You are on page 1of 43

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BỘ MÔN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ


ĐỀ TÀI: THỪA KẾ THEO DI CHÚC THEO PHÁP LUẬT DÂN
SỰ VIỆT NAM. LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

MÃ MÔN HỌC: GELA220405

THỰC HIỆN: NHÓM 11 LỚP:

THỨ 7 TIẾT 11-12

GVHD: TH.S VÕ THỊ MỸ HƯƠNG

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2021


DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU

LUẬN HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2021-2022

Nhóm: 11 ( Lớp thứ 7 – Tiết 11-12)

Tên đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật dân sự Việt Nam. Lý luận và
thực tiễn

STT HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MÃ SỐ SINH VIÊN TỈ LỆ HOÀN THÀNH

1 Nguyễn Thị Kim Anh 21136121 100%

2 Bùi Xuân Quỳnh 21136076 100%

3 Lý Lê Nhật Hòa 21136031 100%

4 Lê Thị Phương Anh 21136117 100%

5 Nguyễn Ngọc Yên Bình 21136127 100%

6 Đặng Châu Anh 21136003 100%

Ghi chú:
 Tỷ lệ % = 100%: Mức độ phần trăm của từng sinh viên tham gia.
 Trưởng nhóm: Nguyễn Thị Kim Anh SĐT: 0369667025

Nhận xét của giáo viên

…………………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………………….

Ngày 04 tháng 12 năm 2021


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU-----------------------------------------------------------------------------1
1. Lý do chọn đề tài---------------------------------------------------------------------------1
2. Mục tiêu nghiên cứu-----------------------------------------------------------------------2
3. Phương pháp nghiên cứu-----------------------------------------------------------------2
4. Kết cấu đề tài-------------------------------------------------------------------------------2
B. PHẦN NỘI DUNG---------------------------------------------------------------------------3
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC----------3
1.1. Một số khái niệm----------------------------------------------------------------------3
1.1.1. Thừa kế-----------------------------------------------------------------------------3
1.1.2. Quyền thừa kế--------------------------------------------------------------------3
1.1.3. Thừa kế theo di chúc------------------------------------------------------------3
1.2. Đặc điểm di chúc----------------------------------------------------------------------5
1. 3. Các điều kiện có hiệu lực của di chúc--------------------------------------------7
1.3.1. Người lập di chúc-----------------------------------------------------------------7
1.3.2. Quyền tự định đoạt ý chí của người lập di chúc (ý chí của người lập di
chúc)----------------------------------------------------------------------------------------8
1.3.3. Nội dung của di chúc-----------------------------------------------------------12
1.3.4. Hình thức của di chúc----------------------------------------------------------16
1.4. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc và hiệu lực của di chúc-------19
1.4.1. Sửa đổi, bổ sung, thay thế và hủy bỏ di chúc-----------------------------19
1.4.2. Hiệu lực của di chúc------------------------------------------------------------20
1.4.3. Di chúc vô hiệu------------------------------------------------------------------21
1.5. Di chúc chung của vợ, chồng và hiệu lực di chúc chung của vợ, chồng- -22
1.5.1. Di chúc chung của vợ, chồng-------------------------------------------------22
1.5.2. Hiệu lực di chúc chung của vợ, chồng--------------------------------------22
1.5.3. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc------------22
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THỪA KẾ
THEO DI CHÚC VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT QUY
ĐỊNH VỀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC------------------------------------------------23
2.1. Thực trạng giải quyết những tranh chấp về thừa kế theo di chúc tại Tòa
án nhân dân--------------------------------------------------------------------------------23
2.2. Thực trạng pháp luật quy định về các điều kiện có hiệu lực của di chú- 25
2.2.1. Về chủ thể lập di chúc---------------------------------------------------------25
2.2.2. Về việc hủy bỏ di chúc---------------------------------------------------------28
2.2.3. Về di chúc miệng----------------------------------------------------------------29
2.2.4. Về di chúc chung của vợ chồng----------------------------------------------30
2.3. Một số kiến nghị về hoàn thiện những quy định pháp luật về các điều
kiện có hiệu lực của di chúc-------------------------------------------------------------32
2.3.1. Kiến nghị hoàn thiện về chủ thể lập di chúc------------------------------32
2.3.2. Kiến nghị hoàn thiện về việc hủy bỏ di chúc------------------------------32
2.3.3. Kiến nghị hoàn thiện về di chúc miệng-------------------------------------33
2.3.4. Kiến nghị hoàn thiện về di chúc chung của vợ chồng-------------------33
C. KẾT LUẬN----------------------------------------------------------------------------------34
PHỤ LỤC-------------------------------------------------------------------------------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân, là một trong những quan hệ
pháp luật phổ biến và quan trọng trong đời sống xã hội. Trong xã hội hiện nay, khi số
lượng và giá trị tài sản của mỗi cá nhân ngày càng tăng thêm, hay nói cách khác là đa
dạng và phong phú hơn thì việc nảy sinh tranh chấp với sô lượng tài sản đó xảy ra
ngày một nhiều. Do đó mà trong Hiến pháp - đạo luật gốc của hệ thống pháp luật Việt
Nam, thừa kế được ghi nhận là một quyền cơ bản của công dân. Tại Hiến pháp năm
1959, Điều 19 quy định "Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản
tư hữu của công dân". Điều 27, Hiến pháp năm 1980 đã có sự kế thừa và sửa đổi để
phù hợp với thực tiễn "…Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân". Trải
qua quá trình phát triển, Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định "…Nhà nước bảo hộ
quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân" (Điều 58). Dựa trên Hiến
pháp năm 1992 và kế thừa quy định của BLDS năm 1995, chế định thừa kế được ghi
nhận trong BLDS năm 2005 và có sự thay đổi tích cực, phù hợp hơn với sự phát triển
của xã hội và mang tính khả thi hơn.
1
Tuy nhiên trên thực tế thói quen lập di chúc của người Việt Nam vẫn chưa phổ biến
do còn coi trọng các phong tục, tập quán, tình cảm giữa cha con, vợ chồng, anh em...và
cũng có rất nhiều trường hợp lập di chúc nhưng bản di chúc lại không có giá trị pháp
lý do không đáp ứng được các điều kiên theo quy định của pháp luật. Cho nên, phần
lớn các trường hợp thừa kế ở Việt Nam đều được giải quyết theo quy định về thừa kế
theo pháp luật. Song, trong quá trình hội nhập và phát triển xã hội ngày nay ở Việt
Nam thì vấn đề thừa kế di sản cũng đã nảy sinh rất nhiều vấn đề tranh chấp phức tạp.
Thực tiễn khi giải quyết các vụ việc về tranh chấp thừa kế cũng đã gặp phải không ít
những khó khăn. Từ những điều này mà nhóm chúng em đã quyết định chọn đề tài
“Thừa kế theo di chúc theo pháp luật dân sự Việt Nam. Lý luận và thực tiễn”.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến các qui định về thừa kế theo pháp luật,
bao gồm khái niệm thừa kế theo pháp luật, phân tích tiến trình phát triển của pháp luật
Việt Nam về thừa kế theo pháp luật đồng thời có sự so sánh giữa thừa kế theo pháp
luật và thừa kế theo di chúc để rút ra được đặc trưng của mỗi hình thức và để có thể
nhìn nhận vấn đề thừa kế một cách toàn diện. Bên cạnh đó là xác định diện thừa kế và
hàng thừa kế theo pháp luật; Xác định điều kiện, các trường hợp được hưởng thừa kế
thế vị. Đồng thời tìm hiểu những vướng mắc phát sinh từ thực tiễn và đề xuất cách
thức giải quyết, góp phần hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo pháp luật.

3. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Triết học Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật trong lĩnh vực thừa kế. Ngoài ra, để
đạt được mục đích nghiên cứu, bài tiểu luận hoàn thành còn được dựa trên một số
phương pháp nghiên cứu khác như sp sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê.

4. Kết cấu đề tài

2
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung bài tiểu luận
gồm 2 chương:

Chương 1: Khái quát về thừa kế theo di chúc

Chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp và những giải pháp hoàn thiện pháp luật
quy định thừa kế theo di chúc.

B. NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC


1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Thừa kế
Thừa kế là một chế định dân sự, là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc
chuyển dịch tài sản của người chết cho người khác theo di chúc hoặc theo một trình tự
nhất định, đồng thời quy định phạm vi, quyền nghĩa vụ và phương thức bảo vệ các
quyền nghĩa vụ của người thừa kế.
Quan hệ thừa kế là một loại quan hệ pháp luật xuất hiện đồng thời với quan hệ sở
hữu. Vì vậy, quan hệ thừa kế đơn giản được hiểu là để duy trì quan hệ sở hữu. Đây là
một khái niệm quen thuộc về cả mặt xã hội lẫn pháp lý:
 Về phương diện xã hội: 
Kể từ khi chưa có nhà nước và pháp luật, con người với số tài sản chiếm được đã có
nhu cầu dịch chuyển lại cho người khác khi qua đời. Đó chính là thừa kế - quá trình
dịch chuyển tài sản của một người sau khi chết cho người khác.
 Về phương diện pháp luật:
Thừa kế là một phạm trù pháp lý mà bao gồm các quy định của pháp luật nhằm tác
động điều chỉnh quá trình để lại và nhận lại di sản thừa kế; là cơ sở phát sinh quyền
thừa kế.
1.1.2. Quyền thừa kế

3
Theo nghĩa khách quan: Quyền thừa kế là một chế định của pháp luật dân sự, bao
gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước đặt ra và thừa nhận điều chỉnh quá
trình dịch chuyển tài sản từ người chết sang cho người có quyển hưởng di sản. Dựa
vào quy định của pháp luật về thừa kế. Việc thực hiện các quyền năng này phải phù
hợp với mức độ và phạm vi mà pháp luật cho phép. 
Theo nghĩa chủ quan: Quyền thừa kế là những quyền dân sự cụ thể của người để lại
di sản và những người nhận di sản thừa kế. Các quyền chủ quan này phải phù hợp với
các quy định của pháp luật về thừa kế.
1.1.3. Thừa kế theo di chúc
Thừa kế theo di chúc là việc chuyển di sản của người chết cho những người còn
sống theo sự định đoạt của người đó khi còn sống.
Di chúc hợp pháp phải có đủ những điều kiện sau:
+ Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc, không bị lừa dối,
de dọa hoặc cưỡng ép.
+ Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không
trái quy định của pháp luật.
Người lập di chúc chỉ có thể là cá nhân cụ thể, phải có tài sản thuộc quyền sở hữu
hoặc quyền sử dụng hợp pháp. Người đã thành niên có quyền lập di chúc trừ trường
hợp bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác không thể nhận thức và điều khiển được
hành vi của mình. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể lập di chúc nếu được
cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt
tài sản chung. Di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau chết
hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết.
Quyền của người lập di chúc:
+ Chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
+ Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
+ Dành một phần di sản để di tặng, thờ cúng;

4
+ Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;
+ Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Hình thức của di chúc phải được lập thành văn bản, trong một số trường hợp đặc
biệt có thể lập di chúc bằng miệng:
+ Di chúc bằng văn bản có các loại: di chúc bằng văn bản không có người làm
chứng; di chúc bằng văn bản có người làm chứng; di chúc bằng văn bản có công
chứng; di chúc bằng văn bản có chứng thực.
+ Di chúc bằng miệng được áp dụng trong trường hợp tính mạng một người bị cái
chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn
bản. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu có ít nhất hai người làm chứng và ngay
sau đó người làm chứng phải ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Sau 3 tháng kể
từ ngày lập di chúc miệng mà người di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc
miệng bị hủy bỏ.
Người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc: Con chưa thành niên, con đã thành
niên mà không có khả năng lao động, vợ, chồng của người lập di chúc, vẫn được
hưởng di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu như di sản được
chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di
sản hoặc được hưởng phần ít hơn 2/3 xuất đó, trừ khi họ từ chối hoặc không có quyền
nhận di sản. 
1.2. Đặc điểm di chúc
Theo Điều 646 BLDS 2005, di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân trong việc
chuyển dịch tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Di chúc có những đặc điểm
cơ bản sau đây:
Một là, di chúc thể hiện ý chí của người để lại di chúc trong việc định đoạt tài sản của
mình. Một trong những ngụyên tắc cơ bản của việc giải quyết thừa kế theo di chúc là
phải tôn trọng ý chí của người để lại di sản. Nếu như người để lại di sản lập di chúc về
việc phân chia di sản cho người khác thì căn cứ vào nguyện vọng của người để lại di

5
sản được ghi nhận trong bản di chúc, phần tài sản sẽ phải được ưu tiên phân chia theo
ý chí của người để lại di sản. Đó chính là sự tôn trọng ý chí của người để lại di sản.
Điều 631 Bộ luật dân sự 2005 có quy định: Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt
tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di
sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài
sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Trong đó, ý chí của người để lại di sản thừa kế được thể hiện qua các quyền của người
lập di chúc là:
 Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
 Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
 Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
 Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;
 Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Hai là, di chúc ghi nhận sự chuyển dịch tài sản của người để lại di sản cho người được
hưởng thừa kế sau khi người đó chết. Có thể khẳng định di chúc là một giao dịch dân
sự đặc biệt. Bộ luật dân sự quy định rõ, giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi
pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân
sự. Một giao dịch dân sự có hiệu lực khi thỏa mãn các điều kiện theo quy định tại Điều
122 BLDS. Tính đặc biệt của di chúc được thể hiện ở những khía cạnh sau đây:
 Di chúc chỉ phát sinh hiệu lực thực tế khi người để lại di sản thừa kế chết;
 Việc định đoạt tài sản thừa kế phải tuyệt đối tuân thủ theo nội dung của di chúc,
không được thay đổi hay giải thích nội dung của di chúc;
 Việc kiểm chứng/đối chiếu di chúc là rất khó khăn vì người để lại di sản thừa kế
đã chết.
Ba là, di chúc chỉ được coi là hợp pháp nếu nó đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp
luật quy định. Di chúc chứa đựng ý chí đơn phương của người để lại di sản thừa kế và

6
di chúc chỉ phát sinh hiệu lực khi người để lại di sản thừa kế chết. Do vậy, luật pháp
yêu
cầu di chúc phải đáp ứng những điều kiện nhất định đã được quy định tại điều 652 Bộ
luật Dân sự 2005 thì bản di chúc đó mới được coi là hợp pháp và chỉ khi là một bản di
chúc hợp pháp thì ý chí của người để lại di sản thừa kế là muốn chuyển dịch tài sản
của mình cho ai mới được công nhận và bảo đảm thực hiện. Trong trường hợp nếu nội
dung di chúc không rõ ràng, hoặc nghi ngờ về tính chính xác thì bản di chúc đó có thể
bị huỷ bỏ.
Bốn là, di chúc chỉ có hiệu lực pháp luật từ thời điểm người lập di chúc chết. Đây là
điểm khác biệt cơ bản nhất của di chúc với một hợp đồng dân sự. Nếu hợp đồng dân
sự có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết hợp đồng thì thời điểm bắt đầu có hiệu lực của
di chúc được xác lập kể từ khi người lập ra nó chết.
Năm là, di chúc luôn trong tình trạng có thể bị người lập ra nó huỷ bỏ. Xuất phát từ
đặc điểm chủ sở hữu có toàn quyền trong việc định đoạt khối tài sản thuộc quyền sở
hữu của mình, do đó, người lập di chúc hoàn toàn có quyền huỷ bỏ di chúc mà mình
đã lập trước đó để định đoạt lại khối tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Vì vậy, di
chúc đã lập không mang tính cố định, nó có thể bị thay đổi bất cứ lúc nào, việc thay
đổi này phụ thuộc vào ý chí của người lập di chúc. Bởi lẽ, di chúc chỉ là hình thức để
ghi lại ý chí của họ. Nói một cách khác đi, người lập di chúc có ý định hình thành quan
hệ thừa kế giữa mình với người có tên trong di chúc.
1.3. Các điều kiện có hiệu lực của di chúc

1.3.1. Người lập di chúc

a) Người lập di chúc phải có năng lực chủ thể (điều 625 BLDS 2015)

Người lập di chúc là người có tài sản muốn dịch chuyển tài sản của mình cho
người khác hưởng sau khi chết. Họ thể hiện ý chí của bản thân thông qua việc lập di
chúc. Như vậy, người lập di chúc phải có năng lực chủ thể (năng lực hành vi dân sự).
7
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân chính là khả năng của cá nhân bằng hành vi của
mình để xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Một người được coi là có năng lực
hành vi dân sự (có đủ điều kiện để viết di chúc), khi người đó bằng khả năng của mình
thực hiện hành vi, mà bằng hành vi đó, người đó đã xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự.
Trong quan hệ pháp luật thừa kế, người lập di chúc bằng hành vi định đoạt tài sản
thuộc sở hữu của mình thông qua việc lập di chúc đã xác lập quyền hưởng di sản cho
người được thừa kế theo di chúc. Cũng đồng thời xác lập nghĩa vụ cho người quản lý
di sản. Đối với những người đã thành niên nhưng bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh
khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì không có quyền
lập di chúc. Nếu họ lập di chúc, thì di chúc đó không được công nhận.
Điều 625 BLDS 2015 cũng quy định người được quyền lập di chúc đó là:
Thứ nhất, là người thành niên minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa
rối, đe dọa, cưỡng ép lập di chúc thì có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của
mình.
Thứ hai, là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc,
nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc. Tuy nhiên, người từ
đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể lập di chúc nhưng với điều kiện phải được lập
thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di
chúc (khoản 2 điều 630 BLDS). Sự đồng ý ở đây là đồng ý cho họ lập di chúc còn về
nội dung di chúc thì họ được toàn quyền quyết định.

b) Người lập di chúc phải hoàn toàn tự nguyện.

