng gần như chấm thêm nét bút
đẹp đẽ vào chân dung bà Tú. Thường thì chẳng ai đếm chồng đếm con bao giờ cả thế
nhưng vì muốn cất lên nỗi chua chát về một gia đình đông con lại có chồng “ăn lương
vợ” mà câu thơ đã tự trào làm nên nét độc đáo cho bài thơ.

Đến đây, hẳn có người sẽ thắc mắc vì sao Tú Xương thấu hiểu nỗi khổ của vợ mà
không giúp được gì.

“Tiền bạc phó cho con mụ kiếm


Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi”

(Tự cười mình)

Giai đoạn này đất nước gặp bao nỗi bi thương sau khi tỉnh Nam Kỳ mất trọn trong
tay Pháp, Bắc Kỳ bị tấn công lần thứ nhất. Đứng trước bối cảnh xục côi và bi thương
ông đã quyết tâm đỗ cho được cử nhân để có tiếng nói chống lại chế độ mục nát này.
Thế nhưng thi tổng cộng 8 lần mà ba năm mới tổ chức một lần chỉ có đỗ Tú tài (lúc bấy
giờ không còn được trọng dụng). Chính vì mải lo học để thi cử nên ông để hết gánh
nặng gia đình cho một mình bà Tú gánh vác. Nhưng không phải vị vậy mà ông vô tâm,
ông để bà Tú bước vào thơ như cách thể hiện tình cảm của mình. Đến với hai câu thực,
chân dung bà Tú càng rõ nét:
“Lặn lôi thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Nhà thơ đã vận dụng hình ảnh con cò trong câu ca dao cổ:
“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”
Kết hợp với đảo ngữ và đưa “lặn lội” lên đầu câu thơ, thay thế “con cò” bằng “thân
cò” để nhấn mạnh nỗi gian truân, vất vả của bà Tù. Không chỉ vậy, không gian “khi
quãng vắng” gắn liền với sự gian nan, nỗi đau thân phận của bà Tú thật heo hút và

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

chứa đầy âu lo, nguy hiểm. Từ láy tượng thanh “eo sèo” chính là âm thanh mua bán, cãi
vã, bà Tú đã sống một đời lam lũ, cơ cực nơi “mặt nước buổi đò đông”. Câu thơ bất trắc
gợi nhớ về câu ca dao:
“Con đi mẹ dặn câu này
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua”
Từ một người phụ nữ vốn là “em gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ”, bà phải kiếm cái
ăn đủ cho sau người, phải bươn chải, “lặn lội” giữa sự đời, chợ đời. Từ ngữ đối lập “khi
quãng vắng” và “buổi đò đông” góp phần khái quát cảnh làm ăn vất vả, cực nhọc mà
đơn chiếc của bà Tú dù cho bất kì nơi đâu, vắng người hay đông người để từ đó ta nhìn
thấy được sự thấu hiểu và tấm lòng thương xót da diết của Tế Xương với vợ.

Nối tiếp hai câu thực chính là hai câu luận, mà ở hai câu này tác giả đã bộc lộ tài năng
sáng tác của mình:

“Một duyên hai nợ âu đành phận


Năm nắng mười mưa dám quản công”
Chỉ với hai câu thơ tác giả đã vận dụng một cách xuất sắc, đối xứng hài hòa hai câu
thành ngữ “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa” mang đậm màu sắc dân gian.
“Duyên” ở đây là duyên số, duyên phận, còn “nợ” là “nợ đời” mà bà Tú phải gánh vác.
“Duyên” số chỉ có một mà “nợ” có những hai nhưng bà Tú vẫn không phàn nàn, than
trách mà âm thầm chịu đựng hy sinh vì chồng con. “Năm nắng mười mưa” nói lên
những ngày tháng chịu thương chịu khó của bà. “Âu đành phận” và “dám quản công”
ở cuối mỗi câu không phải là tiếng tắc lưỡi mặc kệ sự đời, mà đó là âm thầm chịu đựng
lấy sự hy sinh làm hạnh phúc.

Qua sáu câu thơ đầu, Tú Xương với sự cảm phục, cảm động trước sự hy sinh rất
nhiều của bà Tú đã chaaos bút phác họa nên hình ảnh người vợ tần tảo, đảm đang, chịu
thương, chịu khó. Đó có lẽ là hình ảnh chung cho người phụ nữ lúc bấy giờ cần cù tảo
tần sớm tối để chăm đủ cái ăn mặc cho chồng con. Tú Xương đã sử dụng những hình
ảnh, ngôn từ sáng tạo, ấn tượng làm nên nét đặc trưng cho riêng thơ ông.

Nếu ở hai câu đầu Trần Tế Xương đưa ra hình ảnh bà Tú với nỗi vất vả, gian truân
thì đến hai câu kết, hình ảnh ông Tú ẩn hiện đâu đó trong từng vần thơ:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Tác giả đã sử dụng ngay chính từ ngữ thông tục, tiếng chửi nơi “mom sông” để đưa
vào thơ thật tự nhiên, bình dị. Nhà thơ tự trách mình “ăn lương vợ”, “ăn ở bạc” với vợ,
ông đặt mình ngang với “năm con” và rồi tự thấy mình chưa làm tròn vai trò của người

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

cha kể cả người chồng. Sự “hờ hững” ấy đồng thời nói lên thói đời bạc bẽo, một xã hội
phong kiến trọng nam khinh nữ mà Tú Xương cảm thấy bất mãn. Chính cái xã hội “dở
Tây dở ta” khiến cho đường công danh thi cử của ông gặp nhiều khó khăn, trắc trở
cũng là nguyên nhân sâu xa làm nên sự “hờ hững” này. Thế nhưng Tú Xương đã “tự
sòng phẳng với mình, sòng phẳng với đời” để thừa nhận mình là “quan ăn lương vợ”.
Mượn lồi bà Tú để trách mình điều đó càng nói lên tình cảm của ông dành cho bà Tú,
xã hội mục nát không cho ông thể hiện thì ông chỉ có thể gửi thì ông chỉ có thể gửi tình
cảm vào thơ với một tình yêu, một sự biết ơn, cảm phục to lớn nhất. Ở hai câu kết với
việc sử dụng ngôn ngữ dân gian bình dị, gần gũi để tạo ra nét mới lạ trong thơ. Ông đã
thành công gieo vào tâm thức người đọc gốc rễ sâu xa từ hoàn cảnh riêng mà lên án thói
đời bạc bẽo chung trong xã hội lúc bấy giờ.

Như vậy, với thể thơ thất ngôn bát cú đường luật kết hợp cùng ngôn ngữ bình dị đã
khắc họa đậm nét vẻ đẹp tâm hồn của bà Tú nói riêng và của phụ nữ Việt Nam nói
chung. Bài thơ tuy ngắn nhưng chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm kéo dài theo thời
gian. Với hình tượng thơ hàm xúc, gợi cảm đã cho người đọc thấu hiểu phần nào tình
cảm mà nhà thơ dành cho vợ, sự thương mình vì sinh bất phùng thời. Đặt bút xuống là
tự trào cả một thời thế, đó cũng là nỗi thế thái nhân tình bao trùm cả bài thơ.

Nói tóm lại, bằng việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa trữ tình và trào phúng, nhà thơ
Trần Tế Xương đã đưa hình ảnh đẹp đẽ của bà Tú cũng như tất cả phụ nữ cùng thời
vào bài “Thương vợ”. Nguyễn Đình Chú nói về quan điểm thơ của Tú Xương như sau:
“Với Tú Xương, thơ không cần ngâm hoa, son phấn. Thơ đến thẳng với cuộc đời. Thơ
từ cuộc đời. Mà cuộc đời đây lại là cuộc đời với tất cả cái sần sùi, cái xù xì của nó.” Ấy
vậy mà, đọc thơ ông ta vẫn thấy đẹp, đẹp một cách chân thực nhất. Vị nho sĩ ấy dù thất
thế nhưng vẫn giữ cốt cách, sống sang trọng như ai.

“Ba miệng đã nên trong khốn phạm


Nếp nhà không hẹn dấu văn chương
Tâm thân tuy thác, danh nào thác
Hồn cũng thơm lây dưới suối vàng”

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Đề bài: Bình giảng “Thương vợ” của Trần Tế Xương

Bài làm

Ông Tú tỏ lòng thương vợ bắt đầu bằng sự tính công. Đúng hơn là sự biết ơn, sự biết ơn
sâu sắc công lao bà Tú:

Quanh năm buồn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Ông Tú nói chuyện bà Tú buôn bán để nuôi con và nuôi mình. Cách nói đáng lưu ý.
Một năm có 365 ngày. Chả nhẽ bà chạy chợ hết cả 365? ít nhất bà cũng có mấy ngày
nghỉ Tết nhất giỗ chạp hoặc về bên ngoại thăm bố mẹ, em út... nhưng ở đâỵ ông Tú vẫn
tính tất cho bà trọn 365 ngày, trọn cả quanh năm, mà “quanh năm” tức là “quanh nam”
rồi lại “quanh năm”... Cách nói như là sự xô bồ, cường điệu của chuyện văn chương,
trong trường hợp này chính là sự bày tỏ lòng biết ơn bà Tú một cách triệt để. Người dân
lao động xưa, muốn nói cảnh làm ăn cơ cực của mình – cũng một cách triệt để để tạo ra
thành ngữ “quanh năm tận tháng” bên cạnh thành ngữ “đầu tắt mặt tối”. Ông Tú học
cách nghĩ, cách nói đó của quần chúng để ghi công lao của bà Tú về mặt thời gian lao
động. Còn cái nơi mà bà Tú buôn bán? – “ở mom sông”. Có người ghi chú rằng: “Mom
sông là nơi đất nhô ra sông(?).Mom sông Vị là vùng đất gần làng Phù Long, ở chỗ nhà
máy nước thành phố Nam Định bây giờ”, Có người còn cho biết thêm: Mom sông Vị là
nơi đầu chỗ sông Vị Hoàng chảy thông ra sông Nam Định. Thời sông Vị Hoàng chưa bị
lấp thì mom sông này là nơi buôn bán của bà con tiểu thương, thuyền bè qua lại hay
đậu ờ đấy. Bà Tú có ngôi hàng buôn chung gạo với người khác ở mom sông đó. về sau,
sông Vị Hoàng bị lấp. Chốn buôn bán của bà Tú cũng tàn lụi theo. Nhưng như Xuân
Diệu nhận xét (ngay khi sông Vị Hoàng chưa bị lấp): “ở mom là cheo leo, chênh vênh
chứ không phải ở một cái bến ngang sông tấp nập bình thường. Cảnh ngộ làm ăn như
thế mà bà Tú vẫn “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Tất cả những sáu miệng ăn, trừ bà
Tú chưa tính. Thành tích này, nói là bà Tú tần tảo vất vả, nói là bà Tú vị tha, cao cả thì
cũng là tần tảo vất vả, cũng là vị tha, cao cả hết mực. Nhưng ở đây, nói sự việc là bất
công, vô lí thì củng là hết mực vô lí bất công. Đẻ con ra, có ít đâu. Những năm đứa. Phải
nuôi chúng nó khôn lớn. Trách nhiệm đó là của bà Tú. Dĩ nhiên rồi. Nhưng anh chồng
“Trên đồng cạn, dưới đồng sâu, Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa” đâu? Thì ở đây làm
gì có. ông Tú không phải loại chồng đó, Ông là loại chồng “Tiền bạc phó cho con mụ
kiếm” loại chồng “Thưng đấu nhờ lưng một mẹ mày”, ông Tú không cùng bà nuôi con
đã đành. Mà như có kẻ ác khẩu đã châm biếm: ông còn là một “thứ con” đặc biệt để bà

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Tú phải nuôi riêng! Đoảng thế là cùng! Chế độ xã hội cũ đã sản sinh ra loại ông chồng
đoảng, loại ông chổng “dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm” như ông Tú không ít.

Nhưng ở ông Tú, có một điều này là khác, là rất khác: Ông tỏ ra biết nhận lỗi, biết đền
bù lại bằng cái tình, bằng tấm lòng. Cái thái độ của Tú Xương trở nên dễ thương ở điểm
này. Bài thơ của Tú Xương hay bắt đầu từ điểm này. Ông nói chuyện bà Tú nuôi con đã
đành, mà còn là nuôi mình, nói theo kiểu nói toạc, không một chút ngượng bút, ngượng
miệng, lại như vừa nói vừa tủm tỉm cười, tự trách sao mình vô tích sự, lại để vợ phải
nuôi. Việc nuôi chồng của bà Tú, có thể là ông chưa xem là sung sướng. Cái cảnh “Cơm
hai bữa; cả kho rau muống; quá một chiều: khoai lang lúa ngô” thì có gì là sung sướng,
chắc còn xa sự sung sướng. Nhưng xem ra ông Tú đã không dám đòi hỏi gì hơn. Ông
đã thấy vui, đã ra vẻ bằng lòng, và đặc biệt là đã cảm cái ơn của bà Tú lắm lắm rồi. Và
do như thế mà ngay trong cặp thơ đề, hình ảnh bà Tú đã thấp thoáng hiện lên lớn, đẹp
vô cùng. Cả đám cha con ông Tú sống trong sự cưu mang của bà Tú, tựa như đàn gà
con đang được “mẹ gà ấp ủ”. Văn chương chữ nghĩa của ông Tú ở đây đơn giản mà
thân tình đến kỳ lạ, có sức gợi phong phú vô cùng. Ông nói: “Nuôi đủ năm con với một
chồng”, nói như nói chơi mà ý tình sâu nặng, chân thành biết bao nhiêu. Ông Tú không
gộp sáu cha con lại mà nói. Ông nói “năm con” riêng, “một chồng” riêng. Như thế là vì
con ơn mẹ là chuyện con với mẹ đã đành. Còn phần ông, ông chịu ơn vợ thì ông phải
nói riêng ra cho thật rõ, nói riêng ra để khỏi mập mờ dù là một chút. Cũng như trong ý
thơ, ông không tính đến bà Tú. Chỉ nói chuyện bà “nuôi đủ năm con với một chồng”.
Không tính đến bà thì cái lòng vị tha, cái công lao của bà càng thêm rõ. Mà cái lòng tri
ân của ông – thay mặt cả lũ trẻ con năm đứa nữa – đối với bà Tú cũng càng rõ thêm.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Hai câu thực gợi lên cảnh làm ăn vất vả, tội nghiệp hàng ngày của bà Tú. Chẳng hay
ông Tú dã đón nhận câu ca dao “Con cò lặn lội bờ sông, gánh gạo đưa chồng tiếng khóc
nỉ non”, từ bao giờ? Qua tiếng ru con của một bà mẹ láng giềng hay chính là ru Trần Tế
Xương của bà cụ Nhuận? Chắc chắn từ “Con cò lặn lội bờ sông”, hình ảnh những bà vợ
Việt Nam ngàn xưa trong xã hội cũ, ngược xuôi tần tảo, gian nan cực nhọc để nuôi
chồng con cũng từ lâu đã đi vào hồn thơ giàu rung động của Tú Xương với bao nhiêu
xót xa thương cảm. Để giờ đây, trong lúc nghĩ đến bà Tú thì con cò ấy bỗng vụt dậy vỗ
cánh bay và thi hứng Thương vợ của Tú Xương. Ca dao xưa nói: “Con cò lặn lội bờ
sông”, trông đã vất vả, tội nghiệp. Con cò của ca dao lặn lội bờ sông. Khung cảnh đã
mênh mông, heo hút đến rợn người. Trong thơ ông Tú, có cái rợn ngợp của không gian,
lại còn thêm cái rợn ngợp của thời gian. “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Chép như

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

thế, dễ thường mất đi cái hoang vắng của thời gian làm mất đi cái khối hình của ý thơ.
Ca dao nói: “Con cò lặn lội”. Tú Xương chuyển lại thành “lặn lội thân cò”. Hai từ “lặn
lội” chen lên đứng đầu câu. Cảnh lặn lội lại càng lặn lội. Ca dao nói con cò, Tú Xương
nói “thân cò”. Ý thơ cứ xoáy sâu vào sự cực khổ. “Thân” trong ngôn từ văn chương
tiếng Việt trước hết là chỉ cái thân thế con người “Vai năm tấc rộng thân mười thước
cao”. (Truyện Kiều). Nhưng còn là chỉ một đời người, một kiếp người “Thân này ví đổi
thành trai được, sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu” – Hồ Xuân Hương: “Thân lươn bao
quản lấm đầu, chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa” (Truyện Kiều) mà nói chung trong
văn học xưa là đau khổ, là ê chề, tủi cực. Tú Xương đã nghĩ kiếp đời bà Tú bằng thứ
ngôn ngữ có độ dày của giời gian, của truyền thống đó. Trong câu thơ, “thân cò” không
“khóc nỉ non”. Bởi ở đây sự gian khổ đang được nén xuống. Nhưng càng nén lại càng
đau. Câu thơ đó vẫn bị rỉ rả tiếng khóc cho thân cò. “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”.
Tú Xương đã nâng cái tầm khái quát con cò trong ca dao từ ngàn xưa lên một mức để
nói cho hết tấm lòng thương cảm da diết của mình đối với cuộc đời làm ăn vất vả của
bà Tú. Câu thơ trở thành như một bức hoạ phác thảo về một người dàn bà mỏng manh,
gầy guộc, lúi húi một mình kiếm sống giữa cuộc đời trơ trụi. Cái cảnh bà Tú lặn lội sớm
khuya để nuôi chồng nuôi con giữa cái thời buổi “sống chết mặc bây”, cái thời buổi
nghĩa tình đã bạc quá vôi, chính là người đàn bà trong bức hoạ phác thảo đó.

Eo sèo mặt nước buổi đò đông

Ý tình của thơ đúng là đang triển khai. Câu thực thứ nhất mới nói cái vất vả, cái cô đơn.
Câu thực thứ hai này nói rõ thêm cái vật lộn. Vật lộn là có chuyện đụng chạm đến
người chung quanh, đến xã hội rồi. Có sách chú thích: “Cứ buổi trưa hay chiều có
chuyến đò chở những người đi buôn gạo ở những chợ Thông, chợ Quán (bên kia bên
Tân Đệ) về quán bánh dày ở đầu tỉnh Nam là nơi bán gạo. Quán bánh dày quen gọi là
“Mom”, những người này thường eo sèo với nhau là bán đắt bán rẻ. Có sách lại chú
thích: “Eo sèo là kỳ kèo mặc cả, cãi cọ nhau”. Đúng đây chưa phải là cảnh cạnh tranh
cướp giật gì nhau ghê gớm, càng chưa phải cái cảnh “cá nuốt cá”, “tre buộc tre” trong
bọn thống trị với nhau và giữa bọn thống trị đối với dân lao động bị áp bức trong xã hội
đó. Cảnh làm ăn của lớp tiểu thương như bà Tú với nhau trong xã hội cũ về bản chất
không có như vậy. Ở đây, trước hết, chỉ mới là sự chen chúc. Vì cái sống mà phải chen
chúc. Chen chúc với nhau trên những chuyến đò đưa khách sang sông. Chật hẹp, bấp
bênh, mỏng manh, chơi vơi quá chừng! Và dường như sông nước càng mênh mông bao
nhiêu thì cái độ chơi vơi, mỏng manh, bấp bênh đó lại càng tăng lên bấy nhiêu. Và tội
nghiệp bà Tú. Hẳn đã có lần bà nghe mẹ dặn: “Con ơi, mẹ dặn câu này, sông sâu chớ lội
đò đầy chớ khoan sang” (ca dao).

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Ấy thế mà bây giờ, vì cuộc sống của chồng con mà con gái của mẹ vẫn bất chấp, vẫn
phải liều lĩnh để sang sông “buổi đò đông”. Lời mẹ dặn, có thể vì cuộc sống mà quên.
Hoặc nhớ nữa, nhưng biết làm sao hở mẹ? Cuộc sống trong xã hội bất công khắc nghiệt
với con người đến thế. Bọn bóc lột, ngồi mát ăn bát vàng, sống trên mồ hôi nước mắt
của người bị trị.

