You are on page 1of 8

TỰ TÌNH

TÂM SỰ CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG QUA BÀI TỰ TÌNH

1. TỰ TÌNH LÀ TÂM SỰ BUỒN CHÁN, CÔ DƠN, BẼ BÀNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ Ý THỨC
ĐƯỢC THỜI GIAN TRÔI QUA MÀ TÌNH DUYÊN CHƯA TRỌN VẸN (4 CÂU ĐẦU)
a) Nhân vật trữ tình xuất hiện trong không gian, thời gian đặc biệt:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”
- Đêm khuya:
+Thời điểm nửa đêm về sang. Cùng với thời khắc hoàng hôn buông xuống  khoảng thời gian tâm
trạng.
+Là lúc không gian yên tĩnh, vắng lặng, thời điểm phù hợp nhất để con người đối diện với chính mình.
+ Ca dao từng viết:
“Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lắn, trông sao sao mờ”
+ Trong truyện Kiều: Cũng trong thời điểm đêm khuya tĩnh mịch ấy, nàng Kiều cũng đã bộc lộ tâm
trạng đau đớn, cô đơn khi nàng ý thức sâu sắc được thân phận của mình
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa”
 Cho thấy nhân vật trữ tình đang trằn trọc, thao thức, trĩu nặng tâm trí, rối bời tâm trạng.
- Lắng nghe âm thanh tiếng trống canh
“Văng vẳng trống canh dồn”
+Cùng với tiếng gà, trống canh là tín hiệu báo …. Của thời gian.
+Lấy động tả tính, đảo từ láy “văng vẳng” lên đầu câu  Nhấn mạnh tiếng trống từ xa vọng lại, qua đó
càng thấy được sự hoang vắng, tĩnh mịch của đem. Đêm càng vắng, người càng nhỏ bé.
+Không chỉ là âm thanh của ngoại vật mà còn là tiếng long của nhà thơ vọng ra đầy ám ảnh, day dứt,
khắc khoải trước sự trôi chảy của thời gian.
+Trong cảm nhận của nvtt tiếng trống canh dồn dập, gấp gáp, hối hả. Ấy là tiếng trống dồn dập trong
lòng người phụ nữ khi ý thức được thời gian của mình đang vùn vụt trôi qua như “bóng câu qua cửa
sổ”.
b) Tình cảnh, tâm trạng của nữ sĩ được diễn tả xúc động, trực tiếp:
“Trơ cái hồng nhan với nước non”
- Nhịp thơ: 1/3/1/2: nức nở, nghẹn ngào, lại vừa như đay nghiến, mỉa mai.
- Cách kết hợp từ lạ “hồng nhan”: là từ Hán Việt, chỉ nhan sắc thiếu nữ xinh đẹp, mĩ miều mà kết hợp
với từ “cái” bỗng trở nên rủ rúm, mỉa mai. Đẹp đẽ mà làm gì .. cũng chỉ là một “cái” nhỏ nhoi, bẽo bọt.
Ý thơ chỉ nói về 1 vế hồng nhan nhưng vẫn gọi lên vế bạc phận cay đắng, xót xa.
- Phép đảo ngữ “trơ” đặt lên đầu câu kết hợp với phép tiểu đối “hồng nhan” với “nước non” thì ngày
càng gợi sự thấm thía về tình cảm.
- “Trơ” ở đầu câu nhấn mạnh sự cô độc, lẻ loi, đơn chiếc. Hơn nữa lại “trơ” giữ cái mênh mông, rợn
ngợp của nước non thì càng thêm có lí.
- “Trơ” = sự tủi hổ, bẽ bang của người phụ nữ khi tự ý thức được thân phận rẻ rung của mình.
- Tâm trạng có sự đồng điệu với Kiều khi bị bỏ rơi không chút đoái thương.
“Đuốc hoa để đó mặc nàng năm trơ”
- Trơ là sự bền gan, thách thức với cuộc đời
“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt” – Bà huyện thanh quan
 Câu thơ không chỉ là nỗi đai của Xuân Hương mà còn là bản lĩnh của bà: mạnh mẽ, thách thức trước
nỗi cô đơn rợn ngợp, trước sự bẽ bang, rẻ rúng của số phận.
c) Nhân vật trữ tình tìm đến rượu để giải sầu, làm nguôi ngoai tâm trạng
“ Chén rượu hương đưa say lại tỉnh”
- Uống rượu giải sầu là hành động người ta thường làm khi rơi vào đau khổ, bế tắc, tuyệt vọng.