Lập di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc. Vì vậy, cũng như
các giao dịch dân sự khác, việc lập di chúc cũng phải thể hiện ý chí tự nguyện của
người lập di chúc. Tự nguyện được hiểu theo nghĩa khái quát chính là việc thực hiện
một việc hoàn toàn theo ý mình, do mình nghĩ ra và thực hiện. Trong việc lập di chúc,
người lập di chúc thể hiện ý chí của mình thông qua hành vi phân định di sản cho
8
người này nhiều, người kia ít… người lập di chúc đã thể hiện tâm tình với người thừa
kế. Vì vậy, muốn xác định một di chúc có phải là ý chí tự nguyện của người lập di
chúc hay không, cần phải dựa vào sự thống nhất giữa ý chí của người lập di chúc và sự
thể hiện ý chí đó trong nội dung của di chúc. Chỉ khi nào di chúc phản ánh một cách
trung thực, khách quan những mong muốn của người lập di chúc thì sự định đoạt đó
mới được coi là tự nguyện. Hành vi lập di chúc là một giao dịch dân sự đơn phương do
đó sự tự nguyện, bình đẳng là điều không thể thiếu và khi bị đe dọa thì người lập di
chúc không thể hiện được ý chí tự nguyện, mà lại thể hiện ý chí của người đe dọa. Vì
vậy, trong trường hợp người lập di chúc bị đe dọa thì di chúc đó bị vô hiệu, không phát
sinh hiệu lực pháp luật.

1.3.2. Quyền tự định đoạt ý chí của người lập di chúc (ý chí của người lập di chúc)

Di chúc thể hiện ý chí định đoạt tài sản của người chết cho những người còn sống
khác. Tài sản được định đoạt trong di chúc là tài sản thuộc quyền sở hữu của người lập
di chúc đó. Các quyền của người lập di chúc được quy định trong BLDS năm 1995,
BLDS năm 2005 cho đến BLDS năm 2015 không có gì thay đổi, đó là:

Thứ nhất, người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di
sản của người thừa kế.

Lẽ thường, người lập di chúc chỉ định cho cá nhân là người thân thích với mình (trong
quan hệ hôn nhân, huyết thống hay nuôi dưỡng) được hưởng di sản thừa kế mà họ để
lại. Song trong nhiều trường hợp họ chỉ định người không nằm trong các quan hệ nói
trên được hưởng di sản hoặc có thể lập di chúc cho tổ chức, Nhà nước hưởng di sản
của họ. Ngoài ra, quyền định đoạt của người lập di chúc còn thể hiện thông qua việc
truất quyền hưởng di sản của người thừa kế theo pháp luật, (như: cha, mẹ, vợ, chồng,
con, anh, chị, em ruột, ông, bà, cháu...) mà không buộc phải nếu lý do. Nếu người bị
truất quyền thừa kế thì người thừa kế không còn quyền hưởng di sản theo di chúc và

9
theo pháp luật. Nếu người thừa kế không được chỉ định trong di chúc chưa hẳn đã bị
truất quyền hưởng di sản.

Thứ hai, người lập di chúc có quyền phân định phần di sản của từng người thừa kế. 

Theo quy định này, cho phép người lập di chúc có quyền phân định phần di sản trong
di chúc chính là việc người để lại tài sản thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản
thuộc sở hữu của mình cho từng người thừa kế khi nhiều người cùng được thừa kế.
Những phần di sản này có thể bằng nhau hoặc không bằng nhau, từng hiện vật khác
nhau phụ thuộc vào ý chí định đoạt của người lập di chúc với tư cách là chủ sở hữu tài
sản, không bị chi phối bởi bất kỳ yếu tố nào như đe dọa, cưỡng ép, lừa dối. Nếu bị ảnh
hưởng bởi các yếu tố đó thì di chúc được lập sẽ không có hiệu lực thi hành. Nếu không
phân định phần của từng người mà chỉ nêu những người được hưởng, những người đó
sẽ được hưởng các kỷ phần thừa kế bằng nhau.

Thứ ba, người lập di chúc có quyền dành một phần tài sản trong khối di sản để di
tặng, thờ cúng.

 Người lập di chúc có quyền dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng.
"Di tặng" được tách ra để hiểu theo ngữ nghĩa của nó thì "tặng có nghĩa là cho,
trao cho để làm kỷ niệm" và "di" trong trường hợp này được xem xét là di sản.
Với ý nghĩa này thì  "di tặng" được hiểu là dùng một phần di sản để tặng cho
người khác sau khi người di tặng qua đời. Quy định này cho phép người lập di
chúc có quyền định đoạt một phần di sản để di tặng cho người khác hưởng.
Thông thường, là người có mối quan hệ thân quen, bạn bè, đồng nghiệp, người
sống nương nhờ....... Họ được hưởng di sản của người chết để lại nhưng không
với tư cách là người thừa kế và có quyền xác lập quyền sở hữu đối với phần di
tặng kể từ khi nhận di sản.

10
 Người lập di chúc có quyền dành cho một phần tài sản trong khối di sản để thờ
cúng. Di sản thờ cúng có ý nghĩa về cả mặt vật chất và cả về mặt tinh thần mà
tục lệ gọi là "hương hỏa". Không một ai bị buộc phải trích một phần di sản
dành cho việc thờ cúng, nhưng một khi người lập di chúc đã thể hiện ý định
đoạt phần di sản cho thờ  cúng thì phải được pháp luật tôn trọng và bảo đảm
thực hiện.

Thứ tư, người lập di chúc có quyền giao nghĩa vụ cho người thừa kế.

Người thừa kế có quyền hưởng phần di sản được thừa kế và thực hiện nghĩa vụ của
người để lại di sản trong phạm vi di sản được hưởng. Nghĩa vụ quy định tại mục này là
những nghĩa vụ về tài sản, nhưng người thừa kế không phải thực hiện những nghĩa vụ
về tài sản gắn liền với nhân thân của người để lại di sản. Việc thực hiện nghĩa vụ của
người thừa kế có thể xảy ra trong các trường hợp sau:

+Người để lại di sản có thể để lại một nghĩa vụ tài sản nhưng trong di chúc không
nói rõ người thừa kế nào phải thực hiện nghĩa vụ đó thì theo quy định của pháp luật,
người nào hưởng thừa kế thì người đó phải thực hiện. Tuy nhiên người thừa kế chỉ
phải thực hiện thừa kế đối với toàn bộ nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại trong
phạm vi di sản.

+Trong trường hợp người để lại thừa kế đã xác định rõ tỷ lệ nghĩa vụ mà từng người
thừa kế phải thực hiện thì mỗi người đó phải thực hiện phần đó trong phạm vi di sản
mà mình được hưởng. Nếu nghĩa vụ vượt quá số di sản người này được hưởng sẽ chia
đều cho những người thừa kế khác thực hiện tương ứng với phần di sản mà họ đã
nhận. Trong trường hợp toàn bộ di sản mà người chết để lại không đủ để thực hiện
nghĩa vụ thì người có quyền yêu cầu với người để lại di sản trong quan hệ trước đó
chấp nhận rủi ro và đồng thời nghĩa vụ chấm dứt.

11
+Nếu người lập di chúc đã giao nghĩa vụ cụ thể cho người thừa kế nhưng không chỉ
định người này hưởng di sản, thì không bắt buộc người được giao nghĩa vụ phải thực
hiện nghĩa vụ đó. Tuy nhiên, nếu người được giao thực hiện nghĩa vụ tự nguyện thực
hiện nghĩa vụ đó thì dùng một phần di sản mà người chết để lại để thanh toán nghĩa vụ
đó.

Thứ năm, người lập di chúc có quyền chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di
sản, người phân chia di sản.

 Chỉ định người giữ di chúc: Quy định này nhằm đảm bảo ý chí của người lập
di chúc thể hiện trong nội dung di chúc được thi hành trên thực tế khi họ qua
đời. Chỉ định người giữ di chúc để tránh việc thất lạc, hư hỏng di chúc, hủy hoại
di chúc, người lập di chúc có thể gửi lại ở cơ quan Công chứng hoặc gửi cho bất
cứ người nào mình tin tưởng. "Người" giữ bản di chúc có nghĩa vụ phải bảo
đảm giữ gìn bản di chúc theo quy định của pháp luật.

 Chỉ định người quản lý di sản: Quy định này bảo đảm cho di sản không bị mất
mát, hư hỏng, hủy hoại pháp luật quy định về việc người lập chúc có quyền chỉ
định người quản lý di sản. Người được chỉ định việc quản lý di sản có thể là
một trong những người thừa kế đó nhưng cũng có thể là một người, cơ quan tổ
chức bất kỳ nào đó. Người quản lý di sản có quyền hưởng thù lao đối với công
việc quản lý di sản và mức thù lao được xác định theo sự thỏa thuận giữa người
đó với người thừa kế.

 Chỉ định người phân chia di sản: Người quản lý di sản có thể đồng thời là
người phân chia di sản cũng có thể hai người khác nhau tùy thuộc vào người lập
chúc chỉ định hoặc mọi người thừa kế thỏa thuận cử ra. Người phân chia di sản
là người đứng ra phân chia di sản khi người để lại di chúc chết. Việc phân chia
di sản phải tôn trọng sự định đoạt việc phân chia theo di chúc. Nếu di chúc
12
không xác định cách thức phân chia di sản thì phải phân chia theo sự thỏa thuận
của tất cả người thừa kế. Người phân chia di sản có thể được hưởng thù lao đối
với công việc phân chia di sản và theo mức mà người để lại di sản đã xác định.
Nếu người lập di chúc không xác định điều này trong di chúc nhưng tất cả
những người thừa kế có thỏa thuận thì người phân chia di sản vẫn được hưởng
thù lao theo sự thỏa thuận đó.

