You are on page 1of 45

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM

KỸ NĂNG TƯ DUY SÁNG TẠO

Biên soạn:
ThS. NCS. Mai Mỹ Hạnh
TS. Đỗ Tất Thiên
ThS. NCS. Nguyễn Thị Diễm My

Tp. HCM, tháng 10, năm 2019


Bài 1. TỔNG QUAN VỀ TƯ DUY SÁNG TẠO
1.1. KHÁI NIỆM

1.1.1 Khái niệm về tư duy


Đứng trước những thách thức của cuộc sống, con người không thể giải quyết được
nhiệm vụ phức tạp nếu chỉ nhận ra những đặc điểm bên ngoài hay phản ánh ở thực tại.
Trong những trường hợp đó, bài toán chỉ được giải quyết khi chủ thể nỗ lực nhận thức
một cách cao độ, phản ánh sự vật hiện tượng hay nhìn nhận và giải quyết bài toán một
cách gián tiếp với những dự báo, dự đoán có cơ sở khoa học dựa trên những nguyên lý và
quy luật, đó chính là tư duy. Nhờ tư duy, con người thực hiện quá trình suy nghĩ, tìm
kiếm những đáp số cho các bài toán khoa học và các vấn đề từ thực tiễn một cách có căn
cứ.
Vậy, tư duy là một quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất,
những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật hiện tượng khách quan mà
trước đó ta chưa biết.
1.1.2. Các loại hình tư duy
Các loại hình tư duy này luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Muốn phát triển tốt
tư duy sáng tạo phải song hành phát triển các loại hình tư duy khác. Có thể phân loại tư
duy theo nhiều phương diện khác nhau.
Xét theo phương diện hình thành và phát triển tư duy: Xét theo phương tiện hình
thành và phát triển tư duy có thể chia tư duy thành ba loại:
Tư duy trực quan hành động
Tư duy trực quan hành động là loại tư duy có cả ở con người và động vật cao cấp. Đó
là tư duy bằng các thao tác cụ thể hướng vào việc giải quyết một số tình huống cụ thể.
Tư duy trực quan hình ảnh
Tư duy trực quan hình ảnh là loại tư duy phát triển ở mức cao hơn, chỉ có ở người.
Đối với loại tư duy này, việc giải quyết vấn đề dựa trên các hình ảnh của sự vật, hiện
tượng.
Tư duy trừu tượng
Tư duy trừu tượng là loại tư duy phát triển ở mức cao nhất, chỉ có ở người. Loại tư
duy này giải quyết vấn đề dựa trên các khái niệm, các mối quan hệ logic và gắn bó chặt
chẽ với ngôn ngữ, lấy ngôn ngữ làm phương tiện để tư duy.
Xét theo cách giải quyết vấn đề:
Xét theo cách giải quyết vấn đề có thể chia tư duy thành ba loại:
Tư duy thực hành
Tư duy thực hành là loại tư duy với nhiệm vụ đề ra một cách trực quan, dưới hình
thức cụ thể và được giải quyết bằng những hành động thực hành, vừa thực hành vừa tìm
cách thức giải quyết tiếp theo.
Tư duy hình ảnh cụ thể
Tư duy hình ảnh cụ thể là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ dựa trên hình ảnh
trực quan đã có. Loại tư duy hình ảnh cụ thể rất có ý nghĩa trong quá trình thực hiện các
kĩ năng thực hành, các hình thức lao động cụ thể.
Tư duy lý luận
Tư duy lý luận là loại tư duy đòi hỏi phải sử dụng những khái niệm trừu tượng, những
tri thức lý luận để giải quyết những vấn đề không cụ thể, những vấn đề cần có cơ sở lí
thuyết.
Trong thực tế con người thường ít khi sử dụng chỉ một loại tư duy nào đó mà thường
sử dụng phối hợp nhiều loại tư duy, trong đó có một loại tư duy nhất định nào đó giữ vai
trò chủ yếu.
1.1.3. Khái niệm về tư duy sáng tạo
Tư duy sáng tạo là chủ đề của một lĩnh vực nghiên cứu còn mới, nhằm tìm ra các
phương án, biện pháp thích hợp để kích hoạt khả năng sáng tạo và để tăng cường khả
năng tư duy của một cá nhân hay một tập thể cộng đồng làm việc chung về một vấn đề
hay lĩnh vực. Ứng dụng chính của bộ môn này là giúp cá nhân hay tập thể thực hành nó
tìm ra các phương án, các lời giải từ một phần đến toàn bộ cho các vấn đề nan giải. Các
vấn đề này không chỉ giới hạn trong các ngành nghiên cứu về khoa học kỹ thuật mà nó có
thể thuộc lĩnh vực khác như chính trị, kinh tế, xã hội, nghệ thuật... hoặc trong các phát
minh, sáng chế.
Tư duy sáng tạo được hiểu là một kiểu tư duy đặc trưng bởi sự sản sinh ra sản phẩm
mới và xác lập các thành phần mới của hoạt động nhận thức nhằm tạo ra nó. Các thành
phần này có liên quan đến động cơ, mục đích, đánh giá, các ý tưởng của chủ thể sáng tạo.
Tư duy sáng tạo là khả năng giải quyết vấn đề bằng cách tạo ra một cái mới, bằng
cách thức mới nhưng đạt được kết quả một cách hiệu quả. Tư duy sáng tạo gần như là tài
nguyên cơ bản của con người. Con người luôn luôn phải tư duy sáng tạo vì mọi thứ luôn
vận động, biến đổi kể cả mọi việc cần được giải quyết đơn giản hơn, tốt hơn dù là ta có ở
mức nào đi chăng nữa.
Hiểu một cách đơn thuần hơn, tư duy sáng tạo gắn liền với việc đưa ra cái mới, sáng
chế mới, ý tưởng mới, phương án giải quyết mới. Tư duy sáng tạo thuộc về năng lực ra
quyết định, kết hợp độc đáo, liên tưởng hay phát ra ý tưởng mới có lợi.
Ví dụ như những quả dưa hấu có hình dạng thỏi vàng, hoặc hình vuông, giá bán gấp
mười lần giá một trái dưa hấu thông thường. Vậy sự khác biệt giữa hai loại dưa hấu đó là
gì? Không gì khác ngoài ý tưởng sáng tạo.
Người trồng hoặc người nông dân không tốn công sức nhiều hơn khi trồng dưa hấu,
họ chỉ suy nghĩ khác và sáng tạo ra cách làm khác. Đó là khi trái dưa hấu còn non, họ cho
vào một khuôn hình, khi trái dưa hấu to lên thì sẽ trở thành hình theo khuôn. Tư duy sáng
tạo mang đến cho người nông dân thu nhập gấp mười lần. Vì vậy, việc biết cách tư duy
sáng tạo, sẽ giúp cho cuộc sống thành công hơn và hạnh phúc hơn.
1.2. TÍNH CHẤT

Sáng tạo được xem là dạng hoạt động cao nhất của con người. Năng lực sáng tạo là
cốt lõi của hoạt động sáng tạo, làm tiền đề bên trong của sáng tạo, hoạt động sáng tạo đặc
biệt được dựa trên chất lượng của năng lực tư duy, tưởng tượng, trí nhớ, xúc cảm, động
cơ và ý chí. Sáng tạo bao gồm ba tính chất cơ bản:
Tính mới mẻ
Sáng tạo phải tạo ra cái gì đó “mới mẻ”. Cái mới có thể mới đối với cá nhân hoặc đối
với xã hội. Sáng tạo ở trẻ em, ở người lớn và ở bất kỳ đối tượng nào cũng có ý nghĩa
nhưng nó chỉ khác nhau ở vấn đề cần giải quyết, trình độ tự lập trong các giai đoạn của
quá trình sáng tạo nhưng về cơ chế, tiến trình là tương tự nhau.
Tính độc lập – tự lập
Tính độc lập – tự lập có nghĩa là không bị chi phối bởi ý kiến người khác. Chủ động
và tự lập tìm ra cái mới, ý tưởng mới. Nhưng nó không đồng nghĩa với tính cá nhân hay
sự đơn độc mà vẫn có thể có sự phối hợp với nhiều cá nhân khác dù rằng mỗi cá nhân
vẫn giữ được sự độc lập của mình trong sư phối hợp.
Quá trình giải quyết vấn đề một cách độc lập – tự lập bao gồm các khâu: Nhận ra, giải
quyết và kiểm tra, đánh giá giải pháp giải quyết vấn đề.
Tính có lợi
Sáng tạo phải tạo ra cái mới nhưng cái mới phải đảm bảo tính hiện thực, phục vụ cho
lợi ích của con người và xã hội. Sáng tạo không phủ nhận hiện thực mà là sự phản ánh
hiện thực tối đa trong tình huống mới, chất lượng mới và mục đích mới để tạo ra cái mới
độc đáo hơn và có lợi hơn quay về phục vụ cho thực tiễn cuộc sống.
1.3. CẤP ĐỘ CỦA SÁNG TẠO

Sáng tạo ở mức độ rất thấp: “Nhận ra nhu cầu cần có cách tiếp cận mới”.
Biểu hiện cơ bản ở mức độ này là cá nhân có khả năng vui vẻ đón nhận ý tưởng mới.
Khi đối diện với tình huống có vấn đề, họ sẽ chủ động xem xét lại cách tiếp cận truyền
thống và tìm các giải pháp có thể có. Đồng thời, họ nhận ra lúc nào cần một cách tiếp cận
mới, tham khảo các nguồn thông tin khác nhau để hướng về cách tiếp cận mới.
Sáng tạo ở mức độ thấp: “Thay đổi các cách tiếp cận hiện có”.
Đây là cấp độ cao hơn, biểu hiện đặc trưng ở cấp độ sáng tạo này là cá nhân có khả
năng phân tích những điểm mạnh và điểm yếu của các cách tiếp cận mà bản thân đang sử
dụng để giải quyết vấn đề. Đặc trưng rõ hơn là họ có thể thay đổi và làm cho các cách
tiếp cận đang sử dụng thích hợp hơn với yêu cầu. Họ cũng có khả năng nhận diện được
các giải pháp khác nhau dựa vào những gì đã biết. Sau khi xem xét dưới nhiều góc độ
khác nhau và cân nhắc về những điểm mạnh và điểm yếu của các cách tiếp cận thì cuối
cùng họ sẽ chọn được giải pháp tối ưu.
Sáng tạo ở mức độ trung bình: “Đưa ra cách tiếp cận mới”.
Ở cấp độ sáng tạo này cá nhân thể hiện rõ ràng hơn sự tích cực nhằm giải quyết vấn
đề một cách linh hoạt hơn. Họ có khả năng tìm kiếm các ý tưởng hoặc giải pháp đã có tác
dụng trong các môi trường khác để áp dụng chúng cho vấn đề của mình. Nổi bật ở mức
độ sáng tạo này là họ có thể vận dụng các giải pháp đang có theo cách mới lạ hơn nhằm
giải quyết vấn đề với hiệu quả cao hơn. Cuối cùng, họ có khả năng định hướng và lập kế
hoạch để tiếp tục vận dụng các giải pháp đang có theo vài cách mới lạ khác để giải quyết
các vấn đề khác nhau.
Sáng tạo ở mức độ khá: “Tạo ra khái niệm mới”.
Ở mức độ này cá nhân có thể bộc lộ việc tạo ra giải pháp mới từ việc tổng hợp các
khái niệm cần thiết để tư duy. Họ tích cực trong việc ạo ra các mô hình và phương pháp,
sản phẩm mới cho bản thân/ tổ chức của mình. Họ có khả năng đánh giá tính hiệu quả và
linh hoạt của các giải pháp được sử dụng, nhận diện được sự phù hợp hay không phù hợp
của giải pháp với tiêu chuẩn về chuyên môn và môi trường công việc.
Sáng tạo ở mức độ cao: “Nuôi dưỡng sự sáng tạo”.
Biểu hiện đặc trưng ở mức độ này là cá nhân có khả năng phát triển một môi trường
nuôi dưỡng tư duy sáng tạo, luôn kích thích mọi người thi đua tìm tòi các giải pháp sáng
tạo. Họ không chỉ có khả năng tự giải quyết vấn đề một cách mới mẻ mà còn khuyến
khích được mọi người thử nghiệm ý tưởng mới khác hẳn cách làm truyền thống. Họ luôn
tích cực trong việc truyền cảm hứng và phương pháp sáng tạo cho cá nhân khác. Đồng
thời, họ luôn chủ động hỗ trợ cho việc thử nghiệm ý tưởng mới nhằm biến ý tưởng thành
hiện thực. Đặc biệt, họ luôn nổi lực thực thi được các ý tưởng, biến ý tưởng thành hiện
thực bằng các kế hoạch cụ thể và khoa học. Cuối cùng, họ có được những sản phẩm cụ
thể có lợi cho bản thân và cho xã hội.
Như vậy, cùng hướng đến tư duy sáng tạo, nhưng mỗi cá nhân có thể thuộc về cấp độ
này hay cấp độ khác. Cần lưu ý rằng, nếu cá nhân hiểu được vai trò của sự đổi mới, sự
sáng tạo đối với công việc để từ đó chăm chỉ rèn luyện phương pháp sáng tạo thì có thể
dần chuyển đổi từ cấp độ rất thấp lên cấp độ cao hơn.
1.4. NHỮNG YẾU TỐ CẢN TRỞ QUÁ TRÌNH TƯ DUY SÁNG TẠO

