You are on page 1of 136

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Ái Vân

ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TỰ


TRUYỆN VÀ HỒI KÍ CỦA TÔ HOÀI

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Ái Vân

ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TỰ


TRUYỆN VÀ HỒI KÍ CỦA TÔ HOÀI
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS NGUYỄN THÀNH THI

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gởi lời cảm ơn chân thành đến quí Thầy Cô, những người đã tận tình giảng dạy, động
viên, giúp đỡ, đóng góp ý kiến cho tôi trong quá trình học tập cũng như khi thực hiện luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Phó giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Thành Thi, người đã
tận tình hướng dẫn, hết lòng giúp đỡ, để tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn phòng Khoa học Công nghệ – Sau đại học trường Đại học Sư Phạm
Thành phố Hồ Chí Minh, Ban giám hiệu, Tổ Văn Trường Trung học phổ thông Chuyên Lê Hồng
Phong, các thành viên trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã tạo điều kiện, giúp đỡ, khuyến khích,
động viên tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.
Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi kính mong nhận được sự đóng góp, giúp
đỡ của các Thầy Cô, các đồng nghiệp và các bạn.

Thành Phố Hồ Chí Minh, ngày 08 tháng 9 năm 2011


Nguyễn Thị Ái Vân
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................................... 1
1T T
1

MỤC LỤC ............................................................................................................................ 2


1T T
1

MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 4
1T T
1

1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................................................. 4
1T 1T

2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................................................................... 5


1T 1T

2.1. Ý kiến đánh giá tổng quát về sự nghiệp sáng tác chung của Tô Hoài ............................................. 5
T
1 T
1

2.2. Ý kiến về mảng tự truyện, hồi kí trong sáng tác của Tô Hoài ......................................................... 6
T
1 T
1

3. Phạm vi – đối tượng nghiên cứu ........................................................................................................... 9


1T 1T

4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................................................... 9


1T 1T

5. Đóng góp mới của luận văn .................................................................................................................. 9


1T 1T

6. Cấu trúc của đề tài ................................................................................................................................ 9


1T 1T

Chương 1: TỰ TRUYỆN, HỒI KÍ – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT THỂ LOẠI ..... 11


1T T
1

1.1. Thể loại Tự truyện và Hồi ký ........................................................................................................... 11


1T 1T

1.1.1. Khái niệm Tự truyện ................................................................................................................ 11


T
1 1T

1.1.2. Khái niệm hồi kí ...................................................................................................................... 12


T
1 1T

1.1.3. Đường biên động/ranh giới mờ giữa tự truyện và hồi kí ........................................................... 14


T
1 T
1

1.2. Hồi kí trong tự truyện và tự truyện trong hồi kí Tô Hoài .................................................................. 16


1T T
1

1.3. Về sáng tác của Tô Hoài .................................................................................................................. 17


1T 1T

1.4. Vị trí của tự truyện, hồi kí trong sáng tác của Tô Hoài ..................................................................... 18
1T T
1

Chương 2: NGHỆ THUẬT TÁI HIỆN, TÁI TẠO HỒI ỨC VÀ TIẾNG NÓI CỦA CÁI
1T

TÔI TRONG HỒI KÍ, TỰ TRUYỆN CỦA TÔ HOÀI .................................................... 25 T


1

2.1. Hồi kí, tự truyện Tô Hoài – Thế giới của hồi ức ............................................................................... 25
1T T
1

2.2. Tiếng nói của cái tôi – tự truyện, hồi kí và nghệ thuật tự biểu hiện................................................... 30
1T T
1

2.2.1. Cái “tôi” tác giả – nhân vật trong tự truyện, hồi kí Tô Hoài ..................................................... 30
T
1 T
1

2.2.1.1. Cái “tôi” ngây thơ, hài hước, hóm hỉnh, tài hoa, giàu trí tượng tượng................................ 31
T
1 T
1

2.2.1.2. Cái “tôi” sâu sắc, giàu cảm xúc, nhân ái, gắn bó, yêu quí cảnh vật và con người quê hương
T
1 T
1

..................................................................................................................................................... 35
2.2.1.3. Cái tôi tuổi trẻ nhiều mơ ước, nhiệt tình và không thiếu trải nghiệm xót xa ....................... 37
T
1 T
1

2.3. Khắc họa nhân vật qua hồi ức, bằng hồi ức ...................................................................................... 42
1T T
1

2.3.1. Khắc họa nhân vật người thân ................................................................................................. 42


T
1 1T

2.3.2. Cách khắc họa nhân vật bạn văn qua hồi tưởng ........................................................................ 46
T
1 T
1

2.4. Những bức tranh đời sống (thiên nhiên, sinh hoạt) qua hồi ức của nhân vật tôi/ người kể chuyện. ... 55
1T T
1

Chương 3: NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG HỒI KÍ, TỰ TRUYỆN CỦA TÔ
1T

HOÀI .................................................................................................................................. 63
T
1

3.1. Kết hợp trần thuật theo diễn biến sự kiện và trần thuật theo dòng hồi ức ......................................... 63
1T T
1

3.1.1. Trần thuật theo trình tự dòng hồi ức ......................................................................................... 63


T
1 T
1

3.1.2. Kết hợp trần thuật theo diễn biến sự kiện và trần thuật theo dòng hồi ức .................................. 65
T
1 T
1
3.2. Hòa phối điểm nhìn (quanh một góc nhìn chủ đạo) trong trần thuật ................................................. 67
1T T
1

3.2.1. Khái niệm điểm nhìn trần thuật ................................................................................................ 67


T
1 1T

3.2.2. Nghệ thuật hòa phối điểm nhìn................................................................................................. 70


T
1 1T

3.3. Kĩ thuật giảm tốc, tăng tốc, đảo thuật, dự thuật ............................................................................... 72
1T T
1

3.3.1. Kĩ thuật giảm tốc, tăng tốc ....................................................................................................... 72


T
1 1T

3.3.2 Kĩ thuật đảo thuật..................................................................................................................... 77


T
1 1T

3.4. Kết hợp ưu thế của các loại diễn ngôn, phát huy sức mạnh ngôn từ, giọng điệu trong trần thuật....... 78
1T T
1

3.4.1. Kết hợp ưu thế của các loại diễn ngôn ...................................................................................... 78
T
1 T
1

3.4.2 Sức mạnh ngôn từ ..................................................................................................................... 85


T
1 1T

3.4.2. Kết hợp ưu thế của các loại giọng điệu trong trần thuật ............................................................ 95
T
1 T
1

3.4.3.1. Giọng điệu hài hước, dí dỏm............................................................................................ 96


T
1 T
1

3.4.3.2. Sự hòa quyện phức hợp của những giọng điệu trần thuật .................................................. 99
T
1 T
1

KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 104


1T T
1

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 106


1T 1T

PHỤ LỤC ......................................................................................................................... 109


1T T
1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Nhà văn Tô Hoài là một tác giả lớn của nền văn học Việt Nam. Trong quá trình lao động
sáng tạo nghệ thuật bền bỉ của mình, ông đã có những đóng góp lớn cho nền văn học Việt Nam hiện
đại về mặt nội dung và nghệ thuật, cả chất lượng và số lượng. Trong bài báo “Với Tô Hoài” trích ở
Tuyển tập mười năm tạp chí Văn học và Tuổi trẻ [38] nhà văn Xuân Trường đoán định Tô Hoài là
người viết nhiều nhất ở nước ta. Cũng trong bài báo này, vào những năm 1991, Tô Hoài nhớ ông có
khoảng 140 đầu sách. Đến nay theo nhiều nhà nghiên cứu thống kê, số lượng tác phẩm của Tô Hoài
đã là gần 200 đầu sách…Như vậy chúng ta thấy khả năng lao động nghệ thuật rất đáng khâm phục
của tác giả. Đặc biệt ở đề tài nào ông cũng có những tác phẩm để lại dấu ấn trong lòng người đọc, ở
thể loại nào ông cũng có sự tiên phong, đóng góp riêng, thúc đẩy sự phát triển chung của nền văn
xuôi Việt Nam hiện đại.
Trong đời sống văn học Việt Nam từ xưa đến nay, tự truyện và hồi kí – vốn rất gần gũi nhau
– vẫn là những thể loại văn xuôi nghệ thuật mà trong những bối cảnh cụ thể của đất nước và đời
sống cá nhân, nhiều nhà văn ngại dùng đến do tính chân thật cao và dấu ấn cá nhân đậm nét của nó.
Đây là các thể loại có nhiều thách thức đối với nhà văn. Đến thế kỉ XX, việc tìm hiểu về đặc trưng
thể loại văn chương được đặt ra như một vấn đề chính trong nghiên cứu văn học, thể loại tự truyện,
hồi kí dần có sự phát triển và khẳng định ví trí của nó trên văn đàn. Tô Hoài là một trong những tác
giả có đóng góp lớn về thể loại này. Ông xứng đáng là một tác giả văn chương như nhà văn Nguyên
Ngọc trên báo tuổi Trẻ chủ nhật ngày 7 tháng 6 năm 2009 đã nhận xét: “Tô Hoài là vậy, nhà văn
cần mẫn và tài hoa “đục đẽo” suốt đời vào cái thứ đẹp nhất mà cũng khó nhất trên đời, là nghệ
thuật” [43].
1. Thể loại tự truyện, hồi kí có một giá trị khá đặc biệt trong quá trình phát triển của văn học
Việt Nam mà Tô Hoài là một trong những tác giả có những tác phẩm thành công về thể loại văn học
này.
2. Khi nghiên cứu về sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài thì mảng tự truyện, hồi kí chiếm một vị
trí đáng kể. Nên việc nghiên cứu sẽ giúp hiểu về sự nghiệp văn học của Tô Hoài, sẽ có cái nhìn đầy
đủ và toàn diện hơn về con người và phong cách văn chương nhà văn từ đó có cơ sở để nghiên cứu
thể loại tự truyện, hồi kí của các nhà văn khác.
3. Tô Hoài là một tác giả được chọn giảng dạy trong chương trình dạy và học Văn ở nhà
trường phổ thông. Bởi thế, việc nghiên cứu về con người và sự nghiệp văn chương của ông sẽ giúp
cho giáo viên có kiến thức vững chắc, có tầm khái quát từ đó có khả năng xác định trọng tâm bài
giảng một cách chuẩn xác.
Đó là những lí do khiến cho người viết chọn đề tài: “Đặc điểm nghệ thuật tự truyện và hồi
kí của Tô Hoài”.
2. Lịch sử vấn đề
Tô Hoài là một gương mặt tiêu biểu trong văn học Việt Nam hiện đại. Ông là một nhà văn
lớn, có đóng góp về nhiều thể loại văn học khác nhau. Trên trang viết của mình ông luôn để lại
những dấu ấn riêng, có dấu “vân tay” in trên chữ, có “một giọng điệu riêng, một cách nói
riêng”(Phong Lê). Các trang viết với giọng điệu và cách thể hiện riêng ấy đã đem đến cho Tô Hoài
một phong cách nghệ thuật đặc sắc. Hơn nữa, ông sáng tác trong thời gian dài, đồ sộ về số lượng,
phong phú về thể loại, lại có những đóng góp lớn cho quá trình phát triển nền văn học dân tộc ta.
Chắc chắn có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu và quan tâm tới. Chúng tôi bắt gặp một số lượng không
nhỏ những bài chuyên luận, phê bình ở những mức độ khác nhau về phong cách nghệ thuật, tác
phẩm, con người tác giả. Để có được cái nhìn khái quát, người viết tạm chia:

2.1. Ý kiến đánh giá tổng quát về sự nghiệp sáng tác chung của Tô Hoài

Bàn về giá trị văn chương Tô Hoài, xưa nay có rất nhiều ý kiến của các nhà văn, các nhà lý
luận và phê bình văn học. Họ đã dành nhiều sức lực, tâm huyết cho những sáng tác có giá trị của Tô
Hoài. Từ khi xuất hiện các tác phẩm của Tô Hoài đã được giới nghiên cứu văn học chú ý.
Trước 1945, Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại viết: “Truyện ngắn của
Tô Hoài không những đặc biệt về lời văn, về cách quan sát, về lối kết cấu, mà còn đặc biệt cả về
những đầu đề do ông chọn lựa nữa” [87]. Đây là nhận xét về tài năng văn chương còn đang trẻ, mà
có sức viết khỏe và hay. Tô Hoài sáng tác nhanh, thể loại phong phú nên tác giả còn đánh giá cao
Tô Hoài ở: "Cũng như ở những truyện ngắn của ông đăng trong Hà Nội Tân văn trong khoảng 1940
– 1941, ở tập Quê người ông tỏ ra là một nhà tiểu thuyết có con mắt quan sát sâu sắc" [87]. Tô
Hoài được xếp vào nhóm các tác giả tả chân. Là người đỡ đầu cho Tô Hoài vào nghề văn, Vũ Ngọc
Phan nhận rõ những đặc sắc, những mạnh – yếu trong văn Tô Hoài. Ông cho thấy cùng với năng lực
miêu tả tinh tế thế giới loài vật, Tô Hoài còn là “nhà văn có biệt tài viết về những cảnh nghèo nàn
của dân quê”. Nhà phê bình cũng đã sớm phát hiện chất giọng “trào lộng và khinh bạc” ở Tô Hoài.
Sau năm 1945, Tô Hoài đã cho ra đời nhiều tác phẩm. Số lượng công trình nghiên cứu văn
chương Tô Hoài cũng không ngừng gia tăng. Những nhà phê bình có tên tuổi yêu thích văn chương
Tô Hoài như: Trần Hữu Tá, Phong Lê, Nguyễn Đăng Mạnh, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Vân
Thanh, Nguyễn Văn Long,Vương Trí Nhàn, Nguyễn Đăng Điệp…đã có những đánh giá thật tinh tế
khách quan về các tác phẩm văn chương của ông.
Trần Hữu Tá, trong cuốn sách Tô Hoài một đời văn phong phú và độc đáo đánh giá tổng
quát về sự nghiệp sáng tác và phong cách nghệ thuật của Tô Hoài. Trần Hữu Tá nhấn mạnh ngay ở
tựa đề bài viết: “Tô Hoài – một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại”
[84]. Một sự nghiệp văn học phong phú về đề tài, đồ sộ về số lượng, có phong cách độc đáo.
Hà Minh Đức nhận xét, đánh giá Tô Hoài thành công ở nhiều đề tài khác nhau: "Tô Hoài
trong dòng chung của trào lưu văn học hiện thực ngày càng tạo riêng cho mình những giá trị mới.
Ông viết về đất nước, con người qua những bức tranh xã hội chân thực và lắng đọng với thời gian
để làm nổi lên những giá trị vật chất, tinh thần bền vững. Tô Hoài với vùng đất ven thành qua bao
đời, Tô Hoài với con người và thiên nhiên xứ nhiệt đới nhiều kì thú, những phong tục tập quán lâu
đời, các loài vật trong nhà và hoang dã" [50,12]. Đặc biệt khi viết về thiên nhiên, phong tục quê
hương.
Phong Lê đánh giá cao nghệ thuật miêu tả và tài dùng ngôn ngữ tự nhiên mà giàu có của Tô
Hoài: "Ở tuổi hai mươi, ngòi bút Tô Hoài thật đã xiết bao linh hoạt. Quan sát kĩ lưỡng và tinh tế.
Ngôn ngữ tự nhiên mà giàu có. Thiên nhiên khoáng đãng mà mơ mộng. Nhân vật có dáng riêng,
giọng riêng và đều sắc nét" [50,25].
Phan Cự Đệ thấy được sự gắn bó sát sao của Tô Hoài với hiện thực cuộc sống. Với Tô Hoài
cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học. Vì thế tác phẩm của Tô Hoài thành công ở
nhiều đề tài khác nhau: "Có những người từ sách vở lí luận, từ vốn văn hóa kiến thức đi vào văn
học. Tô Hoài chủ yếu từ cuộc sống mồ hôi nước mắt, từ cuộc đời lam lũ của quần chúng, từ những
cái gì rất dân tộc rất dân gian mà đi vào con đường sáng tác...Tác phẩm của anh là sự gắn bó mật
thiết với quê hương đất nước, từ cảnh sắc thiên nhiên, phong tục sinh hoạt cho đến truyền thống
văn hóa, ngôn ngữ dân tộc, là tấm lòng yêu thương khâm phục, ơn nghĩa thủy chung đối với người
lao động nghèo khổ nhưng rất thông minh, anh dũng miền xuôi và miền ngược của Tổ quốc"
[50,104].
Bùi Hiển đánh giá cao về nghệ thuật kể chuyện bằng rất nhiều giác quan tinh nhạy: "Nghệ
thuật kể chuyện của Tô Hoài là thế, thiên về thị giác, một thứ thị giác tinh nhạy, đầy màu sắc và ấn
tượng, cảm xúc, nói rộng ra hơn nữa là thiên về cảm giác, về cảm nhận trực quan cụ thể, về biểu
hiện các sắc thái tình cảm gần gũi thầm kín. Và bởi vì tất cả những cái đó đều xuất phát từ một tình
yêu gắn bó đối với cuộc sống chiến đấu của dân tộc, sáng tác của anh tỏa ra một nguồn sáng ấm áp
và phảng phất lung linh nhiều sắc độ, nó là một trong những bí quyết thành công của anh"
[50,107].
Hoàng Trung Thông nhận xét về những mảng thành công nổi bật của Tô Hoài và khẳng định
số lượng tác phẩm đồ sộ của ông: "Trong văn chương, Tô Hoài có ba mảng lớn: viết về mình và về
quê mình, viết về miền núi và viết cho thiếu nhi, đó là tôi chưa nói anh viết về nhiều nơi, về các cuộc
đời rất khác nhau trong nước và ngoài nước. Cho tới nay anh đã viết và in khoảng 110 quyển
truyện ngắn, truyện dài về ba mảng đề tài trên" [50,109].
Nhìn chung những đánh giá về sự nghiệp và tài năng của các nhà nghiên cứu về Tô Hoài rất
xác đáng. Chúng ta đều thấy rõ sự thành công rất nhiều mặt về nội dung, nghệ thuật. Tô Hoài là một
tấm gương sáng về tinh thần lao động sáng tạo, về công phu rèn luyện tay nghề của một nhà văn
chuyên viết về văn xuôi. Cùng với nhiều nhà văn tài năng đương thời, ông đã có những đóng góp
cho sự phát triển của nền văn xuôi hiện đại. Với một sức lao động dẻo dai, bền bỉ, Tô Hoài đã có số
lượng lớn tác phẩm ở nhiều thể loại và điều đáng qúi là có nét đặc sắc riêng trong phong cách nghệ
thuật của mình.

2.2. Ý kiến về mảng tự truyện, hồi kí trong sáng tác của Tô Hoài

Theo Trần Hữu Tá, trong cuốn sách Tô Hoài một đời văn phong phú và độc đáo, đánh giá nét
đặc biệt ở tài năng của Tô Hoài là ông viết hồi kí khi còn rất trẻ và khẳng định được sự thành công ở
lĩnh vực này: “Về mặt thể loại, Cỏ dại có hai điều đáng để suy nghĩ. Một là trong văn chương, vô số
nhà viết hồi kí, nhưng ở tuổi hai mươi ít ai đã thành công như Tô Hoài...Hai là chùm tác phẩm Cỏ
dại, Cát bụi chân ai, Chiều chiều đã khẳng định ông là cây bút hồi kí có hạng” [84,19].
Hà Minh Đức trong Lời giới thiệu Tuyển tập Tô Hoài đã chỉ ra những nét đặc sắc trong nghệ
thuật viết tự truyện, hồi kí chính là nghệ thuật thể hiện cái tôi – tác giả: "Hồi kí và tự truyện của ông
kết hợp được dòng kể tự nhiên, xác thực với ý thức phân tích tỉnh táo các hiện tượng và phần tâm sự
của tác giả" [50,132].
Phong Lê trong Tô Hoài, sáu mươi năm viết, đã cho rằng đặc sắc của thể loại hồi kí, tự
truyện Tô Hoài chính là nghệ thuật trần thuật theo dòng hồi ức: “Tô Hoài không chỉ là người có sức
nhớ kỹ, nhớ dai mà hơn thế, những cái sống, cái nhớ của ông luôn dư đầy, là luôn luôn có mặt
trong hiện tại. Một quá khứ luôn luôn được dồn về hiện tại, được hiện tại hóa – nhưng vẫn trong
trang phục của quá khứ” [50,43]. Chính sự gắn bó, trân trọng đối với con người và những sự kiện
đã trải qua tạo nên sức mạnh hiện tại hóa quá khứ như vậy. Vì “Văn là người”, khi đọc tác phẩm
văn chương ta bắt gặp tâm hồn con người. Phong Lê còn khẳng định sức lôi cuốn, hấp dẫn của tự
truyện Tô Hoài đối với độc giả: "Đọc tự truyện tôi bỗng ngạc nhiên không hiểu sao người ta có thể
viết hay đến thế về mình, để qua mình mà hiểu người, hiểu đời, hơn thế hiểu cả một bầu khí quyển
chung cho bao thế hệ" [50,43].
Nguyễn Đăng Mạnh trong cuốn Chân dung và phong cách, có những ý kiến đánh giá rất sắc
sảo, sát hợp về văn chương Tô Hoài, đặc biệt mảng tự truyện, hồi kí. Mỗi nhà văn đều có một quan
niệm nghệ thuật riêng về con người. Ông khẳng định với: “Tô Hoài quan niệm con người là con
người, chỉ là con người, thế thôi” [27,287]. Nguyễn Đăng Mạnh so sánh với một số tác giả khác như
Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan…để thấy được rằng: “Có thể nói, Tô Hoài là nhà văn của người
thường, của chuyện thường, của đời thường” [27, 288]. Sau một số luận giải, phân tích tác giả bài
viết đã nhận định: “Tôi cho rằng Tô Hoài sinh ra để viết hồi kí, tự truyện. Dường như ông có một
thứ cảm hứng riêng, có thể gọi là cảm hứng hồi tưởng…” [27,299]. “Hồi kí, tự truyện của Tô Hoài
là thể văn sở trường nhất của Tô Hoài...ở thể văn này, nhân vật trung tâm chính là cái tôi của người
viết. Cho nên sự hấp dẫn của văn phong Tô Hoài xét đến cùng là sự hấp dẫn của cái tôi ấy” [27].
Trong lời nhận định của mình, Nguyễn Đăng Mạnh chỉ ra cho độc giả thấy sức hấp dẫn của tự
truyện Tô Hoài chính là: "nhân vật trung tâm" – "cái tôi" của tác giả – cái tôi ấy được soi rọi, được
thể hiện một cách trung thực: "một cái tôi khôn ngoan, tinh quái, thóc mách, lọc lõi, rất mực hiểu
mình, hiểu người và có đôi chút khinh bạc" [27].
Vương Trí Nhàn, Tô Hoài và thể hồi kí, lời tựa cho tập Hồi kí đã đánh giá cao sức mạnh nội
lực khi viết về thể loại hồi kí của Tô Hoài: “Dường như cả cuộc đời từng trải đã chuẩn bị cho
những trang viết hôm nay của ông. Hồi kí là nơi cả con người tác giả cùng cái triết lí ông mơ hồ
cảm thấy và đã theo đuổi suốt đời cả hai đã có dịp bộc lộ” [76,942]. Vốn sống, sự trải nghiệm suy
tư làm nên thành công của thể loại này.
Vân Thanh đánh giá cao mảng hồi kí, tự truyện của Tô Hoài, tác giả cho rằng với thành công
này đã tạo thêm sự phong phú về đề tài nổi bật trong sự nghiệp văn học của Tô Hoài: "Theo tôi, nói
Tô Hoài trong phần đặc sắc của anh là nói về mảng đề tài miền núi như ta đã thấy, nhưng đến hôm
nay không thể không nói đến phần kí ức tuổi thơ và tuổi thanh niên của anh...Tôi cho là Tô Hoài đã
thực sự đóng góp vào văn học ta mảng sống buồn bã vật lộn của một thế hệ tuổi thơ – hoặc được
nhìn qua cách nhìn trẻ thơ đề nói một cái gì bản chất của cuộc đời cũ" [50,399 – 403]. Tác giả Vân
Thanh khẳng định Tô Hoài đã có sự đổi mới về tư tưởng, thủ pháp nghệ thuật tự truyện, hồi kí:
“Điều kỳ lạ là các mảng sống và chi tiết trước đây cũng như bây giờ, vẫn cứ gần như tươi rói trong
kí ức nhà văn"…Mảng sống đó rất có nét dáng, góc cạnh, trước hết vì khả năng nhớ dai và rất động
ở kí ức của Tô Hoài” [50,382 - 383].
Phạm Việt Chương ấn tượng khi đọc tác phẩm của Tô Hoài chính là giọng điệu của tác
phẩm, nó giúp cho tác phẩm có một sức hấp dẫn riêng tạo nên phong cách nhà văn. Tác giả nhận
xét:"Chúng ta gặp lại Tô Hoài...khi anh viết một loạt tác giả Việt Nam mà bạn đọc hằng yêu mến.
Một điều dễ nhận, Tô Hoài sống, lăn lóc cùng các bạn văn thơ của mình viết về họ bằng bút pháp tả
thực. Hiện thực trần trụi đọng lại thành kỷ niệm. Giọng văn hóm hỉnh mà không khinh bạc, anh
điểm những câu kết gây cho người đọc nụ cười cố quên đi nỗi buồn nào do anh vừa kể qua"
[50,404].
Xuân Sách nhận xét về Cát bụi chân ai, nhà văn thấy tác phẩm có giá trị văn học vừa là cuốn
tư liệu có giá trị lịch sử bởi đã dựng lại đời sống tinh thần của một số cây bút lớn cũng như môi
trường mà nhà văn phản ánh trong đó: "Tác phẩm mang dấu ấn đậm nhất phong cách Tô Hoài – từ
văn phong đến con người. Thâm hậu mà dung dị, thì thầm và không đơn điệu nhàm chán, lan man tí
chút nhưng không kề cà vô vị. Một chút "u mặc" với cái giọng khơi khơi mà nói ai muốn nghe thì
nghe, không bắt buộc, nghe rồi hiểu đừng cật vấn…Và vì thế…sức hấp dẫn chủ yếu là sự chân
thực" [50,414]. Tác phẩm nhấn mạnh nét phong cách của Tô Hoài thể hiện qua tác phẩm ở cách trần
thuật, giọng điệu và tính chân thật.
Trần Đức Tiến chú ý tới điểm nhìn khi xây dựng nhân vật trong hồi kí của Tô Hoài: "Bằng
cuốn sách của mình, lần đầu tiên ông đã cho thế hệ cầm bút chúng tôi nhìn một số "nhân vật lớn"
của văn chương nước nhà từ một cự li gần...Bây giờ qua Tô Hoài – chúng tôi được nhìn gần: một
khoảng cách khá "tàn nhẫn" nhưng vì thế mà chân thực và sâu sắc" [50,413].
Nhà văn Nguyễn Văn Bổng nhận xét và rút ra quan niệm về con người trong hồi kí của nhà
văn Tô Hoài – Cát bụi chân ai "kể chuyện những nhà văn, những người bạn mà tài năng văn học
không ai chối bỏ được nhưng đồng thời cũng là những con người bình thường với những tính tốt và
tật xấu như mọi người" [50].
Đây là những ý kiến đánh giá mang tính chất khái quát nhất và tiêu biểu nhất về tự truyện và
hồi kí của Tô Hoài. Những bài viết trên đã trở thành những ý kiến tham khảo rất hữu ích cho chúng
tôi trong quá trình thực hiện luận văn này. Nhìn chung các nhà nghiên cứu đều khẳng định vai trò và
những đặc điểm riêng trong thể loại hồi kí và tự truyện của Tô Hoài. Các công trình này có giá trị
đánh dấu vị trí quan trọng trong toàn bộ sáng tác của tác giả, giúp cho chúng ta có một cái nhìn toàn
diện hơn về cuộc sống và con người trong những giai đoạn lịch sử khác nhau. Đánh giá về Tô Hoài
và văn nghiệp của ông không phải là công việc làm một lần bởi một người là có thể hoàn tất. Vì văn
Tô Hoài nói chung và thể hồi kí, tự truyện nói riêng thực sự là những tác phẩm có giá trị, như một
mạch ngầm trong lòng đất, càng khơi càng trong, càng ngọt ngào bất ngờ và thú vị, nói như nhà
nghiên cứu Vương Trí Nhàn: “Dường như cả cuộc đời từng trải đã chuẩn bị cho những trang viết
hôm nay của ông. Hồi kí là nơi cả con người tác giả cùng cái triết lí ông mơ hồ cảm thấy và đã theo
đuổi suốt đời cả hai đã có dịp bộc lộ” [76,942]. Với đề tài: Đặc điểm nghệ thuật hồi kí và tự
truyện của Tô Hoài, người viết mong muốn có cái nhìn sâu sắc và toàn diện về những đặc sắc trong
nghệ thuật hồi kí và tự truyện của Tô Hoài, đồng thời có dịp hiểu rõ hơn phong cách nghệ thuật độc
đáo của nhà văn Tô Hoài.

3. Phạm vi – đối tượng nghiên cứu


- Đối tượng đề tài: đặc điểm nghệ thuật tự truyện và hồi kí của Tô Hoài.
- Phạm vi đề tài: gồm các tự truyện sau: Cỏ dại, tập Tự Truyện, Mười năm.
Các hồi kí sau: Những gương mặt, Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Chuyện cũ Hà Nội.
Cách chia này chỉ có tính chất tương đối, bởi vì trong sáng tác của Tô Hoài về hai thể loại
này có sự giao thoa. Chính vì vậy, luận văn không tách riêng theo từng thể loại bởi những đặc điểm
nghệ thuật ấy vừa đúng với tự truyện vừa đúng với hồi kí. Nếu có đặc điểm nghệ thuật nào rõ, mang
đặc trưng của từng thể loại thì sẽ tách biệt ra để nghiên cứu.

4. Phương pháp nghiên cứu


Để thực hiện luận văn này, chúng tôi phải sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau.
Dưới đây là một số phương pháp chủ yếu:
- Phương pháp hệ thống: đặt đối tượng nghiên cứu trong hệ thống. Đặt hồi kí, tự truyện
trong toàn bộ sáng tác để thấy được vị trí và đóng góp của Tô Hoài đối với sự nghiệp văn học của
tác giả. Đặt trong hệ thống chủ thể tác phẩm để hiểu nghệ thuật trần thuật.
- Phương pháp loại hình: Giúp ta phân chia đối tượng nghiên cứu có tính chất khoa học,
nghiên cứu thể loại dựa theo từng nhóm tác phẩm, từ đó thấy được giữa tự truyện và hồi kí có nét
chung và nét riêng, đồng thời thấy được sự kết hợp giữa hai thể loại.
- Phương pháp so sánh: Dùng như một thao tác so sánh: đặt hồi kí, tự truyện cạnh nhau để
nhận ra nét chung và nét riêng. Đặt hồi kí, tự truyện của Tô Hoài cạnh những tác phẩm của tác giả
khác để so sánh thấy được nét riêng trong hồi kí, tự truyện của Tô Hoài.
- Sử dụng các thao tác: khảo sát, thống kê, tổng hợp,...

5. Đóng góp mới của luận văn


Cái mới của luận văn là tập trung chuyên sâu đi tìm đặc điểm nghệ thuật của hồi kí, tự truyện
Tô Hoài. Chỉ ra những nét đặc trưng nghệ thuật trong mảng tự truyện, hồi kí Tô Hoài. Khẳng định
đóng góp của tác giả trong sự phát triển của văn học Việt Nam nói chung và thể hồi kí, tự truyện nói
riêng.

6. Cấu trúc của đề tài


Ngoài phần mở đầu và phụ lục, luận văn gồm có ba chương:
Chương 1: Tự truyện, hồi kí – vấn đề lí thuyết thể loại: Tự truyện và hồi kí trong sáng tác
của Tô Hoài. Ở chương 1 tập trung nghiên cứu, khảo sát những vấn đề thể loại làm cơ sở để nghiên
cứu.
Chương 2: Nghệ thuật tái hiện, tái tạo hồi ức và tiếng nói của cái tôi. Ở chương 2 tập
trung vào đặc điểm thế giới nghệ thuật tạo dựng nhân vật qua hồi ức nhân vật tôi và nghệ thuật khắc
họa các nhân vật khác.
Chương 3: Nghệ thuật trần thuật trong hồi kí, tự truyện của Tô Hoài. Ở chương 3 tập
trung tìm hiểu phương tiện nghệ thuật trong phương thức trần thuật như: kết hợp trần thuật, phối
hợp điểm nhìn, giọng điệu, ngôn ngữ.
Người viết trình bày luận văn có cấu trúc 3 phần? Bởi vì chương 1 đặt nền tảng cơ sở lý
thuyết. Còn chương 2 và 3 đi sâu vào tìm hiểu phương diện nghệ thuật.
Chương 1: TỰ TRUYỆN, HỒI KÍ – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT THỂ
LOẠI
1.1. Thể loại Tự truyện và Hồi ký
1.1.1. Khái niệm Tự truyện

Theo Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ
biên: “Tự truyện là tác phẩm văn học thuộc thể loại tự sự do tác giả viết về cuộc đời mình…”
[23,389].
Theo Từ điển văn học do Đỗ Đức Hiểu chủ biên, hệ thống: “Tự truyện thường là những câu
chuyện viết bằng văn xuôi, kể lại dĩ vãng của chính tác giả…Theo Lơjon, bởi vì, về quá khứ, kỷ
niệm bị xóa mờ với thời gian, vì tư duy khi viết về tự truyện đã trải qua biết bao cảnh đời, và vì các
sự kiện được sắp xếp, bố cục lại, suy ngẫm lại, nên khó mà trùng hợp với sự thật…Tự truyện không
phải là một tập hợp những kỷ niệm tản mạn, mà được bố trí như một truyện, một tiểu thuyết…”
[7,1905-1906].
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học do Lại Nguyên Ân biên soạn, cũng đưa ra định nghĩa: “Tự
truyện là tác phẩm văn học tự sự, thường được viết bằng văn xuôi, trong đó tác giả tự kể và miêu tả
cuộc đời của bản thân mình” [22]. Tác phẩm tự truyện thường có phương hướng lý giải cuộc sống
đã qua (của tác giả) như một chỉnh thể, tạo ra những đường nét mạch lạc cho cuộc sống trải nghiệm
của mình. Người viết tự truyện có khi cũng vận dụng hư cấu, “thêm thắt” hoặc “sắp xếp lại” các
chi tiết của cuộc đời mình, nhằm làm cho sự trình bày về cuộc đời ấy trở nên hợp lý, nhất quán. Tự
truyện luôn luôn là hành vi khắc phục cái thời gian đã lùi xa, là mưu toan quay về thời tuổi thơ, tuổi
trẻ, làm sống lại những đoạn đời quan trọng nhất, nhiều kỷ niệm nhất, như là “sống lại” cuộc đời
mình từ đầu. Tự truyện thường được viết vào thời gian tác giả đã trưởng thành, đã trải qua phần lớn
các chặng đường đời mình.
Theo tác giả Phạm Ngọc Lan trong luận văn “Tự truyện trong văn học Việt Nam hiện đại”,
vào năm 1970 Bruce Mazlish đưa ra định nghĩa: “Tự truyện là một thể loại văn học, khai sinh từ
chủ nghĩa lãng mạn, cho chúng ta một bức chân dung về sự hình thành cuộc đời quá khứ của một
cá nhân nào đó từ điểm nhìn của thời hiện tại, được hoàn thành thông qua nội quan và hồi ức,
trong đó cái tôi hiện ra như một thực thể đang phát triển”. Năm 1974, trong tiểu luận Hiệp ước tự
thuật (Le Pacte Autobiographique), Philippe Lejeune trình bày một định nghĩa nổi tiếng nhằm xác
lập những dấu hiệu về mặt hình thức của tự truyện: Đó là “thể loại tự sự tái hiện dĩ vãng, trong đó
một con người có thật kể lại cuộc sống của mình, nhấn mạnh về đời sống riêng tư, đặc biệt là về
mặt lịch sử hình thành nhân cách” [49,19].
Như vậy, khi viết lại câu chuyện đời mình, nhà văn có thể định nghĩa, định hình cho cuộc đời
ấy thành một bức chân dung tự họa, xét một cách khách quan có thể khác với chân dung thật của
mình, dẫu có những nét tương đồng nhưng tất cả đã được cấu trúc lại, nhào nặn lại thành một sáng
tạo nghệ thuật.
Theo tác giả Phạm Ngọc Lan [49,21] thì công trình của Elizabeth W.Bruss nghiên cứu sự
hành chức của diễn ngôn tự thuật cả về phương diện người viết lẫn người tiếp nhận trong công trình
Hoạt động tự thuật: Vị thế đang thay đổi của một thể loại văn học (Autobiographical Acts: The
Changing Situation of a Literary Genre), và từ góc nhìn đó Elizabeth W.Bruss đề ra 3 nguyên tắc
xác định tự truyện:
1/ Tác giả tự truyện đảm nhận một vai trò kép. Ông phải là điểm khởi đầu của chủ đề cũng
như của cấu trúc văn bản.
2/ Những thông tin, những sự kiện được trình bày trong mối quan hệ với tác giả tự truyện
được xác nhận phải là hoặc có khả năng là sự thật.
3/ Cho dù những điều được trình bày có bị nghi ngờ hay không, cho dù những điều đó có thể
bị tái công thức hóa theo hướng nào đấy dễ tiếp nhận hơn từ điểm nhìn khác hay không thì tác giả tự
truyện vẫn tin vào điều mà ông trình bày.
Từ những định nghĩa trên, tác giả Phạm Ngọc Lan đã xác định hai tiêu chí nhận diện thể loại
mà chúng tôi cho rằng chính xác và khoa học. Người viết tiếp thu và coi đó là một trong những cơ
sở để tìm ra được nét riêng của thể loại tự truyện.
- Cái tôi tác giả và sự phát triển nhân cách của nó trong quá khứ, với tư cách là hình tượng
trung tâm của tác phẩm.
- Tính xác thực tương đối của cốt truyện.
Nguyễn Thành Thi trong Văn học thế giới mở đã viết: "Nhà văn khi sáng tác tác phẩm bao
giờ cũng sáng tác theo một mô hình thể loại xác định. Thể loại tác phẩm văn học, thường được hiểu
là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm trong đó ứng với một loại nội dung nhất định có
một loại hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh thể" [36,12].
Vậy khi nhà văn sáng tác theo một thể loại nào đó, đầu tiên sẽ tuân thủ những mô chuẩn nghệ
thuật quy ước, tạo nên những nét riêng, những đặc trưng cơ bản của thể loại đó. Ở thể loại tự truyện
nhà văn đóng vai trò trong tác phẩm như là nhân vật “tôi” đứng ra kể lại, tả lại những gì xảy ra.Vì
vậy, cần khẳng định tự truyện là tác phẩm văn học tự sự do tác giả viết về cuộc đời mình.

1.1.2. Khái niệm hồi kí

Theo Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ
biên. Các tác giả đã đưa ra khái niệm: “Hồi kí là một thể loại thuộc loại hình kí, kể lại những biến
cố đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là người tham dự hoặc chứng kiến”. Họ cho rằng: “Xét về
phương diện quan hệ giữa tác giả với sự kiện được ghi lại về tính chính xác của sự kiện, về góc độ
và phương thức diễn đạt, hồi kí có nhiều chỗ gần với nhật kí. Còn về phương diện tư liệu, về tính
xác thực và không có hư cấu thì hồi kí lại gần với văn xuôi lịch sử, tiểu sử khoa học” [23,152]. Do
đó, hồi kí phải được viết một cách cân nhắc, kỹ lưỡng, phải hết sức tôn trọng tính chân thật. Đó có
thể là một câu chuyện mà tác giả chứng kiến hoặc lấy chất liệu từ chính cuộc đời mình làm đối
tượng khai thác.
Theo Từ điển văn học do Đỗ Đức Hiểu chủ biên, hệ thống: "Thuật ngữ chỉ một thể loại nằm
trong nhóm thể tài ký. Tác phẩm hồi ký là một thiên trần thuật từ ngôi tác giả, kể về những sự kiện
có thực xảy ra trong quá khứ mà tác giả tham dự hoặc chứng kiến" [7,648].
Hồi kí rất gần với nhật kí ở hình thức giãi bày, cách kể theo thứ tự thời gian, chú ý đến các sự
kiện mang tính chất tiểu sử.Về mặt chất liệu, về tính xác thực không có yếu tố hư cấu thì hồi kí rất
gần với văn xuôi lịch sử, tiểu sử khoa học, kí sự tư liệu lịch sử. Tuy nhiên, khác với các sử gia và
các nhà nghiên cứu tiểu sử, người viết hồi kí chỉ tái hiện phần hiện thực thường nằm trong tầm nhìn
của mình, căn cứ chủ yếu vào những ấn tượng và hồi ức của bản thân mình. Do vậy trong toàn bộ
tác phẩm có sự nổi trội của bản thân người viết hoặc cái nhìn của người viết vào tất cả những gì
được kể lại, miêu tả lại. Hồi kí mang đậm tính chủ quan khiến cho các sự kiện trong hồi kí không
thể so bì với các tư liệu gốc, các chứng tích, về tính xác thực. Tuy nhiên, sự thiếu hụt sự kiện, thông
tin hay sự phiến diện về đối tượng miêu tả trong hồi kí lại được bù đắp bởi văn phong sinh động,
cảm tưởng trực tiếp của cá nhân tác giả. Thế mạnh của hồi kí văn học là nó cung cấp các tư liệu về
người thật, việc thật dưới hình thức nghệ thuật văn chương nhưng không hư cấu. Tuy nhiên, sau một
thời gian dài hồi kí được xem chỉ dành riêng cho đề tài chiến tranh hay chính trị, hồi kí trở lại gắn
với cuộc sống. Dấu ấn khá đậm của sự trở lại này là tác phẩm Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Những
gương mặt…
Trong bài Kí và giảng dạy Kí – Hoàng Như Mai viết: “Hồi kí ghi lại những sự việc đã qua,
nhưng những sự việc ấy không phải thuộc vào một thời kì lịch sử xa xôi mà phải gần gũi,có liên
quan khá mật thiết với hiện tại. Hồi kí thường là do những người đang còn sống kể lại” [20,218].
Quan tâm đến vấn đề này, các tác giả của cuốn Lí luận văn học do Hà Minh Đức chủ biên đã
dành một chương nghiên cứu về tác phẩm kí văn học. Các tác giả cho rằng: “Dù được hình thành và
chọn lọc từ nguồn ghi chép và sáng tạo nào, kí văn học phải là nơi gặp gỡ của hai nhân tố quan
trọng: sự thật của đời sống và giá trị nghệ thuật” [14,211].“Phải là loại văn xuôi tự sự trần thuật
những người thật việc thật với những đặc điểm riêng biệt trong mức độ và tính chất hư cấu, trong
vai trò của người trần thuật cùng mối liên hệ giữa nó với đặc điểm của kết cấu và cốt truyện
v.v…thì mới làm nên đặc trưng của kí” [14]. Có thể thấy điểm chung của thể kí: “ những sự kiện và
con người có thật trong cuộc sống, với nguyên tắc phải tôn trọng tính xác thực và chú ý đến tính
thời sự của đối tượng miêu tả” [14,216]. Cũng trong cuốn này, các nhà lí luận văn học khẳng định:
“Xét từ gốc và bản chất, thì kí không nhằm thông tin thẩm mĩ, mà là thông tin sự thật” [14]. Riêng
hồi kí đòi hỏi rất khắt khe về sự thật, sự trung thực, công minh, không được yêu ghét cá nhân,
không được nhân đó để thanh minh, đề cao mình. Nếu làm được như vậy, hồi kí có sức mạnh chống
lại sự xuyên tạc về một sự kiện, một nhân vật nào đó mà trước đấy còn lờ mờ chưa rõ.
Người viết hồi kí kể lại những điều mà mình có dịp quan sát những sự việc và con người để
lại những ấn tượng sâu sắc, gắn bó với những kỷ niệm riêng nhưng lại mang nội dung xã hội phong
phú. Cuộc đời của mỗi con người đều có thể ghi lại thành hồi kí nhưng phải thỏa mãn điều kiện:
“Những trang viết đó có ý nghĩa xã hội quan trọng, gợi lên được nhận thức có ích chung cho mọi
người” [14,231].
Như vậy là, trong quan niệm của các nhà nghiên cứu, hồi kí là một thể loại văn học luôn đề
cao tính chính xác và độ chân thực của các sự kiện. Nhà văn Tô Hoài – nhà văn rất thành công trong
thể loại hồi kí cũng đưa ra nhận định riêng của mình về: “Kí là một thể loại mang tính cách riêng,
tính cách của một lối viết ra những cảm xúc trước sự việc mắt thấy, tai nghe. Kí có lối xây dựng chủ
đề, nhân vật, kết cấu, tình tiết, ngôn ngữ… riêng biệt” [57,25]. Chính từ quan niệm đó mà hồi kí của
Tô Hoài có những đặc điểm riêng. Một mặt nó tuân theo những yêu cầu riêng của hồi kí, một mặt nó
in đậm cá tính sáng tạo của nhà văn.
Đã gọi là hồi kí, tác giả cứ phải là người sống thật trong cuộc, được biết, được thấy tận mắt
những chứng tích. Cho nên, nếu người viết là một tâm hồn biết tự trọng, nghĩa là đặt nặng phần sự
thật trên hết thì những điều nêu ra, tự nó, lại đã hàm chứa một giá trị sử liệu, văn hóa, văn học của
thời đại. Bằng không, thật là một sự đáng tiếc lớn dắt dẫn người đọc hiểu sai lệch sự thật.
Vì vậy, viết hồi kí mà đúng với bản chất của thể loại kí thật rất khó. Viết sao cho trung thực,
khách quan, khiêm tốn mà duyên dáng, gợi được thi vị cho người đọc mới là điều đáng kể, đáng đón
nhận. Vẫn hay có mình ở trong mà tác giả vẫn tránh được sự tự đề cao đáng trách. Sự hài hòa ấy
chứa đựng một biển trời thanh thoát cao thượng, một phong độ hào hoa của người cầm bút, của văn
nhân. Nếu hồi kí được biểu lộ đúng nghĩa của nó thì đọc hồi kí lại là một điều thú vị vô cùng. Nó
cho phép nhiều thành phần hiện tại bỗng nhớ về quá khứ, sống lại với dĩ vãng - trong đó biết bao kỷ
niệm chợt hiện ra. Có việc, có người mà ta biết nhưng không tường tận. Có việc có người mà ta
chưa biết hoặc đã quên đi thì nay sống lại đậm nét, phong phú, linh hoạt hơn. Chẳng khác nào tác
giả hồi kí đã là một nhà đạo diễn kỳ tài, sắp xếp lớp lang một cốt truyện có thực với nhiều khuôn
mặt hiện diện mỗi người một vẻ, một cốt cách riêng biệt. Cái hấp dẫn, cái tuyệt hảo của một thiên
hồi kí là vậy.

1.1.3. Đường biên động/ranh giới mờ giữa tự truyện và hồi kí

Nguyễn Thành Thi trong Văn học thế giới mở đã viết: “tương tác thể loại – có thể hiểu bao
quát hơn – là hiện tượng hai hay nhiều thể loại của một giai đoạn, một thời kì, một nền văn học,
thuộc về một hay nhiều hệ thống thể loại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, xâm nhập vào nhau, mô
phỏng nhau,… để cùng biến đổi hoặc hình thành thể loại mới ( với một cấu trúc ít nhiều thay đổi về
“tố chất thẫm mĩ chủ đạo”,“giọng điệu”,“dung lượng và cấu trúc chung của tác phẩm” [36,14].
Thực tế đời sống văn học cho thấy mỗi một “nòng cốt” thể loại tồn tại như là một mô chuẩn
nghệ thuật ít nhiều mang tính quy ước, chỉ có ý nghĩa tương đối, và luôn có khả năng biến đổi. Vì
vậy, nhà văn khi sáng tác theo một thể loại nào đó, một mặt luôn tôn trọng, tuân thủ những mô
chuẩn quy ước, mặt khác – ít hoặc nhiều – luôn có nhu cầu thoát bỏ khỏi những mô chuẩn quy ước
ấy, bằng cách “nhìn sang” những thể loại xung quanh, rút tỉa lấy tinh hoa của chúng, tổng hợp kinh
nghiệm của hai hay nhiều thể loại, tạo ra những tác phẩm “lệch chuẩn”. Nếu nhà văn thành công
nhà văn sẽ có những tác phẩm hay hơn, mới hơn; còn nếu chua thành công thì những thử nghiệm
như vậy ít ra cũng là một gợi ý, một sự chuẩn bị cho tác phẩm sau, người đi sau.
Tương tác giữa các yếu tố thuộc nhóm thể loại sáng tác có hư cấu (fiction) như tiểu thuyết,
truyện ngắn,…và các yếu tố thuộc nhóm thể loại sáng tác không hư cấu (non fiction) như hồi kí, kí
sự, nhật kí, ghi chép,…tạo nên các thể loại đan xen giữa các yếu tố hư cấu với yếu tố không hư cấu
như truyện kí, tự truyện, tiểu thuyết tự thuật [36,15].
Trong bài Kí và giảng dạy Kí – Hoàng Như Mai viết: “Những điểm khác nhau cơ bản giữa
hồi kí và tự truyện là tự truyện thiên về kể lại những chuyện thân mật, bình thường nhiều hơn mà
hồi kí thì thiên về những sự kiện có tính lịch sử. Cũng do đặc điểm này, mà sự hư cấu trong tự
truyện có thể xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của người viết. Cho nên nói về giá trị lịch sử thì hồi kí
hơn tự truyện, nhưng đứng về tính chất văn học thì tự truyện có thể hơn hồi kí vì tự truyện thuộc
phạm trù của truyện” [20,218]. Sự khác nhau do hướng đến đối tượng phản ánh khác nhau và đặc
trưng của tự truyện là hư cấu sáng tạo.
Tự truyện và hồi kí rất khó phân chia ranh giới cho rạch ròi, khi phân biệt ta thiếu sự thống
nhất về tiêu chí nhận diện thể loại, nhất là về vai trò của sự thật và hư cấu trong hai thể loại này.
Chính nhà văn Tô Hoài quan niệm: “Trong sáng tạo, không thể đem so sánh các thể loại theo lối
định mức. Bất cứ một sáng tạo văn học nào, khi đạt tới xuất sắc, điều chiếm đỉnh cao của thể loại
ấy và của nền văn học nói chung” [57,26].
Điểm giống nhau giữa Tự truyện với hồi kí là cùng những thể loại văn học mang tính hồi cố,
tái hiện lại quá khứ, nhưng hai thể loại tự truyện và hồi kí nằm ở hai địa hạt không hề trùng khít với
nhau trong hệ thống thể loại văn học: bản chất của truyện cho phép nhà văn hư cấu để tạo nên
những hình tượng hoàn chỉnh, còn bản chất của hồi kí đòi hỏi sự chính xác của sự kiện và những
đánh giá khách quan của người viết kí. Những yếu tố hư cấu, nếu có, chỉ đóng vai trò chức năng, hỗ
trợ cho tư tưởng chính luận.
Điểm khác nhau cơ bản
Tự truyện là câu chuyện về cuộc đời một cá nhân, tâm điểm của tự truyện là cái tôi người kể
chuyện trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách, trong sự tương tác của nó với thế giới
bên ngoài. Đấy là một cái tôi trong trạng thái động, trạng thái của sự hình thành, biến đổi, tiến triển
về tâm lý, tính cách không ngừng và không hoàn kết.
Trong khi đó, tâm điểm của hồi kí là thế giới bên ngoài, là cuộc sống và con người trong một
thời kỳ lịch sử nào đấy (đặc biệt là khi lịch sử có những biến động lớn), và cái tôi nói chung chỉ
đóng vai trò nhân chứng. Đấy là một cái tôi trong trạng thái tương đối tĩnh, trạng thái của kẻ quan
sát, phân tích thực tại và ghi nhận một cách khách quan.
Nếu như mối quan tâm đầu tiên của tác giả tự truyện là khám phá gương mặt của chính mình
qua hồi ức, thì mối quan tâm đầu tiên của tác giả hồi kí là khám phá gương mặt của thời đại qua
những sự kiện mà mình chứng kiến, và trọng lượng của tác phẩm nằm ở chính sức thuyết phục, lay
động của những sự kiện thực ấy. Nếu cái tôi trong tự truyện là con người với tất cả chiều kích tâm
hồn, bề sâu tư tưởng và tình cảm của nó thì cái tôi trong hồi kí chủ yếu đại diện cho một phương
diện nào đó của ý thức xã hội, một xu hướng tiếp nhận và phản ứng nào đó đối với những biến cố và
những nhân vật của lịch sử. Bản chất thể loại đòi hỏi sự trung thực, chính xác và khách quan trong
việc bao quát toàn bộ hiện thực cuộc sống trong quan hệ với con người.
Ở hồi kí thường thiên về trần thuật các sự kiện. Thỉnh thoảng giữa các sự kiện ấy mới xuất
hiện cảm xúc của tác giả. Số lượng sự kiện trong hồi kí thường nhiều hơn so với tự truyện. Bên cạnh
cảm xúc cá nhân của tác giả, trong hồi kí có thêm cảm xúc của nhân vật có liên quan. Tác giả tự
truyện thường tập trung vào quá trình hình thành và lịch sử thế giới nội tâm của chính mình trong sự
tương tác của nó với thế giới bên ngoài đến những người mình đã gặp, những việc mình đã thấy
hoặc tham dự. Khi viết các tác giả thường hướng vào cái “tôi”bên trong nội tâm của mình. Những
việc xảy ra bên ngoài chỉ làm “nền” cho cái “tôi” ấy. Cái “tôi” tác giả – nhân vật tự do bày tỏ cảm
xúc, suy nghĩ về các sự việc xảy ra trong quá khứ. Trật tự của các sự kiện được phát triển theo tâm
lý, cảm xúc riêng của tác giả. Có những sự kiện có thật được đưa vào trình bày một cách trọn vẹn,
chính xác nhưng cũng có những sự kiện được tác giả lược bỏ đi một số chi tiết để đạt được ý muốn
chủ quan của mình. Bởi vậy tư duy trong tự truyện là tư duy “hướng nội”.
Có thể thấy điểm khác nhau cơ bản giữa tự truyện và hồi kí ở chỗ: cảm xúc, tình cảm cá nhân
của tác giả trong tự truyện thường đậm nét hơn so với hồi kí. Nói khác đi, tư duy tự truyện là “tư
duy” hướng nội, còn tư duy hồi kí là “tư duy” hướng ngoại.

1.2. Hồi kí trong tự truyện và tự truyện trong hồi kí Tô Hoài


Tự truyện là câu chuyện kể về cuộc đời mình, tâm điểm của tự truyện là "cái tôi" người kể
chuyện. Trong quá trình sáng tác người viết tự truyện nhiều khi cũng vận dụng hư cấu “thêm thắt”
“sắp xếp lại”, các chi tiết của cuộc đời mình, nhằm làm cho sự trình bày về cuộc đời ấy trở nên hợp
lý, nhất quán.
Vậy có hồi kí trong tự truyện là vì tác giả ghi lại những gì có thật (kí). Tác giả hồi tưởng lại
những gì có thật đã trải qua trong quá khứ của chính mình, mà bản chất của hồi kí đòi hỏi sự chính
xác. Một tự truyện “lí tưởng” là tác phẩm mang cái nhìn hồi cố về một đoạn đời và nhân cách của
tác giả, mà trong đó những sự kiện không đậm nét bằng tính thành thực và tính sâu sắc của những
trải nghiệm đó. Vì thế trong tự truyện có hồi kí.
Hồi kí là hồi tưởng lại những điều mà mình có dịp quan sát những sự việc và con người để lại
những ấn tượng sâu sắc, gắn bó với những kỷ niệm riêng nhưng lại mang nội dung xã hội phong
phú. Tâm điểm của hồi kí là thế giới bên ngoài.
Vậy hồi kí có chất truyện là trong quá trình sáng tác, tác giả không sắp xếp đơn thuần các sự
kiện mà có hư cấu để làm nổi bật "cái tôi".
Tuy nhiên, sự phân biệt các tiểu loại chỉ có tình chất tương đối. Tự truyện là thể loại có tính
giáp ranh, nó nằm ở giao điểm tiểu thuyết và hồi kí, tự sự và trữ tình; và trong hệ thống các thể loại
văn học không ngừng diễn ra những mối liên hệ chuyển biến và xuyên thấm lẫn nhau. Một tác phẩm
có thể nghiêng về chất tự truyện, chất hồi kí hay chất tiểu thuyết tự thuật tùy trường hợp cụ thể.
Chẳng hạn, trường hợp những tác phẩm Cát bụi chân ai và Chiều chiều, Những gương mặt, Chuyện
cũ Hà Nội của Tô Hoài, nếu xét thật khắt khe thì không nằm hoàn toàn trong địa hạt của tự truyện,
cũng không đáp ứng hết những yêu cầu của hồi kí. Ngay quan niệm về sự thật cũng là một nét rất
khác biệt, chứng tỏ sự thoát ly của Tô Hoài đối với hồi kí kiểu “truyền thống” một sự thật riêng như
mình nhớ, như mình hiểu, một sự thật không phải của sự kiện mà của thần thái những con người đã
gặp, những thời kỳ đã sống qua, đó là “vẻ lung linh chờn vờn của sự thật” (Vương Trí Nhàn).
Nói chung, một trong những dấu hiệu nổi bật nhất ghi nhận sự biến chuyển nội tại của văn
học cũng như gương mặt phong phú của nó qua từng thời đại chính là sự giao thoa và tương tác lẫn
nhau của những thể loại văn học, tạo nên những biến thể, những phức thể đa dạng, phù hợp với sự
phát triển của tiến trình văn học. Có thể nói, với hơn sáu mươi năm viết, ông đã để lại cho nền văn
học hiện đại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, hiếm ai trong các nhà văn hiện đại so sánh được. Hơn
nữa càng ngày người ta càng nhận ra rằng, cái làm nên giá trị trong văn chương Tô Hoài ngoài
những tác phẩm đã được đánh giá cao thì còn phải thấy ở hai thể hồi kí, tự truyện đã cho ta thấy một
Tô Hoài không lẫn với ai, hóm hỉnh, thông minh, và sống hết mình với nghề văn, nghiệp văn.
Những tác phẩm này đã để lại cho độc giả ấn tượng về sức viết của Tô Hoài thật khỏe, thật trẻ.
Cũng chính vì vậy, luận văn không tách riêng theo từng thể loại mà những đặc điểm nghệ
thuật ấy vừa đúng với tự truyện vừa đúng với hồi kí. Nếu có đặc điểm nào rõ, đặc trưng của từng thể
loại thì sẽ tách biệt ra.