1.3.3. Nội dung của di chúc


Thứ nhất, mặc dù nội dung của di chúc hoàn toàn do người để lại di sản tự định đoạt
nhưng để được pháp luật bảo vệ, theo quy định của BLDS năm 2015, nội dung của di
chúc phải đáp ứng các yêu cầu sau:

 Có nội dung không vi phạm điều cấm của luật.

Điểm b khoản 1 Điều 630 BLDS năm 2015 quy định: “Nội dung của di chúc không vi
phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội”. Theo quy định này, khi người để
lại di sản thực hiện quyền lập di chúc của mình chỉ cần đảm bảo không vi phạm những
quy định của luật không cho phép người lập di chúc thực hiện. Hiện nay, hầu hết các
văn bản quy phạm pháp luật đều liệt kê hành vi bị cấm tương ứng với phạm vi điều
chỉnh của văn bản.

 Có nội dung không trái đạo đức xã hội.

Theo quy định của Điều 123 BLDS năm 2015, “đạo đức xã hội là những chuẩn mực
ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng”. Đề cập
tới yếu tố đạo đức xã hội, chúng ta có thiên hướng về việc giải thích sự vật, hiện tượng
phản ánh nét văn hóa, truyền thống, chuẩn mực về giá trị ứng xử trong đời sống của
cộng đồng, quốc gia. Mỗi một quốc gia sẽ mang những nét đặc thù riêng về các chuẩn
mực đạo đức này. Cho nên, việc lập di chúc của cá nhân cũng được điều tiết theo
hướng không thể để nội dung của di chúc trái với đạo đức xã hội. Vì vậy, các giao dịch

13
nói chung và việc lập di chúc nói riêng ngoài tuân thủ quy định của pháp luật, nội
dung của di chúc còn không được trái đạo đức xã hội. Tức nội dung của di chúc thể
hiện được quyền định đoạt thuộc về sự tự do của cá nhân nhưng phải đảm bảo những
chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn
trọng.

Thứ hai, nội dung cụ thể của di chúc.

Khoản 1 Điều 631 BLDS năm 2015 xác định, di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau:

 Một là, ngày, tháng, năm lập di chúc.

Điều khoản này giúp chúng ta xác định mốc thời gian thực hiện hành vi lập di chúc.
Quy định này có ý nghĩa đối với việc xác định văn bản quy phạm pháp luật đang điều
chỉnh. Ngoài ra, yêu cầu nội dung của di chúc phải có ngày, tháng, năm lập di chúc
còn ý nghĩa trong việc giải quyết tranh chấp đối với trường hợp một người lập nhiều
bản di chúc đối với một tài sản. Khoản 5 Điều 643 BLDS năm 2015 quy định: “Khi
một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có
hiệu lực”. Như vậy, di chúc không được ghi ngày, tháng, năm lập sẽ không thể giải
quyết tranh chấp trong trường hợp này. Hơn nữa, việc không ghi ngày, tháng, năm lập
di chúc sẽ không thể xác định di chúc được lập trước hay sau khi người để lại di sản
chết. Điều này có thể dẫn tới thực trạng di chúc bị giả mạo.

 Hai là, họ, tên của người lập di chúc.

Đây là điều khoản cá biệt hoá cá nhân và hành vi của người lập di chúc. Một bản di
chúc luôn mang “sứ mệnh” là căn cứ để phân chia di sản. Nhưng quá trình phân chia
phải gắn liền với việc xác định người để lại di sản là ai, họ đã chết hay chưa. Việc ghi
nhận điều khoản này không chỉ mang lại lợi ích cho người lập di chúc mà còn bảo đảm
quyền, lợi ích của những người thừa kế, người liên quan đến người xác lập di chúc. Do

14
đó, họ và tên của người lập di chúc vẫn nên ghi nhận là điều khoản cần phải có trong
di chúc.

 Ba là, nơi cư trú của người lập di chúc.           

Nơi cư trú của cá nhân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi
cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú. Theo quy định của pháp luật,
việc xác định nơi cư trú của công dân có ý nghĩa: là nơi cá nhân thực hiện các quyền
và nghĩa vụ đối với nhà nước với tư cách là công dân; là nơi mà cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đăng ký và lưu trữ các giấy tờ về hộ tịch có liên quan đến cá nhân (đăng
ký khai sinh, khai tử …); là nơi cơ quan nhà nước có thẩm quyền tống đạt các giấy tờ
có liên quan đến cá nhân; là địa điểm thực hiện nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ khi
các bên không có thoả thuận về địa điểm này và đối tượng của nghĩa vụ là động sản; là
căn cứ để tòa án tuyên bố một cá nhân mất tích hay đã chết; là địa điểm mở thừa kế
khi cá nhân chết; là nơi toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nếu đó là nơi cư trú
của bị đơn dân sự… Tuy nhiên, đối với việc lập di chúc dù ở dạng thức nào, việc ghi
nơi cư trú của người lập di chúc trong bản di chúc cũng không thực sự có ý nghĩa. Vì
thực tế, khi một cá nhân chết, cơ quan hành chính cấp cơ sở và quản lý hộ tịch phải
hoàn tất các thủ tục theo quy định mai táng, cấp giấy chứng tử. Đây là căn cứ để xác
định nơi cư trú của cá nhân đã chết. Riêng về bản di chúc, chính những người thừa kế
được hưởng trong di chúc hoặc những người có liên quan khi hoàn tất các thủ tục
hưởng thừa kế, giải quyết tranh chấp (nếu có) sẽ kê khai, xác nhận nơi cư trú của
người để lại di sản. Vì vậy, điều khoản nơi cư trú của cá nhân lập di chúc có thể có
hoặc không trong bản di chúc.

 Bốn là, họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản.

Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản là một trong các yếu tố cá biệt hóa
chủ thể. Đối với di chúc, một trong các nội dung được quan tâm lớn nhất là chủ thể
được hưởng di sản thừa kế. Nếu không có điều khoản này, quan hệ thừa kế theo di
15
chúc sẽ không xuất hiện, việc dịch chuyển di sản sẽ không thể diễn ra hoặc diễn ra
nhưng không theo mong muốn thực sự của người có di sản để lại. Kể cả trường hợp
đặc biệt, thai nhi – chưa phải là chủ thể của quan hệ pháp luật xuất hiện, việc cá biệt
hoá thai nhi thông qua họ, tên của người mang thai, hoặc người nào đó vẫn phải tồn tại
mới có thể thực hiện việc phân chia di sản trên thực tế. Do đó, đây là điều khoản chủ
yếu trong di chúc và phải là điều khoản bắt buộc.

 Năm là, di sản để lại và nơi có di sản.

Một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn tới hiệu lực của di chúc chính là di sản thừa kế.
Một bản di chúc được lập hợp pháp nhưng di sản không còn tồn tại vào thời điểm mở
thừa kế, việc phân chia sẽ không thể diễn ra. Điều này dẫn tới nhiều trường hợp chỉ có
người lập di chúc mới biết rõ được mình có bao nhiêu loại tài sản, tài sản đó đang ở
đâu.

 Sáu là, phân định di sản thừa kế trong di chúc.

Đây là điều khoản không được liệt kê trong khoản 1 Điều 631 BLDS năm 2015 nhưng
đây là điều khoản rất quan trọng. Nó tạo ra rõ ràng và khác biệt với trình tự phân chia
di sản thừa kế theo pháp luật. Về nguyên tắc, hưởng theo pháp luật là hưởng bằng
nhau. Hưởng theo di chúc là khác nhau vì tuỳ thuộc vào ý chí của người để lại di sản.
Chính vì vậy, dù là định đoạt bằng nhau hay định đoạt khác nhau thì di chúc cần phải
có điều khoản phân định phần giá trị di sản mà mỗi người thừa kế được hưởng để định
hướng phân chia cụ thể.

Thứ ba, điều khoản mở rộng.

Khoản 2 Điều 631 BLDS năm 2015 quy định: “Ngoài các nội dung quy định tại khoản
1 Điều này, di chúc có thể có các nội dung khác”. Đây là điều khoản thể hiện rõ việc
tự do lựa chọn các nội dung khác quy định bắt buộc từ pháp luật của người lập di chúc.
Điều khoản này là một trong các nội dung mới của BLDS năm 2015 so với các văn

16
bản quy phạm trước đây. Do đó, quy định loại trừ các yêu cầu bắt buộc đối với nội
dung của di chúc, di chúc có thể có các nội dung khác là một quy định không cần thiết.

Thứ tư, điều khoản sử dụng từ viết tắt, viết ký hiệu, đánh dấu số trang trong di chúc.

Khoản 3 Điều 631 BLDS năm 2015 quy định: “Di chúc không được viết tắt hoặc viết
bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có
chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc. Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa
chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ
tẩy xóa, sửa chữa”. Thực tế cho thấy, việc viết tắt, viết bằng ký hiệu trong nội dung
của di chúc trong nhiều trường hợp là ý chí của chính cá nhân viết di chúc. Họ hiểu
được những từ viết tắt, ký hiệu được sử dụng trong di chúc. Nhưng di chúc được luật
định có hiệu lực khi người lập chết đi. Do đó, nội dung của di chúc có bao gồm cả từ
viết tắt, viết bằng ký hiệu sẽ không phản ánh được một cách trung thực ý chí của cá
nhân lập di chúc. Điều này có thể dẫn tới tình trạng nội dung của di chúc được hiểu
bằng nhiều cách khác nhau.

