You are on page 1of 4

TỰ TÌNH II T ự t ì n h I I

t
~Hồ Xuân Hương~
I. mở bài:
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, hình ảnh người phụ nữ luôn là nguồn cảm
hứng bất tận cho nên văn học. Trong những bài thơ bài văn ấy, thơ của Hồ Xuân
Hương là thơ của phụ nữ viết về phụ nữ. Bà có cuộc đời éo le, trắc trở nên đã
mượn ngòi bút để lên tiếng nói thương cảm cho thân phận người phụ nữ. Bài thơ
“Tự Tình II” đã bộc lộ tâm trạng vừa buồn tủi vừa phẫn uất trước duyên phận éo
le và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc trong tâm hồn nhà thơ.
II. Thân bài:
1. Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm:
Trong giai đoạn cuối thế kỷ XVII, bên cạnh những nhà thơ nổi tiếng như
Nguyễn Du, Nguyên Trãi, Xuân Diệu… Hồ Xuân Hương nổi lên như một hiện
tượng văn học độc đáo, bà được người đời mệnh danh là “bà chúa thơ Nôm” hay
thiên tài kì nữ hiện tượng đặc biệt của văn học Việt Nam. Bà là người phụ nữ tài
sắc vẹn toàn thế nhưng cuộc đời của bà vô cùng bất hạnh, những sáng tác của bà
bao gồm cả chữ Nôm và chữ Hán chủ yếu viết về người phụ nữ Việt Nam và xã
hội phong kiến thời bấy giờ. Nổi bật trong sáng tác thơ Nôm của bà là: Bánh trôi
nước, Tự tình…
- Bài thơ “Tự tình II” nằm trong chùm thơ Tự tình gồm 3 bài. Bài thơ được viết
theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng tác giả không viết bằng chữ Hán mà
là chữ Nôm. Nhan đề bài thơ là tự bộc lộ, giãi bày tâm trạng, tình cảm của mình,
hay nói cách khác đây chính là sự hé mở nỗi lòng khó nói của tác giả.
2. Phân tích, cảm nhận bài thơ:
NGUYỄN NGỌC ÁNH 1
 Hai câu đề:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
- Hai câu đề là tiếng trống thời gian và con thuyền cắm sào đợi nước.
- Giống như bài I nỗi niềm buồn tủi của Hồ Xuân Hương được gợi lên giữa
đêm khuya thanh vắng. Tác giả đang thao thức trong nỗi cô đơn, đợi chờ.
- Tính từ “văng vẳng” đã được nữ sĩ sử dụng rất tự nhiên và tinh tế khiến ta
nhận ra không gian mênh mông vắng lặng lúc nửa đêm.
- Cách cảm nhận thời gian, không gian, nhịp gấp gáp liên hồi của tiếng trống
canh trong đêm khuya vừa là sự cảm nhận có thật vừa là nghệ thuật lấy động tả
tĩnh làm nổi bật sự tĩnh lặng của không gian.
+ “trống canh dồn” tiếng trống thôi thúc, gấp gáp, liên hồi thể hiện bước đi dồn
dập của thời gian, là tiếng trống của tâm trạng rối bời của nhà thơ (tuổi xuân của
bà cũng qua mau).
 Đêm khuya là lúc vạn vật chìm trong giấc ngũ, đó cũng là lúc lòng người sâu
lắng nhất, lúc con người đối diện với chính bản thân mình. Tiếng trống văng
vẳng không quá gần mà lại nghe thấy cái nhịp “dồn” vội vàng, gấp gáp -> tâm
trạng của người phụ nữ mang tâm thức cô dơn, ám ảnh trước thời gian.
- Chủ thể chữ tình người phụ nữ hiện lên sự tương phản giữa cái cá nhân nhỏ bé
với cái mênh mông rộng lớn của vũ trụ.
+ Từ “trơ” được đảo lên đầu câu gây ấn tượng mạnh mẽ. “Trơ” là chai lì, là mất
hết cảm giác động thời nó cũng là sự tủi hổ, bẽ bàng.
+ “Hồng nhan” là từ Hán Việt quen thuộc chỉ sự dung nhan, sắc đẹp của người
phụ nữ nói chung. Nhưng nó lại đi vs từ “cái” thì thật rẻ rúng, mỉa mai.
+Từ “trơ” kết hợp với nước non thể hiện sự bề gan, thách đố.
 Câu thơ chỉ nói về một vế hồng nhan nhưng vẫn gợi ra vẻ bạc phận vì vậy nỗi
xót xa càng trở nên thấm thía. Nhịp thơ 1/3/3 cũng là để nhấn mạnh vào sự bẽ
bàng đó. Tuy nhiên bên cạnh nỗi đau còn là bản lĩnh của Xuân Hương thể hiện
trong chữ “trơ” với hàm nghĩa thách thức.
 Hai câu thực:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”