1.3. Về sáng tác của Tô Hoài


Đến với nghề văn thật tự nhiên, ông được nhận xét là “một nhà văn xuôi bẩm sinh” (Trần
Đình Nam). Theo trí nhớ của Tô Hoài thì tác phẩm đầu tiên ông sáng tác là Nước lên: "Cách đây
nhiều năm rồi, gặp năm nước lớn, hương lý làng Nghĩa Đô đốc thúc người đi đê. Trai tráng làng tôi
suốt lượt phải hộ đê từ Tứ Tổng lên tận vùng này. Chúng tôi cơm nắm cơm đùm kéo bộ cả đêm đến
sáng mới tới điếm canh đê hàng tổng. Nhớ làm sao buổi sáng hãi hùng ấy, cái cảnh tôi trông thấy
đoàn người chạy nước từ dưới bãi lên lấm vùi như đàn chuột trong hang đang bị ộc nước. (Về sau,
một trong những truyện ngắn đầu tiên tôi viết, là truyện ngắn Nước lên in trên báo Hà Nội tân văn
của anh Vũ Ngọc Phan, trong đó đã chép lại nhiều hình ảnh đau thương hôm ấy) [76]. Truyện Con
dế mèn ra đời, đã có sức chiếm lĩnh đối tượng độc giả rộng lớn, ở mọi lứa tuổi. Tô Hoài có khả năng
hóa thân vào sự sống của vật và đồng thời đưa đến cho thế giới loài vật sự sống của con người. Ngòi
bút của Tô Hoài linh hoạt, quan sát kỹ lưỡng và tinh tế. Ngôn ngữ tự nhiên mà giàu có, có sắc thái
giọng điệu riêng, tất cả đều rất sắc nét. Câu chuyện về sự khám phá, rong chơi của con dế cũng là
ước mơ của cả đời người. Tô Hoài tiếp tục khẳng định tài năng truyện ngắn của mình trong miêu tả
thế giới loài vật, trong tập truyện O chuột (gồm 8 truyện) (1942) đa số viết về loài vật một cách sinh
động và trong đó có bóng dáng của cuộc sống con người.
Tô Hoài là người nặng lòng với quê hương, ông viết về con người và thiên nhiên một cách
gần gũi, có nét riêng như Nhà nghèo (1942); Giăng thề (1941); Quê người (1942), Xóm Giếng ngày
xưa (1944), Cỏ dại (1944) đều miêu tả vùng quê thân yêu của nhà văn. Quá trình gắn bó với vùng
đất quê hương đã giúp ông viết rất hay về đề tài này.
Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài là một trong số ít cây bút không phải trăn trở, ngập
ngừng nhiều lắm trước trang giấy. Tác phẩm Vỡ tỉnh là tác phẩm đầu tiên trong thời gian này.
Mảng đề tài Tô Hoài đạt được thành công lớn hơn trong giai đoạn này là cuộc sống con
người miền núi. Ông là người tiên phong xây dựng văn học viết về các dân tộc ít người. Ông viết về
sự chuyển mình, thay da của vùng đất này trong cách mạng dân tộc dân chủ (Núi Cứu quốc, Truyện
Tây Bắc…) và trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội (Lên Sùng Đô, Nhật kí vùng cao, Miền
Tây…). Viết về miền núi, tác phẩm thành công nhất của Tô Hoài là Truyện Tây Bắc. Tập truyện
được nhận Giải thưởng của Hội văn nghệ Việt Nam năm 1954 – 1955. Truyện Tây Bắc gồm 3 tác
phẩm: truyện Mường Giơn và hai truyện ngắn Cứu đất cứu mường, Vợ chồng A phủ. Tập truyện
miêu tả cuộc đời thống khổ của những người dân miền núi dưới ách thực dân Pháp và bọn thổ ti
lang đạo. Nỗi khổ ấy tập trung vào người phụ nữ. Nhờ có nhà văn Tô Hoài, người đọc có được kinh
nghiệm sống, biết được cảnh đau khổ của nhân dân miền núi, làm nảy sinh những cảm xúc thương
yêu đối với con người và vùng đất này. Còn tác phẩm Miền Tây là một sự đóng góp tích cực của Tô
Hoài trong việc miêu tả những bước đi đầu tiên đầy gian khổ của vùng đất này lên xã hội chủ nghĩa.
Miền Tây được Giải thưởng Hội nhà văn Á - Phi năm 1972.
Sau Miền Tây, đề tài về vùng cao vẫn còn được Tô Hoài tiếp tục viết: Tuổi trẻ Hoàng Văn
Thụ (1971); Họ Giàng ở Phìn Sa (1984); Nhớ Mai Châu (1988). Đây là đề tài tác giả viết thành
công vì có nhưng năm tháng đi thực tế, gắn bó với vùng đất miền núi và khả năng nắm bắt tinh
nhạy.
Trở về với những miền thân thuộc qua mảng hồi kí và tự truyện, mảng đề tài Hà Nội - ngoại
ô, quê ông vẫn là đề tài chủ yếu trong những sáng tác của ông. Những kỉ niệm trong quá khứ với gia
đình, bạn bè thôi thúc ông viết : Từ Cỏ dại đến Tự truyện (1978) rồi Những gương mặt (1988), đến
Cát bụi chân ai (1992) và Chiều chiều (1999) là sự tiếp nối liền mạch hồi ức và sự trở về trọn vẹn
của Tô Hoài với những miền thân thuộc, quê hương yêu dấu của ông.
Tô Hoài đã sớm xác định cho mình văn chương là sự thật ở đời nên quyết tâm đi vào con
đường của chủ nghĩa hiện thực. Và khi đã viết là say mê hết mình “ trong ngoài ba năm viết như
chạy thi”(Phong Lê), Tô Hoài đã để lại một khối lượng lớn các tác phẩm, làm nên một Tô Hoài
mang dấu ấn riêng.
Tóm lại, toàn bộ sáng tác của Tô Hoài đã có những đóng góp to lớn và hết sức quan trọng
cho sự phát triển của nền văn học hiện đại Việt Nam. Các tác phẩm của Tô Hoài đưa đến người đọc
những hiểu biết thêm về đời sống, về ngôn ngữ và cũng chính những sáng tác của Tô Hoài mà
người ta hiểu hơn thế nào là văn chương chân chính, đích thực.

1.4. Vị trí của tự truyện, hồi kí trong sáng tác của Tô Hoài
Tô Hoài là một gương mặt tiêu biểu trong văn học Việt Nam hiện đại. Ông là một nhà văn
lớn và có nhiều đóng góp về nhiều thể loại văn học khác nhau. Tác giả thành công khi viết về đề tài
miền núi, về loại vật, về Hà Nội. Bên cạnh đó ta nhận thấy thời gian sẽ trôi qua nhưng những ấn
tượng của độc giả nhớ nhiều nhất về tác phẩm của Tô Hoài là mảng tự truyện, hồi kí của ông.
Nguyễn Đăng Mạnh khẳng định thế mạnh về tự truyện, hồi kí của Tô Hoài ở việc tái hiện
tiếng nói của cái tôi “Hồi kí, tự truyện của Tô Hoài là thể văn sở trường nhất của Tô Hoài…ở thể
văn này, nhân vật trung tâm chính là cái tôi của người viết. Cho nên sự hấp dẫn của văn phong Tô
Hoài xét đến cùng là sự hấp dẫn của cái tôi ấy” [27]. Còn Phong Lê lại nhấn mạnh ở yếu tố hồi ức:
“Hồi ức và tự truyện – đó là một mảng viết đặc sắc, nếu không nói là đặc sắc nhất của Tô Hoài, nơi
một bộ nhớ tuyệt vời và một tuổi thọ khoẻ mạnh và minh mẫn” [50].
Qua những nhận định trên, ta thấy các nhà phê bình đã có những nhận xét và đánh giá rất cao
về mảng hồi kí, tự truyện của Tô Hoài. Có được điều đó là do sức viết dẻo dai, bền bỉ, suốt đời đi
tìm cái đẹp trong cuộc đời. Với một bản lĩnh nghề nghiệp dám nói lên sự thật bằng giọng văn rất
riêng, tạo nên những đặc sắc về nghệ thuật. Đặc biệt sức hấp dẫn từ việc xây dựng " nhân vật trung
tâm" – "cái tôi" của tác giả – cái tôi ấy được soi rọi, được thể hiện một cách trung thực. Thực sự
với thể loại này Tô Hoài đã để lại “ dấu ấn riêng trên từng trang giấy”. Tô Hoài sáng tác tự truyện,
hồi kí từ rất sớm.
Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi đến của văn học. Theo Tô Hoài, dù là sáng tác
theo thể loại nào cũng phải “Nói được sự thật để khiến cho người đọc cảm xúc từ đó gây suy nghĩ
cho họ”. Tác phẩm văn chương phải bắt nguồn từ hiện thực và đem đến cho người đọc những cảm
xúc thẫm mỹ. Bởi tư tưởng của tác phẩm là tư tưởng – cảm xúc, “tư tưởng nhiệt hứng” (Bielinxki).
Xuất phát từ quan niệm viết tự truyện, hồi kí như là một cuộc đấu tranh tư tưởng nên Tô Hoài coi tự
truyện, hồi kí là một trong những thể loại trong đó rất cần đến sự sáng tạo của người nghệ sỹ. Đó là
những trang ghi chép những sự việc đời tư đã lùi vào quá khứ, song ghi chép ở đây không phải là
một bản sao sự việc mà là sự sáng tạo. Viết tự truyện, hồi kí là nhằm đáp ứng những yêu cầu của
hiện tại bằng những câu chuyện kể lại về đời tư, về người thật việc thật ngày hôm qua do chính
người kể chuyện chứng kiến và tham gia vào sự việc.
Một người có vốn sống từng trải, phong phú như Tô Hoài mới có khả năng viết được thành
công “từ những hiện tượng vừa vặt vãnh lại vừa tinh tế ấy, đôi lúc tưởng ngẫu nhiên đến thế mà có
sức ngồi dậy trong sáng tạo chỉ vì nó đã được cái nền sống già dặn từng trải của anh xét duyệt rồi
quyết định cho trở ra sống lại một lần nữa” [57].Với tự truyện, hồi kí, Tô Hoài đặc biệt nhấn mạnh
đến vai trò chủ thể của nhà văn, với ông đó không phải là những ghi chép đơn thuần, bởi vì “khi viết
theo lối ghi chép người thật việc thật, sự sáng tạo cũng không cho phép ta giản đơn. Bao nhiêu
công phu và tâm sức bấy lâu quanh những thông cảm và hiểu biết rộng của chúng ta về những
“mẫu” người thật việc thật ấy, nhưng hiểu được việc thật ấy sẽ đem lại giá trị cao cho sức nghĩ lúc
thể hiện ghi chép của anh” [57].
Tố Hữu đã từng nói: “Thơ chỉ trào ra khi trong tim ta cuộc sống đã tràn đầy”. Điều đó không
chỉ đúng với thơ bởi khi đọc Tự truyện, Cát bụi chân ai, rồi Chiều chiều , người đọc luôn cảm phục
bởi một trí nhớ tuyệt vời, một sự gắn bó tha thiết với cuộc đời. Những hồi ức, những kỷ niệm của
cả một đời người bao giờ cũng in đậm trong trí nhớ của tác giả. Tô Hoài đã nhận ra yếu tố cảm xúc
rất quan trong trong sáng tác: “Một việc, một người, một nhận xét ở bất cứ quãng sống nào trong
đời khi đạt tới mức thật tha thiết thì có sức nhập vào, sức thúc đẩy (hoặc sức dằn vặt ta) cho ta
những suy nghĩ liên tiếp – nghĩa là những mầm mống của sự sáng tạo”. Những mầm mống của sự
sáng tạo ấy phải được cất lên từ hơi thở, từ mồ hôi và máu của cuộc sống. Nếu tác phẩm văn
chương là phản ánh hiện thực cuộc sống một cách chân thật thông qua thái độ chủ quan của người
viết thì Cỏ dại giúp chúng ta hiểu một cách sinh động những gì đã tạo nên tâm hồn cũng như những
nét đặc sắc trong phẩm chất nhà văn. Tác giả kể lại một cách xúc động về “Những ngày thơ ấu nó
leo hoang trong đám cỏ bên lề đường đi. Cái giống cỏ dại, cỏ không tên, rườm rà, chen khít bò
ngẩn ngơ trong mấy khoảng đất rác rưởi”. Cảm xúc rất mạnh, liên tục, với sức sống lan nhanh như
loài cỏ hoang. Một tình cảm chân thành và một trí nhớ tuyệt vời. Mỗi nghệ sĩ – nhà văn có sự cảm
nhận về thế giới hiện thực khách quan khác nhau nên sự tái hiện lại hiện thực khách quan cũng khác
nhau. Sự phản ánh hiện thực khách quan ấy được thể hiện trong cả gia tài nghệ thuật của họ.
Cỏ dại và Tự truyện là những dấu ấn đầu tiên để Tô Hoài viết những hồi kí tiếp theo trong
hành trình viết hồi kí – một hành trình đấu tranh tư tưởng của mình. Với Cỏ dại và Tự truyện, người
đọc thấy tác giả không chỉ tái hiện lại cuộc đời của chính mình mà còn tái hiện cả bức tranh đời
sống, bức tranh sinh hoạt trong môi trường sống của cá nhân nhà văn. Một không khí u buồn, đen
tối đè nặng trong tác phẩm thông qua giọng điệu trần thuật, thông qua sự việc và con người hiện ra
qua trang sách. Tác giả không đi vào phản ánh những mâu thuẫn giai cấp dữ dội, quyết liệt song
người ta thấy được tất cả sự buồn chán về một kiếp người, buồn về sự bần cùng, bế tắc. Đâu đó
trong tác phẩm cũng le lói một chút hy vọng và niềm tin. Hình ảnh tác giả trong những ngày lang
thang kiếm sống ở trường đời là xã hội, hết bán giầy ở hiệu giầy Bata đến làm kế toán sổ sách giấy
tờ cho hãng, rồi những ngày thất nghiệp lang thang vất vưởng, những ngày phiêu bạt ra Hải
Phòng…Tự truyện của Tô Hoài thực sự là câu chuyện viết về chính mình và những người xung
quanh mình.
Do đó hành trình đến Cát bụi chân ai (1990) và Chiều chiều (1999) đã khẳng định ngòi bút
chân thực, khách quan, không tô điểm của Tô Hoài. Trong những dòng hồi kí ấy, Tô Hoài vừa cho
người đọc thấu hiểu một thời kỳ lịch sử, vừa cho người đọc chiêm ngưỡng các tác gia văn học từ
góc độ sinh hoạt đời thường. Như vậy với phong cách đặc biệt, Tô Hoài đã đem đến cho nền văn
học Việt Nam những tác phẩm hồi kí xuất sắc. Trong đó Cát bụi chân ai là cuốn hồi kí tiêu biểu in
đậm phong cách nghệ thuật Tô Hoài. Ở độ tuổi “thất thập”, Tô Hoài đã thể hiện độ chín cả về cái
nhìn và tư tưởng nghệ thuật, cộng thêm một vốn sống phong phú, Cát bụi chân ai đã thực sự gây
chú ý của độc giả và khẳng định một lần nữa vị trí không thể thiếu của nhà văn trong nền văn học
hiện đại Việt Nam. Nguyễn Văn Thạc trong Mãi mãi tuổi 20 viết: “Trên trang sách, cuộc sống tuyệt
vời biết bao nhưng cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trọn lẫn niềm sầu muộn. Cái nên thơ còn
lóng lánh giọt nước mắt ở đời”. Hiện thực của cuộc sống rất phong phú, phức tạp đã tác động đến
bao người. Mà phải là một cây bút tinh tế, tỉ mỉ và bản lĩnh mới thể hiện được hết ý tưởng của mình
trên trang giấy. Những điều đáng nói hơn cả là tác giả đã viết được rất hay về chính mình, không
quá cường điệu mà cái tôi cá nhân vẫn hiện rõ. Hơn nữa để qua mình mà hiểu người, hiểu đời, hiểu
cả về một thời đại đã qua thì thật là thú vị.
Hành trình viết hồi kí của Tô Hoài là hành trình xuyên suốt trong quá trình sáng tác của ông.
Mỗi tác phẩm hồi kí là một sự chiêm nghiệm về cuộc sống, về con người, về lịch sử và trên hết đó
là sự thật, vì Tô Hoài quan niệm: sự thật đã là đẹp rồi. Vì: “Cái đẹp mà văn học đem lại không phải
là cái gì khác hơn là cái đẹp của sự thật đời sống được khám phá một cách nghệ thuật” [14,57].
Tô Hoài quan niệm: “Với tôi, dù viết truyện ngắn, tiểu thuyết hay hồi kí thì tôi vẫn cố gắng
viết gần nhất với sự thật, tiến tới sự thật. Tất nhiên, cái “góc độ” sự thật nó cũng linh động lắm.
Nhưng từ góc độ của tôi và do tôi lựa chọn thì tôi đảm bảo thế là đúng nhất, gần nhất”. Có thể nói,
hồi kí Việt Nam hiện đại đã tiến triển theo hướng tái hiện quá khứ một cách chân thực, đồng thời
thể hiện được cái tôi tác giả ngày càng sâu sắc, phong phú và mới lạ, đáp ứng nhu cầu nhận thức
quá khứ phức tạp của những thời đã qua.
Trong dòng chảy chung của hồi kí hiện đại, hồi kí Tô Hoài đã mở ra những khả năng mới của
hồi kí trong việc thể hiện đời mình và đời người, đem đến cho văn học những màu sắc mới mẻ. Cát
bụi chân ai và Chiều chiều là những khúc nhạc lòng vừa xao động những âm thanh nhỏ nhẹ, ân tình,
vừa ẩn chứa tiếng cười hóm hỉnh, cảm xúc đằm thắm, chân tình lẫn niềm suy tư, trăn trở. Kho hồi
ức về chuyện đời, chuyện người, chuyện văn, chuyện thời đại trong tâm trí nhà văn cứ miên man
tuôn chảy như dòng suối, lúc dào dạt, lúc gập ghềnh, khúc khuỷu. Phong Lê khi đọc những tác
phẩm này đã cảm thấy “bị cuốn hút bởi những gì mới mẻ, không trùng lặp, không nhạt mờ, kém sút
trong cái kho kỷ niệm lúc nào cũng dư đầy trong Tô Hoài”. Và cũng vì thế mà hồi kí của Tô Hoài
đã đọng lại trong lòng người đọc dư âm và ấn tượng khó quên. Ở đó có những con người, cuộc
đời… tưởng chừng hết sức thường tình, bình dị, nhưng mang nhiều ý nghĩa cao đẹp, đáng trân trọng
và có cả những uẩn khúc đáng thương. Chẳng lên giọng, không quan trọng hóa, cũng chẳng cần
phải khiêm nhường, Tô Hoài cứ tự nhiên mà kể về những gì mình đã biết, đã trải trên dòng đời gần
suốt thế kỷ.
Bên cạnh những suy tư về cuộc đời, về số phận con người, ba tập hồi kí Cát bụi chân ai,
Chiều chiều và Chuyện cũ Hà Nội còn đưa ta đến những vùng đất gian nan nhưng nghĩa tình (mà
nổi bật là vùng Tây Bắc trong những năm kháng chiến, vùng quê Thái Bình trong thời kỳ Cải cách
ruộng đất), và phản ánh sự đổi thay của xã hội với những bước đi của thời đại cách mạng. Mỗi cuốn
hồi kí là một bức tranh về cuộc đời, con người, về đất nước và thời đại, chứa đựng bao nỗi trăn trở
của nhà văn. Hồi kí của Tô Hoài cho ta thấy một ngòi bút có duyên, thông minh, sắc sảo, hóm hỉnh,
tinh tế. Theo dòng hồi ức, ông đi từ chuyện này sang chuyện khác một cách tự nhiên “có lúc tưởng
như lan man mà không kề cà, vô vị” [76]. Ngôn ngữ nhân vật trong hồi kí Tô Hoài được cất lên từ
đời sống. Các chi tiết nghệ thuật trong văn ông là kết quả của một quá trình quan sát tinh và sắc. Ở
ông không có sự chua chát, tự trào như hồi kí của Vũ Bằng, không giàu chất thơ như hồi kí Anh
Thơ. Hồi kí Tô Hoài hóm hỉnh, giàu chất suy tư. Đó chính là “điểm nhấn” của Tô Hoài trong hồi kí
Việt Nam hiện đại.
Vậy nếu cuốn Cỏ dại đã phát hiện ra khả năng của tác giả trong việc nắm bắt quá khứ ngay
khi nó vừa hình thành cũng như khách quan hoá bản thân biến mình thành một đối tượng miêu tả thì
cuốn Tự truyện cho thấy ông sống kỹ lưỡng biết bao với đời sống quanh mình, từ chuyện riêng tư
đến chuyện làm nghề, rồi chuyện hoạt động cách mạng, cái gì cũng có thể đưa lên trang giấy để trở
thành văn chương, sức chứa của đầu óc ông thật hơn người mà sự chi li tỉ mỉ thì lại ít ai bì kịp.Tuy
nhiên, phải đến khi Cát bụi chân ai và tiếp đó Những gương mặt rồi Chiều chiều ra đời thì ngòi
bút hồi kí của Tô Hoài mới thật có dịp tung hoành giữa những chuyện đã sống qua để rồi dựng lên
ngồn ngộn một bức tranh hoành tráng. Trong lòng bạn đọc và nhất là trong lòng đồng nghiệp, Tô
Hoài như vừa tái sinh để trở lại với cái thời lẫy lừng uy tín. Một quá khứ luôn luôn được ông cho
dồn vào hiện tại, được hiện tại hoá; nhưng vẫn trong trang phục của quá khứ. Nhà văn không lôi
cuốn chúng ta ở những mảng sống bạo liệt hay những nhân vật tầm vóc thổi bùng lên những biến
động lớn lao. Mà ông viết về những gì đã gặp, đã trải. Một bộ phim truyền hình làm về Tô Hoài gần
đây rất gợi ấn tượng trong cảnh Tô Hoài đi dọc bức tường ngôi nhà của ông ngoại tác giả. Cũ kỹ xù
xì nhưng đằm chắc vững chãi, những bức tường như thế tượng trưng cho cái cuộc sống mà Tô Hoài
vừa nương tựa vào vừa tìm cách thâm nhập để tìm thấy cảm hứng trong suốt đời viết. Viết hồi kí, tự
truyện Tô Hoài đã khẳng định: sống đến đâu viết đến đấy. Thực tế không ở đâu xa , thực tế là ngay
chính con người bản thân mình và chung quanh.
Hơn nữa khi viết tự truyện, hồi kí rất cần đến khả năng ghi nhận đời sống. Đó là khả năng
nhìn, khai thác và biểu hiện, để cho sự thật – cuộc đời thành sự thật – nghề nghiệp. Nghĩa là sự thật
để lại ấn tượng và tạo được mỹ cảm trong tiếp nhận của người đọc. Sự thật đó phải được “lạ hóa”
bằng tài năng và phẩm chất nghệ nghiệp. Ngoài tài năng cần phải có bản lĩnh và nhiều khi cần đến
lòng dũng cảm. Bởi có lắm sự thật không dễ nghe. Cho nên nói cho hết cái bí mật của lặng im người
viết cần nhiều đến bản lĩnh và cách nói khéo léo.
Đọc tự truyện, hồi kí của Tô Hoài, ta thấy thật xúc động với những cảnh đời tư hiện lên thật
thiêng liêng tha thiết vừa buồn, vừa vui đan xen thể hiện rất thực cuộc sống đời thường. Bàng bạc
trong tác phẩm của Tô Hoài ta thấy rõ: đời đẹp và buồn. Điều này ta cũng đã gặp đâu đó trong cuộc
đời và văn chương song ở đây Tô Hoài đã sống cái cảm giác ấy và diễn tả một cách thấm thía, ông
biết truyền nó sang người đọc theo cái cách riêng của mình. Cho nên trong tác phẩm, nhà văn đã
miêu tả những mảnh đời nhỏ bé nhưng thực ra đã vươn tới cái điều mà các tác giả lớn xưa nay vẫn
khái quát. Dưới con mắt của nhà văn mọi kỷ niệm không chỉ được biến thành những cái vĩnh hằng,
cái cao thượng mà có cả sự vật, con người gần gũi với đời sống hàng ngày. Nhân vật không chỉ
được tắm mình trong cái ánh sáng lung linh huyền ảo của quá khứ mà hiện ra như những con người
bình thường, thậm chí tầm thường. Chính điều này làm cho tự truyện, hồi kí của Tô Hoài có được
cái nhìn tiểu thuyết. Ông đã tiếp cận cuộc sống trong sự xô bồ gần gũi nhất.
Tô Hoài có một sức sáng tạo mạnh mẽ, dài hơi, kiên nhẫn, đều đặn và liên tục, đủ để đưa ông
trở thành một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt Nam. Ở mảng sáng tác nào, ông cũng
có những thành công và ghi được dấu ấn riêng. Riêng ở thể hồi kí, tự truyện ông cũng đã khẳng định
được tài năng và sức sáng tạo mãnh liệt của mình. Trong quá trình tiếp cận tác phẩm của Tô Hoài,
đặc biệt ở thể hồi kí và tự truyện. Chúng ta nhận ra những nét đặc sắc trong nghệ thuật viết hồi kí, tự
truyện của Tô Hoài
Vậy vì sao Tô Hoài có được sự thành công ở hai thể hồi kí và tự truyện cả về số lượng lẫn
chất lượng như thế? Có lẽ có nhiều lí do, đầu tiên là yếu tố chủ quan: khi Tô Hoài kể đi phụ bán ở
hiệu giày Bata vừa viết văn, lần đầu tiên nhận nhuận bút, ông sung sướng không dấu được nỗi vui
mừng vì tiền nhuận bút một bài viết hơn cả một tháng lương. Ông kể: “Tôi không thể so sánh và
tượng tượng ra giá một bài báo và công xá những công việc tôi đã làm bấy lâu để kiếm sống. Hãng
giày Bata mỗi tháng trả lương tôi sáu đồng. Bây giờ một cái truyện ngắn tôi được mười đồng, lại có
băng quấn quanh tờ bạc, ngoài đề tên mình. Ôi, lịch sự! Mà một tháng tôi có thể viết mấy cái truyện
ngắn! Điếc không sợ súng, tôi cứ viết tràn lan” [76]. Có lẽ ngay từ giây phút đó Tô Hoài đã xác
định: “Bây giờ khi tôi quyết định lấy nghề viết nuôi thân tôi không nghĩ là tình cờ, nhưng thật tôi
cũng không có mục đích gì, đặt ra trước để rồi thành nghề văn và viết văn”. Tô Hoài quan niệm
viết văn là một nghề – một nghề kiếm sống như bất cứ nghề nào. Đã xác định là nghề thì phải viết,
phải lao động nghệ thuật một cách chăm chỉ, cần mẫn. Cho đến bây giờ ông vẫn say mê viết.
Nguyên Ngọc đã nhận xét:“Tô Hoài là vậy, nhà văn cần mẫn và tài hoa “đục đẽo” suốt đời vào cái
thứ đẹp nhất mà cũng khó nhất trên đời, là nghệ thuật”. Đây là một quan niệm hoàn toàn nghiêm
túc. Vì thế ông chọn nghề viết văn là nghề để kiếm sống, thật dễ hiểu bởi nó phù hợp và hết sức
chân chính. Nhà văn đã tìm đến với những thể loại mà ở đó sự trải nghiệm và sức viết dồi dào được
dịp thể hiện một cách đầy đủ nhất. Nguyễn Đăng Mạnh nhận ra rằng: “Tôi cho rằng Tô Hoài sinh ra
để viết hồi kí, tự truyện. Dường như ông có một thứ cảm hứng riêng, có thể gọi là cảm hứng hồi
tưởng…” [27,299].
Bản chất của văn chương là sáng tạo không chấp nhận sự dễ dãi và cẩu thả. Tô Hoài ý thức
được rằng nghề viết văn là nghề hết sức nghiêm túc. Ông đã xác định: “Nghề viết là nghề phải học
suốt đời” và “sẽ không thể viết được gì nếu không có một trình độ tư tưởng và hiểu đời một cách
sâu xa” và “nếu nhát sợ nhu nhược, chủ quan, chỉ quanh quẩn gặm nhấm dăm ba suy nghĩ cũ, đã
sẵn trong đầu, không chịu tiếp xúc và nghiên cứu đời sống, không thể thành cuộc sống, không xứng
đáng cầm bút” [57]. Còn khi đặt bút sáng tạo thì ông trăn trở: “Cầm bút viết không lúc nào không
lo. Một chữ phải là một hạt ngọc trên trang bản thảo, phải là hạt ngọc mới nhất, của mình tìm
được, do phong cách văn chương của mình mà có. Trang sách mà không có ngọc, trang bản thảo
không có chữ thần, không có tinh hoa thì cái hồn của tác phẩm, từ tư tưởng đến nhân vật, tất cả bao
nhiêu ước vọng, khát khao ta gởi gắm vào sáng tác biết lấy gì mà sống được. Không có chữ nuôi nó,
nó trống rỗng rồi chết héo đi. Nghĩ đến sáng tác nghèo nàn, còi cọc, bao giờ cũng giật mình”.(Tô
Hoài) Cái “giật mình” thật đáng quí của một nhà văn đầy tinh thần trách nhiệm. So với nhiều nhà
văn cùng thời với mình,Tô Hoài nổi lên ở sự viết nhiều, viết khoẻ. Ở đây có yếu tố tự nhiên nó là
một thứ của trời cho riêng ông (năng khiếu), dường như tác giả không cần cố gắng bao nhiêu mà
văn chương vẫn cứ miên man không bao giờ hết. Song cần nói thêm trong số nguyên nhân có thể
cắt nghĩa viết được như thế này, nhà nghiên cứu Đặng Tiến sau khi đọc Chiều chiều đã nhận xét:
“Nói chung, kể cả những truyện hư cấu truyện lịch sử Tô Hoài viết cái gì thì cũng ra tự truyện”.
Tức là viết gì Tô Hoài cũng kéo nó gần với mình đặt nó dưới góc nhìn riêng và tiêu hóa nó, biến nó
thành của mình.
Xác định rõ văn chương là một hình thái lao động nghệ thuật cao quí. Xác định quan niệm
nghề nghiệp nghiêm túc, đúng đắn nhà văn Tô Hoài đã dành được thành công cho mình trên lĩnh
vực hoạt động văn học nghệ thuật nói chung và với hai thể hồi kí, tự truyện nói riêng.
Tiểu kết chương 1:
U U

Trong quá trình tiếp cận tác phẩm của Tô Hoài, đặc biệt ở thể hồi kí, tự truyện chúng tôi thấy
hai thể loại tự truyện và hồi kí – vốn rất gần gũi nhau. Nên cần phải thấy sự cần thiết và tính tương
đối khi phân biệt tự truyện, hồi kí trong nghiên cứu sáng tác của Tô Hoài. Phải dựa vào kết cấu,
nhân vật và kiểu tư duy của tác giả để xem xét. Điểm để nhận rõ được sự khác biệt là yếu tố cảm
xúc, tình cảm cá nhân của tác giả trong phản ánh hiện thực. Trong quá trình nghiên cứu thấy được
sự giao thoa có yếu tố hồi kí trong tự truyện và có tự truyện trong hồi kí Tô Hoài. Có hồi kí trong tự
truyện là vì tác giả ghi lại những gì có thật (kí). Tác giả hồi tưởng lại những gì có thật đã trải qua
trong quá khứ của chính mình, mà bản chất của hồi kí đòi hỏi sự chính xác. Vì thế trong tự truyện
có hồi kí. Còn hồi kí có chất truyện là trong quá trình sáng tác, tác giả không sắp xếp đơn thuần các
sự kiện mà có hư cấu để làm nổi bật "cái tôi". Tô Hoài là một gương mặt tiêu biểu trong văn học
Việt Nam hiện đại. Ông là một nhà văn lớn và có nhiều đóng góp về nhiều thể loại văn học khác
nhau. Tác giả thành công khi viết về đề tài miền núi, về loại vật, về Hà Nội. Bên cạnh đó ta nhận
thấy thời gian sẽ trôi qua nhưng những ấn tượng của độc giả nhớ nhiều nhất về tác phẩm của Tô
Hoài là mảng tự truyện, hồi kí của ông. Tô Hoài có một sức sáng tạo mạnh mẽ, dài hơi, kiên nhẫn,
đều đặn và liên tục, đủ để đưa ông trở thành một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt
Nam. Ở mảng sáng tác nào, ông cũng có những thành công và ghi được dấu ấn riêng. Riêng ở thể
hồi kí, tự truyện ông cũng đã khẳng định được tài năng và sức sáng tạo mãnh liệt của mình. Trong
quá trình tiếp cận tác phẩm của Tô Hoài, đặc biệt ở thể hồi kí và tự truyện. Chúng ta nhận ra những
nét đặc sắc trong nghệ thuật viết hồi kí, tự truyện của Tô Hoài .
Chương 2: NGHỆ THUẬT TÁI HIỆN, TÁI TẠO HỒI ỨC VÀ TIẾNG NÓI
CỦA CÁI TÔI TRONG HỒI KÍ, TỰ TRUYỆN CỦA TÔ HOÀI
2.1. Hồi kí, tự truyện Tô Hoài – Thế giới của hồi ức
Bản thân khái niệm hồi kí, tự truyện đã bao hàm tính chất hồi cố, tái hiện quá khứ. Tác giả
hoài niệm, hồi tưởng về những cái đã qua: “Những từng trải và kỷ niệm cả đời thúc giục, đã viết ra
đấy, nhưng chưa bao nhiêu. Mỗi ngày qua trở thành một ám ảnh, bởi chưa cầm bút thì cứ mãi mãi
khắc khoải. Khi thấm thía, khi chợt nhớ đêm nay ngồi quán cóc ông lão 81 lại nhớ người hầu bàn
nhà Thuỷ Tạ Bờ Hồ xưa kia” [63,28]. Nghệ thuật tái hiện hồi ức thông qua cái tôi trong tự truyện –
hồi kí Tô Hoài. Người kể lại câu chuyện đời mình là người đi tìm gương mặt chính mình. Là người
khám phá và sáng tạo ra cái tôi bằng chính cái tôi. Đó là thế giới của hồi ức, thời gian thuộc về quá
khứ có một khoảng lùi. Nhà văn đứng trong thời điểm hiện tại khi đã trưởng thành, khi đứng tuổi để
nghĩ về quá khứ trong đó có gia đình, quê hương bối cảnh xã hội được nhớ lại, ghi lại. Hiện thực
không phải như trong truyện ngắn, tiểu thuyết mà hiện thực ở đây là trong quá khứ có một khoảng
cách về không gian thời gian so với hiện tại trong tác phẩm. Hồi ức bao giờ được hiện lên? bao giờ
được hồi tưởng lại? Chỉ khi từ một sự việc, hình ảnh quá ấn tượng, gây sốc, hoặc để lại một tổn thất
đau đớn nào đó mà con người không thể nào quên. Khi hồi tưởng lại nhu cầu được nhớ, được viết
trỗi dậy, thăng hoa cảm xúc. Đó là những lúc con người sống thật nhất, chân thành nhất với chính
mình. Xét từ khía cạnh này, viết tự truyện, hồi kí chính là một phương tiện giải phóng những năng
lực nội tại của con người, cho con người một cơ hội để nhận thức lại mình.
Thế giới trong hồi ức, hồi tưởng được lọc qua trí nhớ, cuộc đời khúc xạ qua tâm hồn và suy
nghĩ của tác giả nên thấm đẫm cảm xúc trữ tình, suy tư trải nghiệm có thể là sự ý thức, sự suy ngẫm
rất thực về cuộc sống hay về chính mình…Nhà văn không gợi lại quá khứ chỉ vì quá khứ, mà vì
hiện tại mình đang sống, và quá khứ trong quan hệ với hiện tại cũng là điều bảo chứng cho một định
hướng trong tương lai. Theo những ý nghĩa ấy, cuộc sống có thể không trải dài qua thời gian mà mở
rộng xuống chiều sâu của tinh thần. Hiện thực trong tác phẩm hồi kí, tự truyện của Tô Hoài khác với
hiện thực đã được tưởng tượng sáng tạo lại ở các loại hình văn học khác của Tô Hoài và những tác
giả khác. Như trường hợp ở tác phẩm Cỏ dại, Tự Truyện, Mười năm và Những gương mặt, Cát bụi
chân ai, Chiều chiều, Chuyện cũ Hà Nội, hiện thực thuộc về hôm qua được nhìn lại để suy ngẫm trải
nghiệm. Nói cái hôm qua để gián tiếp nói đến cái hôm nay. Chính vì thế, cách nhìn thể loại đã chi
phối các đặc điểm khác của thể loại hồi kí và tự truyện.
Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn cũng có những nhận xét về thể hồi kí của Tô Hoài.
“Trong cái động có cái tĩnh, dường như trong kho văn chương của tác giả luôn có một góc riêng
dành cho cái mà người xưa hay gọi là dĩ vãng và nó được ông quan niệm như một bộ phận không
thể thiếu của hiện tại” [76,927– 928]. Hồi kí là một cách thể hiện nhu cầu khám phá đời sống và con
người qua việc hồi tưởng và sự sắp xếp các mạch của hồi ức.
Điều hiển nhiên là quá khứ đã xảy ra, những gì đã mất đi trong cuộc đời không bao giờ có
thể tìm lại được nguyên vẹn. Bức chân dung tự họa không cho ta một hình ảnh nguyên vẹn như đời
thực mà là hình ảnh nhìn từ một góc độ nào đấy, theo một chiều kích nào đấy. Cũng như vậy, tự
truyện không phải là sự tái hiện đơn thuần về quá khứ như nó đã xảy ra, bởi lẽ quá trình tâm lý của
sự hồi tưởng và tái hiện sẽ cho chúng ta không phải là chính bản thân quá khứ mà là sự hiện diện
trong tinh thần của một thế giới không bao giờ còn trở lại. Quá khứ được gợi lại đã mất đi sự vững
chắc và nguyên vẹn của nó, nhưng một khi được hồi tưởng và dựng lại sau một hành trình dài phân
tán và tìm kiếm qua thời gian, quá khứ ấy sẽ có một mối quan hệ mới và mật thiết hơn với cuộc đời
hiện tại của cá nhân. Khi nhà văn đặt bút viết tự truyện, hồi kí chất liệu của quá khứ sẽ được hồi ức
và trí tưởng tượng tổ chức lại tương ứng với tình trạng ý thức hiện tại và những nhu cầu của sáng
tạo nghệ thuật. Và khi đi vào tổ chức nghệ thuật của tự truyện, hồi kí “cuộc sống” của “một con
người có thật” sẽ không còn quá khứ khách quan nữa mà là quá khứ từ điểm nhìn của hiện tại – tính
chân thực của nó nằm ở cái nhìn, cách nhìn chứ không phải bản thân sự kiện.
Thế giới hồi ức trong hồi kí và tự truyện Tô Hoài là thế giới thuộc về quá khứ. Thứ nhất khi
hồi tưởng Tô Hoài thường nhớ đến các sự kiện để lại ấn tượng sâu đậm có sức tác động lớn đến bản
thân và mọi người xung quanh.
Thứ hai dòng hồi tưởng nào cũng vậy, các sự kiện bao giờ cũng thấm đẫm cảm xúc trữ tình
của nhân vật. Tô Hoài thường trần thuật những điều gắn với những kỉ niệm của chính tác giả. Thế
giới trong hồi ức là cuộc đời được khúc xạ qua tâm hồn và suy nghĩ của tác giả nên thấm đẫm cảm
xúc trữ tình.
Thứ ba dòng hồi tưởng có khi đứt khi nối, có lúc nhớ, lúc quên trong lúc hồi tưởng của nhà
văn. Thời gian thuộc về quá khứ có một khoảng lùi. Hiện thực trong tác phẩm hồi kí và tự truyện
của Tô Hoài khác với hiện thực đã được tưởng tượng sáng tạo lại ở các loại hình văn học khác của
Tô Hoài và những tác giả khác. Thứ tư trong hồi kí,tự truyện của Tô Hoài đôi khi có sự đan cài
chồng chéo các lớp thời gian, sự kiện khi hồi tưởng.
Hiện thực sống động trong cuộc sống đã được tác giả quan sát tỉ mỉ, ghi chép cẩn thận, bằng
trái tim nhạy cảm của một người nghệ sĩ, ông đã viết nên những trang văn đầy ắp tình người, tình
đời. Với cảm xúc chân thành mãnh liệt thì tác phẩm bao giờ cũng có sức mạnh hiện tại hóa quá khứ.
Thứ nhất khi hồi tưởng Tô Hoài thường nhớ đến các sự kiện để lại ấn tượng sâu đậm có sức tác
động lớn đến bản thân và mọi người xung quanh. Thế giới được hồi tưởng là những sự kiện, thời
gian đáng nhớ được nhà văn chắt lọc và sắp xếp đầy dụng ý nghệ thuật. Cách hồi tưởng làm nổi bật
lên thời gian lịch sử với bao biến động tác động mạnh đến đời sống con người: "Cái hôm Tây chiếm
T
3

tỉnh Hà Nội lần thứ hai, ông tôi đương trèo đẵn một cây xoan. Nghe phía ngoài thành, tiếng súng
nổ đùng đùng. Người trong làng nhốn nháo...[76,9] "Cái hôm Tây chiếm tỉnh Hà Nội lần thứ hai". T
3

Sự kiện lịch sử ấy là mốc đánh dấu sự đổi thay của cuộc sống, thay đổi vận mệnh của con người,
của dân tộc. Báo hiệu một cuộc xâm lược bằng vũ trang qua tiếng súng nổ đùng đùng. Sức phản ánh
T
3

của câu văn lớn vừa cho thấy tình hình thời cuộc vừa phản ánh lòng người lo lắng, bất an: "Người
trong làng nhốn nháo". Hoàn cảnh đó đúng thực như: "Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây" của
Nguyễn Đình Chiểu năm xưa. Trong tự truyện, hồi kí một điều chúng ta dễ nhận thấy là những mốc
3T

sự kiện lịch sử chỉ được Tô Hoài phác họa thoáng qua nhưng cũng đủ để chúng ta nhận diện được
một cách tổng quát về tình hình xã hội lúc bấy giờ. "Hồi ấy, những ngày 1938 sôi nổi đã qua. Chiến
tranh thế giới chống phát xít đã nổ ra rồi – dù rằng đến phút cuối cùng, ... thật đen tối thật khốn
khổ" [76,114]. Như vậy, thời gian lịch sử là thời gian hiện thực với những sự kiện quan trọng, đánh
dấu bước đi và nấc thang có ý nghĩa của mỗi dân tộc. Đó là thế giới của hồi ức, thời gian thuộc về
quá khứ có một khoảng lùi. Nhà văn đứng trong thời điểm hiện tại, khi hoàn cảnh lịch sử đã thay
đổi nghĩ về quá khứ để nhận thức về một thời kì: "thật đen tối thật khốn khổ". Có một sự kiện này
có tác động không nhỏ tới đời sống tinh thần của nhiều nhà văn cũng như độc giả: "Báo Nhân Văn
ra đến số 6 bị tịch thu tại nhà in. Các báo hoan nghênh việc đó. Một số văn nghệ sĩ chúng tôi chẳng
biết ai chủ trương cũng ra tuyên bố tán thành sự tịch thu báo Nhân Văn. Nhà xuất bản Minh Đức
đóng cửa. Hồi ấy, báo in còn ít, chỉ tính số nghìn. Nhưng một tờ báo bị cấm thì ầm ĩ ngay. Bấy giờ,
cuối năm 1956.” [63,77] Đó là thời điểm“cuối năm 1956” những hệ lụy của sự kiện này sẽ không
bao giờ lịch sử có thể quên. Sự kiện này không chỉ thể hiện cái nhìn chân thực của tác giả mà còn là
cái mốc lịch sử không quên. Những sự kiện ấy ăn sâu vào tiềm thức của nhiều người và gây không
ít ảnh hưởng trong giới văn nghệ sĩ một thời gian dài. Mở đầu tác phẩm Mười năm tác giả tô đậm
cảnh buổi chiều cuối ngày căng thẳng vì cảnh thuế thúc, trống dồn: "Tùng...tùng...tùng...tùng...Tiếng
trống thôi thúc ing ỏi, ra riết, gay gắt, càng về những ngày cuối càng gay gắt. Không biết nhưng ai
mười tám tuổi trở lên phải chạt đông chạy tây lo thuế nào thì lo, nhưng cứ mỗi lúc tưng hồi trống
ngoài đình nổi lên liên miên ba tiếng một thi trẻ con các xóm lại cất cổ nhại theo:
tiền....tiền...tiền...tiền [73,5]. Không khí thật ngột ngạt, ông lật lại mảnh đất hiện thực đào xới lại
tiếng nói “đau khổ” để cho ta nghiền ngẫm. Cách tô đậm thời gian giúp cho ngòi bút của Tô Hoài
dựng lại được không khí cuộc sống, không phải chỉ ở những biến cố hệ trọng mà còn dựng lại
không khí của những bức tranh sinh hoạt cụ thể mang đậm dấu ấn thời đại.
Tác dụng khi đặt con người trong bối cảnh sống, liên quan đến những sự kiện quan trọng, có
sức tác động lớn sẽ giúp chúng ta tiếp cận con người và hiện thực ở cự li gần đồng thời cung cấp
cho độc giả những tư liệu quý giá, và đầy xác thực.
Hơn nữa dòng hồi tưởng nào cũng vậy, các sự kiện bao giờ cũng thấm đẫm cảm xúc trữ tình
của nhân vật. Tô Hoài thường trần thuật những điều gắn với những kỉ niệm của chính tác giả. Thế
giới trong hồi ức cuộc đời được khúc xạ qua tâm hồn và suy nghĩ của tác giả nên thấm đẫm cảm xúc
trữ tình. Hồi ức về mẹ thật cảm động: “Hồi ức về mẹ bao giờ cũng tươi mát và sinh động. Ta càng
xa tuổi thơ thì hồi ức đó càng rõ rệt, dễ hiểu và thân thiết” (N.V, Sengunop). Hồi ức – nhân vật
“tôi” đang nhớ lại điều bản thân đã trải qua. Cảm xúc về mẹ – đấng sinh thành, là điểm tựa tinh thần
luôn đem đến cho ta một cảm giác dễ chịu, thân thiết. Hồi ức về mẹ bao giờ cũng tạo được niềm vui
và niềm tin trong ta. Khi trưởng thành, hồi ức về mẹ càng gần gũi, sinh động và tươi mát.Trong đôi
mắt của con không ai gần gũi và thân thương bằng mẹ, cũng không có cảm xúc nào chân thật hơn
cảm xúc về mẹ. Đó là tình yêu thương, sự thấu hiểu của đứa con:"Cái bóng mơ hồ trong lớp lớp
những ngày tháng ngậm ngùi, thấp thỏm đợi chờ dài dặc”. Đó là bóng dáng của người phụ nữ đã
phải chịu nhiều vất vả, lam lũ cho cuộc sống nghèo khó, cơ cực, luôn phải sống trong những chuỗi
ngày “thắc thỏm đợi chờ dài dặc” tin tức của người chồng đi làm ăn biền biệt ở đất Sài Gòn xa xôi
không thấy trở về.
Một quá khứ luôn luôn được ông cho dồn vào hiện tại, được hiện tại hoá; nhưng vẫn trong
trang phục của quá khứ. Đặc trưng của tự truyện, hồi kí tái hiện quá khứ. Có điều thời gian quá khứ
không chỉ là hình tượng thời gian đơn thuần mà còn thể hiện khát khao được sống lại, được dẫn
người đọc trở về với cuộc đời đã qua để tâm sự và chia sẻ. Tình cảm gia đình cảm động thiêng
liêng, khiến cho những ngày em Hồ ốm rồi sau đó chết do bệnh sởi, mặc dù kỉ niệm đó đã trôi qua
rất lâu nhưng với cách hồi tưởng cụ thể đó khiến ta thấm thía nỗi đau khi mất đi một người thân là
không có gì bù đắp được: "Đầu tháng tư, Hồ và tôi, hai anh em cùng lên sởi...Tôi không nhớ rành
4T

rõ được những ngày đau yếu của Hồ thế nào...Trên nắp áo quan, có bát cơm thắp hương. Dì tôi
cõng tôi, cung cúc chạy. Vừa chạy, vừa khóc rưng rức..Tôi cứ ngờ ngợ không bao giờ tin buổi sáng
hôm ấy, cái Hồ chết. Chết là thế a? Tôi cứ tưởng hình như rồi một buổi chiều nào, Hồ lại lủi thủi
trở về" [76,57]. Nhưng tiếc thay sự tượng tưởng trẻ thơ đó sẽ không bao giờ xảy ra cả. Sự mất mát
chia lìa thật buồn. Thời gian hồi tưởng ấy chính là thời khắc của tử biệt. Sự kiện đã tác động mạnh
vào tâm hồn tác giả và khiến cho người đọc xúc động vì sức mạnh của sự hồi tưởng.
Dòng hồi tưởng nào cũng vậy, các sự kiện bao giờ cũng thấm đẫm cảm xúc trữ tình của nhân
vật. Tô Hoài thường trần thuật những điều gắn với những kỉ niệm của chính tác giả. Những kỉ niệm
ấy, hầu hết Tô Hoài đã được chứng kiến hay trực tiếp là người cùng tham dự cho nên nó hiện rất sâu
đậm, rõ ràng trong kí ức của nhà văn. Trần thuật theo dòng hồi tưởng nên câu chuyện về các nhà
văn, tác giả không kể về toàn bộ cuộc đời sự nghiệp sáng tác của họ theo một trật tự thời gian nhất
định mà chỉ kể ở từng đoạn, từng quãng đời mà nhà văn biết, thậm chí biết rất kĩ. Như trong tác
phẩm Cát bụi chân ai, Tô Hoài không tạo dựng bởi những hồi tưởng về cuộc đời và sự nghiệp nhà
thơ Xuân Diệu, mà hồi tưởng về nỗi đau tinh thần mà nhà thơ phải chịu đựng. Với những dòng hồi
ức về nhà thơ, Tô Hoài phần nào đã hé mở nỗi đau thầm kín của thi sĩ. Tô Hoài hồi tưởng về những
kỉ niệm không bao giờ quên được giữa ông và Xuân Diệu, chứng tỏ Tô Hoài hiểu nhà thơ đến tận
chân tơ kẽ tóc. Có lẽ không ai khác ngoài Tô Hoài dám dũng cảm bộc lộ điều này: “Thỉnh thoảng
Xuân Diệu lại lên nhà tôi. Vẫn tay nắm cả buổi, nhìn nhau tha thiết, Xuân Diệu yêu tôi" [63,189].
Tài năng của Tô Hoài thể hiện ở chỗ, có khi chỉ là một chi tiết rất nhỏ mà làm nên một tính
cách riêng. Những điều tưởng chừng chỉ thoáng qua, nhưng nhà văn cũng nắm bắt được và biến nó
trở thành cái tôi độc đáo của nhà văn và người đọc cũng không thể nào quên được, nó cứ ám ảnh
trong trí nhớ của mỗi độc giả. Là những người cùng nghề, lại đều say mê những chuyến đi dài. Tô
Hoài hiểu được nỗi đau ở Nguyễn Tuân vào cuối đời là “cái đau của một người cả đời ham đi rồi
dần dần không đi đâu, quanh quẩn, bức bối, bực dọc, dằn vặt”. Vì vậy có lúc định khoe với Nguyễn
Tuân về chuyến đi Cát Bà, nhưng thấy “bước chân khó nhọc, nặng nề. Nguyễn Tuân bước vào, mặt
bơ phờ tía tím” [63,328]. Tô Hoài lại thôi, không “dám nói tôi sắp đi Cát Bà”.
Tác dụng với đặc trưng của thể loại hồi kí, tự truyện yếu tố cảm xúc chủ quan tạo được sự
T
4

hấp dẫn cho câu chuyện. Đồng thời làm nổi bật nhân vật "tôi" đang sống trong thế giới tinh thần.
Dòng hồi tưởng có khi đứt khi nối, có lúc nhớ, lúc quên trong lúc hồi tưởng của nhà văn.
Thời gian thuộc về quá khứ có một khoảng lùi. Hiện thực trong tác phẩm hồi kí, tự truyện của Tô
Hoài khác với hiện thực đã được tưởng tượng sáng tạo lại ở các loại hình văn học khác của Tô Hoài
và những tác giả khác. Trong hồi kí, tự truyện Tô Hoài thường phá vỡ trình tự thời gian, có hòa
quyện giữa quá khứ gần và quá khứ xa, không tái hiện sự kiện theo trật tự biên niên mà xáo trộn
chúng bằng “dòng ý thức” miên man. Theo dòng hoài niệm, thời gian tâm tưởng cứ tuôn chảy, đôi
khi đứt đoạn nhưng lại được móc nối ngay vào khoảnh khắc của hiện tại. Hồi tưởng là phương thức
chủ yếu để xây dựng hình tượng thời gian trong hồi kí, tự truyện. Trong nhiều tác phẩm, hồi tưởng
luôn trở đi trở lại trong tác phẩm với mật độ đậm đặc, nhiều lớp, nhiều tầng: hồi tưởng của chủ thể,
hồi tưởng của nhân vật….đan cài chồng chéo lên nhau, tạo nên những thế giới hình tượng phong
phú. Đi vào trong thế giới của Cát bụi chân ai, thấy rất nhiều nhân vật mang theo trong mình một
quá khứ sâu thẳm và ngập đầy những nỗi day dứt, nuối tiếc, xót xa. Ngã sáu Hàng Kèn, cái “ngã sáu
đường đời” lúc nào cũng “leo loét ngọn đèn con” trở thành không gian chỉ dành cho hồi tưởng:
“Mỗi đêm ngã sáu từng người tìm về với kỷ niệm của mình” [63,37]. “Nguyễn Tuân chẳng thiết cái
quán bát nháo của ông lão 81. Nhưng đến đây là một cơ hội để nhớ. Tách cà phê bít bất hay chén
rượu có nhạt cũng không quan tâm, chỉ bởi nó đem lại được cái cớ” [63,36]. Nguyễn Tuân mỗi lần
đến đây là một lần bỏ lạnh ly cà phê để nhớ đến người hầu bàn cũ. “Cứ ngồi đây mình lại nhớ nó.
Không hiểu sao….” [63,16]. Cho nên Tô Hoài mới ngậm ngùi: “Ôi, tội cho những người nhớ lâu”
[63,40].
Tô Hoài đã sử dụng yếu tố hồi ức hồi tưởng miêu tả thời gian giãn cách để kể lại các sự kiện
liên quan đến nhà văn Nguyễn Tuân. Sự đảo ngược trình tự thời gian kể và trình tự các sự kiện
trong chuỗi sự kiện gắn với cuộc đời của Nguyễn Tuân tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Với
từng mốc thời gian gắn với mỗi chặng đường đã qua của cuộc đời con người, càng để người đọc có
thể hình dung đầy đủ hơn về nhân vật. Rõ ràng là, mỗi sự kiện trong cuộc đời nhà văn đều là một sự
kiện có ý nghĩa.Trong hồi kí, tự truyện Tô Hoài vừa miên man theo thời gian giãn cách, khiến các
sự kiện không hiện diện theo trình tự, vừa có sự đan cài chồng chéo để các sự kiện về xã hội lịch sử,
về đời tư của mỗi nhà văn hiện lên khá đầy đủ. Hình ảnh đầu tiên tạo ấn tượng cho chúng ta là cái
dáng điệu Nguyễn Tuân “lững thững bên kia hè đường bờ Hồ” [63,5]. Con người này xuất hiện
giữa cuộc đời như thế, ung dung, nhàn tản, mặc thiên hạ đua chen. Phong cách khác người của
Nguyễn Tuân còn thể hiện ở cách ăn mặc: “khăn lượt vố, áo gấm trầm, tay chống dọc chiếc quạt
thước thay ba toong, chân bít tất dận giày mõm nhái Gia Định [63,5 – 6]. Chân dung khép lại với
cảm xúc bâng khuâng của tác giả khi nghe đài báo về cái chết của Nguyễn Tuân: “Đêm qua nghe
đài báo ông Nguyễn Tuân chết rồi. Tôi nghĩ vẫn như buổi tôi ngồi uống một mình nhưng Nguyễn
Tuân đã nằm yên từ buổi sáng, trước hôm tôi ra đây. Nguyễn Tuân! Nguyễn Tuân ôi! ô hô”
[63,336].
Tác dụng tạo nên là ý nghĩa khai phá một lối viết mới, một cách thức tạo dựng chân dung độc
đáo, đặc sắc của Tô Hoài. Từ đó người đọc có sự hình dung rõ nét về cuộc sống con người của mỗi
nhân vật trong những thời điểm lịch sử khác nhau và trong tính cách của họ. Thời gian hồi tưởng
như ngẫu hứng, tuôn chảy theo dòng hoài niệm, đánh dấu sự chuyển đổi vị trí của cái “tôi” trong tự
truyện, hồi kí hiện đại.
Nhà văn viết tự truyện, hồi kí như được sống lại một lần nữa đoạn đời đã qua của mình, đời
tư của nhà văn chỉ là chất liệu hiện thực được tác giả sắp xếp lại và sáng tạo thêm cho sinh động. Vì
thế trong quá trình hồi tưởng và ôn lại quá khứ của mình, nhà văn đồng thời cũng sáng tạo lại quá
khứ. Với hai thể loại tự truyện và hồi kí đã góp phần tạo nên sự thành công đáng kể trong sự nghiệp
của Tô Hoài. Nó cũng đã thể hiện sự tìm tòi, đổi mới tư duy văn học của Tô Hoài, làm nên một Tô
Hoài với phong cách riêng, một vị trí vững vàng trong văn đàn Việt Nam.