Người dân lao động luôn luôn bị cái quy luật cạnh tranh sinh tồn, đặc biệt là cái quy
luật bần cùng hoá của chế độ thực dân nửa phong kiến uy hiếp, nên lắm lúc vì cái ăn cái
mặc hàng ngày của gia đình mà buộc phải liều lĩnh, phải bực dọc, phải cau có, phải mè
nheo, phải chen lấn... thì cũng là điều thường tình, dễ hiểu và đáng thương hơn đáng
trách. Sự tha hoá của con người có khi chính là bắt đầu từ những dấu hiệu đó. Tú
Xương nhận biết sâu sắc cái hiện thực phũ phàng, bất nhân đó mà càng xót xa thương
vợ khi viết câu thơ trên:

Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Trong ấn tượng của ông Tú, kiếp sống của bà Tú thật là căng thẳng, nặng nhọc. Một
cuộc đời, một kiếp sống như thế mà không sinh ra vật vã, dằng dặc với nó sao chịu
được. Tú Xương nói chuyện ông bà lấy nhau, chuyện bà Tú lấy ông Tú. Kể cũng là cái
duyên, về tư cách làm chồng thì quả là ông còn nhiều khuyết điếm. Nhưng chẳng gì thì
ông cũng có chân Tú Tài để may khỏi tiếng “cha cu”. Ông cũng hào hoa, cũng duyên
dáng, cũng thơ phú lừng danh, đặc biệt là đối xử với bà Tú cũng tử tế, cũng nhiều lúc
đùa vui, tình tứ. Còn về đường con cái, thì “Trời cho” cũng “năm con” rồi. Một cảnh
chồng con như thế, bình thường không đáng gọi là duyên sao. Nhưng ở đây, sao đã nói
đến “một duyên” rồi lại nói đến “hai nợ”? Nghe lại nặng nề, chua chát, éo le, thậm chí
còn như dằn vặt, vật vã nữa. Trước hết có vấn đề chữ nghĩa nên hiểu thế nào? “Một
duyên hai nợ”, một hai là số chỉ thứ tự hay số lượng? Có lẽ cái âm hưởng dằn vặt của
câu thơ này và cả cái lối nói cũng theo kiểu tăng cấp, bồi thán (năm nắng mười mưa)
trong luật đối của câu thơ sau, dễ khiến ta hiểu theo nghĩ thứ hai. Và như thế thì ý thơ
muốn nói: duyên thì có một mà nợ lại thành hai. Trở lại nguồn gốc xa xưa của chữ
nghĩa thì đúng là giáo lý của đạo Phật đã nói đến túc trái tiền duyên. Đạo Phật – quan
niệm rằng sự vật, con người có quan hệ với nhau ví như vợ chồng lấy nhau là do có cái
duyên từ kiếp trước. Và như thế thì cái duyên cũng là cái nợ từ kiếp trước mà con
người ở kiếp này phải trả. Duyên và nợ, theo quan niệm đó của đạo Phật thành ra như
một. Trong văn học chịu ảnh hưởng của đạo Phật, từ lâu cũng nói đến duyên nợ “Ví
chăng duyên nợ ba sinh, làm chi đem thói khuynh thành trêu người”. (Truyện Kiều).
Nhưng cũng từ lâu, trong văn học và trong ngôn ngữ dân gian đã có hiện tượng dân

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

gian hoá quan niệm về duyên nợ theo hướng làm mờ nội dung triết lý siêu hình của nó
và muốn tách duyên riêng nợ riêng. Nói đến duyên là nói đến sự may mắn, thuận
chiều. Nói đến nợ là nói đến sự đau khổ, phải chịu đựng. Ở Tú Xương trong trường
hợp này, xu hướng dân gian hoá đó dường như dẫn đến một sự tách chia đã khá rạch
ròi duyên và nợ. Câu thơ của Tú Xương muốn nói: Cuộc đời của bà Tú “duyên” thì có
một mà “nợ” thì đến hai, nghĩa là một cuộc đời oái oăm, cay đắng mà đành cam phận.
Tú Xương thương xót cho cuộc đời đó mà thành ra dằn vặt thay, vật vã thay. “Một
duyên hai nợ âu dành phận”. Âm hưởng của câu thơ đúng là âm hưởng dằn vặt, vật vã.
Và nói là “đành phận” thì đúng lại là vừa cam chịu vừa như không muốn cam chịu. Cái
ý có vẻ như ngược chiều nhau này chính là tâm trạng của Tú Xương trong khi nghĩ đến
cuộc đời của bà vợ. Cái sự thật khách quan chua chát và tâm trạng chủ quan thương vợ
của ông Tú xen lẫn trong ý thơ. Hai câu luật vừa nổi lên hình ảnh bà Tú vị tha, cao cả
vừa ngầm chứa ý nghĩa tố cáo xã hội đương thời, cái xã hội ma quái đã dồn những con
người chịu thương chịu khó như bà Tú đến bước cơ khổ, quằn quại, có duyên mà
không vui được với duyên. Duyên có một mà nợ những là hai, vui sao được.

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không.

Không vui được, đã đành. Còn phải phát khùng lên với nó. Bài thơ đã kết lại bằng một
tiếng chửi mát. Nhìn cuộc đời bà Tú như thế, có chửi cũng là điều dễ hiểu. Nhưng ở
dây, ai chửi, chửi ai? Và chửi cái gì? Thì vẫn là ông Tú thương xót cho bà Tú mà chửi
thay cho bà Tú. Chứ bà Tú mà dư luật thành Nam đã hằng khen là chịu thương chịu
khó, tần tảo nuôi chồng nuôi con, bà Tú “năm nắng mười mưa dám quản công” hẳn có
bao giờ lại chửi như thế. Ông Tú đã chửi mát chính ông Tú về cái tội “ăn ở bạc”, cái tội
làm chồng mà “hờ hững cũng như không”, làm chồng mà để vợ phải trăm cơ nghìn cực
như thế! “Có chồng hờ hững cũng như không” chữ nghĩa của Tú Xương ở đây lại cũng
buột ra quá cái mức tự nhiên và giản dị nhưng ý tình lại cũng sắc biết bao nhiêu, cảm
động bao nhiêu. Ngày trước, Thuý Kiều trong buổi trao duyên, tự nhiên cứ cố buộc vào
mình cái tội phụ chàng Kim Trọng “Vì ta khăng khít cho người dở dang”, “Thôi thôi
thiếp đã phụ chàng từ đây” (Truyện Kiều) mà thực ra, Kiều đâu có phụ. Ở đây, Tú
Xương đối với bà Tú, nói là không giúp đỡ bà Tú được gì thì đúng, chứ nói “ăn ở bạc”
với bà Tú thì đâu đã đến thế. Và nói là “hờ hững” thì cũng một mặt thôi, chứ đâu tất cả
là “hờ hững”, đến mức là kết tội là “ăn ở bạc”. Đúng là giữa Thuý Kiều và Tú Xương,
hai cảnh ngộ khác nhau rất xa, nhưng nhân cách lại có mặt giống nhau. Đó là nhân cách
của những con người biết yêu thương cho người khác hơn mình biết nghĩ cho người
khác hơn mình. Thuý Kiều là cho người yêu. Tú Xương là cho bà vợ. Tú Xương càng

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

thương, càng nghĩ đến bà Tú bao nhiêu thì càng thấy mình “ăn ở bạc, càng thấy mình
“hờ hững” bấy nhiêu. Đọc đi dọc lại câu thơ cứ thấy nhói lên một lời tự phán, một lời
thương cảm của ông Tú. Nhớ lại xã hội thời ông Tú, trong tầng lớp của ông (thậm chí cả
trong nhân dân lao động một phần) có khối gì anh chồng lêu lổng chỉ quen hách dịch,
ăn bám vợ, không thoả mãn thì giở trò dã man đánh vợ. Ít tệ bạc hơn thì cũng ăn bám
vợ mà chẳng bao giờ biết nghĩ mình ăn bám. Người vợ đối với họ, thực tế đã bị biến
thành một thứ “nô lệ”, một thứ nô lệ đặc biệt, một thứ nô lệ mà không bị gọi là nô lệ,
vẫn được gọi là bu nó, bà nó, thế thôi. Cho nên, thái độ, tình ý của thơ của Tú Xương ở
đây quả là đáng quý, khiến cho mọi người dễ cảm thông.

Tú Xương tự phán, tự rủa mà vô hình trung lại để lộ rõ thêm nhân cách của mình, mà
vô hình trung lại tự rũ bỏ được con người phong kiến, con người Nho gia trong mình
để cho một Trần Tế Xương ân tình, một Trần Tế Xương nhân ái, một Trần Tế Xương
nhân dân hiện lên, đáng quý biết bao nhiêu. Nhưng ở đây, Tú Xương chửi mình đã
đành, lại còn chửi lây sang cả cái “thói đời” cái “thói đời ăn ở bạc”. Trong cái “thói đời
ăn ở bạc” ấy, có anh “chồng hờ hững cũng như không” là ông Tú, nhưng còn bao nhiêu
thứ khác đáng chửi hơn. Cái tiếng chửi của Tú Xương lại chính là muốn hướng vào cái
“thói đời ăn ở bạc” nói chung đó. Nghe lại tiếng chửi của Tú Xương. Đúng là ông đang
thay bà Tú mà chửi cả cái “thói đời ăn ở bạc”, nghĩa là cả cái xã hội thực dân nửa phong
kiến bất nhân đương thời. Cái xã hội đó đẻ ra cái thói đời đó. Cái thói đời đó là bạc bẽo,
là đểu cáng, là chen lấn, là cướp giật, là sống chết mặc bây... để những người lương
thiện như vợ ông Tú, tần tảo mà vẫn đói nghèo, thương chồng con mà thành khổ cực,
có duyên mà không vui nổi với duyên. Cái “thói đời” đó, Tú Xương không chửi vung
lên sao yên. Tú Xương là bậc “thần thơ”, “thánh chữ”. Tú Xương chỉ chửi một tiếng, có
vẻ như chửi mát, chửi bâng quơ, chửi cái anh “chồng hờ hững” là mình, mà hoá ra lại là
chửi cả cái xã hội, chửi cả cái đời bấy giờ. Nói chữ nghĩa nhưng chính là nói thái độ.
Vấn đề bài thơ đặt ra không chỉ còn là vấn đề thái độ của Tú Xương đối với người vợ
của mình mà đã mở rộng sang vận đề thái độ của Tú Xương đối với xã hội. Vai trò của
các câu kết trong thơ Tú Xương thường làm nhiệm vụ nâng cao, mở rộng ý nghĩa xã hội
của nội dung thơ như vậy. Nói kết nhưng lại là mở, chính là như vậy.

Bài thơ Thương vợ là tất cả tấm lòng biết ơn sâu sắc, là niềm thương cảm da diết của Tú
Xương đối với cuộc đời cần mẫn, nhân ái nhưng vất vả cực nhọc của bà Tú. Mặt khác,
cũng là sự tự phán, sự hối hận rất mực chân thành của Tú Xương về những thiếu sót
của mình đối với vợ, và đặc biệt cũng là thái độ của Tú Xương oán đời, giận đời bạc
bẽo, gây khổ cực cho những người chân chính như bà Tú. Cảm xúc nghệ thuật của Tú
Xương vừa có cái độ dày của cảm xúc truyền thống, của nhân dân, của văn học dân
gian, vừa nóng hổi cái cảm hứng thời cuộc của ông. Qua bài thơ Thương vợ, hiện lên

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

một bà Tú chưa phải là một bậc nghĩa liệt, nhưng là một người vợ, một người mẹ Việt
Nam với bao nhiêu phẩm chất cao quý: Chịu thương chịu khó, hy sinh tất cả cho chồng
cho con mặc dù cuộc đời phải ngược xuôi tất tả, tủi nhục, đắng cay. Thơ Thương vợ của
ông Tú, chữ nghĩa giản dị mà ý tình lại sâu nặng.

Đặt bài Thương vợ vào trong lịch sử thơ cả cũ mà đối chiếu, lại càng thấy nó đáng quý
bao nhiêu. Suốt thời đại phong kiến, trong văn học viết, hỏi đã mấy ai trực tiếp làm văn
thơ về người vợ của mình, trừ lúc vợ chết mà họ thường làm văn tế. Hai trường hợp;
Ngô thi sĩ viết Khúc ai lục, Phạm Nguyễn Du viết Đoạn trường lục là quả đặc biệt mà
chính hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỷ XVIII đã cho phép. Sự sụp đổ tan tành của chế độ
phong kiến Lê – Trịnh – Nguyễn, sự trỗi dậy mãnh liệt của trào lưu tư tưởng nhân đạo
chủ nghĩa của quần chúng, đã đề ra Đoạn trường lục và Khúc ai lục. Nhưng sau đó,
trong hoàn cảnh lịch sử đầu thế kỷ XIX cũng không còn những tác phẩm như vậy ra đời
nữa. Trước sau Tú Xương một ít, có Nguyễn Khuyến, Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội
Châu, đều có thơ văn khóc vợ. Có nhiều trường hợp khá chân thành, thắm thiết, nhưng
nói chung vẫn chưa ai làm thơ văn về vợ, đặc biệt là khi vợ chồng đang sống với nhau
kiểu Tú Xương. Phải chăng hệ ý thức phong kiến đã không cho phép những bà vợ Việt
Nam xưa trở thành đề tài trong thơ văn của chính những ông chồng của họ?. Ở phương
diện này, có lẽ Tú Xương thành ra một trường hợp mới mẻ, độc đáo của văn học. Bài
thơ Thương vợ cũng thành ra một hiện tượng đặc sắc, quý báu của lịch sử văn học dân
tộc.

(Giáo sư, nhà giáo nhân dân Nguyễn Đình Chú)

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Đề bài: Nỗi lòng thương vợ của nhà thơ được thể hiện như thế nào? Qua bài thơ, anh
(chị) có nhận xét gì về tâm sự và vẻ đẹp nhân cách của Tú Xương?

Bài làm

Thương vợ dựng lên hai bức chân dung: bức chân dung hiện thực của bà Tú và bức
chân dung tinh thần của Tú Xương. Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương,
dường như bao giờ người ta cũng gặp hai hình ảnh song hành: bà Tú hiện lên phía
trước và ông Tú khuất lấp ở phía sau.

Ở bài thơ Thương vợ cũng vậy, ông Tú không xuất hiện trực tiếp nhưng vẫn hiển hiện
trong từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi hài, trào phúng là cả một tấm lòng, không
chỉ là thương mà còn là biết ơn đối với người vợ nữa.

Yêu thương, quý trọng, tri ân với vợ, đó là những điều làm nên nhân cách của Tú
Xương. Ông Tú không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú lấy ông Tú là do
“duyên” nhưng “duyên” một mà “nợ” hai. Tú Xương tự coi mình là cái nợ đời mà bà
Tú phải gánh chịu. Vậy là thiệt thòi cho bà Tú. Duyên ít mà nợ nhiều. Có lẽ cũng chính
bởi điều đó mà ở trong câu thơ cuối, Tú Xương đã tự rủa mát mình: “Có chồng hờ hững
cũng như không”.

Điều lạ là dù xuất thân Nho học, song Tú Xương không nhìn nhận theo những quan
điểm của nhà nho: quan điểm “trọng nam khinh nữ”, “xuất giá tòng phu” (lấy chồng
theo chồng), “phu xướng, phụ tuỳ” (chồng nói vợ theo) mà lại rất công bằng. Tú Xương
dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám nhìn nhận ra những khuyết thiếu của
mình để mà day dứt. Một con người như thế là một nhân cách đẹp.

Đề bài: Lời “chửi” trong hai câu thơ cuối là lời của ai, có ý nghĩa gì?

Bài làm

Câu thơ cuối là lời Tú Xương, Tú Xương tự rủa mát mình, cũng là lời tự phán xét, tự lên
án:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không.

Hai câu kết chỉ ra hai nguyên nhân gây nên nỗi khổ của vợ: ấy là mình và đời. Đời đen
bạc, chồng hờ hững. Hận đời, giận mình chính là đính điểm của tình thương, là cao trào
của cay đắng khổ tâm. Câu thơ thực sự là tiếng chửi đời. Đời bạc, mình cũng bạc. Đời

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

bạc đã đày ải người vợ hiền và đời bạc đã biến mình thành ông chồng vô tích sự, ông
chồng bạc. Câu thơ là tiếng chửi đời căm phẫn, gay gắt nhưng sắc thái xỉ vả bản thân
còn thậm tệ hơn nữa. Lời chửi ẩn sâu từ trong tâm khảm sự thương yêu và có cả những
ngậm ngùi, chua xót đến đắng lòng.

*Nhận định về thơ Tú Xương:

1. Nguyễn Công Hoan suy tôn Tú Xương là “Bậc thần thơ thánh chữ”

2. Xuân Diệu xếp hạng Tú Xương thứ 5 sau Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương
và Đoàn Thị Điểm.

3. Nguyễn Tuân biểu dương Tú Xương là: “Một người thơ, một nhà thơ vốn nhiều công
đức trong cuộc trường kỳ xây dựng tiếng nói văn học của dân tộc Việt Nam”

4. Xuân Diệu viết về ông:

“Ông nghè ông thám vô mây khói

Đứng lại văn chương một tú tài”

5. Nếu đặt trong dòng chảy văn học Việt Nam, ít có nhà thơ trào phúng nào có giọng
điệu sắc sảo, sâu cay, quyết liệt như Tú Xương. Đã có ý kiến cho rằng: “Nhà thơ Trần Tế
Xương không hoa đao truyền hịch như các bậc đàn anh Phạm Văn Nghị, Vũ Hữu
Lợi…, nhưng ông có vũ khí đánh địch riêng, những bài thơ sắc như gươm, có sức mạnh
đâm trước chém sau vào thằng địch, kẻ cướp nước và quân bán nước.”

6. “Tú Xương xứng đáng đứng vào hàng những nhà thơ trào phúng lớn của thế giới”
(Giáo sư Albert Smit - Anh)

7. “Trong bầu trời thơ ca Việt Nam từ xưa đến nay, nếu chọn lấy năm ngôi sao sáng
nhất, thì Tú Xương là một trong năm ngôi sao ấy” (Jean Courier - Pháp)

8. “Học Tú Xương còn nhiều. Trên hết là học lòng yêu nước, yêu dân và căm thù những
bọn hại nước hại dân” (Chế Lan Viên)

9. “Tôi được ảnh hưởng nhiều nhất của Tú Xương, nên tôi truy tôn cụ Tú làm thầy học
và lấy biệt hiệu là Tú Mỡ, mặc dầu tôi không đỗ Tú tài và người chẳng có tí mỡ
nào.”(Tú Mỡ)

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

10. “Trong đó con người nhà thơ của Tú Xương cũng hiện lên rất rõ, từ dáng vẻ đến
tâm hồn, từ cá tính đến tâm sự, cả nỗi đau đến vẻ đẹp, vừa rất riêng, vừa tiêu biểu cho
cả một lớp người, một loại tâm trạng...”

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

BÀI CA NGẤT NGƯỞNG

*Dàn ý phân tích “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ

a, Mở bài

- Đôi nét về tác giả Nguyễn Công Trứ: một nhân vật lịch sử nổi tiếng in đậm dấu ấn
không chỉ trong văn chương mà còn trong nhiều lĩnh vực khác, thơ văn ông phản ánh
nhân sinh và thế sự sâu sắc

- Bài ca ngất ngưởng là một trong số những bài hát nói tiêu biểu thể hiện tài năng, chí
khí và ý thức cá nhân của Nguyễn Công Trứ

b, Thân bài

1. Cảm hứng chủ đạo

- “ ngất ngưởng” : thế cao chênh vênh, không vững, nghiêng ngả.

⇒ tư thế, thái độ cách sống ngang tàng, vượt thế tục của con người.

⇒ Phong cách sống nhất quán của Nguyễn Công Trứ, Tác giả có ý thức rất rõ về tài
năng và bản lĩnh của mình, kể cả khi làm quan, ra vào nơi triều đình và khi đã nghỉ
hưu.

2. 6 câu đầu

- “ Vũ trụ nội mạc phi phận sự”: thái độ tự tin khẳng định mọi việc trong trời đất đều là
phận sự của tác giả ⇒ Tuyên ngôn về chí làm trai của nhà thơ.

- “Ông Hi Văn…vào lồng”: Coi nhập thế là việc làm trói buộc nhưng đó cũng là điều
kiện để bộc lộ tài năng

- Nêu những việc mình đã làm ở chốn quan trường và tài năng của mình:

+ Tài năng: Giỏi văn chương (khi thủ khoa), Tài dùng binh (thao lược)

⇒ Tài năng lỗi lạc xuất chúng: văn võ song toàn

+ Khoe danh vị, xã hội hơn người: Tham tán, Tổng đốc, Đại tướng (bình định Trấn Tây),
Phủ doãn Thừa Thiên

⇒ Tự hào mình là một người tài năng lỗi lạc, danh vị vẻ vang văn vẻ toàn tài.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

⇒ 6 câu thơ đầu là lời từ thuật của nhà thơ lúc làm quan, khẳng định tài năng và lí
tưởng phóng khoáng khác đời ngạo nghễ của một người có khả năng xuất chúng

3. 10 câu tiếp

- Cách sống theo ý chí và sở thích cá nhân:

+ Cưỡi bò đeo đạc ngựa.

+ Đi chùa có gót tiên theo sau.

⇒ Sở thích kì lạ, khác thường, thậm chí có phần bất cần và ngất ngưởng

+ Bụt cũng nực cười: thể hiện hành động của tác giả là những hành động khác thường,
ngược đời, đối nghịch với quan điểm của các nhà nho phong kiến.

⇒ Cá tính người nghệ sĩ mong muốn sống theo cách riêng

- Quan niệm sống:

+ “ Được mất ... ngọn đông phong”: Tự tin đặt mình sánh với “thái thượng”, tức sống
ung dung tự tại, không quan tâm đến chuyện khen chê được mất của thế gian

+ “Khi ca… khi tùng” : tạo cảm giác cuộc sống phong phú, thú vị, từ “khi” lặp đi lặp lại
tạo cảm giác vui vẻ triền miên .

+ “ Không …tục”: không phải là Phật, không phải là tiên, không vướng tục , sống thoát
tục ⇒ sống không giống ai, sống ngất ngưởng

⇒ Quan niệm sống kì lạ khác thường mang đậm dấu ấn riêng của tác giả

4. 3 câu cuối

+ “ Chẳng trái Nhạc.. Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung”: Sử dụng điển cố , ví mình
sánh ngang với những người nổi tiếng có sự nghiệp hiển hách như Trái Tuân, Hàn Kì,
Phú Bật…

⇒ khẳng định bản lĩnh, khẳng định tài năng sánh ngang bậc danh tướng. Tự khẳng
định mình là bề tôi trung thành.

