You are on page 1of 11

GV biên soạn: Trần Ngọc Ánh Linh

PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRUNG ĐẠI (THƠ)


I. YÊU CẦU KĨ NĂNG (1 ĐIỂM)
- Đúng kiểu bài nghị luận văn học + Phân tích lập luận tốt
- Ngôn ngữ trong sáng, có hình ảnh, cảm xúc, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ; diễn đạt đúng ngữ pháp,
chính tả.
- Bố cục 3 phần: mở – thân – kết, thân bài có tách đoạn, trình bày rõ ràng.
- Thân bài không tách đoạn: trừ 0,5 điểm.
II. YÊU CẦU KIẾN THỨC (5 ĐIỂM)
A. Mở bài (0.5 điểm)
- Giới thiệu tên tác giả, tác phẩm
Ví dụ: Bài thơ “Tự tình II” của Hồ Xuân Hương
- Giới thiệu vấn đề nghị luận (nếu có)
- Chép lại toàn bộ bài thơ
B. Thân bài (4 điểm)
1. Khái quát chung: (5 dòng)
- Tác giả (con người, tài năng): 0,25 điểm
- Tác phẩm (hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, thể thơ, chủ đề,... ): 0,25 điểm.
2. Phân tích/ cảm nhận đoạn trích/ bài thơ: 2,5 điểm
- Phân tích theo từng câu, từng cặp câu (chỉ ra hình ảnh, từ ngữ đặc biệt) để thấy được cái hay cái đẹp về
nội dung và nghệ thuật của đoạn trích: NGHỆ THUẬT  NỘI DUNG
+ Có câu luận điểm nêu nội dung chính cặp câu thơ phân tích
+ Phân tích đến đâu, trích dẫn thơ của từng đoạn mà mình phân tích đến đó.
- Có thể phân tích theo trình tự tác phẩm hoặc theo luận điểm.
- LƯU Ý:
+ Trong quá trình phân tích, nên trích lại một vài từ ngữ có trong tác phẩm và đặt trong dấu ngoặc
kép. Ví dụ: “ao thu”, “cái hồng nhan”,…
+ Tên tác phẩm cũng phải ghi trong dấu ngoặc kép. Ví dụ: “Thương vợ”
+ Có câu chuyển ý giữa các phần phân tích để đảm bảo tính mạch lạc của bài viết và nên dùng các
từ nối, quan hệ từ để các câu trong đoạn văn được mạch lạc. Ví dụ:
 Quan hệ nguyên nhân – kết quả: Vì vậy, Cho nên, Vì thế,...
 Quan hệ đối lập: Tuy nhiên, Tuy – nhưng,...
 Bổ sung, mở rộng ý: Ngoài ra, Bên cạnh đó, Hơn thế nữa, Thêm vào đó,...
3. So sánh, mở rộng với các tác phẩm khác (có thể lồng ghép trong quá trình phân tích): 0,5 điểm
4. Đánh giá chung về nghệ thuật của đoạn, tác phẩm: 0,5 điểm
C. Kết bài (0.5 điểm)

1
GV biên soạn: Trần Ngọc Ánh Linh

BÀI LÀM THAM KHẢO


ĐỀ BÀI: Phân tích và cảm nhận tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ “Tự tình II”
của Hồ Xuân Hương
Thơ là thư kí của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn thi sĩ, nó phản ảnh cuộc sống của con
người, xã hội, để qua đó người nghệ sĩ có thể bộc lộ nỗi lòng của mình. Hay nói cách khác mỗi bài thơ
chính là tiếng hát của trái tim, được thể hiện bằng những hình thức nghệ thuật độc đáo. Hồ Xuân Hương
đã đem tiếng lòng của mình và những người phụ nữ trong xã hội xưa vào trong thi ca. Đặc biệt, qua bài
thơ “Tự tình II”, nữ sĩ họ Hồ đã mạnh dạn dùng ngòi bút của mình để cất lên tiếng nói đấu tranh giành
quyền lợi cho người phụ nữ và thể hiện khát khao hạnh phúc trọn vẹn đầy chính đáng.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
Hồ Xuân Hương là một nữ thi sĩ tiêu biểu cho văn học giữa thế kỉ XVIII và được biết đến với cái
tên “bà chúa thơ Nôm”. Thông qua hàng loạt các bài thơ Nôm giàu hình ảnh, ý nghĩa, có thể thấy tài năng
của bà là không thể phủ nhận. Bài thơ “Tự tình II” nằm trong chùm thơ tự tình gồm ba bài của Hồ Xuân
Hương và được sáng tác bằng chữ Nôm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Thi phẩm bày tỏ được nỗi
lòng của tác giả trước duyên phận hẩm hiu khi khắc hoạ tâm trạng bi kịch cô đơn, hẩm hiu và niềm khao
khát hạnh phúc. Đặc biệt, tác phẩm đã thể hiện được thái độ bức phá, vùng vẫy muốn thoát ra khỏi cảnh
ngộ, vươn lên giành hạnh phúc của nữ sĩ họ Hồ. Qua đó, có thể thấy thơ ca không chỉ đơn thuần là “thi dĩ
ngôn chí” mà còn là nơi để giãi bày tình cảm, tâm tư dồn nén của con người.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Ngay từ câu thơ đầu, Hồ Xuân Hương đã mở ra một khung cảnh “đêm khuya” – thời điểm nửa
đêm về sáng khi mà vạn vật chìm vào giấc ngủ cũng là lúc tác giả đối diện với chính mình, thao thức
trong nỗi cô đơn, đợi chờ. Thủ pháp lấy động tả tĩnh được thể hiện qua từ láy “văng vẳng” gợi lên một
không gian vắng lặng, tĩnh mịch, rộng lớn lúc nửa đêm nhằm nhấn mạnh sự cô đơn cực độ của con người.
Tiếng “trống canh dồn” chuyển canh gấp gáp, liên hồi gợi lên bước đi dồn dập của thời gian mà đó cũng
chính sự thôi thúc, dồn nén của tâm trạng con người khi chờ đợi khắc khoải đầy thảng thốt của người phụ
nữ trong cảnh lẽ mọn, càng chờ càng vô vọng. Có thể thấy, tiếng trống vừa gợi bước đi của thời gian, vừa
thể hiện tâm trạng dồn nén đầy ám ảnh của con người. Không gian và thời gian của bài thơ được mở ra rất
tài tình và tinh tế ngay từ câu thơ đầu. Nhà thơ đã cảm nhận sự bẽ bàng của duyên phận qua câu thơ thứ
hai khi sử dụng từ “trơ” đặt ngay đầu câu. “Trơ” chính là sự trơ trọi, cô đơn và kết hợp cùng nghệ thuật
đảo ngữ càng nhấn mạnh sự tủi hổ, bẽ bàng và cô đơn của người phụ nữ. “Hồng nhan” dùng để chỉ dung
nhan của người con gái nhưng tác giả còn sử dụng thủ pháp vật hoá thành “cái hồng nhan” càng tô đậm
bi kịch con người như trở thành một món đồ trơ trọi, đầy rẻ rúng, mỉa mai. Tuy nhiên, Hồ Xuân Hương