- Câu thơ gợi hình một người phụ nữ mọt mình trong đêm vắng, đối diện với vầng trăng lạnh, nhấm
nháp chén rượu như đang nhấp từng dư vị đắng cay của cuộc đời.
- Con người chỉ cảm nhận được “ hương đưa”, đó là hương rượu thoảng qua, không đủ nồng nàn làm
người say.
+ Đó còn là hương tỉnh nhạt nhẽo, lạnh lùng
- Con người rơi vào vòng luẩn quẩn “say lại tỉnh” càng tỉnh càng thổn thức hơn nỗi đau thân phận, bàng
hoàng nhận ra tình yêu chỉ là trò đùa của con ….
- Khi say sưa, ngây ngất ban đầu thoảng qua nhanh, còn lại sự cô độc, tủi hổ.
d) Tỉnh ra rồi, nhân vật nhận thức rõ tình cảnh bi kịch
“Vầng trăng bóng xé khuyết chưa tròn”
- “Trăng bóng xế” là trăng hạ tuần cuối tháng, cũng là trăng muộn khi trời gần về sang.
- Tâm cảnh: hình ảnh vầng trăng, bóng xế, biểu tượng cho tuổi xuân của người phụ nữ đã trôi qua mà
nhân duyên vẫn còn dang dở.
- Cách diễn dạt “khuyết chưa tròn” nghe có vẻ trùng lặp nhưng nhiều dụng ý.
+ Tô đậm, nhấn mạnh sự lỡ làng, dở dang, hao hụt của tình nguyện.
+ Thể hiện khát vọng hạnh phúc âm ỉ mà mãnh liệt như hi vọng về vầng trăng sẽ tròn, sẽ đầy đặn, viên
mãn.  Khát vọng của ngon người.
 Bản lĩnh, cá tính của một tâm hồn yêu đời tha thiết
Liên hệ: Hàn Mạc Tử
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
2. Mượn hình tượng thiên nhiên, HXH thể hiện thái độ phẫn uất, phản kháng mạnh mẽ trước số
phận và cuộc đời:
“ Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
- Đặc sắc nhất, gây ấn tượng mạnh về nghệ thuật, đậm đà phong cách Xuân Hương.
+ Âm hưởng mạnh mẽ, hùng hồn, dữ dội.
+ Phép đối rất chỉnh trong từng từ, từng hình ảnh tạo vẻ đẹp cân xứng hài hòa, nhịp nhàng qua lại
+ Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, mượn thiên nhiên để thể hiện tâm trạng.
- Thiên nhiên không ở trạng thái tĩnh, sống động, cựa quậy, ngang bướng.
// Nghệ thuật đảo ngữ đưa 2 động từ manh “xiên ngang” ; “đâm toạc” lên đầu câu để tô đậm sự trỗi dậy
mạnh mẽ của thiên nhiên.
+ Rêu vốn là thực vật nhỏ bé, mềm mại, yếu đuối hay cũng mọc xiên ngang mặt đất.
+ Đá vốn cứng cỏi, rắn chắc, càng trở nên cứng nhọn như đâm toạc chân mây.
- Thái độ: không cam chịu, ngang ngạnh, bướng bỉnh vươn lên dù biết phận mình chỉ nhó bé, bình
thường như rêu như đá.
 Thể hiện cá tính, sức sống mãnh liệt và bản lình mạnh mẽ của con người ngay cả trong tình huống bi
thương.
 Liên hệ: Nhiều lần bắt gặp một Xuân Hương gai góc, ương ngành dám chống lại một hệ tư tưởng
phong kiến xưa.
“Tài tử văn nhân ai đó tá
Thân này đâu đã chịu già tom”
“Quản bao miệng thế lời chênh lệch,
Không có, nhưng mà có, mới ngoan”
3. Nỗi thất vọng, chán chường khi trở lại thực tại đau xót, tình duyên bị san sẻ, thân phận
nhỏ bé, tội nghiệp:
“ Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
- Tâm trạng thể hiện trực tiếp qua từ “ngán”, chán ngán không còn thiết tha, hi vọng gì nữa.
- Nguyên nhân: “Xuân đi xuân lại lại”
+ Xuân mang 2 nghĩa: mùa xuân và tuổi xuân
 Với thiên nhiên, xuân đi lại về mang theo sự sống căng tràn.
