Professional Documents
Culture Documents
KN TDST
KN TDST
Biên soạn:
ThS. NCS. Mai Mỹ Hạnh
TS. Đỗ Tất Thiên
ThS. NCS. Nguyễn Thị Diễm My
Sáng tạo được xem là dạng hoạt động cao nhất của con người. Năng lực sáng tạo là
cốt lõi của hoạt động sáng tạo, làm tiền đề bên trong của sáng tạo, hoạt động sáng tạo đặc
biệt được dựa trên chất lượng của năng lực tư duy, tưởng tượng, trí nhớ, xúc cảm, động
cơ và ý chí. Sáng tạo bao gồm ba tính chất cơ bản:
Tính mới mẻ
Sáng tạo phải tạo ra cái gì đó “mới mẻ”. Cái mới có thể mới đối với cá nhân hoặc đối
với xã hội. Sáng tạo ở trẻ em, ở người lớn và ở bất kỳ đối tượng nào cũng có ý nghĩa
nhưng nó chỉ khác nhau ở vấn đề cần giải quyết, trình độ tự lập trong các giai đoạn của
quá trình sáng tạo nhưng về cơ chế, tiến trình là tương tự nhau.
Tính độc lập – tự lập
Tính độc lập – tự lập có nghĩa là không bị chi phối bởi ý kiến người khác. Chủ động
và tự lập tìm ra cái mới, ý tưởng mới. Nhưng nó không đồng nghĩa với tính cá nhân hay
sự đơn độc mà vẫn có thể có sự phối hợp với nhiều cá nhân khác dù rằng mỗi cá nhân
vẫn giữ được sự độc lập của mình trong sư phối hợp.
Quá trình giải quyết vấn đề một cách độc lập – tự lập bao gồm các khâu: Nhận ra, giải
quyết và kiểm tra, đánh giá giải pháp giải quyết vấn đề.
Tính có lợi
Sáng tạo phải tạo ra cái mới nhưng cái mới phải đảm bảo tính hiện thực, phục vụ cho
lợi ích của con người và xã hội. Sáng tạo không phủ nhận hiện thực mà là sự phản ánh
hiện thực tối đa trong tình huống mới, chất lượng mới và mục đích mới để tạo ra cái mới
độc đáo hơn và có lợi hơn quay về phục vụ cho thực tiễn cuộc sống.
1.3. CẤP ĐỘ CỦA SÁNG TẠO
Sáng tạo ở mức độ rất thấp: “Nhận ra nhu cầu cần có cách tiếp cận mới”.
Biểu hiện cơ bản ở mức độ này là cá nhân có khả năng vui vẻ đón nhận ý tưởng mới.
Khi đối diện với tình huống có vấn đề, họ sẽ chủ động xem xét lại cách tiếp cận truyền
thống và tìm các giải pháp có thể có. Đồng thời, họ nhận ra lúc nào cần một cách tiếp cận
mới, tham khảo các nguồn thông tin khác nhau để hướng về cách tiếp cận mới.
Sáng tạo ở mức độ thấp: “Thay đổi các cách tiếp cận hiện có”.
Đây là cấp độ cao hơn, biểu hiện đặc trưng ở cấp độ sáng tạo này là cá nhân có khả
năng phân tích những điểm mạnh và điểm yếu của các cách tiếp cận mà bản thân đang sử
dụng để giải quyết vấn đề. Đặc trưng rõ hơn là họ có thể thay đổi và làm cho các cách
tiếp cận đang sử dụng thích hợp hơn với yêu cầu. Họ cũng có khả năng nhận diện được
các giải pháp khác nhau dựa vào những gì đã biết. Sau khi xem xét dưới nhiều góc độ
khác nhau và cân nhắc về những điểm mạnh và điểm yếu của các cách tiếp cận thì cuối
cùng họ sẽ chọn được giải pháp tối ưu.
Sáng tạo ở mức độ trung bình: “Đưa ra cách tiếp cận mới”.
Ở cấp độ sáng tạo này cá nhân thể hiện rõ ràng hơn sự tích cực nhằm giải quyết vấn
đề một cách linh hoạt hơn. Họ có khả năng tìm kiếm các ý tưởng hoặc giải pháp đã có tác
dụng trong các môi trường khác để áp dụng chúng cho vấn đề của mình. Nổi bật ở mức
độ sáng tạo này là họ có thể vận dụng các giải pháp đang có theo cách mới lạ hơn nhằm
giải quyết vấn đề với hiệu quả cao hơn. Cuối cùng, họ có khả năng định hướng và lập kế
hoạch để tiếp tục vận dụng các giải pháp đang có theo vài cách mới lạ khác để giải quyết
các vấn đề khác nhau.