+ “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”: vừa hỏi vừa khẳng định vị trí đầu triều về
cách sống “ngất ngưởng”

⇒ Tuyên ngôn khẳng định cá tính, sự mong muốn vượt ngoài quan điểm đạo đức Nho
gia thông thường. Đối với ông, ngất ngưởng phải có thực danh và thực tài

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

5. Đặc sắc nghệ thuật:

- Vận dụng thành công thể hát

- Giọng điệu thơ hóm hỉnh, trào phúng

- Sử dụng điển tích, điển cố

c, Kết bài

- Khẳng định những nét tiêu biểu nhất về nội dung và nghệ thuật của Bài ca ngất
ngưởng

- Liên hệ trình bày suy nghĩ bản thân

Đề bài: Phân tích “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ

Bài làm

Nếu được phép hiểu con người một cách giản đơn thì nhìn vào cụ Uy Viễn tướng công
ta sẽ thấy rõ hai nét: Thấm nhuần đến chân tơ kẽ tóc đạo trung hiếu Nho gia và ý thức
rất rõ về tài đức của mình, cố đem hết tài đức ấy cống hiến để làm nên sự nghiệp và
danh tiếng để đời. Chí hướng và nhiệt huyết ấy ít ai bì kịp. Nguyễn Công Trứ – ông
quan kinh bang tế thế lại có một tâm hồn nghệ sĩ, cống hiến thì hết mình nhưng việc
xong, công thành, lại tự thưởng cho mình được vui chơi – vui chơi thanh nhã: Nợ tang
bồng một khi đã trắng thì vỗ tay reo và thơ túi rượu bầu, hoặc hẹn với những ông cao
niên tiên ẩn sĩ nào đó ở tận chốn thâm sơn cùng cốc và thả hồn theo nào địch nào đàn...

Có thể coi Bài ca ngất ngưởng là một bài tự thuật ngắn gọn có ý nghĩa tổng kết cuộc đời
và tính cách của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ. Lời lẽ gọn mà vẫn đủ. Điệu
thơ gửi vào thể ca trù nhiều tự do, ít khuôn phép, là thơ mà cũng là ca, là nhạc.

Không rõ tựa đề bài thơ này tự cụ đặt hay người sưu tập đưa vào, nhưng tinh thần
chung vẫn là kẻ nói lên sự ngất ngưởng. Không chỉ ở đầu đề mà toàn bài còn có thêm
bốn chữ nữa, một sự cố ý trùng lặp thành điệp khúc, đúng vào chỗ tóm tắt và đúc kết
một ý bày lên trên hay ẩn giấu ở dưới.

Phong thái ấy của Nguyễn Công Trứ vốn có từ nhỏ nhưng nó bộc phát mạnh mẽ và
không giấu giếm nhất là sau thời điểm Đô môn giải tổ chi niên (được trả ấn từ quan,
vua cho về nghỉ). Bởi dù sao trong một thái độ ngất ngưởng như thế không bao giờ
được phép lọt vào mắt vào tai các vua chuyên chế của triều Nguyễn.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Cho nên mở bài vẫn phải phô ra cái nét thứ nhất (như bên trên đã giải bày): Vũ trụ nội
mạc phi phận sự, tác giả đặt mình ngang tầm vũ trụ nhưng rồi cũng khiêm tốn, kín mà
hở nói tiếp ngay: Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng. Vào lồng là vào khuôn phép vua chúa
nhưng vẫn là chật hẹp, tù túng trái với bộ đội trời đạp đất của ông.

Nhà thơ vừa mới tự đề cao vai trò của mình trong vũ trụ ở câu thứ nhất thì lập tức tự
chê mình đã đem cái tài ba ấy nhốt vào lồng ở câu thứ hai nhưng dù sao vẫn nổi hẳn
lên sự khoan khoái, tự hào khi nhắc tới đôi cái mốc của đời mình, dù mỗi sự kiện chỉ
nhắc đến bằng vài chữ, như bất cần, không có gì quan trọng.

Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông.

Lúc bình Tây cờ đại tướng,

Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.

Giọng thơ kể toàn chuyện lớn lao hiển hách mà nghe như nói chơi. Đỗ Thủ khoa (đỗ
đầu cử nhân khoa thi hương), làm Tham tán quân sự...chức vị ấy nói sơ qua cũng được.
Nhưng làm đến Tổng đốc Hải An (Hải Dương và Quảng Yên), một chức quan to trong
tỉnh hay lĩnh chức đại tướng bình Tây (xứ Tây Nam nước ta) mà chỉ gọi cộc lốc khi
Tổng đốc Đông và bình Tây, cờ đại tướng thì thật sự Nguyễn Công Trứ không coi
những chức tước ấy đều là vẻ vang lớn nhất đối với mình. Tất cả chỉ là phận sự trong
vũ trụ, đến tay mình thì làm, cái cốt yếu đã làm hết lòng hết sức. Chẳng phải cụ đã từng
nói: Làm tổng đốc tôi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng không coi là nhục đó sao?.
Cho nên, câu tổng kết: Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng khẳng định, đối với công
danh, dù Tổng đốc, dù đại tướng cụ coi cũng nhẹ tênh. Đó là một loại ngất ngưởng.

Tiếp theo là một hành ngất ngưởng hơi bất thường: người giàu sang thì cưỡi ngựa, còn
cụ lại cưỡi bò và cho bò đeo đạc ngựa:

Người đời bảo cụ khác người, có kẻ cho là cụ đặt mình lên trên dư luận. Xét ra có thể
còn xa hơn thế, cụ cho bò đeo nhạc ngựa cũng là một cách chơi ngông. Hơn nữa, hành
động ấy xảy ran gay sau ngày cụ về nghỉ việc quan. Vừa nêu rõ năm tháng mình thôi
đeo ấn vua ban, đô môn giải tổ chi niên (giải tổ có nghĩa là cởi dây đeo ấn) thì lại cho
ngay bò mình cưỡi đeo đạc ngựa để cho nó cùng ngất ngưởng như mình? Ai suy diễn
ra điều này chắc không khỏi cho hành vi của cụ là xấc xược. Đó là hai thứ ngất ngưởng.

Ba là ngất ngưởng cả với Bụt:

Kìa núi nọ phau phau mây trắng,

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.

Cười bò lên thăm chùa ở núi Nài mây phủ trắng phau, cụ cười mình là: Tay kiếm cung
mà nên dạng từ bi, kỳ thực đó là cái dạng thôi. Bởi theo hầu cụ có một đoàn gót sen
“tiên nữ” đủng đỉnh một đôi dì là các cô ả đầu. Không những chẳng từ bi chút nào mà
còn bất kính là đằng khác. Tuy vậy nhưng vẫn rất tự nhiên. Và cụ khiến But không
những chẳng chau mày quở trách mà còn nực cười độ lượng với ông quan thượng già.

Đến chùa, cụ đâu có lễ Phật mà bày tiệc ca hát, một tiệc hát ả đào có cả đàn kịch, trống
phách hẳn hoi. Nhà chùa chắc cũng vì nể uy cụ mà làm lơ. Cụ được tất cả tục luỵ mà
lâng lâng bay bổng trên chín tầng mây, phơi phới luồng ấm mát của gió xuân.

Được mất dương dương người thái thượng,

Khen chê phơi phới ngọn đông phong.

Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.

Không Phật, không Tiên, không vướng tục.

Cá tính thượng thư bốc lên hết cỡ trong roi chầu tài hoa của cụ. Bấy giờ thì mọi sự đời,
cái được, cái mất, miệng khen, miệng chê...tất cả đều coi như không có. Hồn cụ lâng
lâng ở cõi mây trong lành, cao khiết, lời thơ vút lên hào hứng: Được mất/ dương dương
người thái thượng: Khen chê/ phơi phới ngọn đông phong. Con người có bay bổng trên
tầng cao, trong say sưa âm nhạc của điệu ca, tiếng trống. Khi ca/ khi tửu/ khi cắc, khi
tùng. Dù cuộc vui bày trong của Phật có các cô tiên tham dự mà mình vẫn trong sạch,
thanh cao. Không phật, không Tiên, không vướng tục:

Đây là đoạn thơ rõ nhất và cũng là đoạn hay nhất của bài thơ. Hai câu trước trải dài,
thanh thoát cao siêu như tấm lòng không còn vướng chút bụi trần trong nhịp điệu
thênh thang thì hai câu sau là nhịp ca, nhịp trống, nhịp phách, nhịp rượu chúc mừng,
rồi dồn lên rối rít để chấm dứt ở một chữ mang thanh trắc, đục, mạnh, chấm dứt câu
thơ cũng là nện mạnh xuống mặt trống để tự thưởng, tự hào, tự khằng định cái tài tình,
cái khoáng đạt của tâm hồn mình.

Riêng mấy câu thơ ấy cũng đủ bộc lộ tâm tính của Uy Viễn tướng công, giúp ta hiểu
được phần nào cái ngất ngưởng và Bài ca ngất ngưởng này của cụ.

Kết thúc bài thơ, Nguyễn Công Trứ cũng phải trở lại cái điệp khúc nhàm chán của đạo
sơ chung với triều Nguyễn, mặc dù câu đó chỉ đặt giữa một câu tự đánh giá cao và một
câu như muốn thách thức với cả triều đình:

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung,

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!

Nội dung ngất ngưởng bất chấp dư luận, bất cần mọi sự đã tìm được ở thể ca trù một
âm hiệu hoàn toàn thích hợp, câu ngắn, câu dài tuỳ ý, vẫn liền từng cặp xen lẫn đều
đặn bằng trắc: niêm luật tự do, đối không bắt buộc, âm điệu quyết định ở trạng thái tâm
hồn nhà thơ: bi thương, hùng tráng, cười cợt..

Giọng điệu bài thơ mang nét độc đáo của tác giả: tự hào gần như tự phụ, thậm chí đến
ồn ào. Hai nét lớn trong tính cách cụ không hề che giấu, công tích lớn mà kể coi như
chuyện thường tình, còn thú chơi ngông thì lại đề cao tột bậc.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Đề bài: Bình giảng “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ

Bài làm

Bài ca ngất ngưởng được viết theo thể ca trù, một lối thơ gần với thơ tự do sau này. Bài
thơ tuy có những dòng “tự thuật” của tác giả, nhưng vần là một tác phẩm trữ tình, bộc
lộ khá rõ tâm hồn, tư tưởng, nhàn cách của Nguyễn Công Trứ. Cố người xem đây như
một “tuyên ngôn” bằng thơ của ông. Bởi vậy, Bài ca ngất ngưởng có giá trị khá tiêu biểu
cho sáng tác của Nguyễn Công Trứ.

Nguyễn Công Trứ viết khá nhiều bài ca trù (trên sáu mươi bài). Trước và sau ông trong
văn học Việt Nam, cũng có một số người viết, nhưng ca trù của Nguyễn Công Trứ ở
vào hàng xuất sắc. “Nếu như ngâm khúc thể hiện một con người cô đơn đau xót đi tìm
những giá trị của mình đã bị mất mát thì thể thơ hát nói, một thể thông dụng trong ca
trù lại thể hiện một con người tài tứ thoát vòng cương toả, thoát sáo, thoát tục luỵ, danh
lợi, nắm lấy phút vui hiện tại.

Không chỉ viết ca trù, đương thời nhà thơ Nguyễn Công Trứ còn tham gia sinh hoạt loại
hình nghệ thuật này Giá trị của Bài ca ngất ngưởng là ở chỗ, đây là bài thơ duy nhất
Nguyễn Công Trứ trực tiếp thể hiện thái độ phong cách sống của mình. Sự thể hiện đó
chỉ có thế có được trên cơ sở một sự tự ý thức sâu sắc về những giá trị của bản thân, về
chốn quan trường và rộng hơn là cả xã hội thời bấy giờ. Điều này, trong văn học trung
đại Việt Nam, khá hiếm hoi, nhất là với những nhà thơ tham gia vào chốn quan trường.
Nói rộng hơn, những kiểu tự ý thức như Nguyễn Công Trứ báo hiệu cho sự đòi hỏi bức
thiết về sự xuất hiện và khẳng định cái tôi trong văn học cũng như ngoài đời. Hơn nữa,
bài thơ được Nguyễn Công Trứ viết khi đã cáo quan về nghỉ và bước vào tuổi bảy
mươi. Do đó, nó là sự tổng kết, tự đánh giá một cách nghiêm túc, sâu sắc của một người
từng trải, chứ không phải nhất thời, bồng bột khi ở tuổi thanh xuân.

Bài thơ có tên: Bài ca ngất ngưởng. Điểm đáng chú ý là từ ngất ngưởng, chứ không phải
là “bài ca” (cùng thời với Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát cũng viết nhiều bài ca: Sa
hành đoản ca – Bài ca ngắn đi trên cát, Đằng tiên ca – Bài ca cái roi song…). Từ “ngất
ngưởng” vốn diễn tả trạng thái không vững, ở chỗ cheo leo, dễ đổ, dễ rơi. Đấy là lớp
nghĩa thông thường, càng không phải ở trong trường hợp của Nguyễn Công Trứ. Đáng
chú ý hơn, trong bài thơ, tác giả sử dụng tất cả năm lần (kể cả tiêu đề). Hai lần đầu
trong bài, từ ngất ngưởng xuất hiện ở cuối một khổ thơ, có tác dụng nhấn mạnh.

Lần thứ nhất, kể từ khi ông Hi Văn đỗ Thủ khoa, rồi làm quan Tham tán và tới chức vụ
rất cao (Tổng đốc), ông đã ngất ngưởng. Rồi khi bình Tây, lúc về Phủ doãn Thừa Thiên
và tới ngày đô môn giải tổ, ông đều ngất ngưởng. Khi thực sự cáo quan, sống cuộc sống

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

bình thường, ông càng ngất ngưởng. So ra, trong triều, chẳng có ai ngất ngưởng như
ông. Như vậy, ngất ngưởng là một thái độ, một phong cách sống của Nguyền Công
Trứ. Nó vượt lên muôn vạn người thường, nó cũng không Phật, không tiên, không
vướng tục. Nó là một cá nhân – cá thể, là bản ngã của chính nhà thơ.

Có thể nói, bộ phận thơ ngôn chí trong di sản thơ Nguyễn Công Trứ là những bài thơ có
giá trị nghệ thuật cao, mà trong đó bài thơ Bải ca ngất ngưởng có một vị trí quan trọng.
Bài thơ mang dáng vẻ một lời tuyên ngôn nhưng thực sự chính là bản tổng kết cả cuộc
đời mình cua Nguyễn Công Trứ.

Thật đặc biệt, cả cuộc đời làm quan, nhìn lại, ông chỉ tự định giá bằng bốn từ: ngất
ngưởng.

Trước hết, đó là ngất ngưởng khi “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”, có nghĩa là sự ngất
ngưởng khi Nguyễn Công Trứ đã bước vào hoạn lộ, ông đang “đắc chí”. Làm nên sự
ngất ngưởng lúc này là tài và chí. Cũng như tất cả những nhà nho dấn thân hành đạo,
Nguyễn Công Trứ lập chí ở việc “kinh bang tế thế” (trị nước giúp đời). Đó là sự nghiệp,
đương nhiên có công ắt có danh. Nguyễn Công Trứ đã coi điều đó – công danh – là lẽ
sống: “Không công danh thà nát với cỏ cây”; đã làm trai đứng trong trời đất “phải có
danh gì với núi sông”. Với một quan niệm “chí làm trai” như thế, Nguyễn Công Trứ đã
“vơ” tất cả mọi việc trong thiên hạ vào phận sự của mình: Vũ trụ nội mạc phi phận sự.
Cũng không mấy nhà nho hào phóng tự tin đến thế trong việc tự nhận trách nhiệm với
đời. Và quả thật trong 28 năm, từ khi thi đỗ đến khi nghỉ quan, Nguyễn Công Trứ đã
chứng tỏ tài thao lược của mình. Ông đã liệt kê hàng loạt sự việc lớn:

Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông…

Lúc bình Tây, cờ Đại tướng,

Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.

Tất cả, Nguyễn Công Trứ đã thực hiện một cách “ngang ngửa với đời” (nói như ngôn
từ đang được lưu hành trong dân gian gần đây):

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng

Nguyễn Công Trứ đã tỏ ra tự bằng lòng về mình! Ngất ngưởng là một từ tự khen, thể
hiện sự đánh giá cao tài năng, nhân cách và cả phong cách cá nhân mình trong thời gian
ở cương vị mà những con người thiếu bản lĩnh rất dễ bị tha hoá: quyền cao chức trọng.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Tuy nhiên đối với Nguyễn Công Trứ, công danh không chỉ là vinh mà còn là nợ, là
trách nhiệm. Vì thế ông đã coi đó là sự “dấn thân”, tự nguyện đem tự do, tài hoa nhốt
vào vòng trói buộc:

Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.

Một nhà nghiên cứu đã bình luận “giọng văn hơi khoa trương và không gây khó chịu là
bởi nhà thơ rất có ý thức về tài năng và phẩm hạnh của mình”; nhưng có lúc cần nói
thêm: chính là nhờ sự giảm đẳng của ngữ khí trào lộng và cụm từ “tay ngất ngưởng”.
Nguyễn Công Trứ đã “ngang trời dọc đất” nhưng bằng sự từng trải trong cuộc đời
nhiều thăng trầm, nhìn lại ông đã nhận ra tất cả đều không hẳn là quan trọng, vững bền
và dường như còn không hoàn toàn nghiêm chỉnh, cũng gần như một thứ trò đùa.
Không hẳn là Nguyền Công Trứ phủ định công tích của mình nhưng ông đã nhìn nó
với một cái nhìn có phần khinh bạc.

Thứ hai là trạng thái ngất ngưởng trên lưng bò vàng đeo đạc ngựa khi nghỉ quan.

Thông thường, sự kiện cởi mũ áo nghỉ quan là một việc hết sức hệ trọng, một bước
ngoặt trong đời đối với một người làm quan mà lại là quan to như ông. Nhưng với
Nguyễn Công Trứ thì chuyện đó cũng chẳng làm ông bận tâm. Ông không lưu luyến gì
và rất muốn “phủi sạch tay trước khi ra về” như giáo sư Trương Chinh nhận định.
Ngày 3 tháng 8 năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) khi xin về hưu, ông đà làm đơn nộp trả lại
hết bằng sắc cho triều đình và ngày “đô môn giải tổ” chỉ còn đọng lại duy nhất trong
ông một sự kiện ngất ngưởng:

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.

Nguyễn Công Trứ đã làm một việc ngược đời, đã bày ra một đối nghịch: kinh thành
đầy vồng lọng, ngựa xe nghiêm trang, còn ông thì ngất ngưởng trên lưng con bò vàng
nghênh ngang đủng đỉnh! Không những thế, con bò của ông cũng biểu hiện một sự trái
khoáy: đã là bò, một loài vật thấp kém, lại còn là bò cái, nhưng được trang sức bằng đạc
ngựa – đồ trang sức sang trọng của loài gia súc cao quý. Tương truyền Nguyễn Công
Trứ còn cho buộc mo cau vào đuôi bò ở cái chỗ cần che nhất với một tuyên ngôn ngạo
ngược: “để che miệng thế gian”! Nguyễn Công Trứ đã trêu ngươi, khinh thị cả thế gian
kinh kì. Không những riêng ông mà cả con bò vàng của ông cũng ngất ngưởng.

Thứ ba là ngất ngưởng trong “dạng từ bi” đến nỗi Bụt cũng phải nực cười.

Nguyễn Công Trứ nghi quan, cương vị, chức phận và cuộc sống đã thay đổi, mà thay
đổi sâu sắc: một ông tướng quyền sinh quvền sát “tay kiếm cung” đã trở thành một ông
già mang dáng từ bi. Nguyễn Công Trứ đã để lại đằng sau cả một thời vùng vẫy ngang

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

dọc, còn phía trước, chờ đón ông, dường như là một sự trống vắng: chỉ có núi Đại Nại
quê ông với những tầng mây trắng phau:

Kìa núi nọ phau phau mây trắng.

Câu thơ trữ tình, gợi một chút bâng khuâng, thoáng ý vị chua chát. Hình ảnh những làn
mây trắng – rất trắng – trên đỉnh núi gợi nhiều liên tưởng. Nó biểu tượng cho những gì
rất thanh, rất cao nhưng nhẹ tênh, mong manh và vô định. Tất cả sẽ là hư vô chăng,
“bạch vân thương cẩu” (mây trắng biến ra hình chó xanh) chăng?

Tuy nhiên Nguyễn Công Trứ vốn là một tính cách mạnh, sự bâng khuâng triết học đó
không dừng lại lâu trong ông. Ông đã nhanh chóng chọn lối sống phá cách đủ để “thích
ý”:

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.

Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng!

Ở đây cùng vậy, giữa Nguyễn Công Trứ và thế gian lại diễn ra những điều trái ngược:
dạng từ bi nhưng lại sống tiên cách. Nguyễn Công Trứ đã không đi tu khổ hạnh, cùng
không theo những phương pháp nghiên cứu Thiền học để tìm đến sự giác ngộ mà trái
lại ông sống phóng túng, thảnh thơi, vui vẻ. Những cuộc dạo chơi, cả khi lên chùa theo
sau ông, cũng có vài bóng “hường hường yến yến”. Tuy nhiên lúc này Nguyễn Công
Trứ dường như không còn “hết mình” trong những cuộc hành lạc “Chơi cho thủng
trống long bồng”. Trạng từ đủng đỉnh, nhân dạo số từ không xác định một, đôi rất có
giá trị gợi tả, giúp cho người đọc hình dung ra một nhóm người thũng thẳng du ngoạn,
kể cả lèn chùa, trong đó có sự trang nghiêm của ông già và sự nhùng nhẵng của những
cô gái trỏ. Đó quả là một hiện tượng “trái mắt” nhưng nó chỉ đủ để biểu thị sự trêu
ngươi, bất cần của tác giả chứ không thể đủ để lên án ông “đắm say tửu sắc”. Chính vì
thế Bụt cùng phải bật cười – một nụ cười vừa như khoan dung vừa như chấp nhận.

Cuối cùng kết luận, Nguyễn Công Trứ tự coi sự ngất ngưởng là nét độc đáo, khác đời
cứa nhân cách ông.