1.4.1. Tính ỳ tâm lý


Ở Nhật Bản, người ta có đặt ra câu hỏi sau với 200 sinh viên đại học: “Trong tiết mục
dạy nấu ăn hôm nay, xin giới thiệu cách làm bánh mì Sandwich Jambon. Dùng 10 miếng
bánh mì để kẹp các miếng jambon. Nếu giữa hai miếng bánh mì chỉ kẹp được 1 miếng
Jabon thì có thể kẹp được nhiều nhất là bao nhiêu miếng jambon?” Điều bất ngờ là hầu
hết sinh viên trả lời rằng kẹp được nhiều nhất 9 miếng jambon. Câu trả lời đúng là 10
miếng jambon khi ta xếp các miếng bánh mì thành hình tròn như một bánh xe lớn. Chỉ
12% số sinh viên trên trả lời đúng câu hỏi trên.
Nếu nhìn từ góc độ sáng tạo, “thủ phạm” của vấn đề trên chính là tính ỳ tâm lý. Như
vậy, thế nào là tính ỳ tâm lý? Nó có ảnh hưởng gì trong quá trình tư duy sáng tạo của con
người?
Bất cứ một vật thể, một quá trình nào xảy ra trong tự nhiên đều có tính ỳ. Điều đó
được suy ra theo học thuyết của Anhxtanh là không có một vận tốc nào trong tự nhiên
được lan truyền nhanh hơn vận tốc của ánh sáng trong chân không (xấp xỉ 300.000 km/s).
Điều này có ý nghĩa là hệ thống không thể chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác
ngay lập tức mà phải qua các trạng thái trung gian trong một khoảng thời gian (thời gian
ỳ) nhất định và tính ỳ là một thuộc tính của bất kỳ hệ thống nào.
Ở đây, tính ỳ nói chung được hiểu là tác động của tất cả những gì thuộc hệ thống cho
trước (thuộc về quá khứ và hiện tại) ảnh hưởng lên quá trình chuyển trạng thái của hệ
thống đó. Tính ỳ tâm lý tương tự như quán tính trong vật lý: mọi vật đều có quán tính,
mọi người đều có tính ỳ! Một điều nguy hiểm cho mỗi chúng ta là càng biết nhiều, càng
có kinh nghiệm chúng ta thường càng bị tính ỳ hơn và chính vì vậy mới có câu: “Người
già có nhiều kinh nghiệm, người trẻ giàu óc sáng tạo !”
Tính ỳ “thiếu”
Đứng trước một tình huống có vấn đề, cá nhân có xu hướng không bao quát vấn đề,
không hình dung hết khả năng có thể xảy ra, không suy luận rộng và đủ chi tiết để giải
quyết vấn đề một cách hiệu quả. Điều này có nghĩa là cá nhân có khuynh hướng suy nghĩ
theo những lối mòn có sẵn mà quên đi những góc độ khác, những cách nhìn khác của vấn
đề. Đây là biểu hiện của người có tính ỳ “thiếu”. Biểu hiện dễ nhận thấy ở người ỳ thiếu
là suy nghĩ cứng nhắc, không phân tích kỹ lưỡng hoặc suy luận theo quán tính, không chú
ý đến chi tiết và mối quan hệ toàn cục. Cá nhân chỉ chú ý đến một vài tính chất, chức
năng quen thuộc… bỏ qua những thông tin quan trọng khác. Tính ỳ “thiếu” sẽ dẫn đến
tính bảo thủ, thành kiến… dẫn đến công việc kém hiệu quả và thường xuyên xảy ra các
mâu thuẫn trong quá trình giải quyết vấn đề.
Trở lại câu hỏi ở trên, do các sinh viên Nhật Bản (và cả chúng ta) thường xuyên nhìn
thấy những miếng bánh mì xếp chồng lên nhau và cứ 2 miếng bánh mì thì kẹp được 1
miếng jambon, 3 miếng kẹp 2, … , nên nhanh chóng đi đến câu trả lời là 10 miếng bánh
mì kẹp được 9 miếng jambon. Tính ỳ “thiếu” đã phát huy tác dụng trong trường hợp trên.
Bạn hãy suy nghĩ, trả lời để kiểm tra tính ỳ của bản thân và bạn bè:
Câu 1: Hai công chúa đi hàng trước. Ba công chúa đi hàng sau. Tất cả đi qua cầu. Hỏi
có bao nhiêu công chúa?
Câu 2: Cái quý nhất của con trai là gì?
Câu 3: Đập thì sống, không đập thì chết?
Câu 4: Vua thường gọi hoàng hậu bằng gì?
Câu 5: Càng đẽo, gọt càng to ra?
Lời giải các bài toán trên thứ tự là: có hai công chúa và một ông vua (ba của hai nàng
công chúa); hòn ngọc; quả tim; bằng mồm; giao thông hào, hầm dưới đất.
Tính ỳ “thừa”
Cá nhân khi đối diện trước tình huống có vấn đề nếu vận dụng quy tắc, định luật một
cách quá mức, quá phạm vi cho phép thì họ có biểu hiện của tính ỳ “thừa”. Họ thường
suy nghĩ một cách quán tính, lập luận theo kiểu lối mòn, “tầm thường quá” khi nhận thức
vấn đề và giải quyết vấn đề. Người giải quyết vấn đề suy luận quá vượt khung, bỏ quên
các yếu tố như: không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể…
Cho một câu đố như sau: “Ba con mèo ăn hết 3 con chuột trong 3 giây. Hỏi 30 con
mèo ăn 30 con chuột trong bao lâu?”
Câu trả lời của bạn là…
Nếu câu trả lời của bạn là 30 giây, có nghĩa bạn đang có dấu hiệu của tính ỳ “thừa”.
Vì bạn đã áp dụng một phép tính nhẩm đơn giản (quy tắc tam suất) để có được kết quả.
Trong tình huống này không thể áp dụng quy tắc tam suất vì các con mèo ăn các con
chuột đồng thời. Như vậy, đáp án chính xác là 3 giây.
Tính ỳ tâm lý thường đóng vai trò có hại đến quá trình tư duy sáng tạo khiến cho cá
nhân thường tư duy theo kiểu kinh nghiệm, theo lối mòn, dẫn đến lập khuôn mà không
đột phá trong việc tìm kiếm những giải pháp tích cực hơn để nâng cao hiệu quả công
việc. Liệu có biện pháp nào để khắc phục và loại bỏ tính ỳ tâm lý hay không? Câu trả lời
là có. Môn khoa học sáng tạo trên thế giới tuy còn rất non trẻ nhưng đã nghiên cứu tình ỳ
tâm lý khá đầy đủ và đưa ra nhiều thủ thuật, phương pháp tích cực hóa tư duy,… nhằm
khắc phục tính ỳ tâm lý và mang lại hiệu quả tư duy sáng tạo cao hơn.
1.4.2. Những yếu tố khác cản trở quá trình tư duy sáng tạo
Mỗi cá nhân đều có những tiềm năng về sự sáng tạo tuy nhiên một số người không thể
giải phóng và phát triển được sự sáng tạo đó. Trong khi đó, một số cá nhân có khả năng
tạo ra những sáng tạo cho giá trị cao cho bản thân và xã hội. Cá nhân cần hiểu những yếu
tố nào đang cản trở quá trình tư duy sáng tạo của bản thân để có những biện pháp khắc
phục nhằm nâng cao năng lực sáng tạo.
Những nhược điểm thường cản trở tư duy sáng tạo là thái độ không tích cực khi đối
diện với vấn đề, yếu tố này thường là yếu tố chủ quan xuất phát từ chính cá nhân
Mỗi vấn đề phát sinh đều có những khác biệt nhất định đòi hỏi thay đổi cách nghĩ
cách làm nếu cá nhân cứ theo cách quen thuộc với các giải pháp có sẵn trong quá khứ,
khư khư với tư duy theo lối mòn, không thoát khỏi lề thói cũ thì rất khó sáng tạo. Biểu
hiện này dễ nhậ thấy ở những cá nhân có tính bảo thủ.
Đối diện với tình huống có vấn đề, cá nhân hay vội vàng kết luận bằng phương pháp
quen thuộc. Họ quá tin vào kinh nghiệm đã tích lũy mà không nhận thức rằng mỗi vấn đề
đều có những khác biệt nhất định, cần thay đổi phương pháp dể thích ứng với điều kiện
mới của vấn đề.
Thói quen tấn công ngay vào vấn đề và chộp giải pháp đầu tiên vừa nảy ra trong đầu
mà chưa cân nhắc thấu đáo mọi khía cạnh của vấn đề.
Tự mãn với những thành quả đạt được và cách làm của mình, chủ quan với kiến thức
của mình.
Khi đối diện vấn đề khó khăn, phức tạp thì lập tức cho rằng mình không có khả năng
giải quyết hay vấn đề đó không ai có thể giải quyết được.
Cho rằng vấn đề chỉ có một cách giải quyết duy nhất và người ta đã giải quyết tốt rồi
và nên làm theo mà không cần tìm tòi thêm.
Quá lo nghĩ về những khó khăn và dễ dàng buông xuôi, không kiên trì suy nghĩ và
chấp nhận thất bại.
Định kiến, giáo điều, nhìn vấn đề phiến diện, không chịu học hỏi và tiếp thu ý kiến
của cá nhân khác.
Chấp nhận một cuộc sống tầm thường vốn có, không thích mạo hiểm để đảm bảo tính
an toàn.
Thiếu tầm nhìn, không có định hướng và chiến lược trong tương lai. Những cá nhân
này thường thích ứng kém với sự thay đổi của môi trường và xã hội.
Bên cạnh những yếu tố chủ quan, có thể đề cập đến một số yếu tố khách quan phát
sinh từ cộng đồng, đơn cử như:
Phong cách lãnh đạo là độc đoán thì cá nhân rất khó phát triển tính sáng tạo vì sợ mâu
thuẫn với ý kiến lãnh đạo.
Văn hóa xem trọng cái “chung”, cái “ta” thì ý kiến khác biệt với suy nghĩ của đa số -
dễ bị quy chụp là lập dị, bị cô lập.
Cá nhân nói lên ý tưởng khác lạ của bản thân, khả năng thuyết phục kém thì dễ bị cho
là kém hiểu biết, năng lực kém.
Cá nhân dễ bị cho là không kiên định nếu họ thay đổi ý kiến khi phát hiện mình sai.
Khó chấp nhận những ý tưởng khác thường. Có một câu chuyện cho thấy rằng cái giá
của việc ngăn trở ý tưởng sáng tạo có thể là sinh mạng của rất nhiều người. Đại dịch do
bệnh thiếu vitamine C xảy ra ở châu Âu từ giữa thế kỷ 16 đã giết chết nhiều thủy thủ trên
các tàu viễn dương. Đến giữa thế kỷ 18 bác sĩ James Lind khẳng định bệnh có thể được
loại trừ bằng uống nước chanh. Mặc dù đó chỉ là biện pháp rất đơn giản, nhưng vì nó quá
mới mẻ, nên mãi đến cuối thế kỷ 18 hải quân Anh mới chấp nhận điều đó, sau khi có
hàng chục ngàn thủy thủ bỏ mạng trên biển chỉ vì thiếu vitamine C.
Từ câu chuyện này cho thấy, từ ý tưởng đến việc thực thi ý tưởng là một quãng đường
gian nan. Thuyết phục người khác chấp nhận ý tưởng của mình không dễ dàng nhưng nếu
không đủ kiên trì vượt qua thì không thể có sự sáng tạo. Nếu cuộc sống không có sự sáng
tạo thì không thể nào phát triển. Chính vì vậy, bản thân cần nhận diện rõ những yếu tố
trên, kiên trì khắc phục khuyết điểm trên chính bản thân mình và rèn luyện khả năng trình
bày, thuyết phục cũng như làm việc một cách có kế hoạch để minh chứng cho các ý
tưởng sáng tạo của bản thân.
1.5. ĐIỀU KIỆN CẦN CÓ ĐỂ SÁNG TẠO