2
GV biên soạn: Trần Ngọc Ánh Linh

cũng đã thể hiện sự thách thức, bền gan dù trong cảnh trơ trọi thông qua việc đặt từ “trơ” trong thế đối
sánh từ “nước non”. Thông qua thủ pháp đối lập này, nữ sĩ đã đề cao giá trị người phụ nữ, cho họ sánh
với non nước vững bền để giải thoát khỏi những định kiến, sự khinh thường, bất công của xã hội. Nhịp
thơ 1/3/3 như càng nhấn mạnh vào sự bẽ bàng, sự hồng nhan bạc phận, từ đó nỗi xót xa, đau đớn càng trở
nên thấm thía cho thân phận hẩm hiu của người phụ nữ. Nỗi cô đơn dị thường thể hiện không chỉ nỗi
buồn rầu cô đơn mà còn là sự kiêu hãnh, bản lĩnh của một hồn thơ đầy cá tính, có thể thấy bên cạnh Hồ
Xuân Hương đầy nỗi niềm đau đớn là một Xuân Hương mạnh mẽ và vô cùng bản lĩnh.
Từ “trơ” đã không ít lần xuất hiện trong các thi phẩm trung đại cũng mang ý nghĩa bẽ bàng, chua
xót:
“Đêm xuân một giấc mơ màng
Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Rượu thường được uống vào những dịp vui. Thế nhưng, rượu vui thì lại ít khi uống vào canh
khuya và chén rượu đêm khuya là thứ để giải sầu, nhấm nháp những suy tư. Tác giả đã không nhắc tới
tính chất gì khác của rượu mà chỉ nhắc đến hương nhằm gợi lên cái gì đó hấp dẫn thì cũng chóng vánh và
dư âm ám ảnh, rượu đã khiến nữ sĩ họ Hồ đắm chìm trong sự cô đơn hiu quạnh. Cụm từ “say lại tỉnh” gợi
lên một vòng quẩn quanh, tình duyên đã thành trò đùa của con tạo bởi uống rượu để càng say nhưng lại
càng tỉnh, qua đó càng cảm nhận nỗi đau thân phận một cách sâu sắc hơn. Hương rượu để lại vị đắng
chát, hương tình thoảng qua để chỉ còn phận hẩm hiu duyên ôi. Có thể thấy một vòng tâm trạng luẩn quẩn
không lối thoát khi câu thơ vừa là ngoại cảnh mà cũng là tâm cảnh. Hồ Xuân Hương đã tài tình khi lồng
ghép biện pháp nghệ thuật điệp nghĩa cùng hình ảnh ẩn dụ vầng trăng “bóng xế” (sắp tàn) mà lại còn
“khuyết” (thiếu) và “chưa tròn” để ám chỉ đến cuộc đời, thân phận của mình chưa bao giờ trọn vẹn, viên
mãn khi tuổi xuân đã trôi qua mà tình duyên vẫn còn dang dở. Nghệ thuật đối lập, tương phản giữa “say
– tỉnh”, “khuyết – tròn” đã khiến hai câu thơ có thể gợi lên cảm giác chông chênh, không xác định được
giữa không và có, say và tỉnh. Nhờ các cặp từ trái nghĩa mà ta nhận ra được hi vọng mong manh về hạnh
phúc giữa hiện thực phũ phàng, nỗi buồn tủi về hạnh phúc dở dang trước số phận lận đận của chính mình.
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”
Nữ sĩ họ Hồ đã phá luật về mặt nội dung khi không còn bàn luận, mở rộng ý của đề mà chủ yếu
nói về tâm sự của chính nhà thơ. Hai câu thơ tả cảnh thiên nhiên và cảnh được cảm nhận qua tâm trạng
mang nỗi niềm phẫn uất của con người khi những sinh vật nhỏ bé, hèn mọn như đám “rêu” kia mà cũng
không chịu mềm yếu mà “xiên ngang mặt đất”, “đá” tầm thường, hèn mọn đã rắn chắc lại phải rắn chắc
hơn, phải nhọn lên và trở nên mạnh mẽ, gai góc để có thể “đâm toạc chân mây”. Rêu xiên ngang mặt đất,
đá đâm toạc chân mây như xẻ đất vạch trời mà hờn oán. Thủ pháp đối lập giữa cái nhỏ bé và vật to lớn,
giữa hữu hạn và vô hạn kết hợp với biện pháp nghệ thuật đảo ngữ đã làm nổi bật sự phẫn uất của thân
phận đất đá, cỏ cây cũng là sự phẫn uất của con người mang nhiều tâm trạng. Những động từ mạnh “xiên,
đâm” được kết hợp với bổ ngữ “ngang, toạc” độc đáo thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh, dữ dội của
nhà thơ khi mong mỏi làm nên những điều không tưởng. Cảnh vật trong thơ Hồ Xuân Hương bao giờ