 Với con người vaod độn bóng xế thì mỗi độ xuân về thì tuổi xuân lại hao hụt, phôi phai thêm,
vơi bớt đi và rồi một đi không trở lại.
 Mùa xuân của đất trời là tuần hoàn nhưng tuổi xuân của mỗi người là tuyến tính. Vì vậy mà
nhân vật trữ tình chán chường mỗi khi mùa xuân tới. Sâu xa, trong tâm trạng ấy chính là lòng
yêu đời, yêu cuộc sống, nuối tiếc từng khoảnh khắc, giây phút tuổi xuân.
- Liên hệ: thơ mới
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”
- “Mảnh tình san sẻ tí con con”
+ Sử dụng thủ pháp nghệ thuật tăng tiến: “mảnh”  “tí”  “con con” nhận mạnh sự ít ỏi đến
xót xa, tội nghiệp. Tình duyên vỗn đã nhạt nhẽo, mỏng manh, nay lại bị san sẻ, thành ra quá ít
ỏi, có cũng như không.
+ Câu thơ được viết ra từ tâm trạng của người mang phận làm lẽ, chịu cảnh chung chồng. Tình
cảnh ấy Xuân Hương đã có lần đay nghiến:
“Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”
 - Yêu đời, khát vọng hạnh phúc chưa vụt tắt.
- Tình cảnh chung của xã hội thời bấy giờ
- Phê phán xã hội nam quyền
- Đi trước thời đại, giá trị nhân đạo, nhân văn cao đẹp.
Thương vợ
“Văn học nằm ngoài những quy luật của băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết
(Se-drin). Thơ văn Tú Xương là một trường hợp như vậy. Thể xác của ông hơn 100 năm nay đã
hòa tan làm một cùng với đất mẹ nhưng sự nghiệp văn chương của con người tài hoa ấy chưa bao
giờ ngừng sống và làm lay chuyển lòng người, bất chấp mọi thử thách của thời gian. Tú Xương
được biết đến trước hết là một nhà thơ trào phúng. Chế Lan Viên từng viết: “Tú Xương cười như
mảnh vỡ thủy tinh”. Nhưng thơ ông không chỉ châm biếm, mia mai, đả kích dữ dội mà còn rất trữ
tình, có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình, trong đó trữ tình là
gốc. Nói như Nguyễn Tuân thì thơ trào phúng chỉ là “chân trái”, còn “chân phải” của ông là thơ trữ
tình. Tú Xương có cả một mảng thơ viết về vợ. Ông viết về bà Tú với những tình cảm yêu thương,
trân trọng đặc biệt. Trong số các bài thơ viết về vợ của ông, bài thơ “Thương vợ” được đánh giá là
bài thơ hay nhất.
“ Quanh năm buôn bán ở mom sông
…………………………………………….
Có chồng hờ hững cũng như không”
1. Khái quát:
Mặc dù hình ảnh của người phụ nữ luôn là đề tài muôn thuở của văn chương kim cổ Đông Tây. Tuy
nhiên ở Việt Nam thời trung đại, thơ văn viết về người vợ rất ít, viết về người vợ đang sống lại còn
hiếm hoi hơn. Các thi nhân thường chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời, những người vợ
thường phải đi vào cõi thiên thu mới được bước vào địa hạt thi ca. Thế kỉ XIX, chỉ có hai nhà thơ
cùng người thành Nam là Nguyễn Khuyến và Tú Xương có thơ viết về VỢ, không ngần ngại nói lên
tình cảm thương yêu của mình đối với vợ ngay khi các bà vẫn còn ở chốn nhân gian. Thương vợ của
Tú Xương là bài thơ nổi tiếng hơn cả. Trong bài thơ là hình ảnh hai con người: một người vợ tần tảo
giàu đức hi sinh và một người chồng biết cảm thông chia sẻ, thương yêu và quý trọng vợ rất mực. Bà
Tú có thể đã phải chịu nhiều gánh nặng, sự nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có niềm hạnh phúc
mà bao phụ nữ không có được là được đi vào thơ với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng
2. Hoàn cảnh ra đời:
Tú Xương là bút danh của Trần Tế Xương. Tú Xương thông minh nức tiếng nhưng lận đận mãi trên
con đường khoa cử: "Tám khoa chữa khỏi phạm trường quy", đi thi tám lần mà chỉ đỗ đến tú tài. Ông
chỉ sống 37 năm, nhưng sự nghiệp thơ ca của ông thì bất tử. Tú Xương thuộc lớp nhà Nho cuối mùa,
sống giữa buổi giao thời, trong lúc thời đại phong kiến suy tàn, những giá trị của quá khứ đang dần
mất đi nhưng cái mới chưa kịp hình thành, những nét đẹp truyền thống đang dần rạn vỡ. Bởi vậy thơ
ông đầy tiếng u uất, chua chát. Tú Xương lấy vợ năm ông 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn. Cuộc
đời của Tú Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ nhưng trước hết ông là một nhà trí thức phong kiến,
thuộc loại nhà Nho “dài lưng tốn vải” phải sống nhờ vào người vợ của mình. Mọi việc trong gia đình
đều do một tay bà Tú lo liêu. Cũng vì thế ông có nhiều bài thơ viết về vợ đầy thương mến, hóm hỉnh:
“Tiền bạc phó cho con mụ kiếm”, “Hỏi ra quan ây ăn lương vợ”. Hoặc:
“Có một cô lái, nuôi một thầy đồ
Quần áo rách rưới , ăn uống xô bồ”
Bài thơ Thương vợ cũng được ra đời trong hoàn cảnh như vậy.