Sáng tạo ở mức độ khá: “Tạo ra khái niệm mới”.
Ở mức độ này cá nhân có thể bộc lộ việc tạo ra giải pháp mới từ việc tổng hợp các
khái niệm cần thiết để tư duy. Họ tích cực trong việc ạo ra các mô hình và phương pháp,
sản phẩm mới cho bản thân/ tổ chức của mình. Họ có khả năng đánh giá tính hiệu quả và
linh hoạt của các giải pháp được sử dụng, nhận diện được sự phù hợp hay không phù hợp
của giải pháp với tiêu chuẩn về chuyên môn và môi trường công việc.
Sáng tạo ở mức độ cao: “Nuôi dưỡng sự sáng tạo”.
Biểu hiện đặc trưng ở mức độ này là cá nhân có khả năng phát triển một môi trường
nuôi dưỡng tư duy sáng tạo, luôn kích thích mọi người thi đua tìm tòi các giải pháp sáng
tạo. Họ không chỉ có khả năng tự giải quyết vấn đề một cách mới mẻ mà còn khuyến
khích được mọi người thử nghiệm ý tưởng mới khác hẳn cách làm truyền thống. Họ luôn
tích cực trong việc truyền cảm hứng và phương pháp sáng tạo cho cá nhân khác. Đồng
thời, họ luôn chủ động hỗ trợ cho việc thử nghiệm ý tưởng mới nhằm biến ý tưởng thành
hiện thực. Đặc biệt, họ luôn nổi lực thực thi được các ý tưởng, biến ý tưởng thành hiện
thực bằng các kế hoạch cụ thể và khoa học. Cuối cùng, họ có được những sản phẩm cụ
thể có lợi cho bản thân và cho xã hội.
Như vậy, cùng hướng đến tư duy sáng tạo, nhưng mỗi cá nhân có thể thuộc về cấp độ
này hay cấp độ khác. Cần lưu ý rằng, nếu cá nhân hiểu được vai trò của sự đổi mới, sự
sáng tạo đối với công việc để từ đó chăm chỉ rèn luyện phương pháp sáng tạo thì có thể
dần chuyển đổi từ cấp độ rất thấp lên cấp độ cao hơn.
1.4. NHỮNG YẾU TỐ CẢN TRỞ QUÁ TRÌNH TƯ DUY SÁNG TẠO
Khi muốn tư duy sáng tạo nhằm giải quyết một vấn đề , cá nhân thường phạm sai lầm
là cố gắng ngồi một chỗ và tập trung suy nghĩ về vấn đề đó để tìm kiếm phươn án giải
quyết một cách mới mẻ. Cần lưu ý rằng, kỹ năng tư duy sáng tạo cần một cái gì đó phóng
khoáng, thoáng đãng, tinh thần thoải mái, tĩnh tâm, chứ không phải “vò đầu bức tóc”,
căng thẳng hoặc tự tạo áp lực thì rất khó tìm ra giải pháp mới.
Việc tập trung suy nghĩ, phân tích vấn đề là thao tác đầu tiên cần thực hiện để tư duy
sáng tạo. Việc phân tích này giúp cá nhân tìm kiếm đầy đủ các dữ kiện có liên quan bao
gồm những cái đã cho và những cái chưa có, những cái cần tìm. Giai đoạn này cần thực
hiện từ 30 phút đến 60 phút, để vấn đề được đi vào “tiềm thức”. Sau đó, cần thực hiện
một vài hoạt động yêu thích để tâm lý được thoải mái, nguyên tắc cần lưu ý là tinh thần
càng thoải mái, càng hứng thú thì càng dễ “kích hoạt” não tư duy một cách tích cực hơn.
Khi suy nghĩ tự do và tâm trạng thực sự thoải mái hơn thì lúc đó tiềm thức lưu tâm đến
vấn đề đó nhưng không căng thẳng quá. Điều kiện này dẫn đến quá trình tư duy sáng tạo
ra cách giải quyết. Có thể thấy điều này ở câu chuyện về Achimet. Ông ta đã dành hàng
tháng trời suy nghĩ nhưng không tìm được giải pháp. Nhưng chỉ khi ông ta đi tắm thì ông
ta mới bất chợt sáng kiến ra lời giải và đã vui mừng tột độ đến nỗi chạy ra ngoài la lên
“Eureka! Eureka!” mà quên rằng mình không mặc quần áo.