3
GV biên soạn: Trần Ngọc Ánh Linh

cũng sinh động và căng đầy sức sống – một sức sống mãnh liệt ngay cả trong tình huống bị vùi dập, đè
nén, bẽ bàng, đau đớn. Qua đây, người đọc cảm nhận được cõi lòng đầy khát khao của Hồ Xuân Hương.
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
Từ “ngán” cho thấy tác giả đã thực sự thấy chán ngán, chán ngẫm với cuộc đời éo le, bạc bẽo khi
tuổi xuân của bản thân đang dần trôi qua nhưng mùa xuân vẫn đến mang sự sống cho đất trời. Điệp từ
“xuân” kết hợp với sự đa nghĩa đã cho thấy tạo hoá xoay vần một vòng luẩn quẩn đầy bế tắc: mùa xuân
đi rồi trở lại với thiên nhiên cùng muôn nghìn hoa lá cỏ cây, thế nhưng với con người thì mỗi mùa xuân
đến lại là lúc tuổi xuân qua đi, mà tuổi thanh xuân đã qua thì không bao giờ trở lại. Từ đó, người đọc thấy
được tâm trạng bất lực, ngao ngán của chính nhà thơ mà cũng là chính thân phận người phụ nữ trong xã
hội phong kiến. Phó từ “lại” mang nghĩa lặp lại, thêm một lần nữa kết hợp cùng động từ “lại” như càng
khắc họa rõ bi kịch tuổi xuân ngắn ngủi đang trôi qua vô vọng của người phụ nữ. “Mảnh tình” đã được
hình tượng hoá tình cảm trở thành một đồ vật nhỏ bé, tầm thường cùng kết hợp với nghệ thuật tăng tiến
“san sẻ tí con con” như nhấn mạnh tấn bi kịch của những người làm lẽ. Tình cảm vốn đã ít lại còn phải
“san sẻ” thành ra càng ít ỏi chỉ còn “tí con con” đầy tội nghiệp, xót xa. Tình yêu không trọn vẹn đã đành,
mà lại còn phải dồn nén, cắt chia ra nữa thành ra chẳng còn gì bởi lẽ không thể chia được nữa. Câu thơ
kết lại trong nỗi xót xa, mỉa mai đến tội nghiệp của “cái hồng nhan” chịu cảnh chồng chung trong xã hội
phong kiến. Hai câu cuối tựa như lời than thân, trách phận của những người phụ nữ phải làm lẽ trong một
xã hội vốn nhiều sự tàn nhẫn, bạc ác. Dẫu nhà thơ có mạnh mẽ, ngang tàn nhưng cũng phải bất lực trước
quy luật của số phận, Hồ Xuân Hương thương tiếc cho bản thân mình cũng như bao người phụ nữ khác có
cùng cảnh ngộ.
Bằng cách tả cảnh sinh động, xây dựng hình ảnh giàu sức gợi cảm, tác giả đã diễn tả các biểu hiện
phong phú, tinh tế của tâm trạng con người. Đồng thời sự tài tình trong việc dùng từ ngữ độc đáo, sắc
nhọn, đưa ngôn ngữ đời thường vào thơ, thi phẩm đã cho thấy ý nghĩa nhân văn và giá trị nhân đạo sâu
sắc. Bài thơ thể hiện sự cảm thông cho số phận của người phụ nữ chịu cảnh lẽ mọn, đồng thời bày tỏ khát
vọng hạnh phúc lứa đôi chính đáng của họ.
Bài thơ đã thể hiện được bản lĩnh của Hồ Xuân Hương qua tâm trạng đầy bi kịch và nỗi niềm
phẫn uất trước tình cảnh éo le. Tuy nhiên, bài thơ rực cháy niềm khao khát được sống hạnh phúc – một
mơ ước đầy chính đáng của những người phụ nữ trong xã hội xưa. Một lần nữa, nữ sĩ họ Hồ đã khiến
người đọc cảm nhận được rõ cá tính mạnh mẽ, sắc sảo khi dám cất lên tiếng nói đấu tranh, phản kháng để
giành lại sự công bằng cho người phụ nữ và giải toả họ khỏi các giáo điều phong kiến khắc khe, bất công
và tinh thần đẳng cấp Nho giáo.