2.2. Tiếng nói của cái tôi – tự truyện, hồi kí và nghệ thuật tự biểu hiện
2.2.1. Cái “tôi” tác giả – nhân vật trong tự truyện, hồi kí Tô Hoài

- Khái niệm cái “tôi” tự truyện và cái “tôi” tác giả


Nguyễn Đăng Mạnh khi nhận xét khái quát về tự truyện, hồi kí của Tô Hoài đã khẳng định:
“Hồi kí, tự truyện của Tô Hoài là thể văn sở trường nhất Tô Hoài … ở thể văn này, nhân vật trung
tâm chính là cái tôi của người viết. Cho nên sự hấp dẫn của văn phong Tô Hoài xét đến cùng là sự
hấp dẫn của cái tôi ấy ” [27]. Trong lời nhận định của mình, tác giả đã chỉ ra cho độc giả thấy một
trong những điều làm nên sức hấp dẫn của tự truyện Tô Hoài, đó chính là " nhân vật trung tâm" –
"cái tôi" của tác giả - cái tôi ấy được soi rọi, được thể hiện một cách trung thực. Cho nên sự hấp dẫn
của văn phong Tô Hoài xét đến cùng là sự hấp dẫn của cái tôi ấy. Để làm nổi bật cái tôi chính là
nghệ thuật tự biểu hiện.
Trong tự truyện đòi hỏi rất cao cái “tôi” cá nhân chân thực của tác giả. Trong truyện có một
nhân vật rất đặc biệt, cần người viết phải chăm chút – nhân vật tôi. Thông thường khi đọc tự truyện
nếu độc giả không tinh ý sẽ nhầm lẫn giữa cái “tôi” tác giả và cái “tôi” nhân vật. Phần nhiều, khi
viết về bản thân cuộc đời mình thường các tác giả dễ bị yếu tố cảm xúc chủ quan chi phối. Cái “tôi”
tác giả và cái “tôi” nhân vật, nhiều lúc đã thật sự hòa làm một. Chính điều này đã làm nên chất hiện
thực, tăng khả năng thuyết phục cho tác phẩm. Khi này quan điểm cơ bản của tác giả thống nhất với
nhân vật “tôi”. Nhân vật “tôi” là nhân vật chính và tác giả nhập hẳn vào hóa thân vào nhân vật “tôi”
để tự bộc bạch ý nghĩ, tình cảm, đi sâu vào tâm tư sâu kín của mình, làm cho người đọc bị cuốn hút
vào những nét đặc sắc của nhân vật. Người kể là người đã từng chứng kiến sự việc xảy ra. Do đó mà
khoảng cách giữa người kể và nhân vật là rất nhỏ.
Tác phẩm tự truyện đã phản ánh rất thực cuộc đời đã qua của nhà văn – nhân vật tôi trong tác
phẩm, nhằm tái hiện lại cuộc sống hiện thực dưới sự quan sát, miêu tả của nhà văn ấy. Các đặc điểm
của tự truyện phần lớn bị quy định bởi các đặc điểm của trần thuật. Hình ảnh nhân vật “tôi” hiện lên
với những băn khoăn trăn trở, với những khát khao lớn lao… Bên cạnh đó, còn có những dòng tâm
sự về mình, về những điều đã xảy ra trong quá khứ, với những hồi ức về tuổi thơ, tuổi trưởng thành
với những gì đã và chưa làm được, trong quá trình nhận thức khám phá về con người và xã hội của
nhân vật tôi trong tác phẩm. Cuộc sống của nhân vật tôi dường như được tái hiện lại thông qua
“lăng kính” của nhà văn. Xét từ khía cạnh này, viết tự truyện chính là một phương tiện giải phóng
những năng lực nội tại của con người, cho con người một cơ hội để nhận thức lại mình. Vì thế trong
quá trình hồi tưởng và ôn lại quá khứ của mình thông qua cái tôi, nhà văn đồng thời cũng sáng tạo
lại quá khứ, như muốn sống cuộc đời thứ hai, một cuộc đời không bị ràng buộc trong những hạn độ
của thời gian, để đạt đến một sự tự do nào đó, dẫu chỉ là tự do trong thế giới riêng của tâm hồn
mình.
- Khái niệm cái “tôi” tác giả trong hồi kí
Do đặc trưng của thể loại hồi kí, nên ranh giới phân định giữa cái “tôi” tác giả và cái “ tôi”
nhân vật gần như không có khoảng cách. Tác giả chính là nhân vật và nhân vật là tác giả. Nhân vật
trung tâm trong hồi kí và nghệ thuật thể hiện đặc sắc của Tô Hoài là kiểu người trần thuật xưng “tôi”
vừa là người dẫn chuyện vừa là một nhân vật. Nhận xét về kiểu tường thuật này, Đinh Trọng Lạc so
sánh: “Kiểu này không được cá thể hóa sâu sắc bằng kiểu xưng “tôi” tự kể về mình. Nhưng so kiểu
xưng “tôi” đóng vai trò người dẫn chuyện thì kiểu này có mức độ cá thể hóa hơn nhiều, bởi vì
người kể cũng đồng thời là một trong những nhân vật của truyện” [6].
Kiểu tường thuật này, một mặt tác giả nhập và chủ thể “tôi” với vai trò dẫn chuyện, một mặt
khác xem “tôi” là một nhân vật đứng ngang hàng với các nhân vật khác trong truyện. Nhân vật “tôi”
cũng tham gia và chứng kiến, là nhân chứng sống của câu chuyện. Cho nên, về cơ bản người dẫn
chuyện, nhân vật “tôi” và tác giả trùng hợp nhau về quan điểm. Với sự tôn trọng hiện thực khách
quan, “tôi” với vai trò dẫn chuyện phải chiều theo, chịu sự chi phối, quy định của sự kiện, biến cố,
tình tiết, nhân vật…trong câu chuyện thực được tác giả phản ánh. Còn “tôi’ với tư cách là nhân vật,
cũng như các nhân vật khác, nó phải như là biểu hiện sự khách quan vốn có trong cuộc sống xảy ra
mà nếu có sự khác biệt về ngôn ngữ, hành động, tính cách…so với đời thường thì tính hiện thực của
nó sẽ kém thuyết phục. Sự liên kết khéo léo giữa “tôi” là người dẫn chuyện vừa là nhân vật sẽ phản
ánh cách suy nghĩ, lập trường sáng tác của tác giả đối với hiện thực khách quan.
Tô Hoài khi viết tự truyện, hồi kí cũng quay lại trở về với thời thơ ấu, tuổi trẻ, và những ấn
tượng của nghề viết văn để ôn lại những vui – buồn, được – mất trong cuộc đời của mình, cũng là
để ôn lại, tìm ra những kinh nghiệm trong cuộc sống. Bởi vì quãng ấu thơ là những năm tháng có sự
tác động mạnh mẽ nhất đến thế giới tâm hồn vốn ngây thơ, trong sáng và cũng dễ tổn thương nhất,
đó sẽ là những kỉ niệm in sâu trong tiềm thức của con người. Còn tuổi trẻ là tuổi đẹp nhất của đời
người với biết bao ước mơ, khát vọng tìm hiểu, khám phá cuộc sống. Khi đọc tự truyện, hồi kí in
đậm dấu ấn cá nhân tác giả.

2.2.1.1. Cái “tôi” ngây thơ, hài hước, hóm hỉnh, tài hoa, giàu trí tượng tượng

Người kể lại câu chuyện đời mình là người đi tìm gương mặt chính mình qua hồi tưởng, là
người khám phá và sáng tạo ra cái tôi bằng chính cái tôi. Từ một sự việc, hình ảnh quá ấn tượng mà
con người không thể nào quên. Khi hồi tưởng lại nhu cầu được nhớ, được viết trỗi dậy bằng một
cảm xúc mãnh liệt. Nhân vật “tôi” khi nhìn về quá khứ cũng là để nhìn lại chính mình, nhìn lại sự
đời, để hoài niệm. Đặc biệt ở nhà văn Tô Hoài khi viết về quá khứ – viết về tuổi thơ vừa có sự nhập
thân vào quá khứ để thể hiện sự vật trong cái nhìn trong trẻo, hồn nhiên nhất vừa có sự đánh giá,
suy nghiệm lại về số phận mình. Lúc này có sự thấu hiểu là lời tự thương mình, là một sự thấm thía.
Trên hết vẫn là một tình thương yêu dành cho lứa tuổi ngây thơ, hồn nhiên. Vì vậy Tô Hoài đã trở
thành nhà văn cho nhiều lứa tuổi, đặc biệt cho tuổi thơ. Từ một tuổi thơ hồn nhiên đến những trải
nghiệm đầu tiên về cuộc đời, những tự truyện thuộc mảng này là hành trình ngược dòng thời gian,
quay về với tuổi thơ đã mất, sống lại với cuộc đời mình từ những năm tháng đầu tiên để đi tìm
những khởi nguồn xa xưa nhất của con người mình trong hiện tại. Nếu tác phẩm văn chương là phản
ánh hiện thực cuộc sống một cách chân thật thông qua thái độ chủ quan của người viết thì Cỏ dại
giúp chúng ta hiểu một cách sinh động những gì đã tạo nên tâm hồn cũng như những nét đặc sắc
trong phẩm chất nhà văn. Tác giả kể lại một cách xúc động về “Những ngày thơ ấu nó leo hoang
trong đám cỏ bên lề đường đi. Cái giống cỏ dại, cỏ không tên, rườm rà, chen khít bò ngẩn ngơ
trong mấy khoảng đất rác rưởi”. Cảm xúc rất mạnh, liên tục, với sức sống lan nhanh như loài cỏ
hoang. Một tình cảm chân thành và một trí nhớ tuyệt vời. Trong Cỏ dại, Tự truyện nhân vật tôi kể
về thời thơ ấu của mình, về những người thân ruột thịt, về cuộc sống ở quê nhà – vùng ngoại ô Hà
Nội: Nghĩa Đô. Kí ức xa xưa tưởng chừng như chưa hề phai nhạt, những chi tiết, sự việc xảy ra
trong quá khứ mà vẫn tươi mới, gây nhiều hứng thú như mới ngày hôm qua. Chính cảm xúc chân
thành có sức mạnh hiện tại hóa qúa khứ.
Nghệ thuật thể hiện cái tôi, để làm nổi bật cái tôi, tác giả tập trung xây dựng về hành động và
suy nghĩ của nhân vật để làm nổi bật cái “tôi” ngây thơ, giàu trí tượng tượng. Đây là dịp để cho
nhân vật được bày tỏ, được bộc bạch, phơi bày tâm trạng của mình. Mỗi con người chúng ta ai cũng
có một tuổi thơ để nhớ về. Trong trí óc còn non dại, tinh khôi như một tờ giấy trắng, cuộc sống quả
là thú vị và có bao điều mới lạ cần khám phá. Tất cả những gì diễn ra quanh cuộc sống của một đứa
trẻ, dù chỉ là rất nhỏ, người lớn không để ý tới cũng sẽ để lại một ấn tượng sâu đậm trong kí ức trẻ
thơ. Hồi ức bao giờ được hiện lên? bao giờ được hồi tưởng lại? Chỉ khi là từ một sự việc, hình ảnh
quá ấn tượng, đôi khi gây sốc. Nỗi sợ hãi về những con ma trong trí tưởng tượng hấp dẫn ta bởi
niềm tin thơ dại: “Biết bao nhiêu chuyện ma quái rùng rợn quanh cái ao. Ông tôi kể. Bà tôi kể.
3T

Ngọn đèn khuya liu hiu...Ma. Ma!...Hễ động tiếng người, ma liền đứng vươn dậy nhảy ùm xuống
nước, lập lờ rồi biến mất. Giữa những câu chuyện ghê rợn ấy, tôi ngồi nép khít bên tay áo bà tôi,
nhìn ra ngoài trời tối. Thấy chỗ nào cũng thấp thoáng trăng trắng những ma là ma. Tôi nhắm
nghiền mắt lại” [76]. Trong trí tượng tượng thơ dại ấy còn biết bao nỗi sợ hãi khác mà chỉ có ở lứa
3T

tuổi nhỏ, ngây thơ, hồn nhiên và giàu trí tượng tưởng mới tin như thế. Một đoạn khác, nhân vật
T
4

“tôi” sau khi đọc sách kiếm hiệp đã tự mình gọt kiếm luyện võ, và khoe khoang với các em họ của
mình. Nhưng kì thực cậu vẫn luôn sợ ma. Tác giả đã để cho nhân vật tự bộc lộ, nhân vật “tôi” đã thú
thực đến dễ thương khiến cho người đọc phải bật cười trước sự chân thật của cậu. Hình ảnh nhân
vật “tôi” hiện lên thật sinh động qua trang văn của Tô Hoài: “Bây giờ, nhà Nhâm thực vắng. Mẹ vẫn
đi luôn. Hai chị em, ngày ăn cơm trong bà, tối về nhà ngoài ngủ. Tôi vẫn khoe với chúng là tôi giỏi,
tôi có võ và tôi đang luyện phép nữa. Nhưng tôi chưa dám ra ngoài ấy ngủ trông nhà với chúng nó
lần nào. Tôi sợ ma” [76,96]. Nhân vật “tôi” đã chinh phục độc giả thật sự khi so sánh nỗi sợ hãi của
4T 4T

mình trong hoàn cảnh, qua nhà chơi với mấy em họ nhưng rất sợ người coi hộ hai em mình vì bà ta
rất dữ. Nhưng nỗi sợ hãi ấy không bằng sợ ông Thần Đất, rõ ràng nỗi sợ hãi đầy tâm linh đó đã
được thể hiện rất sinh động qua chi tiết: “Không bao giờ tôi muốn đi ngang sân. Đằng cuối vườn
4T T
4

cũng có một lối khác vào. Lối ấy qua gò Thần Đất. Tôi chỉ lách mấy cụm dứa dại đã lọt được đến
sân đất. Nhưng vốn sợ ông Thần Đất hơn sợ mẹ Lặc, tôi không dám chui đầu luồn rặng dứa dại.
Đành lấm lét chạy qua sân" [76,99].
Để làm nổi bật tính cách nhân vật tác giả chú ý đến hành động của nhân vật. Bất cứ một
người nào đã từng trải qua tuổi thơ đều thấy mình qua hình tượng nhân vật giản dị, hồn nhiên, khi
đọc xong những cuốn sách kiếm hiệp mà mình yêu thích, nhân vật liền: "Nhiều khi thích chí tôi đem
T
4
những thứ ấy ra bờ ao, đứng nói lảm nhảm và múa may một mình. Tôi tập đánh nhau. Tôi tập hoá
phép. Có lúc lẩn thẩn, tôi nhắm mắt, đập đầu vào tường côm cốp. Cái đầu tôi hình như rắn
hơn" [76]. Cách miêu tả hành động đó cho thấy nhân vật tôi rất hiếu động, giàu trí tượng tượng và
4T T
4

hài hước trong tưởng tượng trẻ thơ của mình. Dường như đằng sau những hành động trẻ con ngây
ngô, hồn nhiên là nụ cười hóm hỉnh của nhà văn Tô Hoài và nhân vật đã hiện lên rất sống động và
chân thực. Cách xây dựng nhân vật tôi gần gũi với bạn đọc. Bất cứ một người nào đã từng trải qua
T
4

tuổi thơ đều thấy mình qua hình tượng nhân vật giản dị, hồn nhiên, không che giấu nhược điểm .
Đây là truyện chủ thể kể về bản thân “tôi” một cách trực tiếp. Ở kiểu truyện này, tác giả và
nhân vật “tôi” hòa làm một, khoảng cách giữa tác giả và nhân vật “tôi” rất gần, dễ cho tác giả gởi
quan điểm, thái độ, tình cảm của mình. Một người trong cuộc, lại gánh vác việc trần thuật và phải
thể hiện quan điểm tác giả nên lời văn gián tiếp hai giọng ở đây rất nổi bật, đậm hơn, rõ hơn so với
kiểu tường thuật có nhân vật “tôi” dẫn chuyện. Khi kể lại tác giả dùng lời văn gián tiếp hai giọng
khi thì lời của nhân vật khác trong truyện khi thì chính là lời của nhân vật tôi. Tác giả Tô Hoài còn
xây dựng thành công nhân vật “tôi”, trẻ con , hồn nhiên, trong sáng. Vì là tuổi thơ nên rất mê đi
4T 4T

chơi, đây là niềm sung sướng man dại của tuổi thơ. Trong niềm vui mê tơi quên cả giờ về, chơi bao
nhiêu cũng không chán:“Muốn đi đâu, tôi phải hỏi u. U tôi nhổ một bãi nước bọt xuống đất, bảo
4T

tôi: “Ừ, cho đi chơi một tý. Bãi nước bọt này, đi chơi về mà khô thì chớ chết đấy?Tôi vâng, chạy
một mạch ra nhà Nhâm. Rồi bao giờ cũng mải chơi, quên cả bãi nước bọt khô, chiều cũng chưa mò
về". Vì mải chơi bao giờ thấy u xách roi đi tìm thì mới: " Tôi cung cúc chạy về. Bỏ lại cả gươm với
kiếm. Vài hôm lại một lần u vác roi đi tìm tôi như vậy” [76,98]. Trong cái dáng chạy "Cung cúc" đó
ta thấy rất sợ, rất ngoan nhưng chỉ vài hôm sau đó lại để "U vác roi đi tìm". Chỉ có thể trở về với
tuổi thơ ta mới tìm lại được cảm giác như thế. Không thể lí giải được tại sao? chỉ biết rằng đối với
trẻ thơ được chơi đùa sự sống mới có ý nghĩa. Cách khắc họa nhân vật như vậy đã làm cho những
trang văn của Tô Hoài trở thành bạn của tuổi thơ và có sức sống vượt thời gian.
Nghệ thuật thể hiện cái tôi hóm hỉnh, thông minh, tác giả tập trung xây dựng vào lời văn
chên xen vào những suy nghĩ, bình phẩm làm nổi bật cái tôi. Hồi kí Tô Hoài đã kể những chuyện rất
riêng tư, thậm chí là thầm kín của các văn nghệ sỹ một cách cụ thể. Anh Thơ vì có mặc cảm mình
xấu nên cứ bịa ra trong hồi kí là ngày xưa bà rất đẹp, lắm người mê như Nguyễn Bính chẳng hạn.
Tô Hoài viết: “Bà ấy mà mê Nguyễn Bính, chưa chắc Bính đã xúc động liền. Bính nó có hàng trăm
gái theo ấy chứ. Anh Thơ lúc trẻ cũng xấu, lợi hở như miếng thịt trâu. Tính tình đồng bóng. Sang
Liên Xô với Nguyễn Văn Bổng, Thanh Tịnh lại hỏi thăm Goocki, tưởng ông ấy còn sống” [68]. Cuối
cùng nhà văn kết luận một cách rất hóm: “Anh Thơ mà đẹp là chết với tôi rồi”. Độc giả không thể
không cười thú vị khi đọc đến câu văn này. Sự thông minh đã phát huy được hết cái hóm hỉnh, tài
tình của Tô Hoài trong câu văn. Câu chuyện của Tô Hoài khiến ta nhớ đến bài thơ hóm hỉnh được
cho là của Nguyễn Bính. Nếu ta đọc ghép những chữ đầu câu thơ thành một dòng thì sẽ thấy cái tài
hoa của các thi sĩ thật đáng nể, thế mới biết tại sao Nguyễn Bính lại có trăm gái đẹp theo và lời văn
của Tô Hoài có sức thuyết phục ghê gớm!
Anh đi không hẹn ngày về
Chỉ thề ai buộc, tóc thề ai chôn?
Muốn gì anh muốn gì hơn
Hôn hoàng nay, lại hoàng hôn mai ngày
Môi khô vóc liễu thêm gầy
Anh xa, em kẻ lông mày với ai
Thơ không làm trọn một bài
Đàn không gảy trọn một vài khúc ngâm
Ông tơ già quá nên nhầm
Ai làm sum họp, ai làm chia phôi
Chẳng thà đừng kết duyên đôi
Có cho sum họp để rồi xa nhau
Tính năm tính tháng thêm sầu
Ấy hai con én ngang lầu bay bay...
Nghệ thuật thể hiện cái tôi hóm hỉnh, thông minh, tác giả tập trung xây dựng đối thoại giữa
các nhân vật. Tác giả dùng lời văn gián tiếp của người kể và lời nửa trực tiếp mang ý thức nhân vật
rất đặc sắc ở Tô Hoài: "Nguyễn Tuân nhiếc tôi: Chúa ghét cái thằng bợm bia rượu mà hàng ngày
lại uống nước lạnh. Không mấy khi Nguyễn mời tôi uống chè. Không bao giờ cho tôi thuốc lá. "Mày
hút phí thuốc lá". Muốn hút chơi thì tôi phải xin ông. Thường nói, ông vừa khôi hài vừa mỉa: "Chó
biết thằng này thế nào là thật! Tao ghét cái cười mủm mỉm hiền lành không hiền lành của mày." Tôi
cũng tìm ra cách chọc tức lại. Này ông chửi tôi giả rượu, giả thuốc, tôi ăn bọ hung, tôi ăn thịt
chuột. Ông bảo người ta chỉ thật nhất lúc ngồi với cái chén. Nhưng mà từ thời công nguyên, hai
nghìn năm nay, người ta đã luận về cả trăm lối nâng chén đấy, chứ không phải cách riêng của
thằng khôn lỏi này đâu. Tôi chìa trang Sử kí ra trước mặt Nguyễn Tuân."
Đồng thời Tô Hoài dẫn dắt khôn khéo:
"Tề Uy Vương hỏi Thuần Vu Khôn:
- Tiên sinh uống bao nhiêu thì say?
Khôn đáp:
- Thần uống một đấu cũng say, mười đấu cũng say.
- Một đấu cũng say thì sao uống được một hộc? Sao nói vậy?
Khôn nói:
- Nếu cho uống trước mặt đại vương có quan chấp pháp đứng bên cạnh, quan ngự sử nấp
sau lưng thì Khôn sợ hãi cúi đầu uống, chỉ một đấu đã say... Khi trời chiều, tiệc vãn, dồn chén ngồi
kề, gái trai cùng chiếu, giày dép lẫn lộn, chén bàn bừa bãi, trên thềm tắt đuốc, chủ nhân giữ một
mình Khôn ở lại mà tiễn khách ra, áo là cởi bỏ, thoảng mùi hương thơm phức. Lúc bấy giờ lòng
Khôn rất vui, có thể uống được một hộc mười đấu. Vì vậy nói rượu quá hoá loạn, vui quá hoá buồn,
muôn việc đều thế.
Vua Tề nói: Hay!
Chắc chắn Nguyễn Tuân đã ngâm nga đoạn văn này bao nhiêu lần, nhưng tôi cứ đọc lên. Nguyễn
Tuân im lặng, không phải để khỏi cụt hứng người đọc mà Nguyễn Tuân nhấp chút chút rồi gật gù.
[63,180]
Cách đối đáp vừa cho thấy sự khôn khéo, biết vận dụng hài hòa điển tích xưa, càng tô đậm
thêm kiến thức uyên bác, vừa hợp lòng người. Chứ để cho Nguyễn Tuân im lặng...Quả thật Tô Hoài
đâu phải là tay vừa! Mà cái luận về say của Thuần Vu Khôn quả thực rất chí lí! Cứ mỗi lần đọc tới
đoạn này người viết lại ao ước một lần thật say và thầm thì một mình ta say trời đất cũng say. Thế
mới thấy hết cái tài tình mà của người xưa mà Tô Hoài đã chuyền tải tới cho chúng ta. Sự đồng cảm
vì vậy là vô tận. Thuật truyền cảm của Tô Hoài thật khéo léo!.

2.2.1.2. Cái “tôi” sâu sắc, giàu cảm xúc, nhân ái, gắn bó, yêu quí cảnh vật và con người quê
hương

Tuổi thơ là quãng đời quan trọng, có ý nghĩa trong quá trình phát triển sau này của con
người. Tuổi thơ luôn để lại những ấn tượng nguyên thủy, sâu sắc, có sức ám ảnh dai dẳng trong suốt
cuộc đời nhà văn. Chúng ta nhận thấy rằng khi viết về tuổi thơ, viết về quá khứ của bản thân, có
người ghi lại cả quãng đời, có người chỉ nhìn lại mình một phần cuộc đời nhưng chính một phần ấy
lại có sức chứa vô cùng lớn lao, có ý nghĩa quyết định cho cả một đời người. Thường tự truyện hay
viết về tuổi ấu thơ – quãng đời đẹp nhất, có sức ám ảnh lâu nhất của con người. Tâm hồn trẻ thơ
chưa hề bị bào mòn, pha tạp và chính nó đã ghi nhận lại những cái thiêng liêng sâu xa của sự sống.
Muốn làm nổi bật cái tôi, tác giả tập trung miêu tả cảm xúc, tâm trạng nhân vật, chú ý nhiều
đến cách bộc lộ cảm xúc trực tiếp của nhân vật, để nhân vật tôi tự kể, tự miêu tả cảm xúc, tâm trạng.
4T

Cách khắc họa đó làm nổi bật nhân vật - tôi là một cậu bé nhạy cảm, dễ xúc động, mau nước mắt.
Khi xa các em họ mà nhân vật tôi rất thương. Có những lúc không thể chịu nổi: "Tôi ngồi hai tay
bưng mặt. Tôi khóc tu tu" không có một hành động nào có thể diễn tả được nên cậu bé đã để cho
cảm xúc tuôn trào không thể ngăn lại. Cách thể hiện cảm xúc trực tiếp đó vừa làm cho nhân vật sinh
động vừa kéo khoảng cách giữa hiện tại và quá khứ gần lại với nhau. Nhân vật tôi giàu tình yêu
thương, tâm trạng được diễn tả bằng nỗi nhớ đến ngẩn ngơ: "Trên nhà, không có ai. Tôi thấy nhà
văng vắng khác mọi khi. Tôi ngơ ngẩn, tha thủi về." Dường như con người ngày thường của nhân
vật tôi vốn đã giàu tình cảm bây giờ vắng các em, cảm giác buồn nhớ và cô đơn tràn ngập...Tình
yêu thương giữa những đứa trẻ thật sâu sắc đã làm xúc động lòng ta khi trong tâm hồn trẻ thơ ấy có
những kỉ niệm thật khó quên: "Tôi nằm trằn trọc, nước mắt đầm đìa xuống chiếu. Tôi cố thức.
Nhâm, Châu ngủ ngoài Kẻ Chợ. Năm giờ sáng Nhâm, Châu và mẹ lên tầu...Chúng nó lên tàu cả rồi,
tàu chạy rồi. Nước mắt tôi lại đầm đìa.. Nhâm, Châu đi rồi. Còn mỗi cái đầu mốc trắng của tôi tha
thủi ngơ ra ngẩn vào" [76,104]. Đọc những câu văn này ta càng hiểu nhu cầu được sống trong tình
yêu thương của con người là rất lớn, và đối với trẻ em càng không thể nào thiếu được. Những câu
văn của Tô Hoài thực sự làm cho "con người gần con người hơn". Điều này đã minh chứng cho một
T
4

chân lí bất diệt mà nhà thơ Tố Hữu đã nói đến: “Văn học là cuộc đời,… văn học sẽ không là gì cả
nếu không vì cuộc đời mà có”.
Tác giả tập trung miêu tả cảm xúc, tâm trạng nhân vật, làm nổi bật cái tôi gắn bó sâu sắc với
quê hương. Nhân vật “tôi” tự bộc bạch ý nghĩ, tình cảm, đi sâu vào tâm tư sâu kín của mình. Độc
giả còn thấy được sự tinh tế khi nhân vật nhận ra được mùi “mùi quê hương” qua sự miêu tả rất cụ
thể và tỉ mỉ của tác giả: “Tôi đã ngửi được mùi đất quen thuộc. Quen thuộc lắm, chỉ thoáng qua là
4T

biết sắp về tới quê. Ờ, mà lạ. Không bao giờ tôi biết phân biệt được rõ ràng cái hương vị phảng
phất kỳ dị ấy. Nó thoang thoảng trong cánh đồng hoặc vẩn vơ trong rặng ô rô xanh rì. Tưởng như
đấy là mùi cỏ khô, mùi đất ải, mùi khói rơm bếp. Không phải. Đích nó là mùi lá muỗm nấu lẫn với
lá vối, mùi rau nhảy mùi lá trang, mùi lá cải, mùi có bồ mùng, mùi mái rạ chuồng bò. Cơ chừng
chẳng rõ ràng mùi gì. Nó là tất cả, từ mùi tóc hôi trên đầu đứa trẻ cho tới mùi nõn cỏ gấu đắng mới
nở hương đồng cỏ nội hoà vào nhau, bốc trên một miền quê. Cái mùi quê đặc biệt, mỗi khi về gần
đến làng, là thoảng biết” [76,33]. Chính cách miêu tả trực tiếp cụ thể và sinh động cho thấy trí
T
4

tưởng tưởng của nhân vật tôi rất phong phú, mới có được những hình ảnh tươi mới và sống động
như thế. Nhân vật tôi cảm nhận về cảnh vật không chỉ cảm nhận trực tiếp bằng thị giác mà còn có
khả năng diễn tả những cảm nhận của khứu giác, cảm giác. Qua đoạn văn miêu tả, tác giả đã cho
chúng ta – những độc giả biết đến khái niệm về “mùi quê hương” – một khái niệm tưởng như rất
trừu tượng nhưng qua ngòi bút miêu tả tài tình, tinh tế của Tô Hoài lại trở nên cụ thể, chi tiết, rõ
ràng. Nó không phải là cái gì quá mơ hồ, khó nắm bắt mà “nó còn là tất cả” những gì quen thuộc,
gần gũi quanh ta, là “hương đồng cỏ nội hoà vào nhau, bốc lên một miền quê”. Đọc những lời miêu
tả trên của Tô Hoài, người đọc như lạc vào quê hương, như đang được đi giữa quê hương thưởng
thức một mùi quen thuộc của “hương đồng gió nội” một mùi quê hương không bao giờ phai trong
trí nhớ mọi người. Thực sự là có thể tách con người ra khỏi quê hương nhưng không thể tách quê
hương ra khỏi con người. Những câu văn của Tô Hoài sẽ còn lắng đọng rất lâu trong lòng những
người xa quê.
Khi khắc họa nhân vật tôi, tác giả muốn nhấn mạnh đến vẻ đẹp tâm hồn, tấm lòng Một cái
“tôi” gắn bó với con người và cuộc sống đời thường đầy tình nghĩa, nhân hậu, chân thành. Tác giả
dùng những câu văn trữ tình, thẫm đẫm triết lí. Đặc biệt nhà văn chú ý đến mối quan hệ giữa nhân
vật và những người xung quanh. Hàn Mặc Tử viết: "Người thơ phong vận như thơ ấy". Có người lại
cho rằng: "Đọc một bài thơ tôi gặp gỡ một tâm hồn" hay “Văn tức là người”. Nếu đọc một bài thơ ta
gặp gỡ một tâm hồn thì khi đọc hồi kí ta sẽ nhận ra tác giả là ai ? là người như thế nào? bởi mỗi
trang viết đã in đậm dấu ấn cá nhân tác giả. "Vết vân chữ" đã lưu dấu trên câu chữ. Từ những trang
văn của Tô Hoài ta có thể hình dung ra bức chân dung của chính tác giả – bức chân dung tự hoạ.
Chính vì đặt nhân vật trong hoàn cảnh sống đời thường đó làm nổi bật lên cái tôi cá nhân thấm đẫm
tình yêu thương, nhân bản Tô Hoài từng quan niệm tình yêu thương là cội nguồn của sức mạnh, là
lẽ sống đẹp của mỗi người. Tình yêu thương không có quy luật nhưng lại biện chứng, thống nhất, vì
có tình yêu thương con người sẽ vượt qua mọi trở ngại, chiến thắng được tất cả. Nặng lòng yêu
thương cuộc sống, trân trọng con người, những trang văn của Tô Hoài mang cảm hứng nhân bản về
tình yêu, con người trong cuộc đời thường là những trang viết thấm đẫm “cái tôi” yêu thương, nhân
bản của tác giả. Với những câu chuyện đời thường, trong những trang viết của Tô Hoài, ta thấy
được tấm lòng ông thổn thức cùng cảnh đời cơ cực, những số phận oan nghiệt đắng cay. Tình cảm
của ông thấm đẫm từng trang văn. Câu chuyện Nguyễn Bính mất con. Trái tim Tô Hoài là trái tim
yêu thương và thông cảm sâu sắc với mỗi con người, mỗi số phận của đồng nghiệp. Ông có trái tim
của người đã từng trải qua những đau khổ, cực nhục trong bước đường thăng trầm của cuộc đời. Vì
thế mà trái tim ấy rung lên những nỗi xót thương đối với những người cùng khổ. Khi Nguyễn Bính
lỡ dở trong tình yêu với người con gái đến với ông khi làm báo “Trăm hoa” đã để lại cho nhà thơ
nỗi đau thương, ân hận đến suốt đời. Vì say rượu: “Một tối kia, bố rượu say rồi bố bế Hiền thẩn thơ
ra phố. Đến ngã sáu Bà Triệu, chợt nghĩ thế nào, hai tay bố Hiền giơ Hiền ra, đưa Hiền cho một
người đàn ông đi tới” [63,62]. Người đọc thương cảm trước cảnh Nguyễn Bính “thất thểu suốt đêm,
sáng ra nhợt nhạt, thẫn thờ bước giữa trống không” [63,62] vì đã trót đưa con cho người ta: "Thôi
bây giờ viết vào đây câu chuyện thương tâm ngày ấy. Biết đâu, chuyện này – như một cái nhắn tin
tìm người ruột thịt thường đọc trên báo...Đột nhiên, tôi hy vọng. Tên cháu là Hiền nhé" [63]. Tô
Hoài có tấm lòng nhân ái, ông viết với giọng điệu đầy cảm xúc, với một niềm hi vọng, hi vọng
không bao giờ cạn rằng một ngày nào đó Nguyễn Bính sẽ tìm lại được bé Hiền, để cho trái tim đau
khổ của người cha, hết đơn côi, lạnh giá và ân hận. Quả thật nơi đâu có tình yêu thương, nơi đâu có
lòng nhân ái ở đó lòng người được sưởi ấm lại!
Người nghệ sĩ luôn có một trái tim rung động trước cuộc sống và cần phải có một lí trí sáng
suốt. Ở Tô Hoài ta thấy trong ông có một cái nhìn khách quan,một thái độ rõ ràng trước đối tượng
mà mình phản ánh. Ngoài vốn sống là chất liệu vô tận, là khâu nối liền thường xuyên nhà văn với
cuộc sống, ở Tô Hoài ta còn thấy một thế giới quan đúng đắn. Đặt nhân vật trong mối quan hệ với
mọi người xung quanh, ông nhận được vẻ đẹp trong tâm hồn và nhân cách của người nghệ sĩ. Nghệ
thuật tự biểu hiện cái tôi vừa hồi tưởng vừa suy ngẫm và mênh mang một tình người thiết tha.

2.2.1.3. Cái tôi tuổi trẻ nhiều mơ ước, nhiệt tình và không thiếu trải nghiệm xót xa

Lúc lứa tuổi thiếu niên, mười tám đôi mươi ấy của đời người lại khớp đúng vào lúc đời sống
dân tộc đang chuyển mình từ một thời kỳ tối tăm nhất để chuẩn bị cho một ngày mới – đêm sâu
Tiền Cách mạng. Nên cái tôi được khắc họa nổi bật với những cảm xúc trực tiếp, bằng những hành
động hăng hái: "Chúng tôi lúc ấy thích hiểu biết, ham chơi, thật hăng và táo tợn....Những việc làm
say sưa....Bây giờ hiểu biết rồi, gặp ai cũng châu đầu lại, bàn chống thuế, vào hội Ái hữu, làm cách
mạng, lên thế giới đại đồng! Những ngày cầu Am sôi nổi, hăng hái của tôi" [76,133]. Tuổi trẻ thích
thể hiện mình, nhiệt tình, năng nổ và nhạy bén với thời cuộc. Rõ ràng, những thanh niên trẻ đang rất
muốn cống hiến, muốn thay đổi để đem lại một cái gì đó mới mẻ cho cuộc sống của họ: "Thời gian
ấy, thanh niên khao khát lý tưởng, như người đi nắng khát nước, chỉ nghe đồn cũng đã tìm đến bày
tỏ nỗi băn khoăn và đánh bạn với nhau" [76,206]. Nhân vật tôi đặt mình trong khao khát của thời
đại để cho thấy cái khao khát chung của một thế hệ. Một cái "tôi" đầy nhiệt huyết, hăng say mà ta có
cảm tưởng như mong muốn làm được một cái gì có ích, có nghĩa cho cuộc đời thật mạnh mẽ, mong
ước thay đổi hiện tại. Ước mơ đó tha thiết như: "Gió hồ cuối thu thổi vào rào rạt như nguồn cơn
của lòng người. Ngỡ như ngọn gió đương thổi cái tương lai tốt đẹp đến cho mình" [76, 233]. Tô
Hoài đã lắng lòng mình để nghe những khao khát đang thổi bừng trong tâm hồn tuổi trẻ. Sự tha thiết
ấy khiến ta liên tưởng đến câu nói của nhà văn Nga M.Prisvin: "Phải ước mơ nhiều hơn nữa, phải
ước mơ tha thiết hơn nữa để biến tương lai thành thực tại". Cái tôi tuổi trẻ nhiều mơ ước, nhiệt tình.
Nhưng cuộc đời rất phong phú và phức tạp, nhân vật “tôi” dấn thân vào cuộc đời và trải
nghiệm, thấm thía, đau xót. Trong Cỏ dại đi vào kí ức bạn đọc không phải là hình ảnh một đứa trẻ
khao khát tình mẹ như hình ảnh bé Hồng (Những ngày thơ ấu), cái khao khát cháy bỏng một hơi ấm
tình thương mẫu tử như người lữ hành trên sa mạc mong một dòng suối mát khiến cho người đọc
xúc động, rưng rưng. Cũng không phải là hình ảnh những đứa trẻ hồn nhiên trong sáng trong độ tuổi
vô tư của mình…mà là hình ảnh Cu Bưởi sớm phải bươn trải trong trường đời, sớm phải ý thức về
bản thân trong một môi trường buồn tẻ nghiệt ngã. Vì thế mà nhân vật tôi của Tô Hoài buồn nhiều
hơn vui, nỗi buồn đi từ trường đời vào nhân vật và niềm vui cũng được chắt lọc từ cuộc sống hết
sức bình dị mà ra khiến cho người đọc ngậm ngùi, xót xa. Đến tuổi đi làm tự kiếm sống, nhân vật
tôi vật vã trong nhiều nghề khác nhau, nhiều niềm vui, nỗi buồn khác nhau. Từ việc bán hàng ở hiệu
giày Bata số nhà 89 phố hàng Đào, công việc buồn tẻ và tình người lạnh lùng. Nhà văn đã đi sâu
vào những suy nghĩ của nhân vật tôi để thấy sự tự thương mình. Đến việc làm ở hãng Hàng Bông
thợ nhuộm, rồi đi làm kho với công việc khuân vác nhặt nhạnh, cuối cùng bỏ việc lang thang. "Tôi
sắp khóc mà phải mếu máo cười". Thảm thương nhất là những ngày thất nghiệp ở Hải Phòng.
"Ngày lại ngày, tôi đi tìm việc. Thấy cái giấy dán ở đầu tường nào tôi cũng đến đọc, thấy cửa hiệu
to, tôi ghé nghiêng nhòm vào rồi hỏi. Chẳng đâu ăn thua.. Tôi vẫn may rủi hàng ngày vẩn vơ đi tìm
việc, mà việc vẫn xa lắc xa lơ đâu không biết" [76,196]. Những kỉ niệm đáng nhớ đến mức: "mà
thời gian dù mài tròn đi thế nào, vẫn còn nhớ". Qua cách kể của nhân vật tôi ta thấy sự trải nghiệm
chua xót, đắng cay và nhận thấy đời quả thật đáng buồn! Vẫn cách khắc họa cái tôi tự biểu hiện qua
suy nghĩ, qua lời nói đồng thời tác giả dùng hình thức kể chuyện của chủ thể "tôi" đặt cạnh chủ thể
khác, hình như tác giả muốn tăng thêm sự thuyết phục, tìm sự đồng cảm để cho tác phẩm được hiện
thực, khách quan hơn: "Không biết đời chúng mình cứ thế này đến bao giờ? Tôi không hiểu Cần
băn khoăn về cuộc đời theo nghĩa đen hay nghĩa bóng, còn tôi thì đương nghĩ đến một cái gì mơ hồ
buồn lắm" [76,194]. Chủ thể "tôi" được chiếu điểm nhìn qua cho nhân vật trong kể chuyện của mình
như trên là việc ý thức của tác giả trong lối kể nhằm tránh giọng hồi tưởng một chiều hay là sự đơn
điệu bằng phẳng kéo tác giả lùi sâu vào quá khứ để suy tưởng. Chính vì lẽ đó mà mạch tự sự câu
truyện kể thỉnh thoảng bị dừng lại bởi lời trực tiếp của nhân vật, kéo gần tương lai lai với câu
truyện, tăng tính hiện thực. Nhà văn đã để nhân vật tự suy ngẫm để nhấn mạnh sự tự ý thức của con
người trong hoàn cảnh: "Trong nghề viết của tôi, ví như ai khuyên tôi dựng nhân vật phải theo quy
luật cuộc sống – họ nói thế, nhân vật phải gồm hai mặt tốt và mặt xấu. Nếu có khi nào viết về Cần,
về một người như Cần, tôi đành chịu có muốn cũng không thể làm theo lời khuyên ấy được. Lòng tốt
của Cần và tình thương của vợ chồng anh đối với tôi không biết có“quy luật hai mặt” ấy" [76,191].
Nhân vật tôi đã dùng những câu văn mang tính khẳng định để bộc lộ suy nghĩ của mình. Khi dùng
những cụm từ, câu văn như: "tôi đành chịu. Lòng tốt của Cần và tình thương của vợ chồng anh đối
với tôi không biết có “quy luật hai mặt” ấy". Rõ ràng những năm tháng đã qua sẽ không bao giờ
quên, như lòng biết ơn sâu sắc của tác giả. Đọc xong những trang truyện người đọc không thể ngăn
được tiếng thở dài, buồn bã. Sau đó nhân vật tôi buộc lòng phải thất thểu quay về Hà Nội…Khắc
hoạ nhân vật từ những chi tiết sinh động trong cuộc sống đời thường như thế, nhà văn không có ý
định làm méo mó hoặc bôi nhọ nhân vật, mà ở đây là một trong những thủ pháp xây dựng nhân vật
của nhà văn. Có lẽ trong làng văn hiện đại Việt Nam ít ai viết về kỷ niệm tuổi thơ và những ngày
bước vào tuổi trưởng thành với nhiều chi tiết “vụn vặt” như Tô Hoài.
Trong các tác phẩm hồi kí, khi tác giả hòa mình trong môi trường sống gần gũi với các nhà
văn. Ta thấy nổi bật lên cái “tôi” nghệ sĩ tài hoa, tinh tế, khéo léo thể hiện ở cách kể chuyện. Chen
giữa mạch truyện tự sự của chủ thể “tôi” kể về nhân vật khác là những đoạn tâm sự trực tiếp của
nhân vật “tôi”, người chứng kiến câu chuyện, điều đó làm cho câu chuyện kể ngừng lại, nhịp kể
chậm lại lắng sâu và suy tư của nhân vật “tôi” cũng như tạo sự ngừng lại, cùng suy tư với nhân vật
của độc giả. Cách kể được thể hiện bằng lời văn gián tiếp của người kể và lời nửa trực tiếp mang ý
thức nhân vật rất đặc sắc ở Tô Hoài: "Khi bực tức một người, một bài báo, người ta nói thường thốt
ra, câu nói ác khẩu mà nhiều người hay kể lại: "bao giờ chết thì nhớ chôn theo với tôi một thằng
phê bình", theo cái nhớ của tôi, thật thì Nguyễn Tuân còn nói đùa thêm để dưới ấy trao đổi cho đỡ
buồn. Cũng táo tợn như cái câu của P.Môrăng: Ta muốn sau khi ta chết đi, da ta được thuộc làm
cái vali mà Nguyễn Tuân đã lấy đặt lên đầu trang tiểu thuyết Thiếu quê hương khi in từng kỳ ở tuần
báo Hà Nội Tân Văn. Mỗi lần cáu kỉnh, Nguyễn Tuân vùng vằng nói: "Thế này thì tao đem trả thẻ
Đảng cho Tố Hữu". Nhưng chưa bao giờ Nguyễn Tuân làm thế. Chỉ thấy mỗi năm, dịp kỷ niệm ngày
vào Đảng, hay tết nhất Nguyễn Tuân đều đến chơi Tố Hữu. Thế nào cũng cầm lên mây bông hồng
vàng lòng trứng gà. Trước sau tề chỉnh hầu như đã thành nếp. Cũng là "miệng xà" thôi" [63,185].
Chỉ một đoạn văn ngắn thôi mà ta thấy lời văn sử dụng rất linh hoạt khi thì lời của nhân vật kể, khi
thì lời trực tiếp của nhân vật khác, khi thì lời chêm xen, giải thích của tác giả như để làm vơi bớt cái
gay gắt của Nguyễn Tuân: "theo cái nhớ của tôi, thật thì Nguyễn Tuân còn nói đùa thêm để dưới ấy
trao đổi cho đỡ buồn" cách viết thật khéo léo, khiếm tốn, hóm hỉnh: "Cũng là "miệng xà" thôi".
Điều đó làm cho câu chuyện kể ngừng lại, nhịp kể chậm lại lắng sâu và suy tư của nhân vật “tôi”
cũng như tạo sự ngừng lại, cùng suy tư với nhân vật của độc giả. Chính vì vậy, truyện đã tạo điểm
nhìn khác nhau qua cách chuyển vai kể đầy sinh động, chứ không phải cứ một giọng của một cách
kể xuôi chiều, đều đều một nhịp.
Tô Hoài tinh tế và khéo léo, hoà nhã trong ứng nhân xử thế. Khi đặt nhân vật “tôi” bên cạnh
với tư cách là nhân vật tồn tại khách quan như những nhân vật khác, nó còn được giao nhiệm vụ kể
theo quan điểm chủ quan của nhân vật “tôi”, tức đặt điểm nhìn nơi nhân vật sẽ có lợi thế vì nó vừa
tả hiện thực vừa trực tiếp nhập vào nhân vật để bộc lộ thái độ suy nghĩ thông qua sự đối thoại độc
thoại để khám phá thế giới bên trong của nhân vật. Bởi vì nhân tố đối thoại, độc thoại là đặc tính
quan trọng của hoạt động ngôn từ, trả lại cho ngôn từ hình thức nói vốn có của nó như trong đời
sống thực. Như cái lần Tô Hoài đưa đám ma Minh Đức – một người mà Nguyễn Tuân không ưa. T
4

Tác giả dùng thủ pháp vừa trực tiếp nhập vào nhân vật để bộc lộ thái độ suy nghĩ thông qua sự đối
4T

thoại để khám phá thế giới bên trong của nhân vật. Nguyễn Tuân hỏi: “Sao ông đi đưa đám thằng
T
4 T
4

ấy?”, Tô Hoài trả lời: “Trong đầu tôi không thấy có câu hỏi nào về việc như ông hỏi” [63,57]. Cách
trả lời như thế, Nguyễn Tuân có vẻ không tin nhưng họ tránh được sự khó xử, thắc mắc. Hai người
tránh đề cập đến chuyện đó bằng cách đụng cái cốc bia hơi mạnh.
T
4Với đặc trưng của thể loại hồi kí khi miêu tả nhân vật "tôi", tác giả thường dùng cách bộc lộ
cảm xúc trực tiếp của nhân vật. Tác giả dùng thủ pháp trực tiếp để nhân vật tôi tự kể, tự miêu tả cảm
xúc, tâm trạng. Cách khắc họa đó làm nổi bật nhân vật. Khẳng định mạnh mẽ mình là người trong
cuộc, tăng giá trị chân thực cho câu chuyện. Đồng thời nhấn mạnh sự đồng cảm cao độ giữa những
người bạn văn chương. Tô Hoài thật tài hoa, tinh tế trong cách viết. Khi viết về Xuân Diệu – con T
4 T
4

người của Tình không tuổi và xuân không ngày tháng:


"Tự dưng, Xuân Diệu nắm tay tôi:
T
4 T
4

- Chúng mình già rồi...Xuân Diệu có một tình yêu riêng không khi nào biết tuổi, từ xa xưa
đến bây giờ vẫn tơ vương, vẫn thanh xuân, vẫn thiết tha. Ở Đan Mạch mới có luật cho người cùng
giới lấy nhau. Lão Axen 72 tuổi yêu lão Alyxin 70 tuổi đã trên bốn mươi năm, bây giờ được ra toà
thị chính thủ đô Côpenha làm đăng kí kết hôn...Thơ tình Xuân Diệu gửi một người lính trẻ rời thành
phố vào chiến trường chống Mỹ" [63,198]. Trong đó có lời đề bài thơ Em đi tặng Hoàng Cát có
đoạn: "Em hẹn sau đây sẽ trở về/ Sống cùng anh lại những say mê.../ Áo chăn em gửi cho anh
giữ /Xin gửi cùng em cả hẹn thề." Đêm 11/7/1965 23 giờ 30. Ta biết Xuân Diệu sinh năm 1916
vậy đến năm 1965, Xuân Diệu gần 50 tuổi vẫn viết thơ tình nồng nàn, đắm say với một chàng lính
trẻ. Cho nên Tô Hoài thấu hiểu cái nỗi chờ đợi đau đáu của bạn mình khi biết: "Xuân Diệu tài hoa
và đam mê, cả đời đuổi theo mộng. Một bài thơ, những bài thơ, những mối tình trai và tình gái." Vì
vậy cái khéo léo, tài hoa của tác giả Tô Hoài khi tưởng như kể chuyện ở đâu đâu, ở xa xôi bên trời
Tây:" Ở Đan Mạch mới có luật cho người cùng giới lấy nhau. Lão Axen 72 tuổi yêu lão Alyxin 70
tuổi đã trên bốn mươi năm, bây giờ được ra toà thị chính thủ đô Côpenha làm đăng kí kết hôn".
Nhưng kì thực tác giả mong cho suy nghĩ của con người đổi thay, phóng khoáng, khoa học hơn để
thấu hiểu cho nỗi lòng của những người không may gặp những bất hạnh. Nhà văn đã rút ngắn đến
mức thấp nhất khoảng cách giữa người đọc với người kể, giúp chúng ta được tiếp cận, được bước
vào một thế giới đời thường phía sau thế giới nghệ thuật lung linh, huyền ảo mà ta vẫn thường biết
đến qua tác phẩm của những nhà văn. Điều đáng nói ở đây là ngay cả khi viết về những thói tật của
những người nghệ sĩ lớn, Tô Hoài vẫn viết bằng tất cả tấm lòng chân thành của một nghệ sĩ chân
chính, bằng cái nhìn cảm thông chân tình nên chúng ta không cảm thấy nhà văn hạ thấp họ hay cố
tình đề cao bản thân mình để làm nhòe đi hình ảnh người khác.
Ở đây nghệ thuật tự biểu hiện của nhân vật bằng cách dùng những nhận xét của người khác
khi nhận xét về mình một cách thẳng thắn, khách quan. Một cái tôi chân thành không né tránh.
Hoàn toàn nhất quán trong cách viết, không ngại ngần phanh phui ngay cả chính bản thân mình.
Ông viết cả những câu nói của bạn văn khi nói về ông, như nhận xét của Như Phong: “Thằng ngoại
ô láu cá, văn chương thì đẽo gọt”; hay Nguyễn Tuân cũng từng nhận xét: “Chó biết thằng này thế
nào là thật! Tao ghét cái cười mủm mỉm hiền lành, không hiền lành của mày” [63]. Và Tô Hoài
cũng nhìn nhận về mình: “Có thể thế. Tôi sinh ra nơi thành phố và làng mạc lẫn lộn, thế lực chánh
lí không khạc ra lửa như trời đất làng Đại Hoàng của Nam Cao, ở quê tôi túi bạc đâm toạc tờ giấy,
có tiền là có cả, bấy lâu tôi lăn lóc trong khóe đời ấy” [76]. Cái “khóe đời”mà ông lăn lóc ấy ít
nhiều đã tác động, hình thành nên nét tính cách trong con người ông. Ngay cả việc đã từng bị
Nguyên Hồng chửi thẳng vào mặt ông cũng không hề che giấu: “Tiên sư mày, thằng Câu Tiễn!...”
[63]. Phải chăng vì thế mà ta hình dung ra Tô Hoài như một bức chân dung được phác thảo giống
như bất cứ bức chân dung nào khác; không thiên vị, không né tránh. Tinh tường, tài hoa trong cách
nhìn nhận, giá đánh, phản ánh.
Dưới ngòi bút Tô Hoài người đọc vẫn cảm nhận được tính khách quan của sự vật hiện tượng
được miêu tả, cộng với cách kể chuyện hấp dẫn có duyên, nhiều khi lan man mà vẫn kết dính, nhiều
khi “vụn vặt” mà vẫn có sức khái quát. Tác giả đã kể lại hết sức chân thực cuộc đời, cảnh ngộ của
nhân vật tôi, tập trung khắc họa từ suy nghĩ, hành động, lời nói từ đó khái quát lên tính cách. Người
đọc hồi hộp dõi theo cả một quá trình khôn lớn, trưởng thành của nhân vật tôi, quá trình nhận thức,
khám phá xã hội, quá trình hình thành nhân cách của nhân vật tôi, hình ảnh của tác giả sau này.
Nhân vật tôi như sợi dây xâu chuỗi biết bao cảnh đời số phận. Khi nói về mình, tác giả đã miêu tả
không phải như một cái gì đã hoàn tất và cố định mà như là một nhân cách biến chuyển, đổi thay
được cuộc sống tôi luyện. Điều đó cũng chính là một trong những nét đặc trưng cơ bản của tiểu
thuyết mà ta tìm thấy trong Tự truyện của Tô Hoài.
Tại sao? Khi viết tự truyện, hồi kí Tô Hoài thành công khi khắc họa tiếng nói bên trong của
nhân vật "tôi", một tâm sự chân thành, một cái tôi đầy suy tư, trăn trở: "Hồi kí, tự truyện của Tô
Hoài là thể văn sở trường nhất của Tô Hoài...Ở thể văn này, nhân vật trung tâm chính là cái tôi của
người viết. Cho nên sự hấp dẫn của văn phong Tô Hoài xét đến cùng là sự hấp dẫn của cái tôi ấy".
Nhận xét trên của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh là rất chính xác. Tô Hoài viết hay và có ý thức tạo
nên sự hấp dẫn của cái "tôi" trong tự truyện. Điều đó một phần do những năm 30 của thế kỷ này đã
chứng kiến một cuộc lột xác của văn học, một “thời đại chữ tôi” ( Hoài Thanh ) – “cái tôi” bộc lộ tự
do, trực tiếp, thành thực thành “chữ tôi”. Cái tôi tự cảm trong thơ mới lãng mạn, cái tôi tự nghiệm
trong một số tác phẩm văn học hiện thực phê phán, một phần nào đó, cái tôi tự giãi bày trong những
tự truyện, hồi kí. Mà trong những tác phẩm tự truyện, hồi kí của Tô Hoài cũng thấy rõ điều đó.
Hơn nữa các tác giả tự truyện, hồi kí thực sự giai đoạn của 1930-1945 khẳng định cái tôi của
mình thông qua cách biểu hiện của đời sống bên trong mình, một cái tôi mạnh mẽ đầy ý thức. Con
người có giá trị vì nó là một tồn tại duy nhất không bao giờ gặp lại.Trong tự truyện, hồi kí nhân vật
tôi tự coi mình là chứng nhân cho chính mình, còn những người khác thì nhân vật tôi coi là nhân
chứng cho những gì không thể thay thế được trong sự hiện diện của mình”. Nếu trong văn học
Trung đại thế giới bên ngoài thu hút nhân cách con người thì bây giờ nhân cách con người tự khẳng
định như một nhu cầu tất yếu, định hình những chuẩn mực cho nó, và đấy là mảnh đất màu mỡ cho
thể loại văn học của đời sống cá nhân phát triển. Tô Hoài cũng là người ít nhiều chịu ảnh hưởng của
văn hóa phương Tây đã mạnh dạn thể nghiệm cho thể loại tự truyện, hồi kí. Và đã có những cống
hiến trong công việc phát triển thể loại văn học này.
Vì sao khi viết tự truyện, hồi kí Tô Hoài nhắm đến tái hiện quãng đời ấu thơ của tác giả khi
tác giả còn chưa xa cái tuổi thơ ấu ấy bấy nhiêu. Trong khi nhiều nhà văn khác trên thế giới chỉ
thường viết tự truyện, hồi kí khi đã có tuổi, có một độ lùi thời gian cần thiết để đánh giá, suy
nghiệm về cả cuộc đời đã qua của mình, thì nhà văn Tô Hoài viết tự truyện, hồi kí ở tuổi đời rất trẻ.
Trong hoàn cảnh xã hội khi con người mang nặng nỗi bất hòa với hiện tại thì quá khứ là một trong
những nẻo đường thoát ly ngay trước mắt. Quá khứ dù có hạnh phúc, đẹp đẽ hay là đau khổ buồn
thương đi nữa, một khi đã trở thành kỷ niệm thì đều mang một vẻ đẹp, một vẻ “hoàng kim”, một sức
cuốn hút lạ lùng nào đó, bởi nó không bao giờ trở lại. Đấy chính là quy luật trong đời sống tình cảm
của con người.
Đương nhiên thành thực không phải điều kiện duy nhất để nhà văn thành công trong tự
truyện, hồi kí . Trong thể loại này chủ thể trần thuật trở thành một chủ thể kép: vừa là chính tác giả
đang tự kể về mình, vừa là nhân vật chính, là hình tượng trung tâm trong tác phẩm. Thể loại này
đào tìm chất liệu và xây dựng tác phẩm từ cuộc đời và tính cách của cái tôi – tác giả, chính ở đây sự
tự thể hiện diễn ra chân thực nhất, tự do nhất và cũng là khắc nghiệt nhất. Bởi lẽ tác giả ngoài đời và
tác giả trong nghệ thuật, cái thật của cuộc sống và cái thật của nghệ thuật, chúng không bao giờ
trùng khít với nhau. Có những cuộc đời bên ngoài thì rất rực rỡ, ấn tượng, nhưng đi vào nghệ thuật
lại nhàm chán, mờ nhạt và sáo mòn. Ngược lại, có những cuộc đời bên ngoài thì rất tẻ ngắt, ảm
đạm, tầm thường, nhưng đi vào nghệ thuật thì lại lung linh nhiều tầng ý nghĩa sâu xa, cao đẹp của
thân phận con người. Có thể nói, đọc tự truyện không phải chỉ là đọc cuộc đời tác giả mà đi tìm
trong cuộc đời ấy một cuộc đời lớn hơn thế, đi tìm trong số phận ấy trong số phận của cả tầng lớp,
cả nhân thế này. Nên cái tôi – tác giả ấy phải tìm được mở rộng tối đa các giới hạn sống, những sự
kiện, biến cố phải được khai thác tối đa về phương diện tính chân thực của khoảng rộng của không
gian và thời gian sống. Tự truyện được viết ra từ chính vốn sống, vốn trải nghiệm cụ thể của cuộc
đời nhà văn, nhưng nó không phải con số cộng của những sự kiện đã xảy ra, những kinh nghiệm đã
đúc rút, mà là quá trình sống lại cuộc đời mình một lần nữa, với cả những phương án khả thi khác
nữa của nhân cách mình, với cả bề dày của thời gian, của sự đeo đẳng, ám ảnh, day dứt, nuối tiếc
trong mình.

2.3. Khắc họa nhân vật qua hồi ức, bằng hồi ức
Thế giới trong hồi ức, hồi tưởng được lọc qua trí nhớ, cuộc đời khúc xạ qua tâm hồn và suy
nghĩ của tác giả nên thấm đẫm cảm xúc trữ tình, suy tư trải nghiệm có thể là sự ý thức, sự suy ngẫm
rất thực về cuộc sống hay về chính mình. Nhà văn khi hồi tưởng nhớ về những người thân yêu đã để
lại cảm xúc sâu đậm cho tác giả.
Khi trưởng thành bước theo nghề văn thường tác giả có cảm hứng viết về những cây bút mà
mình ưa thích, hâm mộ và có quan hệ thân cận đặc biệt. Điều ấy khiến cho cái tôi của người cầm
bút bao giờ cũng bộc lộ đậm nét qua việc hồi tưởng. Cái tôi của người cầm bút bộc lộ tính chủ quan
của hoạt động sáng tạo. Sự thú vị khi đọc những chân dung văn học, ta thấy rất rõ tình cảm của
người viết bởi sự gần gũi thấu hiểu. Cảm xúc có phần nồng nhiệt và nhìn đối tượng phản ánh bằng
một lăng kính ngưỡng mộ, yêu thương của người viết đối với đối tượng của mình. Tính chủ quan
khi khắc họa nhân vật bằng hồi ức còn thể hiện rõ hơn nữa ở cách khai thác và sự phát hiện riêng về
đối tượng. Tác phẩm văn học đích thực bao giờ cũng neo giữ ở lòng người lâu nhất và điều thuyết
phục người đọc chính là cảm xúc chân thành của người viết. Tác giả biết tự đánh giá lấy mình tránh
sự tô vẽ bịa đặt, nhất là trong những hình ảnh mà tác giả là người duy nhất tham gia chứng kiến sự
việc.