3. Nhan đề:
Nhan đề Thương vợ chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa
thể hiện được đầy đủ vẻ đẹp nhân bản của hồn thơ Tú Xương. Ở bài thơ này, tác giả không chỉ thương
vợ mà còn biết ơn vợ, không chỉ lên án “thói đời” mà còn tự trách, tự nhận khuyết điểm và càng thấy
mình khiếm khuyết cùng thương yêu, quý trọng vợ hơn. Tình thương yêu, quý trọng vợ là cảm xúc có
phần mới mẻ so với những cảm xúc quen thuộc trong và những cảm xúc quen thuộc trong văn học
trung đại. Cảm xúc mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình ảnh và ngôn ngữ quen thuộc của văn học
dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương dù mới lạ, độc Cao Vân rất gần gũi với mọi người, vẫn có gốc
rễ sâu xa trong tâm thức dân tộc.

II. Phan tích


1. Hai câu đề: Công việc và gánh nặng gia đình của bà Tú
Nếu bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ “hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xăn váy quai
cong, tất tả chân nam đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc” (câu đối của Nguyễn Khuyến)
thì bà Tú lại là một người phụ nữ:
| Quanh năm buôn bán ở mom sông,
- Nuôi đủ năm con với một Hai câu thơ đã giới thiệu về nghề nghiệp cũng như trách nhiệm nặng
nề của bà Tú. Ở phía Bắc Nam Định hồi ấy, bên bờ sông có cảnh trên bến dưới thuyền, người từ
các nơi đô về làm ăn, buôn bán và cảnh làm ăn buôn bán của bà Tú cũng diễn ra ở đó.
- Bà Tú buôn bán chẳng có cửa hàng, cửa hiệu, quán xá gì và càng không phải buôn to bán lớn.
Bởi vì, hai chữ “mom sông” đã gợi lên hình ảnh một khoảnh đất nhô ra ở bờ sông, có thể nước
xuống thì còn, nước lên thì mất, có thuyên qua thì thành chợ không thì thôi, cũng có thể chợ họp
một lát vào buổi sáng hoặc buổi chiều. Lèo tèo đôi ba gánh hàng, chỗ dành cho người buôn thúng
bán bưng, lưng vốn ít ỏi, lấy công làm lãi, chắc chắn thu nhập chẳng đáng là bao, lại đầy nguy
hiểm và bất trắc.
- Thế mà công việc khó nhọc ấy, bà Tú không chỉ chịu đựng một hai buổi mà phải theo đuổi
“quanh năm”. Chữ “quanh năm” gợi một thời gian đằng đẵng, là 12 tháng, từ tháng giêng đến
tháng chạp, cũng có nghĩa là hết năm này đến năm khác. Cái công việc nặng nề ấy chẳng làm cho
bà khá hơn lên để có việc khác nhàn nhạ hơn mà quanh năm suốt đời mãi chỉ có thế.
- Công việc thì nhọc nhằn, thu nhập thì ít ỏi, nhưng bà Tú lại phải lo lắng cho cả một gia đình sau
miệng ăn.