Ở các đoạn trôn Nguyễn Công Trứ đà định nghĩa con người mình từng giai đoạn: một
tay ngất ngưởng ở quan trường, một cách làm ngất ngưởng khi nghỉ quan và một cách
sống ngất ngưởng khi đả là một là một hưu quan. Đoạn này, Nguyễn Công Trứ đánh
giá con người mình một cách tổng quát, toàn diện. Ông là một người không quan tâm
đến chuyện được mất, không bận lòng về sự khen chê, có những khi hành lạc: uống
rượu, cô đầu con hát, nhưng rốt cuộc lại ông không phải là người của Phật, của tiên mà

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

vẫn là một con người của cuộc đời, duy có điều: không vướng tục. Người như thế thật
là một nhân cách, một bản lình cao, đã “chấp” tất cả, đã không để luỵ và khinh thị tất cả
những gì của thói thường. Tuy vậy, cuối cùng Nguyễn Công Trứ vẫn là một nhà nho,
mặc dù các bậc “phương diện quốc gia” không ưa ông và ông cũng không ưa được họ,
ông vẫn luôn bày ra những sự trái ngược với hộ song trong phấn sâu thẳm của tâm
hồn, lí tưởng mà ông theo đuổi suốt đời không thế nào từ bỏ vẫn là lòng trung quân,
giúp đời:

Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú

Nghĩa vua tôi chơ vẹn đạo sơ chung.

Tống kết cuộc đời mình, Nguyễn Công Trứ tự cho rằng hai điều quan trọng nhất đối
với kẻ nam nhi là trách nhiệm “kinh bang tế thế” và đạo nghĩa vua tôi. Ong đã giữ được
trọn vẹn, đã thực hiện một cách xuất sắc, sánh được với những danh tướng thời xưa.
Chính vì vậy, Nguyễn Công Trứ dám ngông ngạo buông một câu khẳng định chắc nịch
đầy vẻ thách thức:

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!

Thơ Nguyên Cồng Trứ phong phú, nhiều vẻ Bài ca ngất ngưởng có một vị trí đặc biệt.
Nó vừa là lời tuyên ngôn về quan niệm, phong cách sống, vừa tự khẳng định về nhân
cách, sự nghiệp của chính mình. Chính nhờ bài thơ này với những đặc sắc nghệ thuật
của nó mà hậu thế định hình một chân dung Nguyễn Công Trứ: con người ngất
ngưởng.

(PGS.TS. Trần Thị Băng Thanh)

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Đề bài: Phân tích cái “tôi” trong “Bài ca ngất ngưởng”

Bài làm

Nguyễn Trứ đã từng viết:

“Kiếp sau xin chớ làm người

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo”

Ông nguyện làm cây thông để đứng giữa đất trời mà đón gió bốn phương, để cất lên
tiếng hát ung dung, tự tại, thể hiện lối sống “ngất ngưởng”. Lối sống ấy đã thấm nhuần
trong sáng tác của ông và đặc biệt trong tác phẩm Bài ca ngất ngưởng cái tôi ngất
ngưởng được bộ lộ rõ nét hơn bao giờ hết.

Trước hết về từ “ngất ngưởng” có nghĩa là tư thế đứng cao chênh vênh, không vững
chãi đối với sự vật. Còn đối với con người thể hiện một cách sống, thái độ sống ngang
tàng, vượt lên trên những luân lí thông thường. Đối với Nguyễn Công Trứ, ngất
ngưởng là phong cách sống nhất quán của ông nó được biểu hiện nhất quán từ khi ông
ra làm quan cho đến khi ông lui về quê nhà nghỉ ngơi.

Trong tác phẩm, cái tôi ngất ngưởng trước hết thể hiện trong việc ông tự nhận thấy vai
trò trách nhiệm của mình đối với cuộc đời: Vũ trụ nội mạc phi phận sự/ Ông Hi Văn tài
bộ đã vào lồng. Có mấy ai được như Nguyễn Công Trứ dám khẳng định phận sự của
bản thân trong trời đất. Nếu như các nhà thơ khác thường thể hiện chí làm trai: “Làm
trai phải lạ ở trên đời/ Há để càn khôn tự chuyển dời” (Phan Bội Châu) còn đối với
Nguyễn Công chứ ông lập tức khẳng định vai trò trách nhiệm của bản thân đối với trời
đất, với dân với nước. Đây cũng chính là tuyên ngôn của nhà thơ về chí làm trai, nó trở
thành quan niệm sống nhất quán trong sự nghiệp sáng tác của ông: “Chí làm trai Nam
Bắc Đông Tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể” hay “Đã mang tiếng ở trong trời
đất/ Phải có danh gì với núi sông” “Khắp trời đất dọc ngang, ngang dọc/ Nợ tang bồng
vay trả, trả vay”. Đây đồng thời cũng thể hiện cái tôi “ngất ngưởng” nhất quán trong
sáng tác của ông. Đối với ông đã làm trai ở trong trời đất thì phải “đầu đội trời chân
đạp đất”, phải làm những việc có ích cho nước, cho đời.

Để minh chứng cho tài năng của mình, đồng thời cũng là thể hiện cái tôi ngông ngạo
hơn đời, Nguyễn Công Trứ đã liệt kê những chức danh mình đã từng làm khi ở chốn
quan trường:

Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Lúc bình Tây, cờ đại tướng

Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên

Ông Hi Văn là một người có thực tài và thực danh. Ông mang tài học hành của bản
thân để thi thố với thiên hạ: “Cái nợ cầm thư phải trả xong”, đỗ Thủ khoa trường Nghệ
An. Làm quan võ, giữ chức Tham tán đại thần đi dẹp loạn ở Cao Bằng; làm quan văn, là
Tổng đốc Đông (Hải Dương và Quảng Yên - Quảng Ninh). Câu thơ với nhịp nhanh,
giọng thơ đầy vui sướng, hào sảng bộc lộ niềm tự hào khẳng định bản thân là một
người có tài năng lỗi lạc.

Bằng lời tự thuật hết sức chân thành đồng thời cũng đầy tự hào Nguyễn Công Trứ đã
khẳng định tài năng lí tưởng trung quân, lòng tự hào về phẩm chất cũng như năng lực
của chính mình. Dù trong chốn quan trường nhiều o bế nhưng lối sống tài tử, phóng
khoáng, cái tôi ngạo nghễ, ngất ngưởng, khác đời vẫn được thể hiện một cách trọn vẹn.
Đó là thái độ sống của người quân tử đầy lí tưởng, bản lĩnh, tự tin và kiên cường.

Sau nhiều năm cống hiến cho nước, cho đời, Nguyễn Công Trứ cáo quan về ở ẩn, lúc
này cái tôi ngất ngưởng của ông có cơ hội bộ lộ, thể hiện rõ hơn bao giờ hết. Lối sống
theo ý thích, sở nguyện của cá nhân: cười bò đeo đạc ngựa; đi chùa nhưng lại có gót tiên
theo sau; khi ca khi tửu, khi cắc, khi tùng. Cuộc sống phiêu diêu, vui hưởng những thú
vui trần tục. Ông không màng đến chuyện khen chê, được mất của thế gian: “Được mất
dương dương người thái thượng/ Khen chê phơi phới ngọn đông phong” ông tự sánh
minh với bậc danh tướng và tự khẳng định lòng trung với vua:

Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú

Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung

Trong triều ai ngất ngưởng như ông

Bản ngã ngất ngưởng một lần nữa được bộc lộ qua ba câu thơ cuối bài. Ông tự khẳng
định mình là người trung thần, làm tròn đạo vua tôi, điều này đúng với thực tế làm
quan của ông, ông cống hiến hết mình cho đến năm 70 tuổi mới cáo quan về ở ẩn. Điều
này đồng thời cũng thống nhất với quan niệm về chí làm trai “Vũ trụ nội mạc phi phận
sự” đã được ông nêu ở phần đầu tác phẩm. Với lối so sánh bản thân ngang hàng với
bậc anh hùng như: Nhạc Phi, Hàn Kì,… của Trung Quốc ông đã một lần nữa khẳng
định tài năng cũng như công lao của mình một cách đĩnh đạc, hào hùng. Và cũng từ
những chiến công đó ông có thể mạnh mẽ, dõng dạc tuyên bố với toàn thiên hạ: “Trong
triều ai ngất ngưởng như ông”. Cái ngất ngưởng của lối sống tự do của bậc tài tử, ông
không ngần ngại tự khẳng định tài năng, nhân cách của mình. Thái độ sống ngất

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

ngưởng đầy thách thức ấy cũng chính là sự thách thức với những tôn ti, trật tự với xã
hội phong kiến đương thời.

Cái tôi ngất ngưởng, ngông ngạo của Nguyễn Công Trứ đã được thể hiện một cách trọn
vẹn, đầy đủ nhất qua thể hát nói đầy tự do, phóng túng, chính thể loại đã góp phần làm
bật lên cái tôi vượt ra ngoài khuôn khổ của tác giả. Cái tôi ngông ngạo, của tác giả là cái
tôi hơn đời, dám khẳng định tài năng và nhân cách của bản thân, đó là còn là cái tôi
cống hiến hết sức mình cho đời, cho nước.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

*Nhận định về Nguyễn Công Trứ:

1. "Tôi xin bái phục, nghìn lần bái phục cụ Nguyễn Công Trứ. Tôi giờ mới thật hiểu cụ.
Thật là một người có một không hai. Tài đến rứa là cùng, khí phách đến rứa là cùng,
đức độ làm quan đến rứa là cùng, mà chơi nhởi cũng hay đến rứa là cùng". (Tố Hữu)

2. “ Trong thơ văn Nguyễn Công Trứ có một cái gì chưa từng có trong văn chương Việt
Nam - một nguồn cảm hứng mau lẹ, quả quyết như một đội cảm tử. Cái thể ca trù nhờ
phép thần của Nguyễn Công Trứ đã trở nên một thể cách hoàn toàn Việt Nam, rất thích
hợp với những sự diễn xuất hùng mạnh... Tôi nhớ như có lần ông Huỳnh Thúc Kháng
ví cái điệu thơ ấy với thuỷ triều, thật không phải là một lời nói vu vơ...” (Nhà thơ Lưu
Trọng Lư).

3. Biện Minh Điền nhận xét: “Thơ văn Nguyễn Công Trứ bao hàm một nội dung khá
phức tạp, kết tinh một trạng thái ý thức của thời đại vừa ca tụng lối sống hưởng lạc, cầu
nhàn; vừa ca tụng Nho giáo lại vừa ca tụng Đạo giáo; vừa lạc quan tin tưởng lại vừa bi
quan thất vọng; vừa tự khẳng định mình lại vừa phủ định mình, v.v.. Nguyễn Công
Trứ là một khối mâu thuẫn lớn”

4. Nguyễn Duy Diễn xác định: “Thi ca Nguyễn Công Trứ như đã trình bày trên, có hai
màu sắc tương phản rõ rệt: đó chính là điểm hào hùng, tranh đấu, và điểm tài hoa,
phóng dật. Chính do ở điểm tài hoa, phóng dật này mà ông đã tạo được những câu thơ
có một vẻ đẹp trác tuyệt, kỳ thú, làm say mê chúng ta không kém, hay có khi hơn cả
những câu thơ hào hùng, mạnh mẽ của ông nữa. Nếu phê bình Nguyễn Công Trứ mà
chỉ nói tới cái “ý tưởng mạnh mẽ, từ điệu rắn rỏi” thì e có sự hẹp hòi, và đồng thời hạ
thấp và thu hẹp giá trị thi ca của ông lại vậy”

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

CÂU CÁ MÙA THU


*Dàn ý phân tích “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến

Mở bài

- Đôi nét về tác giả Nguyễn Khuyến: một tác giả chịu ảnh hưởng đậm nét tư tưởng Nho
giáo, sáng tác của ông thường về đạo đức con người, người quân tử. Sau khi thấy thực
tại rối ren, ông ở ẩn sáng tác các tác phẩm thể hiện sự hòa hợp với thiên nhiên thanh
tịnh

- Bài thơ Câu cá mùa thu: Là một bài thơ trong chùm thơ thu ba bài được sáng tác trong
thời gian tác giả ở ẩn

b, Thân bài

1. Hai câu đề

- Mùa thu gợi ra với hai hình ảnh vừa đối lập vừa cân đối hài hoà “ao thu”, “chiếc
thuyền câu” bé tẻo teo;

+ Màu sắc “trong veo”: sự dịu nhẹ, thanh sơ của mùa thu

+ Hình ảnh: Chiếc thuyền câu bé tẻo teo ⇒ rất nhỏ

+ Cách gieo vần “eo”: giàu sức biểu hiện

- Cũng từ ao thu ấy tác giả nhìn ra mặt ao và không gian quanh ao ⇒ đặc trưng của
vùng đồng bằng Bắc Bộ.

⇒ bộc lộ rung cảm của tâm hồn thi sĩ trước cảnh đẹp mùa thu và của tiết trời mùa thu,
gợi cảm giác yên tĩnh lạ thường

2. Hai câu thực

- Tiếp tục nét vẽ về mùa thu giàu hình ảnh:

+ Sóng biếc: Gợi hình ảnh nhưng đồng thời gợi được cả màu sắc, đó là sắc xanh dịu
nhẹ và mát mẻ, phải chăng là sự phản chiếu màu trời thu trong xanh

+ Lá vàng trước gió: Hình ảnh và màu sắc đặc trưng của mùa thu Việt Nam

- Sự chuyển động:

+ hơi gợn tí ⇒ chuyển động rất nhẹ ⇒sự chăm chú quan sát của tác giả

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

+ “khẽ đưa vèo” ⇒ chuyển động rất nhẹ rất khẽ ⇒ Sự cảm nhận sâu sắc và tinh tế

⇒ Nét đặc sắc rất riêng của mùa thu làng quê được gợi lên từ những hình ảnh bình dị,
đó chính là “cái hồn dân dã”

3. Hai câu luận

- Cảnh thu đẹp một vẻ bình dị nhưng tĩnh lặng và đượm buồn:

+ Không gian của bức tranh thu được mở rộng cả về chiều cao và chiều sâu

+Tầng mây lơ lửng: gợi cảm giác thanh nhẹ, quen thuộc gần gũi, yên bình, tĩnh lặng.

+ Hình ảnh trời xanh ngắt: sắc xanh của mùa thu lại được tiếp tục sử dụng, nhưng
không phải là màu xanh dịu nhẹ, mát mẻ mà xanh thuần một màu trên diện rộng ⇒ đặc
trưng của mùa thu.

+ Hình ảnh làng quê được gợi lên với “ngõ trúc quanh co”: hình ảnh quen thuộc

+ Khách vắng teo: Gieo vần “eo” gợi sự thanh vắng, yên ả, tĩnh lặng

⇒ Không gian của mùa thu làng cảnh Việt Nam được mở rộng lên cao rồi lại hướng
trực tiếp vào chiều sâu, không gian tĩnh lặng và thanh vắng

4. Hai câu kết

- Xuất hiện hình ảnh con người câu cá trong không gian thu tĩnh lặng với tư thế “Tựa
gối buông cần”:

+ “ Buông”: Thả ra (thả lỏng) đi câu để giải trí, ngắm cảnh mùa thu

+ “Lâu chẳng được” : Không câu được cá

⇒ Đằng sau đó là tư thế thư thái thong thả ngắm cảnh thu, đem câu cá như một thú vui
làm thư thái tâm hồn

⇒ sự hòa hợp với thiên nhiên của con người

- Toàn bài thơ mang vẻ tĩnh lặng đến câu cuối mới xuất hiện tiếng động:

+ Tiếng cá “đớp động dưới chân bèo” → sự chăm chú quan sát của nhà thơ trong
không gian yên tĩnh của mùa thu, nghệ thuật “lấy động tả tĩnh”

⇒ Tiếng động rất khẽ, rất nhẹ trong không gian rộng lớn càng làm tăng vẻ tĩnh vắng ,
“cái tĩnh tạo nên từ một cái động rất nhỏ”

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

⇒ Nói câu cá nhưng thực ra không phải bàn chuyện câu cá, sự tĩnh lặng của cảnh vật
cho cảm nhận về nỗi cô quạnh, uẩn khúc trong tâm hồn nhà thơ, đó là tâm sự đầy đau
buồn trước tình cảnh đất nước đầy đau thương

5. Nghệ thuật

- Bút pháp thuỷ mặc (dùng đường nét chấm phá) Đường thi và vẻ đẹp thi trung hữu
hoạ của bức tranh phong cảnh

- Vận dụng tài tình nghệ thuật đối.

- Nghệ thuật lấy động tả tĩnh được sử dụng thành công

- Cách gieo vẫn “eo” và sử dụng từ láy tài tình

c, Kết bài

- Khẳng định lại những nét tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của bài thơ

- Bài thơ đem đến cho độc giả những cảm nhận sâu lắng về một tâm hồn yêu nước thầm
kín mà thiết tha

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

CẢM NHẬN THU ĐIẾU

Mùa thu là đề tài quen thuộc của thơ ca Việt Nam. Thơ thu của văn học trung đại
thường miêu tả cảnh đẹp vắng vẻ úa tàn và u buồn. Cảnh thu được ghi lại một cách ước
lệ tượng trưng với những nét chấm phá, chớp lấy cái hồn của tạo vật. Thu điếu của
Nguyễn Khuyến cũng mang nét thư pháp ấy. Khi vị Tam Nguyên Yên Đổ được coi là
quán quân về thơ thu, thì chùm ba bài Thu vịnh – Thu điếu – Thu ẩm được đánh giá là
tam tuyệt của thơ thu Việt Nam. Trong đó đặc sắc nhất có lẽ là bài Thu điếu. Nhận xét
về bài thơ này, Xuân Diệu có viết: “Bài Thu vịnh là có hồn hơn hết, nhưng ta vẫn phải
công nhận bài Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”.
Không phải là Thu vịnh với không gian mênh mông bát ngát, mà là một Thu điếu được
“gói gọn” trong một chiếc ao thu – ao chuôm đặc trưng vùng chiêm trũng Bắc Bộ – quê
hương của cụ Tam Nguyên. Đằng sau cảnh thu vắng lặng là những nỗi niềm thầm kín
của vị cao nhân:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Thu điếu cũng như Thu vịnh, Thu ẩm chỉ có thể được Nguyễn Khuyến viết vào thời
gian sau khi ông đã từ quan về sống ở quê nhà. Thu điếu là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc
sắc. Cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu đẹp luôn gắn liền
với tình yêu quê hương tha thiết. Cảnh thu, trời thu xinh đẹp của làng quê Việt Nam
như hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngọn bút thần tình của Nguyễn
Khuyến.

Bối cảnh của toàn bài dường như được hiện hữu trong hai câu đầu. Khung cảnh trong
bức tranh được bao trùm bởi cái lạnh lẽo của mùa thu và sự cô đơn trong lòng thi sĩ:

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Ấn tượng đầu tiên của người đọc với bài thơ, chắc hẳn là cách gieo vần “eo” đặc sắc,
tinh tế và có chút mạo hiểm. Hai câu thơ trên thể hiện sự co lại, đọng lại cho ta cảm giác
lạnh lẽo bao trùm toàn cảnh cùng sự yên tĩnh, lẻ loi. Sách Gia Ngữ nói: “Thuỷ chí thanh
tác vô ngư” nghĩa là nước trong quá thì không có cá. Ấy thế mà, Nguyễn Khuyến lại
nhè đúng lúc “nước trong veo” để mà ngồi thuyền đi câu. Vậy, đặt tựa bài thơ là Câu cá
mùa thu âu chẳng phải là làm một việc dường như không thể. Hay điều này thể hiện
cái tình cảnh ngặt nghèo của nhà thơ? Nhà Nho Nguyễn Khuyến đỗ đạt bậc nhất thời
đó, làm quan to nhưng trước cảnh nước nhà nhiều biến động, ông đã phải từ quan về
quê dạy học. Vua quan bạc nhược, chỉ biết theo Pháp cầu an, kẻ sĩ đã thấy rõ, cái hoài
bão giúp dân giúp nước thật quá khó khăn, chẳng khác gì “câu cá nước trong” được đề
ngay từ câu đầu vậy. Sự so sánh vô lí giữa con thuyền với cái ao chẳng phải là thân
phận của Nguyễn Khuyến đối với thời thế thiên nan vạn nan đang trùm lên ông? Câu
thơ đuợc chọn lọc từ ngữ, gieo vần bình dị, thân mật mang tính gợi cảm cao và hàm ý
sâu sắc, ắt hẳn cụ Tam Nguyên phải là một người có tầm nhìn sâu rộng và lòng yêu quê
hương vô bờ bến mới lột tả được cảnh vật từ tâm đến diện.

Xuân Diệu: “Cái thú của bài Thu điếu ở cái điệu xanh: xanh ao, xanh bờ, xanh sóng,
xanh trúc, xanh tròi, xanh bèo”. Không chỉ xanh, ở hai câu thực bức tranh thiên nhiên
ấy còn được tô một nét vàng:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước ngõ khẽ đưa vèo

Mùa thu tiếp tục được hiện lên với hình ảnh “sóng biếc”, “lá vàng”. Cảnh vật động một
cách khẽ khàng. Tác giả đã rất nhạy cảm, tinh tế khi chớp được những biến động tinh vi
của tạo vật. Đó là sự chuyển động “hơi gợn tí” của sóng, là sự đưa nhẹ khẽ khàng của lá
vàng, là sự mong manh uốn lượn của hơi nước mờ ảo trên mặt ao. Hai câu thơ đối nhau
rất chỉnh, các sự vật có mối liên hệ với nhau chặt chẽ: gió thổi làm sóng gợn, làm lá rơi.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Các tính từ, trạng từ “biếc”, “tí”, “vàng”, “khẽ”, “vèo” được sử dụng hợp lí, giàu tạo
hình, vừa tạo ra bức tranh thanh nhã vừa có xanh vừa có vàng, vừa gợi được sự uyển
chuyển của tạo vật. Nghệ thuật đặc sắc lấy động tả tĩnh của tác giả đã khiến cái tình nay
càng tĩnh hơn. Cái tĩnh nó nhẹ đến vô hình, vị thi sĩ này quả là một người có tâm hồn
yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống sâu sắc thì mới có thể cảm nhận được sự im lặng đến
thế.