2.3.1. Khắc họa nhân vật người thân

Hồi ức – nhân vật “tôi” đang nhớ lại điều bản thân đã trải qua. Ấn tượng mạnh mẽ nhất của
tác giả khi nhớ về người thân đó là cảm xúc về mẹ: “Hồi ức về mẹ bao giờ cũng tươi mát và sinh
động. Ta càng xa tuổi thơ thì hồi ức đó càng rõ rệt, dễ hiểu và thân thiết” (N.V, Sengunop). Cảm
xúc về mẹ – đấng sinh thành, là điểm tựa tinh thần luôn đem đến cho ta một cảm giác dễ chịu, thân
thiết. Hồi ức về mẹ bao giờ cũng tạo được niềm vui và niềm tin trong ta. Khi trưởng thành, hồi ức
về mẹ càng gần gũi, sinh động và tươi mát.Trong đôi mắt của con không ai gần gũi và thân thương
bằng mẹ, cũng không có cảm xúc nào chân thật hơn cảm xúc về mẹ. Có lúc tác giả cách thể hiện
gián tiếp như lời kể, lời tả: "Trong đôi mắt dịu hiền của u tôi, tôi mới có thể là hy vọng của một
4T

tương lai mong đợi sáng sủa hơn". Nhưng có lúc bộc lộ trực tiếp cảm xúc của cái tôi trữ tình, cách
gọi mẹ bằng: "U ơi u, chị ơi! chị, cháu hiểu, không bao giờ chị biết đến những hàng chữ tắt mắt
cháu đương viết đây. Cái thế giới tân kỳ mà cháu sống, chẳng bao giờ chị tìm biết. Người mẹ kín
đáo ngắm đứa con ngày một khác lạ, lạc mãi vào những cuộc sống xa xôi nào. Mẹ âm thầm sống.
Mẹ là cái bóng đi bên cạnh tháng ngày của con. Chị ơi! Chưa bao giờ chị dám muốn có một ý đổi
thay mong ước" [76,30]. Khi xây dựng hình ảnh người mẹ thân yêu vì khắc họa qua hồi tưởng cho
4T

nên ấn tượng nhất của tác giả với mẹ qua ngoại hình, tác giả thiên về miêu tả. Miêu tả đòi hỏi nhiều
chi tiết để dựng cảnh giống như thực. Mặt khác, bạn đọc có cảm tưởng như mình được trực tiếp
chứng kiến, thậm chí có thể tham gia vào cảm xúc của các nhân vật trong câu chuyện. Ngày nay
người ta gọi tác động này là “hiệu quả của sự có mặt”. Khi miêu tả ngoại hình của mẹ, tác giả tập
trung khắc họa: "Cái bóng lầm lũi, hoà với bóng tối, vẽ nên một khuôn mặt trăng trắng với đôi mắt
T
4

nhỏ lòng đen nhuộm một màu nâu đồng. Cái bóng mơ hồ bên cạnh lớp lớp những ngậm ngùi những
thắc thỏm đợi chờ dài dặc trong ngấn nước mắt và tiếng thở dài...Tóc đường ngôi của u tôi lốm
đốm rụng, chỉ còn lưa thưa. Mới năm nào, u tôi thuê tôi nhổ, một chinh hai chiếc tóc sâu. U tôi
cười, nếp nhăn ở đuôi con mắt nheo lại, xếp lên nhau, đến khi hết cười còn hằn những vết rạn khía
quanh xuống hai bên gò má. Hàm răng trên của u tôi khuyết hai chiếc đã mấy năm nay. U tôi già đi
từ bao giờ? Từ lúc nào?" [76,30]. Bóng dáng người mẹ đã được khắc hoạ qua “Cái bóng hoà lẫn
4T

với bóng tối", “Cái bóng mơ hồ trong lớp lớp những ngày tháng ngậm ngùi, thấp thỏm đợi chờ dài
dặc”. Khi hồi tưởng tác giả vừa miêu tả vừa bộc lộ tình cảm trong đôi mắt yêu thương của tác giả
người mẹ hiện lên là người phụ nữ đã phải chịu nhiều vất vả, lam lũ vì cuộc sống nghèo khó, cơ
cực, luôn phải sống trong những chuỗi ngày “thắc thỏm đợi chờ dài dặc” tin tức của người chồng đi
làm ăn biền biệt ở đất Sài Gòn xa xôi không thấy trở về. Miêu tả nhân vật Tô Hoài hay đặc tả về đôi
mắt để phản ánh chiều sâu của tâm trạng, tâm hồn con người: "một khuôn mặt trăng trắng với đôi
T
4

mắt nhỏ lòng đen nhuộm một màu nâu đồng. Cái bóng mơ hồ bên cạnh lớp lớp những ngậm ngùi
những thắc thỏm đợi chờ dài dặc trong ngấn nước mắt và tiếng thở dài" [76]. Cách xây dựng nhân
T
4

vật của Tô Hoài tập trung qua miêu tả hình dáng, cử chỉ ta cũng có thể liên tưởng đến số phận con
người, có thể thấy được những suy nghĩ, đăm chiêu trong tâm hồn của người mẹ qua hồi tưởng của
tác giả. Ngay trong khi hồi tưởng tác giả dùng những câu văn trữ tình cảm nhận thời gian trôi qua
T
4

rất nhanh đưa theo tuổi trẻ của mẹ đi mất, người con bỗng thoảng thốt nhận ra: "Mới năm nào, u tôi
thuê tôi nhổ, một chinh hai chiếc tóc sâu...U tôi già đi từ bao giờ? Từ lúc nào?". Tác giả ngậm ngùi
nhận ra cuộc sống của mẹ từ khi sinh ra đã quen với sự chịu đựng, quen với những nỗi bất hạnh cay
T
4

đắng của cuộc đời. Cách khắc họa nhân vật – đời người như một dòng sông buồn. Tác giả đứng ở
hiện tại để hồi tưởng lại nên khắc họa nhân vật của mình bằng tình yêu thương trong chiều sâu tâm
hồn.
Văn học phản ánh hiện thực thông qua lăng kính chủ quan của nhà văn. Mỗi một thể loại văn
học có cách phản ánh và đặc trưng riêng của nó. Đặc trưng của truyện ngắn là sự cô đọng, dồn nén,
phản ánh một hiện thực lớn trong một phạm vi nhỏ mà vẫn làm nổi bật được tư tưởng chủ đề mà tác
giả gửi gắm. Cho nên trong từng chi tiết của truyện đều có dụng ý nghệ thuật và có tính triết luận rất
cao. Những trang văn miêu tả của Tô Hoài bao giờ cũng hiện lên cụ thể, chân thực và sống động,
cho dù có khi nhà văn diễn tả những cảm xúc mơ hồ của con người. Khi miêu tả đối tượng, nhà văn
luôn thể hiện sở trường trong việc đặc tả chi tiết khiến cho sự vật, sự việc được miêu tả ở cự ly gần
nhất gây được nhiều bất ngờ thú vị tới người đọc. Khả năng đặc biệt của Tô Hoài nắm bắt rất nhanh
những chi tiết chân thực điển hình của đối tượng miêu tả.
Ấn tượng khó quên của tác giả đó là tình thương yêu của người bà dành cho mình. Với tuổi
ấu thơ, nhỏ bé không ai dịu dàng yêu thương cháu bằng bà. Khi mẹ bắt đi học sợ, khóc không chịu
đi nên: "Thấy bà, tôi bỗng khóc to hơn” [76]. Sau đó được bà dỗ dành mới chịu đi học, điều này phù
T
4

hợp với tâm lí trẻ thơ, hay sợ hãi và thích nhẹ nhàng, vỗ về. Thế là người bà đã kiên nhẫn ngồi cạnh
cháu suốt nửa tháng: "Bà có ngồi thì cháu mới ngồi. Và tôi đứng yên. Bà tôi phải ngồi xuống cùng
ghế, tôi mới dám nép một bên. Trống tan học, bà tôi dắt tôi về. Buổi học chiều, cũng lại cảnh hai bà
cháu ngồi cạnh nhau. Hôm sau lại những hôm sau nữa, sau nữa. Mỗi sáng, tôi tề chỉnh sách mũ và
lọ mực, bà tôi lại đưa tôi lên trường và ngồi cùng một bên. Cái lệ ấy kéo dài đến nửa tháng" [76,
47– 48]. Khi hồi tưởng về nhân vật người bà tác giả dùng loại câu kể nhắc đi, nhắc lại thời gian:
4T 4T

"Buổi học chiều... Hôm sau lại những hôm sau nữa, sau nữa....Mỗi sáng...Cái lệ ấy kéo dài đến
nửa tháng." Biết bao nhiêu công lao và tình thương bà dành cho cháu trong sự kiên nhẫn ấy. Bởi
vậy càng lớn lên nhân vật tôi càng trân trọng tình cảm mà người bà dành cho mình. Và chỉ có người
bà thấu hiểu cho nỗi nhớ nhà da diết của đứa cháu xa quê. Nỗi lòng người cháu như vỡ òa khi tìm
được điểm tựa tinh thần. Có khi nỗi nhớ nhà đến nôn nao tác giả dùng lời nói gián tiếp của bà: "Tôi
4T T
4

nhớ nhà quá. Nhớ vàng cả người. Vàng cả người là bà ngoại tôi nói thế. Giữa tháng chạp, bà ra
đón tôi về quê ăn tết. Vừa trông thấy bà, hai mắt tôi đã loá nước mắt". Bởi bản thân nhân vật tôi lúc
đó còn rất ngây thơ ngay trong cả nỗi nhớ của mình cũng khó có thể tìm ngôn ngữ nào để diễn tả.
Cho nên tác giả đã dùng nhận xét của người bà vừa thương cháu vừa trải đời để diễn tả cho hết cho
đúng cái nỗi nhớ da diết. Đây là hình thức kể chuyện của chủ thể "tôi" đặt bên cạnh chủ thể khác,
hình như tác giả muốn tăng thêm một nhân chứng để cho tác phẩm được hiện thực, khách quan
hơn. Tự truyện của Tô Hoài có nguồn gốc chủ yếu từ thời thơ ấu của tác giả. Tô Hoài khắc họa nhân
4T

vật người thân một cách sinh động và bao trùm lên vẫn là tình cảm yêu thương mà tác giả dành cho
bà.
Hồi ức tuổi thơ của Cu Bưởi luôn in đậm hình bóng, gương mặt của người ông, một hình ảnh
gây ấn tượng mạnh trong trí nhớ của nhân vật tôi: “Đầu ông tôi cạo nhẵn, lơ thơ tóc bạc, ngó được
cả làn da đầu bóng đỏ…Phía má bên trái ông tôi có một cái nốt ruồi. Ở vết nốt ruồi mọc ra mấy sợi
râu dài mờ như cước, quyện lẫn cả vào chòm râu thưa bên mép. Mắt ông tôi lúc nào cũng lờ đờ.
Phía dưới mí gồ lên hai cái bọng. Những nếp răn chảy trên má rạt quanh xuống hai bên cằm…”
[76]. Tô Hoài miêu tả gương mặt của người ông tới từng tiểu tiết trên gương mặt, khiến cho người
đọc có cảm giác như mình đang được trực tiếp quan sát gương mặt ấy qua một tấm kính hiển vi,
nhìn thấy được cả nốt ruồi nhỏ ở bên má trái và mấy sợi râu bạc mờ trên đó. Biệt tài miêu tả ngoại
hình của nhà văn khiến cho người đọc phải ngạc nhiên và thán phục. Cách miêu tả ngoại hình hết
sức chi tiết. Những hình ảnh ấy hiện ra trước mắt độc giả là một gương mặt của người già với những
nếp nhăn khắc khổ, hằn sâu như vết chân của thời gian đã đi qua, in dấu lại, đôi mắt dường như đã
mệt mỏi, kém vẻ tinh anh “lờ đờ”, “có màng gợn trăng trắng”. Với sự khắc họa ngoại hình chuẩn
xác như vậy nên gương mặt người ông đã gây ấn tượng độc đáo và rõ nét với người đọc. Trên
khuôn mặt ấy vừa có cái chung của tất cả mọi gương mặt người già nhưng lại có những điểm riêng
biệt mà chỉ nhân vật ấy mới có.
Khi miêu tả ngoại hình qua dáng ngồi in đậm hình bóng của người ông trong kí ức của Cu
Bưởi ,đối với nhân vật “tôi” – đây vừa là người mà nhân vật kính trọng, vừa là người rất đáng sợ:
“Mỗi sớm, khi tôi bừng mắt, nhìn sang ghế tràng kỷ bên đã trông thấy đốm thuốc phập phèo sáng.
Ông tôi ngồi bó gối, bao giờ cũng một kiểu ấy, hút thuốc, nhìn ra sân” [76]. Tác dụng của những
nét vẽ đã tạo nên hình dáng của người ông, vừa có sức gợi lớn về số phận con người. Trong dáng
ngồi im lìm và lặng lẽ ấy như có cái gì đó vừa bất mãn vừa cam chịu, nhẫn nhục, suy tư trước thời
thế cuộc đời, trước cái nghèo đói tù túng như con mọt đang ăn mòn mỗi thân phận, mỗi cuộc đời
của người dân vùng Nghĩa Đô khi đó. Một con người cũng đã từng có một thời tung hoành. Bây giờ
khi đã về già, con người ấy ngoài việc ngồi đăm chiêu như vậy và quét lá rụng trước sân thì “không
cất nhắc một việc gì nữa”. Trong khi gia đình cứ “nghèo dần mãi đi”. Đó là một sự buông xuôi
trước số phận, phó thác cuộc đời cho số phận; một sự cam chịu và bất lực trước hiện thực cuộc
sống. Dáng ngồi lặng lẽ, khắc khoải của người ông như một dấu than, một dấu chấm buồn góp vào
bức tranh cuộc sống chung của những người dân trong làng. Cuộc sống bị bao phủ bởi màu xám tẻ
ngắt của cái nghèo đói, cũ kỹ và lạc hậu. Nhà văn Tô Hoài gọi đó là: “Cuộc sống trong ao mà
những con chẫu chàng thỉnh thoảng ngoi lên mặt nước, đờ đẫn nhìn theo mấy cái bọt mình vừa
thở”. Còn nhà thơ Xuân Diệu gọi đó là “cái ao đời phẳng lặng”. Cứ ngẫm về cuộc sống đó thấy
kiếp người thật buồn, cái buồn như lan toả từ câu chữ đến lòng người. Tác dụng của việc khắc họa
nhân vật chỉ qua vài nét phác họa về hình dáng – dáng ngồi của người ông vào buổi sáng với đốm
thuốc lập loè đã lạc vào thời gian, in đậm trong kí ức của Cu Bưởi. Đằng sau những nét vẽ của tác
giả, độc giả đã được biết thêm rất nhiều về cuộc đời, về thân phận của nhân vật, những điều có được
nhờ sự liên tưởng, nhờ cảm nhận của người đọc qua cách khắc họa ngoại hình chân thực và sinh
động ấy.
Cách xây dựng nhân qua hồi tưởng khiến cho những trang Tự truyện của Tô Hoài hiện lên
thật cụ thể và sinh động. Mỗi chi tiết, mỗi đường nét như những nét vẽ vừa chân thực lại vừa rất có
hồn tạo nên phong cách riêng trong cách xây dựng nhân vật của nhà văn. Có thể nói, thế giới nhân
vật trong tự truyện Tô Hoài được khắc họa bằng hồi tưởng, được vẽ nên bằng tình cảm, bằng sự suy
tư về số phận con người. Nhân vật vì thế hiện ra sắc nét, sinh động. Mỗi con người, mỗi gương mặt,
mỗi hình bóng được miêu tả lại có những cảnh ngộ riêng, những cảnh đời và thận phận khác nhau
tạo nên bức tranh cuộc đời chung mà trông vào đó người đọc thấy thấm thía một nỗi buồn, buồn cho
cuộc sống tù túng, quanh quẩn.
Khi khắc họa nhân vật Tô Hoài đã phát huy hiệu quả của sự ấn tượng, cảm xúc hồi tưởng,
hình ảnh trực quan, đặc tả hình dáng vẻ bề ngoài để làm rõ tính cách và liên tưởng về thân phận con
người. Cách xây dựng nhân vật bằng hồi ức của nhà văn đã tạo nên ấn tượng độc đáo đối với độc
giả.

2.3.2. Cách khắc họa nhân vật bạn văn qua hồi tưởng

Bản chất của con người là một nghệ sĩ, nhà văn là nghệ sĩ của tâm hồn. Nhà văn Tô Hoài có
ý thức nghề nghiệp cao coi văn chương là một hình thái lao động nghệ thuật cao quí. Ông quan
niệm người viết văn trước hết họ cũng là người – người lao động, chỉ khác là họ là người lao động
nghệ thuật mà thôi. Là người cùng nghề nên giữa ông và các nhà văn khác có sự "cọ xát" ở cự li
gần. Một nhà văn trong quá trình sáng tạo phải có cái nhìn mang tính phát hiện, phải có sự va chạm
vào cuộc đời bằng những góc cạnh đa chiều. Ở họ trước hết cũng là người như bao nhiêu người bình
thường khác. Họ cũng có đầy đủ mọi vẻ đẹp cao quý và không ít những điều bình thường, thậm chí
cũng tầm thường nữa:“Ô hay, người ta ra người ta thì người ta phải là người ta đã chứ” [63,7].
Chính cái nhìn giản dị mà chân thực ấy đã khiến cho Tô Hoài không hề giấu giếm về mình khi xây
dựng bức chân dung tự hoạ. Ông ghi lại cả những câu đùa mỉa mai của các bạn đồng nghiệp khi
nhận xét về mình. Không tô điểm, không cần cường điệu, mà ông cứ đem sự thật ra để kể: “Chúng
tôi cũng có đủ thói hư tật xấu của kiểu người như chúng tôi trong xã hội, những ích kỉ ganh ghét
nhỏ nhen” [76]. Đối với Tô Hoài người viết văn cũng giống như bất cứ người bình thường nào khác.
Quan niệm về người viết văn như trên đã chi phối toàn bộ tư tưởng nghệ thuật trong những sáng tác
hồi kí và tự truyện của Tô Hoài, góp phần làm nên sức hấp dẫn ở những sáng tác của ông.
Nguyễn Văn Thạc trong Mãi mãi tuổi 20 viết: “Trên trang sách, cuộc sống tuyệt vời biết bao
nhưng cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn niềm sầu muộn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt
nước mắt ở đời”. Hiện thực của cuộc sống rất phong phú, phức tạp đã tác động đến bao người.
Dưới ngòi bút của Tô Hoài, cuộc sống với tất cả những sắc thái thẩm mỹ đa dạng của nó lần lượt
hiện lên: có cả cái bi, cái cao cả và cái thấp hèn, cái đẹp, cái xấu lẫn lộn. Tất cả như những sợi chỉ
óng ánh nhiều mầu sắc pha trộn với nhau, tạo nên tấm thảm cuộc đời. Khi sáng tác Tô Hoài không
ngần ngại mà đem nhân vật ra giữa cái bề bộn phức tạp của đời thường mà suy xét, mà tạo dựng
nên. Ông không nói quá cho ai, tô vẽ lý tưởng ai, nhưng cũng không vì thế mà làm mất đi niềm yêu
quý của độc giả đối với các đối tượng mà ông đã tạo dựng.
Thời gian sẽ trôi qua, vạn vật sẽ đổi thay, dù không ai muốn đều phải “ra đi” theo quy luật
của tạo hóa, khu vườn văn chương sẽ xuất hiện những chỗ trống khi những tên tuổi từng rạng rỡ
một thời như Nam Cao, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Ngô Tất
Tố…không còn nữa. Những cây lớn đổ xuống cả một khoảng trời trống vắng. Khi đó những trang
văn hồi tưởng về các nhà văn lớn, sẽ là những tư liệu quý giá, quan trọng giúp cho độc giả tiếp cận
và hiểu hơn về giới nhà văn trong quá khứ.
Có thể nói đây là những nhân vật rất đặc biệt trong tác phẩm hồi kí của ông, là những người
bạn, người đồng nghiệp mà ông gần gũi, thân thiết, tiếp xúc nhiều với họ, điều quan trọng nữa là
ông rất hiểu họ. Với cái nhìn nhân bản đời thường “người ta ra người ta thì phải là người ta đã
chứ.” Nhà văn đã rút ngắn đến mức thấp nhất khoảng cách giữa người đọc với người kể, giúp chúng
ta được tiếp cận, được bước vào một thế giới đời thường phía sau thế giới nghệ thuật lung linh,
huyền ảo mà ta vẫn thường biết đến qua tác phẩm của những nhà văn. Điều đáng nói ở đây là ngay
cả khi viết về những thói tật của những người nghệ sĩ lớn, Tô Hoài vẫn viết bằng tất cả tấm lòng
chân thành của một nghệ sĩ chân chính, bằng cái nhìn cảm thông chân tình nên chúng ta không cảm
thấy nhà văn hạ thấp họ hay cố tình đề cao bản thân mình để làm nhòe đi hình ảnh người khác. Với
nhà văn thì ấn tượng chủ quan rất quan trọng, cuộc sống phải dội vào trái tim những nhịp đập ngân
vang, phải ám ảnh, thôi thúc người cầm bút sáng tạo. Mà cây trên rừng muôn ngàn lá không có hai
chiếc lá giống hệt nhau trong rừng người cũng vậy không có hai người hình dung giống hệt nhau.
Nhà văn tài năng phải có phong cách riêng. Điều ta nhận ra là khi nhà văn hồi tưởng những kỉ niệm
về bạn văn chương thì thường ấn tượng đến những cây bút có tài năng và có cá tính, có tác phẩm
hay. Hơn nữa chính độc giả thường quan tâm tới những nhà văn có tài mà họ hâm mộ. Vì cuộc đời
là nơi xuất phát cũng là nơi đi đến của văn học. Cho nên viết hồi kí văn học đòi hỏi phải tôn trọng
sự thật đồng thời phải hợp với suy nghĩ của người đọc nếu không tác phẩm sẽ khó tồn tại được. Có
thể nói Tô Hoài đã vượt qua được cái thử thách khắc nghiệt ấy.
Ấn tượng về ông hoàng của thơ tình yêu – Xuân Diệu
Ấn tượng về Xuân Diệu, Tô Hoài vẽ lên một vẻ ngoài chỉn chu, lịch thiệp: “áo tuýt so lụa mỡ
gà, cà vạt lấm tấm vàng xẫm, làn tóc rậm đen loăn xoăn trên đài trán” [63,185]. Xuân Diệu cũng
từng tự hào về mái tóc bồng bềnh gợn sóng của mình, mái tóc lãng mạn như những đợt sóng ở Quy
Nhơn vậy. Chỉ một nét vẽ nhỏ thôi nhưng hình ảnh Xuân Diệu hiện lên rất hào hoa, lãng mạn. Hình
thức đó thực xứng với ông hoàng của thơ tình yêu.
Ấn tượng thứ hai về Xuân Diệu mà Tô Hoài cho chúng ta biết là niềm say mê lao động nghệ
thuật cả sáng tác và cả nói chuyện thơ Xuân Diệu cũng trau chuốt tỉ mỉ như một nghệ sĩ trước công
chúng. Ông như con chim đến từ núi lạ ngứa cổ hót chơi, nhiệt huyết, hết mình, hết lòng: "Xuân
Diệu hay đi nói chuyện văn thơ. Xuân Diệu có kế hoạch chăm chút kỹ lưỡng bảy, tám bài nói, nói
khắp nước cũng chuyên mấy cái tủ ấy. Đã trau dồi đến thuộc làu, chỗ nào giơ tay, chỗ nào nghiêng
phải, nghiêng trái, lên giọng và nhấn mạnh, chỗ nào đợi vỗ tay, đợi cười và mình mỉm cười. Xuân
Diệu xuýt xoa thú vị: "Nước ta rất chuộng văn học và cũng là cái mốt. Phục vụ không bao giờ xuể
được, nói suốt tháng vẫn kín chương trình" [63,193]. Tô Hoài đã đánh giá đúng tài năng của Xuân
Diệu, tài nói chuyện thơ rất hay, rất có duyên. Vì sao Xuân Diệu lại say mê như thế, cũng dễ hiểu
thôi với niềm khát khao giao cảm với đời, lại có một tâm hồn luôn rộng mở. Ông là một cây đàn Bá
Nha nhưng không muốn chỉ có một Chung Tử Kì, mà khao khát hàng vạn, hàng triệu tri âm, tri kỉ, ở
mọi nơi, mọi thời, thuộc mọi loại người khác nhau trên thế gian này. Một tâm hồn như thế, tất nhiên
sẵn sàng truyền nhiệt huyết thơ đến với mọi người để trở thành thi sĩ của nhân dân. Một tâm hồn
như thế tất nhiên cũng không thể tự giam hãm mình trong một hoạt động văn học nào. In đậm trong
ta hình ảnh một Xuân Diệu – nhà thơ của mùa xuân và tuổi trẻ, luôn luôn sôi nổi tình yêu, dào dạt
tình đời.
Ấn tượng thư ba về Xuân Diệu rất đời thường và bình thường, Xuân Diệu ăn khỏe đến nỗi
Tô Hoài có cảm tưởng: “Không phải Xuân Diệu ăn mà là người nào khỏe gắp hộ, biến Xuân Diệu
thành con ma ăn, trông đến thương” [63,191]. "Mỗi bữa ăn, Xuân Diệu săn sóc thực đơn lấy –
Xuân Diệu nói – như thế không làm chủ nhà tốn kém, lại hợp sự cần thiết của mình. Không sang
trọng đâu toàn những thứ dễ kiếm, mấy quả trứng, thịt bò hay thịt gà, canh măng hay canh cà chua,
canh cà chua hay hơn, cho nhiều hành và nhớ mắm muối đậm một chút. Ngày hai buổi nói, lại tối
nữa, phải thế mới có sức". Bởi ông quan niệm lao động nghệ thuật như một niềm đam mê khắc khổ
ngay chính nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng lấy người thầy của mình là Xuân Diệu làm tấm gương
sáng về lao động nghệ thuật. Nên muốn vậy phải có sức khỏe, như ăn cố để lấy sức vậy. Sự chi li, tỉ
mỉ, tính toán rất rõ cả trong việc sáng tác: "Cả đến viết, Xuân Diệu cũng tính chi ly tức cười, mỗi
bài đều có mục đích hai việc một lúc. Bài nói ở đài hoặc bài đăng báo rồi để in sách. Nếu không,
không viết. Đã tính trước rồi. Không bao giờ viết bài đăng báo rồi không in vào sách" [63,193]. Vì
vậy số lượng tác phẩm mà Xuân Diệu để lại rất đáng kể.
Nhưng đặc biệt bức chân dung Xuân Diệu trong tác phẩm Cát bụi chân ai của Tô Hoài
không phải được tạo dựng bởi những hồi tưởng về cuộc đời và sự nghiệp nhà thơ, mà được tạo dựng
qua nỗi đau tinh thần mà nhà thơ phải chịu đựng. Với những dòng hồi ức về nhà thơ, Tô Hoài phần
nào đã hé mở nỗi đau thầm kín của nhà thơ. Viết về Xuân Diệu, ta thấy Tô Hoài không hề ngần ngại
kể về những chuyện đời tư, những chuyện kín của Xuân Diệu, khiến ta cảm nhận được Tô Hoài hiểu
nhà thơ đến tận chân tơ kẽ tóc. Có lẽ không ai khác ngoài Tô Hoài dám dũng cảm bộc lộ điều này:
“Thỉnh thoảng Xuân Diệu lại lên nhà tôi. Vẫn tay nắm cả buổi, nhìn nhau tha thiết, Xuân Diệu yêu
tôi" [63,189]“Xuân Diệu cầm cổ tay tôi nắm chặt rồi vuốt lên vuốt xuống. Bốn mắt nhìn nhau đắm
đuối, Xuân Diệu gắp thức ăn cho tôi. Cử chỉ thân thiết quá” [63,189]. Rồi Xuân Diệu cũng bị kiểm
điểm. Con người tài hoa thường bạc mệnh. Đọc những vần thơ của ông về tuổi trẻ, tình yêu ta thấy
ông yêu đời và khát khao giao cảm với cuộc đời, khát sống như vậy mà trong hồi kí của Tô Hoài, ta
lại bắt gặp một con người cô đơn và bất hạnh: "Xuân Diệu chỉ ngồi khóc...Tôi cũng câm như hến.
Lúc rồ lên, trong đêm tối quyến rũ, mình cũng điên kia mà, chứ có phải một mình Xuân Diệu đâu.
Không nói cụ thể việc ấy nhưng ai cũng to tiếng, gay gắt "tư tưởng tư sản, phải chừa đi". Xuân
Diệu nức nở "tình trai của tôi...tình trai..." rồi nghẹn lời, nước mắt ứa ra". Nhân vật “tôi” bên cạnh
với tư cách là nhân vật tồn tại khách quan như những nhân vật khác, nó còn được giao nhiệm vụ kể
theo quan điểm chủ quan của nhân vật “tôi”, tức đặt điểm nhìn nơi nhân vật sẽ có lợi thế vì nó vừa
tả hiện thực vừa trực tiếp nhập vào nhân vật để bộc lộ thái độ suy nghĩ thông qua sự đối thoại độc
thoại để khám phá thế giới bên trong của nhân vật: " Xuân Diệu chỉ ngồi khóc...Xuân Diệu nức nở
"tình trai của tôi...tình trai..." rồi nghẹn lời, nước mắt ứa ra". Không thể giãi bày được, đau xót biết
bao. Khi này khoảng cách giữa các nhân vật rất gần để có được sự đồng cảm, thấu hiểu.
Con người không bao giờ biết tuổi già bởi đã từng viết về mùa xuân vĩnh hằng với những
hăm hở và vồ vập ấy đã có lúc phải buột miệng thốt ra: “Chúng mình đã già rồi” [63,197]. Xuân
Diệu nói vậy nhưng ở tuổi 50 ông vẫn nồng nàn với những tình yêu rất trẻ: "Xuân Diệu đào hoa và
đam mê, cả đời đuổi theo mộng, nhiều mộng, nhiều mối tình trai. Một bài thơ, những bài thơ, những
mối tình trai và tình gái". Con người suốt đời theo đuổi những đam mê và khao khát chờ đợi Tình T
4

không tuổi và xuân không ngày tháng. Những trang Tô Hoài viết về Xuân Diệu vào những năm
tháng lúc bấy giờ quả thật là táo bạo và cũng đầy yêu thương: ""Mỗi khi nhớ, chuyện về Xuân Diệu
T
4

chỉ buồn thương, buồn cười và đáng yêu, chỉ đáng yêu". Có lẽ chỉ có Tô Hoài mới dám kể ra một
cách tỉ mỉ sự thật này. Phải chăng điều này xuất phát từ quan niệm “viết hồi kí là một cuộc đấu
tranh để thấy ra sự thật” của Tô Hoài. Nói ra sự thật đã là khó, nhưng dùng sự thật ấy để viết vào
trong sách sao cho khéo léo lại càng khó hơn. Qua hồi kí của Tô Hoài, người đọc cảm thấy ngỡ
ngàng trước cuộc đời Xuân Diệu nhưng cũng từ đó mà cảm thương nhà thơ hơn và vẫn yêu những
vần thơ tình dào dạt, căng tràn nhựa sống của ông.
Tô Hoài tài hoa và sâu sắc khi có lời nhắn gởi tha thiết và chí tình đối với hậu thế. Ông viết
rất hay, rất đúng: "Ai yêu thơ Xuân Diệu, hiểu được thơ tình tha thiết đẹp đến não nùng của Xuân
Diệu, không danh giới tơ duyên trai hay gái, phải thấu hiểu nỗi niềm và duyên nợ của nhà thơ như
thế, suốt đời nhớ thương và chờ đợi mới là biết yêu thơ Xuân Diệu. Khi nào cũng khát vọng, không
bao giờ già, mãi mãi ban đầu." [63,199] Tô Hoài vẫn viết bằng tất cả tấm lòng chân thành của một
nghệ sĩ chân chính, bằng cái nhìn cảm thông chân tình nên chúng ta không cảm thấy nhà văn Tô
Hoài đang làm xấu đi thần tượng của đọc giả mà mong muốn tha thiết rằng những người tài hoa
thường bạc mệnh và chỉ có tình thương, sư cảm thông, thấu hiểu mới xóa mờ khoảng cách và làm
cho người gần người hơn. Thời gian sẽ trôi qua, vạn vật sẽ đổi thay khi đó những lời văn chân thành
này sẽ là những tư liệu quý giá, quan trọng giúp cho độc giả tiếp cận và hiểu hơn về ông hoàng của
thơ tình yêu.
Đọc nhưng nét phác họa về chân dung Xuân Diệu của Tô Hoài người đọc bỗng trào lên một
cảm xúc, một cảm thông chia sẻ với nỗi đau, nỗi bất hạnh của “nhà thơ tình không tuổi” này.
Ấn tượng về nhà văn duy mỹ – Nguyễn Tuân:
Trong số những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng, người mà Tô Hoài dành vị trí trang trọng từ khi
mở đầu cho đến khi kết thúc cuốn hồi kí Cát bụi chân ai là Nguyễn Tuân. Ấn tượng của Tô Hoài về
một Nguyễn Tuân với phong cách không giống ai: ngang tàng và kiêu hãnh. Nguyễn Tuân là một
“bậc thầy của văn chương”, một tên tuổi nổi tiếng nhưng với Tô Hoài – họ là hai người bạn tốt,
hiểu nhau. Người ta thường chỉ viết, thường chỉ có cảm hứng viết về những cây bút mà mình ưa
thích, hâm mộ và có quan hệ thân cận đặc biệt. Điều ấy khiến cho trong các bức chân dung văn học,
cái tôi của người cầm bút bao giờ cũng bộc lộ đậm nét. Ta thấy rất rõ tình cảm của người viết bởi sự
gần gũi thấu hiểu. Tô Hoài đã trở thành tri kỉ khi hiểu rõ về cả văn và con người Nguyễn Tuân: "Có
người mê Nguyễn Tuân như điếu đổ, từng chữ. Có người chỉ lướt một đoạn đã không chịu được cái
giọng khụng khiệng, khệnh khạng. Triết lý và câu văn Nguyễn Tuân không giống vị hoài sơn trong
thang thuốc bắc, ghé bổ một tý, lại vô thưởng vô phạt. Cái chơi của Nguyễn Tuân cũng thế. Với
người này, không thể thiếu Nguyễn Tuân. Người kia thì không chịu đựng được. Ô hay, người ta ra
người ta thì người ta phải là người ta đã chứ." [63,7] Cảm xúc có phần nồng nhiệt và nhìn đối
tượng phản ánh bằng một lăng kính ngưỡng mộ, yêu thương của người viết đối với đối tượng của
mình. Cái tôi của người cầm bút bao giờ cũng bộc lộ tính chủ quan trong hoạt động sáng tạo.
Ấn tượng của Tô Hoài về một Nguyễn Tuân ở cuộc sống bình dị đời thường, với những
thăng trầm và tính cách vốn có của ông trong dòng chảy cuộc đời. Con người ấy trong tác phẩm
được mệnh danh bằng một loại từ ngữ “cây sáng kiến ăn chơi", “tay sành ăn và kĩ tính”. Cái thú đi
là một trong cái thú lớn nhất trong đời ông, đó là sở thích, là đam mê của ông. “Cái thúc giục vẫn là
những cơn đói đi của mình” [63,7] Có lẽ vì thế mà không phải ngẫu nhiên Nguyễn Tuân mượn câu
của P. Môrăng làm đề tựa cho cuốn tiểu thuyết Thiếu quê hương của mình, đó là: “Ta muốn sau khi
chết đi rồi da ta được thuộc làm cái vali”. Bởi thế, trong hồi kí Tô Hoài, hình ảnh đầu tiên tạo ấn
tượng cho chúng ta là cái dáng điệu Nguyễn Tuân “lững thững bên kia hè đường bờ Hồ” [63,5].
Con người này xuất hiện giữa cuộc đời như thế, ung dung, nhàn tản, mặc thiên hạ đua chen. Phong
cách khác người của Nguyễn Tuân còn thể hiện ở cách ăn mặc: “khăn lượt vố, áo gấm trầm, tay
chống dọc chiếc quạt thước thay ba toong, chân bít tất dận giày mõm nhái Gia Định” [63,5– 6].
Tô Hoài còn ấn tượng cả về tính cách đời thường của Nguyễn Tuân. Ông không chịu được
mùi hoa sữa, ghét lây cả cây. Ông “kỵ mùi tỏi và cũng không chịu được mùi hoa ở các thứ hương Ấn
– Độ cứ thoang thoảng, rờn rợn như có ma lẩn quất trong nhà” [63,20]. Con người ấy yêu ghét ai
thì khó mà dấu được bởi tính tình “thẳng như ruột ngựa”. Con người ấy không chịu được những gì
giả dối vòng vèo, cho nên đã từng nói với Tô Hoài: “Không biết thằng này thế nào là thật! Tao ghét
cái cười mủm mỉm hiền lành không hiền lành của mày” Đôi khi Nguyễn Tuân cũng lạnh lùng đến
khó chịu: “Khi bực bội chẳng kể to nhỏ, cái gì cũng vặc. Đuổi một người gõ nhầm cửa. Dửng dưng
trước một người không ưa, dù người ta giơ tay định bắt tay. Lại thấy cái ông ấy vào cùng buồng
trong bệnh viện, nhất định sang buồng khác” [63,76]. Nguyễn Tuân là người rất kỹ tính. Trước khi
đi đâu hay làm một việc gì, ông luôn chuẩn bị thận trọng và chu đáo: “một cuốn sổ nhỏ, cái áo mưa,
bỏ vào ba lô vừa phải. Một bao cơm nắm, thêm cái thắt lưng lương khô quấn chéo ngang mình. Dây
bi đông nước, Nguyễn Tuân đã cẩn thận buộc ghì vào thắt lưng cho khi nước đỡ sóc” [63,19]. Lọ
muối vừng, hộp nước mắm chưng dự trữ trên ba lô, thời chiến và thời bình vẫn thế.
Tô Hoài ấn tượng về Nguyễn Tuân là người ưa phóng khoáng, tự do. Tuy nhiên, cái phóng
khoáng của ông không bao giờ lẫn với sự buông tuồng, cẩu thả, “tính đếm sửa soạn cho mải mê thì
phải nhớ đến từng ly" [63,19]. Nguyễn Tuân kỹ tính trong việc ăn uống. Trời nắng nóng, ông nhấm
rượu mướp đắng giải nhiệt,“nhưng không xơi mướp đắng mắm tôm như người ta. Không bao giờ
đụng tới mắm tôm chợ” [63,27]. Ông cầu kỳ trong ẩm thực cũng như trong bất kỳ một thú ăn chơi
nào. Cái khác người của Nguyễn Tuân nằm trong tính cách chứ không phải ông cố tạo ra để nổi trội
hơn người. Nguyễn Tuân sành ăn, biết thưởng thức, không vì miếng ăn, thức uống sang trọng mà
phải là hợp khẩu vị, ngon theo ý mình: “Chỉ ăn phở chín, lùa thật nhanh, ăn thật nóng, lên hết chất
phở, thú nhất. Không hành tây, mùi tầu, húng chó, không thêm nước mắm, dấm ớt, tương ớt, không
mỡ váng, không mì chính, cốt thưởng thức cái tinh túy của nước dùng xương” [63,28]. Nguyễn
Tuân chủ yếu thưởng thức sự tinh túy của món ăn. Đôi khi không phải ăn mà là nhấm nháp để nghĩ
về quá khứ, hồi tưởng về những cái xa xưa và những nơi mà mình chưa đến được. Ông tỏ ra biết ơn
và trân trọng bà Lâm – người đã tái hiện món “lốc bểu” Lạng Sơn ngày trước: “Ngon lắm bà Lâm à.
Người biết làm thức ăn ngon như bà bây giờ hiếm, không có nữa đâu” [63,105]. Nguyễn Tuân còn
cầu kỳ trong việc uống. Ông chỉ uống “rượu ngữ” như các cụ ngày xưa và chọn các thức uống hảo
hạng: Chianty của Ý, Rôm Giaimaich hay Uytki, Mao Đài, mùa hè thì làm Cốc tai, không đụng đến
rượu ngọt dù nặng, không uống rượu Xa kê Nhật.
Ấn tượng của Tô Hoài về một Nguyễn Tuân rất quí bạn bè. Không thích quán cà phê hâm
nóng ở đầu đường nhưng “cứ tối tối, tôi lại rước tôi” ra đó để tìm về những cái nhớ. Không thích
ăn bánh cuốn nhân thịt nhưng vẫn cùng Tô Hoài và Nguyên Hồng đi vào quán Hồng Lâm để thỏa
mãn ước nguyện của bạn “cho thằng này về Kẻ Bưởi một tí” [63,101]. Còn với Tố Hữu thì vào
những dịp lễ tết, ông không quên mua mấy bông hồng vàng, đích thân đem đến tặng nhà thơ.
Nguyễn Tuân thận trọng và chu đáo đến từng chuyện nhỏ nhặt nhất trong cuộc sống. Ông không
quên để tâm đến việc chúc sức khỏe và cảm ơn chủ tiệc đã chiêu đãi mình.
Ấn tượng về một Nguyễn Tuân thắng tính, không chấp nhận cái hợm mình của người khác
bằng cách hồi tưởng lại một hành động khó quên của Nguyễn Tuân, cá tính khinh bạc của Nguyễn
Tuân đã được Tô Hoài khắc họa rất rõ, vốn mến và chơi thân, nhưng ông đã đuổi Nguyễn Sáng ra
khỏi nhà vào ngày đầu năm mới cũng chỉ tại “cái hợm trong sáng tạo, không coi ai ra gì, ai cũng
không bằng mình của Nguyễn Sáng thì Nguyễn Tuân không chịu được” [63,174].
Tô Hoài đánh giá cao tài năng của Nguyễn mà trước hết là ở cái nhìn nhạy bén. “Bao giờ
cũng là người tài nhìn ra những điều mà chưa ai nhận ra” [63,102]. Ngòi bút tài hoa, sắc sảo của
Nguyễn Tuân đã cho người đọc thấy được “những lăng cạnh gốc gác, như muôn vật trong trời đất,
khác nhau mà lại dính líu với nhau” [63,9]. Chính sự tinh tế, nhạy cảm ấy đã làm cho ngòi bút của
Nguyễn tài hoa và sắc cạnh. Với chân dung Nguyễn Tuân điều rõ nhất ta thấy ở nhà văn ấy là sự
độc đáo, tài hoa trong cách sống, và cũng là con người độc đáo, tài hoa trong sự nghiệp. “Tác phẩm
của Nguyễn Tuân khiến có người mê Nguyễn Tuân như điếu đổ, từng chữ”. Song không thiếu những
kẻ đố kị ganh ghét, soi mói… vì thế mà sự sáng tạo cứ được nhìn từ góc độ chính trị “lên xuống
theo thời tiết”, khiến Nguyễn Tuân đã phải cáu kỉnh, chua chát, mà nói rằng: “Mày bảo chúng nó
viết đi để ông với mày đi chơi, thế là biên chế bớt được người công tác theo dõi” [63]. Chân dung
khép lại với cảm xúc bâng khuâng của tác giả khi nghe đài báo về cái chết của Nguyễn Tuân: “Đêm
qua nghe đài báo ông Nguyễn Tuân chết rồi. Tôi nghĩ vẫn như buổi tôi ngồi uống một mình nhưng
Nguyễn Tuân đã nằm yên từ buổi sáng, trước hôm tôi ra đây. Nguyễn Tuân! Nguyễn Tuân ôi! ô hô”
[ 63,336].
Quan niệm về con người “người ta ra người ta thì phải là người ta đã chứ” của Tô Hoài đã
bộc lộ rất rõ qua việc tái hiện chân dung Nguyễn Tuân với đầy đủ tính chân thực. Ông cầu kỳ kiểu
cách, mê đi, ân nghĩa, thủy chung. Ông không chỉ là một nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt
Nam mà còn là một người luôn nặng trĩu suy tư, sống giản dị và mang những tính tình đời thường:
khó tính hay phàn nàn, nói thẳng. Trong hồi kí Tô Hoài, con người ấy hiện lên ở phần đời nhiều hơn
là phần nhà văn. Đó là một con người tài hoa, uyên bác, giàu lòng tự trọng, cầu kì cẩn thận trong
mọi nếp sống, không xô bồ, vồ vập mà kín đáo, thâm trầm. Xây dựng hình ảnh Nguyễn Tuân qua
hồi tưởng, Tô Hoài đã phác hoạ rất đậm nét về những kỉ niệm giữa đời thường với Nguyễn Tuân,
những chuyện vụn vặt của cuộc sống, song không phải vì thế mà người đọc bớt đi lòng kính trọng
và cảm phục Nguyễn Tuân.
Ấn tượng về nhà nhà thơ "chân quê" – Nguyễn Bính:
Khi đọc những vần thơ "chân quê" của nhà thơ Nguyễn Bính, người đọc hình dung đó là một
con người giản dị, mộc mạc, chân chất như vần thơ của thi sĩ. Ấy thế mà ngoài đời, Nguyễn Bính lại
là một con người khác, một con “ma men” tuỳ tiện và phóng túng trong lối sống sinh hoạt. Nguyễn
Bính cũng là một nhân vật đáng nhớ với quan niệm: “Đời là một cuộc chơi dài mà thiên hạ phải
cung phụng nhà thơ”. Ông sống tự do, phóng khoáng: “Hứng làm thơ thì vứt hết công việc, thích đi
chơi thì vay tiền”. Nguyễn Bính sống theo kiểu nghệ sĩ. Mỗi khi có tiền, ông thường rủ bạn bè đi
đánh chén. Nguyễn Bính sống theo kiểu của mình. Tờ báo “Trăm hoa” của nhà thơ đã cho thấy
điều đó: “Tờ Trăm hoa”, rõ ra một vẻ khác. Không về bè với “Nhân văn”, nhưng chẳng đi với ai”.
Nhà thơ hài lòng vì điều đó: “Trăm hoa phải thế mới là báo của Nguyễn Bính chứ”[] Mới làm quen
với Tô Hoài, Nguyễn Bính đã hỏi. Cách xây dựng nhân vật bằng cách để nhân vật đối thoại với
nhau, trả nhân vật về với hoạt động giao tiếp từ đó để nhân vật bộc lộ tính cách.
“Bắt tay rồi, Nguyễn Bính hỏi tôi:
- Này có tiền không?
Như đã biết nhau từ bao giờ. Tôi cảm động được anh hỏi han thân tình như thế. Tôi mỉm
cười. Thế là cũng chẳng đợi tôi trả lời, có lẽ cái cười hiền lành của tôi đã khiến anh ấy thấy tôi sẵn
sàng rồi. Anh sai luôn:
- Vào nhà bánh giò “Đờ - măng” chỗ kia, mua dăm chiếc nhé, năm chiếc cũng không thừa
đâu. Từ sáng tới giờ tớ chưa được miếng nào vào bụng” [76].
Qua hồi kí của Tô Hoài, ông là người có tính trăng hoa: “Nguyễn Bính thấy gái như quạ vào
chuồng lợn, như ếch vồ hoa” [63,61]. Ông yêu đương một cách lãng mạn. Những mối tình tuyệt
vọng của ông là kết quả của những lần “thề bồi đấy rồi lại nhãng ra ngay đấy”. Như một minh
chứng cho quan niệm thẫm mĩ tình buồn mới là tình đẹp:
"Tình chỉ đẹp khi còn dang dở
Đời mất vui khi đã vẹn câu thề".
Cuộc đời không giống thơ của Nguyễn Bính làm cho bao nhiêu cô gái từng theo thơ đến với
Nguyễn Bính rốt cuộc rồi cũng ra đi. Những bài thơ tình của Nguyễn Bính từng được độc giả yêu
quí. Nhưng con người ngoài đời của ông: “biết bao người con gái đã theo thơ đến với Nguyễn Bính.
Nhưng cuộc đời hoa thơm bướm lượn không giống như thơ, không như thơ. Thế thì lại vứt bỏ.
Người con gái đã đến với Nguyễn Bính khi làm báo Trăm hoa cũng chẳng được bao lâu. Chỉ tội đã
có với nhau một mụn con” [63]. Nhưng trăng hoa thế mà “suốt một thời thanh xuân, tôi cũng chưa
thấy anh một lần nào lấy vợ” [76]. Ít lâu sau báo Trăm hoa bị đóng cửa, Nguyễn Bính bị điều về Ty
văn hoá Nam Định. Kỉ niệm về Nguyễn Bính trong kí ức của Tô Hoài chỉ còn lại là hình ảnh “thỉnh
thoảng chỉ thấy nhăn nhó rầu rĩ”. Cuộc sống của Nguyễn Bính tưởng như vô tư nhưng tình cảm bên
trong thì lại lắm sầu não, ưu tư. Nét u ám của cuộc đời Nguyễn Bính lộ cả trên khuôn mặt rầu rĩ. Cái
khốn khổ của nhà thơ là do bệnh đa mang, đa cảm: “những cùng quẫn tự chuốc, những thương đau
vơ vào, mình lại đày ải mình, thân làm tội đời, cả những ngày còn lại này mà vẫn không nguôi”. Lỡ
dở trong tình yêu với người con gái đến với ông khi làm báo “Trăm hoa” đã để lại cho nhà thơ nỗi
đau thương, ân hận đến suốt đời. Vì say rượu nên Nguyễn Bính đã mất con trong đêm lạnh lẽo:
“Một tối kia, bố rượu say rồi bố bế Hiền thẩn thơ ra phố. Đến ngã sáu Bà Triệu, chợt nghĩ thế nào,
hai tay bố Hiền giơ Hiền ra, đưa Hiền cho một người đàn ông đi tới” [63,62]. Người đọc thương
cảm trước cảnh Nguyễn Bính “thất thểu suốt đêm, sáng ra nhợt nhạt, thẫn thờ bước giữa trống
không” [63,62] vì đã trót đưa con cho người ta. Nỗi đau ấy cứ đè nặng, day dứt Nguyễn Bính cả
đời, nhắc lại “lần nào Nguyễn Bính cũng khóc” [63,62]. Số phận nhà thơ thật buồn: vợ bỏ, con nhỏ
bị thất lạc, chết vì trúng gió sau cuộc rượu ngày tết ở nhà bạn. Những trang viết của Tô Hoài về
Nguyễn Bính để lại những dư âm chua xót trong lòng bạn đọc.
Ấn tượng sâu đậm về Nguyễn Bính, Tô Hoài đã tạo dựng, hồi tưởng về những gì hết sức
chân thực ở con người này, nhưng bên cạnh đó Tô Hoài càng ấn tương về “tầm vóc mỗi câu thơ
Nguyễn Bính" – " Nguyễn Bính biết làm thơ từ bé. Vừa thuộc mặt chữ đã đọc ra thơ, tài năng thơ
bẩm sinh. Cho đến khi thành những bài thơ đầu tiên, những bài thơ hay nhất của Nguyễn Bính.Thật
rõ ở Nguyễn Bính, năng khiếu trong thơ được khơi từ cuộc sống chân thực, lý trí và bản năng nhà
thơ hoà một tấm lòng, khi ấy thơ Nguyễn Bính tuyệt trần" [76,781]. Đọc những dòng hồi tưởng của
Tô Hoài tạo dựng bức chân dung tinh thần của Nguyễn Bính khiến cho ta thấy một nhà văn tài hoa
đồng thời cũng có nhiều thói tật, ta có một cái nhìn không giống những gì mà ta đã hình dung được
qua những trang thơ, song vì thế mà chân dung của Nguyễn Bính trở nên chân thực hơn, đời thường
hơn. Khoảng cách giữa nhà văn và bạn đọc trở nên gần gũi hơn, không có sự lí tưởng hoá, không
phóng đại và tô hồng mà trở nên chân thực hơn. Trong con người ấy có cả mặt tốt và mặt xấu lẫn
lộn. Kỉ niệm về Nguyễn Bính tuy buồn, rất buồn, nhưng người đọc cũng có thể chia sẻ một phần
nào nỗi đau mất con – nỗi đau đã trở thành niềm nhức nhối trong suốt cuộc đời nhà thơ. Dựng bức
chân dung Nguyễn Bính ta vẫn thấy những giá trị tuyệt vời của những vần thơ mà ông đã để lại cho
bạn đọc.
Ấn tượng về nhà văn của tình yêu thương – Nguyên Hồng:
Nguyên Hồng là nhà văn của tình yêu thương, Tô Hoài đã dựng lên một con người đa sầu, đa
cảm, dễ khóc. Nghệ thuật dựng chân dung về Nguyên Hồng hành động ấn tượng, gợi nhiều suy nghĩ
cho Tô Hoài: “Nguyên Hồng quỳ xuống trước tôi, rồi cứ phủ phục thế, khóc thút thít” [63]. Nhưng
cũng bằng hành động có lúc con người ấy cứng rắn đáo để: “Ừ, Nhã Nam. Đủ, đủ lắm rồi. Ông đéo
chơi với chúng mày nữa. Ông về Nhã Nam” [63]. Đọc những dòng hồi tưởng về chân dung Nguyên
Hồng, ta hình dung ra một Nguyên Hồng dằn vặt trong những cuộc họp kiểm điểm với nước mắt
lưng tròng. Nguyên Hồng vốn dễ khóc và hay mau nước mắt. Cách hồi tưởng về các bạn văn của Tô
Hoài đã cho thấy những kỷ niệm trong đời tư của các nhà văn, quá trình sống và tồn tại của họ, có
cả quá trình hình thành và khao khát viết, những vui buồn trong sự nghiệp văn chương. Xây dựng
nhân vật bằng hồi tưởng là dịp để Tô Hoài giãi bày lòng mình, giải phóng cho một tâm sự để thể
hiện rõ hơn một quan niệm sống. Những nhà văn dung dị giữa đời thường, lẫn với mọi người trong
xã hội. Hãy xem bức chân dung Nguyên Hồng mà Tô Hoài đã tạo dựng trong tác phẩm của mình:
“Ai nhờ tiêm, Nguyên Hồng tiêm ngay. Lại còn hỏi bệnh, đoán bệnh, và bảo người ta phải để mình
tiêm. Như một thầy thuốc thực sự...Như thế, nhà văn đi đường lẫn vào đám đông” [76]. Những ấn
tượng này thật khó phai nhòa theo năm tháng.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật bằng hồi tưởng, tác giả đặt nhân vật bên cạnh nhân vật khác
để so sánh để thấy rằng, Nguyên Hồng hiện lên với tính cách hoàn toàn tương phản với Nguyễn
Tuân. Đồng thời để tô đậm thêm ấn tượng và tạo ra sự khách quan, tác giả đã dùng nhưng câu văn
nhận xét của nhân vật khác về nhân vật đang được hồi tưởng tạo ra sự sinh động như trả con người
về hoàn cảnh sống thực của họ. Nguyên Hồng sống đơn giản, không bao giờ câu nệ chuyện quần áo,
đầu tóc hay ăn uống. Cách ăn uống của Nguyên Hồng đã bị Nguyễn Tuân nhận xét: “Nguyên Hồng
cái thằng xơi được bọ hung thì nó còn từ cái gì” [63,51]. Nguyễn Tuân đã đúc kết nết ăn của
Nguyên Hồng là “chủ nghĩa cơm năm bát cật lực” Vào quán ăn Tiểu Lạc Viên, Nguyên Hồng còn
gói theo cả một bọc thịt chó để “nhắm” trong khi chờ chủ quán làm món ăn. Bọc thịt chó “thoạt
trông cũng biết không phải gói nguyên, chắc trưa nay Nguyên Hồng đánh chén ngoài ấp, còn thừa
thì mang đi nốt. Hổ lốn thịt luộc, lòng gan trộn với húng, riềng, cả đùm con con muối tiêu” [63,92].
Nguyên Hồng là người“ruột để ngoài da”, chuyện gì cũng có thể nói ra hết và nhất là không
chịu được những lời vu cáo. Ông luôn thanh minh về sự trong sạch của mình trong công tác báo chí,
văn nghệ: “Tôi làm báo không giờ giấc, không quản thức đêm thức hôm, tôi bỏ hết sáng tác, cố làm
cho kịp. Suốt tuần tôi bận bịu về nó hơn con mọn, bỏ ăn bỏ uống vì nó… thế thì làm sao tôi có thể
sai…Tôi đấu tranh thực hiện đường lối văn học nghệ thuật của đảng… Tôi hết tâm hết sức vì nó, tôi
không thể, tôi không thể…” [63,91]. Như người bị “ốp đồng”, không biết còn tỉnh hay mê, Nguyên
Hồng vừa khóc mếu máo vừa thanh minh.
Qua hồi ức của Tô Hoài, Nguyên Hồng hiện lên sống động với những chi tiết thật đến không
ngờ, vừa bi thương vừa hài hước. Nguyên Hồng thẳng tính không ghét ai nhưng cũng không thân
với người nào. Ông có cái tài chưa đi đến nơi cần đến nhưng lại tưởng tượng và viết về nơi đó rất
hay. Giữa cuộc sống đua chen, xô bồ, Nguyên Hồng vẫn giữ cho mình một tính cách riêng “Người
ta làm thì Nguyên Hồng lẳng lặng im... thiên hạ thế thì ta khác”. Tô Hoài không nói về Nguyên
Hồng như là một nhà văn, mà giúp chúng ta có thể tiếp cận cuộc sống thường ngày của ông.
Nguyên Hồng sống giản dị gần gũi với mọi người. Hình ảnh Nguyên Hồng được Tô Hoài tạo dựng
qua dòng hồi tưởng “như một viên chức bậc trung giữa đường công vụ - như một lão nông về quê
sau chuyến đi xa – một kẻ lang thang suốt đời đi tìm đất mới”. Đối với Nguyên Hồng, quần lành áo
tốt hay áo quần lôi thôi, đều chỉ như vậy” [76]. Hình ảnh nhà văn nổi tiếng ấy cũng hết sức bình
thường giản dị như bao nhiêu con người bình thường khác. Một nhà văn dân dã với nhiều phẩm chất
nhưng cũng không ít những cá tính, thói tật. Với cách xây dựng nhân vật qua hồi tưởng, tác giả đặt
nhân vật vào giữa cái bộn bề phức tạp của cuộc sống để làm nổi bật tính cách, không tô vẽ, không
phóng đại, hay lí tưởng hoá cũng không làm mất đi niềm yêu quý của độc giả. Cách xây dựng nhân
vật ở cự li gần tạo sự chân thật, đồng cảm.
Ấn tượng về nhà văn của bi kịch trong truyện lịch sử – Nguyễn Huy Tưởng
Với Tô Hoài, tác giả của Sống mãi với Thủ đô là một con người hiền lành, chân thực, xốc vác
với công việc chung “Nguyễn Huy Tưởng vốn trầm mặc, dẫu gặp việc vô vập, bồn chồn, anh vẫn
giữ điềm nhiên”. Là một con người có kỉ luật trong công việc, thích viết nhật kí, thích sưu tầm tài
liệu, thích ca tụng L.Tônxtôi: “Nguyễn Huy Tưởng từng tròn mắt ca tụng khấn vái L.Tôxtôi,
Ifxen…và ở mỗi người bạn, mỗi cán bộ cấp cao, Nguyễn Huy Tưởng đều tìm ra những ưu điểm để
tô hồng. Ai nấy đều cười và quen đến độ, Nguyễn Huy Tưởng sắp khen và biết khen thế nào rồi”
[76, 434].
Con người ấy nghĩ thực, nói thực và bao giờ cũng nhìn người, nhìn sự vật ở những khía cạnh
tốt đẹp nhất, cho nên khi gặp cái gì tráo trở, bất thường thì không thể thích nghi ngay được. Nguyễn
Huy Tưởng không chịu tin rằng cũng con người ấy làm gì có chuyện khi ở rừng gian khổ thì tốt đẹp,
về thành phố lại đổi thay: “Chúng nó cũng vẫn là chúng mình cả thôi, chẳng lẽ chỉ biến đâu một lúc,
trở lại là thằng khác à?” [76,434].
Đến thời kì Nhân văn Giai phẩm, khi gặp thời cuộc thay đổi Nguyễn Huy Tưởng trở nên
trầm mặc, buồn, dường như trong con người của nhà văn có một sự băn khoăn, trăn trở, có những
khủng hoảng trong tư tưởng. Nguyễn Huy Tưởng trở nên “lầm lì, đăm chiêu, ít nói và có nói cũng
khác hẳn mọi khi. Nguyễn Huy Tưởng tâm sự: “Cậu bảo tớ bắt chước Titô? Không phải. Tớ là Cộng
sản Việt Nam” [76 ,435]. Là Cộng sản Việt Nam luôn trung thành với Đảng cho nên khi nghe tin
Nam Tư bị đuổi khỏi Cục Thông tin quốc tế, rồi năm 1956 xảy ra sự kiện Hung - ga - ry, Nguyễn
Huy Tưởng mấy đêm không chợp mắt. Nguyễn Huy Tưởng băn khoăn, có những ý kiến khác những
lời bình trên các báo, Nguyễn Huy Tưởng nói: “Nước Hung ga ry trong phe xã hội chủ nghĩa,
nhưng trước nhất nước Hung ga ry là nước Hung ga ry đã. Các ông thấy thế nào? Tôi không hiểu,
tôi không hiểu” [76,434]. Trong công việc, Nguyễn Huy Tưởng là người say mê, giàu nghị lực, đã
chuẩn bị viết thì phải viết bằng được. Sống mãi với Thủ đô được viết trong hoàn cảnh nhà văn đã
thực sự thâm nhập với cuộc sống, đã trưởng thành cùng với kháng chiến của dân tộc: “Nguyễn Huy
Tưởng đã công phu, cẩn trọng cho tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô. Mấy năm đầu trở về, Nguyễn
Huy Tưởng đã viết xong tập 1. Những trang bản thảo chữ rõ nét, đều đặn, được chép ra, đánh máy
cẩn thận” [76]. Với công việc nào cũng vậy, Nguyễn Huy Tưởng cũng hết sức nhiệt tình, sôi nổi và
cẩn trọng. Chỉ vài nét thấp thoáng thôi, nhưng chân dung Nguyễn Huy Tưởng đã để lại cho chúng ta
– những độc giả những ấn tượng khá đậm nét về con người này.
Bằng cái biết, cái hiểu của người trong cuộc, trong quá trình hồi tưởng Tô Hoài đã vén dần
bức màn bí mật về cuộc đời của giới văn nghệ sỹ với bao buồn vui và cả những chua xót. Không
cần nhiều lời, nhà văn đã phác họa nên những tính cách đáng nhớ. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
qua hồi ức trong hồi kí, tự truyện giúp ta hình dung ra cuộc sống của những nhà văn, nhà thơ cùng
thời. Ta còn thấy được bức chân dung của chính tác giả Tô Hoài. Hình tượng tác giả được phác thảo
với những nét cơ bản như là một nhân chứng đáng tin cậy. Điểm đáng tin cậy đầu tiên là vì tác giả
là người cùng thời.
Với cách khắc họa nhân vật qua hồi ức, Tô Hoài đã thực sự được thoát khỏi những ảnh
hưởng và hạn chế của cái nhìn sử thi – lí tưởng hoá hiện thực. Nhân vật ông ấn tượng từ người thân
đến bạn văn chương đều rất đời thường và thẫm đẫm cảm xúc. Ông đã tìm cho mình một lối đi
riêng. Luôn cố gắng tìm ra một hình thức thể hiện mới, tìm con đường mới để tránh sáo mòn, phải
chăng đó là một trong những lí do để ông vươn lên giải phóng mình.

