Professional Documents
Culture Documents
1. TỰ TÌNH LÀ TÂM SỰ BUỒN CHÁN, CÔ DƠN, BẼ BÀNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ Ý THỨC
ĐƯỢC THỜI GIAN TRÔI QUA MÀ TÌNH DUYÊN CHƯA TRỌN VẸN (4 CÂU ĐẦU)
a) Nhân vật trữ tình xuất hiện trong không gian, thời gian đặc biệt:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”
- Đêm khuya:
+Thời điểm nửa đêm về sang. Cùng với thời khắc hoàng hôn buông xuống khoảng thời gian tâm
trạng.
+Là lúc không gian yên tĩnh, vắng lặng, thời điểm phù hợp nhất để con người đối diện với chính mình.
+ Ca dao từng viết:
“Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lắn, trông sao sao mờ”
+ Trong truyện Kiều: Cũng trong thời điểm đêm khuya tĩnh mịch ấy, nàng Kiều cũng đã bộc lộ tâm
trạng đau đớn, cô đơn khi nàng ý thức sâu sắc được thân phận của mình
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa”
Cho thấy nhân vật trữ tình đang trằn trọc, thao thức, trĩu nặng tâm trí, rối bời tâm trạng.
- Lắng nghe âm thanh tiếng trống canh
“Văng vẳng trống canh dồn”
+Cùng với tiếng gà, trống canh là tín hiệu báo …. Của thời gian.
+Lấy động tả tính, đảo từ láy “văng vẳng” lên đầu câu Nhấn mạnh tiếng trống từ xa vọng lại, qua đó
càng thấy được sự hoang vắng, tĩnh mịch của đem. Đêm càng vắng, người càng nhỏ bé.
+Không chỉ là âm thanh của ngoại vật mà còn là tiếng long của nhà thơ vọng ra đầy ám ảnh, day dứt,
khắc khoải trước sự trôi chảy của thời gian.
+Trong cảm nhận của nvtt tiếng trống canh dồn dập, gấp gáp, hối hả. Ấy là tiếng trống dồn dập trong
lòng người phụ nữ khi ý thức được thời gian của mình đang vùn vụt trôi qua như “bóng câu qua cửa
sổ”.
b) Tình cảnh, tâm trạng của nữ sĩ được diễn tả xúc động, trực tiếp:
“Trơ cái hồng nhan với nước non”
- Nhịp thơ: 1/3/1/2: nức nở, nghẹn ngào, lại vừa như đay nghiến, mỉa mai.
- Cách kết hợp từ lạ “hồng nhan”: là từ Hán Việt, chỉ nhan sắc thiếu nữ xinh đẹp, mĩ miều mà kết hợp
với từ “cái” bỗng trở nên rủ rúm, mỉa mai. Đẹp đẽ mà làm gì .. cũng chỉ là một “cái” nhỏ nhoi, bẽo bọt.
Ý thơ chỉ nói về 1 vế hồng nhan nhưng vẫn gọi lên vế bạc phận cay đắng, xót xa.
- Phép đảo ngữ “trơ” đặt lên đầu câu kết hợp với phép tiểu đối “hồng nhan” với “nước non” thì ngày
càng gợi sự thấm thía về tình cảm.
- “Trơ” ở đầu câu nhấn mạnh sự cô độc, lẻ loi, đơn chiếc. Hơn nữa lại “trơ” giữ cái mênh mông, rợn
ngợp của nước non thì càng thêm có lí.
- “Trơ” = sự tủi hổ, bẽ bang của người phụ nữ khi tự ý thức được thân phận rẻ rung của mình.
- Tâm trạng có sự đồng điệu với Kiều khi bị bỏ rơi không chút đoái thương.
“Đuốc hoa để đó mặc nàng năm trơ”
- Trơ là sự bền gan, thách thức với cuộc đời
“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt” – Bà huyện thanh quan
Câu thơ không chỉ là nỗi đai của Xuân Hương mà còn là bản lĩnh của bà: mạnh mẽ, thách thức trước
nỗi cô đơn rợn ngợp, trước sự bẽ bang, rẻ rúng của số phận.
c) Nhân vật trữ tình tìm đến rượu để giải sầu, làm nguôi ngoai tâm trạng
“ Chén rượu hương đưa say lại tỉnh”
- Uống rượu giải sầu là hành động người ta thường làm khi rơi vào đau khổ, bế tắc, tuyệt vọng.
- Câu thơ gợi hình một người phụ nữ mọt mình trong đêm vắng, đối diện với vầng trăng lạnh, nhấm
nháp chén rượu như đang nhấp từng dư vị đắng cay của cuộc đời.
- Con người chỉ cảm nhận được “ hương đưa”, đó là hương rượu thoảng qua, không đủ nồng nàn làm
người say.
+ Đó còn là hương tỉnh nhạt nhẽo, lạnh lùng
- Con người rơi vào vòng luẩn quẩn “say lại tỉnh” càng tỉnh càng thổn thức hơn nỗi đau thân phận, bàng
hoàng nhận ra tình yêu chỉ là trò đùa của con ….