Muốn sáng tạo hiệu quả thì cá nhân cần giữa tinh thần lạc quan, tư duy tíc cực. Thực
tế cho thấy, những cá nhân có tính tình vui vẻ và luôn tươi cười, thì khả năng sáng tạo
của họ nhiều hơn so với những người bình thường khác. Ngược lại, những cá nhân sống
nội tâm, bi quan thì sự sáng tạo kém hơn do họ thường rơi vào trạng thái căng thẳng tâm
lý hay lo âu quá mức. Có thể thấy điều đó ở Albert Einstein, nhà khoa học tài ba nhất của
nhân loại. Ông ta luôn thể hiện mình là một người vui vẻ, có khiếu hài hước.
Lắng nghe và chia sẻ thông tin cũng tạo ra cho cá nhân những cơ hội phát triển tư duy
sáng tạo. Cá nhân cần hòa đồng với mọi người, thiết lập các mối quan hệ trong cuộc
sống, linh hoạt học hỏi và tích lũy kinh nghiệm từ cá nhân khác, từ đó chúng ta mới có
được tầm hiểu biết rộng, linh động và tạo cho ta kỹ năng sống và khả năng ứng phó tốt
với mọi tình huống. Nhiều khi giải pháp trong ngành nghề này lại tạo ra một giải pháp
mới mẻ cho ngành nghề khác.
Ngoài ra,cá nhân phải tích cực làm những việc mới mẻ mỗi ngày, ví dụ như: bình
thường thì chúng ta đánh răng bằng tay phải, thì có thể đổi qua đánh bằng tay trái. Hoặc
chọn một con đường khác về nhà, thay vì đi con đường quen thuộc hàng ngày. Hoặc đến
một quán ăn, một quán cafe nào đó, mà bạn chưa bao giờ đến. Những điều đó sẽ kích
thích cho việc tư duy, sáng tạo một cách hiệu quả.
Bí quyết tạo nên sự sáng tạo chỉ gói gọn trong những yếu tố sau:
Nhu cầu khám phá và đặt vấn đề cho mình: Nhu cầu là một yếu tố quan trọng thúc
đẩy con người hoạt động. Nhu cầu bắt gặp đúng đối tượng sẽ trở thành động cơ. Chính
động cơ là lực đẩy khiến cá nhân tìm kiếm được những cách thức và phương pháp mới
cho vấn đề của mình.
Sự tự tin: Tự tin giúp cá nhân mạnh dạn nêu ý tưởng và thực thi ý tưởng mới mẻ. Sự
tự tin này bắt nguồn từ việc cá nhân nhận thức được những tiềm năng và thế mạnh của
bản thân.
Tự rèn luyện và ý chí: Phấn đấu vượt qua khỏi lối mòn tư duy là cách thức để phát
triển khả năng sáng tạo. Để thực thi một ý tưởng không hề đơn giản, nhất là những ý
tưởng mới luôn có những yếu tố chủ quan và khách quan chi phối.
Biết hoài nghi và không vâng lời: Văn hóa Phương Đông khiến cá nhân khó khăn thể
hiện “cái tôi” và “hòa vào tập thể”. Cá nhân thoát khỏi rào cản này là động lực để phát
triển năng lực sáng tạo và cá tính của bản thân. Nhưng điều này không có nghĩa cá nhân
phải biến mình thành người bảo thủ. Việc biết lắng nghe và tiếp thu những điều phù hợp
sẽ giúp mình vượt qua khỏi tính ỳ của tư duy sáng tạo.
Cảm xúc – phải đam mê, hứng thú với vấn đề, với công việc thì mới nảy sinh được ý
chí và khao khát phát triển, tìm kiếm cái mới.
Luôn chủ động đạt câu hỏi cho chính bản thân mình và người khác: “Có phải là cái
(giải pháp) tốt nhất chưa? Còn giải pháp nào tốt hơn? Làm sao để cải thiện thêm?...”
Bài 2. ĐỘT PHÁ Ý TƯỞNG BẰNG CÁC THỦ THUẬT TƯ DUY SÁNG TẠO
2.1. CÔNG NÃO
Bước 5: Sau khi kết thúc tập kích, hãy lượt lại tất cả và bắt đầu đánh giá các câu trả lời.
Một số lưu ý về chất lượng câu trả lời bao gồm:
Kiếm những câu ý trùng lặp hay tương tự;
Nhóm các câu trả lời có sự tương tự hay tương đồng về nguyên tắc hay nguyên
lý;
Xóa bỏ những ý kiến hoàn toàn không thích hợp;
Sau khi đã cô lập được danh sách các ý kiến, hãy bàn cãi sâu thêm về các câu trả
lời. Cùng nhau thảo luận những ý tưởng thích hợp nhất với vấn đề đưa ra “công
não” để nhằm chọn ra ý tưởng “đắc” nhất.