Khi muốn tư duy sáng tạo nhằm giải quyết một vấn đề , cá nhân thường phạm sai lầm
là cố gắng ngồi một chỗ và tập trung suy nghĩ về vấn đề đó để tìm kiếm phươn án giải
quyết một cách mới mẻ. Cần lưu ý rằng, kỹ năng tư duy sáng tạo cần một cái gì đó phóng
khoáng, thoáng đãng, tinh thần thoải mái, tĩnh tâm, chứ không phải “vò đầu bức tóc”,
căng thẳng hoặc tự tạo áp lực thì rất khó tìm ra giải pháp mới.
Việc tập trung suy nghĩ, phân tích vấn đề là thao tác đầu tiên cần thực hiện để tư duy
sáng tạo. Việc phân tích này giúp cá nhân tìm kiếm đầy đủ các dữ kiện có liên quan bao
gồm những cái đã cho và những cái chưa có, những cái cần tìm. Giai đoạn này cần thực
hiện từ 30 phút đến 60 phút, để vấn đề được đi vào “tiềm thức”. Sau đó, cần thực hiện
một vài hoạt động yêu thích để tâm lý được thoải mái, nguyên tắc cần lưu ý là tinh thần
càng thoải mái, càng hứng thú thì càng dễ “kích hoạt” não tư duy một cách tích cực hơn.
Khi suy nghĩ tự do và tâm trạng thực sự thoải mái hơn thì lúc đó tiềm thức lưu tâm đến
vấn đề đó nhưng không căng thẳng quá. Điều kiện này dẫn đến quá trình tư duy sáng tạo
ra cách giải quyết. Có thể thấy điều này ở câu chuyện về Achimet. Ông ta đã dành hàng
tháng trời suy nghĩ nhưng không tìm được giải pháp. Nhưng chỉ khi ông ta đi tắm thì ông
ta mới bất chợt sáng kiến ra lời giải và đã vui mừng tột độ đến nỗi chạy ra ngoài la lên
“Eureka! Eureka!” mà quên rằng mình không mặc quần áo.
Muốn sáng tạo hiệu quả thì cá nhân cần giữa tinh thần lạc quan, tư duy tíc cực. Thực
tế cho thấy, những cá nhân có tính tình vui vẻ và luôn tươi cười, thì khả năng sáng tạo
của họ nhiều hơn so với những người bình thường khác. Ngược lại, những cá nhân sống
nội tâm, bi quan thì sự sáng tạo kém hơn do họ thường rơi vào trạng thái căng thẳng tâm
lý hay lo âu quá mức. Có thể thấy điều đó ở Albert Einstein, nhà khoa học tài ba nhất của
nhân loại. Ông ta luôn thể hiện mình là một người vui vẻ, có khiếu hài hước.
Lắng nghe và chia sẻ thông tin cũng tạo ra cho cá nhân những cơ hội phát triển tư duy
sáng tạo. Cá nhân cần hòa đồng với mọi người, thiết lập các mối quan hệ trong cuộc
sống, linh hoạt học hỏi và tích lũy kinh nghiệm từ cá nhân khác, từ đó chúng ta mới có
được tầm hiểu biết rộng, linh động và tạo cho ta kỹ năng sống và khả năng ứng phó tốt
với mọi tình huống. Nhiều khi giải pháp trong ngành nghề này lại tạo ra một giải pháp
mới mẻ cho ngành nghề khác.
Ngoài ra,cá nhân phải tích cực làm những việc mới mẻ mỗi ngày, ví dụ như: bình
thường thì chúng ta đánh răng bằng tay phải, thì có thể đổi qua đánh bằng tay trái. Hoặc
chọn một con đường khác về nhà, thay vì đi con đường quen thuộc hàng ngày. Hoặc đến
một quán ăn, một quán cafe nào đó, mà bạn chưa bao giờ đến. Những điều đó sẽ kích
thích cho việc tư duy, sáng tạo một cách hiệu quả.
Bí quyết tạo nên sự sáng tạo chỉ gói gọn trong những yếu tố sau:
Nhu cầu khám phá và đặt vấn đề cho mình: Nhu cầu là một yếu tố quan trọng thúc
đẩy con người hoạt động. Nhu cầu bắt gặp đúng đối tượng sẽ trở thành động cơ. Chính
động cơ là lực đẩy khiến cá nhân tìm kiếm được những cách thức và phương pháp mới
cho vấn đề của mình.
Sự tự tin: Tự tin giúp cá nhân mạnh dạn nêu ý tưởng và thực thi ý tưởng mới mẻ. Sự
tự tin này bắt nguồn từ việc cá nhân nhận thức được những tiềm năng và thế mạnh của
bản thân.
Tự rèn luyện và ý chí: Phấn đấu vượt qua khỏi lối mòn tư duy là cách thức để phát
triển khả năng sáng tạo. Để thực thi một ý tưởng không hề đơn giản, nhất là những ý
tưởng mới luôn có những yếu tố chủ quan và khách quan chi phối.
Biết hoài nghi và không vâng lời: Văn hóa Phương Đông khiến cá nhân khó khăn thể
hiện “cái tôi” và “hòa vào tập thể”. Cá nhân thoát khỏi rào cản này là động lực để phát
triển năng lực sáng tạo và cá tính của bản thân. Nhưng điều này không có nghĩa cá nhân
phải biến mình thành người bảo thủ. Việc biết lắng nghe và tiếp thu những điều phù hợp
sẽ giúp mình vượt qua khỏi tính ỳ của tư duy sáng tạo.
Cảm xúc – phải đam mê, hứng thú với vấn đề, với công việc thì mới nảy sinh được ý
chí và khao khát phát triển, tìm kiếm cái mới.
Luôn chủ động đạt câu hỏi cho chính bản thân mình và người khác: “Có phải là cái
(giải pháp) tốt nhất chưa? Còn giải pháp nào tốt hơn? Làm sao để cải thiện thêm?...”
Bài 2. ĐỘT PHÁ Ý TƯỞNG BẰNG CÁC THỦ THUẬT TƯ DUY SÁNG TẠO
2.1. CÔNG NÃO

2.1.1. Giới thiệu


Công não hay còn gọi Brainstorming ban đầu được tạo ra để tìm ý tưởng trong làm
việc theo nhóm, nhằm giải quyết các vấn đề về sáng tạo. Công não đâu tiên được miêu tả
trong cuốn sách “Applied Imagination” viết bởi Alex F.Osborn - Một nhà quản trị quảng
cáo.
Thủ thuật công não với mục đích có thật nhiều ý tưởng cho một vấn đề, bạn không trả
lời một câu hỏi bằng 1,2 hay 3 đáp án mà với 1 câu hỏi bạn phải liệt kê ra càng nhiều đáp
án càng tốt bằng cách làm việc tập thể theo những quy tắc nhất định.
Bản thân từ “công não” xuất phát từ ý tưởng sử dụng “não” để công phá một vấn đề
nan giải nào đó. Kỹ thuật này nhằm huy động những tư tưởng mới mẻ, độc đáo về một chủ
đề của các thành viên trong nhóm thảo luận. Các thành viên được cổ vũ tham gia một cách
tích cực, không hạn chế các ý tưởng (nhằm tạo ra "cơn lốc" các ý tưởng).
2.1.2. Đặc điểm
Phương pháp công não có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, vấn đề được đưa ra công não cần trình bày một cách rõ ràng, chuẩn mực
nhằm hướng tới giải pháp hiệu quả cuối cùng. Chính vì vậy, trước buổi công não, các
thành viên trong nhóm cần có thời gian làm quen và suy nghĩ thật kỹ về vấn đề.
Thứ hai, tập trung vào vấn đề (tập kích não), tránh các ý kiến hay các điều kiện bên
ngoài có thể làm lạc hướng buổi làm việc. Trong giai đoạn này chúng ta thu thập tất cả
các quan điểm và ý kiến chuyên môn có liên quan trực tiếp đến vấn đề cần giải quyết
(thường có thể viết lên giấy hoặc lên bảng tất cả).
Thứ ba, việc đưa ra các ý tưởng cần tiến hành một cách thật tự do, thoải mái, hoàn
toàn không có bất kỳ sự hạn chế nào về nội dung đưa ra. Khi phát biểu các ý tưởng,
không cần phải chứng minh tính chất đúng đắn những ý tưởng mà mình đưa ra, không
cần biết chúng có thực hiện được hay không và thực hiện như thế nào. Nói cách khác, ở
đây có sự tự do tư tưởng, giải phóng ý thức khỏi mọi sự kiểm duyệt và theo tinh thần:
Mọi cái đều có thể.
Thứ tư, trong quá trình công não, tuyệt đối cấm mọi hình thức phê bình, chỉ trích
không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng cử chỉ. Ở đây, cần tạo không khí thân thiện giữa
những người tham gia. Đặc biệt khuyến khích việc ý tưởng của một người đưa ra được
những người khác phát triển tiếp. Nói chung, không khí thân thiện cần có trước, trong và
cả sau các buổi công não.
Thứ năm, khuyến khích tinh thần tích cực, mỗi thành viên đều cố gắng đóng góp và
phát triển các ý kiến. Đề ra các ý tưởng không quen thuộc; có thể đặt các câu hỏi gợi ý
hoặc làm cho rõ để tránh thời gian chết.
2.1.3. Các bước thực hiện
Gồm 5 bước như sau:
Bước 1: Trong nhóm lựa ra 1 người nhóm trưởng (để điều khiển) và 1 người thư ký (để
ghi lại tất cả ý kiến) (cả hai công việc có thể do cùng 1 người tiến hành).
Bước 2: Xác định vấn đề hay ý kiến sẽ được tập kích. Phải làm cho mọi thành viên hiểu
thấu đáo về đề tài sẽ được đưa ra công não.
Bước 3: Thiết lập các “quy tắc” cho buổi tập kích não:
 Người nhóm trưởng có quyền điều khiển buổi làm việc.
 Không một thành viên nào có quyền đòi hỏi hay cản trở, đánh giá hay phê bình
vào ý kiến hay giải đáp cuả thành viên khác.
 Xác minh rằng không có câu trả lời nào là sai!
 Thu thập lại tất cả câu trả lời ngoại trừ khi có ý đã được lặp lại.
Vạch định thời gian cho buổi làm việc và ngưng khi hết giờ.
Bước 4: Bắt đầu tập kích não: Người nhóm trưởng chỉ định hay lựa chọn thành viên chia
sẻ ý kiến trả lời (kể cả những ý niệm rời rạc). Người thư ký phải viết xuống tất cả các
câu trả lời, nếu có thể công khai hóa cho mọi người thấy (viết lên bảng chẳng hạn).
Không cho phép bất kỳ một ý kiến đánh giá hay bình luận nào về bất kỳ câu trả lời
nào cho đến khi chấm dứt buổi tập kích.