Thứ năm, nội dung của di chúc có đặt điều kiện.

Việc đặt điều kiện hay triển khai những nội dung khác trong di chúc như thế nào là tùy
thuộc vào ý chí của người để lại di sản, chỉ cần nội dung này đảm bảo sự không vi
phạm điều cấm của pháp luật và trái đạo đức xã hội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nội
dung di chúc của một cá nhân xuất phát từ tư duy rất “đời thường”, cho nên có những
di chúc đặt ra điều kiện như sau: Di chúc định đoạt di sản cho vợ nhưng chỉ cho hưởng
nếu vợ không kết hôn với người khác; Di chúc định đoạt cho con nhà và quyền sử
dụng đất nhưng với điều kiện không được bán và tặng cho người khác; Di chúc định
đoạt cho con được hưởng thừa kế với điều kiện phải chăm sóc một người nào đó bị
bệnh tâm thần, bị mất khả năng lao động, già yếu đến khi người này chết…

1.3.4. Hình thức của di chúc

17
Căn cứ theo quy định tại Điều 627 Bộ luật Dân sự 2015, di chúc phải được lập thành
văn bản, nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng.

Cụ thể:

a. Di chúc bằng văn bản

Căn cứ theo quy định Điều 628 Bộ luật Dân sự 2015, di chúc bằng văn bản bao gồm:
di chúc bằng văn bản không có người làm chứng; di chúc bằng văn bản có người làm
chứng; di chúc bằng văn bản có công chứng; di chúc bằng văn bản có chứng thực.

 Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng

Căn cứ theo quy định tại Điều 633 Bộ luật Dân sự 2015, người lập di chúc phải tự viết
và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc phải thể hiện các nội dung chủ yếu sau: ngày,
tháng, năm lập di chúc; họ tên và nơi cư trú của người lập di chúc; họ, tên người, cơ
quan, tổ chức được hưởng di sản; di sản để lại và nơi có di sản; ngoài ra, di chúc có thể
có những nội dung khác. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di
chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của
người lập di chúc. Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di
chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.

 Di chúc bằng văn bản có người làm chứng

Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh
máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất hai
người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt
những người làm chứng, những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người
lập di chúc và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng
phải tuân theo quy định về nội dung của di chúc tại Điều 631 Bộ luật Dân sự 2015 và
quy định về người làm chứng cho việc lập di chúc tại Điều 632 Bộ luật Dân sự 2015.

18
Đối với quy định về người làm chứng, căn cứ theo quy định tại Điều 632 Bộ luật Dân
sự 2015, mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những trường hợp
sau đây:

+Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;

+Người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến nội dung di chúc;

+Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi.

 Di chúc bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực

Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã phải
tuân thủ theo thủ tục sau đây:

+Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc
người có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã. Công chứng viên hoặc
người có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã phải ghi chép lại nội dung
mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký tên hoặc điểm chỉ vào
bản di chúc sau khi nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện
đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực
của UBND cấp xã ký vào bản di chúc.

+Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di
chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và
người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước công chứng viên hoặc
người có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã. Công chứng viên hoặc
người có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã chứng nhận bản di chúc
trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.

19
Tuy nhiên, một số trường hợp, Công chứng viên, người có thẩm quyền của UBND cấp
xã không được công chứng, chứng thực đối với di chúc nếu thuộc một trong các
trường hợp sau:

+Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;

+Người có cha, mẹ, vợ hoặc chống, con là người thừa kế theo di chúc hoặc theo
pháp luật;

+Người có quyền, nghĩa vụ về tài sản liên quan tới nội dung di chúc.

b. Di chúc miệng

Căn cứ theo quy định tại Điều 629 Bộ luật Dân sự 2015, di chúc miệng có thể được
lập trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc
bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng; sau 03 tháng kể từ thời điểm di chúc miêng
mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị
hủy bỏ.

Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người lập di chúc miệng thể hiện ý chí cuối
cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc
miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại và cùng ký tên hoặc
điểm chỉ.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí
cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng
thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.

1.4. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc và hiệu lực của di chúc

1.4.1. Sửa đổi, bổ sung, thay thế và hủy bỏ di chúc

Điều 662 Bộ Luật Dân sự quy định về sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc như
sau đây:
20
Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc vào bất cứ lúc nào.

 Trong trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần
bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và
phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật.
 Trong trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di
chúc trước bị huỷ bỏ.

Cụ thể là:

- Sửa đổi di chúc: Người lập di chúc thay thế một phần quyết định cũ của mình đối
với các phần trong di chúc trước đó. Sửa đổi di chúc thường sửa đổi ở các điểm sau:

+ Sửa đổi người được thừa kế;

+ Sửa đổi về quyền và nghĩa vụ cho người thừa kế;

+ Sửa đổi về câu chữ.

- Bổ sung di chúc: Người lập di chúc có quyền “bổ sung” di chúc đã lập. Phần bổ
sung là phần thêm vào nội dung của di chúc. Nếu người lập di chúc bổ sung di chúc,
mà phần di chúc bổ sung vẫn hợp pháp thì di chúc đã lập và phần di chúc bổ sung đều
có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, có những trường hợp nếu phần di chúc đã lập và
phần di chúc bổ sung mâu thuẫn với nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật.
Trường hợp này được coi là sửa đổi di chúc.

- Thay thế di chúc: Thay thế di chúc là việc người để lại di sản lập di chúc khác thay
thế cho di chúc cũ vì họ cho rằng những quyết định của mình trong di chúc trước
không còn phù hợp với ý chí của mình nữa. Do đó, di chúc trước coi như không có, vì
chính người lập di chúc hủy bỏ nếu như việc thay thế di chúc trong lúc họ còn minh

21
mẫn sáng suốt. Một người lập nhiều di chúc vào các thời điểm khác nhau mà nội dung
của các di chúc không phủ định lẫn nhau trong trường hợp này tất cả di chúc đều có
hiệu lực. Nếu nội dung phủ định nhau thì coi đó là thay thế di chúc.

- Hủy bỏ di chúc: Là việc người để lại thừa kế từ bỏ di chúc của mình bằng cách
không công nhận di chúc do mình lập ra là có giá trị. Trường hợp này được coi là
không có di chúc. Do vậy, di sản thừa kế được giải quyết theo quy định của pháp luật.
Việc hủy bỏ di chúc có thể được thực hiện như sau:

+ Người lập di chúc tự tiêu hủy tất cả di chúc đã lập;

+ Người lập di chúc lập một di chúc khác tuyên bố hủy di chúc đã lập.

1.4.2. Hiệu lực của di chúc

Theo quy định tại Điều 643 Bộ luật dân sự 2015 thì di chúc có hiệu lực từ thời điểm
mở thừa kế. Tuy nhiên, pháp luật chỉ xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc,
không có nghĩa là tại thời điểm người có di sản chết, di chúc phải được đem ra thi
hành. Việc công bố di chúc, phân chia di sản theo di chúc có thể thực hiện vào
thời điểm mà người thừa kế cảm thấy thích hợp.
Tuy nhiên, theo Điều 623 Bộ luật dân sự 2015, có quy định về thời hiệu thừa kế như
sau đây:
 Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản,
10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di
sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.

 Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác
bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

22
 Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để
lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

1.4.3. Di chúc vô hiệu

Điều 643 Bộ luật Dân sự 2015 quy định di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ
hoặc một phần trong các trường hợp:

 Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập
di chúc.
 Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời
điểm mở thừa kế. Trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người
chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ
quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào
thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ
chức này không có hiệu lực.
 Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào
thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì
phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.
 Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc
sau cùng có hiệu lực.

1.5. Di chúc chung của vợ, chồng và hiệu lực di chúc chung của vợ, chồng

1.5.1. Di chúc chung của vợ, chồng

Di chúc chung của vợ chồng là sự thể hiện ý chí của vợ chồng nhằm chuyển tài sản
chung của mình cho người thân sau khi chết.

23
Dựa trên cơ sở quy định của pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng, theo đó nếu
tài sản chung của vợ chồng thì “Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong
việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung” (Khoản 1, điều 20 Luật Hôn nhân
và gia đình 2014) pháp luật cho phép vợ chồng lập di chúc chung để định đoạt tài sản
chung.

1.5.2. Hiệu lực di chúc chung của vợ, chồng

Thông thường, di chúc có hiệu lực kể từ thời điểm mở thừa kế. Tuy nhiên, di chúc
chung của vợ chồng thì chỉ có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời
điểm vợ chồng cùng chết.

Việc pháp luật quy định hiệu lực đối với di chúc chung của vợ chồng nhằm đảm
bảo sự thống nhất ý chí của vợ chồng đối với việc định đoạt tài sản chung. Tuy nhiên
nếu một bên chết trước thì người còn sống vẫn vẫn có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên
quan đến phần tài sản của mình

1.5.3. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

Căn cứ Điều 644 bộ Luật dân sự 2015 quy định cụ thể về người thừa kế không phụ
thuộc vào di chúc, bao gồm:

 Con chưa thành niên của người để lại di sản: Độ tuổi thành niên được
xác định tại thời điểm người có di sản thừa kế chết (Thời điểm mở thừa
kế).