Nuôi đủ năm con với một chồng
+ Từ “nuôi” vốn có nghĩa là chăm sóc hoàn toàn, nghĩa là một mình bà Tú phải vất vả làm lụng,
buôn bán để đủ kế sinh nhai, chăm sóc đầy đủ cho cả sáu người. Chính xác hơn thì không phải là
sáu mà là “năm con với một chồng”,
+ “Năm con” là số nhiều, nhưng dù sao cũng để lo hơn vì nuôi chúng chỉ cần bát cơm, manh áo. Còn
ông chồng là “một”, nhưng có khi phải tiêu phí bằng hoặc hơn cả năm đứa con kia cộng lại. Dù gì
cũng mang danh ông Tú nên cái ăn cái mặc không thể xoàng xĩnh, bình thường mà mỗi bước ra ngoài
phải có áo dài, khăn xếp, phải có đồng cho đồng rượu... Mỗi khi ông lều chõng đi thi, tiền lưng gạo bị
lại đổ lên đầu vợ. Đấy là chưa nói đến việc, ông Tú quen sống nhờ vợ nên thậm chí còn sinh ra mái
vui chơi, hưởng lạc và “hư hỏng”, lên phố đến cao lâu, đi hát cũng tiền vợ nốt:
“Biết thuốc lá, biết chè tàu
Cao lâu biết vị hồng lâu biết mùi”.
(Hỏi ông trời)
Nhiều người phải nuôi, nhiều thứ phải lo như thế nhưng lúc nào bà cũng lo “đủ”.
+ Từ “đủ nhấn mạnh mức độ của việc chăm sóc, nuôi nấng ấy nghĩa là không chỉ đủ về số lượng mà
còn đủ về chất lượng. Như thế mới biết bà Tú thật là đảm đang tháo vát biết chừng nào.
+ Việc ông Tú kê về công việc và ganh nặng của bà Tú cho thấy ông Tú đã hiểu biết rất rõ và ghi
nhận công lao của vợ, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của ông với vợ.
+ Đúng như ai đó đã nói “Mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện là một lần thê giới được tạo lập”.
Dù xuất thân từ cửa Khổng sân Trình nhưng Tú Xương không hề nhìn nhận người phụ nữ theo tiêu
chuẩn của xã hội phong kiến như trọng nam khinh nữ, tam tòng tứ đức.
+ Qua con mắt của Tú Xương, bà Tú chính là trụ cột của gia đình, là người mà ông biết ơn, trân trọng.
Đây là cách nhìn nhận về người vợ mà nhiều người đàn ông thời nay cũng chưa chắc đã có được.
2.2. Hai câu thực: Tả thực về công việc làm ăn, buôn bán của bà Tú. | Để được cái tiếng thơm
nuôi đủ năm con một chồng ấy, bà Tú phải đổi bằng biết bao công sức:
Lặn lội thân cò khi quăng văng
Eo seo mặt nước buổi đò đông.
Hai câu thơ đã miêu tả một cách chân thực về công việc làm ăn, buôn bán của bà Tú, lặn lội
ngược xuôi, quãng văng, cãi vã giành giật ngay trên sông, trên những chuyến đò đông khách.
Trong đó
+ cụm từ “lặn lội thân cò” đã sử dụng sang tạo hình ảnh dân gian, trước hết gợi hình ảnh con cò
trong những dâu ca dao quen thuộc:
“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
- Hình ảnh “Con cò lặn lội” chăm chỉ kiếm ăn nơi ruộng đồng, bãi sông trong văn học dân gian
vốn đã cho thấy sự tảo tần, lam lũ, vất vả của người phụ nữ nói riêng và của người lao động
nói chung.
- Nhưng Tú Xương ở đây không sử dụng hình ảnh “con cò” mà lại sử dụng hình ảnh “thân cò”,
không chỉ là con vật cụ thể nữa mà còn là hình ảnh con người, số phận nên càng gợi sự đáng
thương, tội nghiệp.
- "Thân cò” gợi dáng dấp nhỏ bé, chịu đựng, bơ vơ, côi cút một mình và số phận, cuộc đời đây
vất vả, táo tân của bà Tú. Ca dao xưa và nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng đã từng thở than, ngậm
ngùi khi dùng một chữ “thân” bạc mệnh như thế:

Thân em như hạt mưa sa


Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày
(Ca dao)

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn,


Bảy nổi ba chìm với nước non.”