2.1.4. Ưu, nhược điểm của phương pháp
Ưu điểm:
Không hạn chế số người;
Có thể ứng dụng trong tình huống mà các thành viên trong nhóm có khoảng cách xa về
địa lý thông qua mạng internet như Webcam, Skype…
Dụng cụ đơn giản: giấy, bút, bảng ghi…
Ý tưởng đa dạng;
Tôn trọng ý kiến của nhau;
Kích thích sự năng động, sáng tạo.
Nhược điểm:
Nếu không được điều hành một cách hợp lý thì sẽ mất nhiều thời gian của nhóm;
Các quy tắc không được thực hiện nghiêm chỉnh dễ gây ra bất đồng ý kiến.
Trải nghiệm: Hãy chọn những chiếc lá thật sự khác nhau (nếu các chiếc lá trùng nhau
vẫn có thể tiến hành). Mỗi chiếc lá sẽ thuộc về một người trong nhóm hoặc tuần tự bày
trước mặt bạn (nếu chỉ có một người). Mỗi lượt chơi sẽ nói một dấu hiệu, đặc điểm nào
đó về chiếc lá sao cho các ý kiến phải khác nhau. Cứ thực hiện cho đến khi nào không thể
nói được nữa. Bạn sẽ thu âm hoặc nhờ người ghi chép lại tất cả những ý kiến. Bạn sẽ
thực sự thán phục mình hoặc thán phục những người cùng chơi. Chính bạn cảm nhận
được sự phát triển sau khi chơi trò chơi này dẫu ở bất kỳ vị trí gì đi nữa.
Bài tập:
Hãy tìm một từ đơn mà bạn thích, ghép thật nhiều từ với từ đơn ấy sao cho tạo thành
nhiều từ có nghĩa.
Tìm những hình ảnh trên mạng internet thật lạ mắt, hãy đặt tên cho những hình ảnh đó,
càng nhiều càng tốt và những hình ảnh đó phải khác nhau.
Hãy dùng một quả banh thật tròn và lăn thật nhanh, bạn cùng với những người bạn ngồi
để bàn luận về một vấn đề nào đó. Khi quả banh lăn đến ai, người đó phải tích cực
phát biểu nhanh chóng.
2.2. LIÊN TƯỞNG - TƯƠNG TỰ
Nhóm trưởng sẽ phân chia màu chiếc nón cho từng nhóm hoặc từng cá nhân tùy theo
tính chất của vấn đề cần giải quyết. Mỗi chiếc mũ sẽ có thời gian tập trung ý. Tuy nhiên,
khi cần thiết, bất kỳ thành viên nào cũng có thể góp ý thêm cho chiếc mũ khác với câu
nói: “Tôi xin bỏ chiếc mũ màu… trên đầu của mình và đội chiếc mũ màu… để được góp
thêm ý kiến!”.
Bước 1:
Mũ trắng: Tất cả các ý kiến nào chỉ chứa sự thật, bằng chứng, hay dữ kiện, thông tin.
Đội mũ này có nghiã là “hãy cởi bỏ mọi thành kiến, mọi tranh cãi, cởi bỏ mọi dự định và
hãy nhìn vào cơ sở dữ liệu”
Bước 2:
Mũ xanh lá cây: Tạo ra các ý kiến làm sao để giải quyết. Các sáng tạo, các cách thức
khác nhau, các kế hoạch, các sự thay đổi.
Bước 3:
Đánh giá các giá trị cuả các ý kiến trong mũ xanh lá cây.
Viết ra danh mục các lợi ích dùng mũ vàng.
Mũ vàng: Tại sao vài ý kiến sẽ chạy tốt và tại sao nó mang lại lợi ích. Ở đây cũng có
thể dùng về các kết quả cuả các hành động được đề xuất hay các đề án. Nó còn dùng để
tìm ra những vật hay hiệu quả có giá trị cuả những gì đã xảy ra.
Viết các đánh giá, và các lưu ý trong mũ đen.
Đây là mũ có giá trị nhất. Dùng để chỉ ra tại sao các đề nghị hay ý kiến không thích
hợp (hay không hoạt động được) cùng với các dữ kiện, với kinh nghiệm sẵn có, với hệ
thống đang hoạt động, hoặc với chế độ đang được theo. Nón đen lúc nào cũng phải tính
đến sự hợp lý.