2.4. Những bức tranh đời sống (thiên nhiên, sinh hoạt) qua hồi ức của nhân vật tôi/
người kể chuyện.
Muốn cho nhân vật thể hiện rõ cái tôi thì phải đặt nhân vật vào hoàn cảnh có các nhân vật
khác, có thiên nhiên sinh hoạt để nhân vật bộc lộ tính cách.
Bức tranh thiên nhiên sinh hoạt qua hồi ức
Đó là cách miêu tả bức tranh thiên nhiên có độ lùi thời gian chứ không phải như miêu tả một
bức tranh trực tiếp. Chính vì vậy cảnh thiên nhiên được hồi tưởng phản chiếu qua tâm hồn nhà văn.
Đặc biệt đối với người Phương Đông luôn quan niệm giữa con người và thiên nhiên, ngoại cảnh
luôn có mối giao hòa tương thông, con người tìm đến với thiên nhiên như tìm về với đời sống tâm
hồn của mình. Không thể hình dung con người sẽ sống như thế nào nếu thiếu đi cảnh vật xung
quanh. Như nhà thơ Chế Lan Viên suy ngẫm: "Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương" bởi "Khi ta
ở, đất là đất ở. Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn". Không gian gắn bó luôn có một sức gợi mãnh liệt
của tình cảm, nó tác động đến trí nhớ thiên bẩm của nhà văn và tạo nên sự thăng hoa của cảm xúc.
Chính sức gợi này có sức mạnh hiện tại hóa quá khứ. Qua những tác phẩm của Tô Hoài người ta dễ
ấn tượng với những bức tranh cuộc sống đặc sắc về phong cảnh, phong tục ở những vùng ngoại ô
Hà Nội. Đọc những tác phẩm của ông ta mới thấy được hết những đặc sắc ở những vùng miền ấy.
Tác phẩm của Tô Hoài thường hướng nhãn quan của mình vào các tập tục làng quê. Chất phong tục
dày đặc trong tác phẩm góp phần làm nên giá trị văn xuôi của Tô Hoài. Nó làm cho bức tranh đời
sống xã hội trở nên sống động, độc đáo hơn trong tính toàn vẹn của cuộc sống. Thiên nhiên ở làng
Nghĩa Đô hiện ra thật đẹp và sinh động với những màu sắc: "Hương sen thơm suốt quãng đường hai
bên hồ. Những chiếc lá sen tròn đồng tiền, mơn mởn nghển lên khỏi mặt nước. Chúng tôi lội xuống
hái những nụ mới nhú bằng ngón tay. Nụ sen ăn ngòn ngọt. Rồi trải lá sen lên bờ cỏ, chúng tôi nằm
ngủ dưới gốc đa, trong gió hồ buổi trưa hây hẩy bát ngát" [76]. Con người như hòa cùng thiên
nhiên để được sống những giây phút bình yên nhất của tuổi thơ. Ấn tượng sâu đậm đó khiến cho khi
hồi tưởng lại cảm xúc đã thăng hoa trên trang giấy.
Một lần nữa người đọc lại có dịp cảm nhận hiện thực thông qua nghệ thuật hồi tưởng về
không gian đời sống. Tô Hoài là con một gia đình nghèo làm nghề dệt lụa thủ công. Hoàn cảnh đó
khiến nhà văn từ nhỏ đã sớm hòa mình trong cuộc sống của gia đình, làng quê lúc phong lưu cũng
như khi sa sút, túng quẫn. Tô Hoài cũng đã cảm nhận được niềm vui và nỗi buồn trong từng bước
thăng trầm của làng nghề truyền thống. Những yếu tố về quê hương và gia đình đã ảnh hưởng đến
quá trình sáng tạo nghệ thuật của Tô Hoài. Bức tranh sinh hoạt làng quê trong văn Tô Hoài hiện ra
chân thực và đầy đủ đến từng chi tiết qua cảnh sinh hoạt làng nghề truyền thống dệt cửi với hình
ảnh cô gái đi bán lụa: "Tấm áo vải đồng lầm đỏ như son thậm, hai vạt thắt bó que. Cái thắt bao hoa
lý thấp thoáng lẫn với màu đôi dãi yếm đào, như những cô lái tỉnh Bắc. Cái nón kinh khoác một bên
tay, cái đãy nâu đựng hai súc lụa cao ngất nghễu đeo trĩu lưng. Nặng thế mà chị Hai vẫn bõm bẽm
nhai trầu, giữ dáng đi nhanh như con cón. Cô lái lụa sớm mai ra ngoài đường gặp lũ lượt người
đeo đãy đi chợ" [73,42]. Không khí của cảnh đi chợ, đó là không gian sinh hoạt đời thường: "Sương
trắng xóa đương vỡ từng mảng kéo qua cánh đồng mênh mông mãi ra và cánh đồng dần dần sáng.
Những tiếng nói, tiếng cười, những con lợn kêu và đòn gánh kiu kịt càng náo nhiệt hơn, dần dần rõ
lên từng đám đông với gồng gánh từ các bờ tre kéo ra" [73,181]. Cách khắc họa nhân vật bằng cách
T
4

đặt nhân vật vào trong hoàn cảnh và miêu tả để khẳng định một điều, trong thuở ấu thơ không có gì
thích bằng được rong chơi thỏa thích, hồn nhiên, vô tư: “Nhưng miệng tôi vẫn chum chúm huýt gió
huy huy. Tôi bắt chước chim khướu, chim chào mào, chim chích choè...Tôi đương tập huýt sáo, bạn
cùng trẻ con khắp xóm. Bắt đầu những ngày lêu lổng. Tôi đúc dế, tôi chơi nặn nồi “lương mô” đất
thó. Lội qua quãng sông Tô Lịch trước cửa đình, tôi sang bãi Đồng Vân bẻ ăn cắp bắp ngô, nhổ
trộm ớt tầu đem về giồng bờ ao. Có mấy quyển sách cũ, tôi đem xé từng tờ phất diều hết. Tôi thề
không bao giờ đi học nữa. Vài năm nữa tôi sẽ làm thợ cửi như những đứa trẻ khác trong xóm”
[76,107]. Tuổi thơ đã được hòa mình trong thiên nhiên, gần gũi với quê hương cho có một tâm hồn
thuần hậu, chất phác. Bức tranh đời sống được hồi tưởng qua đôi mắt trong veo của tuổi thơ cái gì
4T

cũng mới lạ, nó thôi thúc sự tìm tòi, nó hấp dẫn bởi niềm tin thơ dại. Có một điều ta hiểu là những
gì mình biết được từ tuổi thơ sẽ theo mãi khó phai nhòa theo năm tháng. Nhà văn Tô Hoài sau này
rất thành công trong việc viết về phong tục, nét riêng văn hóa rất hay, rất tinh tế. Mà phải chăng
người hiểu được văn hóa riêng của vùng miền là người sống rất sâu với cuộc đời với con người và
quê hương. Bằng cái nhìn ngây thơ, giàu trí tượng tượng của cậu bé Bưởi, tác giả đã hồi tưởng:
“Mỗi năm, vào tết Nguyên Đán, ông tôi sắm một chậu nước vôi và cái thép lá thông. Ông nhúng
thép vào vôi, phết thành những đường vòng to bằng chiếc mẹt trên mặt tường. Lạ lắm, nhưng tôi
không dám hỏi. Có lần, ông tôi cắt nghĩa: cái vòng vôi này để trừ tà. Năm mới, ma quỷ dưới âm
thường lên trần gian cướp nhà của người ta. Cái vòng vôi này làm cho ma quỷ sợ không dám vào.
Nghe thế, tôi đủ hãi. Mỗi năm, tôi ngẩn ngơ nhìn ông tôi bê chậu nước vôi đi xung quanh nhà quét
lại những hình tròn tròn. Lốt vôi tô lại mãi, trắng rợn” [76].
Bức tranh cuộc sống sinh hoạt qua hồi ức
Bức tranh đời sống sinh hoạt gia đình, của cá nhân có những thay đổi ảnh hưởng tới cuộc
sống, tâm lý của nhân vật. Đó là cách miêu tả có độ lùi thời gian để nhận thức. Đời sống sinh hoạt
trong tự truyện được hồi tưởng bằng trí nhớ, trí tưởng tượng phong phú. Nổi bật lên trong tự
truyện,hồi kí Tô Hoài là loại bức tranh đời sống sinh hoạt gợi nhớ. Đó là vùng quê quen thuộc mà
nhà văn luôn nhớ tới. Ở đó, con người bộc lộ những tính cách riêng của mình. Tô Hoài sinh ra và
lớn lên tại quê ngoại, trong một gia đình nghèo làm nghề thủ công ở Làng Kẻ Bưởi – Nghĩa Đô.
Trong tự truyện Cỏ dại vẫn mang đậm chất thôn quê của một vùng ven thành Hà Nội với nhịp điệu
sống tù túng, buồn tẻ trong cái nghèo đói, cũ kỹ, lạc hậu: “Cuộc sống còm cõi của làng ngoại tôi chỉ
loanh quanh cả đời ở trong làng. Đàn bà, trẻ con đưa võng kẽo kẹt bên khung cửu mọt. Không mấy
ai đi ra ngoài” [76]. Bức tranh đời sống ảm đạm đượm buồn với màu xám buồn tẻ trong những
trang hồi ức. Tuy nhiên, người đọc nhận thấy một thoáng hồn quê vẫn phảng phất thấp thoáng trên
những dòng chữ đó. Cái nghèo đói, tù túng vẫn không thể làm mất đi vẻ yên bình, êm ả, làm mờ đi
nét đẹp trong những bức tranh sum họp đầm ấm như thế này: “Những đêm đông lạnh lẽo, u tôi ngồi
xắm giấy. Hai cánh tay u tôi đưa đi đưa lại, chiếc que dò chạy lạt xạt, lẹt quẹt dưới lòng những tờ
giấy dài nháng keo. Đã bao năm qua, tiếng que dò lạt xạt canh khuya vẫn thế, như đời u tôi vẫn thế,
cái áo nâu bạc, chân đi đất, đôi quang gánh loi thoi” [76]. Nghề làm giấy cực nhọc, mà thu nhập
chẳng đáng là bao những tiếng “lạt xạt, lẹt quẹt” vẫn còn vọng mãi trong kí ức của tác giả để nhắc
chúng ta nhớ về một thứ âm thanh rất riêng của làng nghề Kẻ Bưởi – Nghĩa Đô. Hoàn cảnh đó khiến
những ngày thơ ấu của nhà văn được sống trong niềm vui bình dị, khi lại chứng kiến những nỗi
buồn thấm thía, xót xa. Bức tranh đời sống gia đình đến ngày phiên chợ có một không khí thật
buồn: “Nhà người ta phiên chợ được hàng thì vui, nhà tôi ngày chợ không chuyện này thì sinh
chuyện khác. Hàng ít lại hàng xấu,không đều, mặt hàng gùn gút lên, không ai mua. Thế là xảy ra
những trận xô xát giữa bà ngoại tôi và các dì tôi”, vậy nên “nhà tôi còn êm ấm sao được nữa,trong
khi sự túng thiếu càng gồ cổ mỗi con người lại và mỗi người đều cứ ngày càng bẳn gắt với nhau,
càng lúc thương lúc ghét nhau, thật hết sức thất thường" [76]. Bức tranh đời sống quẩn quanh, tù
T
4

túng: "Người ở Nghĩa Đô nghèo, sự sống loanh quanh buộc vào mấy cái khung cửi mọt. Trong làng,
không mấy ai đi ra ngoài. Một chiếc xe đạp bóp chuông kính coong qua trên đường cái trẻ con
cũng chạy đuổi theo xem. Những ngày tết nhất rỗi rãi bố mang con lên bến xe điện mua vé đi tàu
chạy "keng ầm" vào thành phố đã lý thú lắm" [76,27]. Cái buồn thấm sâu vào từng tế bào, từng chân
T
4

lông của cơ thể xã hội. Buồn về sự quanh quẩn cùng quẫn của một kiếp người lao động: "Cuộc sống
trong ao mà những con chẫu chàng thỉnh thoảng ngoi lên mặt nước, đờ đẫn nhìn theo mấy cái bọt
mình vừa thở" [76,247].
Là người con của tầng lớp lao động bình dân, lại được chứng kiến cảnh buồn nhiều hơn vui
của gia đình mình. Tô Hoài sớm chan hoà trong cuộc sống gian truân đời thường để cảm nhận nó.
Có lẽ vì vậy mà cảm quan hiện thực của nhà văn “thấm được và thấm nhanh cái buồn” (Vân
Thanh)Vào nghề từ đầu những năm 40 của thế kỷ XX. Tô Hoài đã sớm chứng kiến những sự kiện
lớn không thể nào quên của những năm này. Những sự kiện ấy có buồn, có đau khổ xót xa. Những
năm tháng mà không khí ngột ngạt đã bao trùm cả xã hội và lan dần vào từng ngõ xóm. Làng quê
của Tô Hoài chưa bao giờ lại “tiêu điều khốn khổ đến như thế. Nghề dệt lụa đã lụi bại chết hẳn.
Khung cửa người ta đem chẻ củi, bán làm củi. Người tha hương bơ vơ những đâu, vãn cả làng.
Trông trước thấy cái đói, cái chết mà không biết làm thế nào”[76]. Xã hội làng quê ngày càng xơ
xác tiêu điều “Trên chợ Bưởi, người lang thang ở đâu đến ngày càng nhiều. Buổi tối lăn vào ngủ
trong các cầu chợ. Sáng ra thì nhiều người nằm lại, không còn sức bò đi kiếm được nữa”[76]. Cảnh
đau lòng ấy không chỉ ở một nơi nào,một vùng quê nào mà: "Buổi sáng, trời đất đã vàng lóe như
mặt người đói. Mỗi người ở nhà, ở các bờ bụi, ao chuôm lừ khừ ra đi lẫn lộn vào đám những người
đói ở đâu đâu đến đi qua làng, người nối dòng dài, mỗi ngày càng nhiều, không biết từ đâu đến rồi
đi đâu, những đâu" [73,202]. Từ không gian hiện thực này nhà văn gợi lên cho chúng ta thấy cuộc
sống của người dân Việt Nam trong thời kỳ khó khăn khắc nghiệt, trong bầu không khí ngột ngạt
của nạn đói 1945. Tô Hoài luôn miêu tả sự kiện ở điểm nhìn khách quan, tác giả không phân tích
hay bình luận mà để cho người đọc tự cảm nhận hiện thực cuộc sống qua các sự kiện. Không gian
sự kiện này khiến cho người đọc có cảm giác lo lắng bởi cái chết dường như hiện diện ngay trên đầu
mỗi người. Sự u ám và nguy hiểm bao trùm lên không gian: "Chỉ ba tháng mà dài dằng dặc, làng
Hạ biến đổi quá. Như một cái đầm lá sen, cẳng tàn rụi, xơ xác, tan tác, ngao ngán trên mặt nước
mờ sương cuối thu. Thật ra thì làng Hạ đã dần dần vào cảnh đói mấy tháng nay rồi, từ những phiên
chợ mà các dãy lụa cứ phải đeo về kìn kịt và các khung cửi đã bắt đầu uỗi thợ ra" [73,201]. Những
ngày tháng đen tối ấy đã để lại trong tâm hồn Tô Hoài những nỗi niềm trĩu nặng, và nó trở thành
những hồi ức không thể nào quên trong tâm hồn ông. Và những hồi ức ấy được ông viết lại vào
trong tác phẩm tự truyện.
Tất cả những chất liệu, âm thanh cuộc sống dội vào trang văn của Tô Hoài sức ấm nóng của
cuộc sống. Cách ông tái hiện thời gian lịch sử theo cách riêng của mình. Là người đã từng sống và
chứng kiến những bước chuyển mình của lịch sử dân tộc, trên từng trang viết của ông chúng ta thấy
những sự kiện lịch sử hiện lên một cách có ý thức. Lúc lứa tuổi thiếu niên, mười tám đôi mươi ấy
của đời người lại khớp đúng vào lúc đời sống dân tộc đang chuyển mình chuẩn bị cho một hoàn
cảnh mới ở quê hương: "Ở Bưởi, chúng tôi chống mê tín tối nào cũng đi trêu những đám lên đồng".
Tuổi trẻ thích thể hiện mình, nhiệt tình, năng nổ và nhạy bén với thời cuộc: "Vùng tôi năm ấy chớm
có phong trào thanh niên. Chúng tôi thích tìm bạn, kết bạn. Ở Nghĩa Đô không có cơ sở cách mạng
cũ, nhưng khi trào lưu bình dân đưa những tư tưởng mới đến, thanh niên bắt rất nhậy. Chúng tôi
thèm nghe những chuyện xa lạ, những lý luận mới, những tin tức thợ thuyền, dân cày hoạt động và
tình hình thế giới – tất cả những gì khác cái tẻ nhạt, cái khốn đốn cái ốm mòn thường ngày"
[76,135]. Nhân vật tôi đặt mình trong không gian chung của thời đại để cho thấy cái khao khát của
một thế hệ.
Vì “Văn học là tấm gương phản ánh thời đại” nên thể loại chân dung văn học cũng phản ánh
thời đại. Như ta đã biết, bất cứ một nhân vật nào cũng phải được đặt trong hoàn cảnh lớn, hoàn cảnh
nhỏ. Viết về nhà văn mà không đặt họ vào không khí chung thời đại thì sao có thể hiểu được họ.
Cuộc sống là tổng hòa của mọi mối quan hệ xã hội. Và đối với nhà văn thì mối quan hệ với tác
phẩm, với các nhà văn là mối quan hệ đáng quan tâm nhất, hầu như chi phối mọi đời sống tâm tư
của họ. Họ đã sống và rất cần sống trong không khí văn chương.
Với Tô Hoài, trước khi cầm bút, ông đã từng trải qua cuộc sống gian truân vất vả của một
người thợ, một tiểu thị dân lăn lóc trên đường đời. Nhưng chính từ pho kinh nghiệm sống ấy, với
năng khiếu quan sát, ghi nhớ đặc biệt sắc sảo, Tô Hoài đã trở thành nhà văn. Tô Hoài luôn ý thức
xây dựng chân dung văn học trong không khí thời đại. Và đối với ông “Người cầm bút hiểu cuộc
đời, biết những sự kiện mới, con người và hành động”. Chính vì thế mà những tác phẩm của ông
luôn sống động như cuộc đời thực, luôn lôi cuốn và thu hút người đọc.
Khi hồi tưởng lại bức tranh đời sống của các đồng nghiệp, ta có cảm giác thật đau đớn và xúc
động biết bao trước những bi kịch của cuộc đời các nhà văn. Trước cách mạng, xã hội chìm trong
đau đớn, với không khí ngột ngạt, đói kém, cuộc sống của những nhà văn đầy những bấp bênh, đau
khổ. Tô Hoài cũng là người trong cảnh ngộ ấy, hơn ai hết, ông cũng đồng cảm sâu sắc với nỗi đau
của họ. Chính vì thấy được sự đau đớn của họ trong cảnh ngộ ấy, nên trong tác phẩm của Tô Hoài,
khi viết về các nhà văn, ông luôn thấu hiểu về sự đau khổ của những con người tài cao mà phận
thấp. Họ là những con người tài hoa có hoài bão nhưng sống trong hoàn cảnh "cơm áo ghì sát đất".
“Cơm áo không đùa với khách thơ”. Có lẽ vì cảm thông với người cùng cảnh ngộ, mà cứ lúc nào
nhớ lại, Tô Hoài không thể quên.
Hoà bình lặp lại, đất nước đứng trước tình hình và nhiệm vụ mới. Biết bao khó khăn và thử
thách đặt ra với những con người đang đặt những viên gạch đầu tiên cho công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Rồi thế giới biến động, phức tạp. Tất cả những điều đó đã chi phối đời sống văn học.
Quan niệm về con người trong văn học cũng trở nên đa dạng hơn và không tránh khỏi những khác
biệt, trái ngược giữa những quan niệm của các nhà văn. Các nhà văn vừa sống trong niềm tin tưởng
lại vừa có tâm trạng lo lắng. Lo lắng chưa được hiểu đúng đặc trưng bản chất nghệ thuật của văn
học. Có nhiều nhà văn đã ngộ nhận. Một số nhà lãnh đạo văn nghệ chỉ quan tâm đến ý nghĩa chính
trị một cách máy móc, biến văn học thành công cụ giáo dục tư tưởng, “quy chiếu máy móc, sát phạt
nặng nề”. Những cuộc họp kiểm điểm liên tiếp diễn ra, sinh hoạt thường nhật của Hội nhà văn là
“bới lông tìm vết”. Câu chuyện về con hổ mà mẹ Nguyên Hồng kể cho ông nghe, đã được ông chép
lại và đăng trên trang cuối báo Văn của ông, đã bị người ta nghĩ là “có vấn đề”, họ nghĩ “đời thủa
nào mà người ta lại nuôi hổ như nuôi vịt, dễ hơn nuôi vịt. Ông này muốn nói cái gì, nói ai? Xỏ xiên
thế nào đây, không hiểu. Không hiểu tức là có vấn đề” [63]. Ta hình dung ra một Nguyên Hồng dằn
vặt trong những cuộc họp kiểm điểm với nước mắt lưng tròng, thậm chí khóc hu hu. Nguyên Hồng
vốn là người dễ khóc và mau nước mắt. Ông là người hết sức chân thành, đa cảm khi “xoè bàn tay
lên chồng báo, vuốt vuốt, mếu máo, nước mắt như trút…tôi thức đêm thức hôm…tôi bỏ hết sáng tác,
ngày đêm chỉ nghĩ đến tờ báo…bài này đề tài công nhận…bài về kháng chiến, bài về thống
nhất…bài về sửa sai cải cách ruộng đất…tôi không…tôi không…Rồi chẳng mấy lúc Nguyên Hồng
lại khóc hu hu” [63]. Ta lại bắt gặp hình ảnh Nguyên Hồng với sự bức xúc không thể nén lại, khi
xem tờ báo Nhân Dân có tiêu đề:
"Nhìn lại một số sai lầm trong bài báo và trong công tác do Tô Hoài viết, Nguyên Hồng
buông tờ báo xuống. Rồi Nguyên Hồng xua xua tay, nói như hét vào mặt tôi:
Tiên sư mày, thằng Câu Tiễn! Ông thì không, Nguyên Hồng thì không!” [63].
"Và rồi không chịu được nữa, Nguyên Hồng đã đi đến quyết định, một quyết định được dự
tính từ trước:…
- Ừ, Nhã Nam. Đủ, đủ lắm rồi. Ông đéo chơi với chúng mày nữa. Ông về Nhã Nam” [63].
Không phải là vô tình mà là có chủ đích, Tô Hoài đã dựng lại chân dung các nhà văn trong không
khí văn học thời đại lúc bấy giờ. Khi đặt nhân vật vào không khí văn chương, nhân vật được đặt
trong “tổng hoà mọi mối quan hệ xã hội”, vì thế mà chân dung các nhà văn hiện lên khá đầy đủ và
sinh động. Qua cái nhìn hồi tưởng bức tranh cuộc sống đã rũ bỏ chiếc áo khoác thiêng liêng. Giờ
đây, nó hiện lên gần gũi tưởng như có thể nhìn thấy, đụng chạm tới được và xem xét từ bất cứ góc
độ nào. Xuất phát từ quan niệm con người là con người, con người không phải là thánh nhân, vì thế
mà lần đầu tiên Tô Hoài đã cho chúng ta nhìn một số “nhân vật lớn” đó là cả một thế hệ nhà văn:
Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố, Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Nguyễn Bính. Tô Hoài đã xây dựng bức
tranh đời sống một cách gần gũi suồng sã.
Bức tranh sinh hoạt đời sống trong quá khứ không phải được đo bằng những sự kiện trọng
đại mà chỉ là những ngày thường nối tiếp nhau cùng những chuyện vui buồn lẫn lộn. “Đất nước như
những cánh đồng cày vỡ, chưa biết cấy hái như thế nào”. Vết thương cải cách ruộng đất vẫn còn
đâu đó. Lịch sử hiện thân thật cụ thể là những con người, những mối quan hệ, những công việc
thường nhật. Vụ án “Nhân văn Giai phẩm” đã từng làm chấn động cả một thời kì văn học được ông
nhớ lại: “Báo Nhân văn ra được mấy số. Có dư luận báo chống đối. Người thành phố nghe ngóng
và tò mò. Nhưng mà những hoạt động gây sự không phải chỉ ở vài ba báo trên Nhân văn, mà chính
là ý đồ chính trị rộng ra nữa của cả một số giới không phải là những người làm báo Nhân văn
trong tình hình nhạy cảm ở các đô thị lúc ấy” [63]. Tô Hoài lại tạo dựng những nhân vật trong hiện
thực sinh động, trong không khí văn học. Nó đã giúp bạn đọc có thể nhìn thấy và hiểu biết một cách
toàn diện sâu sắc. Chính vì thế mà bức tranh cuộc sống đọng lại trong tâm tư người đọc lâu bền, đầy
ấn tượng. Hơn nữa, nhân vật hiện lên không bị cắt đoạn mà trong cả một quá trình với những diễn
biến phức tạp, khiến chúng ta không mắc phải cái nhìn siêu hình, phiến diện mà có được cái nhìn
tổng thể bao quát với những hình ảnh, bức chân dung chân xác, đáng tin tưởng vì nó thể hiện rất
thật. Có lẽ Tô Hoài là một người khai phá, một người mở màn cho một thể loại kí đặc biệt với một
cách tiếp cận hiện thực với xu hướng tiếp cận của tiểu thuyết.
Hiện thực của cuộc sống rất phong phú, phức tạp đã tác động đến bao người. Dưới ngòi bút
của Tô Hoài, cuộc sống với tất cả những sắc thái thẩm mỹ đa dạng của nó lần lượt hiện lên: có cả
cái bi, cái cao cả và cái thấp hèn, cái đẹp, cái xấu lẫn lộn.Tất cả như những sợi chỉ óng ánh nhiều
mầu sắc pha trộn với nhau, tạo nên tấm thảm cuộc đời. Đọc tự truyện, hồi kí của Tô Hoài, ta thấy
thật xúc động với những cảnh đời tư hiện lên thật thiêng liêng tha thiết vừa buồn, vừa vui đan xen
thể hiện rất thực cuộc sống đời thường. Bàng bạc trong tác phẩm của Tô Hoài ta thấy rõ: đời đẹp và
buồn. Ông đã tiếp cận cuộc sống trong sự xô bồ gần gũi nhất.
Nếu như trước đây, các nhà văn chủ yếu tái hiện, đánh giá con người theo các biểu hiện tư
tưởng, đạo đức của nó, thì bây giờ văn học đã mở rộng tư duy sang các bình diện của sự tồn tại con
người như thời gian, môi trường và cả năng lực ý thức của nó trước thế giới, trước hoàn cảnh xã hội.
Môi trường của các nhà văn chính là không khí văn học thời đại họ đang sống. Đặt vào “môi
trường” đó, ta mới hiểu được con người, mới đi đến khám phá được những bí ẩn trong tâm hồn con
người. Khi xây dựng nhân vật trong hồi kí, tự truyện. Tô Hoài luôn luôn có ý thức đặt nhân vật
trong bức tranh thời đại. Phải chăng vì thế mà ông đã dày công sưu tập tài liệu trong suốt cuộc đời.
Tiểu kết chương 2

Tìm hiểu nghệ thuật tái hiện, tái tạo hồi ức thông qua cái tôi trong tự truyện – hồi kí Tô
Hoài. Đó là thế giới của hồi ức, thời gian thuộc về quá khứ có một khoảng lùi. Hiện thực không phải
như trong truyện ngắn, tiểu thuyết mà hiện thực ở đây là trong quá khứ có một khoảng cách về
không gian thời gian so với hiện tại trong tác phẩm. Hồi ức được hồi tưởng lại chỉ khi những hình
ảnh trong cuộc sống dội vào trái tim tác giả những nhịp đập dữ dội, gây ấn tượng mạnh, đủ sức sống
dậy cảm xúc mãnh liệt. Thế giới trong hồi tưởng được lọc qua trí nhớ, qua tâm hồn, qua tình cảm
nên thấm đẫm cảm xúc trữ tình, suy tư trải nghiệm. Hiện thực thuộc về hôm qua được nhìn lại để
suy ngẫm trải nghiệm. Nói cái hôm qua để gián tiếp nói đến cái hôm nay. Chính vì thế, cách nhìn
thể loại đã chi phối các đặc điểm khác của thể loại hồi kí và tự truyện. Tác giả thành công với nghệ
thuật đi tìm tiếng nói bên trong của cái tôi hồi kí, tự truyện bằng cách đặt nhân vật vào hoàn cảnh
sống cụ thể, thông qua cách hồi tưởng, dùng câu văn, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại để nhân vật tự
biểu hiện, tự bộc lộ tính cách. Nghệ thuật khắc họa xây dựng nhân vật khác bằng hồi ức, thông qua
hồi ức.
Chương 3: NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG HỒI KÍ, TỰ TRUYỆN
CỦA TÔ HOÀI
3.1. Kết hợp trần thuật theo diễn biến sự kiện và trần thuật theo dòng hồi ức
Trần thuật là tất cả cách tổ chức, lựa chọn, sắp xếp khi trình bày về một sự việc sao cho nó có
hiệu quả, sáng rõ nhất.
Trần thuật trong tự truyện, hồi kí thường theo trình tự dòng hồi ức, nhớ gì kể đó. Mặt khác tự
truyện, hồi kí luôn tôn trọng sự thật nhưng đôi khi phải giải quyết mâu thuẫn, hài hòa giữa diễn biến
sự kiện trong dòng hồi ức nên phải kết hợp dòng hồi ức và diễn biến câu chuyện. Như khi ở trong
quá khứ lại quay về hiện tại để làm sáng rõ hơn sự việc. Lúc này tác giả dùng nghệ thuật trần thuật
là đảo thuật. Còn khi tác giả đang ở độ tuổi hai mươi hoặc thời kì tham gia cách mạng nhân có một
sự kiện lại nhớ về tuổi thơ của mình, nhớ về quá khứ xa hơn thì đó là kĩ thuật hồi cố.

3.1.1. Trần thuật theo trình tự dòng hồi ức

Trình tự theo dòng hồi ức, nhớ gì kể đó, các sự kiện được tác giả sắp xếp theo một dòng hồi
ức. Tác phẩm tự truyện, hồi kí thường có thiên hướng lý giải cuộc sống đã qua (của tác giả) như một
chỉnh thể, tạo ra những đường nét mạch lạc cho cuộc sống kinh nghiệm của mình. Người viết nhiều
khi cũng vận dụng hư cấu “thêm thắt” “sắp xếp lại”, các chi tiết của cuộc đời mình, nhằm làm cho
sự trình bày về cuộc đời ấy trở nên hợp lý, nhất quán. Tô Hoài khi viết tự truyện, hồi kí đã trần thuật
theo dòng hồi ức. Nghệ thuật tái hiện hồi ức thông qua cái tôi trong tự truyện – hồi kí Tô Hoài.
Người kể lại câu chuyện đời mình là người đi tìm gương mặt chính mình. Là người khám phá và
sáng tạo ra cái tôi bằng chính cái tôi. Đó là thế giới của hồi ức, thời gian thuộc về quá khứ có một
khoảng lùi. Nhà văn đứng trong thời điểm hiện tại khi đã trưởng thành, khi đứng tuổi để nghĩ về quá
khứ trong đó có gia đình, quê hương bối cảnh xã hội được nhớ lại. Quay lại trở về với thời thơ ấu,
tuổi trẻ để ôn lại những vui – buồn, được – mất trong cuộc đời của mình, cũng là để ôn lại, tìm ra
những kinh nghiệm trong cuộc sống.Trọng tâm của tự truyện là sự đánh giá, suy nghiệm lại về số
phận mình; câu chuyện là hành trình tìm kiếm bản thân mình trong quá khứ để thấy bản thân mình
trong hiện tại. Bởi vậy thời gian sẽ trôi chảy như một dòng sông. Ở Tự truyện diễn biến thời gian
xoay quanh nhân vật tôi được hiện diện thật sống động. Ở đó có những ngày thơ ấu (Cỏ dại),
những ngày cắp sách đến trường (Mùa hạ đến, mùa xuân đi), những ngày hoạt động trong nhóm ái
hữu (Những ngày thơ dệt),những ngày lang thang tìm việc làm (Đi làm), những ngày thất nghiệp
(Hải Phòng)…
Theo dòng hoài niệm, thời gian tâm tưởng cứ tuôn chảy, đôi khi đứt đoạn nhưng lại được
móc nối ngay vào khoảnh khắc của hiện tại. Thời gian nghệ thuật trong hồi kí Tô Hoài vì thế mà
diễn ra sinh động, hấp dẫn. Hồi tưởng là phương thức chủ yếu để xây dựng hình tượng thời gian
trong tự truyện. Trong nhiều tác phẩm, hồi tưởng luôn trở đi trở lại trong tác phẩm với mật độ đậm
đặc, nhiều lớp, nhiều tầng: hồi tưởng của chủ thể, hồi tưởng của nhân vật….đan cài chồng chéo lên
nhau, tạo nên những thế giới hình tượng phong phú. Đi vào trong thế giới của tự truyện, hồi kí, thấy
rất nhiều nhân vật mang theo trong mình một quá khứ sâu thẳm và ngập đầy những nỗi day dứt,
nuối tiếc, xót xa. Ngã sáu Hàng Kèn, cái “ngã sáu đường đời” lúc nào cũng “leo loét ngọn đèn con”
trở thành không gian chỉ dành cho hồi tưởng, một thánh đường của hồi tưởng. “Mỗi đêm ngã sáu
từng người tìm về với kỷ niệm của mình” [63,37]. “Nguyễn Tuân chẳng thiết cái quán bát nháo của
ông lão 81. Nhưng đến đây là một cơ hội để nhớ. Tách cà phê bít bất hay chén rượu có nhạt cũng
không quan tâm, chỉ bởi nó đem lại được cái cớ” [63,36]. Nguyễn Tuân mỗi lần đến đây là một lần
bỏ lạnh ly cà phê để nhớ đến người hầu bàn cũ. “Cứ ngồi đây mình lại nhớ nó. Không hiểu sao…”
[63,16]. Nơi ngã sáu của hồi tưởng này, con người sống với dĩ vãng nhiều hơn là sống với hiện tại,
ám ảnh day dứt vì dĩ vãng đã qua nhiều hơn là buồn vui vì những nỗi niềm trong hiện tại. Bởi lẽ dù
hiện tại có đau buồn hơn, hạnh phúc hơn hay hứa hẹn hơn thì dĩ vãng cũng vẫn thổn thức ở tận đấy
tâm hồn – nơi mà không có gì có thể chạm đến được. Cho nên Tô Hoài mới ngậm ngùi: “Ôi, tội cho
những người nhớ lâu” [63,40].Tô Hoài là người có trí nhớ rất tuyệt vời. Vì lẽ đó, những câu chuyện
qua hoài niệm của ông cứ tuôn ra dào dạt không dứt. Quá khứ được nhà văn hiện tại hóa. Điều này
được bộc lộ rõ qua việc sử dụng phép đồng hiện giữa quá khứ và hiện tại, giữa quá khứ gần và quá
khứ xa: Nghệ thuật trần thuật trong hồi kí Tô Hoài thường gắn với dòng ý thức, dòng tâm tưởng. Kí
ức được Tô Hoài sắp xếp không theo trật tự biên niên mà lan man, rối rắm, nhớ đến đâu, kể đến đó.
Nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm Tự truyện, hồi kí của Tô Hoài có sự xâu chuỗi các chi
tiết, sự kiện. Thông thường với cách hồi tưởng thì các sự kiện, sự việc được xâu chuỗi theo mạch
cảm xúc. Trong tác phẩm Cỏ dại tác giả kể về cuộc đời của mình từ ấu thơ cho đến lúc trưởng
thành. Cho nên các chi tiết, sự kiện phần lớn được sắp xếp theo trình tự thời gian. Kiểu “tự sự phi
cốt truyện” này là hệ quả tất yếu của kĩ thuật hồi cố. Chính từ cách trần thuật này, trung tâm điểm
của kết cấu truyện đã chuyển đổi từ chiều rộng cuộc sống với hệ thống những sự kiện và biến cố
phong phú sang chiều sâu tâm lý với một loạt những cảm xúc, tâm trạng, cảm giác...đã đẩy cốt
truyện xuống hàng thứ yếu để thiên về khắc họa những ấn tượng, tình cảm còn lại qua thời gian của
người trần thuật. Khi nhân vật rời khỏi bình diện hành động để chuyển sang bình diện hồi tưởng, khi
cốt truyện di chuyển từ chuỗi biến cố cấu trúc nên lai lịch một đời người sang lịch sử hình thành
nhân cách cá nhân nhìn từ thời hiện tại, chỉ còn lại những ấn tượng, cảm xúc, tâm trạng và nhận
thức của chủ thể trước những hành động, biến cố, tình huống ấy. Chính ý thức đó đã biến thời gian
đã qua thành một thời gian “của riêng mình”, một thời gian đã chuyển từ bên ngoài vào bên trong
của con người, một thời gian sống lại từ những kí ức đời thường của cái “tôi” đã tự nhận ra mình là
một thực thể có giới hạn sống riêng. Dù trong dòng tự sự có mặt hay không có mặt “thời hiện tại”
thì ý thức của nhà văn về “thời hiện tại” ấy vẫn không hề vắng mặt, cái “ngày nay” đối diện và đối
thoại với cái “ngày xưa” như là một thời quá khứ đã tách ra khỏi mình chứ không phải chỉ đơn
thuần là một khoảng thời gian đã qua. Thế giới trong hồi ức, hồi tưởng được lọc qua trí nhớ, cuộc
đời khúc xạ qua tâm hồn và suy nghĩ của tác giả nên thấm đẫm cảm xúc trữ tình, suy tư trải nghiệm
có thể là sự ý thức, sự suy ngẫm rất thực về cuộc sống hay về chính mình…Nhà văn không gợi lại
quá khứ chỉ vì quá khứ, mà vì hiện tại mình đang sống, và quá khứ trong quan hệ với hiện tại cũng
là điều bảo chứng cho một định hướng trong tương lai. Theo những ý nghĩa ấy, cuộc sống có thể
không trải dài qua thời gian mà mở rộng xuống chiều sâu của tinh thần.
3.1.2. Kết hợp trần thuật theo diễn biến sự kiện và trần thuật theo dòng hồi ức

Trần thuật trong tự truyện, hồi kí thường theo trình tự dòng hồi ức, nhớ gì kể đó. Mặt khác tự
truyện, hồi kí luôn tôn trọng sự thật nhưng đôi khi phải giải quyết mâu thuẫn, hài hòa giữa diễn biến
sự kiện trong dòng hồi ức nên phải kết hợp dòng hồi ức và diễn biến câu chuyện. Như khi ở trong
quá khứ lại quay về hiện tại để làm sáng rõ hơn sự việc. Lúc này tác giả dùng nghệ thuật trần thuật
là đảo thuật. Còn khi tác giả đang ở độ tuổi hai mươi hoặc thời kì tham gia cách mạng, nhân có một
sự kiện lại nhớ về tuổi thơ của mình, nhớ về quá khứ xa hơn thì đó là kĩ thuật hồi cố. Đặng Thị
Hạnh đã nhận thấy: “Dòng hoài niệm trong Cát bụi chân ai chạy lan man, rối rắm như ba mươi sáu
phố phường, những phố hẹp của Hà Nội cổ đan xen nhau dày đặc, với những rẽ ngoặt quanh
co(…). Thời gian hồi tưởng như ngẫu hứng, cũng chạy lông bông theo dòng hoài niệm, móc vào
đâu đấy, dừng lại một lát rồi lại đi, ...đi ngược về trước hoặc lùi về sau, có khi hàng chục năm.
Tưởng đó cũng là bình thường khi “trò chơi lớn” của văn viết hồi kí là đặt chồng lên nhau các lớp
thời gian” [50,398].
Trong tự truyện, hồi kí Tô Hoài thường phá vỡ trình tự trần thuật, không tái hiện sự kiện theo
trật tự biên niên mà xáo trộn chúng bằng “dòng ý thức” miên man. Theo dòng hoài niệm, thời gian
tâm tưởng cứ tuôn chảy, đôi khi đứt đoạn nhưng lại được móc nối ngay vào khoảnh khắc của hiện
tại. Nghệ thuật trong tự truyện, hồi kí Tô Hoài vì thế mà diễn ra sinh động, hấp dẫn: "Ba anh em tôi
T
4

ngồi lù lù đầu hè. Như ba ông đầu rau đen đủi ngồi trong bếp gio. Giờ đây tôi tưởng lại những buổi
sáng thiểu não ấy. Nhâm ơi Nhâm! Tôi gọi Nhâm vu vơ dưới ngòi bút, trong ánh đèn dầu đêm mùa
xuân này. Có khi nào những dòng kí ức của anh mà em đọc đến, hẳn em không giấu được mỉm cười
ngạc nhiên rằng sao anh khéo nhớ ma mãnh thế. Nhâm đã quên và chắc là bây giờ chẳng còn
những ngày rầu rĩ như thế. Tôi thì tôi nhớ dai, nhớ lắm, em ạ. Cây viết lê đến dòng kẻ này, mắt tôi
nhìn vào bóng đêm câm lặng lẽ vẫn thấy lại buổi sáng chúng tôi ngồi phơi đầu bùn trước hè, bên
cạnh bậc hòn đá" [76,101]. Trong nhiều tự truyện, hồi kí cách thức kết hợp tràn thuật này nhấn
4T

mạnh sự nhận thức, suy ngẫm của nhân vật. Câu văn hồi tưởng đầy suy tư và thẫm đẫm cảm xúc
của nhân vật. Nhiều khi kết thúc tác phẩm trong sự bừng tỉnh của tác giả trước thực tại, sự bừng tỉnh
đầy cay đắng, xót xa. Từng mảnh của cái hiện tại chia lìa tan tác được xé nhỏ ra, cài vào trong dòng
hồi tưởng miên man của nhân vật và của chủ thể như những nhận thức đau xót về cái đã có và cái đã
mất của con người. Trần thuật kết hợp với cảm nhận bằng tâm trạng: "Cái thuở xa xôi ấy không còn
4T

nữa. Bà Ba tôi mất đã năm sáu năm nay rồi....Từ ngày đó, tôi càng thưa về quê nội. Con đường
càng ngại. Con đường càng xa. Sao con đường trở về quê lại xa quá thế! Trong đời, tôi đã qua
những đoạn đường dài gấp trăm ngàn nó mà không hề nghĩ ngợi đến nỗi xa xôi như khi tôi bước
trên đường về làng nội. Con đường ấy xa hơn hết và xa mãi mãi. Như vẫn dài thăm thẳm từ thuở tôi
còn nhỏ, mỗi lần theo u về quê" [76,35]. Theo dòng hoài niệm, thời gian tâm tưởng cứ tuôn chảy,
4T

đôi khi đứt đoạn nhưng lại được móc nối ngay vào khoảnh khắc của hiện tại. Nghệ thuật trần thuật
trong hồi kí Tô Hoài vì thế mà diễn ra sinh động, hấp dẫn. Thời gian quá khứ và hiện tại hòa lẫn vào
nhau. Những nếp gấp thời gian ken dày trong chuỗi tâm sự, nhập nhòe, đan quyện giữa một thời
đang sống, một thời đang hồi tưởng và một thời được hồi tưởng. Sự có mặt của hiện tại trong quá
khứ và quá khứ trong hiện tại làm bật lên cái nhìn so sánh, phân tích, nghiền ngẫm.
Nghệ thuật trần thuật kết hợp vừa đảo thuật vừa hồi cố trong hồi kí, tự truyện của Tô Hoài
được lồng ghép, đan cài vào nhau. Thảm thương nhất là những ngày thất nghiệp ở Hải Phòng.
"Ngày lại ngày, tôi đi tìm việc. Thấy cái giấy dán ở đầu tường nào tôi cũng đến đọc, thấy cửa hiệu
to, tôi ghé nghiêng nhòm vào rồi hỏi. Chẳng đâu ăn thua.. Tôi vẫn may rủi hàng ngày vẩn vơ đi tìm
việc, mà việc vẫn xa lắc xa lơ đâu không biết...Tôi vẫn miên man mải miết, qua từng phố. Thấy cửa
hiệu nào có quầy trả tiền, có người đứng bán hàng, hay có người ngồi ghi ghi, chép chép, tôi hiểu
là ở đấy có việc làm, có thể mượn người làm, tôi vào hỏi .Nhưng vẫn không có việc ở đâu đợi tôi"
[76,192]. Những kỉ niệm đáng nhớ đến mức: "mà thời gian dù mài tròn đi thế nào, vẫn còn
nhớ".Trong những ngày tìm việc nương nhờ vợ chồng người bạn nhưng họ cũng nghèo quá, nhà của
Cần được tác giả miêu tả: “có lẽ đây là cái buồng tắm cũ. Kê vừa vặn được chiếc giường nhỏ. Thò
chân ra ngoài thành giường đã đụng vào tấm cánh sào che hiên”. "Tôi đã ở với vợ chồng Cần trong
cái xó xỉnh tí tẹo như thế, thật kỳ lạ và oái oăm, thật gian nan mà mỗi lần nghĩ lại bao giờ cũng
ngậm ngùi" [76,191]. Chính vì không gian ở quá chật hẹp ấy khiến cho những kẻ ác miệng lời ra
tiếng vào: " Những lời nghi kỵ và xúc phạm kia không gây một điều nghĩ ngợi nào trong chúng tôi
nhưng đã khiến chúng tôi đau đớn, nhức nhối trong lòng". Qua cách kể của nhân vật tôi ta thấy sự
trải nghiệm chua xót, đắng cay và nhận thấy đời quả thật đáng buồn !
Các sự kiện nối chồng chéo chằng chịt khiến cùng một lúc, người đọc có thể được chứng
kiến nhiều sự kiện quan trọng của lịch sử. Khi là thời gian ở rừng Thượng Yên, khi lại là những sự
kiện báo chí làm ầm ĩ cả giới văn nghệ sĩ: “Chúng tôi bị kiểm điểm qua loa: Bỏ lớp học quan trọng
đi ăn mừng đường xe lửa được khôi phục, việc không cần thiết. Báo Nhân Văn ra đến số 6 bị tịch
thu tại nhà in. Các báo hoan nghênh việc đó. Một số văn nghệ sĩ chúng tôi chẳng biết ai chủ trương
cũng ra tuyên bố tán thành sự tịch thu báo Nhân Văn. Nhà xuất bản Minh Đức đóng cửa. Hồi ấy,
báo in còn ít, chỉ tính số nghìn. Nhưng một tờ báo bị cấm thì ầm ĩ ngay. Bấy giờ, cuối năm 1956”
[63,77]. Sự kiện này có tác động không nhỏ tới đời sống tinh thần của nhiều nhà văn cũng như độc
giả. Vào thời điểm lịch sử lúc bấy giờ việc tịch thu báo Nhân Văn được sự ủng hộ của rất nhiều
người. Đó là thời điểm "cuối năm 1956”. Việc một tờ báo bị cấm trở thành sự kiện “ầm ĩ”. Và
những hệ lụy của sự kiện này sẽ không bao giờ lịch sử có thể quên. Sự kiện này không chỉ thể hiện
cái nhìn của chân thực của tác giả mà còn là cái mốc lịch sử không quên. Những sự kiện ấy ăn sâu
vào tiềm thức của nhiều người và gây không ít ảnh hưởng trong giới văn nghệ sĩ một thời gian dài.
Chính vì thế mà có “những cuộc họp tập thể này gọi là chỉnh huấn”. “Mùa đông 1951, ở rừng
Chiêm Hóa, hai tháng dự lớp đầu tiên chỉnh huấn gọi là “theo phương pháp Hoa Nam"
[63,111].Với nghệ thuật trần thuật kết hợp, ta càng hiểu hơn về nhà văn Tô Hoài. Không chỉ là nhà
văn ông còn là một chiến sĩ, không chỉ là một người yêu nước gắn bó với từng bước đi của cách
mạng
Nghệ thuật trần thuật trong Tự truyện, hồi kí lúc này tác giả dùng kết hợp trần thuật theo
diễn biến sự kiện và trần thuật theo dòng hồi ức: hiện tại – quá khứ có khi quá khứ – hiện tại. Những
nếp gấp thời gian ken dày trong chuỗi tâm sự, nhập nhòe, đan quyện giữa một thời đang sống, một
thời đang hồi tưởng và một thời được hồi tưởng. Sự có mặt của hiện tại trong quá khứ và quá khứ
trong hiện tại làm bật lên cái nhìn so sánh, phân tích, nghiền ngẫm: Thứ nhất đó là sự tự thương
mình. Thứ hai so sánh để thấy tình người thật thấm thía. Thứ ba ngẫm lại để thấy: đời đẹp và buồn.
Như vậy trần thuật lại một quãng đời của một đời người, tuy không phải là dài nhưng lại chất
chứa bao kỷ niệm vui buồn. Cảnh buồn cứ hiện ra trước mắt người đọc dường như bao trùm lên
toàn cảnh vật và con người trong cuộc sống. Tô Hoài đã sử dụng nghệ thuật trần thuật sắp xếp thời
gian giãn cách để kể lại các sự kiện liên quan đến các mốc thời gian. Tác giả dùng nghệ thuật trần
thuật kết hợp vừa đảo thuật vừa hồi cố để đảo ngược trình tự thời gian kể và trình tự các sự kiện
trong chuỗi sự kiện gắn với cuộc đời của nhân vật tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Với từng
mốc thời gian gắn với mỗi chặng đường đã qua của cuộc đời con người, càng để người đọc có thể
hình dung đầy đủ hơn về nhân vật. Rõ ràng là, mỗi sự kiện trong cuộc đời nhà văn đều là một sự
kiện có ý nghĩa. Nghệ thuật trần thuật trong Tự truyện, hồi kí Tô Hoài vừa miên man theo dòng hồi
ức, khiến các sự kiện không hiện diện theo trình tự, vừa có sự xắp xếp chồng chéo để các sự kiện về
xã hội lịch sử, về đời tư của mỗi nhà văn hiện lên khá đầy đủ. Từ đó người đọc có sự hình dung rõ
nét về cuộc sống con người của mỗi nhân vật trong những thời điểm lịch sử khác nhau và trong tính
cách của họ.