NGUYỄN NGỌC ÁNH 2


Ở hai câu đề, nữ thi sĩ đã tái hiện cho chúng ta thấy một không gian vắng lặng
đêm khuya thì ở hai câu thực tác giả đã cho thấy nối niềm thao thức vơi đầy.
- Hình ảnh chén rượu như dùng để giải sầu.
+ Cụm từ “say lại tỉnh” như một vòng luẩn quẩn lặp đi lặp lại, tình duyên như trở
thành trò đùa, càng say lại càng tỉnh, càng cảm nhận nỗi đau thân phận.
- Cảnh tình của Xuân Hương được thể hiện qua hình ảnh thơ chứa đựng sự éo
le “khuyết chưa tròn”, tuổi xuân đã trôi qua mà tình duyên vẫn chưa trọn vẹn.=>
Thiết tha nồng nàn một nỗi niềm ham sống, nội tâm sâu thẳm.
- Sự đối lập giữa “say”-“tỉnh”, “khuyết”-“tròn” đã gợi lên cho người đọc cảm
giác chông chênh, không xác đinh được ranh giơi giữa không và có, giữa say và
tỉnh.=> Sự hi vọng manh về hạnh phúc và hiện thực phũ phàng.
 Bi kịch nỗi đau của những người phụ nữ quá lữa lỡ thì, tình duyên ngang trái.
 Hai câu luận:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đã mấy hòn.”
- Hai câu thơ tả cảnh được cảm nhận qua tâm trạng cũng như mang theo nỗi
niềm phẫn uất của con người, những sinh vật nhỏ bé như đã rêu cũng không chịu
khuất phục.=> Bản năng đòi được sống.
- “rêu” và “đá” vốn nhỏ bé nhưng tiềm ẩn một sức sống và đã bắt đầu bật lên
đầy mạnh mẽ, đá đã rắn chắc lại phải cứng cáp hơn để “đâm toạc chân mày”,
“rêu” xiên ngang mặt đất.
+ Biện pháp đảo ngữ trong hai câu luận đã làm nổi bật sự phẫn uất trong tâm
trạng, động từ mạng kết hợp với bổ ngữ “ngang”, “toạc” độc đáo thể hiện sự
bướng bỉnh, ngang trái. => Một phong cách rất Xuân Hương.
 Hai câu thơ đã gọi lên cảnh vật sinh động, đầy sức sống, đó cũng chính là tâm
hồn đầy sức sống, lòng nhiều khát khao của Hồ Xuân Hương.
 Hai câu kết:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mối tình san sẻ tí con con.”
NGUYỄN NGỌC ÁNH 3
Cho đến hai câu thơ cuối, tác giả đã bộc bạch hết nỗi cay đắng của đời người
trước thực tế phũ phàng.
- “Ngán”: ngán ngẩm, buồn bã, chán nản với cuộc đời đầy éo le.
- “Xuân đi xuân lại lại”: mùa xuân của đất trời tự nhiên thì tuần hoàn, luân
chuyển nhưng tuổi xuân thì một đi không trở lại vì thế thời gian càng trôi qua
nhanh lòng người càng buồn tủi xót xa nuối tiếc.
- Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến:
+”mảnh tình” đã bé lại bé hơn phải “san sẻ” còn “tí con con”
 Hai câu kết tuy có hiện tượng bi quan nhưng âm hưởng chung của toàn bài
không làm cho người đọc bi quan mà như có một cái gì đang le lói ở phía xa xăm
hiện ra ở phía trước: khát vọng hạnh phúc lứa đôi.
3. Nghệ thuật:
- Nghệ thuật thơ Đường luật trong việc thể hiện tâm trạng nhân vật chữ tình.
- Nghệ thuật đối có tác dụng nhấn mạnh tâm trạng buồn tủi, bi kịch, nỗi niềm
bực bội, phẫn uất và khát vọng vượt lên trên duyên phận.
- Tính chất hàm súc, cô đọng, vừa dồn nén cảm xúc, vừa mở rộng ý nghĩa: câu 3
và câu 7 đều là những câu ẩn chủ ngữ -> điều này đem đến sự cảm nhận đó là
tiếng nói, là tâm trạng của chủ thể chữ tình nhưng đồng thời nó cũng là sự nói
thay, nói hộ nỗi niềm chung của người phụ nữ có hoàn cảnh éo le như tác giả.
- Bài thơ sử dụng ngôn ngữ thơ Nôm và những từ ngữ, hình ảnh giản dị, giàu sức
biểu cảm nhưng vẫn mang tính hàm súc về ý nghĩa.
III. Kết bài:
“Tự tình 2” chính là tiếng lòng của Hồ Xuân Hương đúng như nhận định “
Thơ là tiếng lòng” của Diệp Tiến. Tiếng lòng thiết tha vừa u buồn vừa phảng phất
ánh sáng của khao khát, ước mơ hạnh phúc như một viên ngọc sáng thách thức
bước đi nghiệt ngã của thời gian. Qua bao thế kỷ, Hồ Xuân Hương cùng tiếng thơ
“ Tự tình” vẫn in sâu trong tâm trí độc giả ngàn đời.

NGUYỄN NGỌC ÁNH 4

You might also like