(Bánh trôi nước)
+ Tú Xương kết hợp lại hình ảnh, ngôn từ của ca dao, sử dụng nghệ thuật đảo ngữ để biến
hình ảnh ca dao từ “Con cò lặn lội” thành “Lặn lội thân cò” một cách sáng tạo. Câu chữ cứ
như những nét vẽ, gam màu nối tiếp nhau, bổ trợ và gia tăng.
+ Đã “lặn lội” lại “thân cò”, rồi lại còn “khi quãng văng”. Cụm từ “khi quãng văng” đã gợi
thêm cái không gian làm ăn buôn bán của bà Tú, là không gian rợn ngợp cảm giác đơn lẻ,
không biết nương dựa vào đầu, đầy nguy hiểm rình rập nơi bờ sông heo hút, giá lạnh. Tất cả
đều để nhấn mạnh, khắc sâu hơn nữa nỗi nhọc nhằn, gian lao của bà Tú trong cuộc mưu sinh,
đem đến cho người đọc biết bao liên tưởng cảm động về bà Tú, về thân phận của người phụ
nữ Việt Nam trong xã hội cũ.
- Cầu thực thứ hai gọi thêm cảnh làm ăn đầy nguy hiểm bà Tú.
+ “Eo sèo” là từ láy tượng thanh, gọi là cạnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã, lời qua tiếng
lại, cướp giật. Cảnh làm ăn buôn bán ấy lại tiện ra Tên mặt nước vào buổi đò đồng.
+ “Buổi đò đông” ở đây có hai cách hiểu, có thể chỉ con đò chở đầy người, chen chúc, chật
chội; cũng có thể chỉ cảnh trên bến dưới thuyền đông đúc. Cảnh làm ăn, buôn bản kiêu chen
lấn, xô đẩy trong hoàn cảnh đông đúc trên sông nước chứa đầy những sự nguy hiểm càng nhấn
mạnh thêm sự khó nhọc, gian nan của bà Tú. Chỗ đông người thì vã mồ hôi, nơi quãng văng
thì trào nước mắt.
+ Nghệ thuật đối lập đã nhấn mạnh bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được “nuôi đủ năm con
với một chông” là do phải “lặn lội” trong mưa nắng, phải giành giật “eo sèo”, phải trả giá bao
mô hôi, nước mắt.
+ Chắc hẳn bà Tú cũng không quên lời dặn của cổ nhân “Sông sâu chớ lội, đò đây chớ qua”
nhưng vì miếng cơm manh áo gia đình mà phải liều lĩnh đối mặt với chốn hiểm nguy. Ông Tú
cũng phải thấu hiểu nỗi cay cực và trân trọng vợ đến nhường nào mới có thể viết ra những câu
thơ cảm động về người vợ như thế.
2.3. Hai câu luận:
- Nếu như ở bốn câu thơ đầu ông Tú đứng ở vị trí, vai trò là người chồng để viết về vợ thì
bốn câu thơ sau ông nhập thân vào trong tâm tư, nỗi niềm của bà Tú để có thể đồng
cảm, thấu hiểu vợ và hơn nữa để nhìn nhận bản thân cũng như về duyên nợ vợ chồng.
Trong hai câu luận, ông Túi bàn về duyên phận của mình với bà Tú, than thở và nói hộ lòng
vợ:
| “Một duyên hai nợ âu đành phần
Năm năng mười mưa dám quản công”
+ Chữ “duyên” theo quan niệm của Phật giáo là việc trời định cho con người gặp gỡ, yêu thương gắn
bó với nhau và trở thành vợ chồng. Chữ duyên và chữ nợ thường được dân gian gắn với nhau bởi vì
người ta thường quan niệm duyên gặp gỡ là do nợ từ kiếp trước.
 Vậy nên có thể hiểu “duyên” là duyên phận, còn “nợ” là cái nợ đời phải trả. Duyên nợ của bà Tú
với ông Tú thì duyên chỉ có một mà nợt thì có những hai, hạnh phúc thì ít ỏi mà vất vả, cực nhọc lại
rất nhiều.
+ “Nắng”, “mưa” tượng trưng cho những vất vả, khổ cực mà bà Tú phải chịu đựng. Các số từ theo thứ
tự: một, hai, nàn, mươi được sản Ap theo sự tăng tiến cho thấy khó khăn chồng chất khó khăn trên đôi
vai của bà Tú.