- Khi say sưa, ngây ngất ban đầu thoảng qua nhanh, còn lại sự cô độc, tủi hổ.
d) Tỉnh ra rồi, nhân vật nhận thức rõ tình cảnh bi kịch
“Vầng trăng bóng xé khuyết chưa tròn”
- “Trăng bóng xế” là trăng hạ tuần cuối tháng, cũng là trăng muộn khi trời gần về sang.
- Tâm cảnh: hình ảnh vầng trăng, bóng xế, biểu tượng cho tuổi xuân của người phụ nữ đã trôi qua mà
nhân duyên vẫn còn dang dở.
- Cách diễn dạt “khuyết chưa tròn” nghe có vẻ trùng lặp nhưng nhiều dụng ý.
+ Tô đậm, nhấn mạnh sự lỡ làng, dở dang, hao hụt của tình nguyện.
+ Thể hiện khát vọng hạnh phúc âm ỉ mà mãnh liệt như hi vọng về vầng trăng sẽ tròn, sẽ đầy đặn, viên
mãn. Khát vọng của ngon người.
Bản lĩnh, cá tính của một tâm hồn yêu đời tha thiết
Liên hệ: Hàn Mạc Tử
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
2. Mượn hình tượng thiên nhiên, HXH thể hiện thái độ phẫn uất, phản kháng mạnh mẽ trước số
phận và cuộc đời:
“ Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
- Đặc sắc nhất, gây ấn tượng mạnh về nghệ thuật, đậm đà phong cách Xuân Hương.
+ Âm hưởng mạnh mẽ, hùng hồn, dữ dội.
+ Phép đối rất chỉnh trong từng từ, từng hình ảnh tạo vẻ đẹp cân xứng hài hòa, nhịp nhàng qua lại
+ Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, mượn thiên nhiên để thể hiện tâm trạng.
- Thiên nhiên không ở trạng thái tĩnh, sống động, cựa quậy, ngang bướng.
// Nghệ thuật đảo ngữ đưa 2 động từ manh “xiên ngang” ; “đâm toạc” lên đầu câu để tô đậm sự trỗi dậy
mạnh mẽ của thiên nhiên.
+ Rêu vốn là thực vật nhỏ bé, mềm mại, yếu đuối hay cũng mọc xiên ngang mặt đất.
+ Đá vốn cứng cỏi, rắn chắc, càng trở nên cứng nhọn như đâm toạc chân mây.
- Thái độ: không cam chịu, ngang ngạnh, bướng bỉnh vươn lên dù biết phận mình chỉ nhó bé, bình
thường như rêu như đá.
Thể hiện cá tính, sức sống mãnh liệt và bản lình mạnh mẽ của con người ngay cả trong tình huống bi
thương.
Liên hệ: Nhiều lần bắt gặp một Xuân Hương gai góc, ương ngành dám chống lại một hệ tư tưởng
phong kiến xưa.
“Tài tử văn nhân ai đó tá
Thân này đâu đã chịu già tom”
“Quản bao miệng thế lời chênh lệch,
Không có, nhưng mà có, mới ngoan”
3. Nỗi thất vọng, chán chường khi trở lại thực tại đau xót, tình duyên bị san sẻ, thân phận
nhỏ bé, tội nghiệp:
“ Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
- Tâm trạng thể hiện trực tiếp qua từ “ngán”, chán ngán không còn thiết tha, hi vọng gì nữa.
- Nguyên nhân: “Xuân đi xuân lại lại”
+ Xuân mang 2 nghĩa: mùa xuân và tuổi xuân
Với thiên nhiên, xuân đi lại về mang theo sự sống căng tràn.
Với con người vaod độn bóng xế thì mỗi độ xuân về thì tuổi xuân lại hao hụt, phôi phai thêm,
vơi bớt đi và rồi một đi không trở lại.
Mùa xuân của đất trời là tuần hoàn nhưng tuổi xuân của mỗi người là tuyến tính. Vì vậy mà
nhân vật trữ tình chán chường mỗi khi mùa xuân tới. Sâu xa, trong tâm trạng ấy chính là lòng
yêu đời, yêu cuộc sống, nuối tiếc từng khoảnh khắc, giây phút tuổi xuân.
- Liên hệ: thơ mới
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”
- “Mảnh tình san sẻ tí con con”
+ Sử dụng thủ pháp nghệ thuật tăng tiến: “mảnh” “tí” “con con” nhận mạnh sự ít ỏi đến
xót xa, tội nghiệp. Tình duyên vỗn đã nhạt nhẽo, mỏng manh, nay lại bị san sẻ, thành ra quá ít
ỏi, có cũng như không.
+ Câu thơ được viết ra từ tâm trạng của người mang phận làm lẽ, chịu cảnh chung chồng. Tình
cảnh ấy Xuân Hương đã có lần đay nghiến:
“Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”
- Yêu đời, khát vọng hạnh phúc chưa vụt tắt.
- Tình cảnh chung của xã hội thời bấy giờ
- Phê phán xã hội nam quyền
- Đi trước thời đại, giá trị nhân đạo, nhân văn cao đẹp.