Như trên đã nói, mở đầu bài thơ tác giả sử dụng vần “eo” nhưng khung cảnh lại không
bị giới hạn mà đã mở rộng theo chiều cao, tạo nên sự khoáng đạt, rộng rãi cho cảnh vật:

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Bầu trời xanh ngắt xưa nay vẫn là biểu tượng đẹp của mùa thu. Chiều cao được cụ thể
bằng sự “lơ lửng” của tầng mây và thăm thẳm của da trời xanh ngắt. Màu da trời mùa
thu dường như ám ảnh sâu đậm trong lòng Nguyễn Khuyến nên trong các bài thơ thu,
ông thường nhắc tới: “Trời thu xanh ngắt mấy từng cao” – Thu vịnh hay “Da trời ai
nhuộm mà xanh ngắt” – Thu ẩm. Bởi vậy, màu xanh ngắt của da trời không chỉ đơn
thuần là một màu sắc mà có lẽ đó còn chính là tâm trạng nhiều ẩn ức, là chiều sâu tâm
hồn đầy trăn trở của thi nhân. Trước đây, Nguyễn Du đã từng viết về mùa thu với:

Long lanh đáy nước in trời

Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng

Ngay Nguyễn Khuyến cũng thế. Mở ra không gian riêng, cảm hứng Nguyễn Khuyến
trở về với khung cảnh làng quê quen thuộc, cũng vẫn hình ảnh cây tre, cây trúc; vẫn
bầu trời ngày nào cùng ngõ xóm quanh co…, tất cả đều thân thương đượm màu làng
cảnh Bắc Bộ. nếu như chiều cao được đo bằng trời thì chiều sâu ắt là độ “quanh co” uốn
lượn của ngõ trúc. Từ “vắng teo” cho thấy sự vắng lặng không một bóng người, không
chút động tĩnh, âm thanh. Bởi thế, hai câu thơ gợi ra sự trống vắng, nỗi cô đơn trong
lòng người.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Xuyên suốt sáu câu thơ đầu, tác giả cho ta thấy bức tranh mùa thu với điểm nhìn từ gần
đến cao xa, từ cao xa trở về gần gụi. Bức vẽ mang màu sắc xanh thẳm, buồn bã, cô đơn
và đầy tâm sự của thi sĩ. Chung quay lại, không gian thu cũng chính là không gian của
tâm trạng: cõi lòng nhà thơ yên tĩnh, vắng lặng. mọi tâm tư, giãi bàu được dồn nén vào
hai câu kết:

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo

Hình ảnh con người xuất hiện với tư thế ngồi ôm gối, trong trạng thái trầm tư mặc
tưởng. Nhà thơ ngồi câu cá nhưng chẳng hề chú tâm đến việc câu, bởi vậy mới giật
mình trước tiếng cá “đớp động dưới chân bèo”. Không gian phải yên tĩnh lắm, lòng
người phải trong trẻo lắm mới nghe được âm thanh nhỏ nhẹ như vậy. Nói chuyện câu
cá nhưng thực tế là để đón nhận cảnh thu, trời thu vào cõi lòng. Một tâm thế nhẫn: “tựa
gối ôm cần”; một sự chờ đợi: “lâu chẳng được”; một cái chợt tỉnh mơ hồ: “cá đâu đớp
động”. Nhà thơ mượn cảnh để tả tình. Câu cá chỉ là cái cớ để tìm sự thư thái trong tâm
hồn. Âu cũng là cái sự vì nước vì dân. Đất nước ta đẹp thế, ấy vậy mà nhân dân lầm
than. Cái hoài bão giúp dân từ đó mà mỗi ngày đều thêm khó khăn, và cũng tạo ra
trong lòng cụ Tam Nguyên một rào cản; tạo sự buồn tẻ, cô đơn. Lòng người quạnh hiu
chẳng cớ nào cảnh lại nhộn nhịp, vui tươi:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.

Thu điếu không chỉ đơn giản là một bài thơ thu. Từng câu chữ được nảy nở từ cảm
nhận của các giác quan của vị thi nhân tài tình, lột tả được bức tranh thiên nhiên làng
quê tươi đẹp của Việt Nam. Ai mà biết được quê hương mình đẹp và bình dị đến thế?
Càng đọc, càng thấy được lòng yêu nước đang trào dâng. Từ đó, trong ta càng trỗi dậy
mạnh mẽ hơn với cái ham muốn bảo vệ và phát triển đất nước này.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Không chỉ thế, Thu điếu còn để lại trong ta bài học quý giá bao đời nay. Lòng tự tôn
dân tộc không cho phép ta đầu hàng trước kẻ địch. Hãy như cụ Tam nguyên, không
ham hư vinh cái chốn quan trường mục nát mà ở lại làm quan; hay bán rẻ lương tâm,
bán rẻ đồng bào vì một vài chức vụ, chỉ hận bản thân chưa làm được gì cho đất nước,
cho Tổ quốc. Dù chỉ một chút, mong rằng bản thân con và toàn thể các thanh thiếu niên
được sống trong hòa bình hiện nay sẽ ngày một cố gắng xây dựng đất nước.

Tất cả các tác phẩm trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, có thể nói là vô cùng
tuyệt vời. Tuy nhiên, nếu để chọn một bài thơ tâm đắc nhất thì chắc chắn đó là Thu
điếu. Tác phẩm này có thể coi là kiệt tác trong nền văn học cổ điển nước nhà. Bài thơ
như vẽ ra một bức tranh mùa thu ở trước mắt tá vô cùng chân thực. Nhạc điệu độc đáo,
cách gieo vần có phần mạo hiểm mà tự nhiên, không bị gò bó. Theo Xuân Diệu, Nguyễn
Khuyến quả thực là một nghệ sĩ cao tay. Cái tình của nhà thơ đi đôi với cái tài. Với một
tình yêu quê hương, đất nước và con người Việt Nam, từng câu từng chữ mà tác giả
nhắc đến đều tạo ra những cảm xúc trong tâm hồn rất Việt của chúng ta. Cụ Tam
Nguyên quả đúng là một nhà thơ của làng quê Việt Nam bình dị và gần gũi.

___

❤️ Bài viết của bạn Nguyễn Trà Giang, học sinh trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hà
Nội.

(Học sinh lớp Văn cô Ngọc Anh)

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Đề bài: Phân tích “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến

Bài làm

Mùa thu là cảm hứng vô tận cho các thi nhân. Riêng Nguyễn Khuyến đã có một chùm
thơ thu vô cùng đặc sắc: Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm. Nhà thơ lấy cảnh thu, tình thu
mà nói lòng mình vậy. Và cùng qua thơ thu ta thấy hiện lên một phần đáng trân trọng
trong con người Nguyễn Khuyến. Trong bài thơ Thu điếu – Câu cá mùa thu, Nguyễn
Khuyến hiện lên với tấm lòng sâu nặng nghĩa tình đối với đất nước.

Thơ thu xưa chẳng khi nào vui cả. Nhắc đến thơ thu là nhắc đến những tâm trạng u
hoài, man mác. Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến cũng vậy.

Thơ gợi tình người mà người buồn thì thơ vui sao được? Bài thơ ra đời khi Nguyễn
Khuyến đã quá bất mãn với xã hội mà lui về ở ẩn ở quê nhà. Xã hội nửa thực dân, nửa
phong kiến cướp đi quyền tự chủ của nước nhà, gieo rắc bao đau thương mất mát cho
đất nước, con người Việt Nam. Buồn vì thảm cảnh”, bất hợp tác với thực dân Pháp,
Nguyễn Khuyến thể hiện khí tiết học ông ngư về quê câu cá. Bài thơ Câu cá mùa thu
bước ra từ một tâm sự, một nỗi niềm như thế để giãi bày với hồn thiêng sông núi quê
hương một tấm lòng yêu nước thiết tha, day dứt.

Điều dễ thấy trong Câu cá mùa thu là cảnh tuy buồn nhưng vô cùng đẹp đẽ. Điều đó
thể hiện tấm lòng yêu nước ưu ái với thiên nhiên của thi nhân. Bức tranh mùa thu hiện
lên trong trẻo, xinh xắn làm sao.

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Cái se lạnh của mùa thu làm làn nước ao “lạnh lẽo” “trong veo”. Câu thơ không chỉ nói
đến cái lạnh mà còn nhắc đến cái tĩnh lặng, cái vắng vẻ, cái buồn buồn của khí trời, của
cảnh vật. Phải rồi, “ao thu lạnh lẽo” thì mọi loài cũng chỉ muốn lặn mình xuống đáy,
đâu muốn tung tăng bơi lội nô đùa? Vì thế, làn nước “trong veo” – trong trẻo, tĩnh lặng,
cái trong có hình có khối. Tưởng đôi mắt Thuý Kiều – “làn thu thuỷ” – cũng chỉ trong
đến thế.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Mở đầu bài thơ là hình ảnh cái ao làng mùa thu – một hình ảnh hết sức quen thuộc ở
nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Và từ đây, mọi cảnh vật trong bài thơ đều xoay quanh cái
ao ấy, lấy cái ao làm điểm nhìn nghệ thuật. Hơi thu man mác, lạnh lẽo, trầm buồn từ làn
nước mùa thu “trong veo” đang lan toả thấm dần vào từng hơi gió.

Trên nền ao thu vốn đã rất nhỏ là “Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Chỉ là “một chiếc”
thôi không hơn. số từ “một” khiến chiếc thuyền câu bơ vơ đơn độc. Mà “một chiếc
thuyền câu” lại “bé tẻo teo” nên càng mong manh tội nghiệp.

Điểm xuyết cho bức tranh thu xinh xắn là gợn “sóng biếc” là chiếc lá vàng. Tưởng rằng
thêm vào sẽ bớt vắng vẻ đìu hiu nhưng ở đây, làn sóng biếc, chiếc lá vàng càng gợi cái
nhỏ bé mong manh của sự vật. Bởi “sóng biếc” thì “theo làn hơi gợn tí”, chỉ “hơi” gợn,
chăm chú lắm mới thấy, mà còn là “gợn tí” một chút cỏn con… Còn lá vàng thì “đưa
vèo” như chỉ tạo ra một vệt sáng vàng rồi nhanh chóng nằm lặng im nơi nào đó.

Chiếc “lá vàng” ấy là lá gì? Là lá trúc, lá tre chăng? Có thể lắm bởi bờ ao đồng bằng Bắc
Bộ thường có những luỹ tre xanh toả bóng êm dịu. Càng có thể bởi ở hai câu sau nhà
thơ đã viết:

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Không gian được mở rộng lên chiều cao, sang bề rộng. Vậy nhưng cũng không bớt
vắng vẻ cô đơn. Mây trắng “lơ lửng” giữa không trung không về với trời; chẳng sà
xuống thấp, lẻ loi trôi dạt trong bao la. Sắc trời “xanh ngắt” – xanh rất đậm, xanh như
có hình khối, sắc xanh tuyệt đối ấy càng khẳng định cái đơn côi lẻ loi của sự vật.

Trời xanh cao mà buồn quá. Hạ tầm nhìn xuống thấp mong chờ sự giao hoà đồng cảm
nhưng nhà thơ chỉ thấy “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”.

Đường làng vốn đã rất nhỏ nay lại quanh co khúc khuỷu, tưởng như một dải lụa cố
xoắn mình tự thu nhỏ lại. Đường vắng vẻ, vắng lắm, “vắng teo” Nếu chẳng “vắng teo”,
dẫu có bóng người có lẽ củng nhỏ bé, đơn độc lắm.

Một bức tranh thu xinh xắn hài hoà. Sự vật gì cùng thu mình lại để nhỏ hơn, để hoà hợp
hơn với khuôn hình của sự vật khác. Đặc biệt, cách dùng vần “eo” rất tinh tế: “lạnh lẽo”
“trong veo” “tẻo teo” “đưa vèo”…, ở đây có sự thống nhất giữa nội dung và hình thức:
vần “eo” khiến cảnh vật càng bé nhỏ, mong manh đơn côi hơn. Bức tranh thiên nhiên
xinh xắn, đẹp đẽ thể hiện một tâm hồn thi nhân tinh tế, nhạy cảm. Hơn thế còn bộc lộ
một con người đồng cảm với thiên nhiên, yêu thiên nhiên tha thiết.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

So sánh thiên nhiên trong Câu cá mùa thu với những bài thơ thu khác ta còn trân trọng
hơn tấm lòng Nguyễn Khuyến. Thơ xưa tả mùa thu thường mượn lá ngô đồng, rừng
phong đỏ để gợi tứ gợi tình “Một chiếc lá ngô đồng rụng/ Ai cũng biết là mùa thu đã
về” “Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san”. Bích Khề của “thơ mới” cũng vần gò
thơ theo khuôn như vậy.

Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi, vàng rơi thu mênh mông.

Ai cũng biết “lá ngô đồng” “rừng phong đó” là hình ảnh ước lệ tả mùa thu, hai hình
ảnh ấy tượng trưng cho mùa thu Trung Quốc. Các nhà thơ trung đại Việt Nam theo lối
“tập cổ” mà vẫn ưu ái những hình ảnh ấy. Thiên nhiên trong bài thơ của Nguyễn
Khuyến thì khác. Không một chút vay mượn, chỉ có cái thuần cảnh vật quê hương. Ao
làng, bụi trúc, lá vàng rơi… những hình ảnh ấy giản dị, quen thuộc với người dân đồng
bằng Bắc Bộ lắm. Đưa chúng vào thơ, Nguyễn Khuyến đã thể hiện tấm lòng yêu thiên
nhiên quê nhà tha thiết, lòng tự hào về cảnh sắc quê hương. Tình yêu ấy cảm động ở
việc đã phá bỏ những lề lối ước lệ bền chắc xưa cũ.

Chưa hết, một bài thơ Đường luật năm mươi sáu chữ không một chữ nào không thuần
Việt. Chẳng ai tìm được một từ Hán Việt nào, nhà thơ hoàn toàn dùng ngôn ngữ của
đất nước để vẽ nên bức tranh tuyệt mĩ về quê hương. Chẳng những vậy, nhà thơ còn
vận dụng rất tài tình vần “eo” – vần thơ rất đặc biệt, nó nôm na xa lạ với thơ cổ nhưng
lại đạt hiệu quả nghệ thuật rất cao. Sự tài tình trên chỉ có thể có ở một nhà thơ yêu tiếng
mẹ đẻ, trân trọng dân tộc, tự hào về đất nước mình.

Thiên nhiên, đẹp đẽ nhưng tầng sâu của nó là một nỗi buồn, một tâm sự của thi nhân.
Cảnh đẹp nhưng sao buồn thế! Mọi vật đều hững hờ, đơn côi đến vô tình. Nguyễn Du
đã có một câu thơ thật hay “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Ở đây, cảnh thu
cũng vậy. Nguyễn Khuyến buồn thì có cớ gì đế cảnh vui? Cảnh buồn, cảnh cô đơn bởi
nhà thơ cũng đang mang nặng cảm giác ấy giữa cuộc đời biến động. Bất mãn với xã hội,
khinh bạc chốn quan trường nhưng vẫn nậng lòng lo cho an nguy của Tổ quốc. Vậy
nên, dầu lui về ở ẩn tâm hồn nhà thơ vẫn canh cánh một niềm riêng.

Có lẽ vì nỗi buồn lớn quá, nhà thơ không thể gửi gắm mãi vào thiên nhiên. Hai câu cuối
bài thơ hạ xuống cùng là lúc bài thơ vén lên bức màn để lộ một con người với niềm ưu
tư day dứt:

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Tư thế “tựa gối ôm cần” là tư thế mang nặng tâm trạng. Chờ hoài không có cá nên buồn
bã, thất vọng “tựa gối” nhưng còn mong mỏi đợi chờ nên vẫn “ôm cần”. Nhưng có phải
thi nhân đang câu cá? Nếu phải, tại sao lại có cảm nhận mơ hồ “cá đâu đớp động dưới
chân bèo?”. Thực ra, Nguyễn Khuyến câu cá đâu phải vì muốn câu cá. (Thế nên mới có
cái ngơ ngác nhìn quanh: cá ở đâu đớp động dưới chân bèo vậy? – Chăm chú câu cá sẽ
không có chi tiết này). Nhà thơ làm ông ngư chỉ vì muốn lánh đời. Nhưng cuộc đời ở ẩn
không làm tan đi nỗi ưu tư với đời. Câu cá mà không tập trung câu cá, tâm hồn vẫn
chơi vơi nơi đâu không ở lại nơi cái ao làng nhỏ bé này.

Thi nhân ưu tư điều gì? Ưu tư về vận nước, ưu tư về lẽ đời. Niềm ưu tư dai dẳng, khắc
khoải dứt áo ở ẩn vẫn không nguôi trăn trở. Nguyễn Khuyến, một con người có tấm
lòng yêu nước sâu nặng.

Con người Nguyễn Khuyên qua Câu cá mùa thu hiện lên ở nhiều góc cạnh: yêu thiên
nhiên đất nước, yêu tiếng mẹ đẻ, trân trọng và tự hào về dân tộc, luồn trăn trở băn
khoăn với vận nước, với cuộc đời… Tựu trung lại, bài thơ đã thể hiện một tâm hồn yêu
nước khắc khoải, trăn trở đầy xúc động.

Thơ Nguyễn Khuyến đa dạng về nội dung, nhiều màu vẽ trong cách thể hiện nhưng sẽ
còn mãi với thời gian. Và do đó, Câu cá mùa thu cũng luôn là một trong những “kiệt tác
xinh xắn” của thơ ca Việt Nam.

(Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên tại trường THPT chuyên Hùng Vương-Việt Trì-
Phú Thọ)

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Đề bài: Phân tích “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến

Bài làm

Trong nền thơ ca dân tộc có nhiều bài thơ tuyệt hay nói về mùa thu. Riêng Nguyễn
Khuyến đã có chùm thơ ba bài: Thu vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Bài thơ nào cũng hay,
cũng đẹp cho thấy một tình quê dào dạt. Riêng bài "Thu điếu”, nhà thơ Xuân Diệu đã
khẳng định là "điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. “Thu điếu” là
bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc: Cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên,
yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết.

“Thu điếu" được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế,
hình tượng và biểu cảm. Cảnh thu, trời thu xinh đẹp của làng quê Việt Nam như hiện
lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngọn bút thần tình của Nguyễn Khuyến.

Hai câu đầu nói về ao thu và chiếc thuyền câu. Nước ao “trong veo” toả hơi thu “lạnh
lẽo”. Sương khói mùa thu như bao trùm cảnh vật. Nước ao thu đã trong lại trong thêm,
khí thu lành lạnh lại trở nên “lạnh lẽo”. Trên mặt nước hiện lên thấp thoáng một chiếc
thuyền câu rất bé nhỏ - “bé tẻo teo". Cái ao và chiếc thuyền câu là hình ảnh trung tâm
của bài thơ, cũng là hình ảnh bình dị, thân thuộc, đáng yêu của quê nhà. Theo Xuân
Diệu cho biết vùng đồng chiêm Bình Lục, Hà Nam có cơ man nào là ao, nhiều ao cho
nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà “bé tẻo teo”:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”.

Các từ ngữ: “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo teo" gợi tả đường nét, dáng hình, màu sắc
của cảnh vật, sắc nước mùa thu; âm vang lời thơ như tiếng thu, hồn thu vọng về.

Hai câu thơ tiếp theo trong phần thực là những nét vẽ tài ba làm rõ thêm cái hồn của
cảnh thu:

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Màu “biếc” của sóng hoà hợp với sắc “vàng” của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ mà
lộng lẫy. Nghệ thuật đối trong phần thực rất điêu luyện, “lá vàng" với “sóng biếc”, tốc
độ “vèo” của lá bay tương ứng với mức độ của gợn sóng. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ca
ngợi chữ “vèo” trong thơ của Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của mình may
ra mới có được một câu thơ vừa ý trong bài “Cảm thu, tiễn thu": "Vèo trông lá rụng đầy
sân”.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Hai câu luận mở rộng không gian miêu tả. Bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu
trời "xanh ngắt" với những tầng mây “lơ lửng” trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm thơ
thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắc trời thu là “xanh ngắt":

“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao".

(Thu vịnh)

“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt ”

(Thu ẩm)

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”.

(Thu điếu)

“Xanh ngắt” là xanh mà có chiều sâu. Trời thu không mây (mây xám), mà xanh ngắt
một màu thăm thẳm. Xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của không gian, cái nhìn vời
vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi, ông lão đong đưa mắt nhìn về bốn
phía làng quê. Hình như người dân quê đã ra đồng hết. Xóm thôn vắng lặng, vắng teo.
Mọi con đường quanh co, hun hút, không một bóng người qua lại:

“Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”.

Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm
trong một giấc mộng mùa thu. Tất cả cảnh vật từ mặt nước “ao thu lạnh lẽo” đến “chiếc
thuyền câu bé tẻo teo”, từ “sóng biếc" đến "lá vàng", từ “tầng mây lơ lửng” đến “ngõ
trúc quanh co" hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh có khi thoáng chút bâng
khuâng, man mác, nhưng rất gần gũi, thân thiết với mọi con người Việt Nam. Phong
cảnh thiên nhiên của mùa thu quê hương sao đáng yêu thế!

Cái ý vị của bài thơ “Thu điếu” là hai câu kết:

“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,

Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.