3.2. Hòa phối điểm nhìn (quanh một góc nhìn chủ đạo) trong trần thuật
3.2.1. Khái niệm điểm nhìn trần thuật

Điểm nhìn trần thuật là góc quan sát, vị trí mà người kể dựa vào để miêu tả, trần thuật lại các
nhân vật và sự kiện.
Tô Hoài là nhà văn có ý thức nghề nghiệp và bản lĩnh nghệ thuật cao. Tài năng của ông thể
hiện ở nhiều mặt, trong đó điểm nhìn trần thuật bộc lộ cá tính sáng tạo. Nhà lý luận Bêlinxki khẳng
định tầm quan trọng của điểm nhìn: “Khi đứng trước một phong cảnh đẹp thì chỉ có một điểm nhìn
làm cho ta thấy toàn cảnh và chiều sâu của nó. Đứng gần quá hay xa quá, lệch về phía bên phải
hay bên trái quá cũng làm cho phong cảnh mất vẻ toàn vẹn, hoàn mỹ”. Thông thường, trong Tự
truyện, hồi kí người kể chuyện là tác giả. Nhân vật đến với độc giả phải thông qua tư tưởng, tình
cảm tác giả được biểu hiện qua lời kể chuyện. Lê Ngọc Trà viết: "Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng
nói của tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư." Cho nên lời kể chuyện luôn mang
dấu ấn của tác giả, bộc lộ phong cách, cá tính, tài năng nghệ thuật và thẩm mỹ để hấp dẫn người
đọc. Điểm nhìn trần thuật là vị trí mà người trần thuật cảm nhận và miêu tả các sự vật, đối tượng
trong tác phẩm. Cho nên mỗi khi thay đổi điểm nhìn là tạo nên một cảm xúc, một thái độ đánh giá
khác nhau.
Sáng tạo nghệ thuật bao giờ cũng gắn liền với một tư tưởng nhất định. Và tư tưởng đó tập
trung thể hiện qua cái nhìn của tác giả. Hay nói một cách khác, trong khi phản ánh đời sống người
nghệ sĩ không thể không có một cái nhìn nghệ thuật riêng. Cái nhìn là một biểu hiện tinh thần đặc
biệt của tác giả. Để hiểu được nội dung phong phú của cuộc sống trong tác phẩm, chúng ta không
thể không khám phá cái nhìn nghệ thuật, cách tư duy, cách cảm nhận của chính nhà văn. Cái nhìn
thể hiện trong tri giác, cảm giác, quan sát, từ đó nó có thể phát hiện cái đẹp, cái xấu, cái hài, cái
bi...Cái nhìn xuất phát từ một cá thể, mang thị hiếu và tình cảm yêu, ghét. Suy ngẫm về cái nhìn ta
thấy trong tác phẩm Người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ cùng là hình ảnh "cái bóng" tưởng
như vô tình, ngẫu nhiên. Với Vũ Nương đây là cách dỗ dành con trẻ, động viên con như có cha ở
bên cạnh, là tự an ủi mình cho đỡ cô quạnh và vơi đi nỗi nhớ chồng. Nàng có ngờ đâu đó chính là
cái bóng oan khiên khiến mình phải chết. Cái bóng đối với bé Đản đó là người đàn ông bí ẩn. Còn
với Trương Sinh cái bóng thứ nhất là bằng chứng không thể chối cãi về sự hư hỏng của vợ. Cái
bóng xuất hiện lần thứ hai, cái bóng của chính chàng mở mắt cho sự thật tội ác do chính chàng gây
ra nhưng tất cả đã quá muộn. Cho nên mỗi khi thay đổi điểm nhìn là tạo nên một cảm xúc, một thái
độ đánh giá khác nhau.
Mỗi nhà văn đều có cái nhìn riêng độc đáo biểu hiện trong thế giới nghệ thuật của mình. Sự
độc đáo ấy là yếu tố quan trọng tạo nên phong cách của mỗi nhà văn. Dưới con mắt tài hoa của
Nguyễn Tuân, con người luôn được cảm nhận ở phẩm chất tài hoa, tài tử, phi thường đáng ngưỡng
mộ. Nguyễn Tuân chỉ quen cảm thụ với những cái cao cả, thiêng liêng. Một Huấn Cao tài năng toàn
diện, nhân cách lồng lộng khó ai sánh kịp. Dưới con mắt của Nam Cao con người lại được hiện lên
với những cái “vặt vãnh” nhỏ nhặt nhưng nhà văn luôn nhìn thấy ở họ ý thức sâu sắc về nhân cách
bản thân mình. Từ một cuộc đời nhỏ bé mà có thể khái quát lên cả một kiếp người. Nhiều khi Nam
Cao nhìn thấy họ dằn vặt, đau đớn trước bi kịch về quyền làm người. Nhân vật của Nam Cao nhiều
khi coi trọng danh dự làm người cao hơn cả tính mạng như Lão Hạc, Chí Phèo, Lang Rận...Còn với
Tô Hoài, cái nhìn của ông mang một nét riêng không lẫn vào ai. Tác giả nhìn con người phải là:
“người ta ra người ta thì phải là người ta đã chứ”, có nghĩa là con người có những mặt hay và dở,
có cái được và chưa được. Theo Tô Hoài con người không phải là thánh nhân, thậm chí còn có cả
những phần đen tối lẩn khuất trong tâm hồn. Trong cái nhìn của ông, con người cũng có những khổ
đau, bất hạnh nhưng họ biết vươn lên cho dù phải vật lộn với hoàn cảnh cuộc sống khó khăn. Họ
vươn lên trên đau khổ để tìm lại cuộc sống của chính mình.
Trong Tự truyện, hồi kí của Tô Hoài, người kể tham dự vào truyện như là một nhân vật ở
ngôi thứ nhất. Với điểm nhìn của cái tôi chủ quan – tác giả, nhân vật “tôi” có điều kiện dẫn dắt
người đọc qua những chặng đường phiêu lưu, bộc lộ những trải nghiệm trong cuộc sống, thể hiện
thái độ tình cảm của mình trước từng diễn biến sự việc. Mỗi khi thay đổi điểm nhìn, cuộc sống được
cảm nhận ở nhiều góc cạnh, đa chiều, phong phú. Người tường thuật xưng “tôi” tự kể về mình.
Điểm nhìn từ nhân vật tôi. Đây là truyện chủ thể kể về bản thân “tôi” một cách trực tiếp, phơi bày
trực tiếp trước mắt người đọc những gì “tôi” đã chứng kiến trong cuộc sống. Ở kiểu truyện này, tác
giả và nhân vật “tôi” hòa làm một, khoảng cách giữa tác giả và nhân vật “tôi” rất gần, dễ cho tác giả
gởi quan điểm, thái độ, tình cảm của mình. Điểm nhìn trần thuật này khiến cho cái tôi của nhà văn
có dịp được bày tỏ, được bộc bạch, phơi bày tâm trạng của mình. Mỗi con người chúng ta ai cũng
có một tuổi thơ để nhớ về. Trong trí óc còn non dại, tinh khôi như một tờ giấy trắng, cuộc sống quả
là thú vị và có bao điều mới lạ cần khám phá. Cho nên tất cả những gì diễn ra quanh cuộc sống của
một đứa trẻ, dù chỉ là rất nhỏ, người lớn không để ý tới cũng sẽ để lại một ấn tượng sâu đậm trong
kí ức trẻ thơ: Đây là kiểu tường thuật mà “người kể được cá thể hóa, đã nhập làm một với nhân vật
chính của tác phẩm" đang “kể chuyện về mình” với những tình cảm, cách cảm nhận và lí giải mọi
điều của người trong cuộc: "Buổi sáng nào “tôi” cũng hì huỵch vần từng chiếc lốp ôtô dựng ngoài
mặt tường trước cửa hàng. Tối đến, lại hì huỵch theo mé tường vần vào. “Xong việc vần lốp ôtô là
tới việc đánh giầy, xong đánh giầy, vào rửa một chậu bát đũa rếch. Đoạn việc rửa bát rếch, tiếp đến
cọ chai (…) cọ được vài chục chai, đã đến buổi trò tan chiều. Tôi sửa soạn và phụ thổi cơm"
[76,76]. Điểm nhìn từ nhân vật tôi nên kỉ niệm hằn sâu trong tâm hồn khi có dịp giãi bày nó vùng
vẫy lên với một sức mạnh dữ dội của sự trải nghiệm và thấm thía. Từ điểm nhìn trực tiếp đó nhân
vật tôi hiện ra sinh động, có sức hấp dẫn, cuốn hút người đọc.
Ngoài vai trò là người dẫn chuyện, nhân vật tôi giữ vai chủ thể tự bộc lộ cảm xúc của mình
có nghĩa là ở điểm nhìn trực tiếp, trực diện. Với đặc trưng của thể loại tự truyện, hồi kí khi miêu tả
T
4 T
4 T
4

nhân vật "tôi", tác giả thường dùng cách bộc lộ cảm xúc trực tiếp của nhân vật. Tác giả dùng thủ
pháp trực tiếp để nhân vật tôi tự kể, tự miêu tả cảm xúc, tâm trạng: "Và tôi ơi là tôi, tôi cũng không
T
4

nghĩ được ra nếu cứ dấn vào thì nên làm những như thế nào. Thuý không bị suýt ngã nên Thuý
không tưởng được cái hất cáu kỉnh đã khiến tôi đau điếng cả trong lòng và cả bàn chân"
[76,202]. Tác giả dùng thủ pháp trực tiếp để nhân vật tôi tự kể, tự miêu tả cảm xúc, tâm trạng của
T
4 T
4

mình trong đêm thân mật với Xuân Diệu, ông đã để mình trở thành người trong cuộc, cũng nồng
nàn, không làm chủ được cảm xúc của mình: "Tôi hé mắt nhớ lại những hứng thú khủng khiếp.
Những cảm giác nồng nàn kích thích trong bóng tối đã trơ ra khi sáng bạch. Tôi chạy xuống cánh
đồng giữa mưa. Nhưng đêm mai lại vào cuộc kịch liệt hơn. Trong đêm quái quỷ lại thấy mình không
phải mình mọi khi, cũng không biết rồi trời lại sáng. Cho đến khi thật thấy rạng sáng mới rởn rợn"
[63,191]. Cái chân thành ấy khiến câu chuyện trở nên rất thật, có sức thuyết phục cao nhận được sự
đồng cảm của đọc giả. Khi dùng chủ thể trần thuật kiểu này tạo nên sự gần gũi của chủ thể kể “tôi”
và nhân vật, giúp tác giả thâm nhập vào nội tâm nhân vật.
Xuất phát từ điểm nhìn của chủ thể nhân vật tôi nhận xét: "Nguyễn Tuân áo rách cũng vẫn
đượm màu phong lưu, tiền thì cứ tiêu và chỉ tính thôi chứ không đếm. Nguyễn Tuân, một người ý tứ,
trân trọng, thận trọng, khéo thu xếp" [63]. Một Nguyễn Tuân thật sắc sảo và kiêu bạc: "Cái ác khẩu
của nhà văn này thì khỏi nói. "Tao mà chết, nhớ chôn theo với tao một thằng phê bình" [63]. Với
cái nhìn nhân bản yêu thương, trái tim Tô Hoài đập cùng một nhịp với trái tim thổn thức đau thương
của bạn bè và thông cảm sâu sắc với mỗi con người, mỗi số phận của đồng nghiệp khi Nguyễn Bính
để mất con: “thất thểu suốt đêm, sáng ra nhợt nhạt, thẫn thờ bước giữa trống không". Chuyện đã
qua mà vẫn còn ám ảnh mãi với Tô Hoài ông vẫn không ngừng hi vọng giúp được bạn làm một cái
gì đó để vơi bớt sự dằn vặt, đau đớn trong tâm hồn bạn.
Viết về ông hoàng của thơ tình yêu Xuân Diệu mà ta ngưỡng mộ lại rất đời thường và bình
thường, chỉ là: "Mỗi bữa ăn, Xuân Diệu săn sóc thực đơn lấy ..Ngày hai buổi nói, lại tối nữa, phải
thế mới có sức". Và ở một cự li thật gần có lúc chính là người trong cuộc để nhìn mà thấm thía mà
thương bạn: "Xuân Diệu nức nở "tình trai của tôi... tình trai..."rồi nghẹn lời, nước mắt ứa ra".
Nhưng đâu chỉ có thế thôi lời nhắn gửi tha thiết với hậu thế, chỉ có thể là người rất hiểu, rất thương
Xuân Diệu mới có thể viết hay và đúng như thế: "Ai yêu thơ Xuân Diệu, hiểu được thơ tình tha thiết
đẹp đến não nùng của Xuân Diệu, không danh giới tơ duyên trai hay gái, phải thấu hiểu nỗi niềm và
duyên nợ của nhà thơ như thế, suốt đời nhớ thương và chờ đợi mới là biết yêu thơ Xuân Diệu. Khi
nào cũng khát vọng, không bao giờ già, mãi mãi ban đầu" [63]. Đây là cái nhìn yêu thương, lấy trái
tim nhân ái để đồng cảm. Trái tim ấy đập những nhịp của yêu thương! Đến nay là tháng 7 năm 2011
mà trên thế giới nạn phân biệt giới tính còn rất nhiều, mấy hôm nay trên báo thể thao có mấy đội
tuyển nữ người Đức thoát y để kêu gọi sự bình đẳng giới và nạn kì thị giới tính thứ ba còn ở khắp
mọi nởi nhất là Nam Phi dẫn đến nhiều cái chết thương tâm của những người bất hạnh này. Lan
man một chút để thấy rằng cách đây mấy chục năm rồi mà Tô Hoài có cái nhìn nhân ái như vậy quả
thật đó là lòng nhân đạo mới mẻ và sâu sắc đầy tính nhân văn. Đọc tự truyện của Tô Hoài thấy đó là
nỗi thương mình và đọc hồi kí của ông thấy đó là lòng thương người. Tất cả đều xuất phát từ cái
nhìn yêu thương.

3.2.2. Nghệ thuật hòa phối điểm nhìn

Nghệ thuật hòa phối, di chuyển điểm nhìn trong cái tôi chủ quan của tác giả. Điểm nhìn của
chủ thể nhân vật tôi không đơn giản mà có sự phối hợp giữa các điểm nhìn khác tạo ra cảm xúc về
cuộc sống đa chiều, nhiều mặt, sự việc có khi được nhìn ở điểm nhìn của chủ thể, Tô Hoài tự kể về
những việc ông nhớ lại nhưng có khi dùng điểm nhìn của chính nhà văn hoặc của một nhân vật nhà
văn về một nhà văn khác từ đó đưa ra nhận xét. Cách di chuyển điểm nhìn trong cái tôi chủ quan
của tác giả – chiếu điểm nhìn qua nhân vật khác. Nhân vật tôi ngay từ lúc nhỏ đã đi xa nhà, vốn tính
T
4

nhạy cảm nên nỗi nhớ nhà thường trực. Có khi nỗi nhớ nhà đến nôn nao tác giả dùng thủ pháp bộc
4T

lộ gián tiếp, qua nhân vật khác như lời nói của bà ngoại: "Tôi nhớ nhà quá. Nhớ vàng cả người.
T
4

Vàng cả người là bà ngoại tôi nói thế. Giữa tháng chạp, bà ra đón tôi về quê ăn tết. Vừa trông thấy
bà, hai mắt tôi đã loá nước mắt". Điểm nhìn, đây là một câu bé – suy nghĩ còn rất ngây thơ ngay
T
4 T
4

trong cả nỗi nhớ của mình cũng khó có thể tìm ngôn ngữ nào để diễn tả. Cho nên tác giả đã dùng
nhận xét của người bà vừa thương cháu vừa trải đời để diễn tả cho hết cho đúng cái nỗi nhớ da diết.
Đây là hình thức kể chuyện của chủ thể "tôi" đặt bên cạnh chủ thể khác, hình như tác giả muốn tăng
thêm một nhân chứng để nhấn mạnh cảm xúc chân thật.
Xuất phát từ điểm nhìn của chủ thể nhân vật tôi – với cái nhìn nhân bản đời thường “người ta
ra người ta thì phải là người ta đã chứ”. Nhà văn đã rút ngắn đến mức thấp nhất khoảng cách giữa
người đọc với người kể và đối tượng được phản ánh giúp chúng ta tiếp cận, bước vào một cuộc sống
đời thường của thế giới nhà văn – những người nghệ sĩ mà chúng ta thường chỉ cảm nhận họ qua tác
phẩm văn học. Có thể nói đây là những con người rất đặc biệt trong tác phẩm hồi kí của Tô Hoài, là
những người bạn, người đồng nghiệp mà ông gần gũi, thân thiết, tiếp xúc nhiều với họ, điều quan
trọng nữa là ông rất hiểu họ. Cách nhìn và vốn sống đó giúp cho người đọc hiểu ra rằng phía sau thế
giới nghệ thuật lung linh, nhiều màu hồng mà ta vẫn thường biết đến qua tác phẩm thì đó còn là
những nhà văn rất đời thường. Tác giả chiếm lĩnh đối tượng ở nhiều mặt nhưng cái trước hết mà
ông tiếp xúc với họ – đó là con người đời thường, bình thường. Điều đáng nói ở đây là ngay cả khi
viết về những thói tật của những người nghệ sĩ lớn, Tô Hoài vẫn viết bằng tất cả tấm lòng chân
thành của một nghệ sĩ chân chính, bằng cái nhìn cảm thông chân tình nên chúng ta không cảm thấy
nhà văn hạ thấp họ hay cố tình đề cao bản thân mình để làm nhòe đi hình ảnh người khác. Ở kiểu
tường thuật này, nhân vật “tôi” bên cạnh với tư cách là nhân vật tồn tại khách quan như những nhân
vật khác, nó còn được giao nhiệm vụ kể theo quan điểm chủ quan của nhân vật “tôi”, tức đặt điểm
nhìn nơi nhân vật sẽ có lợi thế vì nó vừa tả hiện thực vừa trực tiếp nhập vào nhân vật để bộc lộ thái
độ suy nghĩ thông qua sự đối thoại độc thoại để khám phá thế giới bên trong của nhân vật. Bởi vì
nhân tố đối thoại, độc thoại là đặc tính quan trọng của hoạt động ngôn từ, trả lại cho ngôn từ hình
thức nói vốn có của nó như trong đời sống thực, để từ đó giúp chúng ta khai thác đến những hình
ảnh trong ý thức con người, khám phá bản chất con người và xã hội. Khi tác giả nhận xét: “Tôi
không được biết Nguyễn Tuân thời xưa kênh kiệu tàn nhẫn thế nào, chỉ thấy bây giờ cũng chịu khó
chơi tạp, chỉ có điều là ngồi đối diện đấy, nhưng không nhìn mặt ai. Cái ác khẩu của nhà văn này
thì khỏi nói. "Tao mà chết, nhớ chôn theo với tao một thằng phê bình", nhưng giá ở dưới âm ty,
thằng phê bình chẳng may nào đó bị chôn sống, lại mời ông đi uống rượu rồi đi chơi đảo Cát Hải
thì chắc ông cười xoà, làm lành ngay. Vẫn cái khó khăn hay cái dễ dãi chỉ vì mình" [63,30]. Dùng
điểm nhìn của chính nhà văn đưa ra nhận xét. Cách di chuyển điểm nhìn trong cái tôi chủ quan của
tác giả – chiếu điểm nhìn qua nhân vật khác. Cái nhìn nghệ thuật không chỉ thể hiện trên phương
diện con người mà còn bộc lộ trên rất nhiều mặt của cuộc sống.
Tô Hoài tự kể về những việc ông nhớ lại nhưng có khi dùng điểm nhìn của chính nhà văn
hoặc của một nhà văn nhân vật về một nhà văn khác từ đó đưa ra nhận xét. Cách di chuyển điểm
nhìn trong cái tôi chủ quan của tác giả bằng cách làm một người trong cuộc, lại gánh vác việc trần
thuật và phải thể hiện quan điểm tác giả nên lời văn gián tiếp hai giọng ở đây rất nổi bật, đậm hơn,
rõ hơn so với kiểu tường thuật có nhân vật “tôi” dẫn chuyện. Tô Hoài rất giỏi tạo dựng những bức
tranh đời sống, trong đó chứa đựng nhiều chi tiết sinh động. Những nhân vật hiện lên trước mắt ta
như đang tham gia vào những cảnh sống ngoài đời:“Tôi đến nhà ...Một lúc lâu, Nguyễn Tuân mới
rầu rầu nói: “Chẳng ở đâu bằng ở nhà, cái khách sạn nhà, cậu ạ. Không biết thế có phải cái nản
chí của người già bạc hết cả lông nách mới nghĩ quẩn thế không”. Lại còn “không biết” nữa sao!
Chẳng qua đây chỉ là người lão giang hồ tự hỏi, tự hận mình. Cái đau của một người cả đời ham đi
mà rồi dần dần không đi đâu, quanh quẩn, bức bối, bực dọc, dằn vặt” [63]. Khi kể lại tác giả dùng
lời văn gián tiếp hai giọng khi thì lời của nhân vật khác trong truyện: “Chẳng ở đâu bằng ở nhà, cái
khách sạn nhà, cậu ạ. Không biết thế có phải cái nản chí của người già bạc hết cả lông nách mới
nghĩ quẩn thế không." khi thì chính là lời của nhân vật tôi: "Lại còn “không biết” nữa sao! Chẳng
qua đây chỉ là người lão giang hồ tự hỏi, tự hận mình. Cái đau của một người cả đời ham đi mà rồi
dần dần không đi đâu, quanh quẩn, bức bối, bực dọc, dằn vặt”. Vẫn cách khắc họa cái tôi đồng thời
tác giả dùng hình thức kể chuyện của chủ thể "tôi" đặt cạnh chủ thể khác, hình như tác giả muốn
tăng thêm sự thuyết phục, tìm sự đồng cảm để cho tác phẩm được hiện thực, khách quan hơn. Cái
nhìn thân tình, gần gũi. Cách di chuyển điểm nhìn trong cái tôi chủ quan của tác giả bằng cách làm
một người trong cuộc, lại gánh vác việc trần thuật và phải thể hiện quan điểm tác giả nên lời văn
gián tiếp hai giọng ở đây rất nổi bật, đậm hơn, rõ hơn so với kiểu tường thuật có nhân vật “tôi” dẫn
chuyện. Tô Hoài rất giỏi tạo dựng những bức tranh đời sống, trong đó chứa đựng nhiều chi tiết sinh
động. Những nhân vật hiện lên trước mắt ta như đang tham gia vào những cảnh sống ngoài đời. Khi
kể lại tác giả dùng lời văn gián tiếp hai giọng khi thì lời của nhân vật khác trong truyện khi thì chính
là lời của nhân vật tôi. Vẫn cách khắc họa cái tôi đồng thời tác giả dùng hình thức kể chuyện của
chủ thể "tôi" đặt cạnh chủ thể khác, hình như tác giả muốn tăng thêm sự thuyết phục, tìm sự đồng
cảm để cho tác phẩm được hiện thực, khách quan hơn.
Đặt điểm nhìn ở nhân vật khác nhau trong cách kể chuyện, tạo cho người đọc cái nhìn nhiều
chiều đúng với bản chất đời sống biến động của thời đại Tô Hoài, khi sự khủng hoảng các mối quan
hệ con người đã làm nhức nhối những nhà văn có lương tri. Cách kể này cho thấy nhà văn tôn trọng
sự tự do về nhận định ở người đọc, đồng thời tạo cho nhân vật gần với độc giả và độc giả dường
như chứng kiến con người thật mà mình đã gặp trong đời sống, chứ không phải là con người trong
tác phẩm. Cách kể này tránh sự đơn giản một chiều, một giọng nhàm chán trong phản ánh hiện thực.
Mỗi nghệ sĩ – nhà văn có sự cảm nhận về thế giới hiện thực khách quan khác nhau nên sự tái
hiện lại hiện thực khách quan cũng khác nhau. Sự phản ánh hiện thực khách quan ấy thể hiện quan
niệm sống của tác giả thông qua điểm nhìn.Viết về chuyện vặt vãnh hằng ngày bằng chất văn xuôi
đời thường, nhà văn không né tránh phàm tục, nghịch dị, thô nhám…của cuộc sống. Tất cả những
chất liệu, âm thanh cuộc sống dội vào trang văn của Tô Hoài sức ấm nóng của cuộc sống. Nhãn
quan sinh hoạt thế sự làm cho tự truyện, hồi kí của Tô Hoài vừa có nét riêng, vừa có khả năng nắm
bắt và tái hiện đời sống, vừa có cái nhìn sắc sảo, tinh quái dễ phát hiện ra cái phần thô kệch hài
hước của đời sống. Xuất phát từ điểm nhìn vừa trẻ trung vừa già dặn, Tô Hoài đã có cái nhìn sâu sắc
về các vấn đề xã hội. Đó là nét riêng trong tự truyện, hồi kí của Tô Hoài.
Tô Hoài với cách kể chuyện hấp dẫn có duyên, nhiều khi lan man mà vẫn kết dính, nhiều khi
“vụn vặt” mà vẫn có sức khái quát. Trang viết nào, đoạn văn nào cũng đầy ắp chi tiết, mang hơi thở
nóng hổi của sự sống. Tự truyện, hồi kí Tô Hoài đã đạt được một bước tiến mới về nghệ thuật trần
thuật trong tự truyện, hồi kí Việt Nam hiện đại.

3.3. Kĩ thuật giảm tốc, tăng tốc, đảo thuật, dự thuật


3.3.1. Kĩ thuật giảm tốc, tăng tốc

Kĩ thuật giảm tốc


Kĩ thuật giảm tốc: về nguyên tắc hồi kí, tự truyện thường viết theo trình tự sự kiện bắt đầu
đến kết thúc tạo ra nhịp kể nhanh. Nhưng Tô Hoài không thế, để người đọc chờ đợi tạo sự hấp dẫn,
tác giả không kể hết một mạch. Mà Tô Hoài "nhẩn nha" kể vừa miêu tả vừa khắc họa cảnh sinh
hoạt, vừa chêm xen vào bình luận đó là kỹ thuật giảm tốc. Có khi tác giả không để cho nhân vật
hành động liền mà để cho nhân vật suy ngẫm rồi mới bộc lộ bằng hành động. Có khi một sự việc
được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, cách dùng tần suất kể về việc đó có dụng ý nghệ thuật.
Tô Hoài "nhẩn nha" kể vừa miêu tả vừa khắc họa cảnh sinh hoạt, vừa chêm xen vào bình
luận đó là kỹ thuật giảm tốc. Do tính chất hồi cố, chỉ nhìn nhận, “ôn lại” sự việc từ độ lùi của một
khoảng thời gian thường là đã khá xa, cho nên tự truyện thường thiên về giọng trần thuật điềm tĩnh,
chậm rãi, ít đi vào các xung đột kịch tính, nhưng rất giàu tiềm năng gây rung động cảm xúc. Tô
Hoài lại thường đi vào cuộc sống với mạch ngầm bình thường của cuộc sống như sự vốn có của nó.
Những tác phẩm của ông cứ lặng lẽ dần trôi theo mạch trần thuật của nhà văn.
Trong Tự truyện là những mảng tự truyện về quãng đời thơ ấu, thời thanh niên của nhà văn
thì nhịp điệu trần thuật nhìn chung ổn định cứ dần trôi lặng lẽ theo một kết cấu thời gian nhất định.
Những cảm nhận về cuộc đời, về số phận con người cứ dần hiện ra theo sự trưởng thành của nhân
vật tôi. Nhịp điệu trần thuật tự nhiên, giọng điệu gần gũi, cùng với cách kể chuyện hấp dẫn, có
duyên đã lôi cuốn người đọc vào một quãng đời của tác giả. Từng bước đi thăng trầm của cuộc đời
nhà văn cứ lần lượt hiện lên trang sách. Từ chuyện của thằng Cu Bưởi kể về ngôi nhà, mảnh vườn
xưa quen thuộc và những người thân cứ lần lượt được giới thiệu. Rồi đến những ngày ở Kẻ Chợ đi
học…Và đến khi đi học, rồi đi làm, đi bán giày bata “số 89 phố hàng Đào” rồi về cửa hàng giày ở
“phố hàng Khay”, nào là được gọi về làm bàn giấy của hãng ở phố Giăngsole, Hàng Bông, Thợ
nhuộm…Cứ thế qua bước đi của thời gian, nhà văn trưởng thành trên trường đời là xã hội, mỗi suy
nghĩ, dự định đều chín chắn hơn. Nhìn chung nhịp điệu trần thuật không có gì đặc sắc so với trước
đây của ông: thường nhẩn nha, thong thả như cuộc sống hàng ngày. Có lúc vừa kết hợp kể và tả. Đó
là những đoạn rẽ ngang trong mạch trần thuật: đoạn miêu tả thiên nhiên, đoạn phong tục, đoạn hồi
tưởng quá khứ, hoặc có đoạn là những lời bình luận ngoài đề. Đang hồi tưởng về ông, tác giả lại đưa
người đọc trở về quá khứ của ông ngoại với những ngày tháng trai trẻ vất vả lam lũ của chàng thanh
niên từng phải ra Bắc vào Nam, từng làm phu, làm đường, đến cả việc đóng vai trò làm thầy lang
“bất đắc dĩ” để kiếm hai bữa ăn đường: "Trong những ngày xưa kỳ dị mênh mang của ông tôi còn
4T

những chuyện ghê gớm hơn chuyện võ và chuyện lính... Ông tôi kể ngày xưa ông tôi đã đi phu mộ
làm đường trong Phan Rang, Phan Thiết" [76,23]. Mạch truyện bị xen ngang và tạm thời dừng lại
T
4

song người đọc lại có điều kiện để dõi theo đường đời của từng nhân vật hoặc lại được thưởng thức
những bức tranh thiên nhiên kỳ thú.
Cái điểm sáng thu hút nhất trong tập truyện chính là sự ngân vọng của những cảm xúc tươi
mới, tinh tế, dào dạt trong tâm hồ, được diễn tả qua đôi mắt hồn hậu đầy ngạc nhiên và xúc động
của trẻ. Qua niềm vui trong trẻo của trẻ em khi được đi tàu điện “Chẳng bao lâu, xe điện đã tới. Từ
T
4

đằng xa, nghe những tiếng quẹt quẹt trên lằn dây điện. Bánh tầu nghiến ken két, lượn nghiêng vào
bến, rít u u váng lên. Đôi khi, tầu điện lại kéo thêm chiếc toa đằng sau. Cái tàu cái toa cùng sơn
màu vàng thẫm, nối đuôi nhau chạy như thể bò con đuổi bò mẹ đòi bú” [76,53]. Trong đôi mắt trẻ
thơ niềm chờ đợi đó thật háo hức với cách so sánh rất ngộ nghĩnh, gần gũi với những trẻ em ở thôn
quê. Giống như trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Với chị em Liên, con tàu là hoài
T
4

niệm, làm sống lại kí ức tuổi thơ nơi Hà Nội xa xăm, huyên náo. Đoàn tàu mang lại: “một cái gì tươi
sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Đoàn tàu có âm thanh, ánh sáng dù thoáng qua
nhưng xóa tan không khí bóng đêm của phố huyện, át đi buồn tẻ, cô đơn. Đoàn tàu chỉ là khoảnh
khắc, phố huyện vẫn là mênh mông , nhưng trong khoảnh khắc kéo phố huyện lật sang trang khác.
Tâm trạng chờ đợi đồng nghĩa với niềm vui, an ủi, hy vọng dẫu rất mơ hồ. Đoàn tàu đến, thức dậy
trong con người phố huyện khát khao sống mãnh liệt. Ta thấy rõ lòng nhân hậu trong cách nhìn về
trẻ thơ của hai nhà văn.Tác giả Tô Hoài còn xây dựng thành công nhân vật "tôi" khi miêu tả thế giới
tinh thần hồn nhiên, trong sáng, ngây thơ.
Có khi tác giả không để cho nhân vật hành động liền mà để cho nhân vật suy ngẫm rồi mới
bộc lộ bằng hành động. Diễn biến tâm lí cho thấy nhân vật tôi gần như rơi vào thế cùng quẫn đang
cố vùng vẫy tìm một lối thoát dù rất hẹp nhưng vẫn không được. Anh đau buồn nhận ra không thể
làm thế được: "Và tôi ơi là tôi, tôi cũng không nghĩ được ra nếu cứ dấn vào thì nên làm những như
thế nào. Thuý không bị suýt ngã nên Thuý không tưởng được cái hất cáu kỉnh đã khiến tôi đau điếng
cả trong lòng và cả bàn chân" [76]. Qua hành động trên của nhân vật nhà văn Tô Hoài muốn khẳng
định dù cho hoàn cảnh khắc nghiệt, khó khăn thì con người vẫn không đánh mất chính mình. Cách
nhìn nhân vật của tác giả vì thế rất nhân bản. Độc thoại nội tâm thường hướng nội, nhằm để nhân
vật tự ý thức, tự vấn lương tâm, tự phê phán, tự đánh giá. Chuẩn mực đạo đức tác giả quan niệm là
trung thực, trong sáng: "Tôi nghĩ loăng quăng xa gần cả đêm. Sáng hôm sau, tôi ra đường sớm.
Nhưng không phải tôi đến cái gác gần chợ Cột Đèn để tìm cách làm lại cái quặp chân. Tôi chỉ
mạnh bạo lúc nghĩ vẩn vơ. Chưa mấy khi đêm nghĩ hung hăng thế, sáng hôm sau lại đi làm thế
được. Trời sáng, tôi có cảm tưởng mặt tôi đã bệch ra vì nỗi lo, và lại tủi thân. Tôi không thể làm
thế.Thuý rất tốt. Nhưng chết thôi, chết thì thôi tôi không thể thảm hại đến vậy" [76,203].
Có khi một sự việc được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, cách dùng tần suất kể về việc đó có dụng
ý nghệ thuật. Cát bụi chân ai tản mạn xô dạt theo những đột hiện, những vùng không gian và thời
gian cách xa nhau được đồng hiện trong những hồi tưởng quanh ly cà phê bỏ lạnh ở ngã sáu Hàng
Kèn. Kết cấu chủ yếu xây dựng trên trục dọc của mối giao tình giữa Nguyễn Tuân với Tô Hoài.
Bóng dáng lung linh hư ảo của Nguyễn Tuân ẩn hiện suốt chiều dài của một thời kỳ nhiều biến
động; những hồi tưởng của Nguyễn Tuân hay những hồi tưởng về Nguyễn Tuân tạo nên những trục
ngang xô dòng tự sự về phía những cuộc đời, những con người khác nhau của những năm tháng đã
qua: Nguyên Hồng, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Trần Đức Thảo, Vũ Hoàng Chương, ông lão cà phê
ngã sáu Hàng Kèn, Aki Nguyễn An Nghệ, anh chiến sĩ Két, người đàn bà trong quán cà phê Ca,…
Dường như chẳng chút dụng công mà những sự kiện ngoài đời cứ chuyển hóa rất nhẹ nhàng thành
những chi tiết nghệ thuật. Từ những chuyện “hệ trọng”...cho đến những chuyện “vụn vặt”…đều
sống lại trong trí nhớ Tô Hoài, trong veo như chưa bao giờ khúc xạ qua quá trình “cày bừa” sáng tạo
nghệ thuật. Nhưng rồi tất cả lần lượt trôi dạt về phía tình bạn vong niên Nguyễn Tuân – Tô Hoài.
Kĩ thuật giảm tốc làm cho mạch trần thuật có lúc tưởng như lan man, sa đà song không hề bị
mất đi cái logic chung của tác phẩm. Mạch trần thuật hết sức chi tiết, tỉ mỉ, hiện thực được miêu tả
nhiều khi “trần trụi” từ những chuyện “vụn vặt, tủn mủn”, bằng cái nhìn tinh quái của người trong
cuộc tạo nên sức hấp dẫn, tính chân thực của thể loại tự truyện, hồi kí.
Kĩ thuật giảm tốc phù hợp và giúp đỡ Tô Hoài thể hiện bức tranh cuộc sống hiện thực bình
dị, tự nhiên vốn có. Tô Hoài quan tâm đến cuộc sống đời thường, những vui buồn, lo toan của người
dân lao động nên tác phẩm của ông giản dị, tự nhiên, gần gũi đối với mỗi người đọc.
Thời gian đời tư của nhân vật có thể được tác giả sắp xếp theo một trình tự tuyến tính. Trọng
tâm của tự truyện là sự đánh giá, suy nghiệm lại về số phận mình; câu chuyện là hành trình tìm kiếm
bản thân mình trong quá khứ để thấy bản thân mình trong hiện tại. Bởi vậy thời gian sẽ trôi chảy
như một dòng sông. Ở Tự truyện diễn biến thời gian xoay quanh nhân vật tôi được hiện diện thật
sống động. Ở đó có những ngày thơ ấu (Cỏ dại), những ngày cắp sách đến trường (Mùa hạ đến,
mùa xuân đi), những ngày hoạt động trong nhóm ái hữu (Những ngày thơ dệt),những ngày lang
thang tìm việc làm (Đi làm), những ngày thất nghiệp (Hải Phòng)… Dòng hồi tưởng đôi lúc đột
ngột bị ngăn lại bằng những khoảnh khắc thức nhận hiện đại. Trong tự truyện, Tô Hoài thường phá
vỡ trình tự thời gian, không tái hiện sự kiện theo trật tự biên niên mà xáo trộn chúng bằng “dòng ý
thức” miên man. Theo dòng hoài niệm, thời gian tâm tưởng cứ tuôn chảy, đôi khi đứt đoạn nhưng
lại được móc nối ngay vào khoảnh khắc của hiện tại. Thời gian nghệ thuật trong tự truyện Tô Hoài
vì thế mà diễn ra sinh động, hấp dẫn.
Từ yếu tố thời gian nghệ thuật trong tác phẩm ta thấy trong tác phẩm Tự truyện của Tô Hoài
có sự xâu chuỗi các chi tiết, sự kiện. Thông thường với cách hồi tưởng thì các sự kiện, sự việc được
xâu chuỗi theo mạch cảm xúc. Trong tác phẩm Cỏ dại tác giả kể về cuộc đời của mình từ âu thơ cho
đến lúc trưởng thành. Cho nên các chi tiết, sự kiện phần lớn được sắp xếp theo trình tự thời gian.
Kiểu “tự sự phi cốt truyện” này là hệ quả tất yếu của điểm nhìn hồi cố. Chính từ điểm nhìn này ,
trung tâm điểm của kết cấu truyện đã chuyển đổi từ chiều rộng cuộc sống với hệ thống những sự
kiện và biến cố phong phú sang chiều sâu tâm lý với một loạt những cảm xúc, tâm trạng, cảm
giác...đã đẩy cốt truyện xuống hàng thứ yếu để thiên về khắc họa những ấn tượng, tình cảm còn lại
qua thời gian của người trần thuật. Khi nhân vật rời khỏi bình diện hành động để chuyển sang bình
diện hồi tưởng, khi cốt truyện di chuyển từ chuỗi biến cố cấu trúc nên lai lịch một đời người sang
lịch sử hình thành nhân cách cá nhân nhìn từ thời hiện tại, thì những xung đột kịch tính, những mâu
thuẫn gay gắt, những tình huống sắc nhọn sẽ mời đi qua lớp màn ngăn cách của thời gian để chỉ còn
lại những ấn tượng, cảm xúc, tâm trạng của chủ thể trước những hành động, biến cố, tình huống ấy.
Chính ý thức đó đã biến thời gian đã qua thành một thời gian “của riêng mình”, một thời gian đã
chuyển từ bên ngoài vào bên trong của con người, một thời gian sống lại từ những kí ức đời thường
của cái “tôi” đã tự nhận ra mình là một thực thể có giới hạn sống riêng. Dù trong dòng tự sự có mặt
hay không có mặt “thời hiện tại” thì ý thức của nhà văn về “thời hiện tại” ấy vẫn không hề vắng
mặt, cái “ngày nay” đối diện và đối thoại với cái “ngày xưa” như là một thời quá khứ đã tách ra khỏi
mình chứ không phải chỉ đơn thuần là một khoảng thời gian đã qua.
Trong Tự truyện, mặc dù không có chủ ý xây dựng những nhân vật điển hình kiểu hư cấu
trong tiểu thuyết, song trên trang sách người ta vẫn thấy bóng dáng của những nhân vật cụ thể,
những người thật việc thật với thái độ, tâm lý, số phận của nhân vật. Ở đây người ta bắt gặp những
cuộc đời thật với tất cả những đường nét xù xì, góc cạnh và cả những tình cảm trong sáng xuất phát
từ một lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp của nhà văn
Kĩ thuật tăng tốc
Kĩ thuật tăng tốc là đẩy nhanh mạch kể truyện bằng cách, thứ nhất kể lướt, không kể tỉ mỉ,
phần nào không quan trọng thì lướt qua bằng cách tóm lược vài ba câu. Thứ hai kể lõi sự việc bớt tả
cảnh. Thứ ba: kể nhảy cóc từ một thời gian cụ thể có thể là 10 năm sau tạo khoảng cách đó chính là
tăng tốc.
Nhà văn chỉ ước đoán bằng những khoảng ước định như: “năm ấy”, “những năm
ấy”,“khoảng những năm”,“mấy năm”,“hồi ấy”… nhưng chúng ta vẫn có thể biết được các sự kiện
theo dòng lịch sử của dân tộc Rồi những năm tháng chiến tranh, nhiều gia đình ở Hà Nội phải đi tản
cư đến những vùng bình yên. “Kháng chiến, Nguyên Hồng và Kim Lân đưa gia đình tản cư lên ấp
Cầu Đen trên Nhã Nam” [63,52]. Sự kiện lịch sử này mãi mãi in đậm trong trí nhớ mỗi người dân
Việt Nam đặc biệt là các nhà văn. Trong hồi kí Tô Hoài một điều chúng ta dễ nhận thấy là những
mốc sự kiện lịch sử chỉ được Tô Hoài phác họa thoáng qua nhưng cũng đủ để chúng ta nhận diện
được một cách tổng quát về tình hình xã hội lúc bấy giờ. Thời gian trong hồi kí của Tô Hoài được tổ
chức theo dòng hoài niệm nên các sự kiện được nói tới thường.
Có lúc được trình bày mạch lạc men theo những dòng hồi tưởng về một số thời điểm nhất
định trong đời văn của ông và bạn làng văn. Nhưng cũng có lúc nó cũng không tuân theo sự mạch
lạc ấy, khi đứt khi nối, có lúc nhớ, lúc quên trong trí nhớ của nhà văn, không muốn có mạch lạc rõ
ràng: đang chuyện Nguyễn Tuân ham đi (lên Tây Bắc, đến Quảng Ninh, ra nước ngoài…) lại nhảy
sang chuyện cái máy chữ Baby cổ lỗ, mốc thếch; đang chuyện Đặng Đình Hưng đi bán rượu lậu và
uống rượu rắn lại nhảy sang chuyện Nguyễn Tuân ngược đường Pnôm Pênh - Poipet định vượt biên
giới sang Thái Lan; đang chuyện Nguyễn Tuân rồi chuyện Nguyên Hồng ngồi trong nhà vách viết
văn ở Nhã Nam; chuyện Nguyễn Bính làm báo Trăm hoa; đến chuyện Xuân Diệu đứng trên lầu
khách sạn Apôlô nhìn sông Mê Công cuồn cuộn phù sa. Tô Hoài là người có trí nhớ rất tuyệt vời. Vì
lẽ đó, những câu chuyện qua hoài niệm của ông cứ tuôn ra dào dạt không dứt. Quá khứ được nhà
văn hiện tại hóa. Điều này được bộc lộ rõ qua việc sử dụng phép đồng hiện giữa quá khứ và hiện tại,
giữa quá khứ gần và quá khứ xa: Thời gian nghệ thuật trong hồi kí Tô Hoài thường gắn với dòng ý
thức, dòng tâm tưởng. Kí ức được Tô Hoài sắp xếp không theo trật tự biên niên mà lan man, rối
rắm, nhớ đến đâu, kể đến đó. Đang kể về Nguyễn Tuân lại nhớ đến Nguyên Hồng, Nguyễn Bính thế
là câu chuyện cứ xen kẽ, tạo nên mạch chuyện không đầu, không cuối.
Lối viết trần thuật theo dòng hồi tưởng ta thấy, đan xen với nhau, lẫn với bao nhiêu chuyện
đời, chuyện phong tục bộn bề phức tạp và những lời trữ tình ngoại đề. Có khi đang kể chuyện này
lai nhảy sang chuyện kia. Dòng hồi tưởng không mạch lạc mà khi đứt khi nối, có lúc chầm chậm
dần dần, có lúc lại vội vã, xô bồ, vùn vụt… Dòng hồi tưởng có lúc lại chi tiết đến kinh ngạc: "Anh
đưa nhuận bút cho tôi. Những tờ giấy bạc quấn băng, chữ viết cẩn thận, nắn nót ghi số tiền và tên
tôi được viết có chữ “Ông” trên đầu. Truyện ngắn Nước lên được năm đồng. Năm đồng ấy là cây
gậy thần của ông bụt Vũ Ngọc Phan cho tôi. Tôi hô thần chú, lập tức thấy nó hiện lên bộ "phô
tuýtxo" thứ vải rẻ tiền may quần áo tây, nhưng bền. Lại đôi giày vải trắng. Mới chỉ hết có hơn ba
đồng, mà tôi đã trút được cái áo dài chéo go thâm và đôi guốc mộc. Lại còn tiền mua cân kẹo sìu về
chia cho cả nhà. Lại còn mua cho em gái tôi cái vòng huyền. Mà cũng vẫn còn tiền. Trời ơi!" [76].
Nhà văn nhớ rõ cả câu nói trong lúc bốc đồng: "Bốc lên, Nguyễn Sáng hét: “Chỉ có một thằng Sáng
thôi. Còn thì cứt hết!”. Nguyễn Tuân giơ tay ra cửa: “Đi ngay!”. Nguyễn Sáng vẫn hăng: “Nguyễn
Tuân à, đừng tưởng bở! Ông không biết viết tiểu thuyết. Truyện không có nhân vật, vứt đi!” – “Anh
ra khỏi đây ngay” [63,175]. Cả nụ cười và sắc thái của nó, thậm chí cả dáng vẻ của nét mặt lúc bấy
giờ, màu sắc quần áo mà nhân vật lúc đó mặc, mặc dù đã trải qua hơn nửa thế kỉ.
Sự chuyển dịch kết cấu và cốt truyện sang bình diện dòng ý thức, dòng hoài niệm có thể
được thực hiện bằng nhiều thủ pháp. Thường gặp nhất là thủ pháp xé vụn chuỗi biến cố xây dựng
nên cốt truyện thành những đơn vị nhỏ và kết hợp lại trong một cấu trúc phi lý tính – cấu trúc trực
giác của ý thức hồi tưởng.
3.3.2 Kĩ thuật đảo thuật.

Tự truyện, hồi kí luôn tôn trọng sự thật nhưng đôi khi phải giải quyết mâu thuẫn, hài hòa giữa
diễn biến sự kiện trong dòng hồi ức nên phải kết hợp dòng hồi ức và diễn biến câu chuyện. Nên cần
tới kĩ thuật đảo thuật gồm kĩ thuật dự thuật và hồi cố.
Kĩ thuật dự thuật
Vậy khi ở trong quá khứ lại quay về hiện tại để làm sáng rõ hơn sự việc. Lúc đó tác giả dùng
nghệ thuật trần thuật là dự thuật.
Cách sắp xếp các sự kiện trong cuộc đời nhân vật được hiện diện theo một trình tự rất linh
hoạt và đa dạng. Sự kiện đời tư của nhân vật có thể được tác giả sắp xếp theo một trình tự là theo
dòng hồi ức, nhớ gì kể đó nhưng cũng có khi được tác giả tổ chức theo kiểu thời gian gấp khúc, có
sự giãn cách: “Tôi học cửu chương. Đã lâu, chẳng học hành gì, không cầm đến cái quản bút, bây
T
4

giờ bỗng học môn cửu chương khó quá. Đến bây giờ mỗi khi thấy bản cửu chương ở cuối quyển vở
của trẻ, đặc xịt, ngang dọc, lổm ngổm những con số rắc rối tôi còn ngại" [76,88]. Dòng hồi tưởng
T
4

đôi lúc đột ngột bị ngăn lại bằng những khoảnh khắc thức nhận hiện tại. Nhưng có lúc bộc lộ trực
T
4

tiếp cảm xúc của cái tôi trữ tình, cách gọi mẹ bằng: "U ơi u, chị ơi! chị, cháu hiểu, không bao giờ
chị biết đến những hàng chữ tắt mắt cháu đương viết đây. Cái thế giới tân kỳ mà cháu sống, chẳng
bao giờ chị tìm biết" [76,29]. Nhân vật đang hồi tưởng về quá khứ mà trong đó lồng vào những kỉ
4T

niệm đã xa trong sâu thẳm tâm hồn.


Như khi ở trong quá khứ lại quay về hiện tại để làm sáng rõ hơn sự việc. Lúc này tác giả
dùng nghệ thuật trần thuật là đảo thuật: "Năm ấy, tôi lên sáu....Sang năm sau, tôi phải đi học...Vào
4T

quãng tháng ba tháng tư mùa mưa rào, mùa đom đóm và mùa ma trơi...Cái đêm hôm trước tôi đi
học buổi đầu tiên cũng có trận mưa thật to....Bởi thế, mỗi lần nhớ lại thuở ấy, kí ức tôi bao giờ cũng
phảng phất cả trận mưa rào" [76,42]. Thời gian là thứ không chờ đợi, cách hồi tưởng về những kỉ
niệm xưa cũ ấy như một nếp gấp trong trí nhớ của người hồi tưởng . T
4

Nhân vật đang hồi tưởng về quá khứ mà trong đó lồng vào những kỉ niệm đã xa trong sâu
thẳm tâm hồn. Những kỉ niệm đáng nhớ đến mức: "mà thời gian dù mài tròn đi thế nào, vẫn còn
nhớ", "Sau này, mỗi khi nhớ đến vợ chồng bạn, bao giờ tôi cũng bồi hồi và nghẹn ngào không biết
chữ nào nói hết được cuộc sống chúng mình ngày ấy". Nhà văn không gợi lại quá khứ chỉ vì quá
khứ, mà vì hiện tại mình đang sống, và quá khứ trong quan hệ với hiện tại để nhận thức rõ hơn về
lòng tốt của người bạn năm xưa đồng thời khẳng định sự biết ơn sâu sắc, điều đó đã tác động, khắc
sâu trong tâm hồn nhân vật tôi mà thời gian không thể xóa nhòa.
Tô Hoài đã sử dụng nghệ thuật trần thuật là dự thuật miêu tả thời gian giãn cách để kể lại các
sự kiện liên quan đến nhà văn Nguyễn Tuân. Sự đảo ngược trình tự thời gian kể và trình tự các sự
kiện trong chuỗi sự kiện gắn với cuộc đời của Nguyễn Tuân tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
Nhà văn không xây dựng các sự kiện theo trật tự tuyến tính mà luôn có sự đan xen giữa quá khứ và
hiện tại, không gian gần và xa móc nối vào nhau. Cát bụi chân ai mở đầu bằng câu: “Tôi kém
Nguyễn Tuân mười tuổi, trước kia tôi không quen Nguyễn Tuân” [63,5]. Cuối tác phẩm là sự thảng
thốt khi nghe “đài báo tin nhà văn Nguyễn Tuân mất rồi. Tôi nghĩ như tôi vẫn ngồi uống một mình,
Nguyễn Tuân đã nằm yên từ buổi sáng trước hôm ra đây. Nguyễn Tuân! Nguyễn Tuân ôi!”
[63,330]. Xây dựng các sự kiện xoay quanh mối giao tình giữa Nguyễn Tuân với Tô Hoài Xen giữa
mối quan hệ tình bạn của họ là bao câu chuyện đời, chuyện người, chuyện chính trị xã hội, chuyện
văn chương.
Với từng mốc thời gian gắn với mỗi chặng đường đã qua của cuộc đời con người, càng để
người đọc có thể hình dung đầy đủ hơn về nhân vật. Rõ ràng là, mỗi sự kiện trong cuộc đời nhà văn
đều là một sự kiện có ý nghĩa. Trong hồi kí, Tô Hoài vừa miên man theo thời gian giãn cách, khiến
các sự kiện không hiện diện theo trình tự, vừa có sự đan cài chồng chéo để các sự kiện về xã hội lịch
sử, về đời tư của mỗi nhà văn hiện lên khá đầy đủ. Từ đó người đọc có sự hình dung rõ nét về cuộc
sống con người của mỗi nhân vật trong những thời điểm lịch sử khác nhau và trong tính cách của
họ.
Kĩ thuật hồi cố
Khi tác giả đang ở độ tuổi hai mươi hoặc thời kì tham gia cách mạng, nhân có một sự kiện lại
nhớ về tuổi thơ của mình, nhớ về quá khứ xa hơn thì đó là kĩ thuật hồi cố. Hồi tưởng là phương thức
trần thuật chủ yếu trong tự truyện, hồi kí. Trong nhiều tác phẩm, hồi tưởng luôn trở đi trở lại trong
tác phẩm với mật độ đậm đặc, nhiều lớp, nhiều tầng: hồi tưởng của chủ thể, hồi tưởng của nhân
vật….đan cài chồng chéo lên nhau, tạo nên những thế giới hình tượng phong phú: "Còn bao nhiêu
T
4

chuyện lính lặt vặt vừa buồn cười vừa thảm thương không nhớ hết. Trong những ngày xưa kỳ dị
mênh mang của ông tôi còn những chuyện ghê gớm hơn chuyện võ và chuyện lính...Ông tôi kể ngày
xưa ông tôi đã đi phu mộ làm đường trong Phan Rang, Phan Thiết. Ngày xưa, cái ngày mà làng này
nghèo xác xơ " [76,23]. Còn khi tác giả đang ở độ tuổi thời kì tham gia cách mạng, nhân có một sự
4T

kiện lại nhớ về thời thất nghiệp trong quá khứ của mình, nhớ về quá khứ xa hơn thì đó là kĩ thuật
hồi cố.
Khi nhớ đến Nguyên Công Hoan, Tô Hoài hồi tưởng: "Bấy giờ 1à mùa hè 1938, anh nhỉ?
Hơn hai mươi năm trước, ở Nam Định. Những truyện ngắn anh viết lúc ấy đăng trên các báo Hà
Nội quả thực là những con dao bầu mổ phanh cái bụng giới quan trường và bọn nhà giàu. Cái giàu
sang kệch cỡm và bất nhân của chúng, dưới ngòi bút vạch toạc sự thật giễu cợt đắng cay của anh,
thành những bỉ ổi thối tha mỉa mai trước mắt bạn đọc" [76,713]. Cách nhớ về quá khứ xa hơn thì đó
là kĩ thuật hồi cố. Trong hồi kí,tự truyện Tô Hoài đôi khi có hai lớp thời gian hồi tưởng chồng lên
nhau. Đó là thời gian hồi tưởng của nhà văn: “Những năm trước 60, cái dốc ngã sáu Hàng Kèn ban
đêm thanh vắng lắm” [63,8]. Và thời gian hồi tưởng của nhân vật: “Chính Nguyễn Tuân mới đương
hồi tưởng… Thế nào mà ở đây Nguyễn Tuân lại nhớ đến Két chiến dịch sông Thao mùa hạ 1949”
[63,14]. Thời gian hồi tưởng như ngẫu hứng, tuôn chảy theo dòng hoài niệm, đánh dấu sự chuyển
đổi vị trí của cái “tôi” trong hồi kí hiện đại.

3.4. Kết hợp ưu thế của các loại diễn ngôn, phát huy sức mạnh ngôn từ, giọng điệu
trong trần thuật
3.4.1. Kết hợp ưu thế của các loại diễn ngôn

Lý thuyết tự sự học quan niệm diễn ngôn trần thuật là văn bản được tạo ra bởi hành động kể
dưới dạng truyền miệng hoặc viết. “Mỗi văn bản trần thuật là sự móc nối và luân phiên giữa diễn
ngôn của người kể chuyện và diễn ngôn của nhân vật” (Dolezel). Diễn ngôn là người kể đưa ra câu
chuyện đến người nghe như thế nào? đặt trong quá trình đó gọi là diễn ngôn, hướng đến người đọc.
Theo đó, một văn bản trần thuật thường bao gồm hai thành phần diễn ngôn: diễn ngôn của người kể
chuyện và diễn ngôn của nhân vật.
Diễn ngôn của người kể chuyện
Trong truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại, những phát ngôn của người kể chuyện chủ yếu tồn
tại dưới ba dạng: lời kể, lời tả và đôi khi, bình luận.
Lời kể là kiểu lời trần thuật chiếm số lượng lớn và có vai trò quan trọng giúp người trần thuật
tổ chức một cấu trúc tự sự. Nội dung truyện về cơ bản được hoàn chỉnh theo mạch trần thuật của
những người tham gia kể chuyện. Thông thường, lời kể của người trần thuật tồn tại dưới hai hình
thức: lời khách quan của người kể chuyện giấu mặt và lời chủ quan của người kể chuyện ngôi thứ
nhất. Cả hai loại lời này đều có thể được “phong cách hóa” tức là làm cho nó mang đậm dấu ấn chủ
thể của người nắm giữ diễn ngôn.
Cùng với lời kể, lời tả cũng khá phổ biến trong diễn ngôn của người kể chuyện. Tả là vẽ lại
hình hài của vật chất qua con mắt của người kể. Nó hỗ trợ đắc lực cho việc kể và làm cho câu
chuyện được kể, con người được kể sống động, hấp dẫn hơn.
Người kể chuyện trong tiểu thuyết, truyện ngắn hiện đại với tư cách người mang quan điểm,
tư tưởng, thái độ của nhà văn hướng tới người đọc, khi cần, có thể dùng những lời bình luận để trực
tiếp bày tỏ thái độ về một vấn đề hay một sự kiện nào đó trong cuộc sống.
Diễn ngôn của nhân vật
Phần lớn các diễn ngôn của nhân vật trong tự truyện, hồi kí của Tô Hoài thuộc dạng đối thoại
và độc thoại.
Diễn ngôn đối thoại trong truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại bao gồm đối thoại giữa từng cặp
nhân vật và đối thoại giữa rất nhiều nhân vật với nhau. Trong đó, diễn ngôn đối thoại đa nhân vật
chiếm một tỉ lệ thấp, thường xuất hiện trong các cuộc trò chuyện đám đông trong gia đình, hay
không gian đàm thoại công cộng.
Diễn ngôn độc thoại là “lời phát ngôn của nhân vật nói với chính mình, thể hiện trực tiếp
quá trình tâm lý nội tâm, mô phỏng hoạt động cảm xúc, suy nghĩ của con người trong dòng chảy
trực tiếp của nó”. Độc thoại nội tâm giúp nhân vật tự bộc bạch hết tất cả những gì người trần thuật
khó nói hoặc không thể nói hết. Đó là những suy tư, trăn trở, khát vọng, niềm vui, nỗi buồn và
những lo toan thầm kín về bản thân hay về người khác….
Vận dụng thành tựu tự sự học và hội thoại học, chúng tôi cố gắng đưa ra một số nhận định về
đặc điểm diễn ngôn trần thuật của tự truyện, hồi kí của Tô Hoài trong xu hướng cách tân ngôn ngữ
của tự truyện, hồi kí của Tô Hoài.
Diễn ngôn trần thuật trong tự truyện, hồi kí của Tô Hoài đã tạo được một tương quan mới
có tính nghệ thuật giữa diễn ngôn người kể chuyện và diễn ngôn nhân vật.
Diễn ngôn của người kể chuyện trong tự truyện, hồi kí của Tô Hoài thường được phong
cách hóa. Đó không phải là kiểu diễn ngôn mực thước trung tính của người kể chuyện trong truyện
cổ tích hay truyện trung đại mà luôn mang phong cách ngôn ngữ của ai đó. Rõ nhất là khi các nhà
văn sử dụng diễn ngôn phong cách hóa của người kể chuyện xưng “tôi”. Diễn ngôn của người kể
truyện đầu tiên là diễn ngôn kể như: "Năm 1942, tôi quen Nguyễn Huy Tưởng trong một hội nghị
ban dạy học hội Truyền bá Quốc ngữ. Tôi làm giáo viên dạy buổi tối các lớp Truyền bá Quốc ngữ
vùng Bưởi. Nguyễn Huy Tưởng có chân trong ban trị sự của Trung ương Hội" [76,684]. Cách trần
thuật theo dòng hồi tưởng lại những kỉ niệm, những sự kiện trong quá khứ. Tiếp theo là diễn ngôn tả
như khi Tô Hoài hồi tưởng về Nguyễn Huy Tưởng thì dùng lại tả chân dung của bạn văn. Nó hỗ trợ
đắc lực cho việc kể và làm cho câu chuyện được kể, con người được kể sống động, hấp dẫn hơn:
"Đôi mắt một mí của anh nhìn người ta một cách trìu mến từ lúc thoạt gặp. Đôi mắt ấy cũng bộc lộ
nét riêng đức tính vốn quý người của anh. Và sự say mê cái đẹp cao cả thiêng liêng mà về sau, tôi
càng hiểu rõ hơn. Đến với anh, người ta thương dễ có cảm tình ngay. Cũng như tình tình anh, con
mắt đầu tiên nhìn người không lạnh nhạt, ơ hờ, mà độ lượng và sấn sàng thân thiết. Anh thường
thấy ở người ta những cái đáng mến trước mắt" [76,685]. Có khi dùng diễn ngôn trữ tình ngoại đề,
phát biểu về con người ấy hoặc bình luận. Tô Hoài đã dùng loại diễn ngôn này để đưa ra nhận xét
rất tinh tế thể hiện sự thấu hiểu và cả vốn kiến thức sâu rộng về tác phẩm văn học của đồng nghiệp
như khi Tô Hoài hồi tưởng về Nguyễn Huy Tưởng thì dùng lại bàn về tác giả và tác phẩm: "Yêu cái
đẹp, đôi khi anh lại thiên về sùng bái" nên Tô Hoài khi cần, có thể dùng những lời bình luận để trực
tiếp bày tỏ thái độ về một vấn đề văn học đáng quan tâm, thể hiện vốn kiến thức về văn học sâu và
rộng, sự tinh tế trong tâm hồn người đọc: "Ở kịch lịch sử Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng đã miêu tả
một nghệ sĩ lớn thời Lê. Công trình vĩ đại của Vũ Như Tô chỉ còn được một dòng chữ trong sử sách,
những muôn đời người Kẻ Chợ ngước trông lên vẫn thấy trên trời nước hồ Tây ẩn hiện bóng cao
trăm trượng toà lâu đài cực kỳ tráng lệ. Công trình của Vũ Như Tô – kết tinh tinh hoa đất nước, mơ
ước xây Cửu Trùng đài, cũng là khát vọng của người cầm bút làm sống lại nhà kiến trúc thiên tài
trong đau khổ sáng tạo" [76,699]. Cách dùng diễn ngôn của người kể chuyện trong tự truyện, hồi kí
của Tô Hoài thường được phong cách hóa và rất linh hoạt có tác dụng làm cho đối tượng được miêu
tả có thể được cảm nhận ở nhiều mặt, đa chiều và giọng kể không nhàm chán. Đồng thời qua diễn
ngôn của người kể chuyện ta thấy bóng dáng nhân vật kể cùng song hành với nhân vật khác.
Hình thức diễn ngôn người kể chuyện được “phong cách hóa” như vậy thường tạo cho tự
truyện, hồi kí của Tô Hoài một sắc thái trữ tình kèm với chất suy tư, chiêm nghiệm đầy dụng ý.
Chẳng hạn như khi cảm kích trước tấm lòng: "Anh Vũ Ngọc Phan in cho tôi liên tiếp nhiều truyện
ngắn, truyện cổ tích, phóng sự lên báo Hà Nội tân văn. Anh đưa nhuận bút cho tôi. Những tờ giấy
bạc quấn băng, chữ viết cẩn thận, nắn nót ghi số tiền và tên tôi được viết có chữ “Ông” trên đầu.
Truyện ngắn Nước lên được năm đồng. Năm đồng ấy là cây gậy thần của ông bụt Vũ Ngọc Phan
cho tôi. Tôi hô thần chú, lập tức thấy nó hiện lên bộ "phô tuýtxo" thứ vải rẻ tiền may quần áo tây,
nhưng bền. Lại đôi giày vải trắng. Mới chỉ hết có hơn ba đồng, mà tôi đã trút được cái áo dài chéo
go thâm và đôi guốc mộc. Lại còn tiền mua cân kẹo sìu về chia cho cả nhà. Lại còn mua cho em gái
tôi cái vòng huyền. Mà cũng vẫn còn tiền. Trời ơi!" [76]. Tấm lòng tri ân người anh, người thầy của
mình không bao giờ quên. Đoạn văn cho thấy lời văn đã ngừng mà cảm xúc vẫn xốn xang trên ngòi
bút. Cảm xúc chân thành có sức cảm hóa kì lạ!
Diễn ngôn của nhân vật – bao gồm cả đối thoại và độc thoại – chiếm một địa vị xứng đáng
trong diễn ngôn trần thuật của tự truyện, hồi kí của Tô Hoài.
Trong tự truyện, hồi kí của Tô Hoài, hình thức diễn ngôn song thoại chiếm dung lượng lớn
hơn nhiều các diễn ngôn đa thoại. Với đặc điểm mang dấu ấn riêng của từng nhân vật tham gia đối
thoại, các diễn ngôn song thoại đem lại nhiều hiệu quả nghệ thuật khác nhau. Qua diễn ngôn song
thoại, các nhân vật tự bộc lộ tâm tư, tình cảm, khát vọng, tính cách, phẩm chất, đạo đức của bản
thân.
Qua diễn ngôn song thoại đối đáp giữa hai nhân vật Khiết và Chúc trong tác phẩm Mười
năm ta thấy nhà văn như muốn miêu tả những kẻ a dua, xu thời và một khi nào đó tình thế thay đổi
sẽ trở mặt ngay, tìm mọi cách dụ dỗ một người phụ nữ trẻ góa chồng, rồi sau lưng họ lại nói xấu: "
Ả này lẳng ra mặt!". Rõ ràng đây là một kẻ không đàng hoàng:
"Chị Hai đã về khỏi. Khiết vươn vai đứng dậy, bảo Chúc:
- Ả này lẳng ra mặt!
- Cậu lại nhăng nhăng rồi. Chỗ này bàn chính trị, không phải nơi tán Gái nhé.
Khiết cười
- Nhận xét thế thôi chứ người ta đã là gái góa một con.
Chúc trợn mắt, nói:
- Ái tình mới không cần trinh tiết. Người đàn bà phải ở góa là một sự dã man thời trung cổ.
Khiết hỏi:
- Đằng ấy có muốn lấy ả không, tớ làm mối?
- Còn vờ! Khéo tim la đổ cho trâu.
Khiết cười, nói lửng, vẻ kênh kiệu của một anh chàng được thể, trêu tức:
- Thanh niên chim gái như hái hoa, là lẽ thường ở đời" [73,70].
Khi quyến rũ được cô ả kia rồi, nắm chắc là cá đã cắn câu mới buông lời giễu cợt người
khác:
" Đằng ấy có muốn lấy ả không, tớ làm mối?". Rõ ràng muốn ăn gắp bỏ cho người, cái điều
Tô Hoài đã dùng một lời cuả nhân vật khác nói với hắn: "Còn vờ! Khéo tim la đổ cho trâu". Bản
chất của tên Khiết đã bị lộ rõ khi hắn buông một lời trơ trẽn: "Thanh niên chim gái như hái hoa, là
lẽ thường ở đời."
Khi cần, nhà văn cũng thỉnh thoảng để cho nhân vật độc thoại. Song đáng chú ý hơn là các
trường hợp để cho nhân vật “tôi” thực hiện diễn ngôn kể chuyện theo dòng độc thoại nội tâm. Độc
thoại nội tâm là tiếng nói bên trong tâm hồn nhân vật, là ý nghĩa thầm kín, là lời tự nhủ thầm hoặc
nhân vật nói to lên với mình. Độc thoại nội tâm bộc lộ đời sống tinh thần của nhân vật, làm hiện rõ:
“con người bên trong” của nó. Độc thoại nội tâm đánh dấu bước quan trọng trên con đường phát
triển văn học, làm cho văn học thể hiện ngày càng sâu sắc, toàn diện về con người. Độc thoại nội
tâm chính là một trong những thủ pháp hữu hiệu nhất giúp nhà văn phơi bày nội tâm nhân vật, miêu
tả nó từ bên trong. Nhà văn không chỉ miêu tả ngoại hình mà còn “đọc” được những ý nghĩ sâu kín
nhất trong lòng nhân vật. Nghệ thuật này mang tính mới mẻ độc đáo khiến nó không bị cũ, không bị
coi là lạc hậu. Độc thoại nội tâm thường hướng nội, nhằm để nhân vật tự ý thức, tự vấn lương tâm,
tự phê phán, tự đánh giá, Đó là những suy tư, trăn trở, khát vọng, niềm vui, nỗi buồn và những lo
toan thầm kín về bản thân hay về người khác. Độc thoại nội tâm giúp nhân vật tự bộc bạch hết tất cả
những gì người trần thuật khó nói hoặc không thể nói hết: "Nhà văn Vũ Ngọc Phan có lòng tốt, đã
trả nhuận bút, mỗi khi tuần báo Hà Nội tân văn của anh ấy đăng cho tôi một cái truyện ngắn. Có lẽ
cả Hà Nội chỉ có Vũ Ngọc Phan làm cái việc phúc đức ấy. Báo khác, kể cả những tờ tuần báo Ngày
nay, báo Chủ Nhật của văn đoàn Tự Lực nổi tiếng đã in truyện ngắn Mê gái (Con gà mái ri) của tôi
lên trang nhất, nhà văn Khái Hưng ra tiếp tôi, bắt tay thật chặt mà cũng không trả tôi xu nào và
không cho tác giả được một tờ báo biếu! Bởi vì, không có thể lệ thế. Lý do: tự dưng ông gửi bài cho
tôi chứ không phải tôi mời ông viết. Tôi chỉ trả tiền người tôi mời viết. Thế là ông cần tôi, thì không
lẽ gì tôi lại phải trả tiền ông. Dẫu cho cả năm ông gửi bài đến và tôi in, cũng vẫn là ông phải cảm
ơn tôi. Luật rừng của nghề báo thời ấy" [76].
Một biện pháp quan trọng tác giả hay dùng để miêu tả nhân vật là chú giải tâm lí. Đối với
nhà văn, điều quan trọng không phải chỉ là điều nhân vật đó nói hay nghe mà còn là cách nhân vật
đó thể hiện. Vì thế các chú giải tâm lí của tác giả giúp người đọc thấu hiểu tâm can nhân vật. Tác
giả đã dùng thủ pháp bộc lộ trực tiếp để nhân vật tôi tự bộc lộ cảm xúc, tâm trạng, rất nhiều lần
trong tác phẩm, nhân vật tôi khóc khi sắp phải đi xa nhà. Ta xúc động vì theo tâm lí thì không có
4T