Bước 4: Viết các phản ứng, trực giác tự nhiên và các cảm giác xuống.
Mũ đỏ cho phép người suy nghĩ đặt xuống các trực cảm mà không cần bào chữa.
Bước 5: Tổng kết và kết thúc buổi làm việc
Mũ xanh da trời là sự nhìn lại các bước trên hoặc là quá trình điều khiển. Nó sẽ không
nhìn đến đối tượng mà là nghĩ về đối tượng (thí dụ như ý kiến “đội cho tôi cái mũ xanh lá
cây, tôi cảm giác rằng có thể làm được nhiều hơn về cái mũ xanh này”).
Lưu ý: Các bước trên không hoàn toàn nhất thiết phải theo đúng thứ tự như nêu trên
mà ở nhiều trường hợp nên chỉnh lại theo thứ tự như sau:
Trắng -> Đỏ -> Đen -> Vàng -> Xanh lá cây -> Xanh da trời.
Nguyên tắc phương pháp sáu chiếc mũ tư duy [5]
a. Nền tảng của phương thức tư duy đồng thuận là vào bất cứ thời điểm nào, mọi người
đều nhìn vấn đề ở cùng một hướng. Nhưng hướng này có thể thay đổi.
Một nhà thám hiểm có thể được yêu cầu bắt đầu cuộc hành trình từ hướng Bắc, hoặc
hướng Đông. Đây là hai hướng tiêu chuẩn. Khi giải quyết vấn đề, chúng ta cũng cần
những hướng chuẩn để tư duy. Vậy những hướng chuẩn khác nhau để mọi người cùng
xem xét vấn đề là gì?
Những chiếc mũ sẽ biểu thị những hướng này. Ở nhiều quốc gia, luôn tồn tại mối liên
hệ chặt chẽ giữa kiểu tư duy và "những chiếc mũ tư duy". Mỗi chiếc mũ biểu thị một kiểu
tư duy. Mỗi người lựa chọn cho mình một chiếc mũ nhất định. Nhưng người đó hoàn
toàn có thể thay mũ khác. Những chiếc mũ cũng là những vật xung quanh mà ta thường
thấy. Vì những lý do đó, tôi chọn chiếc mũ biểu thị hướng tư duy.
Tuy nhiên, tôi không đề cập đến những chiếc mũ mà chúng ta vẫn thường đội khi ra
khỏi nhà. Đây là những chiếc mũ của trí tưởng tượng. Thỉnh thoảng trong phòng họp
người ta cũng dựng những tâm áp phích vẽ hình chiếc mũ, đây cũng là một cách để
chúng ta tưởng tượng về phương hướng. Có sáu sắc màu tương ứng với sáu chiếc mũ:
trắng, đỏ, đen, vàng, xanh lá cây và xanh da trời.
b. Phương hướng chứ không phải sự miêu tả
Cần phải chú tâm rằng những chiếc mũ chỉ phương hướng và không mô tả sự việc xảy
ra. Nó hoàn toàn khác với việc mọi người định nghĩa sẵn tình huống và sử dụng chiếc mũ
để mô tả điều họ đã định nghĩa. Chiếc mũ được chọn, và mọi người xem xét sự việc theo
hướng đó. Khi mọi người được yêu cầu đội mũ màu trắng, nó đồng nghĩa với việc mọi
người sử dụng thông tin để xem xét tình huống. Mọi người đưa ra những thông tin cần
thiết, đặt câu hỏi và xem xét vấn đề. Với chiếc mũ đỏ, mọi người sẽ dựa vào cảm giác, trực
giác và cảm xúc để xem xét tình huống. Chiếc mũ đen đồng nghĩa với việc hãy cẩn trọng
chỉ ra những khó khăn tiềm tàng của sự việc để tìm cách chuyển hướng sang chiếc mũ
vàng (cân nhắc đến lợi ích, giá trị và những mặt tích cực).
Một điều vô cùng quan trọng là việc nhận ra được sự khác nhau giữa sự mô tả và việc
định hướng. Mô tả đồng nghĩa với việc định nghĩa trước sự việc. Trong khi đó xác định
hướng xem xét sự việc là gì. Cách nói "Tôi muốn anh nhìn nó từ hướng Bắc" khác hẳn với
câu "Anh đang nhìn từ hướng Bắc đấy!". Cũng tương tự như vậy, câu "Tôi muốn anh làm
món trứng bác" khác hẳn với câu "Tôi thấy anh đã làm món trứng bác".
c. Chiếc mũ không nói lên bản chất con người
Chúng ta có thể tiến hành những trắc nghiệm khác nhau để dựa vào đó xác định xem
người này thuộc tuýp người A hay B. Các nhà tâm lý học luôn làm theo cách này. Vấn đề
nằm ở chính việc phân nhóm này: mọi người khi được xác định sẵn là tuýp A hay B, họ
thường có khuynh hướng điều khiển bản thân phù hợp với tuýp đó. Đây là một minh
chứng nữa cho kiểu tư duy áp đặt thay cho kiểu tư duy đồng thuận.