 Cha/mẹ của người để lại di sản: Cha, mẹ đẻ hoặc cha, mẹ nuôi của người
để lại di sản (Không bao gồm cha mẹ của vợ/chồng).

 Vợ/chồng của người để lại di sản: Vợ, chồng hợp pháp của người để lại
di sản, theo pháp luật về hôn nhân và gia đình.
24
 Con thành niên mà không có khả năng lao động của người để lại di sản.

Như vậy nếu không có tên trong di chúc nhưng thuộc các trường hợp trên thì mỗi
người sẽ được hưởng phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật
(nếu di sản được chia theo pháp luật). Quy định này nhằm bảo vệ cho những người có
cùng quan hệ huyết thống, hoặc quan hệ hôn nhân thân thiết, gần gũi với người để lại
di sản.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THỪA KẾ


THEO DI CHÚC VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT QUY
ĐỊNH VỀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC

2.1. Thực trạng giải quyết những tranh chấp về thừa kế theo di chúc tại Tòa án
nhân dân

Các tranh chấp dân sự xảy ra trong đời sống thực tiễn hết sức đa dạng trong đó tranh
chấp về thừa kế nói chung, tranh chấp về thừa kế theo di chúc nói riêng xảy ra ngày
một nhiều. Trước đây, do cuộc sống vật chất còn đơn giản, di sản thừa kế mà người
chết để lại chỉ đơn thuần là các vật phẩm tiêu dùng, cao hơn nữa là nhà cửa, đất đai.
Các danh tranh chấp đó là:

(1) Tranh chấp giữa người thừa kế theo luật với người thừa kế theo di chúc

(2) Tranh chấp giữa người khác với người thừa kế theo di chúc

(3) Tranh chấp giữa những người thừa kế theo di chúc với nhau

(4) Tranh chấp giữa những người thừa kế theo luật với nhau vì việc phân chia di sản
không đồng đều

25
(5) Tranh chấp về thừa kế vì những người thừa kế cho rằng có người thừa kế không
được quyền hướng di sản

(6) Tranh chấp thừa kế do xác định không chính xác về di sản thừa kế.

Dưới đây là một trong số những tranh chấp diễn ra trong thực tiễn: Tranh chấp về
hiệu lực của di chúc do di chúc lập không đúng thủ tục mà pháp luật đã quy định.

Bản án số 02/DSST ngày 10/10/2015 của TAND huyện S đã xét xử việc chia thừa
kế giữa nguyên đơn là ông N.H.T, sinh năm 1945 trú tại thôn L, xã T, huyện S, tỉnh Y.
Sau khi kết hôn, vợ chồng ông về sống tại thôn thôn L, xã T, huyện S. Nguồn gốc nhà
đất là của bố mẹ bà T cho vợ chồng ông. Năm 1980, ông bà có làm một căn nhà cấp 4 ,
đến năm 1995 vợ chồng ông lại xây tiếp nhà hai tầng nằm trên diện tích đất 736m2.
Năm 1983, vợ chồng ông đón anh M (là con riêng của ông về ở). Năm 2006, vợ chồng
ông nhận chị Nh làm con nuôi. Khối tài sản của vợ chồng ông gồm 736m2 đất thổ cư,
112,55m2 nhà hai tầng, 42092m2 nhà cấp bốn, 32,3m2 bếp, chuồng lợn, 12.6m2 công
trình phụ, một giếng nước, 39,52m2 sân gạch, 146,52m2 tường rào và tường hoa, 25
loại tài sản khác cùng với 26.317.000 đồng tiền mặt. Chị Nh xuất trình một bản di
chúc lập ngày 01/8/2014 với nội dung bà T định đoạt toàn bộ nhà đất cho chị Nh. Ông
T yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật vì ông cho rằng di chúc mà chị Nh xuất trình
không có hiệu lực pháp luật. Tòa sơ thẩm xét thấy di chúc mà chị Nh xuất trình là do
chị Nh trực tiếp viết và có hai người và có hai người là ông Tr và ông Đ ký làm chứng.
Tại lời khai ngày 14/9/2015 (bút lục số 15), ông Tr xác nhận di chúc của bà T là do gia
đình chị Nh đưa cho ông ký làm chứng sau khi bà T đã chết và nay ông xác định chữ
ký của ông tại bản di chúc là không có giá trị. Tòa sơ thẩm không chấp nhận di chúc
do chị Nh xuất trình nên di sản của bà T được chia thừa kế theo pháp luật.

Qua vụ tranh chấp trên, bản di chúc mà chị Nha xuất trình trước Tòa án là di chúc tự
lập nhưng trái với thủ tục mà pháp luật đã quy định đối với loại di chúc này (di chúc tự

26
lập phải do chính người để lại di sản viết). Ngoài ra, di chúc định đoạt toàn bộ nhà đất
cho chị Nh là đã định đoạt cả tài sản của người khác (tài sản của ông T) nên nội dung
của di chúc cũng không đúng pháp luật. Vì thế, Tòa sơ thẩm không chấp nhận di chúc
trên là hoàn toàn chính xác.

2.2 Thực trạng pháp luật quy định về các điều kiện có hiệu lực của di chúc

2.2.1 Về chủ thể lập di chúc

Pháp luật quốc tế hay pháp luật Việt Nam đều xác định rõ, người lập di chúc chỉ có
thể là cá nhân. Điều này được lý giải rằng “xã hội suy cho đến cùng là sản phẩm của
sự tác động qua lại giữa những con người”. Theo quan điểm này, số lượng các chủ thể
có thể thay đổi, biến chuyển để phù hợp với từng loại quan hệ nhưng chủ thể duy nhất
có thực là con người. Các hoạt động của pháp nhân đều thông qua cá nhân. Đối với
hoạt động lập di chúc, việc định đoạt tài sản luôn gắn liền với yếu tố ý chí của cá nhân.
Điều này càng khẳng định, ý chí phải được gắn với chủ thể có thực. Còn đối với các
chủ thể khác, sẽ rất khó để chúng ta có thể xác định được yếu tố ý chí chung cũng như
sự thống nhất ý chí khi định đoạt tài sản chung cho người khác.

Điều kiện về người xác lập giao dịch nói chung và người lập di chúc nói riêng
được Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định tại điểm a khoản 1 Điều 117 như
sau: “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao
dịch dân sự được xác lập”. Theo quy định này, người xác lập giao dịch phải có năng
lực pháp luật và năng lực hành vi. Đối với quá trình lập di chúc, ngoài việc tuân thủ
quy định chung về người xác lập giao dịch, pháp luật đặt ra các quy định riêng nhằm
khẳng định sự điều chỉnh tính đặc thù của quan hệ thừa kế. Cụ thể, Điều 624 BLDS
năm 2015 quy định: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của
mình cho người khác sau khi chết”. Quy định này đã chỉ rõ, người lập di chúc luôn
được pháp luật xác định chỉ có thể là cá nhân và cá nhân đó cũng phải thỏa mãn điều
kiện về năng lực pháp luật, năng lực hành vi khi lập di chúc. 
27
Điều 625 BLDS năm 2015 quy định về người lập di chúc như sau: Người thành niên
có đủ điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 630 của Bộ luật này có quyền
lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ
mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc
lập di chúc.

Theo quy định tại Điều 625 BLDS năm 2015, yếu tố khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi được xem xét cụ thể đối với các cá nhân như sau:

 Thứ nhất, đối với người thành niên

Độ tuổi thành niên ở Việt Nam được xác định là mười tám. Theo quy định tại Điều
625 BLDS năm 2015, người từ đủ mười tám tuổi sẽ được quyền lập di chúc nhưng
phải thỏa mãn điều kiện: minh mẫn, sáng suốt không bị lừa dối, cưỡng ép và đe dọa.
Điều này khẳng định, độ tuổi của cá nhân chỉ là điều kiện cần để cho phép thực hiện
quyền lập di chúc. Còn điều kiện đủ là cá nhân đó phải có khả năng nhận thức, điều
khiển hành vi theo quy định của pháp luật.

 Thứ hai, đối với người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi

Riêng đối với độ tuổi này, pháp luật không đặt ra quy định trực tiếp đến khả năng nhận
thức và điều khiển hành vi. Vì sự hình thành bản di chúc của chủ thể này trên thực tế
hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của cha, mẹ hoặc người giám hộ có đồng ý cho họ lập
di chúc hay không. Ở quy định này, chúng ta có thể hiểu rằng trách nhiệm của người
làm cha, mẹ hoặc giám hộ cũng được xác định gián tiếp trong việc đánh giá khả năng
nhận thức và điều khiển hành vi của người lập di chúc.