đứa trẻ nào lại không buồn vì xa nhà: “Bây giờ tôi phải xuống ở nhà chú Tưởng. Nói sao hết được
nhớ thương buổi ra đi. Đứng trong sân thì Kẻ Chợ ở phía gốc cây dừa. Những đêm tối trời, tôi
trông thấy ánh sáng thành phố đỏ sạm đằng góc trời đó. Nào có đâu xa, mà bước chân ra khỏi ngõ,
nước mắt đổ hai hàng". Nhưng lại rất trẻ con, hồn nhiên khi tự an ủi: "Tôi gắng lắm mới khỏi khóc
to. Bởi còn níu được chút hi vọng, những phiên u tôi đi chợ thể nào cũng ghé vào và thế nào cũng
có quà” [76,68]. Chính cách miêu tả như thế làm cho nhân vật gần gũi, chân thật và hợp với tâm lí
trẻ em.
Đồng thời, độc thoại nội tâm cũng bộc lộ cái nhìn thế giới, cách đánh giá con người của nhân
vật. Độc thoại nội tâm phơi bày sự dằn vặt, mâu thuẫn bên trong nhân vật Tác giả bao giờ cũng nhìn
con người trong thế động, luôn thay đổi, biến chuyển. Ông hiểu rằng con người bị chi phối bởi
nhiều tác động mà hoàn cảnh sống rất dễ tác động đến tính cách. Trong hoàn cảnh đang gặp khó
khăn, có một bà mẹ có con gái có bầu với người yêu cô ta mà gia đình nhà gái lại không chịu gả. Bà
mẹ lại muốn nhân vật tôi lấy con gái mình và bà sẽ cho rất nhiều của cải. Nhân vật tôi buộc phải suy
nghĩ, lựa chọn: "Tôi nghĩ làm thế nào bây giờ? Tôi choáng cả người. Trong cái xã hội mà nén bạc
đâm toạc tờ giấy, nhà giàu và đồng tiền lúc nào cũng trói người ta, từ trong cách đối xử với nhau
hàng ngày tới mọi thói quen, thì một con người đương bơ vơ vơ vẩn như tôi, bỗng dưng đương
thằng nên ông, có nhà ngói cây mít có của ăn của để, có ngôi thứ, và cái chuyện lấy vợ chửa sẵn thì
cuối cùng chỉ đem tiền ra bôi son đánh phấn là xoá đi được tất cả, êm đẹp tất cả. Cái hoàn cảnh
vừa hiếm lại vừa dễ mà biết bao người rỗng túi thèm nhạt bỗng bắt được của rơi. Có thể tắc lưỡi
được. Còn như cái lý tưởng mà tôi đang mơ ước, thật sôi nổi mà cũng thật mênh mang góc biển
chân trời trong khi hàng ngày chỉ kiếm sống trợ thời này thì sao?" [76,148]. Đời người như một
dòng sông, nước trong mọi con sông như nhau và đâu cũng thế cả, nhưng mỗi con sông khi thì hẹp,
khi thì chảy xiết, khi thì rộng, khi thì êm đềm, khi thì trong veo, khi thì ấm, khi thì lạnh. Con người
cũng như vậy, có những khúc ngoặt làm sao để có thể tự vượt qua những giây phút dễ bị hấp dẫn
bởi sức mạnh của vật chất. Độc thoại nội tâm phơi bày sự dằn vặt, cuộc đấu tranh đầy mâu thuẫn
bên trong nhân vật để tìm ra một lối thoát. Và nhà văn Tô Hoài muốn khẳng định rằng con người sẽ
vượt lên được chính mình dù cho hoàn cảnh có khiến cho con người đôi lúc yếu mềm thì con người
vẫn không đánh mất chính mình. Đó là tấm lòng của Tô Hoài trong niềm tin về bản chất con người.
Kết hợp ưu thế của các loại diễn ngôn
Diễn ngôn là người kể đưa ra câu chuyện đến người nghe như thế nào? đặt trong quá trình đó
gọi là diễn ngôn, hướng đến người đọc. Kết hợp các diễn ngôn lại với nhau để tạo ra một hiệu quả
nghệ thuật nào đó. Chính là nhà văn đã sáng tạo. Có khi nhà văn cho nhân vật nói ít như: đoạn cuối
chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. Cảnh cho chữ là diễn ngôn của người kể nhưng đã dành một lưu
lượng cho nhân vật Huấn Cao. Tại sao Nguyễn Tuân lại tạo một sự kết hợp như vậy ? Vì phải có
người kể chuyện để dựng nên cảnh tượng cho chữ ấy. Tại sao Huấn Cao được nói bởi đó là những
lời giáo huấn, lời nói cuối cùng của một đời người, lời của thánh hiền nên diễn ngôn không cần
người nghe, không cần trả lời mà mục đích là lời truyền lại, lời di huấn. Còn viên quản ngục nói rất
ít vì muốn tôn vinh Huấn Cao, viên quản ngục là người tri kỉ. Cách tạo bố cục, tỉ lệ diễn ngôn trong
tác phẩm sẽ tạo nên hiệu quả nghệ thuật. Với đặc điểm mang dấu ấn riêng của từng nhân vật tham
gia đối thoại, các diễn ngôn song thoại đem lại nhiều hiệu quả nghệ thuật khác nhau. Cuộc đối thoại
của người bạn đọc và nhà văn Nguyễn Công Hoan thật xúc động. Qua diễn ngôn song thoại, các
nhân vật tự bộc lộ tâm tư, tình cảm, khát vọng, tính cách, phẩm chất, đạo đức của bản thân. Càng
thôi thúc nhà văn sáng tác khi nhận ra rằng: "Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia thoát ra
từ những kiếp lầm than. Nhà văn phải là người đứng trong lao khổ để đón lấy những vang động của
đời."(Nam Cao) Nhà văn Nguyễn Công Hoan đã cất tiếng. Tiếng nói nhà văn thống thiết nêu lên
những khổ ải quanh mình. Không hiu hắt, không tuyệt vọng. Bạn đọc đã thấm thía với tiểu thuyết
Bước đường cùng...ngòi bút viết ra những nỗi đau đớn đời người." Nhưng đồng thời Tô Hoài đã
khéo léo kết hợp các loại diễn ngôn để tạo hiệu quả nghệ thuật. Rõ ràng trong cuộc đối thoại ấy đã
nói hết tâm tư của người nông dân nghèo khổ vừa diễn tả nỗi rung cảm của người nghệ sĩ để viết lên
tác phẩm văn chương:
"Khách nói:
- Thưa ông, tôi ở huyện Yên Mô trong Ninh Bình ra.
Anh chưa hiểu thế nào.
- Tôi muốn thưa với ông một việc.
Anh càng lúng túng nhìn người lạ.
- Ông ơi, đời tôi rất khổ.
Chỉ một câu ấy, nét mặt tần ngần đăm chiêu ấy, anh đã hiểu. Một câu nói, một câu nói vào
một cảnh một tình, có thể mở ra cho nhà văn nhìn thấu suốt trước sau. Thế rồi người ấy đều đều kể
ra nỗi khổ chồng chất nghìn đời. Người ấy nức lên. Khuôn mặt to lớn sầm lại, nhoà nước mắt. Rõ
ràng là một người không hề khóc bao giờ. Nhưng người ấy đã khóc, rồi nói:
- Tôi đã thắt cổ mà không chết được. Tôi mới biết thì ra số kiếp tôi còn phải chịu khổ lâu,
muốn "đi” cũng không “đi” được. Đã thế, bọn lý dịch còn cho là thắt cổ vờ. Nó lại kiện tôi thắt cổ
để doạ quan trên.
Người ấy thở dài:
- Tôi biết làm thế nào...
Rồi im một lúc lâu. Nắng trưa càng nặng nề.
- Bây giờ tôi trông cậy vào ông.
Anh nhìn người ấy. Không ngạc nhiên, con mắt và trái tim nhà văn hiểu ngay sự tin cậy ấy.
Nhưng chẳng hay người ấy tin cậy gì ở anh? Anh là thế nào? Những câu tự hỏi và có thể tự trả lời
ngay được, tuy nhiên, trong hoàn cảnh xã hội ba đào như thế, anh đã viết một loạt truyện "xã hội ba
đào kí" mà - cũng lắm khi con người không biết mình là ai nữa. Số phận khủng khiếp của người
nông dân kia và của người cầm bút viết văn âu cũng đương là một. Hai con người cùng khổ ở đời.
Anh vẫn im lặng nhìn người bạn mới.
Người ấy nói:
- Không, tôi không đến nhờ ông làm hộ cái đơn để kêu oan cho tôi. Tôi chỉ thấy khổ như
cảnh tôi là khổ đến tuyệt trần đời rồi, cho nên tôi phải kể cho ông viết, ông phải viết thành sách,
nếu không thì chẳng ai biết được dân đen chúng tôi cực nhục đến như thế nào, bọn hào lý quan trên
độc ác đến như thế nào.
Người ấy tin cậy anh thế đấy. Bỗng nhiên, trong cơn nung nấu đến ngạt thở trên cái chợ người giữa
trưa, nhà văn cảm thấy được sức mạnh ngòi bút mình không sóng gió nào vùi dập được, không thế
lực nào địch được. Trước mắt, chỉ có anh và người nông dân khốn khổ.
Tiểu thuyết Bước đường cùng anh viết mùa hè 1938, khi anh còn ở rốn lại Nam Định. Song,
từ ngày ấy tôi cũng chưa hỏi xem anh đã gặp người nông dân ở Ninh Bình kia khi nào, có phải lúc
anh viết Bước đường cùng không. Nhưng tôi có một yên trí đặc biệt, tôi tin rằng Bước đường cùng
có anh ta. Bước đường cùng là người ấy...Vâng, đấy là người bạn đọc thân thiết, bạn đọc chân
chính, nhà phê bình đúng nhất, nguồn sáng tạo và sức mạnh cổ vũ to lớn, mạnh mẽ cho nhà văn"
[76,715-716].
Đoạn đối thoại sau đã thể hiện được vừa là diễn ngôn song thoại vừa là sự kết hợp của các
loại diễn ngôn. Tại sao tác giả để cho người bạn đọc ấy nói rất nhiều? Là bởi vì anh ta khổ quá bị
đẩy vào bước đường cùng cho nên như cầu giãi bày, tâm sự rất lớn. Hơn nữa anh ta tìm đến với nhà
văn bởi một niềm tin: dùng tiếng nói văn chương phản ánh hiện thực. Còn tại sao nhân vật nhà văn
chỉ hỏi liên tiếp rất nhiều câu hỏi ? rất ngắn.Vì nhà văn quá bất ngờ, ngạc nhiên trước người khách
lạ tìm đến mình mà giãi bày. Khi hiểu ra thì nhân vật nhà văn lại càng ít nói bởi vì nhường chỗ cho
sự xúc động, đồng cảm, lúc này đây biết lắng nghe, biết thấu hiểu đó cũng là một nghệ thuật. Tiếp
đến là những câu văn dài thể hiện sự suy ngẫm, nhân vật nhà văn nhận thức được văn chương là vũ
khí chiến đấu. Văn học phải xuất phát từ hiện thực cuộc đời. Vì cuộc đời mà có!
Đôi khi để nhân vật nhập vào nhân vật khác để nói thay. Với Tô Hoài nhà văn dừng lại dùng
quan niệm văn chương đàm luận từ đó thấy được sự thấu hiểu của tác giả về nghề văn và người viết
văn: "Người viết văn trong lúc đen tối nhường này, đã gặp người bạn đọc vĩ đại người bạn đọc và
sức mạnh cảm hứng chân chính, quả là một điều mà trước nay trong văn chương không mấy ai đã
được niềm ao ước ấy" [76,717]. Quả đúng văn chương cần đến sự đồng cảm của con người như
chúng ta cần đến ánh sáng của mặt trời cho sự sống vậy !

3.4.2 Sức mạnh ngôn từ

Ngôn ngữ của đời sống và ngôn ngữ của tâm hồn
Văn học có khả năng miêu tả thế giới hiện thực bằng hình tượng nghệ thuật. Chính ngôn ngữ
đã đem lại cho văn học khả năng ấy bằng việc chuyển hoá ngôn ngữ cuộc sống vào ngôn ngữ của
nhà văn. Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”, “ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học,
vì vậy văn học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ” [23,215]. Macxim Gorki cũng khẳng định
“ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Chính chất liệu ngôn từ đã giúp văn học đạt được tính
“vạn năng” trong việc tái hiện và chiếm lĩnh đời sống. Do đó, có thể khẳng định rằng ngôn ngữ là
một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách và tài năng của nhà văn.
Đặc trưng của tác phẩm văn chương là lấy ngôn ngữ làm chất liệu để sáng tạo nên tác phẩm
văn học. Một nhà văn tài năng là người để lại dấu ấn riêng trên từng trang giấy. Ngôn ngữ thể hiện
tư tưởng, bao bọc tư tưởng cho nên cách dùng ngôn ngữ thể hiện tài hoa và ý thức trách nhiệm của
người cầm bút . Ngôn ngữ văn chương là nơi thể hiện rõ nét riêng của người viết. Vị tướng
Napoleong từng nói: "Trên đời này có hai sức mạnh: thanh gươm và cây bút, thanh gươm thì đoạt
thành chiếm đất còn cây bút thì thu phục lòng người. Rốt cuộc cây bút mạnh hơn thanh gươm". Tô
Hoài đã sử dụng một hệ thống ngôn ngữ thích hợp tạo nên sự hấp dẫn cho tác phẩm của mình, phát
huy sức mạnh ngôn ngữ dân tộc trong tác phẩm. Khẳng định một cách mạnh mẽ vị trí của mình trên
văn đàn Việt Nam.
Tô Hoài là một nhà văn viết khoẻ, viết nhiều. Ông đến với nghề văn không phải từ lý luận,
sách vở, từ vốn kiến thức thu nhận qua trường lớp mà đến với nghề văn từ thực tế vốn sống của
nhân dân lao động và từ chính bản thân mình cố gắng học bằng con đường tự học. Đến với nghề văn
từ thực tế cuộc sống lao động của người dân nên Tô Hoài luôn có ý thức học tập lời ăn tiếng nói
hàng ngày của người lao động để đưa vào trong tác phẩm. Ông quan niệm: “Ngôn ngữ quần chúng
là kho của cải vô giá, là nguồn bổ sung vô tận cho nhà viết tiểu thuyết”. Ông từng cho rằng “Có
nhiều cách để học chữ và tiếng nói. Mỗi người viết văn tự luyện một cách học khác nhau. Nhưng
chắc chắn ai cũng học chung một thầy là quần chúng nhân dân”. Vì thế mà trong tác phẩm của
mình, Tô Hoài luôn là một người nghệ sĩ sử dụng thành thạo và điêu luyện vốn ngôn ngữ của dân
tộc.
Ngôn ngữ của đời sống – cách sử dụng các yếu tố phương ngữ
Có thể thấy trong Tự truyện, hồi kí nhà văn đã học tập, vận dụng đưa vào trong trang viết của
mình một hệ thống từ ngữ mang đậm màu sắc địa phương của vùng Kẻ Bưởi. Bởi vậy mà khi đọc
Tự truyện, hồi kí người đọc như sống lại không khí của đời sống sinh hoạt, phong tục với lời ăn
tiếng nói hàng ngày dân dã đời thường, gần gũi, quen thuộc của một vùng quê ngoại thành Hà Nội.
Dùng lời ăn tiếng nói hàng ngày trong tác phẩm là một trong những sở trường của Tô Hoài
khiến cho mạch trần thuật trở nên hết sức dí dỏm và hấp dẫn lôi cuốn. Khi cầm bút, Tô Hoài là nhà
văn luôn ý thức được sự sáng tạo trong việc sử dụng từ ngữ để tạo ra ngôn ngữ mới cho tác phẩm
của mình. Theo ông “tinh thông về chữ là một điều cần thiết”. Nhà văn luôn ao ước “Mỗi chữ phải
là hạt ngọc buông xuống những trang bản thảo, hạt ngọc mới nhất của mình tìm được, do phong
cách văn chương của mình mà có” [57]. Trên cơ sở học tập vốn ngôn ngữ đời sống vô cùng phong
phú của nhân dân, Tô Hoài luôn có những nỗ lực để tạo ra ngôn ngữ mới mang dấu ấn phong cách
cá nhân của nhà văn. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp nhận xét: “Ngôn ngữ của Tô Hoài mềm
mại, tung tẩy, nẫu nục chất dân gian. Đó là sự tinh tế của một cây bút cao tay, là ý thức đạt tới sự
giản dị của một sự khéo léo lớn. Chính vì thế mà văn Tô Hoài không bị mòn cũ theo thời gian” [14].
Ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm Tô Hoài cất lên từ đời sống. Tô Hoài nhận ra rằng nhà
văn có đóng góp trước hết là chữ nghĩa của dân gian. Nhân dân là ông thầy tạo ra ngôn ngữ. Ngôn
ngữ tự truyện Tô Hoài sử dụng nhiều lời ăn, tiếng nói của quần chúng, ngôn ngữ dân gian. Do luôn
tiếp xúc với người lao động nên nhà văn đã khai thác và vận dụng rất nhiều từ ngữ trong tiếng nói
hàng ngày của họ. Nhà văn thừa nhận:“Ảnh hưởng đầu tiên đến với tôi, không nói về tư tưởng, lập
trường chính trị chính là làng Nghĩa Đô của tôi. Người ta nói thế nào thì tôi cứ thế mà xào xáo
thành văn. Các tiếng nói ở trong nhà, ở trong xóm, ở trong làng của bà con, bạn bè lúc bé, lúc bắt
đầu lớn lên nó ăn rất sâu vào óc mình. Tất cả các thứ ngôn ngữ mà tôi quen nghe, quen dùng tạo
thành cho tôi cái gốc trong các tác phẩm đầu tiên của tôi” (Tô Hoài). Một đoạn văn hồi tưởng dùng
ngôn ngữ bình dị gắn với vùng quê của ông:“Kí ức tôi mờ mịt những kỷ niệm một màu trắng sương,
T
4

những kỷ niệm, vô vàn kỷ niệm chen lấn, xô đẩy. Tôi không nhớ rõ mà thực tôi đã nhớ biết bao
nhiêu. Cái bóng mơ hồ trong lớp lớp những ngày tháng ngậm ngùi, thấc thỏm đợi chờ dài
dặc….đến tiệt tóc mất…túi tôi rủng rẻng.(…)Hai cánh tay u tôi đưa đi đưa lại, chiếc que dò chạy lạt
xạt, let quẹt…” [76,22-23]. Ngôn ngữ của người lao động đã từ cuộc sống mà đi thẳng vào tác phẩm
4T

của nhà văn mang theo cả cái xô bồ, lấm lem của cuộc sống đời thường. Đọc Tự truyện của Tô
Hoài, ta thấy nhà văn sử dụng những từ ngữ của người Kẻ Bưởi vẫn quen dùng. Người đọc có thể
lập ra một trường từ vựng của người Kẻ Bưởi, từ những danh từ gọi tên đồ vật, sự vật đến những
động từ, tính từ và cả những lời nói của người dân Kẻ Bưởi cũng được tác giả trích dẫn trực tiếp vào
tác phẩm. Đó là lời ăn tiếng nói hàng ngày mà khi Cu Bưởi nghe hiểu và tập nói đã dùng tiếng nói
ấy cho đến khi lớn lên, trưởng thành. Đó là cách gọi tên những đồ vật mà người Kẻ Bưởi đã dùng,
trong đó có những cái tên lạ: “nếp nhà”, “cái chuôm nước”, “nếp răn chảy trên má”, “cái rõi cửa”,
“búng ngô”… Hay có những từ được dùng như động từ mang lại đặc trưng của ngôn ngữ vùng Kẻ
Bưởi: Bà tôi quẩy một gánh nồi niêu… Có bác cả ngày nhịn khàn nằm dài, tối mò mẫm đi ăn
trộm...U tôi ngồi xắm giấy [76]. Đó là những từ được dùng theo thói quen, trong tiếng nói hàng
ngày của người dân làng Nghĩa Đô. Đó là những từ mà Tô Hoài học được từ lời ăn tiếng nói của
người dân Kẻ Bưởi.
T
4Trong ngôn ngữ sinh hoạt đời thường, Tô Hoài dùng từ ngữ rất mộc mạc như chính nhựa
sống của cuộc đời tuôn chảy, trong một tình huống rất đời: "Người đen như củ súng thế mà lại định
chim con gái làng này!" [76,52]. Cách so sánh của những cô gái đậm chất khẩu ngữ đời thường, lại
ẩn trong đó cả niềm kiêu hãnh của những cô gái đang có trong mình quãng đời đẹp nhất đó là tuổi
trẻ.
Trong một đoạn miêu tả về người mẹ của mình, chỉ qua lớp ngôn ngữ bình dân, quen thuộc
T
4

ta hình dung ra ngay người phụ nữ vùng quê nhưng phải là vùng dệt lụa, với áo the thâm, rủ tóc
lông đuôi gà, thắt lưng nhiễu với váy lĩnh xùm xoè. Hình ảnh người phụ nữ hiện lên qua lớp sóng
ngôn ngữ phù hợp như một bức tranh, một vẻ đẹp xưa, vẻ đẹp truyền thống mà chúng ta được chiêm
ngưỡng từng nét một. Ngôn ngữ sống động như từng nét vẽ: "U tôi mặc the thâm đốm hoa lót nền
xanh cánh chả. Vành khăn sa tanh láng hoa dâu vắt vẻo rủ tóc lông đuôi gà. Cái yếm cổ xây cát bá
trắng bong với cái thắt lưng nhiễu thắt ra ngoài, lộ một mẩu lưng bao xanh buông chùng bộ sà tích
bạc reo lích tích. Hôm nay u tôi mặc váy lĩnh xùm xoè, dưới chân lấp ló đôi dép cong. U tôi ẵm cái
Hồ. Tôi súng sính bước bên làn sóng váy u" [76,52].
Ở mỗi miền quê có những thói quen trong sự dụng ngôn ngữ, ta thấy ngôn ngữ của tiếng
T
4

khóc hờ: "Thày tôi đặt cái bọc nhật trình xuống ghế. Thày tôi hỏi bà tôi đâu? Rồi thày tôi bỏ mũ lên
trước bàn thờ ông tôi, thì thụp lễ. Ở trong buồng bà tôi che vạt áo lên mặt, khóc lu loa... Hờ anh ơi,
anh bỏ nhà cửa anh đi đằng nào, bây giờ con anh về đây cháu anh về đây, anh ở đâu anh không
về...hờ ơ ơ.. " [76,59]. Tô Hoài sử dụng ngôn ngữ một cách linh hoạt tùy từng hoàn cảnh cụ thể mà
4T

biến hóa.
Ngôn ngữ trong tự truyện Tô Hoài nhiều khi đậm chất đời thường, có khi tưởng như thô
kệch, để miêu tả cuộc đời gần cạnh với nó nhất, thô rám và sắc nhọn: "Đến trưa, dì cháu tôi ra về,
đứng đợi tàu cửa chợ Đồng Xuân. Một người đàn bà ngồi trong bọn những người làm nghề đổi tiền
cửa chợ, bỗng đứng dậy, xăm xăm tới. Mặt xám ngoét, vành khăn vấn hất lên quá nửa mái tóc, cái
đuôi gà chổng ngược. Vẻ cong cớn, táo tợn lắm. Mụ cắp cái thúng nhòi đến trước mặt dì tôi, chống
nạnh bên sườn, xỉa tay luôn một thôi:
– Con đĩ Bưởi, con đĩ Bưởi kia, mày quyến rũ thằng Lâm đi đâu? Mày là con mẹ mìn à? Trêu
tay bà, bà xé xác mày ra... Con đĩ Bưởi kia!" [76,115]. Ngôn ngữ xỉa xói kết hợp với điệu bộ làm
cho tiếng chửi trở nên dữ dằn, nặng nề, đanh đá. Ngôn ngữ của một ả kẻ chợ trong cơn nghen tuông
không kìm mình lại được, tuôn ra bằng hết cảm xúc qua ngôn ngữ. Nhưng đọc câu văn của Tô Hoài
ta lại nhớ đến câu thơ của Nguyễn Du khi miêu tả Hoạn Thư tự bào chữa cho mình: "Rằng tôi chút
phận đàn bà – Ghen tuông thì cũng người ta thương tình". Chúng tôi muốn khẳng định rằng Tô
Hoài đã để sự việc như nó vốn có trong đời sống và dùng tài sắp xếp ngôn ngữ của mình mà chạm
khắc lên cuộc sống.
Một trường hợp khác, diễn ngôn của nhân vật trong hoàn cảnh người phụ nữ góa chồng bị
người ta quyễn rũ bỏ lại đứa con thơ dại cho người mẹ chồng. Bà thương cháu mà chửi kẻ cướp mẹ
của cháu bà. Vì thế ngôn ngữ lúc này của nhân vật kèm theo sự bức xúc, nóng giận: "Bà lão đến bên
gốc mít. Thằng bé đứng bên cạnh bà. Một tay bà xắn váy. Hai chân giạng nang đưa đẩy đầu gối dẻo
như thể bà vãi chèo đò làm chay tháng bảy. Một tay bà xỉa xói vào cái gốc mít. Bà lão chửi, bà lão
chửi nhé, bà lão chửi có ngành có ngọn:"Cha tiên nhân cái đứa mất tông mất giống, cái đứa giết
người cướp của, mày chứa chấp, mày dụ dỗ con người ta… mày để đứa trẻ nó khóc sớm khóc tối…
mày giết đứa con trẻ… nó như con gà, mày bắt mất mẹ… mày là quân mẹ mìn… Mày đi đằng xuôi
mày chết đằng xuôi, mày đi đằng ngược mày chết đằng ngược" [73,73]. Tiếng chửi của một người
bình dân có lớp lang, thứ tự và ngoa ngoắt. Ngôn ngữ như phập phồng hơi thở của cuộc sống, mà
hiện thực cuộc đời thì biết bao màu trắng, đen như Nguyễn Văn Thạc trong Mãi mãi tuổi 20 viết:
“Trên trang sách, cuộc sống tuyệt vời biết bao nhưng cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn
niềm sầu muộn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời”. Hiện thực của cuộc sống rất
phong phú, phức tạp đã tác động đến bao người. Có cái cao cả và cái thấp hèn, cái đẹp, cái xấu lẫn
lộn. Tất cả như những sợi chỉ óng ánh nhiều mầu sắc pha trộn với nhau, tạo nên tấm thảm cuộc đời.
Khi sáng tác Tô Hoài không ngần ngại mà đem nhân vật ra giữa cái bề bộn phức tạp của đời thường
mà suy xét, mà tạo dựng nên. Trong hồi kí, khi viết về ngôn ngữ của các nhà văn, một số trường
hợp khiến cho người đọc bất ngờ, vì nhiều nhà văn dùng ngôn từ rất thô ráp, suồng sã đến ngạc
nhiên. Khi Nguyên Hồng bức xúc: – Ừ, Nhã Nam. Đủ, đủ lắm rồi. Ông đéo chơi với chúng mày
nữa. Ông về Nhã Nam” [63]. Trong ngày tết khi vui chén: "Bốc lên, Nguyễn Sáng hét: “Chỉ có một
thằng Sáng thôi. Còn thì cứt hết!”. Nguyễn Tuân giơ tay ra cửa:“Đi ngay!”. Nguyễn Sáng vẫn
hăng: “Nguyễn Tuân à, đừng tưởng bở! Ông không biết viết tiểu thuyết. Truyện không có nhân vật,
vứt đi!” – “Anh ra khỏi đây ngay” [63,175]. Cách dùng ngôn ngữ như vậy, nhà văn muốn suồng sã
hóa, rút ngắn đến mức thấp nhất khoảng cách giữa người đọc với người kể. Giúp chúng ta được tiếp
cận, bước vào một thế giới đời thường phía sau thế giới nghệ thuật lung linh, huyền ảo mà ta vẫn
thường biết đến qua tác phẩm của những nhà văn. Đặt các nhân vật nhà văn hoàn cảnh sống của thời
đại, Tô Hoài đã xoá bỏ thế giới của “tuyệt đối hóa” với các nhà văn như cách hiểu qua trang sách,
đã xử lí chất liệu hiện thực hoàn toàn khác. Sự kiện và con người trong tác phẩm của ông đều được
đặt dưới cái nhìn suồng sã. Mọi cuộc sống xô bồ, đa diện, nhiều sắc thái được thay thế cho một cuộc
sống trang nghiêm, tĩnh tại và đơn giản. Qua cách dùng ngôn ngữ đó, cuộc sống đã bị lột mất chiếc
áo khoác thiêng liêng. Xuất phát từ quan niệm con người là con người, con người không phải là
thánh nhân, vì thế mà lần đầu tiên Tô Hoài đã cho chúng ta nhìn một số nhân vật của văn chương
nước nhà từ một cự li gần, nói như Trần Đức Tiến: nhìn ở một “khoảng cách khá tàn nhẫn nhưng vì
thế mà chân thực và sâu sắc” [50].
Để khắc phục ngôn ngữ hời hợt, xa rời đời sống, Tô Hoài đã đổi mới bằng cách tiếp thu
những yếu tố quan trọng của ngôn ngữ dân gian. Mà đặc điểm ngôn ngữ dân gian thường là tự
nhiên, đầy cảm xúc, giàu ngữ điệu và tính hình tượng: "Lê vẫn biết Chúc ve vãn chị Hai Tâm. Mà
Chúc cũng đã mong ước ra miệng “lấy được con vợ như nhà Hai Tâm thì cả đời cơm no bò cưỡi,
thú quá” [73,71]. Hơn nữa, khi tác giả tái hiện trong lời mình phát ngôn đàm thoại thì do bản thân
sự thay thế các cá nhân phát ngôn không tránh khỏi sự thay đổi giọng điệu. Đó cũng là cơ sở tạo nên
sự đa thanh cho lời văn của người kể chuyện trong tác phẩm Tô Hoài. Khi đề cập đến lời văn khẩu
ngữ, M.Bakhtin cho rằng “sự kể chuyện của người kể chuyện có thể được phát triể dưới các hình
thức của lời văn viết hay các hình thức của lời khẩu ngữ – lời kể miệng trong ý nghĩa đích thực của
từ đó. Và đây là kiểu cách ngôn từ của người khác được tác giả sử dụng như một quan điểm, một
lập trường cần thiết để tiến hành trần thuật”. Trong một đoạn đối thoại giữa nhân vật chị Hai Tâm
và anh Lê: "Anh Lê hồi này làm ở đâu mà thong thả thế? Thong thả quái gì, vội chúi mũi suốt phiên
đấy. Vội mà đêm cuối phiên bận nhất thế này lại nghỉ? khéo dấu đầu hở đuôi!" [73,24]. Qua cách
vận dụng ngôn ngữ của người bình dân: "giấu đầu hở đuôi". Cho thấy nhân vật chị Hai Tâm thật là
đáo để, dạn dĩ, lối nói đó làm cho lời nói của nhân vật trở nên linh hoạt gần gũi. Cách chụp mũ bất
ngờ như thế càng cho thấy tính cách sắc sảo, mạnh mẽ và có phần cá tính của nhân vật mà vẫn rất
đời. Song song với nghệ thuật ngôn từ điêu luyện, Tô Hoài còn để cảm xúc chan hòa vào từng trang
viết, làm cho sự việc, con người gần gũi như bản chất thật ngoài đời. Cách vận dụng lời ăn tiếng nói
của người bình dân, ngôn ngữ cuộc sống đã đi thẳng vào tác phẩm văn học. Tiếp thu những lời ăn
tiếng nói, nếp nghĩ quen thuộc, vận dụng cách nói chân chất, những quán ngữ, thành ngữ, tục ngữ
dân gian, đưa nó vào lời văn của mình vừa tạo cho lời văn sinh động vừa đảm bảo tính khách quan
của hiện thực lời nói, tạo nên câu chuyện tự nhiên mà không có sự gò ép của tác giả.
Đưa nó đan xen vào ngôn ngữ người kể, ngôn ngữ đủ loại nhân vật, đặt nó vào môi trường
đối thoại với tâm trạng nhiều biến thiên đã làm cho ngôn ngữ có tính chất đa thanh. Trong một lần
Nhàn nói chuyện với Lạp về việc Hiền – người con gái mà anh thương thầm sắp đi lấy chồng. Lạp
nói lơ lửng: "Ai biết đâu chuyện nhà người ta! Nhàn cười nhạt, thế ra công anh đắp đập, be bờ;
đan lờ thả cá, bây giờ tay ai" hả?. Lối vận dụng ca dao, lời ăn tiếng nói của người bình dân thật đắc
địa trong trường hợp này vì nó sẽ tác động mạnh đến tâm trạng con người làm nhói tim người trong
cuộc. Trong những tác phẩm của ông ta thấy không thiếu những câu nói dân dã đời thường, những
thành ngữ, tục ngữ giàu hình ảnh ví von sinh động, không thiếu những bài ca dao. Nguyễn Đăng
Điệp nhận xét: “Ngôn ngữ của Tô Hoài mềm mại, tung tẩy, nẫu nục chất dân gian. Đó là sự tinh tế
của một cây bút cao tay, là ý thức đạt tới sự giản dị của một sự khéo léo lớn. Chính vì thế mà văn
Tô Hoài không bị mòn cũ theo thời gian” [14].
Trong Tự truyện,hồi kí Tô Hoài đã bộc lộ sở trường về việc sử dụng ngôn ngữ; nhà văn có
một kho từ vựng rất giàu có và phong phú nhờ ý thức học hỏi, từ lời ăn tiếng nói hàng ngày của
nhân dân. Cách vận dụng ngôn ngữ linh hoạt, tăng giá trị biểu cảm như hơi thở của cuộc sống phả
vào ngôn ngữ.
Ngôn ngữ tâm hồn
Chủ ngòi bút tờ báo Nam Phong – Phạm Quỳnh đã từng ca ngợi Truyện Kiều: "Một nước
phải có quốc túy, quốc hoa, quốc hồn. Quốc túy của Việt Nam là Truyện Kiều. Quốc hồn của Việt
Nam là Truyện Kiều. Quốc hoa của Việt Nam là Truyện Kiều. Truyện Kiều còn thì Tiếng Việt còn.
Tiếng Việt còn thì nước Việt còn." Cho nên Truyện Kiều đã đi vào đời sống tâm hồn của người Việt
Nam với một sức mạnh lan tỏa như lời ca ngợi của Tố Hữu: "Tiếng thơ ai động đất trời – Nghe như
non nước vọng lời nghìn thu." Sự thành công của truyện Kiều thuộc nhiều lĩnh vực, trong đó rất
đáng ca ngợi là sự phát triển ngôn ngữ làm giàu và đẹp hơn ngôn ngữ Tiếng Việt. Đồng thời có sức
lan tỏa, ảnh hưởng đối với người sáng tác văn chương.
T
4 Tác giả có một kiến thức rất sâu, rất phong phú về Truyện Kiều, hiểu biết đó không chỉ dùng
lại ở kiến thức mà đã trở thành máu thịt, thành tâm hồn cho nên cách vận dụng dày đặc và rất chính
xác, dễ hiểu: "Dì Bảy sang bên vùng Bắc gọi hồn cái Hồ mấy lần. Thỉnh thoảng u tôi nói rằng: "Độ
đầu năm, mở quẻ Kiều có hai câu: Thiếp như hoa đã lìa cành, Chàng như con bướm liệng vành
mà chơi. Nghiệm quá... ới con ơi a...". Lại khóc" [76]. Cách viết rất tinh tế khi vận dụng câu Kiều
vừa cho thấy sự sâu sắc của tác giả. Vừa diễn tả số phận ngắn ngủi không may của của đứa em gái
bạc mệnh "Thoắt gãy cành thiên hương”. Vừa cho thấy sức lan toả của bói Kiều trong tín ngưỡng
dân gian. Hay. Vừa có thể cho thấy nỗi đau tiếc không nguôi trong lòng người mẹ mất con, nỗi đau
ám ảnh tới mức người mẹ đã cảm nhận được sự đoản mệnh ở mức dự cảm qua câu Kiều. Trên hết
vẫn là tình thương của tác giả bàng bạc trên câu chữ. Chúng tôi có thể khẳng định đây là thứ ngôn
ngữ tâm hồn của Tô Hoài. Nó được chiết lọc từ kiến thức văn hóa, văn học và thăng hoa trong cảm
xúc của ông.
Bằng ngôn ngữ của tâm hồn ấy Tô Hoài đã diễn tả rất tinh tế nỗi lòng của người mẹ và tấm
T
4

lòng thấu hiểu của mọi người, xung quanh việc đặt tên cho em gái là Ngó. Bởi người cha do hoàn
cảnh phải đi xa kiếm việc. Biền biệt thời gian rất ít về đã để lại nỗi chờ đợi khắc khoải của người
vợ trẻ và nôi chờ mong của gia đình, đúng thật là: "Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng". Câu Kiều
của Nguyễn Du đã trở thành đắc dụng trong trường hợp này: "Cuối năm ấy, tôi ở Kẻ Chợ về nhà
T
4 T
4

được mấy ngày, u tôi ở cữ em gái tôi. Đi đẻ trên nhà thương Cáo, suýt đẻ rơi – nhưng không dám
T
4 T
4

viết thư vào Sài Gòn kể với thày tôi thế. Ông tôi đặt tên nó là Ngó, "Sen ngó đào tơ..." mà" [76,83].
Cách viết khi vận dụng câu Kiều cho thấy sự sâu sắc của tác giả với vốn hiểu biết văn học dân tộc
sâu rộng và sự vận dụng tài tình đã làm giàu và đẹp thêm kho từ vựng vốn rất phong phú của Tô
Hoài.
Ngay cả trong những hồi tưởng hóm hỉnh, câu Kiều của Nguyễn Du cũng xuất hiện, thành
ngôn ngữ hàng ngay trong sinh hoạt: "Thỉnh thoảng, thầy Lâm lại đón đường đưa tôi một cái thư.
Tôi chẳng phải tò mò xem trộm. Bởi vì rồi dì Niêm sẽ bảo tôi đọc hộ, dì tôi sẽ ngồi kể cho tôi viết
trả lời. Những lá thư tình bao giờ cũng bắt đầu vài ba câu Kiều lẩy Sen tàn cúc lại nở hoa. Sầu dài
ngày ngắn... rồi mới đến: Cậu ơi! Ngày sáu khắc, đêm năm canh... thư nào cũng một câu như vậy,
dì tôi chưa đọc, tôi cũng cứ viết sẵn. Cậu ơi! Ngày sáu khắc... rồi ngồi đợi" [76,115]. Có lẽ những
câu Kiều như vậy đã đi vào tâm hồn của nhà văn để góp phần tạo nên những trang văn rất đời, rất
người. Ngôn ngữ đã trở thành kí hiệu của tâm hồn.
T
4Cách vận dụng Truyện Kiều có cả trong miêu tả nhân vật, hình ảnh người cha trong đôi mắt
của trẻ thơ thật đẹp, khi người cha xuất hiện dường như một vùng tỏa sáng như chàng Kim Trọng
xưa: "Thày tôi đến làng u tôi với phong dạng chàng Kim Trọng du xuân trong truyện Thuý Kiều.
Người ăn vận chững như chưa bao giờ trai làng ở đây chững đến thế. Đầu đội nón dứa chóp bạc.
Mắt đeo kính rợp, áo sa bóng nuột, nổi cái thắt lưng điều đỏ hoe, dài loè xoè thò chấm vạt áo trước.
Cái quần là hộp, đôi giầy Chí Long bóng nhoáng. Tay dắt chiếc xe đạp nhẹ nhàng. Cùng với điệu
bộ trang nhã, thêm cái danh làm việc Tây ngoài Kẻ Chợ, ôi thôi nhất làng rồi" [76]. Nhưng với cái
nhìn hiện tại đã trưởng thành thì dường như Tô Hoài đang dùng thủ phát "tôn cao – hạ bệ", khi
T
4 T
4

chêm xen vào câu: "Không bao giờ tôi được biết những thứ sang trọng ấy thày tôi đã đi mượn hay
thuê của nhà cầm đồ Vạn Bảo". Tạo nên sự hài hước, dí dỏm rất dễ gặp trong văn phong Tô Hoài
làm nên những trang văn sinh động, thành nét riêng trong phong cách của ông. Quả đúng thật Tô
Hoài đã để lại dấu ấn riêng trên từng trang viết.
T
4Ngay cả lúc ở trong tình cảnh ngậm ngùi nhất, khi bị giao cho một công việc không liên quan
gì đến việc bán giày thường ngày thì tác giả cũng tự thương thân mình lâm vào cảnh ngộ: "Vì tôiT
4

hiểu mọi công việc cậu chủ đương giảng cho tôi nghe ấy là vào cái loại công việc của bọn bồi xăm
dắt gái, của thằng hề đồng của chàng Kim Trọng trong vở Kiều cải lương mà tôi là người tập bán
hàng, lại kiêm cả những việc thằng bồi xăm và thằng hề đồng" [76,164]. Có thể nói Truyện Kiều đã
trở thành vốn sống và có thể len lỏi khắp những trang viết của Tô Hoài như một mạch nguồn của
văn hóa dân tộc không bao giờ dứt. Để chứng minh cho một quy luật: "Cuộc đời là nơi xuất phát
cũng là nơi đi tới của văn học."
Trong cách tưởng tượng của tác giả ta cũng thấy bóng dáng của những nhân vật trong Truyện
Kiều nữa: "Không bao giờ tôi có thể nhớ được thày giáo Đức rõ ràng hơn hình ảnh ấy. Từ đấy, mỗi
T
4

khi ở làng ngoại tôi, trong dịp đình đám hễ đêm hát chèo mà phường diễn trò Kiều, cứ vai Kim
Trọng ra là tôi nhớ đến thày giáo Đức.Chàng Kim Trọng phong tình, mặt dồi phấn, áo the khăn
lượt, tay xoè quạt đủng đỉnh tủm tỉm dạo quanh chiếu sàn rạp" [76]. Cách dùng ngôn ngữ miêu tả
thiên về ấn tượng.
Trong Mười năm, khi ví chuyện chị Hai Tâm bị lời lẽ ngon ngọt của tên Khiết mà theo hắn.
Tác giả lại dùng Truyện Kiều để diễn tả nỗi lòng chị: "Ngày mới bước chân đi được ít lâu, chị Hai
đã cảm thấy mình như con Kiều mắc tay bợm già rồi. Nhưng đâm lao đành phải theo lao, nấn ná,
tính toán. Rồi ngày lại ngày..." [73,189]. Sự vụn vỡ một niềm tin ấy, chỉ có thể lấy nỗi lòng của
Kiều mắc lừa mới nói hết cái thấm thía của nhân vật. Cách vận dụng ngôn ngữ người xưa của tác
giả thật tài tình!
Ở một hoàn cảnh khác trong Mười năm, nhân vật Hiền có duyên thầm chưa ngỏ với chàng
trai cùng làng là Lạp. Nhưng sau đó mẹ Hiền gả Hiền cho một người khá giả trên tỉnh. Nỗi lòng
của Hiền bối rối và tác giả lại vận dụng hình ảnh Kiều để giãi bày:"Hiền không giám nghĩ thẳng:gả
bán con để lấy tiền chuộc nhà. Chạm đến, Hiền thình lình hốt hoảng, mủi lòng. Không, không phải
thế, Hiền không đến nước như cô Kiều vì thằng bán tơ làm cho cửa nhà tan nát mà phải bán mình.
Đây mới ướm lời vừa duyên phải lứa, còn đắn đo, còn tư lự, được hay không ở duyên số, ôi chà,
nào đã ra sao" [73,189]. Có thể nói cách vận dụng này rất nhiều trong tác phẩm tự truyện, hồi kí
của Tô Hoài đã tạo được duyên thầm của những trang văn của ông.
Sức mạnh ngôn ngữ ở những lời bình văn chương rất đẹp, trong sáng và tinh tế tài hoa khi Tô
Hoài nhận xét về thơ Nguyễn Bính: "Thơ là niềm khát khao, là ước nguyện của con người. Khi chưa
quen Nguyễn Bính, tôi cũng không thật hiểu được những bài thơ viết về đồng quê của Nguyễn
Bính...Rồi mỗi khi gặp chính trong cuộc sống khốn khó hàng ngày tháng như chẳng liên quan gì đến
những bài thơ quê đẹp nõn như lụa của Nguyễn Bính, tôi lại rõ ra ý nghĩa sâu thẳm của mỗi câu thơ
với quê hương. Chỉ có quê hương mới tạo nên được từng chữ, từng câu Nguyễn Bính. Trên chặng
đường ngót nửa thế kỷ đời thơ, mỗi khi những gắn bó mồ hôi nước mắt kia đằm lên, ngây ngất, day
dứt không thể yên, khi ấy xuất hiện những bài thơ tình tuyệt vời của Nguyễn Bính" [76,778]. Nhân
vật “tôi” là nhân vật chính và tác giả nhập hẳn vào hóa thân vào nhân vật “tôi” để tự bộc bạch ý
nghĩ, tình cảm, đi sâu vào tâm tư sâu kín của mình, Nguyễn Bính là nhà thơ của hương đồng cỏ nội,
Tô Hoài đã trở thành tri kỉ, tâm giao và rất mực tài hoa khi đã tinh tường nhận ra: "Khi nào anh
cũng là người của xứ đồng, của cái diều bay, của dây hoa lý, của mưa thưa, mưa bụi giữa mọi công
ăn việc làm vất vả sương nắng. Bởi đấy là cốt lõi cuộc đời và tâm hồn thơ Nguyễn Bính. Quê hương
là tất cả, mà cũng là nơi in đậm dấu vết đời mình. Ở Nguyễn Bính, tình quê là hình bóng đất nước,
những nơi anh đã đặt chân với vô vẫn kỷ niệm và quê anh cũng là vùng chiêm trũng mênh mông
Phú Xuyên, Bình Lục, Ý Yên, Vụ Bản – cái rốn nước đồng bằng sông Hồng, ở đấy, nhà thơ thân
thương của chúng ta đã lênh đênh thân con cò, con diệc đồng sâu"[76 780]. Đọc những câu bình
văn tài hoa này ta nhận thấy. Một câu thơ hay không chỉ hay bởi những gì nó mang sẵn mà còn vì
những gì nó có thể gợi ra để người đọc đồng sáng tạo. Sức mạnh tạo nên sự đồng cảm mãnh liệt
chính là: "Khi tâm hồn và sự chân thực đi cùng thơ, Nguyễn Bính đạt tới sự toàn bích." Tô Hoài đã
thấy được sức mạnh, đặc trưng của thơ ca nói chung và hồn thơ Nguyễn Bính nói riêng đó là thẫm
đẫm yếu tố cảm xúc – chính cảm xúc chân thành mới động tới được những cõi cao sâu trong lòng
người và vang vọng với thời gian.
Mặt khác tác giả thể hiện khả năng miêu tả thiên nhiên bằng ngôn ngữ của tâm hồn. Tô Hoài
quan niệm: “Quan sát và ghi chép đi liền với lối sống cần thiết của người viết văn. Quan sát bắt ta
nhớ và mở rộng những điều ta biết” [57]. Hà Minh Đức cũng khẳng định mặt mạnh của Tô Hoài
chính là phương diện miêu tả: “Tô Hoài giỏi miêu tả thiên nhiên. Thiên nhiên trong tác phẩm của
ông gồm nhiều màu vẻ, từ những cảnh thơ mộng gợi cảm đến một thiên nhiên khắc nghiệt, hung dữ”
[50]. Ngôn ngữ của tâm hồn được thể hiện rõ qua vận dụng ngôn ngữ để miêu tả cảnh vật và con
người. Đúng là "văn chương bắt rẽ từ cuộc đời và nở hoa nơi từ ngữ" để tạo nên những đoạn văn
trữ tình, giàu chất thơ. Đặc biệt đối với người Phương Đông luôn quan niệm giữa con người và
thiên nhiên luôn có mối giao hòa tương thông, con người tìm đến với thiên nhiên như tìm về với đời
sống tâm hồn của mình. Không thể hình dung nhân vật nếu thiếu thiên nhiên. Qua giao hòa với
thiên nhiên, nhân vật của Tô Hoài thường mở lòng mình trước bạn đọc. Phong cảnh thiên nhiên,
những bức tranh thiên nhiên giữ một vai trò rất quan trọng trong việc thể hiện tính cách nhân vật
của Tô Hoài. Trong tác phẩm văn học, bức tranh thiên nhiên bao giờ cũng thể hiện ý đồ nghệ thuật
và mang đậm dấu ấn sáng tạo của tác giả. Thiên nhiên góp phần tạo dựng không khí thực. Vì thế ta
thấy phong cảnh thiên nhiên có khi ảm đạm, có khi đầy sức sống, tác giả đã gửi gắm vào đó kỉ
niệm. Chính vì vậy bức tranh thiên nhiên mang đậm phong cảnh quê hương ở Nghĩa Đô. "Tôi đã T
4

ngửi được mùi đất quen thuộc. Quen thuộc lắm, chỉ thoáng qua là biết sắp về tới quê. Ờ, mà lạ.
Không bao giờ tôi biết phân biệt được rõ ràng cái hương vị phảng phất kỳ dị ấy. Nó thoang thoảng
trong cánh đồng hoặc vẩn vơ trong rặng ô rô xanh rì. Tưởng như đấy là mùi cỏ khô, mùi đất ải, mùi
khói rơm bếp” [76,33]. Thiên nhiên đã bao bọc lấy con người, chan hòa với con người và được thể
hiện bằng ngôn ngữ tâm hồn tinh tế: "Hương sen thơm suốt quãng đường hai bên hồ. Những chiếc
4T

lá sen tròn đồng tiền, mơn mởn nghển lên khỏi mặt nước. Chúng tôi lội xuống hái những nụ mới
nhú bằng ngón tay. Nụ sen ăn ngòn ngọt. Rồi trải lá sen lên bờ cỏ, chúng tôi nằm ngủ dưới gốc đa,
trong gió hồ buổi trưa hây hẩy bát ngát" [76,120]. Con người như mở rộng tâm hồn đón lấy hương
thơm của đất trời quê hương, là thứ mật ngọt nuôi dưỡng tâm hồn ta lớn khôn!
Vào những đêm có trăng, bầu trời tràn ngập ánh sáng. Những đem đó, bầu trời tượng trưng
cho cái vô cùng của không gian và cái vĩnh cửu của thời gian. Bầu trời là tấm gương soi tỏ tâm hồn
cao đẹp của con người. Bởi vậy không phải ai cũng dám đối diện với cái vô cùng, đối diện với chính
mình. Mở lòng trước thiên nhiên, cảm nhận được thiên nhiên, giao hòa với thiên nhiên – theo tác
giả, đó là dấu hiệu của nhân tính, của một tâm hồn đẹp. Trong tác phẩm Mười năm [73,167], trăng
sáng như trải lụa làm thổn thức lòng người, "Trăng sáng thênh thang trên làng xóm, khêu gợi lòng
người những suy nghĩ bồi hồi. Thế là Lạp quay trở lại. Nhưng cánh liếp cửa sổ khung củi nhà Hiền
đã đóng. Trăng vằng vặc như ban ngày, nhìn sướng mắt như thấy người con gái mặc áo lụa." Một
đêm trăng khác khi có niềm vui mới đến với con người thì: "Thế mà ánh trăng đêm thu muộn trong
leo lẻo, rời rợi mùi hoa thiên lý, hoa cau, hoa móng rồng từ các bờ rào thoang thoảng ra như hi
vọng trong lòng người. Những chòm lá xoan, những cành tre và tàu dừa phe phẩy, lấp lánh không
biết nước mưa hay sương, hay ánh trăng đọng. Ánh trăng thu gọn và tô đậm những bụi cây như
người ngồi người đứng với nhau trên bờ ao nước loáng sáng" [73,318]. Những câu văn lấp lánh ánh
sáng, ngôn ngữ đẹp, gợi tả. Dường như người viết đã mở rộng tâm hồn mình để cho ánh trăng mặc
sức tuôn tỏa. Không chỉ cảm nhận vầng trăng thu từ trên cao mà cảm nhận ánh sáng của nó qua sự
phản chiếu, cảm nhận bằng rất nhiều giác quan như thấy được hương thơm của ánh sáng. Quả thật
ngôn ngữ của tâm hồn có một sức mạnh kì diệu! Khiến ta nhớ tới cách ca ngợi sức mạnh lời nói của
vị tướng Napoleong: "Trên đời này có hai sức mạnh: thanh gươm và cây bút, thanh gươm thì đoạt
thành chiếm đất còn cây bút thì thu phục lòng người. Rốt cuộc cây bút mạnh hơn thanh gươm."
Biện pháp so sánh được sử dụng tối đa để miêu tả thiên nhiên. Cũng là ánh trăng nhưng trong những
ngày cái đói tràn về, nghệ thuật so sánh đã làm cho hình ảnh trở nên sinh động hơn: "Mặt trăng nẫu
vàng như một cái lỗ thủng chuyển động trên vòm trời mù sương. Đêm thăm thẳm hút vào một vùng
chết chóc" [73,214].
Một trong những nét nổi bật tạo nên sức hấp dẫn trong ngòi bút miêu tả thiên nhiên của Tô
Hoài: "Tô Hoài không chìm đắm trong thiên nhiên, không tìm ở thiên nhiên một lối thoát, một niềm
an ủi như các nhà lãng mạn tiêu cực, nhưng bao giờ anh cũng chắt chiu, trân trọng những vẻ đẹp
và chất thơ của đời sống."( Phong Lê) đó là trong khi miêu tả thiên nhiên nhà văn đã vận dụng, phát
huy hiệu quả hoạt động của mọi giác quan để nắm bắt, tái tạo hiện thực nhằm đưa đến cho người
đọc những bức tranh miêu tả thiên nhiên sống động, phong phú và độc đáo. Nói như nhà thơ Xuân
Diệu là: “thức nhọn mọi giác quan”. Để tạo nên những trang miêu tả đặc sắc, nhà văn đã huy động
mọi giác quan của con người, thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác, vị giác nhưng trong đó thị
giác được vận dụng có hiệu quả nhất. Và trong khi miêu tả “Tô Hoài nắm bắt rất nhạy bén những
nét cô đọng, những chi tiết điển hình cho nên có khi chỉ vài nét chấm phá mà dựng nên cả một bức
tranh”. Đọc Tự truyện, độc giả không thể bỏ qua đoạn văn Tô Hoài miêu tả cơn mưa đầu mùa hạ.
Đoạn văn có thể coi là sự hội tụ những tinh hoa trong ngôn ngữ miêu tả rất tài tình, tinh tế của nhà
văn: “Gió rúc điên đảo trong cành cây. Người chạy táo tác. Ngoài đường cái, trẻ con kêu ơi ới. Sắp
được xem mưa, thích quá, gọi nhau rối rít. Mấy con chó nhảy cỡn nhay xích ống, ăng ẳng sủa,
chúng nó cũng vui ngớ ngẩn như chúng tôi lẹt đẹt…lẹt đẹt…mưa đã giáo đầu, những giọt nước to
thô lố lăn xuống mái phên nứa. Mưa thực rồi. Mưa ào xuống, mọi người ngỡ ngàng sao mưa đến
nhanh thế. Vừa mấy giọt lách cách mà đã tuôn rào rào ngay, ánh nước xiên xuống lao vào bụi cây.
Con gà trống chạy qua, ướt lướt thướt, hai đầu cánh nhấp nhô, còn loanh quanh tìm chỗ trú. Mưa
sầm xập, giọt ngã, giọt bay, bụi nước toả trắng ngấn. Trong nhà âm xầm hẳn đi. Mùi nước mưa mới
ấm, ngòn ngọt, ngai ngái. Mùi man mác xa lạ của những trận mưa đầu mùa đem về. Mưa rèo rèo
trên sân, gõ lộp độp trên phên nứa, mái dại, đập lùng tùng liên miên vào tàu lá chuối. Tiếng giọt
gianh đổ ồ ồ, sói lên những rãnh nước sâu. Bỗng một cơn gió phào đến cây cối bị vật vã, nổi lên
một hồi xa thẳm rạt rào. Mảnh sân đất đã ngập mấp mé. Nước chảy đỏ ngòn bốn bề, cuồn cuộn
trong các ngách rãnh quanh lối xuống chuộm. Nhưng mưa chỉ rào rào một lúc, bỗng trong vòm trời
tối thẫm vang lên một hồi rên rỉ ầm ĩ. Tiếng sấm mưa mới. Ngoài ngõ, nghe tiếng chân lép nhép
chạy. Bao nhiêu người vác thùng, vác rổ ra bắt cá rô rạch quanh các bờ ao” [76,36– 37].
Miêu tả một cơn mưa đầu mùa hạ, Tô Hoài đã phát huy tối đa hiệu quả của những hình ảnh
trực quan để miêu tả cơn mưa. Cơn mưa đầu mùa hạ được miêu tả với đủ mọi giác quan từ những
hình ảnh, âm thanh, mùi vị thật cụ thể, sắc nét và sống động. Tô Hoài đã miêu tả chính xác tiếng
mưa rơi với những âm thanh rất đặc trưng. Không những thế nhà văn còn lắng nghe và phân biệt
được các tầng bậc, độ mạnh - nhẹ của âm thanh ứng với mỗi thời điểm khác nhau của cơn mưa. “Lẹt
đẹt…lẹt đẹt…mưa giáo đầu”, những âm thanh đầu tiên của loạt mưa rơi xuống một cách rụt rè, yếu
ớt trên mái phên nứa. Âm thanh được miêu tả tiếng mưa rơi tăng cấp dần dần, mỗi lúc một dồn dập,
khẩn trương gấp gáp:Rồi “mưa buông sầm sập…từng giọt gianh đổ ồ ồ, ào ạt, ọc lên ở những rãnh
nước sâu”. Miêu tả cơn mưa đầu mùa, nhà văn không thể quên tiếng sấm gọi mưa: "bỗng trong vòm
trời tối thẫm vang lên một hồi rền rền ầm ĩ. Tiếng sấm mưa mới ”. Cơn mưa không chỉ được miêu tả
thông qua những âm thanh mà nó còn được miêu tả bằng cả cái “mùi” của trận mưa mới đầu mùa
hạ: “Mùi nước mưa mới ấm, ngòn ngọt, ngai ngái. Mùi man mác, xa lạ của những trận mưa đầu
mùa đem về”. Cái độc đáo, thú vị ở chỗ miêu tả “mùi” nhưng nhà văn lại diễn tả cái “mùi” ấy bằng
sự kết hợp của nhiều giác quan, thể hiện ở vị “ngòn ngọt”, mùi “ngai ngái”; và cảm giác “âm ấm”.
Một sự miêu tả thật tài tình cho thấy biệt tài miêu tả của nhà văn Tô Hoài. Phải có một sự quan sát
kỹ càng, một nhãn quan tinh tế thì mới có thể miêu tả đến tài tình, tinh tế như vậy.
Kết hợp với miêu tả âm thanh, mùi vị, nhà văn còn tái hiện những hình ảnh rất sinh động của
mọi vật trong cơn mưa. Tô Hoài đã miêu tả rất chi tiết về hình ảnh, hình dáng của những hạt mưa:
“những giọt mưa to thô lố lăn xuống mái phên nứa”, “xiên xuống, lao vào bụi cây”; “Mưa xầm
xập, giọt ngã, giọt bay”. Bên cạnh đó còn có hình ảnh mọi vật trong cơn mưa, hình ảnh“con gà
trống ướt lướt thướt hai đầu cánh nhấp nhô, còn loanh quanh tìm chỗ trú”; hình ảnh “người chạy
táo tác. Ngoài đường, trẻ con kêu ơi ới”, rồi hình ảnh “bao nhiêu người vác thùng, vác rổ ra bắt cá
rô rạch quanh bờ ao”. Miêu tả cơn mưa ở vùng nông thôn mà không có những hình ảnh sống động
đó thì đoạn văn sẽ thiếu đi nét quê rất đặc trưng, gần gũi và quen thuộc. Tác giả đã phát huy tối đa
hiệu quả những hình ảnh trực quan, tạo nên “trang phục” mới, độc đáo, thú vị cho những trang miêu
tả. Cho nên “có thể nói văn xuôi của Tô Hoài có chất thơ, chất nhạc và chất hoạ”. Có được những
tinh tế ấy cũng là nhờ bởi sự trau dồi vốn ngôn ngữ. Đọc những trang viết của Tô Hoài ta có cảm
giác ẩn chứa trong những trang viết ấy là sức lôi cuốn, thu hút người đọc. Chính vì vậy mà Phong
Lê từng nhận xét về Tô Hoài:“Lực lưỡng và liên tục cho đến tuổi già. Gắn bó và lôi cuốn người đọc
cho đến tuổi già".
Với Tô Hoài, thiên nhiên là nơi bộc lộ tài năng sở trường của mình, có lẽ vậy mà những bức
tranh thiên nhiên thường trọn vẹn, sinh động, muôn màu muôn vẻ. Thiên nhiên trong những tác
phẩm của ông luôn có hồn, tươi tắn đầy sức sống như sự tồn tại vốn có của nó. Để có được biệt tài
miêu tả sống động và tinh tế như thế, nhà văn Tô Hoài phải có sự trau dồi kho từ vựng phong phú,
đa dạng. Đối với ông, để có được kho từ vựng ấy, người viết văn phải luôn có ý thức học tập lời ăn
tiếng nói của nhân dân.
Trong Tự truyện, hồi kí Tô Hoài đã bộc lộ sở trường về việc sử dụng ngôn ngữ; nhà văn có
một kho từ vựng rất giàu có và phong phú nhờ ý thức học hỏi, cóp nhặt từ lời ăn tiếng nói hàng
ngày của nhân dân. Đồng thời vốn ngôn từ ấy còn ngày được bổ sung, được làm giàu thêm nhờ khả
năng sáng tạo từ ngữ mới của nhà văn cho nên mọi sự vật hiện tượng và nội dung trong tác phẩm
hiện lên thật cụ thể, sống động, giàu hình ảnh, cảm xúc và đậm chất thơ và cảnh vật trở nên sống
động, có hồn.