Thương vợ
“Văn học nằm ngoài những quy luật của băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết
(Se-drin). Thơ văn Tú Xương là một trường hợp như vậy. Thể xác của ông hơn 100 năm nay đã
hòa tan làm một cùng với đất mẹ nhưng sự nghiệp văn chương của con người tài hoa ấy chưa bao
giờ ngừng sống và làm lay chuyển lòng người, bất chấp mọi thử thách của thời gian. Tú Xương
được biết đến trước hết là một nhà thơ trào phúng. Chế Lan Viên từng viết: “Tú Xương cười như
mảnh vỡ thủy tinh”. Nhưng thơ ông không chỉ châm biếm, mia mai, đả kích dữ dội mà còn rất trữ
tình, có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình, trong đó trữ tình là
gốc. Nói như Nguyễn Tuân thì thơ trào phúng chỉ là “chân trái”, còn “chân phải” của ông là thơ trữ
tình. Tú Xương có cả một mảng thơ viết về vợ. Ông viết về bà Tú với những tình cảm yêu thương,
trân trọng đặc biệt. Trong số các bài thơ viết về vợ của ông, bài thơ “Thương vợ” được đánh giá là
bài thơ hay nhất.
“ Quanh năm buôn bán ở mom sông
…………………………………………….
Có chồng hờ hững cũng như không”
1. Khái quát:
Mặc dù hình ảnh của người phụ nữ luôn là đề tài muôn thuở của văn chương kim cổ Đông Tây. Tuy
nhiên ở Việt Nam thời trung đại, thơ văn viết về người vợ rất ít, viết về người vợ đang sống lại còn
hiếm hoi hơn. Các thi nhân thường chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời, những người vợ
thường phải đi vào cõi thiên thu mới được bước vào địa hạt thi ca. Thế kỉ XIX, chỉ có hai nhà thơ
cùng người thành Nam là Nguyễn Khuyến và Tú Xương có thơ viết về VỢ, không ngần ngại nói lên
tình cảm thương yêu của mình đối với vợ ngay khi các bà vẫn còn ở chốn nhân gian. Thương vợ của
Tú Xương là bài thơ nổi tiếng hơn cả. Trong bài thơ là hình ảnh hai con người: một người vợ tần tảo
giàu đức hi sinh và một người chồng biết cảm thông chia sẻ, thương yêu và quý trọng vợ rất mực. Bà
Tú có thể đã phải chịu nhiều gánh nặng, sự nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có niềm hạnh phúc
mà bao phụ nữ không có được là được đi vào thơ với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng
2. Hoàn cảnh ra đời:
Tú Xương là bút danh của Trần Tế Xương. Tú Xương thông minh nức tiếng nhưng lận đận mãi trên
con đường khoa cử: "Tám khoa chữa khỏi phạm trường quy", đi thi tám lần mà chỉ đỗ đến tú tài. Ông
chỉ sống 37 năm, nhưng sự nghiệp thơ ca của ông thì bất tử. Tú Xương thuộc lớp nhà Nho cuối mùa,
sống giữa buổi giao thời, trong lúc thời đại phong kiến suy tàn, những giá trị của quá khứ đang dần
mất đi nhưng cái mới chưa kịp hình thành, những nét đẹp truyền thống đang dần rạn vỡ. Bởi vậy thơ
ông đầy tiếng u uất, chua chát. Tú Xương lấy vợ năm ông 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn. Cuộc
đời của Tú Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ nhưng trước hết ông là một nhà trí thức phong kiến,
thuộc loại nhà Nho “dài lưng tốn vải” phải sống nhờ vào người vợ của mình. Mọi việc trong gia đình
đều do một tay bà Tú lo liêu. Cũng vì thế ông có nhiều bài thơ viết về vợ đầy thương mến, hóm hỉnh:
“Tiền bạc phó cho con mụ kiếm”, “Hỏi ra quan ây ăn lương vợ”. Hoặc:
“Có một cô lái, nuôi một thầy đồ
Quần áo rách rưới , ăn uống xô bồ”
Bài thơ Thương vợ cũng được ra đời trong hoàn cảnh như vậy.
3. Nhan đề:
Nhan đề Thương vợ chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa
thể hiện được đầy đủ vẻ đẹp nhân bản của hồn thơ Tú Xương. Ở bài thơ này, tác giả không chỉ thương
vợ mà còn biết ơn vợ, không chỉ lên án “thói đời” mà còn tự trách, tự nhận khuyết điểm và càng thấy
mình khiếm khuyết cùng thương yêu, quý trọng vợ hơn. Tình thương yêu, quý trọng vợ là cảm xúc có
phần mới mẻ so với những cảm xúc quen thuộc trong và những cảm xúc quen thuộc trong văn học
trung đại. Cảm xúc mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình ảnh và ngôn ngữ quen thuộc của văn học
dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương dù mới lạ, độc Cao Vân rất gần gũi với mọi người, vẫn có gốc
rễ sâu xa trong tâm thức dân tộc.