Theo lối tư duy truyền thống, nếu chúng ta xem một cuộc thi chạy, mọi người cho
rằng người gầy thường về đích trước người béo. Nhưng kết quả có thể ngược lại nếu
chàng mập kia tập luyện xe đạp để tăng sự bền bỉ - theo cách tư duy đồng thuận.
Mọi người thường có xu hướng dựa vào "chiếc mũ đội đầu" để kết luận bản chất con
người, nhận xét người này là thuộc kiểu mũ xanh lá cây, người kia thuộc kiểu mũ xanh lá
cây, người kia thuộc kiểu mũ xanh da trời! Chúng ta cần tránh lối tư duy như vậy.
Chiếc mũ chỉ diễn tả cách thức cư xử của con người, không nói lên bản chất con
người. Trên thực tế, một số người thường có khuynh hướng tư duy cẩn trọng, luôn thấy
hiểm hoạ rình rập. Một số người lại có lối tư duy hời hợt, số khác lại chỉ chăm chăm vào
con số thực tế. Một người có thể thích lối tư duy này hơn lối tư duy khác hoặc có ưu thế
với những lối tư duy nhất định. Nhưng tuyệt nhiên chiếc mũ đội đầu không nói lên bản
chất con người.
Nếu bạn điều khiển chiếc ô tô với cần số tay, bạn có thể đi số nào mà bạn muốn. Động
cơ ô tô của bạn được thiết kế cho phép bạn làm như vậy. Tương tự như thế, mọi người
đều có thể và đủ khả năng nhìn mọi hướng.
Với những lý do vừa nêu, chúng ta không nên chụp cho mỗi người những chiếc mũ
nhất định. Cách nhìn nhận như vậy phá hủy toàn bộ hệ thống tư duy sáu chiếc mũ -
phương thức tư duy cho phép mọi người đều có thể nhìn mọi hướng.
d. Tại một thời điểm nhất định, mọi người phải đội mũ cùng màu
Trong một cuộc họp, một người chọn cho mình chiếc mũ đen, người kia chọn cho
mình chiếc mũ trắng, người khác lại chọn mũ khác và họ đội chiếc mũ đó suốt cả buổi
họp. Điều đó đi ngược lại cách sử dụng phương thức sáu chiếc mũ tư duy - lối tư duy
đồng thuận. Lối tư duy đồng thuận tập trung kinh nghiệm và sự khôn khéo của mọi người
theo cùng một hướng. Vào một thời điểm, mọi người đều đội chiếc mũ đen, lúc khác lại
cùng đội chiếc mũ trắng. Lối tư duy đồng thuận phát huy tối đa kinh nghiệm và sự khôn
khéo của mọi người.
2.6.5. ỨNG DỤNG
Ứng dụng của phương pháp sáu chiếc mũ tư duy:
Kích thích suy nghĩ song song.
Kích thích suy nghĩ toàn diện.
Tách riêng cá tính (như là bản ngã, các thành kiến …) và chất lượng.
Đào tạo về sáng tạo, điều phối cuộc họp, quản lý cuộc họp.
Tăng năng suất làm việc và trao đổi trong nhóm.
Cải tiến sản phẩm và quá trình quản lý dự án.
Phát triển tư duy phân tích, và ra quyết định.
Có những người tìm đủ mọi cách để làm thay đổi tính cách của người khác. Họ tin
rằng nếu họ chỉ ra những điểm yếu của người khác, thì người đó sẽ tìm cách hoàn thiện
bản thân. Cách nghĩ như vậy thường phát huy hiệu quả kém hoặc chẳng có hiệu quả gì.
Khi áp đặt tính cách cho một người, thì những hành động họ sẽ làm thiên về thể hiện tính
cách đó. Các nhà triết học thường chú trọng phân tích các sự việc để tìm ra bản chất và
động lực phát triển của chúng.