4
GV biên soạn: Trần Ngọc Ánh Linh

ĐỀ BÀI: Phân tích và cảm nhận hình ảnh bà Tú và nỗi niềm của ông Tú qua bài thơ
“Thương vợ” của Tú Xương.
Hình ảnh người phụ nữ luôn là một trong những đề tài tiêu biểu trong văn học Việt Nam, tuy
nhiên các tác phẩm được viết cụ thể về hình ảnh người vợ bằng chính tình cảm của người chồng thì rất ít.
Trần Tế Xương, một ngòi bút với những nụ cười sắc sảo, mạnh mẽ đến quyết liệt và cũng không kém sự
tha thiết, trữ tình đằm thắm đã dành hẳn một mảng đề tài dành cho người vợ thân yêu. Tiêu biểu trong số
đó chính là tác phẩm “Thương vợ”. Bài thơ đã cho thấy tình cảm tri ân đằm thắm của nhà thơ và tâm sự
của nhà thơ về hoàn cảnh của chính mình và xã hội đương thời.
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.”
Bài thơ được viết bằng chữ Nôm theo thể thất ngôn bát cú đường Luật, thế nhưng chỉ với tám câu
thơ mà Tú Xương đã thể hiện được biết bao tình cảm của bản thân dành cho vợ. Tú Xương có cá tính, góc
cạnh, sắc sảo, thông minh và thích sống một cuộc đời phóng túng, tự do thế nhưng lại khá lận đận trên
con đường khoa cử khi nhiều lần thi trượt vì không muốn gò mình vào khuôn sáo trường thi. Thế nhưng
ông vẫn miệt mài thi cử và dường như trong sự miệt mài ấy, Tú Xương vẫn mong muốn có thể tri ân với
người vợ đã một đời bươn chải, lặn lội vất vả nuôi chồng con. Chính nhờ sự thấu hiểu cho nỗi cực nhọc
và đức hy sinh của bà Tú, Trần Tế Xương đã bày tỏ sự trân trọng, yêu thương cùng lòng biết ơn người vợ
của mình thông qua bài thơ “Thương vợ”.
Câu thơ mở đầu nói đến hoàn cảnh làm ăn buôn bán của bà Tú. Câu vào đề như lời giới thiệu và
cũng là một bối cảnh làm hiện lên hình ảnh bà Tú tảo tần, tất bật ngược xuôi. Hoàn cảnh vất vả, lam lũ
được gợi lên qua cách nói thời gian, cách nếu địa điểm:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Mở đầu bài thơ với từ ngữ “quanh năm” đã cho thấy chuỗi thời gian mang tính chất liên tục, suốt
cả năm không trừ ngày nào dù nắng hay mưa, từ năm này sang năm khác đến chóng mặt, rã rời chứ không
phải chỉ một năm. Kết hợp với từ “buôn bán” đã giới thiệu được công việc bán gạo gánh của vợ Tú
Xương, cho thấy bà là một người chịu thương chịu khó, biết lo toang và không ngừng nghỉ. Đồng thời,
mở ra không gian – địa điểm “mom sông” nơi bà Tú mưu sinh, là một phần đất ở bờ sông nhô ra phía
lòng sông nhỏ hẹp và nguy hiểm. Thời gian đằng đẵng kết hợp với nơi buôn bán là phần đất nhô ra gợi
nên sự gian nan, chênh vênh của công việc cũng như thân phận người phụ nữ khi liều mạng, hi sinh sự an
toàn của bản thân vì cuộc sống mưu sinh để lo cho chồng con. Dù hiểm nguy, khó nhọc nhưng bà Tú vẫn
đảm đang, tháo vát, chu đáo với chồng con khi chịu khó đủ điều để gánh gồng “nuôi đủ” được cả một gia
đình với “năm con” và “một chồng”. Từ “đủ” đa nghĩa với sự chăm lo đủ cơm áo cho cả chồng cả con,
chăm lo tình thương đầy đủ không sót một ai và thậm chí là đủ cho chồng được tất cả những gì tốt nhất để
tận hưởng thú vui riêng. Có thể thấy, từ “đủ” vừa nói lên số lượng, vừa nói đến chất lượng “nuôi” với

5
GV biên soạn: Trần Ngọc Ánh Linh

đôi quang gánh “năm con một chồng”, bà Tú không chỉ nuôi mà còn cung phụng ông Tú. Nuôi năm con
mới bằng một chồng, Tú Xương đã tự tách mình ra riêng, đặt ngang với năm con cho thấy được gánh
nặng một chồng tương ứng với năm con, cụm từ “một chồng” mang âm hưởng nặng trĩu. Tú Xương ý
thức rõ nỗi lo của vợ và cả sự khiếm khuyết của bản thân, qua đó câu thơ đã trở nên nén chặt nỗi xót xa,
ngậm ngùi.
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
Sử dụng hình ảnh ẩn dụ “con cò” – hình ảnh quen thuộc trong ca dao để gợi thân phận bé nhỏ, tội
nghiệp của vợ mình khi lam lũ để mưu sinh kiếm sống. Con cò trong thơ Tú Xương không chỉ xuất hiện
giữa cái rợn ngợp của không gian mà còn trong cái rợn ngợp của thời gian chỉ bằng ba từ “khi quãng
vắng”, tác giả đã nói lên được thời gian, không gian heo hút, rợn ngợp, chứa đầy lo âu và hiểm nguy.
Theo đó, là nghệ thuật đảo ngữ đưa từ “lặn lội” lên đầu câu được kết hợp với cách nói thay con cò bằng
“thân cò” đã nhấn mạnh nỗi vất vả, gian truân của bà Tú và đồng thời gợi lên nỗi đau thân phận. Nếu câu
thơ thứ ba gợi nỗi vất vả đơn chiếc thì câu thơ thứ tư lại làm rõ sự vật lộn với cuộc mưu sinh của bà Tú.
Câu thơ gọi cảnh chen chúc, bươn chải trên sông nước của những người buôn bán nhỏ khi phải nghe đi
nghe lại tiếng người cãi vả qua lại, tranh hàng khách đã được thể hiện qua từ láy tượng thanh “eo sèo”.
“Buổi đò đông” bởi chốn buôn bán đông người, đông đò chất chứa nhiều lo âu, nguy hiểm hơn “khi
quãng vắng” vì không chỉ có những lời phàn nàn, những sự chen lấn xô đẩy mà còn chứa đầy bất trắc của
trốn buôn bán sông nước. Trong ca dao xưa, người mẹ thường căn dặn con cái nên tránh những “buổi đò
đông” bởi những hiểm nguy, phức tạp luôn rình rập xung quanh:
“Con ơi nhớ lấy câu này
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua.”
(Ca dao)
Hai câu thực đối nhau về từ ngữ (“khi quãng vắng” – “buổi đò đông”) nhưng lại tiếp nhau về ý để làm
nổi bật sự vất vả, gian truân của bà Tú đã vất vả, đơn chiếc, lại thêm sự bươn chải trong cảnh chen chúc
làm ăn. Hai câu thơ đã nói được thực cảnh bà Tú tảo tần, buôn bán ngược xuôi đồng thời cho ta thấy thực
tình của Tú Xương với tâm lòng xót thương vợ da diết.
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.”
Tú Xương nói đến khái niệm Phật giáo “duyên – nợ” đã được dân gian hoá, vợ chồng gặp nhau là
do duyên nợ từ kiếp trước, thế nhưng bà Tú vẫn “âu đành phận” vui vẻ chấp nhận số phận. Tuy “duyên”
một mà “nợ” hai nhưng bà Tú không một lời phàn nàn, lặng lẽ chấp nhận sự vất vả vì chồng vì con. Tú
Xương đã vận dụng sáng tạo câu thành ngữ “năm nắng mười mưa” để có thể chỉ sự vất vả qua từ ngữ
“nắng, mưa”, “năm, mười” là số lượng phiếm chỉ, chỉ nói đến số nhiều và số lượng tăng dần (tăng dần
sự khó nhọc, gian lao). Từ các từ ngữ được tách ra tạo nên một câu thành ngữ chéo, vừa nói lên sự vất vả
gian truân, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng con của bà Tú. Với ngần
ấy lo toang, suy nghĩ mưu sinh, khổ cực chồng chất thế nhưng bà Tú “dám quản công” – không hề kể
công, ngại ngần và dám đương đầu với mọi gian khổ. Sự hữu hình hoá và cụ thể hoá hình ảnh người phụ
nữ vất vả, nhọc nhằn làm việc để chăm lo gia đình. Đức hi sinh thầm lặng, vô điều kiện của bà Tú đã
được khắc hoạ rõ nét qua hai cụm từ: “âu đành phận” và “dám quản công”. Hình ảnh người vợ của Tú
Xương đã hiện lên không chỉ giàu đức tính tốt mà còn rất tinh tế, nhạy bén, hiểu nỗi niềm éo le của