Bước 5: Sau khi kết thúc tập kích, hãy lượt lại tất cả và bắt đầu đánh giá các câu trả lời.
Một số lưu ý về chất lượng câu trả lời bao gồm:
 Kiếm những câu ý trùng lặp hay tương tự;
 Nhóm các câu trả lời có sự tương tự hay tương đồng về nguyên tắc hay nguyên
lý;
 Xóa bỏ những ý kiến hoàn toàn không thích hợp;
 Sau khi đã cô lập được danh sách các ý kiến, hãy bàn cãi sâu thêm về các câu trả
lời. Cùng nhau thảo luận những ý tưởng thích hợp nhất với vấn đề đưa ra “công
não” để nhằm chọn ra ý tưởng “đắc” nhất.
2.1.4. Ưu, nhược điểm của phương pháp
 Ưu điểm:
Không hạn chế số người;
Có thể ứng dụng trong tình huống mà các thành viên trong nhóm có khoảng cách xa về
địa lý thông qua mạng internet như Webcam, Skype…
Dụng cụ đơn giản: giấy, bút, bảng ghi…
Ý tưởng đa dạng;
Tôn trọng ý kiến của nhau;
Kích thích sự năng động, sáng tạo.
 Nhược điểm:
Nếu không được điều hành một cách hợp lý thì sẽ mất nhiều thời gian của nhóm;
Các quy tắc không được thực hiện nghiêm chỉnh dễ gây ra bất đồng ý kiến.
Trải nghiệm: Hãy chọn những chiếc lá thật sự khác nhau (nếu các chiếc lá trùng nhau
vẫn có thể tiến hành). Mỗi chiếc lá sẽ thuộc về một người trong nhóm hoặc tuần tự bày
trước mặt bạn (nếu chỉ có một người). Mỗi lượt chơi sẽ nói một dấu hiệu, đặc điểm nào
đó về chiếc lá sao cho các ý kiến phải khác nhau. Cứ thực hiện cho đến khi nào không thể
nói được nữa. Bạn sẽ thu âm hoặc nhờ người ghi chép lại tất cả những ý kiến. Bạn sẽ
thực sự thán phục mình hoặc thán phục những người cùng chơi. Chính bạn cảm nhận
được sự phát triển sau khi chơi trò chơi này dẫu ở bất kỳ vị trí gì đi nữa.
Bài tập:
Hãy tìm một từ đơn mà bạn thích, ghép thật nhiều từ với từ đơn ấy sao cho tạo thành
nhiều từ có nghĩa.
Tìm những hình ảnh trên mạng internet thật lạ mắt, hãy đặt tên cho những hình ảnh đó,
càng nhiều càng tốt và những hình ảnh đó phải khác nhau.
Hãy dùng một quả banh thật tròn và lăn thật nhanh, bạn cùng với những người bạn ngồi
để bàn luận về một vấn đề nào đó. Khi quả banh lăn đến ai, người đó phải tích cực
phát biểu nhanh chóng.
2.2. LIÊN TƯỞNG - TƯƠNG TỰ

2.2.1. Đặc điểm


“Liên tưởng – Tương tự” giúp chúng ta nghĩ ra những ý tưởng khác từ những ý tưởng
có sẵn. Đây cũng là “sự bắt chước” giúp chúng ta liên tưởng, sáng tạo từ những ý tưởng
“mồi”, và chính từ những ý tưởng “mồi” này các bạn sẽ nghĩ ra được rất nhiều ý tưởng
sáng tạo khác.
2.2.2. Nguyên tắc
Thủ thuật này dựa trên nguyên tắc sao chép từ ý tưởng “mồi”:
 Sao chép chức năng, tính chất…
 Sao chép cấu trúc, hình thức…
2.2.3. Nhận xét
Vấn đề sẽ khó vì chúng ta sẽ phải xác định được cho được ý tưởng “mồi” và sau đó là
sao chép cái gì và sao chép như thế nào cho phù hợp.
Theo bạn chiếc thuyền của loài người chúng ta được kết hợp từ đâu? Một thân gỗ lớn
và một chiếc lá bồng bềnh trên mặt nước. Bạn có nhận ra mối liên hệ gì giữa một chú dơi
và một chiếc máy ra-đa?
Có bao giờ bạn nghe nói đến nhà hát Con Sò rất nổi tiếng ở nước Úc? Chắc chắn rằng
đó là một địa điểm du lịch, một công trình kiến trúc và là một ý tưởng sáng tạo hết sức
độc đáo. Thế nhưng có bao giờ bạn nghĩ từ đâu hay dựa trên cơ sở nào ý tưởng đó được
hình thành?
Một hôm, vị kiến trúc sư đang ngồi gọt những quả cam sau những giờ đau đầu vì hạn
nộp bảng thiết kế về một nhà hát cho chính quyền Sydney đã gần kề. Nhìn các múi cam
xếp chồng lên nhau trông thật đẹp mắt, vị kiến trúc sư nảy sinh ý tưởng: một nhà hát như
múi cam chồng lên nhau thì tại sao không?
Đó chính là ý tưởng mồi ban đầu. Sau vài lần hoàn chỉnh, nước Úc đã có một biểu
tượng hết sức độc đáo: Nhà hát Con Sò với hình dáng gần như những múi cam xếp lên
nhau nằm ngay bên bờ cảng Sydney...
Hãy chọn một hình ảnh bất kỳ nào đó rồi tạo ra một hình ảnh mới có sự khác biệt với ý
tưởng mồi đó. Liên tục làm tương tự nhiều lần.
Hãy tìm ra một hình ảnh được chọn lọc trong một bài thơ và sau đó điều chỉnh nó theo
một hướng khác, một kiểu khác.
2.3. GÁN GHÉP NGẪU NGHIÊN

2.3.1. Đặc điểm


Xem vấn đề cần giải quyết như một đối tượng và gán ghép đối tượng này với những
đối tượng ngẫu nhiên khác nhằm tìm ra những ý tưởng sáng tạo mới.
2.3.2. Thực hiện
Gồm 4 bước như sau:
Bước 1: Xác định đối tượng cần sáng tạo.
Bước 2: Chọn những đối tượng (hiểu theo nghĩa rộng) hoặc hiểu đơn giản hơn là những
cụm từ có thể được nghĩ ra một cách tình cờ hoặc sự liên tưởng một cách ngẫu nhiên.
Bước 3: Ghép đối tượng đang muốn giải quyết với các đối tượng bất kỳ mà bạn vừa nghĩ
ra để tạo ra những cụm từ mới mang những ý tưởng độc đáo, mới lạ mà không có bất
kỳ sự hạn chế hay phê bình nào.
Bước 4: Phân tích, đánh giá những ý tưởng thu được và lựa chọn những ý tưởng có triển
vọng khả thi. Từ đó, chúng ta sẽ quyết định sử dụng ý tưởng nào trên thực tế.
2.3.3. Nhận xét
Việc gán ghép này đôi khi tạo ra những mối quan hệ cưỡng bức.
Phương pháp này khai thác được khả năng sáng tạo tiềm ẩn trong mỗi người, luyện tập
phát triển trí tưởng tượng và khắc phục tính ỳ tâm lý một cách hiệu quả.
Đây là phương pháp khá đơn giản nhưng lại đạt hiệu quả cao khi cần phải tìm kiếm
những biến thể của các đối tượng, cho phép chúng ta nhanh chóng tìm ra những ý
tưởng mới đối với các đồ dùng, các mẫu mã hàng hóa, mốt quần áo, đồ chơi…
Hãy chọn một đồ vật (ví dụ: đôi dép) và hai mươi con vật. Lần lượt “biến hóa” đồ vật sao
cho giống từng con vật mà bạn đã liệt kê ra để có những kiểu dép thật “độc”.
Nếu “cưỡng bức” những thuộc tính của một ly nước cam cho một quyển vở học trò, bạn
sẽ cho ra những loại vở độc đáo nào?
Minh họa
Vấn đề Cụm từ liên tưởng Kết quả
cần sáng tạo bất kỳ
Mặt trời Áo khoác chống nắng, áo in hình mặt trời
Bàn phím Túi xách mô phỏng hình bàn phím
Bướm Cài áo, đế giày, kẹp tóc… hình bướm
Thời trang Son môi Gót giày hình thỏi son
Thiên nhiên Áo, váy làm bằng lá, rơm, lông thú
Vũ trụ Bộ Jumpsuit mô phỏng theo đồ phi hành
gia, áo thun in hình không gian, vũ trụ…
Hồ cá Áo in hình cá vàng, đế giày phỏng theo hồ
cá…
2.4. LẬT NGƯỢC VẤN ĐỀ

2.4.1. Đặc điểm


Đây là phương pháp cổ điển được áp dụng triệt để về nhiều mặt trên một vấn đề để
tìm ra các thuộc tính chưa được nhìn thấy, khả dĩ biến đổi của vấn đề cho phù hợp và
sáng tạo hơn nhằm nảy sinh những ý tưởng mới.
Cụ thể, phương pháp này là đặt ra những câu hỏi ngược để tìm ra những ý tưởng là
một cách không tồi chút nào. Ví dụ: Băng rôn không dùng để treo thì có thể làm gì?... Từ
đó bạn sẽ liên tưởng đến việc, sẽ vẽ quảng cáo trên tường, trên đường phố, trên sản
phẩm… Vậy còn Xe đạp, nếu xe đạp không chạy thì làm gì? Phát minh ra máy tập thể
dục, mô phỏng xe đạp… Vậy là chỉ với những thủ thuật rất nhỏ , nhưng sẽ giúp cho
những ý tưởng sáng tạo của các bạn được hình thành rất dễ dàng. Hãy thử nghiệm và thể
hiện trí tưởng tượng của mình, cho những chiến dịch bài tập hoặc công việc mới lạ và
hấp dẫn nhé.
2.4.2. Nguyên tắc
Thủ thuật này dựa trên việc xem xét “nửa kia” của vấn đề hay nói cách khác là tìm ra
mặt trái của hiện thực khách quan nhằm mục đích tăng tính bao quát, toàn diện và đầy đủ
của vấn đề đó.
2.4.3. Nhận xét
Trong một số hoàn cảnh nhất định, tính hiện thực khách quan bao gồm các mặt đối
lập (khác nhau, ngược nhau, loại trừ nhau…) xét theo mối quan hệ với mình, con người
chỉ sử dụng một mặt nào đó của vấn đề vì nó đem lại lợi ích. Lâu dần, hình thành tính ỳ
tâm lý, không cho phép người ta thấy và sử dụng những lợi ích của mặt đối lập kia (cho
dù hoàn cảnh có thay đổi).
Làm ngược lại có thể cho đối tượng có thêm những chức năng, tính chất, khả năng
mới mà trước đây chưa có giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện và tổng quát hơn về một
vấn đề.
Minh họa
Nếu cưa gỗ bằng cưa tay thì gỗ đứng yên nhưng khi cưa bằng máy thì cho khối gỗ
chuyển động.
Ý tưởng “Lớp học chết” , là ví dụ cho thủ thuật Lật ngược vấn đề với thông điệp: “Nếu
như nằm trong quan tài, nằm trong một cái hộp cả ngày không được bước ra bên
ngoài thì lúc đó bạn mới cảm nhận được giá trị của sự sống.
Ý tưởng “Du lịch cảm giác mạnh” dành cho khách hàng tham quan động vật thiên nhiên
hoang dã.
Thay vì đi mua hàng người ta phải ra chợ hoặc cửa hàng thì có cách phục vụ ngược lại
bằng mua hàng online, giao hàng tận nhà…
Sử dụng Toilet để kinh doanh… thu nhập hàng trăm triệu? tại sao không?
Tương tự như vậy, chúng ta nhận thấy sự sáng tạo không ngừng của chiếc điện thoại:
Điện thoại bàn (cố định) Điện thoại di động Smartphone
2.5. LẬP SƠ ĐỒ TƯ DUY