“Tựa gối ôm cần ” là tư thế của người câu cá cũng là một tâm thế nhàn của một nhà
thơ đã thoát vòng danh lợi. Cái âm thanh “cá đâu đớp động” nhất là từ “đâu” gợi liên
sự mơ hồ, xa vắng và chợt tỉnh. Người câu cá ở đây chính là nhà thơ, một ông quan to
triều Nguyễn, yêu nước thương dân nhưng bất lực trước thời cuộc, không cam tâm làm
tay sai cho thực dân Pháp đã cáo bệnh, từ quan. Đằng sau câu chữ hiện lên một nhà nho
thanh sạch trốn đời đi ở ẩn. Đang ôm cần đi câu cá nhưng tâm hồn nhà thơ như đang
đắm chìm trong giấc mộng mùa thu, bỗng chợt tỉnh trở về thực tại “Cá đâu đớp động

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

dưới chân bèo". Cho nên cảnh vật ao thu, trời thu êm đềm, vắng lặng như chính nỗi
lòng của nhà thơ vậy - buồn cô đơn và trống vắng.

Âm thanh tiếng cá “đớp động dưới chân bèo" đã làm nổi bật khung cảnh tịch mịch của
chiếc ao thu. Cảnh vật như luôn luôn quấn quýt với tình người. Thiên nhiên đối với
Nguyễn Khuyến như một bầu bạn tri kỉ. Ông đã trang trải tình cảm, gửi gắm tâm hồn,
tìm lời an ủi ở thiên nhiên, ở sắc vàng của lá thu, ở màu “xanh ngắt” của bầu trời thu, ở
làn “sóng biếc” trên mặt ao thu “lạnh lẽo”...

Thật vậy, bài thơ "Câu cá mùa thu’’ là một bài thơ tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc của
Nguyễn Khuyến. Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu
đậm nhạt, những nét vẽ xa gần, tinh tế gợi cảm. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa "vèo”
trong làn gió thu, tiếng cá “đớp động” chân bèo - đó là nét dân dã, thân thuộc của đồng
quê đã khơi gợi trong lòng chúng ta bao koài niệm đẹp về quê hương đất nước.

Nghệ thuật gieo vần của Nguyễn Khuyến rất độc đáo vần "eo” đi vào bài thơ rất tự
nhiên thoải mái, để lại ấn tượng khó quên cho người đọc; âm hưởng của những vần thơ
như cuốn hút chúng ta: trong veo - bé tẻo teo - đưa vèo - vắng-chân bèo. Thi sĩ Xuân
Diệu đã từng viết: “Cái thú vị của bài “Thu điếu" ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ,
xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một vùng đậm nhạt của chiếc lá thu rơi...

Thơ là sự cách điệu tâm hồn. Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu, yêu cảnh sắc
đồng quê với tất cả tình quê nồng hậu. Ông là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Đọc
"Thu điếu”, "Thu vịnh”, “Thu ẩm”, chúng ta yêu thêm mùa thu quê hương, yêu thêm
xóm thôn đồng nội, đất nước. Với Nguyễn Khuyên, tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp cũng
là yêu quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một địa vị vẻ
vang trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Đề bài: Sắc màu thu trong ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến

Bài làm

“Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản.

Bạch vân thiên tải không du du.”

(Thôi Hiệu – Hoàng hạc lâu)

Hạc vàng đã bay đi biền biệt tự bao giờ, bỏ lại lầu mơ để ngàn năm mây trắng vẫn cứ
bồng bềnh trôi trong ngẩn ngơ nỗi niềm. Vâng! Một cánh “hạc độc” đã bay qua bầu trời
buồn đau u uất rồi lặng lẽ hoá thân vào đám “mây côi” để trăm năm rồi còn lãng đãng,
còn trầm lắng trong lòng người nỗi nhớ nhung da diết:

“Đời loạn đi về như hạc độc

Tuổi già hình bóng tựa mây côi”.

(Nguyễn Khuyến)

Còn gì buồn hơn nỗi đau của người dân mất nước, nỗi đau của nhà Nho đi tìm lý tưởng
tôn thờ mà tất cả mờ mịt trong trời loạn, trong khói lửa đau thương. Đạo quân thần trở
thành trò hề giữa sân khấu lộ thiên, lòng son sắt kia của cụ Tam Nguyên vẫn cứ khắc
khoải như “tiếng cuốc gọi hè” mà thương cho vận nước, cho nền Nho học chìm vào
bóng tối điêu tàn. Nguyễn Khuyến, bậc đại Nho cuối cùng của thế kỷ XIX buồn đau u
uất đã khép lại một thời đại thi ca, khép lại một dòng văn học trung đại Việt Nam sau
một chặng đường dài 10 thế kỷ đầy thăng trầm, từ ánh hào quang rực rỡ của “Nam
quốc sơn hà” (Lý Thường Kiệt) đến hào khí Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi), qua vùng
nhiễu nhương của Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái), ghé nỗi đau đời của cụ
Nguyễn Du “Địa địa xứ khứ giai Mịch La”, lên miền trung nghĩa của cụ Đồ Chiểu va
đau buồn khép lại :

“Khen ai khéo vẽ trò vui thế

Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu.”

(Nguyễn Khuyến)

Văn học trung đại Việt Nam ra đời với hào khí của kỷ nguyên độc lập, tự chủ và kết
thúc trong niềm đau của dân tộc mất nước.

Trong sách giáo khoa Ngữ văn bậc trung học đã dành sự trang trọng đối với Nguyễn
Khuyến. Nhiều bài thơ được học chính thức, nhiều bài thơ được giới thiệu đọc thêm.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Dẫu những bài thơ trên chưa phải đặc trưng cho toàn bộ sự nghiệp thi ca của ông, hơn
nữa chất trữ tình sâu lắng của bậc túc Nho được thể hiện một cách kín đáo trong “ý tại
ngôn ngoại” nên việc tiếp cận tác phẩm của cụ cũng là cả một nghệ thuật, đôi khi không
phải chỉ là những cảm nhận trực quan, khả năng liên tưởng mà còn cả khả năng suy
tưởng sâu sắc qua từng từ ngữ, hình ảnh thơ để tìm trong đó cái “hữu thanh mà như vô
thanh”, “động vang mà lại rất tĩnh”. Rồi trong cái bề mặt tưởng chừng tĩnh lặng kia lại
nghe được những động vang sôi sục cứ cuồn cuộn chảy mãi trong lòng cụ để hiểu được
tiếng thơ lắng đọng tiếng lòng xót xa, bất lực chảy mãi đến ngàn sau.

Thơ Nguyễn Khuyến là cả một công trình kiến trúc nghệ thuật ẩn giữa cánh rừng
nguyên sinh đại ngàn, là vẻ đẹp cô thiếu nữ không phấn son mà sao ánh mắt, nét mày,
cử chỉ quê mùa chân chất ấy cứ rung động lòng người. Không tô vẽ, không cách điệu,
ngôn ngữ thơ thật dung dị như cảnh làng quê yên ả của vùng chiêm trũng Hà Nam mà
âm vang của từng câu chữ cứ quặn thắt, cứ sâu xoáy trong lòng người cả niềm đau trần
thế, cả cơn nước lụt nhân tình, cả sắc màu thu trong hoài niệm và cả nỗi lòng đau đáu
đến bất lực của kẽ sĩ thời mạt vận ôm nỗi đau đời mà hoá thân vào sắc màu thu đã chết
tự bao giờ.

Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ xin trình bày những suy nghĩ còn hạn chế của mình
để góp phần hiểu thêm về màu sắc thu không trong thơ Nguyễn Khuyến để góp phần
phục vụ cho việc dạy học cũng như là một cách bày tỏ nỗi lòng, thắp một nén hương
gửi theo gió mây ngàn phiêu lãng tưởng niệm cánh “hạc độc” của thi ca Việt Nam.

Làm nên cái độc đáo, tạo ra cái đặc sắc có tính chất Nguyễn Khuyến thì phải kể đến
những tác phẩm viết về nông thôn, phản ánh sinh động và chính xác cái nhìn hiện thực
nông thôn Việt Nam đương thời của nhà thơ Hà Nam” (Thơ văn Nguyễn Khuyến –
Hoàng Hữu Yên – NXB giáo dục 1984). Còn Xuân Diệu nhận định: “Ba bài thơ Thu của
Nguyễn Khuyến nhìn gộp chung lại là thành công tốt đẹp của quá trình dân tộc hoá nội
dung mùa thu cho thật là thu Việt Nam, trên đất nước ta và dân tộc hoá hình thức lời
thơ, câu thơ cho thật nôm, là Việt Nam”.

Vậy thì: Một điều không thể phủ nhận bộ ba “Thu điếu”, “Thu ẩm”, “Thu vịnh” là
những bài thơ vào loại đẹp nhất và hay nhất trong thi ca cổ điển Việt Nam.

Tự bao giờ, mùa thu vẫn là nguồn cảm hứng vô tận của các thi nhân:

“Ngô đồng nhất lạc dịêp

Thiên hạ cộng tri thu.”

Văn học trung đại miêu tả mùa thu trong nghệ thuật ước lệ:

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

“Người lên ngựa, kẻ chia bào,

Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san.”

(Nguyễn Du – Truyện Kiều)

Cái “màu quan san” của Nguyễn Du sao buồn tê tái dẫu có sáng tạo song vẫn chưa
thoát khỏi khuôn sáo ước lệ của văn học cổ. Ngay cả văn học hiện đại Bích Khê cũng
chưa thoát khỏi xác ve của mùa thu cũ:

“Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.”

hay của Nguyễn Bính: “Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”. Nhà thơ cảm nhận trực
tiếp cái sắc màu thời gian chuyển hoá từ xanh sang vàng, sự chuyển đổi của quy luật tự
nhiên như con tằm ăn lá dâu. Sắc thu riêng của Xuân Diệu lại rất mới:

“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng

Đây mùa thu tới mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng.”

(Đây mùa thu tới)

Cái buồn của liễu rũ, ngàn giọt lệ nhỏ xuống đời vẫn không làm mất tiếng lòng ngân
vang, reo vui, hân hoan chào đón mùa thu. Sắc màu vàng kia không còn là biểu trưng
cho sự tàn úa, héo hắt mà là cả một công trình nghệ thuật của thời gian, của tạo hoá.
Nguyễn Khuyến là con người của buổi giao mùa từ cổ trung đại sang cận hiện đại cho
nên cách viết của ông có những âm ba của mùa thu văn học trung đại song có những
nét rất mới, rất khác tạo nên tính cách riêng thật duyên dáng không nhầm lẫn vào đâu
được. Ba mảng trời thu được kết nhau như kiểu bức tranh tứ bình: ngư, tiều, canh, mục
hay tùng, cúc, trúc, mai. Có điều lạ là Nguyễn Khuyến chỉ bố trí 3 bức tranh Thu điếu,
Thu vịnh, Thu ẩm và đã tạo nên thế đứng rất riêng trong thi đàn.

Cả ba bài thơ được mở ra trong sắc màu xanh trong của bầu trời, của cuối làng quê bình
dị:

“Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt”

(Thu điếu)

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt”

(Thu ẩm)

“Trời thu xanh ngắt mấy từng cao”

(Thu vịnh)

Cùng một mùa thu, cũng một cụm từ “xanh ngắt” nhưng ba sắc màu thu như ba cung
bậc khác nhau. Cái màu xanh ngắt vòi vọi của từng mảng mây trời chồng chất nhau
mấy từng cao như nỗi buồn sâu thẳm, hun hút. Đặng Trần Côn cũng có viết :

“Mạch thượng tang, mạch thượng tang

Thiếp ý quân tâm thùy đoạn tràng.”

(Chinh phụ ngâm khúc)

Ngàn dâu xanh, rồi lại ngàn dâu xanh cứ nối tiếp nhau trong cảnh xa cách muôn trùng
để tình chàng ý thiếp như đứt từng khúc ruột.

Trong sâu lắng tâm hồn, trong nỗi cô đơn mênh mang của con người, trước vũ trụ Huy
Cận có viết :

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

(Tràng giang)

Nỗi buồn của Huy Cân là nỗi buồn của con người bé nhỏ trước vũ trụ bao la. Cái bất
lực của con người trước thời thế. Thân phận bèo dạt của con người trong bến bờ vô
định. Cái buồn của mặt đất mênh mông và cái buồn cao vút của bầu trời, không biết nỗi
buồn nào hơn?

Trở lại “trời thu xanh ngắt mấy tầng cao“, ở miền Bắc vào thu khí trời se lạnh, bầu trời
rất ít mây, chỉ hiện hữu khoảng không bao la đó là cái màu xanh ngắt và sâu thẳm như
từng mảng xanh cứ đan chồng vào nhau. Bầu trời kia xa vời quá, hun hút quá như cõi
sâu thẳm tấm lòng nhà thơ cho nỗi buồn chất chồng. Tính thẩm mỹ của văn chương thể
hiện ở cái hồn của câu chữ. Không một chút mây, không một gì cả, chỉ có màu xanh nối

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

tiếp chồng chất để kéo bầu trời xa, xa mặt đất, xa ngút ngàn đến chốn vô định. Để con
người trở nên chơ vơ, trơ trọi, lạc loài chấp chới.

Cái xanh ngắt trong Thu ẩm là cái xanh đến tuyệt đối như cả một màu xanh trải đến vô
tận, không một màu sắc khác. Cái xanh tinh khiết không pha lẫn lại càng tôn tạo nên
cảnh cô tịch tẻ nhạt của bầu trời. Nguyễn Du, khi miêu tả tâm trạng cô đơn của Thúy
Kiều ở lầu Ngưng Bích cũng chọn sắc màu xanh xanh nhàn nhạt vô vị: “Chân mây mặt
đất một màu xanh xanh”. Những ngày tháng không tên ở lầu Ngưng Bích ấy, Thúy
Kiều hết nhớ, thương, buồn, vô vọng, tuyệt vọng cứ lần lượt hiện ra nên sắc màu của
mây trời và cây cỏ mặt đất cũng đã hòa nhập trong sắc màu “xanh xanh” hay chính con
người buồn đến mức độ không thèm phân biệt sắc màu của mây trời và sắc xanh của cỏ
cây. “Thiên địa đồng quy” trong cái buồn. Mùa thu trong đáy mắt đỏ hoe của ông già
say rượu (Thu ẩm) đang tự hỏi, tự khám phá bên trong vô tình ai đã tạo nên sắc màu
“xanh ngắt” ấy, cái sắc màu đã có từ thuở tạo thiên lập địa hay có từ lúc nhà thơ hiện
hữu trần đời để mà chiêm nghiệm nỗi buồn đau đáu của thế kỷ nước mất nhà tan. Cái
màu xanh kia bổng trở nên côi cút, sắc màu như chính nhà thơ bơ vơ trong cõi trần ai
gió bụi để mà thương tiếc ngậm ngùi. Câu hỏi tu từ không cần một lời giải đáp. Mà giải
đáp để làm gì kia chứ ? Một câu hỏi được ném vào hoang trống, ném vào cõi không bao
la của vũ trụ mà tiếng vọng lại như đau xé lòng nhà thơ. “Ai?”, “Ai nhuộm?”. Có vội
vàng quá chăng khi quy kết “Vì ai gây dựng cho nên nỗi này” (Chinh phụ ngâm). Có
vội vàng chăng khi xem đó là nỗi đau thời thế trong niềm bất lực tộc cùng để rồi đôi
mắt lão rưng rức không vầy vẫn cứ đỏ như hạt bụi vô hình nào đó rơi vào đáy mắt xót
xa. Màu xanh được trải ra theo chiều rộng dàn trải mênh mông thấm vào hồn nhà thơ
thành câu hỏi đắng cay!.

Đến với Thu điếu, vẫn giữa cái nền xanh đến tuyệt đối kia, một chút màu trắng rất nhẹ,
rất mỏng và rất xốp “lơ lửng” trên bầu trời như tâm sự lửng lơ của nhà thơ. Mây không
buồn trôi cứ như đứng lặng giữa bầu trời cô quạnh như “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu
tang” của Xuân Diệu.

Nếu như hai bài thơ Thu vịnh, Thu ẩm, bầu trời xanh ngắt kia trở nên côi cút, thiếu
vắng mây thì bài thơ Thu điếu có mây lại đến hững hờ, chừng như có mà như không.
Lại một đám mây kia cũng sẽ tan loãng như tâm sự man mác của nhà thơ cứ dàn trải
cùng cỏ cây dưới đất, con đường làng quạnh vắng buồn tênh. Một nỗi buồn không tên,
không hình khối mà sao cứ sâu nặng lòng người. Cụ Tam Nguyên ơi! Uống rượu thu
không thảnh thơi, câu cá thu lại không lãng quên nỗi đau đời, ngắm vịnh mùa thu lại
cứ đọng vang tiếng lòng những âm ba của quá khứ để phải thẹn với lòng không học tập
gương người xưa. Còn buồn kia tức là còn tấm lòng đối với nhân quần còn canh cánh

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

nỗi đau đời trong nét bút tài hoa ấy là còn nhân nghĩa ở đời. Cái đáng giận ở chỗ giữa
thời tao loạn kia có những con người còn không biết nhục nỗi nhục mất nước, không
biết đau nỗi đau nhà tan thì có còn xứng đáng đứng trong trời đất này chăng?

Từ sắc màu thu của trời, ta hãy trở lại đất để cảm nhận cái màu xanh của cây của cỏ của
nước và của cả nỗi lòng nhà thơ. Sắc xanh của Thu điếu thật đẹp xanh trời, xanh cây cỏ,
xanh sóng biếc, xanh con đường làng. Bài thơ là một bức tranh với gam màu xanh hài
hòa. Trên bầu trời là màu xanh, khoảng giữa lãng đãng vài đám mây trắng như kéo bầu
trời xuống thấp hơn, trong một làng quê vắng lặng bình dị của vùng chiêm trũng, cuộc
sống diễn ra trong âm thầm lặng lẽ có phần buồn thảm. “Ao thu lạnh lẽo” đến se lòng
người. Cả một mùa thu lắng đọng trong chiếc ao bé nhỏ. Mặt ao xanh biếc, sắc màu
xanh của nước kia hoà trong khí trời se lạnh. Thi thoảng một làn gió khẽ lay động “gợn
tí” sóng lăn tăn rồi chìm khuất vào tĩnh lặng vốn có để cây cỏ cũng dàu dàu, để con
đường làng với hai hàng trúc đứng lặng hun hút quanh co không một bóng người qua
lại. Chừng như sợi nắng thu cũng ngập ngừng không buồn kéo mình qua cỏ rối. Không:

“Long lanh đáy nước in trời

Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.”

Nguyễn Du

Mà tất cả như bất động như không gian lặng ngắt của một nhà sư đang ngồi thiền, đang
trầm mặc. Cái không gian của một con người đang muốn tìm lãng quên cõi hồng trần
mà tìm đến thanh tịnh vô vi. Hay chính nhà thơ tìm quên, chạy trốn nỗi đau đời mà
ngọn lửa lòng vẫn quặn thắt niềm đau mất nước để thi thoảng mặt nước khẽ chau đi
như cái nhíu mày trầm tư rồi trở về thanh thản, rồi lại bị khuấy động bởi một chú cá
quẫy đuôi đớp động, rồi chìm khuất giữa cái màu xanh của ao bèo. Một bọt nước trắng
giữa làn sóng xanh, cạnh màu xanh bèo bọt rồi lại vỗ tan như một sự rung động mơ hồ
tan biến. Tìm về cuộc sống bình dị, rũ áo từ quan nhưng Nguyễn Khuyến không phải
Từ Thức “Lên non tìm động hoa vàng ngủ quên” mà ông vẫn thức, thức để cảm nhận
hết niềm đau của một dân tộc mất nước để cảm thấy lạc loài cô đơn:

“Nước non man mác về đâu tá

Bè bạn lơ thơ sót mấy người.”

(Nguyễn Khuyến - Cảm hứng)

Màu xanh bèo, màu xanh cỏ, màu xanh trúc, màu xanh nước, xanh trời giữa chập chùng
màu xanh kia điểm xuyến một chiếc là vàng rơi rất nhẹ, như lá rụng trước sân chùa. Sắc
vàng tàn úa của thời gian tạo nét hồn của bài thơ.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Nguyễn Khuyến từ quan về ở ẩn nhưng lòng không có cái thanh thản yêu thiên nhiên
tự tại của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

“Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.”

Nguyễn Bỉnh Khiêm

Hay khi “Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo” Nguyễn Công Trứ để “Gót tiên theo
đủng đỉnh một đôi dì”. Cái tâm của Nguyễn Khuyến luôn xao động giữa bề mặt tĩnh
lặng thì một chiếc lá vàng lặng lẽ lìa cành khẽ chao đảo đong đưa trong gió rồi cắm
thẳng xuống mặt ao tạo tiếng vèo rồi thanh âm ấy cũng chìm khuất giữa hư vô. Trong
bài thơ “Nhớ cảnh chùa Đọi”, Nguyễn Khuyến có viết :

“Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá

Sư cụ nằm chung với khói mây.”

Những cụm từ “ở lẫn”, “nằm chung”. nhập mà không nhập, hòa lẫn mà không hòa tan.
Sư cụ nằm chung với khói mây phải chăng đó là sự “đồng sàng dị mộng”. Vậy thì sắc
vàng của chiếc lá rơi với tiếng “vèo” để lay động tâm thức của bậc túc Nho, lay động lý
tưởng “quân – thần”, “nhập thế hành đạo”. Thời thế đảo điên, nước mất nhà tan, cụ
Tam Nguyên quay về hoá thân vào ông câu, câu cá mà cá “đâu đớp động”, hoá thân
vào ông lão mới uống vài chén rượu thu đã say, ngắm sắc thu toan cất bút đề thơ vịnh
mùa thu lại xấu hổ không dám viết, hoá thân vào lão nông thì “Chiêm mất đằng chiêm,
mùa mất mùa”. Bi kịch đời người sao lại đớn đau đến thế. Quặn lòng Nguyễn Khuyến
để cả trăng thu gục đầu ngậm ngùi.