6
GV biên soạn: Trần Ngọc Ánh Linh

chồng, qua đó Tú Xương một lần nữa cảm phục sự quên mình của vợ. Hình ảnh bà Tú được khắc hoạ
hoàn chỉnh cũng chính là hình tượng điển hình của người phụ nữ Việt Nam truyền thống sống trong nhiều
lao khổ nhưng lại ánh lên nhiều phẩm chất đáng quý. Ông Tú cũng đã thể hiện mình là một người có nhân
cách qua lời tự trách “Một duyên hai nợ âu đành phận” khi đã không dựa vào duyên số để trút bỏ trách
nhiệm, ông tự coi mình là cái nợ mà bà Tú phải gánh chịu. Qua đó, ông thương xót, thấu hiểu cho nỗi vất
vả của vợ, ái ngại cho sự hiểm nguy trong công việc hàng ngày và luôn biết ơn nhưng công lao ấy.
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.”
Lời chửi trong hai câu kết mang ý nghĩa xã hội sâu sắc, hai câu thơ như buông một tiếng thở dài
đầy ngao ngán, bất lực trước “thói đời” bạc bẽo là một nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ. Câu thơ
Tú Xương tự rủa mát mình cũng là lời phán xét tự lên án sự “hờ hững” của ông đối với vợ con cũng là
một biểu hiện của “thói đời” bạc bẽo. Tú Xương sử dụng từ ngữ “thói đời” để thể hiện sự căm phẫn chế
độ phong kiến, chết độ nam quyền khiến cho thân phận người phụ nữ thiệt thòi. Ông Tú chửi vai trò làm
chồng, sự vô tích sự của bản thân, thế nhưng trong tiếng chửi cũng chính là một lời sám hối ân hận và hổ
thẹn đã cho thấy ông Tú thương vợ và càng thương vợ thì ông lại càn nhận ra sự vô tình đến đểnh hoảng
của mình. Dù xuất thân từ Nho học nhưng Tú Xương không nhìn nhận thân phận phụ nữ và vai trò người
vợ theo quan điểm nhà Nho: nhi nữ thường tình, trọng nam khinh nữ, xuất giá tòng phu, phu xướng phụ
tuỳ,… mà lại rất công bằng. Ông đã dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời khi dám nhận ra khuyết
điểm của mình để day sức và dám lên án “thói đời” cổ hủ bất công với phụ nữ. Một lần nữa, Tú Xương đã
đứng về phía bà Tú và phê phán mình một cách nghiêm ngặt “thói đời”, đó cũng là hiểu hiện cho một
nhân cách cao đẹp, rất đỗi thương vợ. Ông Tú dám lấy bản thân mình để khái quát thành thói đời để nhấn
mạnh điều bất công đang đè nặng trên đôi vai người phụ nữ. Đồng thời, bài thơ cũng có ý nghĩa tố cáo và
vạch rõ tính chất xấu xa của xã hội xem nhẹ tình cảm, trọng sĩ diện, danh vọng và tiền tài. Qua đó, tác
phẩm đã cho thấy được chất trữ tình và trào phúng hoà trong nhau đưa người đọc đến những cung bậc
tình cảm rất sâu sắc, giản dị và đáng trân trọng.
Có thể thấy, Tú Xương đã sử dụng các từ ngữ vô cùng giản dị nhưng giàu sức biểu cảm cùng với
sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trữ tình và trào phúng trong bài thơ. Bên cạnh đó, ông cũng đã vận dụng
sáng tạo hình ảnh, ngôn ngữ văn học dân gian, sử dụng nhiều thành ngữ và ngôn ngữ đời sống (cách nói
khẩu ngữ, sử dụng tiếng chửi) đã có thể bày tỏ được sự thấu hiểu, thương xót và biết ơn vợ mình trước
những hy sinh thầm lặng vì chồng vì con.
Tình yêu thương, quý trọng vợ của Tú Xương đã thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả gian truân
và những đức tính cao đẹp của bà Tú. Qua bài thơ, người đọc không những thấy hình ảnh bà Tú với
những phẩm chất tốt đẹp mà còn thấy được những tâm sự và đẹp nhân cách của tác giả. Tú Xương đã
thành công trong việc khắc họa một bức chân dung về người phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ, vừa mộc mạc
chất phác, vừa cứng rắn mạnh mẽ và giàu đức hi sinh.