 Thứ ba, đối với người mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực
hành vi dân sự, khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi

Đối với người bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự: Tuy không quy định cụ thể
trong phần nội dung chế định liên quan tới di chúc, nhưng theo quy định tại khoản 1
28
Điều 22 BLDS năm 2015, thì “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh
khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có
quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định
tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định
pháp y tâm thần”, và khoản 2 Điều này quy định: “Giao dịch dân sự của người mất
năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện”. Như
vậy, có thể nói rằng, người mất năng lực hành vi dân sự không thể tự mình xác lập bất
cứ loại giao dịch nào, mọi nhu cầu lợi ích liên quan tới người này sẽ thông qua người
đại diện. Đối với việc lập di chúc, pháp luật đã quy định, quyền lập di chúc thuộc về cá
nhân người có tài sản, nhưng người mất năng lực hành vi dân sự không thể tự xác lập
giao dịch, cũng không thể thông qua người khác để thỏa mãn nhu cầu lợi ích của mình
về việc định đoạt tài sản bằng di chúc, do vậy, mọi “giao dịch dân sự của người mất
năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện”. 

 Người bị tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự

Theo quy định tại khoản 1 Điều 23 BLDS năm 2015, người hạn chế năng lực hành vi
dân sự là “người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài
sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ
quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự”. Khoản 2 Điều này quy định: “Việc xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng
lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch
nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác”.

Xét về bản chất, người hạn chế năng lực hành vi dân sự là người bị các chất kích thích
tác động tới hệ thần kinh trung ương khiến họ bị ảnh hưởng về khả năng nhận thức,
điều khiển hành vi dẫn đến phá tán tài sản của gia đình. Điều này làm ảnh hưởng tới
đời sống của gia đình và vì vậy, pháp luật mới quy định quyền, lợi ích của những

29
thành viên khác trong gia đình sẽ được bảo vệ khi yêu cầu Tòa án tuyên bố hạn chế
năng lực hành vi với họ. Các giao dịch không nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng
ngày, hoặc luật liên quan có quy định khác mà họ xác lập có thể bị tuyên bố vô hiệu
(nếu có yêu cầu). Chúng tôi cho rằng, di chúc là loại giao dịch cần đến khả năng nhận
thức, điều khiển hành vi một cách phù hợp của người lập ra nó và có hiệu lực khi
người này chết đi. Trong khi đó, việc tuyên bố cá nhân hạn chế năng lực hành vi dân
sự nhằm hạn chế việc xác lập các giao dịch có thể làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích
của các thành viên gia đình. Cho nên, di chúc do người bị tuyên bố hạn chế năng lực
hành vi dân sự lập ra không nên bị coi là giao dịch vi phạm điều kiện về chủ thể xác
lập giao dịch.

 Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Khoản 1 Điều 23 BLDS năm 2015 quy định: “Người thành niên do tình trạng thể chất
hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức
mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích
liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y
tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người
giám hộ”. Đây là quy định lần đầu tiên được ghi nhận trong BLDS năm 2015.

2.2.2 Về việc hủy bỏ di chúc

Hủy bỏ di chúc là việc người để lại di chúc, thông qua hành vi pháp lý hợp pháp để
tuyên bố tiêu hủy. Hoặc không công nhận tất cả các di chúc do mình đã lập trước đó.
Việc hủy bỏ di chúc là làm tiêu hủy hiệu lực pháp lý của di chúc trước. Nhưng không
bao hàm cả việc đưa ra một di chúc mới.

Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 (Điều 640) về sửa đổi, hủy bỏ di chúc
thì người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất

30
cứ lúc nào. Trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần
bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau. Nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ
sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực.                                             

Hiện nay, chưa có quy định củ thể về trình tự, cách hủy bỏ di chúc. Mà chỉ có quy
định về các phương thức hủy bỏ di chúc, bao gồm:

 Hủy bỏ minh thị di chúc

Là việc người lập di chúc thể hiện ý chí công khai bằng một văn bản. Nói rõ về việc
người lập di chúc không thừa nhận giá trị của di chúc do mình lập trước đó.

Người lập di chúc có thể hủy bỏ di chúc bằng hành vi cụ thể để tiêu hủy toàn bộ di
chúc đã được lập. Ví dụ như: Xé bỏ, đốt bỏ hay tiêu hủy bằng hình thức khác làm cho
di chúc không còn tồn tại trên thực tế.

 Hủy bỏ mặc nhiên di chúc

Là trường hợp người để lại di chúc đã định đoạt tài sản đó bằng di chúc. Nhưng sau đó
lại định đoạt đối với tài sản bằng môt hành vi pháp lý khác. Ví dụ: Tặng cho, mua bán,
cầm cố thế chấp, hay dùng tài sản bảo lãnh cho một nghĩa vụ mà sau đó tài sản đã bị
xử lý trả nợ. Thì hành vi này cũng được xem là hủy bỏ mặc nhiên (hủy bỏ gián tiếp)
đối với di chúc đã lập.
2.2.3 Về di chúc miệng

Khoản 5 Điều 630 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Di chúc miệng được coi là
hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất
hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng,
người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm
việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được
công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm
chỉ của người làm chứng.” Với quy định này, nếu không được công chứng hoặc chứng
31
thực trong thời hạn 05 ngày làm việc thì di chúc miệng sẽ mất hiệu lực có thể dẫn đến
hậu quả là di chúc không có giá trị pháp lý và tài sản sẽ không được chia theo di chúc
này theo đúng tâm tư, nguyện vọng của người để lại di chúc. Tuy nhiên, điều luật lại
không quy định cụ thể nghĩa vụ thực hiện việc công chứng hoặc chứng thực là do ai sẽ
thực hiện là người thừa kế được hưởng di sản hay những người làm chứng về việc để
lại di chúc theo quy định của pháp luật. Điều này gây ra cách hiểu khác sau, có ý kiến
xác định người hưởng di sản có thể thực hiện việc công chứng, chứng thực di chúc mà
đã được những người làm chứng ghi lại theo ý chí, tâm tư, nguyện vọng của người có
tài sản để lại. Ý kiến khác lại cho rằng, việc tiến hành công chứng hoặc chứng thực
này chỉ có thể do người làm chứng thực hiện (người thừa kế có thể đi cùng người làm
chứng).

Chính quy định chưa rõ nghĩa vụ công chứng, chứng thực nên việc đánh giá giá trị
của di chúc miệng trong thực tiễn sẽ khác nhau. Bên cạnh đó, nếu cho rằng bắt buộc
người làm chứng phải thực hiện việc công chứng, chứng thực thì nếu họ không thực
hiện dẫn đến di chúc bị vô hiệu thì quyền và lợi ích của những người thừa kế sẽ bị ảnh
hưởng nghiêm trọng. Trong trường hợp này, sẽ phát sinh trách nhiệm của người làm
chứng điều này là không hợp lý.

Như vậy, cần quy định rõ trách nhiệm công chứng, chứng thực di chúc miệng là
của người hưởng di sản. Điều này cũng không ảnh hưởng đến nội dung di chúc vì đây
chỉ là thủ tục đảm bảo sự quản lý của Nhà nước.

2.2.4 Về di chúc chung của vợ chồng

Theo nguyên tắc chung di chúc có hiệu lực kể từ thời điểm mở thừa kế (Khoản 1
Điều 667 “Bộ luật dân sự năm 2015”) nhưng Điều 668 “Bộ luật dân sự năm 2015” quy
định di chúc chung có hiệu lực kể từ thời điểm người sau cùng chết, vậy sẽ xảy ra
trường hợp người được chỉ định trong di chúc chết sau khi người vợ hoặc chồng chết
nhưng trước khi người sau cùng chết thì người thừa kế sẽ không được hưởng di sản
32
của người vợ hoặc chồng chết trước. Mặt khác nếu người vợ hoặc chồng sống lâu hơn
10 năm kể từ thời điểm người chồng hoặc vợ chết thì thời hiệu về thừa kế đã hết, cho
nên theo nguyên tắc chung người thừa kế theo di chúc mất quyền khởi kiện yêu cầu
chia di sản theo di chúc. Để phù hợp với lý luận và thực tế, cần quy định theo hướng là
nếu hai vợ chồng cùng lập di chúc mà một người chết thì phần di chúc của người đó có
hiệu lực pháp luật và phần di sản chỉ định trong di chúc thuộc quyền sở hữu chung
theo phần của người thừa kế với người vợ hoặc chồng còn sống, nhưng để đảm bảo
cho việc khai thác sử dụng tài sản chung của vợ chồng có hiệu quả pháp luật hạn chế
không cho người thừa kế theo di chúc yêu cầu chia tài sản chung.

Tuy nhiên, đến Bộ luật dân sự năm 2015 lại không quy định về việc lập di chúc
chung của hai vợ chồng và hiệu lực của di chúc khi vợ chồng lại không quy định về
vấn đề này nữa, mà chỉ quy định chung là” Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa
kế.

Di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong trường hợp sau đây:

+ Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di
chúc;

+ Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm
mở thừa kế.

Trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết
cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định
hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di
chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực. Di chúc sẽ
không có hiệu lực nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở
thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần
di sản còn lại vẫn có hiệu lực. Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh

33
hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực. Khi một
người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu
lực.

Do đó, có thể hiểu là tài sản thừa kế theo di chúc chung của hai vợ chồng được phân
chia thừa kế theo di chúc có hiệu lực từ thời điểm thừa kế sẽ gây ra nhiều cách hiểu
khác nhau khi mà chia di sản thừa kế.