Trong khi đó, quan điểm của Nho giáo lại hoàn toàn trái ngược. Nho giáo không đề
cao bản chất của mỗi cá nhân mà chỉ quan tâm tới hành vi ứng xử. Nho giáo giúp chúng
ta có những hành vi ứng xử phù hợp với đồng nghiệp, với cấp dưới, cấp trên và với người
thân mà không cần quan tâm tới tính cách cũng như những biểu hiện tâm lý của họ như
thế nào. Phương thức tư duy "Sáu chiếc mũ" thiên về kiểu tư duy của Nho giáo hơn là
triết học. Nó đặt ra những luật ứng xử mà mọi người bắt buộc phải tuân theo. Nếu có thể,
bạn cứ thể hiện hết khả năng của mình, nhưng bạn phải tuân theo luật. Với việc đưa ra
những hành vi ứng xử phương thức tư duy "Sáu chiếc mũ" dễ dàng được chấp nhận hơn
là việc thay đổi bản chất cá nhân. Ưu điểm của phương thức này: nhanh chóng và hiệu
quả.
Khía cạnh "trò chơi" trong lối tư duy này là rất quan trọng. Khi "trò chơi" bắt đầu, nếu
ai không tuân theo luật chơi, người đó được xem như là không hợp tác. Khi mọi người
chuyển từ chiếc mũ đen (cẩn trọng) sang chiếc mũ vàng (lợi ích tiềm ẩn), nếu bạn vẫn
khăng khăng đội mũ đen, bạn sẽ bị loại. Việc cuốn mọi người vào "trò chơi" là một cách
vô cùng hiệu quả để thay đổi hành vi ứng xử của mọi người.
Cùng với thời gian, hiệu quả của việc áp dụng phương thức tư duy "Sáu chiếc mũ"
càng được thể hiện rõ ràng thông qua những phản hồi từ những người áp dụng.
Có bốn ưu điểm chính sau đây:
Phát huy sức mạnh tập thể
Với phương thức tư duy "Sáu chiếc mũ", kiến thức và kinh nghiệm của từng cá nhân,
nhóm được phát huy thành sức mạnh tập thể. Nó hình thành thông qua việc tất cả mọi
người xem xét và giải quyết sự việc theo cùng một hướng.
Không giống với việc mọi người cùng nhau tranh luận như ở các toà án, để giành
được phần thắng - để đạt được điều này, có khi họ sẵn sàng bưng bít những thông tin có
lợi cho đối phương, tất cả mọi người tập trung lại nhằm giải quyết vấn đề một cách dễ
dàng. Hãy tưởng tượng xem, có kim loại nào lại không nóng chảy khi bị nung ở nhiệt độ
tuyệt đối![5]
Tiết kiệm thời gian
Tập đoàn Optus (Úc) trải qua bốn tiếng đồng hồ để đi đến quyết định trong một cuộc
họp quan trọng. Áp dụng phương thức tư duy "Sáu chiếc mũ", thời gian rút xuống chỉ còn
45 phút.
Tất cả mọi người khi áp dụng phương thức tư duy này đều thông báo rằng họ tiết
kiệm được rất nhiều thời gian bàn bạc. Có những cuộc thảo luận được rút ngắn xuống
1/2, 1/3, 1/4, thậm chí là 1/15 (như trường hợp của tập đoàn ABB).
Theo điều tra tại Mỹ, lãnh đạo của các tập đoàn tốn mất gần 40% thời gian cho các
cuộc thảo luận. Nếu áp dụng phương thức tư duy "Sáu chiếc mũ", họ có thể giảm tới 75%
thời gian hội họp, do đó tăng thêm 30% thời gian làm việc mà chẳng tốn một đồng chi
phí nào.
Theo kiểu tư duy truyền thống, hoặc tranh luận, bạn sẽ phản bác lại những quan điểm
khác bạn, đôi khi bằng những cách bất lịch sự.
Nhưng với lối tư duy đồng thuận, mọi người luôn nhìn về cùng một hướng. Những
quan điểm được đặt tương đồng. Sự việc sẽ nhanh chóng được giải quyết. Thông thường,
khi hai người có hai quan điểm khác nhau, tranh luận sẽ nổ ra. Với lối tư duy đồng thuận,
hai quan điểm đó sẽ cùng được xem xét và chọn lựa. Như vậy, sẽ luôn tránh được việc
tranh luận [5].
Loại trừ được ảnh hưởng cá nhân
Mọi người có khuynh hướng áp đặt tư duy cá nhân lên người khác. Họ cố gắng chứng
tỏ sự thông minh và sự riêng biệt của mình. Có một số người chọn cách bất đồng quan
điểm với người khác nhằm thể hiện bản thân mà không hề xem xét đúng sai. Họ thực ra
không nhận biết hết được ảnh hưởng của điều này tới hiệu quả công việc.