7
GV biên soạn: Trần Ngọc Ánh Linh

ĐỀ BÀI: Cảm nhận vẻ đẹp của cảnh thu – tình thu thể hiện qua bài thơ “Thu điếu” (Câu cá mùa
thu) của Nguyễn Khuyến.
Bao mùa thu của đất trời đã đi qua để lại dấu ấn của mình trong những vần thơ đẹp. Ta đã bắt gặp
mùa thu thơm hương cốm mới của Nguyễn Đình Thi, một mùa thu với rừng phong lá đỏ của đại thi hào
Nguyễn Du hay khúc giao mùa nhẹ nhàng, bâng khuâng trong “Sang thu” của Hữu Thỉnh. Nguyễn
Khuyến đã góp vào mùa thu của đất nước một góc nhỏ của làng quê yên bình đầy xao xuyến.
“Thu điếu” của Nguyễn Khuyến đã khắc họa bức tranh nhiên nhiên mùa thu mộc mạc, dân dã và hồn
hậu. Thế nhưng sâu sắc hơn cả vẫn là tấm lòng ưu ái với dân, với nước của nhà thơ. Chính vì thế mà bài
thơ có sức sống mãnh liệt, neo đậu mãi nơi lòng người giữa dòng chảy thời gian.
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Bài “Thu điếu” được rút ra từ chùm thơ thu gồm ba bài, được sáng tác trong thời gian ông cáo
quan về ở ẩn. Bài thơ được viết bằng chữ Nôm bình dị, gần gũi và theo thể thất ngôn bát cú đường luật.
Qua bài thơ, độc giả bắt gặp một trái tim yêu nhiên nhiên cùng tấm lòng rộng mở với cảnh đẹp quê
hương, đất nước. Sáu câu thơ đầu tiên đã mở ra một bức tranh mùa thu thật đẹp, thật nên thơ.
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Không gian bức tranh thu được mở ra tại “ao thu lạnh lẽo”. Nguyễn Khuyến đã chọn ao nhà làm
mạch nguồn cho cảm hứng thơ. Ao thu là hình ảnh rất quen thuộc ở làng quê Việt Nam, đặc biệt là ở quê
hương của tác giả – vùng chiêm trũng đồng bằng Bắc Bộ. Địa điểm là ao, thời gian là thu, hai từ “ao” và
“thu” không tách rời nhau mà kết thành một ngữ tạo nên một không gian riêng, chỉ đến mùa thu mới xuất
hiện hoặc mới có những nét ấy, những vẻ ấy, những tính chất ấy. Tính từ “trong veo” đã tuyệt đối hóa độ
trong của nước, đồng thời còn gợi ra độ thanh nhã, sự tĩnh lặng của mặt ao. Ao thu có thể nhìn được tận
đáy, tỏa ra khí thu “lạnh lẽo”, phải chăng là do những cơn gió heo may se lạnh trong một buổi sớm mùa
thu? Ao thu với khí trời “lạnh lẽo”, nước lại “trong veo”, tất cả mang lại cho con người cảm giác mọi vật
đang đứng yên một chỗ. Hai âm “eo” được gieo trong một câu khiến cho cảm giác về cái lạnh và sự
ngưng đọng của không gian càng trở nên tuyệt đối, đồng thời còn gợi ra không gian nhỏ hẹp của chiếc
ao .
Đến với thế giới mùa thu trong bài thơ, ta mơ hồ nhận ra cái gì cũng nhỏ bé, khẽ khàng. Trên mặt
nước trong veo kia là hình ảnh chiếc thuyền câu “bé tẻo teo”. Rất tỉnh táo và tinh tế trong chữ nghĩa,
Nguyễn Khuyến đã sử dụng số từ chỉ số ít “một chiếc” kết hợp với từ láy “tẻo teo” khiến cho chiếc
thuyền càng nhỏ bé hơn, như co lại thành một nét chấm trên nền ao cũng bé xíu và trong tận đáy. Thủ
pháp lấy điểm tả diện đã được nhà thơ sử dụng tài tình, để mở rộng biên độ của ao thu, khiến ao thu như
rộng ra. Trên mặt ao nhỏ của làng quê, nổi lên một chiếc thuyền câu nhỏ, có lẽ đó là một chiếc thuyền nan
rất phổ biến ở vùng quê miền Bắc, vừa vặn cho một người ngồi. Thật mà cứ như mơ, mơ mà lại rất thật!
Bức tranh mùa thu hiện ra qua hai câu thơ thật vắng vẻ, hiu hắt. Cái lạnh của hơi thu như xâm nhập vào
tạo vật, làm cho lòng người như chùng xuống hòa vào cái im vắng của xung quanh.