2.5.1. Khái niệm

Hình 2.7: Sơ đồ hình cây – Nguồn Internet


Tony Buzan sinh năm 1942 tại London, là nhà văn, nhà diễn thuyết hàng đầu trên thế
giới. Sơ đồ tư duy (hay còn gọi là Mindmap) là phát minh vĩ đại của ông. Tác phẩm kinh
điển Use Your Head (Sử dụng Trí tuệ của bạn) và những tác phẩm khác trong The Mind
Set (Bộ sách về Tư duy) đã giúp ông trở thành tác giả có sách bán chạy nhất thế giới.
Sơ đồ tư duy là phương pháp dùng hình ảnh của sơ đồ phân nhánh hoặc hình cây để
xâu chuỗi thông tin theo một kết cấu nhất định nhằm thể hiện mối quan hệ theo một trật
tự tạm thời và có tính chủ quan giữa các dữ kiện nhằm làm nổi bật thông tin cần tìm hiểu.
2.5.2. Ưu việt của sơ đồ tư duy
Trong những năm học cấp 3 và Đại học, để nắm được bài giảng của giảng viên một
cách nhanh và lâu nhất, bạn đã sử dụng lối ghi chép và phương pháp học như thế nào gì?
Viết từng bài và học từng chữ như chú vẹt? Kết quả có như bạn mong muốn?
Khi làm việc, để trình bày một ý tưởng mới, bạn sẽ làm như thế nào để sếp và đồng
nghiệp có thể hiểu rõ nội dung ý tưởng nhất? Ghi ra giấy và diễn thuyết lan man không
có bố cục rõ ràng? Như vậy, làm sao bạn có thể nắm chắc các ý trọng tâm cần nhấn mạnh
trong ý tưởng của mình.
Phương pháp ghi chú thông thường có giúp bạn tiết kiệm thời gian không? Không!
Phương pháp ghi chú thông thường có giúp bạn nhớ bài tốt nhất không? Không!
Phương pháp ghi chú thông thường có giúpcá nhân tối ưu hóa sức mạnh của não bộ
không? Không!
Sơ đồ tư duy sẽ giúp bạn giải quyết những điều đó!
Sơ đồ tư duy giúp kích thích khả năng hoạt động của cả hai bán cầu đại não. Trí tưởng
tượng, óc sáng tạo, tầm nhìn bao quát, khả năng loại suy, khả năng chắt lọc thông tin,…
Đây là các chức năng của bán cầu não phải. Bên cạnh đó, sơ đồ tư duy còn cần đến năng
lực của bán cầu não trái bao gồm ngôn ngữ, logic, lý lẽ, trật tự… Với cách ghi chép thông
thường, bạn chỉ có thể sử dụng một bán cầu đại não trái mà bỏ qua sự tương tác ăn ý giữa
hai bán cầu này để tối ưu hóa sức mạnh não bộ của bạn. Có thể nói, sơ đồ tư duy là một
công cụ phối hợp được cả hai bán cầu đại não hỗ trợ lẫn nhau. Từ đó, chúng ta có thể xử
lý nhuần nhuyễn cả hai bán cầu đại não.
Sơ đồ tư duy là một phương pháp tạo ra hình ảnh tư duy của một vấn đề, một nội
dung thông qua các hình ảnh quen thuộc của cuộc sống xung quanh cuộc sống con người.
Sản phẩm thu được là một sơ đồ cho ta cái nhìn chân thật, sâu sắc về sự liên kết mật thiết
chia nhỏ hiện tượng thành chi tiết mang tính khái quát mà không làm mất đi tính hệ thống
của vấn đề. Với cách ghi chép thông thường, bạn chỉ có thể xem xét vấn đề ở một khía
cạnh nhỏ không thể cho bạn một cái nhìn toàn diện. Như vậy, sơ đồ tư duy giúp ta tự tin
chiếm lĩnh tri thức đã học một cách thấu đáo và toàn vẹn nhất so với cách học tập truyền
thống đọc chép.
Ngoài ra, với cách ghi chép thông thường trong suốt 12 năm học phổ thông, bạn có
cảm thấy khổ sở với việc phải mất quá nhiều thời gian lao đầu vào học miệt mài vào
những kì thi quan trọng mà vẫn không nắm được các ý? Sơ đồ tư duy sẽ giúp bạn liên kết
các chương/phần của từng môn thành một khối thống nhất có sự logic chặt chẽ dẫn đến
việc tiếp thu dễ dàng hơn. Nhờ vào việc tận dụng từ khóa và các hình ảnh sáng tạo, một
khối lượng kiến thức to lớn chỉ được tóm gọn trong một trang giấy mà bạn không hề
thiếu sót thông tin nào. Và thay vì mất cả tuần để ôn lại bài trước kì thi thì bạn chỉ mất
vài tiếng đến để tóm gọn tri thức.
2.5.3. Ý nghĩa của việc ứng dụng sơ đồ tư duy
Tony Buzan đã hầu như đi khắp thế giới để truyền bá công cụ này như một phương
tiện tư duy mới và kết quả đã có hàng chục triệu người sử dụng nó một cách rất thường
xuyên. Một khán giả - cũng là người đã sử dụng công cụ này - phát biểu qua kênh thời sự
của đài Truyền hình VTV1 như sau: “Nếu bạn đã sử dụng thuần thục sơ đồ tư duy và
biến nó trở thành một thói quen thì trong bất cứ việc gì bạn suy nghĩ thì một bản đồ lập
tức xuất hiện trong đầu bạn và bắt đầu “bắt rễ” đến những nhánh nhỏ liên quan. Người
khác sẽ rất ngạc nhiên khi bạn đặt những câu hỏi mà đối phương chưa bao giờ nghĩ tới,
nó thể hiện rằng bạn suy nghĩ toàn diện hơn, tách bạch các ý hơn và tất nhiên bạn là
người có tầm hơn khi sử dụng sơ đồ tư duy như một lối suy nghĩ”.
Có thể thấy, sơ đồ tư duy là một công cụ mang lại giá trị to lớn nhằm phát huy tối đa
một số năng lực nhất định. Ở mỗi cá nhân sẽ quyết định thời gian, địa điểm và mục đích
sử dụng công cụ này nhằm đạt được hiệu quả nhất đinh trong học tập, làm việc và cuộc
sống.
Sơ đồ tư duy có thể sử dụng ở bất kì nơi đâu, trong hoàn cảnh nào với những dụng cụ
dễ tìm (cụ thể hơn trong phần 4 – các bước lập sơ đồ tư duy). Ngay từ bây giờ, bạn nên
ứng dụng việc lập một sơ đồ tư duy cho bất kì hoạt động nào thường nhật trong cuộc
sống của bạn (viết lại nội dung quyển sách mới đọc, bài giảng của Thầy Cô vừa học
xong, một kế hoạch tương lai 10 năm sau, ý tưởng cho buổi thuyết trình sắp tới…) để
xem hiệu quả mà nó mang lại trong cuộc sống của mình nhé! Sau đó, hãy sử dụng nó thật
nhuần nhuyễn như một kĩ năng cần thiết trong cuộc sống hằng ngày, chắc chắn nhiều thú
vị và bất ngờ đang chờ đón bạn.
Ngay từ ban đầu, trước khi lập sơ đồ tư duy bạn phải xác định mục tiêu của chính
mình. Việc vẽ sơ đồ giúp chúng ta có cái nhìn vừa lý trí, vừa cảm tính và có thể lường
trước được mục tiêu của mình. Khi về xong một sơ đồ, chúng ta có một cái nhìn bao quát
về tất cả các thành phần nội hàm, cho ta một cái nhìn toàn diện việc nào ưu tiên làm
trước, việc nào làm song song đồng thời, việc nào làm sau (kế hoạch tương lai 10 năm
sau). Mặt khác, sơ đồ tư duy giúp xác định rõ trọng tâm vấn đề nằm ở đâu, tiên liệu được
biến cố bất ngờ cũng như bên ngoài (ý tưởng của bước thuyết trình sắp tới…)
Ngoài ra, sơ đồ tư duy còn giúp bạn ghi chú hiệu quả. Nếu ghi theo lối ghi chú thông
thường, chúng ta cần nắm bắt thông tin thô và cố gắng hiểu bài ghi chú. Ở sơ đồ tư duy,
chúng ta có thời gian tự do ghi chú thông tin nhiều hơn cũng như tự do tổng hợp thông tin
một cách đầy đủ và mạch lạc vào bất cứ lúc nào (phát huy tính sáng tạo, làm việc có hệ
thống).
2.5.4. Sơ đồ tư duy và vai trò của nó trong việc hình thành tư duy sáng
tạo
Tư duy sáng tạo là khả năng giải quyết vấn đề hiệu quả dựa trên sự phân tích lựa chọn
các giải pháp tốt nhất có thể có giúp cuộc sống con người ngày càng tiến bộ và phát triển
hơn. Cuộc sống sẽ như thế nào nếu chúng ta cứ kìm hãm mình trong tính ỳ tâm lý và lối
mòn tư duy?
Sơ đồ tư duy là một công cụ lý tưởng để tư duy sáng tạo bởi bản thân nó vận dụng hết
tất cả các kĩ năng liên quan đến hoạt động sáng tạo của con người, đặc biệt là trí tưởng
tượng, sự liên kết ý tưởng và tính linh hoạt. Có thể nói, sơ đồ tư duy là sản phẩm của
phương pháp công não. Từ một vấn đề sẵn có của cuộc sống hằng ngày, sơ đồ tư duy
được xem là một kho lưu trữ thông tin thu thập một cách hệ thống từ việc công não trên.
Mọi ý tưởng của quá trình công não được sơ đồ tư duy sắp xếp lại theo những nội dung
nội hàm từng ý lớn một cách phong phú nhưng có tổ chức và chắt lọc chặt chẽ. Sơ đồ tư
duy giúp kích thích khả năng sáng tạo của con người nhờ nâng cao khả năng liên tưởng
và tích hợp – những khả năng mang tính sáng tạo cao. Việc vận dụng sơ đồ tư duy một
cách nhuần nhuyễn giúp cá nhân có tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề sâu sắc, có cách
nhìn nhận vấn đề một cách hệ thống, khoa học hơn.
2.5.5. Những trở ngại mà người dùng sơ đồ tư duy có thể gặp phải
Bất kì một công cụ nào khi sử dụng, bên cạnh những lợi ích không thể phủ nhận của
nó, người dùng còn vấp phải những trở ngại. Ở đây, có thể kể đến hai loại trở ngại như
sau: trở ngại từ chính bản thân người dùng và trở ngại từ những người xung quanh gây ra.
Cụ thể như sau:
Trở ngại tử chính bản thân người dùng.
Giữa một “rừng người” sử dụng lối ghi chép và tiếp nhận thông tin một cách thông
thường, chỉ có mình bạn (hoặc một số ít ỏi khác) sử dụng sơ đồ tư duy. Mọi người xung
quanh chắc chắn sẽ dò xét bạn là người lập dị. Tâm lý đám đông của con người rất khó
chấp nhận những người biệt lập so với những người còn lại.
Suy cho cùng, sơ đồ tư duy là một công cụ đơn giản không cần đầu tư nhiều về tài
chính hoặc một công nghệ tiên tiến (sơ đồ tư duy ra đời khá lâu). Khi sử dụng, người
dùng thường băn khoăn về độ hiệu quả của nó so với các kĩ thuật hiện đại khác cần thiết
trong học tập, làm việc và cuộc sống đang phát triển từng ngày, từng giờ trên thế giới.
Đối với những người không có thói quen tiếp nhận và xử lý thông tin bằng hình ảnh
và biểu tượng mà chỉ đơn giản là ngôn ngữ thì sơ đồ tư duy là một trở ngại không nhỏ.
Sử dụng công cụ sơ đồ tư duy đòi hỏi bạn phải làm việc với hình vẽ, màu sắc, tính hài
hước… Điều đó, không hẳn thích hợp và dễ chấp nhận với những người trưởng thành và
lớn tuổi. Bạn rất dễ bị mọi người chế nhạo khi sử dụng công cụ này.
Sơ đồ tư duy là sản phẩm của tưởng tượng. Như vậy, không có bất kì khuôn mẫu hay
đáp án nào hoàn toàn chính xác cho một chủ đề của sơ đồ tư duy. Nỗi e ngại sử dụng
công cụ không đúng khuôn mẫu là một trở ngại lớn từ mọi người xung quanh.
2.5.6. LUYỆN TẬP: VẼ SƠ ĐỒ TƯ DUY
Bạn có muốn tiếp thu thông tin nhanh chóng, đầy đủ và nhớ lâu nhất? Bạn có muốn
hai bán cầu đại não hoạt động linh hoạt, liên kết các dữ kiện thông tin một cách logic,
thống nhất? Bạn có muốn thỏa sức sáng tạo với nhiều ý tưởng mới? Hãy mạnh dạn trải
nghiệm một công cụ làm cuộc sống của bạn thay đổi tích cực hơn.
Bước 1: Chuẩn bị dụng cụ.
a. Giấy.
Thông thường, khi vẽ sơ đồ tư duy chúng ta cần một vài tờ giấy A4 trắng. Ta nên
chọn khổ giấy ngang khi vẽ vì nó thích hợp đặc điểm thị giác con người và tầm nhìn bao
quát cũng tốt hơn. Mặt khác, tránh chọn giấy có kẻ hàng và kẻ ô sẽ dễ bị ảnh hưởng bởi
cách trình bày của giấy.
b. Bút màu.
Chúng ta chuẩn bị sẵn một hộp bút màu, càng nhiều màu sắc càng tốt. Tùy theo ý
thích cá nhân có thể chọn bút lông, bút nước, bút sáp… Màu sắc dùng để phân cấp thông
tin cũng như thể hiện mối quan hệ giữa các thông tin trong sơ đồ. Ngoài ra, màu sắc còn
giúp kích thích các giác quan giúp bản thân hứng thú khi vẽ và sử dụng sơ đồ tư duy. Vậy
nên, quá trình chọn bút màu rất quan trọng cho một sơ đồ tư duy hoàn hảo.
Như vậy, bạn đã chuẩn bị xong dụng cụ để bước đầu vẽ sơ đồ tư duy. Ngoài ra, bạn
cũng cần chuẩn bị cho mình một không gian lý tưởng, tránh tiếng ồn và những tác nhân
ngoại cảnh không cần thiết ảnh hưởng đến sự tập trung của bạn.
Bước 2: Nêu chủ đề trung tâm.
Trong giai đoạn này, chúng ta tìm ra vấn
đề trung tâm của sơ đồ tư duy với một từ
khóa bao quát nhất cùng hình ảnh minh họa
đúng chủ đề. Đây chính là “đầu mối” quan
trọng của quá trình phân nhánh – một quá
trình phát huy đầy đủ năng lực sáng tạo của
con người. Sau đó, ta đặt khổ giấy nằm trang
viết từ khóa cùng hình ảnh đó vào trung tâm Hình 2.16: Nêu chủ đề trung tâm
(ở giữa) tờ giấy A4 nhằm thể hiện các thông tin hay ý tưởng của mình đều bắt đầu từ tâm
bản đồ. Nên vẽ nhiều màu sắc rực rỡ ngay từ khóa chính nhằm kích thích trí nhớ và hứng
thú vào vấn đề đang vẽ.
Bước 3: Phân nhánh.
Xung quanh từ khóa ở trung tâm đó là sự kết nối những ý chính quan trọng nhất theo
chủ đề. Khi vẽ, bạn nên chừa khoảng cách vừa đủ và cân đối giữa các nhánh để tạo sự
trực quan.
Sau đó, bạn tiếp tục vẽ các nhánh phụ ở cấp độ hai, cấp độ ba (nếu có) nhằm bổ sung
các ý từ nhánh chính. Ở từng nhánh, nên chọn từ khóa ngắn gọn và đầy đủ nhất diễn tả
đúng nội dung bạn cần trình bày. Ngoài ra, nếu có thể, bạn nên minh họa hình ảnh kèm
theo bên cạnh từ khóa nhằm mang tính chất gợi mở, liên tưởng vấn đề nhiều hơn. Thêm
vào đó, nếu bạn biết chọn lọc hình ảnh mang màu sắc đa dạng và gần gũi trong cuộc sống
thì khả năng nhớ của bạn sẽ nhanh hơn. Lưu ý, sử dụng một màu khác nhau ở mỗi nhánh
chính và các nhánh phụ (nhánh cấp độ hai, cấp độ ba) đi kèm nên cùng một màu với
nhánh chính. Ngoài ra, bạn có thể sử dụng một màu riêng biệt nhằm nổi bật một loại
thông tin mang ý nghĩa riêng (ví dụ màu đỏ cho số liệu hoặc thông tin khẩn).
Nên để đầu óc thư giãn cho trí tưởng tượng và sáng tạo phát huy nhất có thể.
Để một sơ đồ tư duy hoàn thiện và đầy đủ ý, bạn cần xem xét mọi mặt của vấn đề sao
cho toàn diện nhất. Một số gợi ý sau đây sẽ giúp bạn làm được điều đó:
Nguyên tắc 5W và 1H
Một vài ví dụ về sơ đồ tư duy đơn giản:

Hình 2.17: Nguyên tắc 5W và 1H – Nguồn internet

Hình 2.18: Cấu trúc một sơ đồ tư duy – Nguồn internet


Hình 2.20: Phương pháp đổi mới PPDH – Nguồn internet

Bước 4: Xem xét và hoàn tất.


Sau khi vẽ xong sơ đồ tư duy, bạn hãy chú ý xem xét lại bản đồ của mình một cách
tổng quát và cụ thể. Một số câu hỏi đặt ra: bạn đã xác định đúng từ khóa trên nhánh chính
chưa? Có từ khóa nào dư thừa lặp lại trên các nhánh chính không? Có thể tìm thêm hình
ảnh minh họa cho mỗi nhánh không?
Sau khi đã tự hỏi những câu hỏi trên, bạn có thể sắp xếp lại sơ đồ của mình một lần
nữa và cẩn thận vẽ lại trên một tờ giấy mới. Cần chăm chút từ khóa, màu sắc và hình vẽ
thật ngắn ngọn, súc tích và nổi bật để làm sơ đồ tư duy của bạn logic và dễ nhớ hơn. Nếu
cần, bạn có thể ghi chú những điểm cần thiết theo cách hiểu của cá nhân bạn xem sơ đồ
tư duy dễ dàng hơn.
Một vài sơ đồ tư duy phức tạp:

Hình 2.21: Trái đất nóng lên – Nguồn internet

Hình 2.22: Tỉnh Vĩnh Long – Nguồn internet


2.6. SÁU CHIẾC MŨ TƯ DUY
2.6.1. LỊCH SỬ SÁU CHIẾC MŨ TƯ DUY
Phương thức tư duy “Sáu chiếc mũ” được xem là sự thay đổi quan trọng nhất về mặt
nhận thức của con người trong vòng 2 – 3 thập kỷ gần đây. Đây là phát kiến của Tiến sĩ
Edward de Bono trong năm 1980. Năm 1985 nó đã được mô tả chi tiết trong cuốn “Six
Thinking Hats” của de Bono.
Trích lời mở đầu của EDWard de Bone trong cuốn sách “Six Thinking Hats” [5]:
“Một con linh dương châu Phi khi nghe thấy tiếng động, ngay lập tức hệ thần kinh
trung ương của nó nhận biết được những hiểm họa đang rình rập. Do đó, nó có thể trốn
thoát ngay khi con sư tử xuất hiện.
Bộ não chúng ta cũng hoạt động tương tự như vậy để nhận biết sự việc và giải quyết
sự việc có hiệu quả.
Nhưng chúng ta cùng lúc không thể có sự nhạy cảm tốt đối với mọi việc, cũng giống
như việc chúng ta không thể thiết kế một sân gôn vừa là nơi lý tưởng để đua xe, vừa là
nơi lý tưởng để đánh gôn.
Điều này lý giải sự căn bản của phương thức tư duy 6C. Nó cho phép bộ não chúng
ta tối đa hoá sự nhạy cảm theo từng hướng, trong từng thời điểm. Đơn giản là chúng ta
không thể tối đa hoá sự nhạy cảm theo mọi hướng cùng một lúc.
Tư duy tranh luận đối lập với tư duy đồng thuận.
Phương thức tư duy phương Tây được xây dựng 23 thế kỷ trước bởi ba nhà hiền triết
Hy Lạp với nền tảng là sự tranh luận.Socrates chú trọng đến phương thức tư duy biện
chứng và tranh luận. Theo Plato ghi chép lại thì có đến 80% những cuộc đối thoại với sự
góp mặt của Socrates không có được kết quả mang tính chất xây dựng. Socrates xem vai
trò của ông đơn giản chỉ là việc chỉ ra xem điều gì là sai.
Ông muốn cụ thể hoá sự chính xác của những phạm trù như Công lý và Tình yêu
thông qua những ứng dụng lệch lạc.
Plato lại cho rằng sự thật đích thực ẩn sau vẻ bên ngoài. Ông đưa ra kết luận dựa
trên trắc nghiệm: trói một người vào đường hầm và nhờ ngọn đuốc rọi từ ngoài vào, cái
mà anh ta nhìn thấy duy nhất chính là cái bóng của mình phản chiếu ở cuối đường hầm.
Plato sử dụng dẫn chứng này để chỉ ra rằng mọi người thực chất chỉ nhìn thất "mặt sau"
của sự thật.
Aristotle dựa vào phương thức hệ thống hoá những trật tự logic bao hàm và không
bao hàm sự việc: Dựa trên tiền lệ, chúng ta chia nhóm sự việc cùng với những định
nghĩa, phân loại và nguyên tắc. Khi có sự việc xảy đến, chúng ta đưa nó vào nhóm thích
hợp. Tuy nhiên thực tế lại có những sự việc vừa thuộc nhóm này, vừa thuộc nhóm khác,
hoặc không thuộc nhóm nào cả.
Như vậy ta có thể nhân thấy phương thức tư duy phương Tây đặt trọng tâm vào cách
định nghĩa trước sự việc và đưa ra những phân tích, xét đoán và tranh luận để chứng
minh.
Đó và một phương thức tư duy hữu ích. Nhưng có một cách tư duy toàn diện khác
dựa vào việc xem xét sự việc có thể như thế nào với những luồng tư mang tính chất xây
dựng, sáng tạo và cùng hướng về phía trước. Việc kết hợp các hướng nhìn khác nhau để
giải quyết vấn đề một cách triệt để dựa trên sức mạnh tư duy tập thể là điều cần thiết.
Năm 1998, tôi được mời nói chuyện trong một hội nghị lập hiến nước Úc khi họ đang
xem xét về tương lai của đất nước liên bang này, tôi đã kể câu chuyện sau:
"Ngày trước có một người đàn ông đã sơn chiếc ô tô của ông ta thành hai nửa trắng
đen. Bạn bè ông ta hỏi tại sao ông ta lại làm một việc kỳ cục đến vậy, và câu trả lời của
ông ta là: Tôi chỉ muốn gợi lại những kỷ niệm đã trải qua ở toà án khi các quan toà luôn
tồn tại những quan điểm đối ngược nhau".
Kết thúc hội nghị, ngài Anthony Mason, chủ tịch hội nghị đã nói với tôi rằng sẽ sử dụng
câu chuyện tôi kể, bởi vì thông thường trong các cuộc tranh luận, cả hai phía đều cho rằng
mình đúng, trong khi họ lại xem xét các khía cạnh khác nhau của vấn đề.
Ngày nay, ở nhiều quốc gia, mọi người đều xem tranh luận như là một phương thức
tư duy mang tính xung đột, cá nhân và không xây dựng. Đó cũng chính là lý do tại sao
kiểu tư duy đồng thuận lại được áp dụng rộng rãi đến vậy.”
Phương pháp này đã được phát triển và giảng dạy ở nhiều nơi trên thế giới. Nhiều tổ
chức lớn như là IBM, Federal Express, Brtish Airways, Pepsi, Polaroid, Prudential,
Dupont, …cũng dùng phương pháp này.
2.6.2. KHÁI NIỆM
Phương pháp sáu chiếc mũ tư duy (6 Thinking Hats) là một kỹ thuật mạnh mẽ và độc
đáo. Kỹ thuật này nhằm hướng mọi người cùng tập trung vào vấn đề từ cùng một góc
nhìn, do đó sẽ triệt tiêu hoàn toàn các tranh cãi xuất phát từ các góc nhìn khác nhau. Bên
cạnh đó, giúp các cá thể có được nhiều cái nhìn về một đối tượng mà những cái nhìn này
sẽ khác nhiều so với một người thông thường có thể thấy được.
Phương pháp sáu chiếc mũ tư duy là phương pháp dựa trên nền tảng của tư duy
“đồng thuận”. Đây là một khuôn mẫu cho sự suy nghĩ và nó có thể kết hợp thành lối suy
nghĩ định hướng. Trong phương pháp này thì các phán xét có giá trị sẽ có chỗ đứng riêng
của nó nhưng các phê phán đó sẽ không được phép thống trị như là thường thấy lối suy
nghĩ thông thường.
Thế nào là tư duy đồng thuận?
Có một ngôi nhà rất đẹp nằm ở ngoại ô. Có bốn người: một người đứng đằng trước
ngôi nhà, một người đứng đằng sau, và hai người còn lại đứng ở hai bên. Cả bốn người
có 4 điểm ngắm khác nhau về ngôi nhà, nhưng cả 4 người đều cho rằng nhận xét của
mình về ngôi nhà là đúng. Áp dụng kiểu tư duy đồng thuận, cả bốn người sẽ đi xung
quanh ngôi nhà và quan sát. Như vậy, mỗi người, tại cùng một vị trí quan sát, sẽ có cùng
cái nhìn về ngôi nhà.
Kiểu tư duy này trái ngược với kiểu tư duy tranh luận, đối đầu, và xung đột khi mà
mỗi người đều đưa ra những cái nhìn trái ngược nhau. Do mỗi người đều được quan sát
ngôi nhà từ 4 hướng, nên đều có cái nhìn toàn diện về ngôi nhà. Kiểu tư duy đồng thuận
có nghĩa là tại bất kỳ thời điểm nào, mọi người đều nhìn vấn đề theo cùng một hướng.
Nếu theo kiểu tư duy truyền thống, khi hai người bất đồng quan điểm, họ sẽ tranh luận để
phân đúng, sai. Theo kiểu tư duy đồng thuận, cả hai ý kiến trái ngược nhau sẽ cùng được
đưa ra xem xét. Và nếu cần thiết phải đưa ra lựa chọn, họ sẽ quyết định sau khi đã bàn
bạc. Và nếu không thể chọn lựa một trong hai phương án, họ sẽ chọn cách giải quyết dựa
trên quan điểm tổng hợp của cả hai người. Như vậy, phương thức tư duy này luôn mở ra
con đường phía trước.
2.6.3. Ý NGHĨA CỦA TỪNG CHIẾC MŨ TƯ DUY
a. Mũ trắng
Mũ trắng mang hình ảnh của một tờ giấy trắng, thông tin, dữ liệu.
Khi chúng ta tưởng tượng đang đội chiếc mũ trắng, chúng ta chỉ cần
suy nghĩ về các thông tin, dữ kiện liên quan đến vấn đề đang cần giải
quyết, tập trung trên thông tin rút ra được, các dẫn liệu cứ liệu và
những thứ cần thiết, làm sao để nhận được chúng.
Một số câu hỏi có thể sử dụng:
Chúng ta có những thông tin gì về vấn đề này?
Chúng ta cần có những thông tin nào liên quan đến vấn đề đang xét?
Chúng ta thiếu mất những thông tin, dữ kiện nào?
b. Mũ đỏ
Mũ đỏ mang hình ảnh của lửa đang cháy trong lò, con tim, dòng
máu nóng, sự ấm áp. Khi tưởng tượng đang đội chiếc mũ đỏ, chúng ta
chỉ cần đưa ra các cảm giác, cảm xúc, trực giác, những ý kiến không có
chứng minh hay giải thích, lí lẽ của mình về vấn đề đang giải quyết. Chỉ
đưa ra các điều bộc phát đó, không cần giải thích.
Một số câu hỏi có thể sử dụng:
Cảm giác của tôi ngay lúc này là gì?
Trực giác của tôi mách bảo điều gì về vấn đề này?
Tôi thích hay không thích vấn đề này?
c. Mũ vàng
Khi tưởng tượng đang đội chiếc mũ vàng, bạn sẽ đưa ra các ý kiến
lạc quan, có logic, các mặt tích cực, các lợi ích của vấn đề, mức độ khả
thi của dự án.
Một số câu hỏi có thể sử dụng:
Những lợi ích khi chúng ta tiến hành dự án này là gì?
Đâu là mặt tích cực của vấn đề này?
Liệu vấn đề này có khả năng thực hiện được không?
d. Mũ đen
Người đội mũ đen sẽ liên tưởng đến các điểm yếu, các lỗi, sự bất hợp
lý, sự thất bại, sự phản đối, chần chừ, thái độ bi quan. Vai trò của chiếc
nón đen là giúp chỉ ra những điểm yếu trong quá trình suy nghĩ của chúng
ta. Chiếc nón đen để dùng cho “sự thận trọng”, nó chỉ ra các lỗi, các điểm
cần lưu ý, các mặt yếu kém, bất lợi của vấn đề hay dự án đang tranh cãi.
Chiếc nón đen đóng vai trò hết sức quan trọng, nó đảm bảo cho dự án của chúng ta tránh
được các rủi ro, nó ngăn chúng ta làm điều sai, bất hợp pháp hay nguy hiểm.
Một số câu hỏi có thể sử dụng:
Những rắc rối, nguy hiểm nào có thể xảy ra?
Những khó khăn nào có thể phát sinh khi tiến hành làm điều này?
Những nguy cơ nào đang tiềm ẩn?
e. Mũ xanh lá cây
Chiếc nón xanh lá cây tượng trưng cho sự sinh sôi, sáng tạo. Đây
cũng là chiếc mũ tượng trưng nhiều sự sáng tạo nhất. Trong giai đoạn
đội nón này, chúng ta sẽ đưa ra các giải pháp, ý tưởng cho vấn đề
đang thảo luận.
Một số câu hỏi có thể sử dụng:
Có những cách thức khác để thực hiện điều này không?
Chúng ta có thể làm gì khác trong trường hợp này?
Các lời giải thích cho vấn đề này là gì?
f. Mũ xanh da trời
Chiếc mũ xanh da trời sẽ có chức năng giống như nhạc trưởng, nó
sẽ tổ chức các chiếc mũkhác - tổ chức tư duy. Mũ xanh da trời sẽ
kiểm soát tiến trình tư duy. Đây là chiếc mũ của người lãnh đạo hay trưởng nhóm thảo
luận. Vai trò của người đội mũ xanh da trời là:
Xác định trọng tâm và mục đích thảo luận cho nhóm (Chúng ta ngồi ở đây để làm gì?
Chúng ta cần tư duy về điều gì? Mục tiêu cuối cùng là gì?)
Sắp xếp trình tự cho các chiếc mũ trong suốt buổi thảo luận. Người đội mũ xanh da trời
cần bảo đảm nguyên tắc vàng sau: “Tại một thời điểm nhất định, mọi người phải đội
mũ cùng màu”.
Cuối cùng, tập hợp mọi ý kiến, tóm tắt, kết luận và ra kế hoạch (Chúng ta đã đạt được gì
qua buổi thảo luận? Chúng ta có thể bắt đầu hành động chưa? Chúng ta có cần thêm
thời gian và thông tin để giải quyết vấn đề này?)
2.6.4. QUY TRÌNH THỰC HIỆN
Các bước thực hiện phương pháp sáu chiếc mũ tư duy