Trên tầng xanh thẳm vòi vọi của trời thu, một cần trúc “lơ phơ”, “hắt hiu”. Màu xanh
pha vàng của thân trúc cùng với vài chiếc lá xanh đã sắp nhuộm màu vàng tàn úa vẽ
nên sắc màu thu cô quạnh. Vẫn mặt ao xanh nước biếc, lời thơ thật giản dị mà đằm
thắm đã diễn tả đặc sắc vùng quê vắng lặng vào mùa thu muộn có bầu trời xanh không
một vẩn mây, cao xanh vời vợi, với ao đầm trong veo long lanh ánh trăng mơ hồ huyền
ảo như phủ sương giăng đầy ngàn cây cỏ nội. Không gian bài thơ khơi gợi sự liên
tưởng đến hồn thơ Lý Bạch:

“Đầu giường ánh trăng rọi

Ngỡ mặt đất phủ sương.”

(Tĩnh Dạ Tứ)

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Sắc trắng bàng bạc kia từ ánh trăng trên bầu trời cao như trong những làn sương mong
manh rồi chút gió heo may nhẹ thoáng lay động cành trúc xao xác lòng người, sắc màu
thu trong Thu vịnh tưởng như nồng ấm lên trong “Mấy chùm trước giậu hoa năm
ngoái”. Trên màu xanh của giậu nở hoa lại không khơi gợi sức sống mà còn tô đậm
thêm vẻ u hoài, tàn úa “hoa năm ngoái”. Hoa không còn là hoa của năm nay nữa mà là
hoa của quá khứ, hoa của một thời xa xăm nào đó vọng lại những sắc hương tàn úa.
Cánh hoa của hoài niệm trong lòng xót xa. Nguyễn Du đã mượn cảnh: “Đào hoa y cựu
tiếu đông phong” của Thôi Hộ mà diễn tả tấm lòng Kim Trọng khi trở lại vườn xưa mà
Thúy Kiều đã xa khuất vào cõi trầm luân của gió bụi cuộc đời để chàng Kim phải: “Đau
đòi đoạn, ngất đòi thôi”. Đó là cái đau của kẻ tình si của tuổi vào yêu còn bồng bột. Còn
cụ Tam Nguyên như nuốt nước mắt vào trong lòng “Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe”
mà ngắm sắc hoa xưa sau bao nhiêu năm lặn lội chốn quan trường mà buồn thương tủi
nhục nơi thẳm tâm hồn để hoá thân vào “ông phổng đá”, “tiến sĩ giấy” mà trầm mặc
mà lắng nghe tiếng lòng u uẩn, mà nghe cả tiêng ngỗng lạc đàn kêu giữa trời Nam:
“Một tiếng trên không ngỗng nước nào?”. Trời hỡi! Ngỗng nước nào mà bay lạc vào
giữa trời thu để cất tiếng kêu thống thiết? Nếu như tiếng cuốc gọi hè khắc khoải năm
canh máu chảy là tiếng chiêu hồn nước thì tiếng ngỗng giữa đêm thu muộn là tiếng
ngỗng lạc đàn vong quốc vong thân. Trần Mạnh Hảo khi đọc thơ Nguyễn Khuyến đã
viết: “Phải chăng ngỗng ấy cũng là ngỗng từ năm ngoái, ngỗng của mình xưa mà không
dám nhận, mà phải đau đớn than là “ngỗng nước nào?. Rằng người không còn giữ
được nước thì bay về làm gì ngỗng ơi? Nhà thơ tủi hổ cả với ngỗng trên trời và hoa
dưới đất, muốn làm con cá lặn khuất dưới ao bèo, ngại cả nỗi cắn câu” (Nguyễn
Khuyến nằm chung với khói mây - Kiến thức ngày nay xuân 99). Trần Mạnh Hảo còn
viết tiếp: “Nói theo kiểu Apollinaire, Nguyễn Khuyến chừng cũng cảm thấy hồn thu đã
chết, đã bỏ đi đâu như hoa kia ngỗng nọ, chỉ còn thân xác thu trong veo, cô quạnh,
vắng ngắt, bàng bạc như con ve mùa hè nằm chết trong mùa thu sau khi đã hát rỗng cả
ruột gan” (sách đã dẫn trang 21). Vậy thì tiếng thu của Nguyễn Khuyến chỉ còn là sắc
màu kỷ niệm pha màu hoài cổ như Bà Huyện Thanh Quan đã viết :

“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt

Nước còn cau mặt với tang thương.”

(Thăng Long thành hoài cổ)

Sắc màu thu trong “tầng khói phủ” (Thu vịnh) khác với Thôi Hiệu trong Hoàng hạc lâu:

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.”

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Thôi Hiệu xa quê, nhìn khói sóng trên sông mà nhớ quê, còn Nguyễn Khuyến sống giữa
quê nhà mà như lạc loài. Quê đó là quê xưa, còn giờ đây mảnh hồn quê chỉ còn là xác
thu dật dờ, là “hoa năm ngoái” là “ngỗng nước nào”, là con cá quẫy đuôi lặn khuất
“dưới chân bèo”. Hàng giậu ở miền Bắc thường được trồng hoa dâm bụt, loại hoa nở
không theo mùa, không cần chăm chút vẫn nở hoa. Vậy mà lại là “hoa năm ngoái”. Sao
quặn thắt đến thế!

Trời thu trong “Thu ẩm” buồn trong mắt ông già say. Có lẽ trong cả ba bài thơ, Thu ẩm
lại nhiều màu sắc vàng hơn cả. Màu vàng của “năm gian nhà cỏ” màu vàng của đom
đóm lập lòe, màu vàng của "làn áo lóng lánh bóng trăng loe". Nhà hội họa tài hoa đã
pha sắc màu cho bức tranh thật độc đáo. Màu xanh ngắt đến tuyệt đối kia phủ cả bầu
trời cao rộng, dưới đất màu đen của đêm tối lập lòe những đốm vàng của đom đóm
như những vì sao nhỏ chấm li ti ẩn hiện, mặt nước lóng lánh bóng trăng trong gió thu
nhẹ êm như thể bóng trăng trên mặt nước không thể vỡ ra mà nó chỉ “loe” ra rồi lại trở
về hình dáng cũ như một chút xao động của nỗi lòng cô tịch. Giữa chập chùng đêm sâu
hiện ra màu vàng của căn lều cỏ, màu vàng nhạt úa khiêm tốn chiếm một góc nhỏ của
bức tranh mà lại là điểm mạnh của hội họa. Thế nhưng một chút đỏ rất nhỏ lại là linh
hồn của bài thơ là nét chấm phá vô cùng độc đáo, đó là ánh mắt ông lão say, không
đang khóc thì đúng hơn. Say thế nào được khi mới chỉ “dăm ba chén” chưa đủ đưa lão
vào cơn say mà chỉ đủ để khơi gợi nỗi buồn đau quặn thắt trong lòng. Sắc màu động
pha với tĩnh, tĩnh hòa vào động. “Thấp le te”, “ngõ tối đêm sâu” là tĩnh thì “đóm lập
lòe” là động, “màu khói nhạt” là tĩnh mà “phất phơ” lại là động, “lóng lánh bóng trăng
loe” là động còn “xanh ngắt” lại là tĩnh, “vầy” là động từ, còn “không vầy” là bất động
mà “đỏ hoe” lại là động. Màu thu kia sao mà day dứt nỗi lòng đến thế còn gì? Nét động
trong thơ Nguyễn Khuyến không âm vang mạnh mẽ mà như từng đợt sóng ngầm như
vết thương đã liền da thịt, thi thoảng lại nhói đau đến buốt rứt tê lòng. Sắc màu đỏ hoe
trong đáy mắt lão nông rưng rức lệ, lão đang khóc cho tang thương cuộc đời. Nước mất
thì nhà yên sao được! Nhà thơ mượn màu thu ở chốn làng quê bình dị tạo cảm hứng
chủ đạo trong dòng thơ trữ tình mà nói lên lòng yêu nước sâu kín.

Suốt cuộc đời bình bị sống, dẫu xuất thân từ con nhà khoa bảng, cuộc đời đỗ đạt làm
quan cao chức trọng mà sao những tâm hồn thật trong sáng nhẹ nhàng. Không khoa
trương, không chọn những cảnh sắc hùng vĩ nên thơ, cụ Tam Nguyên chọn màu thu ở
làng quê yên vắng. Tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương làng xóm thấm vào máu thịt.
Một chiếc ao bé nhỏ, một hàng giậu quen thuộc, một ngõ trúc vắng lặng, một căn lều cỏ.
Tất cả tạo nên một trời thu rất Việt Nam, rất Nguyễn Khuyến mà không thể nhầm lẫn
được. Sâu lắng trong tình yêu thiên nhiên, nông thôn ấy là tấm lòng yêu nước sâu kín
mà người đọc thơ cụ Tam Nguyên phải vận dụng nhiều giác quan mới cảm nhận được.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Đọc thơ tiên sinh phải chuyển từ nhận thức trực quan sang liên tưởng rồi suy tưởng
trong logic văn chương mới thấy hết cái thần, cái “ý tại ngôn ngoại’ vô cùng độc đáo.
Phải tinh tế mới nhận thấy một điều là cả ba con người trong ba bài thơ thu đều cùng
chung một tâm sự, cùng một tâm trạng cô đơn bé nhỏ, cùng một tấm lòng yêu nước sâu
kín nhưng bất lực trước thời thế, cùng đẳm thấm nỗi đau thân phận bé nhỏ của con
người. Tình nước, tình nhà day dứt xót xa trong tấm lòng yêu nước bất lực càng thấm
thía niềm đau. Không đủ cái dũng khí của Đặng Dung trong Thuật hoài:

“Quốc thù vị phục đầu tiên bạch

Kỷ độ long toàn đái nguyệt ma.”

Không như Không Lộ thiền sư lên đỉnh núi cao trơ trọi mà cất tiếng kêu lạnh cả bầu
trời: “Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư”. Không âm vang, vẫn cứ bình lặng mà sâu
lắng:

“Bút nghiên trầm tư ưng hữu lệ,

Sơn hà cử mục bất thăng sầu.”

(Nguyễn Khuyến - Tiển môn đệ)

(Ngẫm nghĩ bút nghiên tràn nước mắt - Ngước nhìn sông núi khôn xiết buồn đau)

Những dòng lệ khóc cho nước mắt nhà tan đã rơi nhiều trong thơ Nguyễn Khuyến.
Nhà thơ lặng lẽ hóa ông câu để lặng buồn trầm mặc giữa chiếc ao bé nhỏ, co ro cô độc
trong con thuyền thúng. Phải vô cùng tinh tế, người câu ngồi giữa mặt ao bé nhỏ để
nghe hương thu thấm dần. Cái thế “tựa gối ôm cần” như muốn chìm khuất trong sắc
xanh của trời, nước, cây cỏ. Không mũ cao áo dài, không trịnh trọng kiểu cách ở chốn
quan trường, con người như hoá đá vọng quốc như muốn gọi hồn thu của quá khứ về
thương hồn thu hiện tại. Sắc màu thu sẽ trở nên vô nghĩa nếu thiếu bóng dáng con
người, mà sao con người lại cô độc đến thế kia! Hay người ngồi câu đang ngồi mặc
niệm dưới cảnh thu. Hồn thơ của Nguyễn Khuyến bao giờ cũng toát lên lòng yêu nước
sâu xa trong chất trữ tình sâu lắng yêu nước trong đau đớn tủi nhục, thậm chí có lúc tự
chế giễu mình: “Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng” (Tự Trào). Khi người không còn
giúp ích được gì cho nước trong buổi thực dân xâm lược thì thôi quay về giữ cái lòng
thành:

“Thập tải bôn ba thử nhất đồ

Quy lai ngô hạnh đắc vi ngô.”

(Lời than lúc cuối xuân)

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

(Mười năm bôn ba trên một con đường - nay trở về may mắn ta vẫn còn lại ta)

Cái may mắn của nhà thơ là ta vẫn là ta. Song nhà thơ vẫn luôn buồn tủi “Cúi trông hổ
đất ngữa lên thẹn trời” (Di Chúc). Nhà thơ làm quan mười mấy năm trời mà không cứu
nước nỗi chỉ có tấm lòng xót xa bất lực nên lời trăn trối trước lúc lìa đời đã dặn con
cháu:

“Đề vào mấy chữ trong bia

Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu.”

Nỗi đau kẻ sĩ đến thế còn gì hơn! Thậm chí ngồi giữa cảnh thu, một chút cảm hứng vừa
nhen lên, toan cất bút mà không dám viết vì: “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”. Còn hứng
thú gì nữa giữa thời thế ấy, có gì để ca ngợi. Ông Đào Tiềm treo ấn từ quan về ở ẩn để
tìm quên và quên hết còn tiếng lòng nhà thơ vẫn xao đọng, trăn trở dưới trời thu, ngồi
câu cá thu, uống rượu thu, làm thơ thu mà khóc cho thu đã mất. Ngồi hưởng thu không
một phút thư nhàn. Hồn thu đã mất tự bao giờ mà cơn gió heo mây vẫn cứ rưng rưng
tìm về, se thắt lá vàng bay để cành trúc lơ phơ hiu hắt, để tiếng ngỗng lạc đàn cất tiếng
gọi bi thương vọng đến lòng thi nhân niềm quặn thắt và cái ông già lụ khụ lầm lũi kia
trong gian nhà cỏ thấp lè tè ấy đã rưng rưng mắt đỏ để bầu trời thu côi cút đổ lệ tang
thương.

(Thạc sĩ Nguyễn Văn Thành Trường THPT Vĩnh Viễn)

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Đề bài: Chân dung tình thần của nhà nho Nguyễn Khuyến trong “Thu điếu”

Bài làm

Thu điếu của nhà thơ Nguyễn Khuyến nằm trong chùm ba bài thơ thu “nức danh nhất”
trong văn học trung đại Việt Nam. Bài thơ tạo dựng được một bức tranh “điển hình hơn
cả cho làng cảnh Việt Nam”. Sau mỗi dòng thơ, mỗi hình ảnh thơ, chúng ta có thể hình
dung một cách rõ nét bức chân dung tinh thần của một nhà nho với cốt cách thanh cao
và tấm lòng yêu nước thầm kín.

Nguyễn Khuyến là người tài năng, là một nhà nho có cốt cách thanh cao, thâm trầm, có
tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc. Qua cái nhìn phát hiện của nhà thơ Xuân Diệu,
tất cả những phẩm chất cao quý ấy hiện lên thật tinh tế: “Bức ảnh cụ Nguyễn Khuyến
cầm chén rượu hạt mít này tôi yêu quý lắm. Người cụ đẹp, đôi lông mày và đôi mắt đa
tình hơn là thơ cụ (…) đầu đội khăn lượt nghiêm trang, dáng vẻ đàng hoàng trịnh trọng
như các nhà nho xưa, như ánh lên tài hoa chứ chẳng khô khan chút nào (…) tôi quý
trọng cái chén rượu hạt mít thanh cao trong những ngón tay thanh nhã này ở ảnh cụ
Tam nguyên Yên Đổ.

Trong thời thế ấy nó là một thách thức, một đắc ý, một sáng tạo” (Tiểu luận phê bình
Đọc thơ Nguyễn Khuyến). Cốt cách của nhà nho Nguyễn Khuyến không chỉ hiện lên
trong một bức ảnh, qua con mắt của nhà phê bình tài hoa Xuân Diệu mà còn ẩn trong
rất nhiều các sáng tác của ông.

Nguyễn Khuyến đã để lại một số lượng sáng tác lớn, gồm cả chữ Hán và chữ Nôm, với
trên 800 bài, chủ yếu là thơ. Tiêu biểu là Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi
văn tập, Cẩm Ngữ, cùng nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng.

Thu điếu nằm trong chùm ba bài thơ thu “nức danh nhất” trong văn học trung đại Việt
Nam. Bài thơ tạo dựng được một bức tranh “điển hình hơn cả cho làng cảnh Việt Nam”.
Sau mỗi dòng thơ, mỗi hình ảnh thơ, chúng ta có thể hình dung bắt gặp một cách rõ nét
bức chân dung tinh thần của Nguyễn Khuyến - một nhà nho với cốt cách thanh cao và
tấm lòng yêu nước thầm kín.

1.Toàn bộ bài thơ Thu điếu là một bức tranh thu đặc trưng của mùa thu đồng bằng Bắc
Bộ. Trung tâm của bức tranh mùa thu là hình ảnh “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Từ
chiếc thuyền con giữa lòng ao nhỏ, cái nhìn của thi nhân bao quát xung quanh: Mặt
nước ao thu lạnh lẽo, trong veo đến hết độ của sắc trong; sóng biếc hơi khẽ gợn; ngang
tầm mắt là “lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Cái nhìn ấy sau đó lại hướng lên trời cao để thu vào một khoảng trong xanh vời vợi, lơ
lửng như yên tĩnh từ muôn đời. Thế rồi, ánh nhìn lại vội trở về mặt đất, bắt gặp “ngõ
trúc quanh co” uốn lượn men theo lối đi của vô vàn những chiếc ao nhỏ vùng đồng
bằng chiêm trũng này. Tầm mắt quay trở lại điểm dừng là chiếc thuyền câu bởi “thanh
động” của tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo.

Trong Thu vịnh, nhà thơ Nguyễn Khuyến hướng đến cái cao, cái xa, cái thanh của bầu
trời “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”, Thu ẩm lại được quan sát từ “Năm gian nhà
nhỏ thấp le te” và đôi mắt đầy tâm sự -“không vầy cũng đỏ hoe”. Với Thu điếu, cái
nhìn đi từ tầm gần đến cao xa rồi quay trở lại. Dường như bản thân sự di chuyển ánh
nhìn ấy đang theo chiều hướng thu dần, hẹp dần lại, để rồi đứng yên ở một điểm, cứ
thế nhìn ngược vào bên trong thăm thẳm của thế giới tâm trạng.

Trong thế giới ấy, chân dung tinh thần của một nhà nho trước sự đổi thay của thời cuộc
được phác họa một cách rõ nét. Nhuốm trong từng cảnh thu, sắc thu là tâm trạng u
hoài, một cõi lòng vắng lặng mênh mang và cả nỗi cô đơn “Đời loạn đi về như hạc độc”
(Cảm hứng) của một nhà nho bất lực trước thời thế.

2.Thu điếu mở ra trước mắt người đọc một bức tranh thu tĩnh lặng mang nét đặc trưng
của mùa thu đồng bằng Bắc Bộ:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Bức tranh thu với những hình ảnh rất quen thuộc: Ao thu, nước thu, thuyền câu, lá
vàng, gió thu, trời thu, ngõ trúc… Tất cả dệt nên một không khí thu, sắc thu riêng của
vùng đồng bằng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam. Ở đây, sự hòa phối của màu sắc đã
đạt đến sự “thú vị”, như phát hiện của nhà thơ Xuân Diệu: “Cái thú vị của bài thơ là ở
các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu
vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi”.

Đường nét trong bức tranh thu cũng thật mảnh mai, tinh tế: đường bao thanh mảnh của
rặng trúc, đường gợn của lượn sóng ao thu… Tất cả được bao bọc bằng một không gian
nghệ thuật tĩnh lặng, vắng bóng người. Sự tĩnh lặng ấy được hiện lên bằng việc sử dụng

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

nghệ thuật lấy động để tả tĩnh. Phải là một không gian tĩnh lặng đến gần như tuyệt đối
mới có thể thấy rõ cái “hơi gợn tí” của sóng biếc mặt ao và chút “khẽ đưa” của lá vàng.

Cảnh thu, sắc thu, không gian thu tạo cho chúng ta cảm nhận “rất là đất nước nhà
mình, có thật, rất sống”. Đó chỉ có thể là sự khúc xạ của một tâm hồn gắn bó thiết tha
với thiên nhiên, với quê hương đất nước.

Đằng sau bức tranh thu “điển hình hơn cả cho mùa thu của làng quê Việt Nam” ta bắt
gặp chân dung tinh thần của một nhà nho trước thời cuộc.

Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn cuối cùng của văn học trung đại Việt
Nam. Người trí thức đã đạt đến đỉnh cao học vấn và hoan lộ ấy sinh ra không gặp thời.
Nỗi niềm day dứt, u hoài của lương tâm, trách nhiệm của người trí thức từng đứng đầu
cả ba kì thi, vì phải bó tay trước những đòi hỏi của thời cuộc khiến cụ Tam nguyên Yên
Đổ phải từ quan ẩn dật. Tâm sự ấy, khi hiện lên bằng giọng điệu trào phúng thâm thúy,
nhưng phần đa được gửi gắm qua mảng thơ trữ tình.

Thu điếu không phải là ngoại lệ. Trong bức tranh thu, trong gam màu lạnh của sắc
xanh: Xanh nước, xanh sóng, xanh trời… trong khí thu hiu hắt, dường như có cái se sắt
trong lòng nhà thơ. Trong vế đối với “hơi gợn tí” của “sóng biếc” là “khẽ đưa vèo” của
lá. “Khẽ đưa” đối chỉnh với “gợn tí”, nhưng chữ “vèo”, miêu tả tốc độ bay của lá thì
thật không phù hợp với mức độ “khẽ đưa”. Phải chăng, sau dáng bay “vèo” của lá thu
chính là cảm nhận về thời thế của nhà thơ?

Nguyễn Khuyến từng đỗ đầu cả ba kì thi (thi Hương 1864, thi Hội và thi Đình năm
1871), được vua ban cờ biển có viết hai chữ “Tam nguyên”. Ông ra làm quan giữa lúc
nước mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn như sụp đổ hoàn toàn. Lúc này, Nam Kỳ rơi vào
tay thực dân Pháp. Năm 1885, chúng tấn công kinh thành Huế. Kinh thành thất thủ,
Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, nhân dân hưởng
ứng khắp nơi, nhưng cuối cùng phong trào Cần Vương tan rã.