8
GV biên soạn: Trần Ngọc Ánh Linh

Vẻ đẹp của bức tranh thu còn thể hiện ở việc đan xen, phối màu ấn tượng của nhà thơ. Màu biếc
xanh của nước và sắc vàng của lá hòa thành màu sắc kì diệu của mùa thu:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Nguyễn Khuyến đã nhìn mùa thu bằng con mắt của họa sĩ. Con thuyền nhỏ bé nhẹ trôi và cũng
chính vì thế mà sóng biếc cũng chỉ hơi gợn tí. Sóng nhỏ trên mặt ao, gió heo may lướt trên mặt sóng khẽ
khàng. Quả là đôi mắt tinh tế và sự cảm nhận tài tình. “Gợn” vốn là chuyển động rất mỏng, rất nhỏ; còn
là một tính từ chỉ mức độ “tí”, chỉ sự cực nhỏ về hình khối, khiến ta cảm nhận thêm sự tĩnh lặng của ao
thu. Ngay cả lá vàng trước gió cũng đưa vèo khẽ khàng. Vần “eo” lặp lại trong câu thơ thứ tư có tính gợi
hình cao. Tính từ “vèo” vừa gợi tả âm thanh cực nhỏ, vừa gợi tả tốc độ bay nhanh, dáng điệu bay
nghiêng. Hai câu thơ có vế đối rất chỉnh, vận động của chiều dọc tương xứng với vận động chiều ngang
làm ta có cảm giác ao thu vẫn tĩnh lặng không bị khuấy động. Thủ pháp lấy động tả tĩnh và phép đối tài
tình làm nổi bật một nét thu, tô đậm cái nhìn thấy và cái nghe thấy. Phải có sự hòa điệu với thiên nhiên
nhà thơ mới nghe được những rung động mơ hồ của vạn vật, đất trời. Nguyễn Khuyến rất tinh tế trong
dùng từ và cảm nhận, lấy cái lăn tăn của sóng “hơi gợn tí” phối cảnh với độ bay xoay xoay “khẽ đưa
vèo” của chiếc lá thu. Nhà thơ như đang thả hồn mình đưa theo chiếc lá vàng rơi khẽ ấy. Ta như cảm
nhận một nỗi buồn man mác qua từng ý thơ. Nỗi buồn hiện hữu trong bài thơ thu của Nguyễn Khuyến là
nỗi buồn miên man, thấm sâu không thể giãi bày bằng lời. Vì thế thi nhân mượn cảnh để nói lên một tâm
trạng buồn kín đáo.
Từ mặt ao phẳng lặng, trong chiếc thuyền câu bé nhỏ, tầm nhìn nghệ thuật của nhà thơ đến đây đã
mở ra cao rộng hơn:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Sự vắng lạnh của ao thu đã lan tỏa ra khắp đất trời. “Trời xanh ngắt” là một nét tiêu biểu của mùa
thu Việt Nam – một bầu trời cao vời vợi, trong trẻo đến lạ lùng. Nếu bầu trời trong “Thu vịnh” cao đến
thăm thẳm không cùng: “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”, bầu trời trong “Thu ẩm” mở đến mênh
mông: “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?” thì bầu trời trong Thu điếu lại hiện lên với vẻ tĩnh lặng. Những
đám mây lơ lửng như bất động, được buộc vào khung trời cố định xanh ngắt, màu xanh đặc trưng mùa thu
làng quê Bắc bộ, cũng là đặc trưng trong thơ Nguyễn Khuyến, như nói lên nỗi đau, băn khoăn về sự tồn
tại của chế độ phong kiến đương thời. Trời – tĩnh lặng, mặt nước – phẳng lặng và cả mặt đất cũng im
vắng. Và tầm nhìn nghệ thuật không dừng lại ở chiều cao rộng của bầu trời mà mở ra một chiều sâu thăm
thẳm với “ngõ trúc quanh co”. Không gian trong hai câu luận đậm đặc một màu xanh, màu xanh bao
trùm cả trên cao và chiều rộng. Cảnh vật thoáng đãng và yên tĩnh. Hình ảnh ngõ trúc quanh co có cảm
giác ngoằn ngoèo, sâu hút, gợi lên cái cô quạnh, vắng vẻ đến lạnh lẽo. Không một bóng người lại qua trên
con đường làng đi về các ngõ xóm: “khách vắng teo”. Từ “vắng” đã nói rõ sự tĩnh lặng rồi nhưng “vắng
teo” thì có nghĩa là cảnh vắng ngắt, không chút cử động, không chút âm thanh, không một bóng người ,
cũng gợi tả sự cô đơn, trống vắng. Vạn vật yên tĩnh đến mức gần như tuyệt đối. “Ngõ trúc” và “tầng
mây” cũng là một nét thu đẹp và thân thuộc của làng quê. Thi sĩ như đang lặng ngắm và mơ màng đắm
chìm vào cảnh vật. Bởi thế, hai câu thơ gợi ra sự trống vắng, nỗi cô đơn trong lòng người.
Với những nét vẽ tài hoa của mình, mùa thu đẹp của đồng bằng Bắc Bộ đã được nhà thơ thể hiện
thật tinh tế. Sự tinh tế đó tạo cho người đọc mơ hồ cảm nhận, cảnh thu được thi nhân đón nhận từ gần đến