+ Nhưng vì đã là của nợ nên bà Tú dầu có vất vả cực nhọc đến đâu cũng “ẫu đành phận”. Mà đã cam
chịu, chấp nhận nên năm năng mười mưa dám quản công.
+ Các cụm từ “âu đành phận” và “dám quản công được đặt ở cuối các câu thơ cho thấy sự nhẫn nhục,
chịu đựng tất cả vì chồng con của bà Tú. Bà Tú cũng đâu có than thân bao giờ, bà chấp nhận tất cả,
giấu kín lòng mình với bao nỗi xót xa tủi cực.
+Nhưng ông Tú vì thấy rõ sự thiệt thòi, vất vả tảo tần, đức hi sinh cao thượng và lòng vị tha của
người bạn đời, hơn nữa vì tấm lòng thương vợ nên đã cất lên lời nói thay cho vợ.
2.4 Hai câu kết: Tâm sự của thi nhân
- Tú Xương không chỉ là một nhà thơ trữ tình mà còn nổi tiếng là nhà thơ trào phúng. Thơ ông không
chỉ là tiếng chửi xã hội phong kiến, bọn quan lại dốt nát mà còn là những vần thơ tự trào bản thân. Bài
thơ cũng mang tính trào lộng rõ nét khi kết lại bằng một tiếng chửi. Xuất phát từ lòng thương vợ, ông
chửi tất cả những gì khiến vợ ông phải khổ. Ông chửi rủa cái cõi đời bạc bẽo và chửi cả cái vô tích sự
của bản thân:
- Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.
Ông Tú cũng chẳng dè dặt gì với chữ nghĩa mà dùng luôn cách chửi dân gian “Cha mẹ thói đời”. Ông
không nói đích danh về mình mà khái quát về cái thói đời bạc bẽo và chửi cha chửi mẹ cái thói đời
bạc bẽo ấy. Thói đời đen bạc tượng trưng cho bản chất của xã hội kim tiền dưới thời thực dân phong
kiến và thành thị nó càng trở nên xấu xa, tệ hại. Cái thói đời xấu xa ấy từng được ông thể hiện trong
thơ:
“Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng
Keo cú người đầu như cứt sắt
Tham lam chuyện thở rặt hơi đông”.
( Đất Vị Hoàng )
- Hoá ra ông là đệ tử của thánh hiền mà cũng bị nhiễm cái thói đời xấu xa của thói đời. Vì thế mà ông
Tú xót xa, tự trách. Ông tự phê phán mình là ăn ở bạc bẽo, hờ hững với vợ khiến bà Tú vốn là "Con
gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ”, vốn “Mặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám chế răng beo rang
vàn: Người ung dung, tính hạnh khoan hoà” mà bây giờ trở nên vất vả, tảo tân, gian nan, cam phận.
- Ông chửi chính bản thân mình là một người chồng bạc bẽo, hờ hững, vô tích sự đã không gánh đỡ gì
được cho vợ lại còn làm nặng trĩu thêm cái gánh nợ đời trên vai, khiến bà Tú không vui được với
duyên
- Duyên nợ của bà Tú với ông cũng đắng chát có khác nào sự cay đắng trong tình duyên của Hồ Xuân
Hương thể hiện trong bài “Làm lẽ”:
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hầm
Câm bằng làm mướn mướn không công.
Thân này vì biết đường này nhẽ
Thà trước thôi đành ở vậy xong.
- Tuy nhiên, có lẽ ông Tủ đã nói oan cho mình vì thực lòng ông đâu có bạc bẽo như thói đời.
Chỉ là bởi ông sinh nhầm thời thế, có thực tài nhưng công danh dở dang, thi cử lận đận. Sống
giữa một xã hội dở Tây dở Ta, chữ nho mạt vận, lúc mà “Ông Nghè, ông Công cũng nằm co”,
mà ông không chịu xu thời nịnh thế để vinh thân phì gia cho nên mới đành phải nhờ vào vợ.
- Hơn nữa, nếu ông bạc bẽo, hờ hững với vợ thì đã không có bài Thương vợ thấm thía và cảm
động đến như vậy. Vì vậy, hai câu kết là cả một nỗi niềm thế sự đầy buồn thương, là tiếng nói
của một trí thức giàu nhân cách, nặng tình đời thương vợ con nhưng phải chịu cảnh thất thế.

You might also like