Sống giữa thời kì các phong trào yêu nước bị dập tắt, Nguyễn Khuyến bất lực vì không
làm được gì để thay đổi thời cuộc, ông đành xin cáo quan về ở ẩn. Thời thế đổi thay
nhanh quá, giấc mơ trị quốc bình thiên hạ của vị Tam nguyên Yên Đổ không thực hiện
được. Thoáng chốc non sông đã rơi vào tay kẻ thù, vị đại khoa chỉ biết ngậm ngùi “dặn
các con”: “Sách vở ích gì cho buổi ấy” (Ngày xuân dặn các con). Sự thay đổi của thời
cuộc được cảm nhận trong cả cái vèo bay của “lá vàng”. Nhà tho Tản Đà về sau cũng có
tứ thơ như vậy:

Vèo trông lá rụng đầy sân

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Công danh phù thế có ngần ấy thôi

(Cảm thu tiễn thu)

Trong kết cấu thơ thất ngôn bát cú Đường luật, cặp câu 5, 6 thường là bàn luận, mở
rộng những suy tư, chiêm nghiệm của nhân vật trữ tình được gợi ra từ hai câu thực
(câu 3, 4). Trong bài thơ Thu điếu, vẫn nằm trong mạch thơ, tứ thơ về mùa thu, vẫn là
những hình ảnh quen thuộc đặc trưng của mùa thu nhưng trong đó ẩn chứa nỗi niềm
tâm sự sâu kín của nhà thơ:

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Hình ảnh “trời xanh ngắt” được trở đi trở lại trong cả ba bài thơ thu của Nguyễn
Khuyến. Trong Thu vịnh, đó là “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”; trong Thu ẩm là
“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt”. Và một lần nữa, trong Thu điếu, đó lại là “Tầng mây
lơ lửng trời xanh ngắt.

“Xanh ngắt” là màu xanh có chiều sâu. Trời thu xanh ngắt một màu thăm thẳm vừa gợi
được cái sâu, cái lắng của không gian, vừa gợi cái nhìn vời vợi của thi nhân. Trong màu
“xanh ngắt” của bầu trời dường như có cả sắc màu của nội tâm, của dòng suy tư của
một nhà nho vì thấy bất lực trước cuộc đời. Nhưng cùng với cái trong của nước thu, trời
thu xanh ngắt cao rộng kia như tấm gương soi khí tiết của nhà nho Tam nguyên Yên
Đổ.

“Tầng mây lơ lửng” giữa bầu trời cao rộng như mang theo cả sự lửng lơ trong tâm
trạng con người.

Tâm trạng thời thế cuối cùng được thu về trong dáng vẻ của ngư ông:

Tựa gối buông cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Hai câu thơ gợi lên ấn tượng về sự tĩnh lặng của không gian. Chỉ một tiếng cá đớp động
dưới chân bèo mà thanh động cả thế giới thu nhỏ trong ao thu. Thủ pháp dùng cái động
để nói cái tĩnh trong bài thơ một lần nữa phát huy hiệu quả nghệ thuật của nó trong
việc biểu hiện mỗi u hoài tĩnh lặng trong cõi lòng người câu cá.

Câu cá hay câu cá mùa thu tồn tại trong thơ ca cổ Trung Quốc và Việt Nam như một đề
tài quen thuộc. Ngoài những bài thơ vịnh nghề ngư trong tứ nghệ - ngư, tiều, canh,
mục, hình ảnh nhân vật trữ tình cùng với chiếc cần câu thường để chỉ cái thú trong lúc

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

thư nhàn, có khi đồng nghĩa với việc lánh đục tìm trong, thể hiện thái độ quay lưng lại
với chính sự, lại có khi mang dáng dấp của một hành động ẩn nhẫn đợi chờ thời cơ.
Trong bài thơ Thu điếu, cơ chế tâm hồn chi phối sự kể, tả của tác giả có lẽ cần được cắt
nghĩa trên khía cạnh tinh thần như thế.

Bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến khép lại, ấn tượng để lại sâu đậm trong lòng
người đọc có lẽ cái thanh và tĩnh. Nhưng thanh và tĩnh không chỉ là sự tồn tại vốn có
của sự vật mà nó còn là điểm hội tụ của tâm hồn đã ủ sẵn nỗi muộn sầu tìm gặp với
cảnh sắc thiên nhiên. Có thể nhu cầu thổ lộ tâm trạng u hoài đã dẫn lối để nhân vật trữ
tình tìm tới và biểu hiện những gì làm toát lên ấn tượng thanh và tĩnh.

Chính sự hài hòa giữa cảnh và tình đã đem đến vẻ đẹp tinh tế cho bài thơ. Chân dung
tinh thần của Nguyễn Khuyến trong Thu điếu vừa mang dáng vẻ của một nhà nho lạc
bước giữa thời cuộc vừa mang vẻ đẹp thuần khiết của một tâm hồn yêu thiên nhiên,
thiết tha với quê hương, đất nước.

(Giáo dục thời đại)

* Nhận định về Nguyễn Khuyến:

1. Xuân Diệu mệnh danh ông là “Nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”

2. “Nguyễn Khuyến nổi bật nhất trong văn học Việt Nam là Thơ Nôm. Mà trong thơ
Nôm của Nguyễn Khuyến nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu vịnh, Thu điếu, Thu
ẩm” (Xuân Diệu)
3. “Cái thú vị của bài thơ là ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre,
xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi” (Nguyễn
Khuyến)

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

ĐỀ THI GIỮA KỲ I

ĐỀ SỐ 1:

I. Đọc hiểu (5.0 điểm)

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:

Tuổi trẻ không là khái niệm chỉ một giai đoạn trong đời người, mà chỉ một trạng thái
tâm hồn. Tuổi trẻ không nhất thiết phải gắn liền với sức khỏe và vẻ tráng kiện bên
ngoài, mà lại gắn với ý chí mạnh mẽ, trí tưởng tượng phong phú, sự mãnh liệt của tình
cảm và cảm nhận phấn khởi với suối nguồn cuộc sống.

Tuổi trẻ thể hiện ở lòng can đảm chứ không phải tính nhút nhát, ở sở thích phiêu lưu
trải nghiệm hơn là ở sự tìm kiếm an nhàn[…]. Không ai già đi vì tuổi tác, chúng ta chỉ
già đi khi để tâm hồn mình héo hon. Thời gian hình thành tuổi tác, thái độ tạo nên tâm
hồn. Năm tháng in hằn những vết nhăn trên da thịt, còn sự thờ ơ với cuộc sống sẽ tạo ra
những vết nhăn trong tâm hồn chúng ta.

(Mac Anderson, Điều kì diệu của thái độ sống, Nxb Tổng hợp TP.HCM, 2008, trang 68)

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt và phong cách chức năng ngôn ngữ của văn bản.
(1.0 điểm)

Câu 2. Trong vế câu “Sự thờ ơ với cuộc sống sẽ tạo ra những vết nhăn trong tâm hồn”,
từ nào được dùng theo nghĩa chuyển? Nêu cách hiểu ngắn gọn của anh chị về nghĩa của
từ đó. (1.0 điểm)

Câu 3. Văn bản gửi đến anh/chị thông điệp gì (trả lời ngắn gọn)? (1.0 điểm)

Câu 4. Viết đoạn văn (từ 15 đến 20 dòng) làm rõ ý: “Tuổi trẻ thể hiện ở lòng can đảm
chứ không phải tính nhút nhát, ở sở thích phiêu lưu trải nghiệm hơn là ở sự tìm kiếm
an nhàn”. (2.0 điểm)

II. Làm văn (5.0 điểm)

Cảm nhận tâm sự của Tú Xương gửi gắm trong bài thơ Thương vợ.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

GỢI Ý:

I. Đọc hiểu:

1. Xác định phương thức biểu đạt và phong cách chức năng ngôn ngữ của văn bản.

- Phương thức biểu đạt: Nghị luận

- Phong cách ngôn ngữ chính luận

2. Từ chuyển nghĩa

- Từ “vết nhăn” được dùng theo nghĩa chuyển.

- Ý nghĩa: Biểu thị sự già nua, chai sạn trong tâm hồn

3. Văn bản gửi đến thông điệp:

- Đừng để tâm hồn trở nên già nua.

- Hãy giữ cho tâm hồn luôn tươi trẻ bằng cách sống mạnh mẽ, lạc quan, can đảm, yêu
thương.

4. Viết đoạn văn

* Yêu cầu về kĩ năng: Biết cách viết đoạn văn; đoạn văn hoàn chỉnh theo lối diễn dịch,
chặt chẽ; diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi diễn đạt, lỗi chính tả; đảm bảo dung lượng
như yêu cầu đề.

* Yêu cầu về kiến thức:

- Giải thích: Câu nói bàn về những biểu hiện của tuổi trẻ.

- Bàn luận:

+ Tuổi trẻ thể hiện ở lòng can đảm chứ không phải tính nhút nhát: sống dũng cảm, dám
nói, dám làm, thể hiện bản lĩnh cá nhân.

+ Tuổi trẻ thể hiện ở sở thích phiêu lưu trải nghiệm hơn là ở sự tìm kiếm an nhàn: sống
tích cực, nhiệt huyết, luôn muốn thử thách bản thân, tìm kiếm điều mới mẻ.

- Bài học: Hãy sống dũng cảm và nhiệt huyết để không phí hoài tuổi trẻ và đời người.

Thí sinh có thể trình bày bài làm theo những cách khác, nhưng phải nhưng phải hợp lí,
thuyết phục; Giáo viên linh hoạt trong đánh giá.

II. Làm văn: Cảm nhận tâm sự của Tú Xương gửi gắm trong bài thơ Thương vợ

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận

Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai
được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: tâm sự của Trần Tế Xương gửi gắm trong bài
thơ “Thương vợ”

Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự cảm nhận sâu sắc và vận
dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng.

- Giới thiệu tác giả Trần Tế Xương, tác phẩm “Thương vợ”, vấn đề nghị luận: Tâm sự
của nhà thơ, dẫn thơ.

- Cảm nhận tâm sự của Tú Xương:

+ Thấu hiểu, yêu thương, quý trọng, tri ân vợ

+ Tự trách mình, nhận ra sự bất lực của bản thân trong hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ.

+ Chửi đời, lên án xã hội bạc bẽo, bất công.

- Đánh giá:

+ Lời thơ giản dị, sâu sắc, kết hợp giữa trữ tình và trào phúng, sử dụng sáng tạo thi liệu
dân gian.

+ Tấm lòng sâu nặng với vợ, nhân cách cao đẹp và thái độ bất mãn trước thời đại của
Tú Xương.

c. Sáng tạo

- Liên hệ tác phẩm khác

- Ý mới mẻ, sâu sắc

d. Chính tả, dùng từ, đặt câu

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

ĐỀ SỐ 2:

I. Đọc hiểu (3,0 điểm)

Đọc văn bản và trả lời các câu hỏi:

"… (1) Thật vậy, Nguyễn Du, đại thi hào của dân tộc từng viết: “Sách vở đầy bốn vách/
Có mấy cũng không vừa”. Đáng tiếc, cuộc sống hiện nay dường như “cái đạo” đọc sách
cũng dần phôi pha. Sách in nhiều nơi không bán được, nhiều nhà xuất bản đóng cửa vì
thua lỗ, đặc biệt . Nhiều gia đình giàu có thay tủ sách bằng tủ ... rượu các loại. Các thư
viện lớn của các thành phố hay của tỉnh cũng chỉ hoạt động cầm chừng, cố duy trì sự
tồn tại.

...(2) Bỗng chợt nhớ khi xưa còn bé, với những quyển sách giấu trong áo, tôi có thể đọc
sách khi chờ mẹ về, lúc nấu nồi cơm, lúc tha thẩn trong vườn, vắt vẻo trên cây, lúc chăn
trâu, lúc chờ xe bus... Hay hình ảnh những công dân nước Nhật mỗi người một quyển
sách trên tay lúc ngồi chờ tàu xe, xem hát, v.v... càng khiến chúng ta thêm yêu mến và
khâm phục. Ngày nay, hình ảnh ấy đã bớt đi nhiều, thay vào đó là cái máy tính hay cái
điện thoại di động. Song sách vẫn luôn cần thiết, không thể thiếu trong cuộc sống
phẳng hiện nay...”

(Trích “Suy nghĩ về đọc sách” – Trần Hoàng Vy, Báo Giáo dục & Thời đại, Thứ hai ngày
13.4.2015)

Câu 1. Trong đoạn (2), tác giả chủ yếu sử dụng thao tác lập luận nào? (0,5 điểm)

Câu 2. Hãy ghi lại câu văn nêu khái quát chủ đề của đoạn trích trên. (1,0 điểm)

Câu 3. Hãy giải thích vì sao tác giả lại cho rằng: “cuộc sống hiện nay dường như “cái
đạo” đọc sách cũng dần phôi pha”? (1,0 điểm)

Câu 4. Có ý kiến cho rằng: Thời nay, đọc sách là lạc hậu. Sống trong thời đại công nghệ
thông tin thì phải lên mạng đọc vừa nhanh, vừa dễ, vừa đỡ tốn kém. Anh/ chị có đồng
tình với ý kiến đó không? Vì sao? (0,5 điểm)

II. Làm văn (7,0 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm)

Viết đoạn văn nghị luận bày tỏ suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến: Một cuốn sách tốt là
một người bạn hiền.

Câu 2 (5,0 điểm)

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

Anh/ chị hãy cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Khuyến qua bài thơ Câu cá mùa
thu.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

GỢI Ý:

I. Đọc hiểu (3 điểm)

Câu 1: (0,5 điểm)

Thao tác lập luận so sánh/ thao tác so sánh/ so sánh

Câu 2: (1,0 điểm)

Câu văn khái quát chủ đề: Song sách vẫn luôn cần thiết, không thể thiếu trong cuộc
sống phẳng hiện nay.

Câu 3: (1,0 điểm)

Tác giả cho rằng “cuộc sống hiện nay dường như “cái đạo” đọc sách cũng dần phôi
pha” vì ở thời đại công nghệ số, con người chỉ cần gõ bàn phím máy tính hoặc điện
thoại di động đã có thể tiếp cận thông tin ở nhiều phương diện của đời sống, tại bất cứ
nơi đâu, trong bất kì thời gian nào, nên việc đọc sách đã dần trở nên phôi pha.

Câu 4: (0,5 điểm)

HS bày tỏ ý kiến đồng tình hoặc không đồng tình và lí giải thuyết phục.

II. Làm văn (7,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm)

* Yêu cầu chung: Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng về dạng bài nghị luận xã hội
để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; diễn đạt
trôi chảy, bảo đảm tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.

* Yêu cầu cụ thể:

a) Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận (0,25 điểm):

- Trình bày đầy đủ các phần Mở bài, Thân bài, Kết luận. Phần Mở bài biết dẫn dắt hợp lí
và nêu được vấn đề; phần Thân bài biết tổ chức thành nhiều đoạn văn liên kết chặt chẽ
với nhau cùng làm sáng tỏ vấn đề; phần Kết bài khái quát được vấn đề và thể hiện được
nhận thức của cá nhân.

b) Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,25 điểm): Lợi ích, vai trò của việc đọc sách.

c) Chia vấn đề cần nghị luận thành các luận điểm phù hợp; các luận điểm được triển
khai theo trình tự hợp lí, có sự liên kết chặt chẽ; sử dụng tốt các thao tác lập luận để
triển khai các luận điểm (trong đó phải có thao tác giải thích, chứng minh, bình luận);

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

biết kết hợp giữa nêu lí lẽ và đưa dẫn chứng; dẫn chứng phải lấy từ thực tiễn đời sống,
cụ thể và sinh động (1,0 điểm):

- Điểm 1,0: Đảm bảo các yêu cầu trên; có thể trình bày theo định hướng sau:

1. Giải thích: (0,25 điểm)

+ Sách tốt là loại sách mở ra cho ta chân trời mới, giúp ta mở mang kiến thức về nhiều
mặt: cuộc sống, con người, trong nước, thế giới, đời xưa, đời nay, thậm chí cả những dự
định tương lai, khoa học viễn tưởng...

+ Bạn hiền đó là người bạn có thể giúp ta chia sẻ những nỗi niềm trong cuộc sống, giúp
ta vươn lên trong học tập, cuộc sống. Do tác dụng tốt đẹp như nhau mà có nhận định ví
von "Một quyển sách tốt là một người bạn hiền".

2. Bàn luận: (0,5 điểm)

Sách tốt là người bạn hiển kể cho ta bao điều thương, bao kiếp người điêu linh đói khổ
mà vẫn giữ trọn vẹn nghĩa tình (dẫn chứng qua các tác phẩm VH).

Sách cho ta hiểu và cảm thông với bao kiếp người, với những mảnh đời ở những nơi xa
xôi, giúp ta vươn tới chân trời của ước mơ, ước mơ một xã hội tốt đẹp.

Sách giúp ta chia sẻ, an ủi những lúc buồn chán: Truyện cổ tích, thần thoại,...

Khi đọc sách cần chọn lựa sách hay, giàu ý nghĩa, bổ ích cho người đọc...

Phê phán những quan điểm lệch lạc về việc đọc sách, chọn sách ở một số người...

3. Bài học. (0,25 điểm)

d) Sáng tạo (0,25 điểm)

- Có nhiều cách diễn đạt độc đáo và sáng tạo (viết câu, sử dụng từ ngữ, hình ảnh và các
yếu tố biểu cảm,…) ; thể hiện được quan điểm và thái độ riêng, sâu sắc nhưng không
trái với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.

e) Chính tả, dùng từ, đặt câu (0,25 điểm):

- Không mắc quá 3 lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.

Câu 2. (5,0 điểm)

* Yêu cầu chung: Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng về dạng bài nghị luận văn
học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; thể

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

hiện khả năng cảm thụ văn học tốt; diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết; không mắc
lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.

* Yêu cầu cụ thể:

a) Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận (0,5 điểm):

b) Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,5 điểm):

c) Chia vấn đề cần nghị luận thành các luận điểm phù hợp; các luận điểm được triển
khai theo trình tự hợp lí, có sự liên kết chặt chẽ; sử dụng tốt các thao tác lập luận để
triển khai các luận điểm (trong đó phải có thao tác giải thích, phân tích, chứng minh,
bình luận); biết kết hợp giữa nêu lí lẽ và đưa dẫn chứng (3,0 điểm):

- Điểm 3,0: Đảm bảo các yêu cầu trên; có thể trình bày theo định hướng sau:

1. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, nêu vấn đề nghị luận:

Nguyễn Khuyến là nhà nho tài năng, có cốt cách thanh cao, một trong những đại diện
xuất sắc cuối cùng của VHTĐ Viêt Nam.

Câu cá mùa thu là bài thơ đặc sắc trong Chùm thơ thu, đằng sau bức tranh cảnh thu là
vẻ đẹp tâm hồn thi nhân.

2. Giải thích: (0,25 điểm)

+ Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Khuyến trong bài thơ là tình yêu thiên nhiên gắn liền với
tình yêu quê hương, đất nước và tâm trạng thời thế của một tâm hồn thanh cao.

3. Phân tích, chứng minh: (2,75 điểm)

+ Tình yêu thiên nhiên gắn liền với tình yêu quê hương đất nước:

- Thơ viết về thiên nhiên trước hết là bộc lộ tình yêu thiên nhiên của tác giả: thiên nhiên
được cảm nhận bằng nhiều giác quan (thị giác, thính giác, xúc giác...).Bức tranh thiên
nhiên với màu sắc, đường nét, âm thanh... đẹp, tĩnh lặng, đượm buồn, điển hình cho
cảnh sắc mùa thu làng quê ở đồng bằng Bắc bộ.

- Thơ viết về thiên nhiên còn phản ánh tình yêu quê hương, đất nước vì đó là thiên
nhiên của quê hương mình, tổ quốc mình: Là người gắn bó sâu sắc và thiết tha với quê
hương, Nguyễn Khuyến đã cảm nhận vẻ đẹp riêng của cảnh sắc quê hương, đồng thời
thể hiện vẻ đẹp ấy bằng nét bút vừa chân thực, vừa tinh tế. Bức tranh Câu cá mùa thu
mang được cái hồn dân tộc, vượt khỏi những công thức, ước lệ không chỉ bởi tài thơ mà
còn bởi tình yêu thiên nhiên đất nước của tác giả.

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn


Chia sẻ tài liệu Ngữ Văn miễn phí!

+ Tâm trạng thời thế của một tâm hồn thanh cao:

- Người đi câu hờ hững với việc câu cá bởi đang nặng lòng trước thế sự. Tâm trạng u
hoài bộc lộ qua bức tranh thiên nhiên tĩnh lặng, vắng người, vắng tiếng. Nỗi u hoài từ
tâm cảnh lan tỏa ra ngoại cảnh phủ lên cảnh vật vẻ thanh sơ đến hiu hắt. Không gian
tĩnh lặng đem đến cảm nhận về nỗi cô quạnh, uẩn khúc trong tâm hồn thi nhân. Tìm
đến thú vui câu cá để nhàn thân nhưng tâm không nhàn, không câu cá mà “câu thanh,
câu vắng” bởi nặng lòng trước thời thế và vận mệnh đất nước.

→ Qua tâm trạng thời thế của ông ta thấy một tấm lòng yêu nước thầm kín nhưng
không kém phần sâu sắc.

d) Sáng tạo (0,5 điểm)

e) Chính tả, dùng từ, đặt câu (0,5 điểm)

Thích Văn Học – thichvanhoc.com.vn

You might also like