9
GV biên soạn: Trần Ngọc Ánh Linh

cao xa rồi từ cao xa trở lại gần: từ chiếc thuyền câu “bé tẻo teo”, tác giả nhìn ra mặt ao, nhìn lên bầu trời,
nhìn tới ngõ trúc rồi lại trở về với ao thu, với thuyền câu. Bắt đầu từ một khung ao hẹp, không gian mùa
thu, cảnh sắc mùa thu đã được mở ra nhiều hướng thật sinh động. Nét riêng của mùa thu làng quê Bắc Bộ
được gợi lên từ sự dịu nhẹ, thanh sơ của cảnh vật: từ khung ao hẹp, từ cánh bèo, từ ngõ trúc quanh co cho
đến hòa sắc tạo hình ở các điệu xanh như thi sĩ Xuân Diệu từng cảm nhận: “Cái thú vị của bài thơ này là
ở các điệu xanh: xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo duy chỉ có một màu vàng
của chiếc lá thu rơi”.
Bài thơ không chỉ đẹp ở vẻ đẹp của cảnh thu mà nó còn đẹp trong cả tình thu:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Hai câu kết gợi lên ấn tượng về sự tĩnh lặng vô cùng của không gian. Không gian tĩnh lặng đến
mức nhà thơ nghe được tiếng cá khẽ đớp mồi câu dưới chân bèo. Chỉ một tiếng cá đớp động dưới chân
bèo mà làm xao động cả thế giới thu nhỏ trong chiếc ao thu. Cái động rất nhỏ ở ngoại cảnh lại gây ấn
tượng đậm đến thế phải chăng là bởi tâm cảnh đang trong sự tĩnh lặng tuyệt đối? Thủ pháp lấy động tả
tĩnh một lần nữa phát huy hiệu quả nghệ thuật trong việc biểu hiện nỗi u hoài, tĩnh lặng không cùng trong
cõi lòng người câu cá. Bài thơ viết về mùa thu câu cá nhưng đến cuối bài, cái tôi trữ tình của nhà thơ –
người câu cá mới xuất hiện. Thế nhưng tư thế ngồi câu và cách cầm cần câu đều có những cái đáng nói.
“Tựa gối”, “ôm cần” gợi một sự chờ đợi mỏi mòn trong vắng lặng mênh mông. Tư thế “tựa gối” không
phải của người đi câu mà giống với một người đang ngồi bó gối bất lực, buồn bã trước hoàn cảnh. Cho
nên cách cầm câu cũng không chủ tâm mà chỉ hờ hững buông. Thêm vào đó, từ “đâu” gợi cho ta hiểu hai
tầng nghĩa. Nó như một lời thắc mắc, băn khoăn của tác giả: Nghe như đâu đó có tiếng cá đớp động mà
không biết nơi nào. Hay là, dù nhà thơ đã cố lắng nghe như vẫn không có một tiếng cá đớp động nào?
Càng về cuối bài thơ càng chìm dần vào im lặng. Nếu tiếng cá đớp động có xuất hiện thì cũng chỉ như
một âm thanh xao động trong phút chốc để càng làm không khí im ắng thêm. Thế nhưng dù sao đi nữa, có
lẽ người đi câu không chủ tâm câu cá. Đi câu mà cái chí không để ở việc câu. Đi câu để ngẩng mặt suy tư
trước trời xanh vời vợi, để thấy cái “vèo”, “trong” của thế sự rủi qua. Xưa nay thi đề câu cá thường gắn
với việc đợi thời thế. Nhưng Nguyễn Khuyến có lẽ không phải là một bậc ẩn sĩ chờ thời. Câu cá với ông
là để hòa điệu với cái thanh, trong, tĩnh, lắng, nhàn cho cõi tâm hồn. Câu cá là để tìm đến một không gian
thanh sạch, tĩnh lặng. Câu cá để được nhàn tâm mà dường như không thể, bởi nhàn trước hoàn cảnh thực
tại dường như là một điều gì rất khó khăn với ông. Ta hiểu được rằng từ “Thu vịnh”, “Thu ẩm” cho đến
“Thu điếu” là ba thú vui chưa lần nào hoàn kết. Một bài thơ muốn làm mà không làm được vì hổ thẹn,
rượu muốn say sưa nhưng mới năm ba chén đã phải dừng và với bài này, cá muốn câu được nhưng dường
như lại không hề chú ý đến một dấu hiệu nào. Có thể nói Nguyễn Khuyến cũng là một người đi câu đặc
biệt. Đi câu cá mà lại chủ yếu ngắm cảnh và tự cảm bao nhiêu nỗi niềm lan tỏa ra mênh mông cùng
không gian mùa thu.
Thi nhân đã vẽ nên cảnh thu bằng đôi mắt của một họa sĩ, đôi tai của nhạc sĩ và tâm hồn của một
thi sĩ lãng mạn thông qua những hình ảnh gần gũi, bình dị và ngôn từ mộc mạc. Sự giao cảm mạnh mẽ
nhưng cũng không kém phần tinh tế ấy khiến cho bức tranh thiên nhiên vừa có hình, vừa có hồn, vừa gợi
tả lại vừa sâu lắng biết bao. Và cội nguồn sâu xa của nét vẽ tài ba ấy chính là tấm lòng thiết tha yêu thiên
nhiên và tâm trạng thời thế của một tấm lòng nặng tình với đất nước, với nhân dân. Phải chăng tất cả

10
GV biên soạn: Trần Ngọc Ánh Linh

những điều đó là dòng suối mát mát trong nuôi dưỡng hồn thơ Nguyễn Khuyến – một nhân cách lớn trong
nền văn học nước nhà.
Thơ là sự cách điệu của tâm hồn. Và “Thu điếu” – bức tranh thu với cảnh thu thơ mộng, bâng
khuâng mà cũng thấm đẫm tình thu, đã nối tiếp hành trình thơ thu của dân tộc. Bài thơ đã đánh thức trong
ta một miền quê để mà thương mà nhớ đồng thời bồi dưỡng trong ta tình yêu quê hương, yêu cảnh thiên
nhiên bốn mùa của đất nước ta đúng như GS. Lê Trí Viễn từng viết: “Hãy đọc thơ Nguyễn Khuyến cho
tim mình rung động với quê hương, đồng cảm với thi sĩ ngày nào để có thêm những rung động mới,
những cảm xúc mới cần thiết cho ngày mai và cho mai sau”.

11

You might also like