Nhóm trưởng sẽ phân chia màu chiếc nón cho từng nhóm hoặc từng cá nhân tùy theo

Hình 3.1: Chiếc mũ nào sẽ nêu ý kiến trước? - Nguồn: Internet

tính chất của vấn đề cần giải quyết. Mỗi chiếc mũ sẽ có thời gian tập trung ý. Tuy nhiên,
khi cần thiết, bất kỳ thành viên nào cũng có thể góp ý thêm cho chiếc mũ khác với câu
nói: “Tôi xin bỏ chiếc mũ màu… trên đầu của mình và đội chiếc mũ màu… để được góp
thêm ý kiến!”.
Bước 1:
Mũ trắng: Tất cả các ý kiến nào chỉ chứa sự thật, bằng chứng, hay dữ kiện, thông tin.
Đội mũ này có nghiã là “hãy cởi bỏ mọi thành kiến, mọi tranh cãi, cởi bỏ mọi dự định và
hãy nhìn vào cơ sở dữ liệu”
Bước 2:
Mũ xanh lá cây: Tạo ra các ý kiến làm sao để giải quyết. Các sáng tạo, các cách thức
khác nhau, các kế hoạch, các sự thay đổi.
Bước 3:
Đánh giá các giá trị cuả các ý kiến trong mũ xanh lá cây.
Viết ra danh mục các lợi ích dùng mũ vàng.
Mũ vàng: Tại sao vài ý kiến sẽ chạy tốt và tại sao nó mang lại lợi ích. Ở đây cũng có
thể dùng về các kết quả cuả các hành động được đề xuất hay các đề án. Nó còn dùng để
tìm ra những vật hay hiệu quả có giá trị cuả những gì đã xảy ra.
Viết các đánh giá, và các lưu ý trong mũ đen.
Đây là mũ có giá trị nhất. Dùng để chỉ ra tại sao các đề nghị hay ý kiến không thích
hợp (hay không hoạt động được) cùng với các dữ kiện, với kinh nghiệm sẵn có, với hệ
thống đang hoạt động, hoặc với chế độ đang được theo. Nón đen lúc nào cũng phải tính
đến sự hợp lý.
Bước 4: Viết các phản ứng, trực giác tự nhiên và các cảm giác xuống.
Mũ đỏ cho phép người suy nghĩ đặt xuống các trực cảm mà không cần bào chữa.
Bước 5: Tổng kết và kết thúc buổi làm việc
Mũ xanh da trời là sự nhìn lại các bước trên hoặc là quá trình điều khiển. Nó sẽ không
nhìn đến đối tượng mà là nghĩ về đối tượng (thí dụ như ý kiến “đội cho tôi cái mũ xanh lá
cây, tôi cảm giác rằng có thể làm được nhiều hơn về cái mũ xanh này”).
Lưu ý: Các bước trên không hoàn toàn nhất thiết phải theo đúng thứ tự như nêu trên
mà ở nhiều trường hợp nên chỉnh lại theo thứ tự như sau:
Trắng -> Đỏ -> Đen -> Vàng -> Xanh lá cây -> Xanh da trời.
Nguyên tắc phương pháp sáu chiếc mũ tư duy [5]
a. Nền tảng của phương thức tư duy đồng thuận là vào bất cứ thời điểm nào, mọi người
đều nhìn vấn đề ở cùng một hướng. Nhưng hướng này có thể thay đổi.
Một nhà thám hiểm có thể được yêu cầu bắt đầu cuộc hành trình từ hướng Bắc, hoặc
hướng Đông. Đây là hai hướng tiêu chuẩn. Khi giải quyết vấn đề, chúng ta cũng cần
những hướng chuẩn để tư duy. Vậy những hướng chuẩn khác nhau để mọi người cùng
xem xét vấn đề là gì?
Những chiếc mũ sẽ biểu thị những hướng này. Ở nhiều quốc gia, luôn tồn tại mối liên
hệ chặt chẽ giữa kiểu tư duy và "những chiếc mũ tư duy". Mỗi chiếc mũ biểu thị một kiểu
tư duy. Mỗi người lựa chọn cho mình một chiếc mũ nhất định. Nhưng người đó hoàn
toàn có thể thay mũ khác. Những chiếc mũ cũng là những vật xung quanh mà ta thường
thấy. Vì những lý do đó, tôi chọn chiếc mũ biểu thị hướng tư duy.
Tuy nhiên, tôi không đề cập đến những chiếc mũ mà chúng ta vẫn thường đội khi ra
khỏi nhà. Đây là những chiếc mũ của trí tưởng tượng. Thỉnh thoảng trong phòng họp
người ta cũng dựng những tâm áp phích vẽ hình chiếc mũ, đây cũng là một cách để
chúng ta tưởng tượng về phương hướng. Có sáu sắc màu tương ứng với sáu chiếc mũ:
trắng, đỏ, đen, vàng, xanh lá cây và xanh da trời.
b. Phương hướng chứ không phải sự miêu tả
Cần phải chú tâm rằng những chiếc mũ chỉ phương hướng và không mô tả sự việc xảy
ra. Nó hoàn toàn khác với việc mọi người định nghĩa sẵn tình huống và sử dụng chiếc mũ
để mô tả điều họ đã định nghĩa. Chiếc mũ được chọn, và mọi người xem xét sự việc theo
hướng đó. Khi mọi người được yêu cầu đội mũ màu trắng, nó đồng nghĩa với việc mọi
người sử dụng thông tin để xem xét tình huống. Mọi người đưa ra những thông tin cần
thiết, đặt câu hỏi và xem xét vấn đề. Với chiếc mũ đỏ, mọi người sẽ dựa vào cảm giác, trực
giác và cảm xúc để xem xét tình huống. Chiếc mũ đen đồng nghĩa với việc hãy cẩn trọng
chỉ ra những khó khăn tiềm tàng của sự việc để tìm cách chuyển hướng sang chiếc mũ
vàng (cân nhắc đến lợi ích, giá trị và những mặt tích cực).
Một điều vô cùng quan trọng là việc nhận ra được sự khác nhau giữa sự mô tả và việc
định hướng. Mô tả đồng nghĩa với việc định nghĩa trước sự việc. Trong khi đó xác định
hướng xem xét sự việc là gì. Cách nói "Tôi muốn anh nhìn nó từ hướng Bắc" khác hẳn với
câu "Anh đang nhìn từ hướng Bắc đấy!". Cũng tương tự như vậy, câu "Tôi muốn anh làm
món trứng bác" khác hẳn với câu "Tôi thấy anh đã làm món trứng bác".
c. Chiếc mũ không nói lên bản chất con người
Chúng ta có thể tiến hành những trắc nghiệm khác nhau để dựa vào đó xác định xem
người này thuộc tuýp người A hay B. Các nhà tâm lý học luôn làm theo cách này. Vấn đề
nằm ở chính việc phân nhóm này: mọi người khi được xác định sẵn là tuýp A hay B, họ
thường có khuynh hướng điều khiển bản thân phù hợp với tuýp đó. Đây là một minh
chứng nữa cho kiểu tư duy áp đặt thay cho kiểu tư duy đồng thuận.
Theo lối tư duy truyền thống, nếu chúng ta xem một cuộc thi chạy, mọi người cho
rằng người gầy thường về đích trước người béo. Nhưng kết quả có thể ngược lại nếu
chàng mập kia tập luyện xe đạp để tăng sự bền bỉ - theo cách tư duy đồng thuận.
Mọi người thường có xu hướng dựa vào "chiếc mũ đội đầu" để kết luận bản chất con
người, nhận xét người này là thuộc kiểu mũ xanh lá cây, người kia thuộc kiểu mũ xanh lá
cây, người kia thuộc kiểu mũ xanh da trời! Chúng ta cần tránh lối tư duy như vậy.
Chiếc mũ chỉ diễn tả cách thức cư xử của con người, không nói lên bản chất con
người. Trên thực tế, một số người thường có khuynh hướng tư duy cẩn trọng, luôn thấy
hiểm hoạ rình rập. Một số người lại có lối tư duy hời hợt, số khác lại chỉ chăm chăm vào
con số thực tế. Một người có thể thích lối tư duy này hơn lối tư duy khác hoặc có ưu thế
với những lối tư duy nhất định. Nhưng tuyệt nhiên chiếc mũ đội đầu không nói lên bản
chất con người.
Nếu bạn điều khiển chiếc ô tô với cần số tay, bạn có thể đi số nào mà bạn muốn. Động
cơ ô tô của bạn được thiết kế cho phép bạn làm như vậy. Tương tự như thế, mọi người
đều có thể và đủ khả năng nhìn mọi hướng.
Với những lý do vừa nêu, chúng ta không nên chụp cho mỗi người những chiếc mũ
nhất định. Cách nhìn nhận như vậy phá hủy toàn bộ hệ thống tư duy sáu chiếc mũ -
phương thức tư duy cho phép mọi người đều có thể nhìn mọi hướng.
d. Tại một thời điểm nhất định, mọi người phải đội mũ cùng màu
Trong một cuộc họp, một người chọn cho mình chiếc mũ đen, người kia chọn cho
mình chiếc mũ trắng, người khác lại chọn mũ khác và họ đội chiếc mũ đó suốt cả buổi
họp. Điều đó đi ngược lại cách sử dụng phương thức sáu chiếc mũ tư duy - lối tư duy
đồng thuận. Lối tư duy đồng thuận tập trung kinh nghiệm và sự khôn khéo của mọi người
theo cùng một hướng. Vào một thời điểm, mọi người đều đội chiếc mũ đen, lúc khác lại
cùng đội chiếc mũ trắng. Lối tư duy đồng thuận phát huy tối đa kinh nghiệm và sự khôn
khéo của mọi người.
2.6.5. ỨNG DỤNG
Ứng dụng của phương pháp sáu chiếc mũ tư duy:
Kích thích suy nghĩ song song.
Kích thích suy nghĩ toàn diện.
Tách riêng cá tính (như là bản ngã, các thành kiến …) và chất lượng.
Đào tạo về sáng tạo, điều phối cuộc họp, quản lý cuộc họp.
Tăng năng suất làm việc và trao đổi trong nhóm.