Ví như sự phán xét ở toà án, ban bồi thẩm đôi lúc không thống nhất được quan điểm
với nhau, dù với bất kỳ chứng cứ gì. Các vị thẩm phán cho hay nguyên nhân là mọi người
không hiểu hết được tầm quan trọng của vấn đề. Như vậy, cán cân pháp luật đã không
được thực thi nghiêm chỉnh, đôi khi chỉ vì những vấn đề mang tính cá nhân. Đó chính là
lý do tại sao hiện nay ở một số quốc gia, phương thức tư duy "Sáu chiếc mũ" được đem
giảng dạy cho các thẩm phán nhằm loại bỏ ảnh hưởng cá nhân tới việc đưa ra phán xét.
Cá nhân càng có nhu cầu khẳng định bản thân khi gặp phải những quan điểm đối
nghịch. Phương thức tư duy "Sáu chiếc mũ" không có chỗ cho những quan điểm như vậy.
Cá nhân sẽ phô bày kỹ năng theo hướng đã định sẵn [5].
Chú tâm vào sự việc
Sự ôm đồm khiến chúng ta không thể xử lý tốt công việc.
Có 6 hướng để xem xét sự việc: Thông tin, cảm xúc, tìm kiếm ý tưởng mới, sự cẩn
trọng, và tìm kiếm ích lợi. Chúng ta không thể cùng lúc xem xét một cách có hiệu quả
theo tất cả 6 hướng đó. Giống như việc tung từng quả bóng lên một cách dễ dàng hơn so
với tung cùng lúc 6 quả bóng.
Với phương thức tư duy "Sáu chiếc mũ", chúng ta cố gắng xem xét sự việc theo từng
hướng. Chúng ta chia thời gian để lần lượt xem xét những hiểm hoạ (Mũ đen), tìm kiếm
những ý tưởng mới (Mũ xanh lá cây), tập trung vào xử lý thông tin (Mũ trắng).
Với một máy in màu, hình ảnh hiện ra sống động nhờ sự tổng hợp lần lượt các sắc
màu. Cũng giống như vậy, phương pháp tư duy "Sáu chiếc mũ" giúp bạn có câu trả lời tối
ưu cho sự việc dựa vào việc xem xét lần lượt từng hướng.
Xét trên góc độ sinh lý, chúng ta cần thiết phải tách bạch các kiểu tư duy. Bởi như tôi
đã nói trong lời giới thiệu với những luồng suy nghĩ khác nhau, bộ não có được những
mức độ nhạy cảm khác nhau.
Máy bay của bạn sẽ hạ cánh sau khi bay qua một bãi xe. Nếu lúc đó bạn nghĩ tới chiếc
ô tô màu vàng, thì thể nào nó cũng hiện ra trước mắt bạn. Đó là một minh chúng về sự
nhạy cảm. Tuy nhiên, cá nhân sẽ mất đi sự nhạy cảm đó nếu cùng lúc xem xét sự việc
theo nhiều hướng. Khi tư duy theo phương thức "Sáu chiếc mũ" hiệu quả tư duy được thể
hiện ngay. Và thay cho việc áp đặt lối tư duy cá nhân hay những tranh luận gay gắt,
chúng ta đưa ra được những quyết định mang tính xây dựng, nhanh chóng và hiệu quả.
Mọi người chọn cách tranh luận vì đó là cách giải quyết vấn đề duy nhất mà họ biết.
Phương thức tư duy "Sáu chiếc mũ" chỉ ra một lối tư duy khác [5].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Xuân Bảo (2006). Hãy vượt qua tính ỳ tâm lý. NXB Giáo dục.
2. Dương Xuân Bảo (2006). Những mẩu chuyện về phương pháp luận sáng tạo. NXB
giáo dục.
3. Phan Dũng (1998). Phương pháp luận tư duy sáng tạo. NXB Thành phố Hồ Chí
Minh.
4. Thái Trí Dũng (2000). Tâm lý và giao tiếp ứng xử. Đại học Kinh tế.
5. Edward de Bono (Tuấn Anh dịch - 2010), Tư duy là tồn tại: Sáu sắc thái tư duy – sáu
chiếc mũ tư duy, NXB Văn hóa thông tin.
6. Huỳnh Văn Sơn (2009). Giáo trình Tâm lý học sáng tạo. NXB ĐH Sư phạm
Tp.HCM.
7. Nguyễn Huy Tú (2000). Giáo trình Tâm lý học sáng tạo. Viện Khoa học Giáo dục.
8. Đức Uy (1999). Tâm lý học sáng tạo. NXB Giáo dục.