2.3. Một số kiến nghị về hoàn thiện những quy định pháp luật về các điều kiện có
hiệu lực của di chúc

2.3.1. Kiến nghị hoàn thiện về chủ thể lập di chúc

Nên sửa Khoản 2 Điều 647 Bộ luật Dân sự: "Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ
mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý bằng
văn bản hoặc có bút tích của cha, mẹ hoặc có bút tích của người giám hộ vào cuối bản
di chúc. Sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ cho người từ đủ mười lăm tuổi
đến chưa đủ mười tám tuổi lập di chúc được thể hiện trước khi, trong khi hoặc sau khi
di chúc được lập ra đều có giá trị pháp lý".

Đồng thời bổ sung Khoản 3 Điều 647 Bộ luật Dân sự: "Quy định tại Khoản 2 Điều
luật này không được áp dụng đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự tại
Điều 23 của Bộ luật này".

2.3.2. Kiến nghị hoàn thiện về việc hủy bỏ di chúc

Theo quy định tại khoản 3 Điều 662 Bộ luật dân sự năm 2005 thì: "Trong trường hợp
người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị hủy bỏ". Như
vậy, pháp luật quy định có một hình thức hủy bỏ di chúc. Tuy nhiên, việc quy định
trên là chưa dự đoán hết các tình huống xảy ra trên thực tế, ví dụ như: Trường hợp
người lập di chúc thực hiện hành vi xé, đốt, tiêu hủy di chúc (có lập văn bản xác nhận
sự kiện này xảy ra) có được coi là họ đã hủy bỏ di chúc hay không? Hoặc sau khi lập
34
di chúc, người lập di chúc lập văn bản tuyên bố hủy bỏ di chúc, có xác nhận của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thì có được coi là người lập di chúc đã hủy bỏ di chúc
hay không?... Những trường hợp này đều cần phải được coi là người lập di chúc đã
hủy bỏ di chúc.

  Vì vậy, để việc áp dụng pháp luật được thống nhất, các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cần có hướng dẫn cho phù hợp, bổ sung các trường hợp này.

2.3.3. Kiến nghị hoàn thiện về di chúc miệng

Theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành, để thể hiện ý chí nhằm chuyển tài sản
của mình cho người khác sau khi chết, mỗi cá nhân có thể lập di chúc bằng cách lập
thành văn bản hoặc di chúc miệng. Mỗi hình thức của di chúc đều phải thỏa mãn
những điều kiện nhất định mới được xem là hợp pháp. Trong đó, theo quy định tại
Khoản 5 Điều 630 Bộ Luật dân sự 2015, di chúc miệng chỉ được xem là hợp pháp nếu
đáp ứng những điều kiện về hình thức sau đây:

Thứ nhất, người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất
hai người làm chứng;

Thứ hai, ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm
chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ;

Thứ ba, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý
chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền
chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.

Theo quan điểm người viết, việc quy định di chúc miệng phải thỏa mãn điều kiện thứ
hai và thứ ba nói trên trong mọi trường hợp sẽ gây khó khăn, hoặc thậm chí không thể
thực hiện được việc di chúc miệng trên thực tế trong một số tình huống. Bởi lẽ, người
lập di chúc miệng là những người đang ở trong tình trạng tính mạng bị cái chết đe dọa,
có thể là bệnh nặng sắp chết hay gặp hoạn nạn,…ở những địa điểm mà người làm
35
chứng không có đủ điều kiện để ghi chép, ký tên hoặc điểm chỉ ngay lập tức và tiến
hành thực hiện việc công chứng, chứng thực di chúc trong thời hạn 05 ngày làm việc.

2.3.4. Kiến nghị hoàn thiện về di chúc chung của vợ chồng

Cần bổ sung và sửa đổi theo hướng như sau:

+Về hình thức: Hình thức của di chúc chung vợ chồng nên được thực hiện bằng
văn bản, di chúc chung vợ chồng do vợ hoặc chồng viết còn người kia chỉ ký tên, điểm
chỉ vào từng trang của di chúc thì di chúc vẫn được coi là có hiệu lực pháp luật.

+Về sửa đổi, bổ sung di chúc chung của vợ chồng: Trong trường hợp này, di
chúc do nhiều người cùng lập, khác với di chúc do một cá nhân lập do đó sẽ có rất
nhiều vấn đề nảy sinh. Theo quy định chung thì người lập di chúc có thể lập di chúc
qua hình thức di chúc miệng hoặc di chúc bằng văn bản. Song ta thấy, các hình thức và
thủ tục để lập di chúc cá nhân không phải lúc nào cũng áp dụng phù hợp cho di chúc
chung vợ chồng. Do đó, di chúc chung vợ chồng cần được quy định thành một chế
định riêng chứ không thể áp dụng chung với di chúc do cá nhân lập. Vấn đề này chưa
được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005, đây là một thiếu sót cần được khắc
phục. Vì vậy, pháp luật nên quy định hình thức riêng cho di chúc chung của vợ chồng,
chứ không thể áp dụng như di chúc của cá nhân lập.

C. KẾT LUẬN

Qua trình bày và phân tích trong bài tiểu luận, ta có được cái nhìn tổng quan hơn về
hình thức của thừa kế di chúc trong pháp luật Việt Nam. Qua đó, ta đánh giá được thực
trạng các qui định của pháp luật về hình thức của di chúc, việc phân chia di sản thừa
kế. Để từ đó chỉ ra những điểm tiến bộ, điểm mới trong việc hình thành và phát triển
của pháp luật thừa kế. Vấn đề thừa kế nói chung và pháp luật thừa kế nói riêng từ lâu
đã không phải là vấn đề mới nhưng nó lại luôn mang tính thời sự và phát sinh nhiều

36
tình huống mới. Vì vậy, việc nghiên cứu và hoàn thiện các qui định thừa kế theo pháp
luật phải luôn được quan tâm và xem xét.

37
PHỤ LỤC

KẾ HOẠCH PHÂN CÔNG VIẾT TIỂU LUẬN

Mức độ
Nội dung hoàn thành Sinh viên hoàn thành
hoàn thành

PHẦN 1. PHẦN MỞ ĐẦU

Nội dung 1: Lý do chọn đề tài, mục tiêu,


Lê Thị Phương Anh Tốt
phương pháp nghiên cứu.
PHẦN 2. NỘI DUNG
Nội dung 2: Một số khái niệm Bùi Xuân Quỳnh Tốt
Nội dung 3: Đặc điểm di chúc Bùi Xuân Quỳnh Tốt

Nội dung 4: Các điều kiện có hiệu lực của


Nguyễn Thị Kim Anh Tốt
di chúc

Nội dung 5: Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy


Nguyễn Thị Kim Anh Tốt
bỏ di chúc và hiệu lực của di chúc
Nội dung 6: Di chúc chung của vợ, chồng
Đặng Châu Anh Tốt
và hiệu lực di chúc chung của vợ chồng

Nội dung 7: Thực trạng giải quyết những


tranh chấp về thừa kế theo di chúc tại Tòa án Đặng Châu Anh Tốt
nhân dân

Nội dung 8: Thực trạng pháp luật quy


định về các điều kiện có hiệu lực của di Lý Lê Nhật Hòa Tốt
chúc
Nội dung 9: Một số kiến nghị về hoàn thiện
những quy định pháp luật về các điều kiện
Nguyễn Ngọc Yên Bình Tốt
có hiệu lực của di chúc

PHẦN 3 . KẾT LUẬN

Nội dung 10: Biên tập lời kết luận. Lê Thị Phương Anh Tốt

TỔNG HỢP NỘI DUNG BÀI TIỂU Lý Lê Nhật Hòa Tốt


LUẬN, CHỈNH SỬA HOÀN THIỆN
Nguyễn Thị Kim Anh

TÀI LIỆU THAM KHẢO


https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Hien-phap-1992-cong-hoa-xa-
hoi-chu-nghia-Viet-nam-38238.aspx
https://stp.bacgiang.gov.vn/hien-thi-noi-dung/-

https://luathoangsa.vn/quyen-cua-nguoi-lap-di-chuc-dieu-626-nd66861.html

http://luatthuake.vn/cac-hinh-thuc-cua-di-chuc-108-a8ia.html

http://www.lapphap.vn/Pages/TinTuc/210845/Noi-dung-cua-di-chuc-theo-quy-dinh-
cua-Bo-luat-Dan-su-nam-2015.html

https://tuvan.luatthaian.vn/sua-doi-bo-sung-thay-the-huy-bo-di-chuc.html

https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/phap-luat-ve-thua-ke-va-thuc-tien-giai-quyet-
tranh-chap-tai-toa-an

http://asvlaw.net/nhung-truong-hop-khong-co-ten-trong-di-chuc-van-duoc-huong-
thua-ke/

https://danluat.thuvienphapluat.vn/%e2%80%9cdi-chuc-mieng%e2%80%9d-bat-cap-
va-khuyen-nghi-hoan-thien-176708.aspx

http://fdvn.vn/luan-van-thac-si-cac-dieu-kien-co-hieu-luc-cua-di-chuc-theo-quy-dinh-
cua-bo-luat-dan-su/

https://thegioiluat.vn/bai-viet-hoc-thuat/tieu-luan-mot-so-bat-cap-trong-cac-quy-dinh-
cua-bo-luat-dan-su-ve-thua-ke-theo-di-chuc-9481

You might also like