Cải tiến sản phẩm và quá trình quản lý dự án.
Phát triển tư duy phân tích, và ra quyết định.
Có những người tìm đủ mọi cách để làm thay đổi tính cách của người khác. Họ tin
rằng nếu họ chỉ ra những điểm yếu của người khác, thì người đó sẽ tìm cách hoàn thiện
bản thân. Cách nghĩ như vậy thường phát huy hiệu quả kém hoặc chẳng có hiệu quả gì.
Khi áp đặt tính cách cho một người, thì những hành động họ sẽ làm thiên về thể hiện tính
cách đó. Các nhà triết học thường chú trọng phân tích các sự việc để tìm ra bản chất và
động lực phát triển của chúng.
Trong khi đó, quan điểm của Nho giáo lại hoàn toàn trái ngược. Nho giáo không đề
cao bản chất của mỗi cá nhân mà chỉ quan tâm tới hành vi ứng xử. Nho giáo giúp chúng
ta có những hành vi ứng xử phù hợp với đồng nghiệp, với cấp dưới, cấp trên và với người
thân mà không cần quan tâm tới tính cách cũng như những biểu hiện tâm lý của họ như
thế nào. Phương thức tư duy "Sáu chiếc mũ" thiên về kiểu tư duy của Nho giáo hơn là
triết học. Nó đặt ra những luật ứng xử mà mọi người bắt buộc phải tuân theo. Nếu có thể,
bạn cứ thể hiện hết khả năng của mình, nhưng bạn phải tuân theo luật. Với việc đưa ra
những hành vi ứng xử phương thức tư duy "Sáu chiếc mũ" dễ dàng được chấp nhận hơn
là việc thay đổi bản chất cá nhân. Ưu điểm của phương thức này: nhanh chóng và hiệu
quả.
Khía cạnh "trò chơi" trong lối tư duy này là rất quan trọng. Khi "trò chơi" bắt đầu, nếu
ai không tuân theo luật chơi, người đó được xem như là không hợp tác. Khi mọi người
chuyển từ chiếc mũ đen (cẩn trọng) sang chiếc mũ vàng (lợi ích tiềm ẩn), nếu bạn vẫn
khăng khăng đội mũ đen, bạn sẽ bị loại. Việc cuốn mọi người vào "trò chơi" là một cách
vô cùng hiệu quả để thay đổi hành vi ứng xử của mọi người.
Cùng với thời gian, hiệu quả của việc áp dụng phương thức tư duy "Sáu chiếc mũ"
càng được thể hiện rõ ràng thông qua những phản hồi từ những người áp dụng.
Có bốn ưu điểm chính sau đây:
Phát huy sức mạnh tập thể
Với phương thức tư duy "Sáu chiếc mũ", kiến thức và kinh nghiệm của từng cá nhân,
nhóm được phát huy thành sức mạnh tập thể. Nó hình thành thông qua việc tất cả mọi
người xem xét và giải quyết sự việc theo cùng một hướng.
Không giống với việc mọi người cùng nhau tranh luận như ở các toà án, để giành
được phần thắng - để đạt được điều này, có khi họ sẵn sàng bưng bít những thông tin có
lợi cho đối phương, tất cả mọi người tập trung lại nhằm giải quyết vấn đề một cách dễ
dàng. Hãy tưởng tượng xem, có kim loại nào lại không nóng chảy khi bị nung ở nhiệt độ
tuyệt đối![5]
Tiết kiệm thời gian
Tập đoàn Optus (Úc) trải qua bốn tiếng đồng hồ để đi đến quyết định trong một cuộc
họp quan trọng. Áp dụng phương thức tư duy "Sáu chiếc mũ", thời gian rút xuống chỉ còn
45 phút.
Tất cả mọi người khi áp dụng phương thức tư duy này đều thông báo rằng họ tiết
kiệm được rất nhiều thời gian bàn bạc. Có những cuộc thảo luận được rút ngắn xuống
1/2, 1/3, 1/4, thậm chí là 1/15 (như trường hợp của tập đoàn ABB).
Theo điều tra tại Mỹ, lãnh đạo của các tập đoàn tốn mất gần 40% thời gian cho các
cuộc thảo luận. Nếu áp dụng phương thức tư duy "Sáu chiếc mũ", họ có thể giảm tới 75%
thời gian hội họp, do đó tăng thêm 30% thời gian làm việc mà chẳng tốn một đồng chi
phí nào.
Theo kiểu tư duy truyền thống, hoặc tranh luận, bạn sẽ phản bác lại những quan điểm
khác bạn, đôi khi bằng những cách bất lịch sự.
Nhưng với lối tư duy đồng thuận, mọi người luôn nhìn về cùng một hướng. Những
quan điểm được đặt tương đồng. Sự việc sẽ nhanh chóng được giải quyết. Thông thường,
khi hai người có hai quan điểm khác nhau, tranh luận sẽ nổ ra. Với lối tư duy đồng thuận,
hai quan điểm đó sẽ cùng được xem xét và chọn lựa. Như vậy, sẽ luôn tránh được việc
tranh luận [5].
Loại trừ được ảnh hưởng cá nhân
Mọi người có khuynh hướng áp đặt tư duy cá nhân lên người khác. Họ cố gắng chứng
tỏ sự thông minh và sự riêng biệt của mình. Có một số người chọn cách bất đồng quan
điểm với người khác nhằm thể hiện bản thân mà không hề xem xét đúng sai. Họ thực ra
không nhận biết hết được ảnh hưởng của điều này tới hiệu quả công việc.
Ví như sự phán xét ở toà án, ban bồi thẩm đôi lúc không thống nhất được quan điểm
với nhau, dù với bất kỳ chứng cứ gì. Các vị thẩm phán cho hay nguyên nhân là mọi người
không hiểu hết được tầm quan trọng của vấn đề. Như vậy, cán cân pháp luật đã không
được thực thi nghiêm chỉnh, đôi khi chỉ vì những vấn đề mang tính cá nhân. Đó chính là
lý do tại sao hiện nay ở một số quốc gia, phương thức tư duy "Sáu chiếc mũ" được đem
giảng dạy cho các thẩm phán nhằm loại bỏ ảnh hưởng cá nhân tới việc đưa ra phán xét.
Cá nhân càng có nhu cầu khẳng định bản thân khi gặp phải những quan điểm đối
nghịch. Phương thức tư duy "Sáu chiếc mũ" không có chỗ cho những quan điểm như vậy.
Cá nhân sẽ phô bày kỹ năng theo hướng đã định sẵn [5].
Chú tâm vào sự việc
Sự ôm đồm khiến chúng ta không thể xử lý tốt công việc.
Có 6 hướng để xem xét sự việc: Thông tin, cảm xúc, tìm kiếm ý tưởng mới, sự cẩn
trọng, và tìm kiếm ích lợi. Chúng ta không thể cùng lúc xem xét một cách có hiệu quả
theo tất cả 6 hướng đó. Giống như việc tung từng quả bóng lên một cách dễ dàng hơn so
với tung cùng lúc 6 quả bóng.
Với phương thức tư duy "Sáu chiếc mũ", chúng ta cố gắng xem xét sự việc theo từng
hướng. Chúng ta chia thời gian để lần lượt xem xét những hiểm hoạ (Mũ đen), tìm kiếm
những ý tưởng mới (Mũ xanh lá cây), tập trung vào xử lý thông tin (Mũ trắng).
Với một máy in màu, hình ảnh hiện ra sống động nhờ sự tổng hợp lần lượt các sắc
màu. Cũng giống như vậy, phương pháp tư duy "Sáu chiếc mũ" giúp bạn có câu trả lời tối
ưu cho sự việc dựa vào việc xem xét lần lượt từng hướng.
Xét trên góc độ sinh lý, chúng ta cần thiết phải tách bạch các kiểu tư duy. Bởi như tôi
đã nói trong lời giới thiệu với những luồng suy nghĩ khác nhau, bộ não có được những
mức độ nhạy cảm khác nhau.
Máy bay của bạn sẽ hạ cánh sau khi bay qua một bãi xe. Nếu lúc đó bạn nghĩ tới chiếc
ô tô màu vàng, thì thể nào nó cũng hiện ra trước mắt bạn. Đó là một minh chúng về sự
nhạy cảm. Tuy nhiên, cá nhân sẽ mất đi sự nhạy cảm đó nếu cùng lúc xem xét sự việc
theo nhiều hướng. Khi tư duy theo phương thức "Sáu chiếc mũ" hiệu quả tư duy được thể
hiện ngay. Và thay cho việc áp đặt lối tư duy cá nhân hay những tranh luận gay gắt,
chúng ta đưa ra được những quyết định mang tính xây dựng, nhanh chóng và hiệu quả.
Mọi người chọn cách tranh luận vì đó là cách giải quyết vấn đề duy nhất mà họ biết.
Phương thức tư duy "Sáu chiếc mũ" chỉ ra một lối tư duy khác [5].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Xuân Bảo (2006). Hãy vượt qua tính ỳ tâm lý. NXB Giáo dục.
2. Dương Xuân Bảo (2006). Những mẩu chuyện về phương pháp luận sáng tạo. NXB
giáo dục.
3. Phan Dũng (1998). Phương pháp luận tư duy sáng tạo. NXB Thành phố Hồ Chí
Minh.
4. Thái Trí Dũng (2000). Tâm lý và giao tiếp ứng xử. Đại học Kinh tế.
5. Edward de Bono (Tuấn Anh dịch - 2010), Tư duy là tồn tại: Sáu sắc thái tư duy – sáu
chiếc mũ tư duy, NXB Văn hóa thông tin.
6. Huỳnh Văn Sơn (2009). Giáo trình Tâm lý học sáng tạo. NXB ĐH Sư phạm
Tp.HCM.
7. Nguyễn Huy Tú (2000). Giáo trình Tâm lý học sáng tạo. Viện Khoa học Giáo dục.
8. Đức Uy (1999). Tâm lý học sáng tạo. NXB Giáo dục.

You might also like