3.4.2. Kết hợp ưu thế của các loại giọng điệu trong trần thuật

Tài năng của người nghệ sĩ thể hiện qua phong cách sáng tạo giúp cho tác phẩm của họ vượt
qua quy luật băng hoại của thời gian. Nhà văn I.X. Tuốc - ghê - nhép nói: "Cái quan trọng trong tài
năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong
cổ họng của bất kì một người nào khác." (Dẫn theo Khrapchenkô) Cái giọng riêng biệt chính là
phong cách nghệ thuật độc đáo của người nghệ sĩ. Nó không thể có sự giống nhau hoặc trùng lặp ở
bất cứ nhà văn nào khác.
Nhà văn A.Tsêkhốp cũng nói: “Nếu tác giả không có lối nói riêng của mình thì người đó
không bao giờ là nhà văn cả. Nếu anh ta không có giọng riêng thì anh ta khó trở thành nhà văn
thực thụ”. Giọng điệu trần thuật chi phối bởi vào điểm nhìn trần thuật. Điểm nhìn trần thuật khác
nhau sẽ dẫn đến giọng điệu trần thuật khác nhau. “Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ
tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong nhà văn và tác
dụng truyền cảm tới người đọc, thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra được tác
phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu sắp xếp xong hệ thống nhân vật” [23].
Văn học cổ phương Đông quan niệm “điệu hồn” của tác phẩm văn chương là sự giao cảm
giữa con người và vũ trụ. Cái “hơi văn”, “chí khí”… toát ra ở các tác phẩm văn chương là “điệu
hồn”, là giọng điệu nghệ thuật của chủ thể nhà văn sử dụng có ý thức, có chủ định. Đó là quan niệm
cho rằng khi tâm hồn rung động trước sự tình sẽ thể hiện ở giọng điệu và giọng điệu này hình thành
nên “văn”. Vì thế, quan niệm xưa xem giọng điệu nghệ thuật là “điệu hồn” ngự trị ở tác phẩm văn
chương. “Điệu hồn” toát ra, được tạo nên bởi một tập hợp ngôn từ. Quan niệm hiện đại không xem
ngôn ngữ (chất liệu xây dựng nên tác phẩm văn chương) là những từ ngữ khô cứng câm lặng, mà
đặt ngôn ngữ vào môi trường “sinh thái” của nó, đó là môi trường giao tiếp, trả lại cho nó hình thức
và nội dung vốn có, không cách li môi trường sống của nó. Có như thế ta mới hiểu hết được giá trị
đích thực của phát ngôn được nói như thế nào. Đó là giọng điệu mang tính sáng tạo độc đáo ở mỗi
nhà văn, thể hiện tài năng của nhà văn trong sự chiếm lĩnh đời sống. Vì thế, Trần Đình Sử xem
giọng điệu văn học là hiện tượng “siêu ngôn ngữ”, là yếu tố hàng đầu của phong cách nhà văn”. Do
đó ta có thể hiểu rằng giọng điệu chứa đựng dấu ấn cá nhân, là sự biểu hiện về nhận thức, thái độ
của nhà văn đối với đời sống, để cuối cùng tạo ra giá trị tư tưởng cho tác phẩm văn học theo cách
nhìn riêng, theo quan niệm thẩm mỹ riêng của nhà văn.
Giọng điệu thuộc phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học, giúp ta hiểu rõ hơn về chiều sâu
và sự phong phú của chủ thể sáng tạo, đồng thời cũng giúp ta nhận ra nét riêng độc đáo của mỗi nhà
văn, nhà thơ. Để tạo nên dấu ấn riêng của mình, mỗi tác giả cần phải có một giọng riêng. Theo
Khrapchenkô: “Đề tài, tư tưởng, hình tượng chỉ được thể hiện trong một môi trường giọng điệu
nhất định, trong phạm vi của một thái độ cảm xúc nhất định đối với đối tượng sáng tác, đối với
những mặt khác nhau của nó”. Đi sâu hơn, khi nói về giọng điệu của mỗi cá nhân, ta cần xem xét,
đặt cá nhân đó trong bối cảnh lịch sử của thời đại. Giọng điệu cá nhân mang dấu ấn của dân tộc và
thời đại, bởi vì không có một nhà văn, nhà thơ nào có thể thoát li khỏi thời đại và dân tộc mình. Đó
là tính tất yếu của lịch sử văn học và càng tất yếu với những nhà văn. Là người luôn quan sát cuộc
sống bằng ánh mắt tinh tường và nhạy cảm, tác giả đưa những điều mình nhìn thấy, cảm nhận vào
thơ bằng một giọng điệu tâm tình, chân thật, lắng sâu.

3.4.3.1. Giọng điệu hài hước, dí dỏm

Giọng điệu trần thuật rất đa dạng phong phú như cuộc sống vốn có của nó. Ở Tô Hoài giọng
điệu trần thuật luôn giữ được bản sắc riêng: giọng hài hước dí dỏm pha chút mỉa mai, tinh quái. Có
thể nói đó là chất giọng khá ổn định mặc dù trước và sau Cách mạng, cũng có lúc nó xuất hiện đậm
nhạt khác nhau song nhìn chung là phổ biến. Bên cạnh giọng điệu khác, nó làm nên tính phức điệu
trong giọng điệu trần thuật của tác giả. Cùng với ngôn ngữ nghệ thuật, giọng điệu làm nên một giá
trị riêng trong việc biểu lộ sắc thái tình cảm của nhân vật và tư tưởng của nhà văn đối với hiện
tượng được miêu tả. Sự chuyển hướng từ cái nhìn sử thi sang cái nhìn thế sự, nhân bản đời thường
giúp cho các nhà văn cảm nhận cuộc sống ở nhiều cung bậc khác nhau, đem đến hiện tượng đa sắc
thái, đa giọng điệu trong các tác phẩm văn học. Tô Hoài đã tìm tòi, vận dụng một bút pháp vừa
truyền thống vừa hiện đại, tạo cho mình một giọng điệu phù hợp với cái tạng vừa sâu sắc, hóm hỉnh,
vừa nhẹ nhàng, tinh tế.
Giọng hài hước dí dỏm, Tô Hoài viết về Anh Thơ: “Bà ấy mà mê Nguyễn Bính, chưa chắc
Bính đã xúc động liền. Bính nó có hàng trăm gái theo ấy chứ. Anh Thơ lúc trẻ cũng xấu, lợi hở như
miếng thịt trâu. Tính tình đồng bóng. Sang Liên Xô với Nguyễn Văn Bổng, Thanh Tịnh lại hỏi thăm
Goocki, tưởng ông ấy còn sống” [68]. Cuối cùng nhà văn kết luận một cách rất hóm:“Anh Thơ mà
đẹp là chết với tôi rồi”. Độc giả không thể không cười thú vị khi đọc đến câu văn này.
Điều làm ta thú vị khi đọc Tự truyện, hồi kí của Tô Hoài là mặc dù giọng hồi tưởng nhẩn nha
mà không đơn điệu tôi vì giọng kể chuyện dí dóm, hài hước. Khi tác giả biến những điều thiêng
liêng thành cái buồn cười, khôi hài khiến người đọc thấy vui: “Về việc đi theo đạo, bà tôi thường kể
T
3

lại một câu chuyện buồn cười. Chặp tối, các dì tôi quì cầu kinh giữa nhà. Thầy giáo làm lễ bên
cạnh. Thầy để ý nghe lời cầu kinh của dì tôi. Thầy nghe tiếng rì rầm đều đều Đức Chúa Lời... Đức
Chúa Lời... có mười cái răng... Đức Chúa Lời có mười cái răng... Đức... Dì tôi quì, hai mắt nhắm
tịt, cái đầu gật gưỡng. Tan lễ, thầy giáo gọi dì tôi đến, bảo đọc lại câu kinh. Dì tôi đọc lại: Đức
chúa Lời có mười cái răng. Cả nhà không ai dám cười. Thầy giáo nghiêm trang bảo: "Bận sau, nhớ
cầu Đức chúa Lời có mười điều răn... Đọc lại nào" [76]. Sự khôi hài đó làm người đọc phải bật
T
3

cười theo.
Giọng hài hước, dí dỏm sinh động, chân thật đến mức hồn nhiên trong Cỏ dại. Ai đã qua tuổi
thơ cũng bắt gặp mình trong đó. Đọc những trang văn của Tô Hoài ta vừa thấy buồn cười vừa thấy
thương quá về tuổi thơ. Có lẽ vì sự hài hước, hóm hỉnh này mà Tô Hoài trở thành nhà văn của nhiều
lứa tuổi. Trong dòng hồi tưởng về ấu thơ ta đã nhận ra chất giọng hài hước, dí dỏm, một cái nhìn
giễu cợt về mình: “Một buổi kia, đương ngồi, tôi chợt buồn đi đái. Thôi chết. Tôi đã thấy có những
đứa thường khoanh tay, thò đầu lên bàn thầy", “xin thầy cho đi giải ạ” Tôi cũng sẽ lên thưa thầy
một câu, tôi cũng được đi. Nhưng tôi không dám lên. Tôi cứ ngồi im, chốc chốc nhăn nhó nhìn trộm
thầy…” [76,45]. Hay có hôm ngủ mê Cu Bưởi đái dầm: “Một đêm kia, tôi ngủ mê thấy được về chơi
nhà. Lâu lắm mới được về. Lạ quá, trước nhà có cây cam quả chín đỏ ối. Tôi hái ăn chán chê. Rồi
tôi chạy ra ngõ. Tôi đứng trên đầu cây gỗ. Tôi vén quần cẩn thận. Tôi đái một bãi chơi. Tôi sực
tỉnh. Quần tôi ướt hết đũng. Mặc phản ẩm nhơm nhớp. Quần ướt quá. Tôi ngồi, hai mắt ráo hoảnh.
Cơn ngủ đã tan mất. Tôi khấn thầm, cầu cho cái quần chóng ráo…” [76,78].
Trong Tự truyện, hồi kí ta còn nhận thấy có sự đan cài, pha trộn nhiều giọng điệu khác nhau
trong cùng một tác phẩm song nổi bật lên vẫn là nụ cười hài hước dí dỏm, có khi trong dòng hồi
tưởng về mẹ, bên cạnh những tình cảm thương yêu, kính trọng độc giả vẫn nhận ra giọng điệu tinh
quái dí dỏm vốn có của nhà văn và cũng trong cái tinh quái dí dỏm ấy là một nỗi buồn chua chát về
cuộc đời, kiếp người nghèo khổ, tù túng không có hy vọng vào tương lai:“Tôi còn nhớ có buổi
chiều, không biết u tôi đi đâu về. Ngoài ngõ tiếng chó sủa inh ỏi. Tôi chạy ra, thấy u tôi đương rối
rít cuống queo xua con chó vện của nhà cứ lăn xả vào cắn. Tôi phải quát thật to, nó mới gầm gừ
chịu lùi. Thì ra con chó hoa mắt. Hôm ấy u tôi mặc áo cánh trắng. Xưa nay con chó nhà đã quen
mắt với cái áo nâu của u tôi. Chưa bao giờ u tôi có cái áo trắng” [76]. Hình ảnh người mẹ lam lũ,
vất vả trong con mắt nhà văn vẫn đôi chút pha thêm sự dí dỏm, hài hước, nghịch ngợm mà khi đọc
nên người đọc vẫn thấy xót xa thấm buồn trước một kiếp người trong cuộc sống.
T
4Chính giọng kể chuyện hài hước và trí tưởng tượng khiến cho chúng ta biết dù đó không phải
là sự thật, người lớn không bao giờ tin nhưng với trẻ nhỏ thì đầy thú vị và thôi thúc trí tưởng tượng:
"Ngoài bể có giống cá ông voi to bằng cái đình làng ta. Ném chùm dừa xuống nó nuốt chửng. Ném
cái cối đá xuống nó cũng nuốt. Một lần kia, con cá ông voi nuốt cả một cái thuyền và một nhà
thuyền chài. Anh chài ở trong bụng cá cứ lấy dao lóc thịt cá ông voi mà chén. Như vậy, sống được
một tháng. Cứ đến bữa anh chài xẻo thịt, cá ông voi đau quá, chạy cuồng khắp bốn bể. Rồi kiệt sức,
lên nằm chết trên bãi cát. Anh thuyền chài can đảm kia rạch bụng cá chui ra, lại còn kéo được cả
thuyền của mình ra nữa" [76,61]. Cách kể cứ như truyện cổ tích ngày xưa mà vẫn làm cho tuổi thơ
ta say đắm bởi niềm tin có thật.
T
4Giọng kể hài hước của trẻ thơ trong cách nhìn đối với tín ngưỡng:“Tưởng vào đâu, hoá bà
tôi dặn vào rừng Ông Cụ. Đầu làng tôi có một cái miếu trong đám cây ruối bùm tum. Miếu thờ một
con hổ bằng đá. Gọi là rừng Ông Cụ. "Ông Cụ" ngồi rụm hai chân sau, nhìn ra, trong cái hang
gạch. U tôi cầm cái dùi, thỉnh mấy tiếng côông côông vào cái chuông bé như chiếc bát úp treo lủng
lẳng trên cái rễ si ngoằn ngoèo thò xuống. U tôi xuýt xoa lễ. Tôi ngả mũ, cũng chắp tay lễ. Tôi nhìn
ông Cụ Mắt ông Cụ bằng đá, cũng trắng xanh nhệch nhạc. Ông hổ mà trông xoàng như con mèo”
[76,69]. Vẫn là cái giọng hài hước khi tác giả biến những điều thiêng liêng thành cái bình thường,
T
4

đáng buồn cười.


Tô Hoài đã tìm tòi, vận dụng một bút pháp vừa truyền thống vừa hiện đại, tạo cho mình một
giọng điệu phù hợp với cái tạng vừa sâu sắc, hóm hỉnh, vừa nhẹ nhàng, tinh tế. Giọng điệu trần
thuật rất đa dạng phong phú như cuộc sống vốn có của nó. Ở Tô Hoài giọng điệu trần thuật luôn giữ
được bản sắc riêng: giọng hài hước dí dỏm pha chút mỉa mai, tinh quái. Trong hồi kí vẫn giọng văn
hài hước Tô Hoài viết: “Tôi mới viết truyện ngắn Ông giăng không biết nói đăng tuần báo Tiểu
thuyết Thứ bảy:
"Gã yêu em. Em sắp về nhà chồng rồi mà cứ như không. Đêm hội chèo, tay đôi còn đưa nhau
ra ngoài đồng, bên cái giếng thơi đầu xóm. Gã gặng hỏi. Nhưng em lắc đầu bảo không, rồi khóc.
Mọi khi thì chẳng dám nói. Nhưng hôm ấy thong thả phiên chợ tơ, lại có chèo hát sân đình, gã hơi
ngà ngà một chút. Gã sửng cồ lên:
- Ông biết thừa ra rồi. Ông hỏi thử chơi đấy thôi. Ông biết mười hai tháng sau cưới mày. Đồ
khốn nạn!
Người con gái vùng chạy. Gã say rượu khát cháy cổ, cúi đầu hớp nước ngã lộn xuống, chết
đuối trong giếng. Thế rồi ngày 12 tháng sau, ả nọ về nhà chồng. Từ đấy, mỗi lần về xóm nhà mình
không bao giờ em dám đi tắt cánh đồng qua lối men bờ giếng. Nào ai biết đâu cái chết éo le thương
tâm của người con trai. Nông nỗi đêm ấy chỉ có mỗi một ông giăng chứng kiến. Nhưng ông giăng
lại không biết nói. Trong nhà hát ở Vĩnh Hồ, Vũ Hoàng Chương chắp tay bái tôi:
- Lạy huynh, huynh nhất thiên hạ, huynh đã rõ tâm tình đệ. Ông thử hỏi chơi đấy thôi. Ông
biết mười hai tháng sáu thì cưới mày... Ha ha, lạy huynh...
Tôi bảo:
- Mắt ông viền vải tây rồi.Câu của tôi là “mười hai tháng sau”, không phải “mười hai
tháng sáu”, không phải.
Vũ Hoàng Chương cãi:
Không, “mười hai tháng sáu” mới đúng cái đau của đệ, huynh đã cho đệ nén “mười hai
tháng sáu”, không, mười hai tháng sáu: huynh cứ cho đệ đọc cái ngày tuyệt mệnh ấy là mười hai
tháng sáu ” [63,152 - 153].
Giọng điệu trong Tự truyện, hồi kí Tô Hoài hóm hỉnh, hài hước ngay với cả chính mình. Ông
tự nhận xét: “Tôi là con ếch Cu Ba,ở rừng thì da xanh thẫm lá rừng, ở ruộng mía thì lổ đổ màu lá
mía, đến mùa hoa, lưng ếch chấm đỏ, chấm vàng như cánh hoa rơi” [68,173]. Giọng văn dí dỏm
khiến người đọc dù nghe chuyện về những nhà văn ít tên tuổi như Sao Mai (sinh 1924) cũng không
chán: “Tôi lại khoái ông có máu đa tình mà lại chung thuỷ. Léng téng với ai rồi cũng lấy người ta.
Nghe nói ông mới có phòng mới (...) vừa cai nghiện (...) bằng một liều thuốc dân gian, mạnh và dữ,
phải có nghị lực mới cai được (...) Bài thuốc cai của Sao Mai có gia giảm cả vị phụ nữ" [68,25 -
27]. Tô Hoài không nói rõ là gia hay giảm...Cái giọng hài hước ấy hiển hiện trên câu chữ và người
đọc sẽ nhận ra. Ông khôi hài, thâm thúy khi viết về Phan Khôi: “Mình đọc Phan Khôi nhiều đến thế
từ thuở bé, ông phải khoái lắm chứ. Thế mà ông ấy đốp một câu: “Tôi chưa xem bài nào của anh.
Chẳng biết anh viết ra cái gì. Nghe có người nói anh viết truyện con giun, con dế” [68,40]. Lý Hoài
Thu nhận xét về giọng điệu Tô Hoài: “Thâm hậu mà dung dị, thì thầm mà không đơn điệu, nhàm
chán, lan man tí chút nhưng không kề cà, vô vị, không chút u mặc với cái giọng khơi khơi mà nói, ai
muốn nghe thì nghe, không bắt buộc nghe rồi hiểu” [50]. Giọng điệu vừa hài hước vừa chua xót.
Vì sao trong tự truyện, hồi kí lại có giọng điệu hài hước, hóm hỉnh? Vì đối tượng cười thứ
nhất là những người thân trong gia đình. Thứ hai là giới bạn văn chương của mình – là những người
trí thức, những người nghệ sĩ – đó là cười những cái chưa được của bạn mình và của chính mình –
nụ cười hóm hỉnh sâu sắc mà không cay độc, không cười cho hả dạ mà nhiều khi cười buồn, cười
xót xa. Thứ ba nhiều khi những điều giễu cợt mỉa mai không phải dành cho những nhân vật mà ông
phác hoạ chân dung. Mà là thái độ của ông đối với một thời kì đen tối, “đêm sâu tiền cách mạng”,
thái độ phê phán ẩn dưới một giọng điệu hóm hỉnh, giễu cợt. Không chỉ là thái độ của riêng ông mà
đây là thái độ của cả một lớp người viết thời ấy.

3.4.3.2. Sự hòa quyện phức hợp của những giọng điệu trần thuật

Giọng điệu trần thuật trong tác phẩm của Tô Hoài luôn giữ được bản sắc riêng: mỉa mai,
bóng gió pha chút gai góc, tinh quái. Đó là chất giọng khá ổn định ở cả trước và sau Cách mạng,
mặc dù mức độ đậm nhạt có khác nhau. Nhưng bên cạnh giọng điệu ấy, nhà văn còn sử dụng nhiều
giọng điệu, nó làm nên tính phức điệu trong giọng điệu trần thuật của tác giả. Vừa bi, vừa hài, cái
đáng cười lại rất thương tâm, đó chính là giọng điệu mang bản sắc riêng của Tô Hoài.
Giọng trữ tình, bùi ngùi, xót xa.
Do tính chất hồi cố, chỉ nhìn nhận, “ôn lại” sự việc từ độ lùi của một khoảng thời gian
thường là đã khá xa, cho nên tự truyện, hồi kí thường thiên về giọng trần thuật điềm tĩnh, chậm rãi,
ít đi vào các xung đột kịch tính, nhưng rất giàu tiềm năng gây rung động cảm xúc. Do nhu cầu diễn
tả thành thực và tha thiết nhất những cung bậc tình cảm riêng của cá thể nghệ sĩ, câu văn thường
miên man, trải dài, xuôi theo dòng cảm xúc, tạo nên một âm hưởng trầm lắng, rưng rưng như những
lời tâm tình đầy xúc động. Lời văn tuy đóng khung trong thể loại tự sự nhưng lúc nào cũng có chiều
hướng xô tràn sang địa giới trữ tình. Giọng văn thuộc gam trầm và buồn, lắng sâu trong tâm thế hồi
có miên man run rẩy, rưng rưng trong những xúc động, thương cảm, đau đớn chân thành, xót xa,
nghe như những tiếng thở dài đau xót. Khuynh hướng nghệ thuật hướng nội, lấy tình cảm, cảm xúc
cá nhân để làm chất liệu chủ yếu cho tác phẩm, được thể hiện đậm nét trong lời văn nghệ thuật.
Giọng điệu của tiếng nói tâm hồn trẻ thơ đầy khắc khoải, nhạy cảm cực độ trước đau thương và
hạnh phúc ở đời. Giọng kể tâm tình, những trang văn thẫm đẫm cảm xúc trữ tình. Khi nhân vật tôi
4T

thể hiện tấm lòng đồng cảm với số phận nhân vật trong tác phẩm "Không gia đình" của Hector
Malot như bắt gặp một người đồng cảnh, một người bạn thấu hiểu. Qua giọng kể cho thấy nhân vật
tôi có một tâm hồn tinh tế, giàu lòng nhân ái. Đó cũng là một tố chất quan trọng để sau này trở
thành nhà văn của tình yêu thương: "Cuộc đời lưu lạc của thằng bé trong truyện cứ như trông thấy
ở mỗi dòng chữ. Tôi mê man theo thằng bé từ lúc nó bỏ nhà đi theo ông già làm xiếc. Cái lúc thằng
bé đứng trên ngọn đồi nhìn lại túp lều nhà mình trước còn rõ, sau mờ. Mắt tôi cũng mờ. Rồi nó
quay mặt, quả quyết bước theo ông già. Tôi cũng theo nó. Cũng buồn, cũng giận, cũng tủi cùng
chung nỗi cảm thương với người bạn xa xôi mà gần gũi đó. Tôi giấu quyển truyện trong gầm
giường, chỉ lo ai lấy trộm mất. Tôi tưởng rồi suốt đời tôi không thể xa được anh bé trong truyện
nữa" [76,77]. Những câu văn đầy cảm xúc, tình cảm của tác giả truyền qua nhân vật và lan rộng
những vòng sóng âm vang vào lòng người đọc. T
4
Giọng kể của sự hồi tưởng, trong mỗi câu chữ có cảm xúc của chủ thể trần thuật rất
rõ.“Nhưng cũng có những buổi chiều, ông tôi uống rượu hiền lành và kể biết bao nhiêu chuyện
4T

ngày xưa. Không phải là chuyện “Tấm Cám” hay “Ngốc buôn vôi, buôn quít” của bà tôi. Đây là
chuyện ngày xưa của ông tôi. Ông tôi có mặt trong những câu chuyện ấy. Tôi nhìn ông, kính cẩn
trông thấy ông tôi rất oai trong tưởng tượng” [76,15]. Hướng ngòi bút tới người dân lao khổ thì trái
T
4

tim nghệ sĩ trở nên buồn với giọng trần thuật trở nên xót xa, thương cảm: “Mỗi lần nhớ lại những
ngày ở Cầu Am, tôi chỉ nhớ phảng phất thế, nhưng những nét xoáy cắt vào kỷ niệm cứ long lanh
như những nhát khía...Mọi người đều tốt bụng và đều khổ mà có người khổ đến phải đi trẫm mình
vào cái ao có ma đằng sau nhà thương. Nhà bác hàng nước vẫn cãi nhau với vợ bác cu-li san,
nhưng đôi lúc lại rơm rớm nước mắt” [76,160].
Qua giọng điệu trần thuật mà ta cảm thấy nhói lên nỗi buồn về cảnh vật và con người trong
tác phẩm. Ta thấy bao trùm lên toàn bộ tác phẩm là giọng điệu trữ tình mang sắc thái bùi ngùi cảm
động. Sắc thái giọng điệu này thường bộc lộ khi nhà văn viết về những gian truân trong cuộc sống
sinh hoạt và hiện thực mà bản thân mỗi con người phải đối mặt, bởi đó là quy luật của cuộc sống.
Giọng điệu trần thuật của Tô Hoài, một không khí u buồn, đen tối đè nặng trong tác phẩm. Tác giả
không đi vào phản ánh những mâu thuẫn giai cấp dữ dội, quyết liệt song người ta thấy được tất cả
sự buồn chán về một kiếp người, buồn về sự cùng quẫn, bế tắc. Hình ảnh tác giả trong những ngày
lang thang kiếm sống trong trường đời, hết bán giầy Bata đến làm nghề kế toán sổ sách giấy tờ cho
hãng, rồi những ngày thất nghiệp lang thang vất vưởng, thậm chí cả những ngày phải đi ăn mày ở
cửa chùa để kiếm “miếng cơm manh áo”, những ngày phiêu bạt ra Hải Phòng: “Tôi cũng phải đi ra
Hải Phòng rồi. Bạn bè cũng đang giúp tôi chuyến đi. Các bạn vừa muốn tôi tìm được công ăn việc
làm, vừa đỡ phải cưu mang. Bởi ai cũng đại khái túng kiết xơ mướp như tôi cả", “Chẳng qua vì tôi
không bấu víu vào đâu được nữa tôi phải “lên đường” đi cầu may” [76,201].
Giọng điệu cứ bùi ngùi xúc động không phải được tạo ra bởi từ sự gia công của câu chữ, mà
xuất phát từ tình cảm chân thành của tác giả. Những ngày thất nghiệp lang thang kiếm việc ở Hải
Phòng, khiến nhà văn không khỏi thấm thía cảnh khổ đau của cái nghèo. Giọng điệu ấy lại thật da
diết:
“Cần bâng khuâng hỏi tôi trong bóng tối:
- Không biết đời chúng mình cứ thế này đến bao giờ.
Tôi không hiểu Cần băn khoăn về cuộc đời theo nghĩa đen hay nghĩa bóng, còn tôi thì tôi
đang nghĩ đến một cái gì mơ hồ buồn lắm" [76, 208 -209].
Âm hưởng bùi ngùi da diết trải dài trong nhiều tác phẩm của Tô Hoài bắt nguồn từ hiện thực
của cuộc sống. Những năm trước Cách mạng, là cuộc sống quẩn quanh tù túng khiến con người bế
tắc trong mưu kế sinh nhai. Họ lâm vào cảnh cùng đường tuyệt vọng. Sau Cách mạng, âm hưởng da
diết bùi ngùi chỉ xuất hiện khi nhà văn nhớ về những kỷ niệm buồn xưa hoặc bản thân phải đối diện
với qui luật tất yếu của một đời người. Giọng điệu trữ tình sâu lắng khi Tô Hoài thể hiện nỗi
thương cảm với số phận con người. Ông nghĩ về cuộc đời Nguyễn Bính: “Những cùng quẫn tự
chuốc, những thương đau vơ vào, mình lại đầy ải mình, thân làm tội đời, cả những ngày còn lại này
mà vẫn không nguôi” [63,61]. Ông thấy xót xa, cho Nguyễn Tuân – một người có thú ham đi mà
cuối đời không còn đi được: “Đi đâu, đã không còn bay nhẩy được, giờ đây thêm cái day dứt, cái
bực bội của con người ngày ngày quanh quẩn mở đóng cửa sổ” [63,325]. Tô Hoài boăn khoăn, trăn
trở về nghiệp văn: “một đời viết được tuyển vào có hai quyển, nhìn sách mà chẳng nói nên lời”
[63,324 - 325]. “Cuộc sống còm cõi, ngòi bút và đồng lương không cho người viết kiếm đủ miếng
ăn, cả đến mặt mũi và con mắt cũng mòn mỏi dần” [63,312]. Nhà văn ngậm ngùi, chua xót khi nói
đến tình cảm đồng đội, đồng chí: “Có phải những câu hò ngẩn ngơ não lòng trong đêm lạnh giữa
những con người đã trải mấy cuộc đời làm rơi nước mắt xuống đường phố như dòng sông miên
man, nhớ nhà mà mừng trở về không còn, lệ ai chan chứa, biết đi đâu về đâu như khi còn ở rừng
Thượng Yên, khóc cũng chẳng vì lẽ gì. Nguyễn Tuân nhìn Aki. Nguyễn Tuân rút khăn tay chấm nước
mắt” [63,48].
Rõ ràng, bên cạnh giọng điệu dí dỏm hài hước, giọng điệu chủ đạo của Tô Hoài còn là giọng
trữ tình với nhiều sắc thái tình cảm. Tô Hoài là nhà văn của con người và cuộc sống đời thường, ở
đó ông bộc lộ thái độ trước muôn màu, muôn vẻ của cuộc sống. Cái sắc thái làm nên giọng điệu chủ
đạo của Tô Hoài trong Tự truyện, hồi kí đã chứng tỏ nhà văn sống trọn vẹn với con người và cuộc
đời cả lúc vui cũng như lúc buồn, cả lúc khổ đau cũng như lúc sung sướng hạnh phúc. Nhờ giọng
điệu này mà chúng ta có thể nhận ra rằng, từ những sự việc vốn bình thường trong cuộc sống cũng
có thể trở thành chất liệu muôn đời cho văn chương.
Giọng triết lí, suy tư
Kết hợp với giọng trữ tình, bùi ngùi, xót xa là “giọng điệu suy tư triết lý”. Là nhà văn luôn
gắn bó với đời sống xã hội, trăn trở với những vấn đề bức xúc của thời đại. Nhà văn chiêm nghiệm
về con người: “Người đời hay tránh cái đau, cái hèn kém cả đến trong ăn nói cũng kiêng những
tiếng thô, tiếng bỗ bã” [68]. Trải nghiệm cuộc sống giúp nhà văn nhận ra sự thay đổi trong ý nghĩa
của việc dùng từ ngữ: “Ngày nay người ta dùng lẫn nghĩa hai chữ “theo dõi” mà nghĩa một thời của
nó không đẹp đẽ lịch sự như đài báo “cảm ơn bạn đọc và người nghe đã theo dõi”. Không, chỉ có
mật thám theo dõi người bị tình nghi, đội xếp theo dõi kẻ cắp sắp móc ví. Nghĩa thời trước của hai
chữ “theo dõi” là vậy” [63,70]. Trong tác phẩm Những gương mặt: "Những điều ấy khác nhau như
mưa với nắng hoàn cảnh người cầm bút hôm nay với người cầm bút chúng tôi ở lứa tuổi thanh niên.
Chúng tôi những cánh bèo vật vờ. Có thể phơi phới ra biển khơi mênh mông. Có thể giạt lên khô
héo trên bờ cát". Bởi hiện thực cuộc sống sẽ ảnh hưởng tới từng số phận con người mà lớp nhà văn
thì sự tác động ấy có thể càng lớn. Giọng điệu suy tư, triết lý trong hồi kí Tô Hoài thể hiện sự sắc
sảo của nhà văn khi nghĩ về cuộc sống, về con người. Tô Hoài triết lý về sự thay đổi đến không ngờ
của cuộc sống: “Nhiều khi những thay đổi khác nhau đến không ai có thể nghĩ trước ra được. Cái
đáng ghét hôm qua bỗng nhiên trở nên cái ưa nhìn hôm nay” [75,465].
Tô Hoài hiểu ra sự đời đa đoan: "Thế nhưng, những câu: "người ta bảo ông nói thế này... thế
này.." vẫn vo ve đến. Cho hay cũng là thói đời. Câu nói mát mẻ, xỏ xiên, các thứ tiếu lâm thời thế ở
đâu đâu hay quàng đến mượn tiếng Nguyễn Tuân bất mãn. Nhiều đến độ người nọ thổi vào tai
người kia, nếu tò mò cộng lại, cũng không thể tin cái ông nhà văn dẫu có tiếng là ngạnh trê đấy,
nhưng chắc cũng không hơi sức đâu bịa ra lắm chuyện đổng giả thế. Nhưng đồn thì cứ đồn"
[63,75]. Chẳng phải là trong Cát bụi chân ai, nhiều chỗ tác giả không muốn giấu mình nữa mà
đứng bật dậy phát biểu về sự đời “Ôi thôi não nùng trần ai". “Đầu tôi nặng trĩu mưa gió". Nói gọn
lại là đời đẹp và buồn thì cố nhiên nhiều người đã có ý ấy rồi , song ở đây Tô Hoài đã sống cái cảm
giác ấy một cách thấm thía và ông biết truyền nó sang người đọc theo cái cách riêng của mình.Và ở
chỗ này, nhà văn tưởng chỉ dán mắt nhìn vào các mảnh đời lụn vụn thực ra đã vươn tới cái điều mà
các tác giả lớn xưa nay vẫn khái quát. Cái quan trọng nhất vẫn là cái giọng riêng, "dấu vân chữ" trên
trang viết. Thành công của nhà văn Tô Hoài là tìm thấy lại cái bóng tỏa rộng của mình trên những
trang hồi kí. Mà như Vương Trí Nhàn đã nhận xét một cách chí lí: "Dường như cả cuộc đời từng
trải đã chuẩn bị cho những trang viết hôm nay của ông . Hồi kí là nơi cả con người tác giả cùng cái
triết lý mà ông mơ hồ cảm thấy và đã theo đuổi suốt đời, cả hai có dịp bộc lộ đầy đủ nhất" [76,942].
Có thể nói, ngòi bút của Tô Hoài luôn linh hoạt, sáng tạo trong sử dụng giọng điệu trần thuật. Đời
sống và con người trong hồi kí, tự truyện của Tô Hoài có lúc hiện ra qua giọng điệu trữ tình sâu
lắng, lúc hóm hỉnh, dí dỏm, hài hước nhưng cũng đậm chất triết lý, suy tư. Quá trình tiếp xúc với
văn hóa phương Tây đã tạo ra những điều kiện căn bản cho sự hình thành và phát triển của thể loại
hồi kí, tự truyện Việt Nam: sự nổi trội của tình cảm, cảm xúc; giọng điệu tâm tình, hài hước, dí
dỏm… Quá trình mở rộng các giới hạn giao lưu văn hóa trong thời kì đổi mới đã thúc đẩy cho thể
loại này chuyển biến và hiện đại hóa một cách căn bản: sự xuất hiện của giọng điệu đa dạng, phức
hợp. Điều đó tạo nên đặc trưng riêng về giọng điệu của hồi kí, tự truyện Tô Hoài trong hồi kí, tự
truyện Việt Nam hiện đại.
Tiểu kết chương 3

Sức hấp dẫn của hồi kí – tự truyện là nghệ thuật trần thuật hiệu quả. Trần thuật trình tự theo
dòng hồi ức vì tự truyện, hồi kí luôn tôn trọng sự thật nhưng đôi khi phải giải quyết mâu thuẫn, hài
hòa giữa diễn biến sự kiện trong dòng hồi ức nên phải kết hợp dòng hồi ức và diễn biến câu chuyện.
Tô Hoài đã kết hợp trần thuật theo diễn biến sự kiện và trần thuật theo dòng hồi ức một cách linh
hoạt tạo nên mạch trần thuật sinh động, sáng tạo. Tác giả kết hợp linh hoạt giữa các kĩ thuật tăng
tốc, giảm tốc, đảo thuật, dự thuật. Nghệ thuật hòa phối điểm nhìn trong tự truyện, hồi kí cũng rất
quan trọng. Điểm nhìn của chủ thể nhân vật tôi không đơn giản mà có sự phối hợp giữa các điểm
nhìn khác tạo ra cảm xúc về cuộc sống đa chiều, nhiều mặt, sự việc có khi được nhìn ở điểm nhìn
của chủ thể, Tô Hoài tự kể về những việc ông nhớ lại nhưng có khi dùng điểm nhìn của chính nhà
văn hoặc của một nhà văn nhân vật về một nhà văn khác từ đó đưa ra nhận xét. Nghệ thuật kết hợp
ưu thế của các loại diễn ngôn. Kết hợp các diễn ngôn lại với nhau để tạo ra một hiệu quả nghệ thuật.
Trong Tự truyện, hồi kí Tô Hoài đã bộc lộ sở trường về việc sử dụng ngôn ngữ, nhà văn có một kho
từ vựng rất giàu có và phong phú nhờ ý thức học hỏi từ lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Tô
Hoài đã sáng tạo và phát huy tối đa sức mạnh ngôn ngữ. Tự truyện, hồi kí của Tô Hoài có giọng
điệu rất linh hoạt. Tô Hoài đã tìm tòi, vận dụng một bút pháp vừa truyền thống vừa hiện đại, tạo cho
mình một giọng điệu phù hợp với cái tạng vừa sâu sắc, hóm hỉnh, vừa nhẹ nhàng, tinh tế.
KẾT LUẬN

Tô Hoài là một gương mặt tiêu biểu trong văn học Việt Nam hiện đại. Tô Hoài có một sức
sáng tạo mạnh mẽ, dài hơi, kiên nhẫn, đều đặn và liên tục, đủ để đưa ông trở thành một trong những
cây đại thụ của nền văn học Việt Nam. Ở mảng sáng tác nào, ông cũng có những thành công và ghi
được dấu ấn riêng. Riêng ở thể hồi kí, tự truyện ông cũng đã khẳng định được tài năng và sức sáng
tạo mãnh liệt của mình.
1. Trong quá trình tiếp cận tác phẩm của Tô Hoài, đặc biệt ở thể hồi kí, tự truyện. Hai thể loại
tự truyện và hồi kí – vốn rất gần gũi nhau. Việc đầu tiên chúng tôi thấy sự cần thiết và tính tương
đối khi phân biệt tự truyện, hồi kí trong nghiên cứu sáng tác của Tô Hoài. Phải dựa vào kết cấu,
nhân vật và kiểu tư duy của tác giả để xem xét. Điểm để nhận rõ được sự khác biệt là yếu tố cảm
xúc, tình cảm cá nhân của tác giả trong phản ánh hiện thực. Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi rút
ra một số kết luận như sau:
2. Nghệ thuật tái hiện, tái tạo hồi ức thông qua cái tôi trong tự truyện – hồi kí Tô Hoài. Đó là
thế giới của hồi ức, thời gian thuộc về quá khứ có một khoảng lùi. Nhà văn đứng trong thời điểm
hiện tại khi đã trưởng thành, đứng tuổi để nghĩ về quá khứ trong đó có gia đình, quê hương bối cảnh
xã hội được nhớ lại, ghi lại. Hiện thực không phải như trong truyện ngắn, tiểu thuyết mà hiện thực ở
đây là trong quá khứ có một khoảng cách về không gian thời gian so với hiện tại trong tác phẩm.
Hồi ức được hồi tưởng lại chỉ khi những hình ảnh trong cuộc sống dội vào trái tim tác giả những
nhịp đập dữ dội, gây ấn tượng mạnh, đủ sức sống dậy cảm xúc mãnh liệt. Thế giới trong hồi tưởng
được lọc qua trí nhớ, qua tâm hồn, qua tình cảm nên thấm đẫm cảm xúc trữ tình, suy tư trải nghiệm.
Hiện thực thuộc về hôm qua được nhìn lại để suy ngẫm. Nói cái hôm qua để gián tiếp nói đến cái
hôm nay. Chính vì thế, cách nhìn thể loại đã chi phối các đặc điểm khác của nghệ thuật hồi kí và tự
truyện.
3. Nghệ thuật đi tìm tiếng nói bên trong cái tôi hồi kí, tự truyện của Tô Hoài. Nếu đọc một
bài thơ ta gặp gỡ một tâm hồn thì khi đọc hồi kí, tự truyện ta sẽ nhận ra tác giả là ai ? là người như
thế nào, bởi mỗi trang viết đã in đậm dấu ấn cá nhân tác giả. Nghệ thuật bộc lộ cái tôi, tác giả đã
dùng bằng cách đặt nhân vật vào hoàn cảnh sống cụ thể, thông qua cách hồi tưởng, dùng câu văn,
ngôn ngữ đối thoại, độc thoại để nhân vật tự biểu hiện, tự bộc lộ tính cách. Đặt điểm nhìn nơi nhân
vật sẽ có lợi thế vì nó vừa tả hiện thực vừa trực tiếp nhập vào nhân vật để bộc lộ thái độ suy nghĩ
thông qua sự đối thoại độc thoại để khám phá thế giới bên trong của nhân vật. Bởi vì nhân tố đối
thoại, độc thoại là đặc tính quan trọng của hoạt động ngôn từ, trả lại cho ngôn từ hình thức nói vốn
có của nó như trong đời sống thực. Nghệ thuật khắc họa xây dựng nhân vật khác bằng hồi ức, thông
qua hồi ức. Những nhân vật người thân trong gia đình và bạn văn gần gũi hiện ra qua kí ức hồi
tưởng của tác giả rất bình dị, đời thường và nhiều cảm động. Tô Hoài đã khuấy động vào con tim
khối óc chúng ta về những con người có số phận lênh đênh, tài hoa nhưng cũng lắm gian truân. Nhờ
Tô Hoài chúng ta đã hiểu thêm được những người nghệ sĩ tài ba ở những cự li gần nhất và hơn hết
hiểu được sâu sắc “nghề văn” – một nghề cao quí nhưng cũng đầy gian nan.
4. Sức hấp dẫn của hồi kí – tự truyện là nghệ thuật trần thuật hiệu quả. Trần thuật trình tự
theo dòng hồi ức vì tự truyện, hồi kí luôn tôn trọng sự thật nhưng đôi khi phải giải quyết mâu thuẫn,
hài hòa giữa diễn biến sự kiện trong dòng hồi ức nên phải kết hợp dòng hồi ức và diễn biến câu
chuyện. Tô Hoài đã kết hợp trần thuật theo diễn biến sự kiện và trần thuật theo dòng hồi ức một
cách linh hoạt tạo nên mạch trần thuật sinh đông, sáng tạo. Tác giả kết hợp linh hoạt giữa các kĩ
thuật tăng tốc, giảm tốc, đảo thuật, dự thuật. Nghệ thuật hòa phối điểm nhìn trong tự truyện, hồi kí
cũng rất quan trọng. Điểm nhìn của chủ thể nhân vật tôi không đơn giản mà có sự phối hợp giữa các
điểm nhìn khác tạo ra cảm xúc về cuộc sống đa chiều, nhiều mặt, sự việc có khi được nhìn ở điểm
nhìn của chủ thể, Tô Hoài tự kể về những việc ông nhớ lại nhưng có khi dùng điểm nhìn của chính
nhà văn hoặc của một nhà văn nhân vật về một nhà văn khác từ đó đưa ra nhận xét. Tạo được tính
chất vừa chân thật – là đặc trưng của tự truyện, hồi kí vừa rất khách quan. Tô Hoài đã lựa chọn cách
hòa phối điểm nhìn phù hợp và rất linh hoạt trong để từ đó dựng lại bộ mặt tinh thần về nhân cách
tác giả, với mục đích nghệ thuật khác nhau. Với thể tự truyện, hồi kí Tô Hoài đã tạo ra được nét
riêng biệt, có sức lôi cuốn, hấp dẫn đặc biệt đối với người đọc và làm nên một Tô Hoài với phong
cách riêng.
5. Một thành công nữa của nhà văn Tô Hoài đã kết hợp ưu thế của các loại diễn ngôn. Kết
hợp các diễn ngôn lại với nhau để tạo ra một hiệu quả nghệ thuật. Cách tạo bố cục, tỉ lệ diễn ngôn
trong tác phẩm sẽ tạo nên hiệu quả nghệ thuật. Chính là nhà văn đã sáng tạo trong cách trần thuật.
Trong Tự truyện, hồi kí Tô Hoài đã bộc lộ sở trường về việc sử dụng ngôn ngữ, nhà văn có một kho
từ vựng rất giàu có và phong phú nhờ ý thức học hỏi từ lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân.
Đồng thời vốn ngôn từ ấy càng ngày được bổ sung, được làm giàu thêm nhờ khả năng sáng tạo từ
ngữ mới của nhà văn cho nên mọi sự vật hiện tượng và nội dung trong tác phẩm hiện lên thật cụ thể,
sống động, giàu hình ảnh, cảm xúc và đậm chất thơ và cảnh vật trở nên sống động, có hồn. Tô Hoài
đã sáng tạo và phát huy tối đa sức mạnh ngôn ngữ. Tự truyện, hồi kí của Tô Hoài có giọng điệu rất
linh hoạt. Tô Hoài đã tìm tòi, vận dụng một bút pháp vừa truyền thống vừa hiện đại, tạo cho mình
một giọng điệu phù hợp với cái tạng vừa sâu sắc, hóm hỉnh, vừa nhẹ nhàng, tinh tế. Giọng điệu trần
thuật rất đa dạng phong phú như cuộc sống vốn có của nó. Ở Tô Hoài giọng điệu trần thuật luôn giữ
được bản sắc riêng: giọng hài hước dí dỏm pha chút mỉa mai, tinh quái.
Tô Hoài là nhà văn có tấm lòng nhân ái, một trái tim mẫn cảm, một trí tuệ uyên thâm và một
bản lĩnh văn hóa vững vàng. Nhà văn quan tâm đến hết thảy những vấn đề bức thiết trong đời sống
xã hội và thời đại. Với tâm huyết nghề nghiệp, thái độ lao động nghiêm túc, tích cực, phát huy cá
tính sáng tạo, nhà văn Tô Hoài đã gặt được những thành công lớn trong sự nghiệp sáng tác của
mình. Với Tự truyện – hồi kí Tô Hoài đã để lại cho nền văn học hiện đại Việt Nam những giá trị to
lớn về thể loại và những độc đáo ở phong cách nhà văn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Aristotle, Lưu Hiệp (Nguyễn Đăng Bảng, Phan Ngọc và những người khác dịch) (1999), Nghệ
thuật thơ ca. Văn tâm điêu long, Hà Nội. NXB Văn Học.
2. Bakhtin, (Phạm Vĩnh Cư dịch) (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Hà Nội. Bộ Văn hóa
Thông tin và Thể thao – Trường viết văn Nguyễn Du.
3. Bakhtin, (Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch) (1998), Những vấn đề thi pháp
Đôtxtôiepxki, Hà Nội. NXB Giáo dục.
4. Bùi Việt Thắng (1999), Bình luận truyện ngắn, Hà Nội. NXB Văn Học.
5. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn – những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Hà Nội. Đại
học quốc gia Hà Nội.
6. Đinh Trọng Lạc (1999), Phong cách học tiếng Việt, NXBGD.
7. Đỗ Đức Hiểu – chủ biên (2006), Từ điển văn học, NXB Thế giới.
8. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Hà Nội. NXB Hội nhà văn.
9. Đỗ Lai Thúy (2000), Mắt thơ, NXB Văn hóa thông tin.
10. Đỗ Lai Thúy biên soạn (2001), Nghệ thuật như là thủ pháp – Lý thuyết chủ nghĩa hình thức
Nga, Hà Nội. NXB Hội nhà văn.
11. Dương Thị Thu Hiền (2004). Tô Hoài với hai thể văn chân dung và tự truyện. Luận văn Thạc sĩ.
Đại Học Thái Nguyên.
12. Hà Minh Đức (1998), Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Văn Học.
13. Hà Minh Đức (1998), Văn học Việt Nam hiện đại, NXBTN.
14. Hà Minh Đức (2003), Lí luận văn học, NXBGD.
15. Hà Minh Đức (2010), Tô Hoài – Sức sáng tạo của một đời văn, NXBGD.
16. Hecto Malot (2000), Không gia đình, NXB văn hóa thông tin HN.
17. Hồ Dzếnh (2001), Chân trời cũ, NXB Văn nghệ TP. HCM.
18. Hoài Thanh, Hoài Chân (1999), Thi nhân Việt Nam, Hà Nội. NXB Văn học.
19. Hoàng Như Mai (1989), Đọc “Tự truyện” của Tô Hoài, Văn nghệ.
20. Hoàng Như Mai (1971), Kí và giảng dạy kí, Vấn đề giảng dạy TPVH theo loại thể. NXBGD.
21. Khrapchenko, M.B (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, Hà Nội. Tác
phẩm mới.
22. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB ĐHQG HN
23. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1997), Từ điển thuật ngữ văn học, Hà Nội. NXB
Đại học quốc gia Hà Nội.
24. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, TPHCM. NXB Trẻ.
25. Lê Trí Viễn (1998), Quy luật phát triển lịch sử văn học Việt Nam, Hà Nội. NXB Giáo dục.
26. Nguyễn Đăng Mạnh (1985), Các nhà văn nói về văn, NXB tác phẩm mới.
27. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Chân dung và phong cách, NXBT.
28. Nguyễn Đăng Na (2003), Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại – Những vấn đề văn xuôi tự sự,
NXBGD.
29. Nguyễn Hải Hà (2006), Thi pháp tiểu thuyết L.Tonxtoi, NXBGD.
30. Nguyên Hồng (1963), Những ngày thơ ấu, NXB VH.
31. Nguyên Hồng (1970), Bước đường viết văn, NXB VHHN.
32. Nguyễn Khải (2009), Tác phẩm chọn lọc, NXBGD.
33. Nguyễn Minh Châu (2002), Trang giấy trước đèn, NXB Khoa học xã hội.
34. Nguyễn Phú Bình (1996), Bản sắc dân tộc miền núi trong “ Truyện Tây Bắc” và “Miền Tây” của
Tô Hoài. Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm. TP – HCM.
35. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, NXBGD.
36. Nguyễn Thành Thi (2010), Văn học thế giới mở, NXBT.
37. Nguyễn Thị Thu Hiền (2006), Truyện viết cho thiếu nhi của Tô Hoài. Luận văn Thạc sĩ, Đại học
Sư phạm. TP – HCM.
38. Nguyễn Văn Bổng (2003), Với Tô Hoài, (Tuyển tập mười năm tạp chí Văn học và Tuổi trẻ),
NXBGD.
39. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu Văn học, NXB – Khoa học xã hội.
40. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận văn học – vấn đề và suy nghĩ,
NXBGD.
41. Nguyễn Văn Long – Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên) (2006), Văn học Việt Nam sau 1975 những
vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXBGD.
42. Nguyễn Văn Long (2009), PTTPVH hiện đại Việt Nam từ góc nhìn thể loại, NXBGD.
43. Nhà văn Nguyên Ngọc, Dế Mèn tự cứu, Báo Tuổi Trẻ ra ngày 7.6.2009.
44. Nhiều tác giả (1994), Tiếng nói tri âm, T1, T2, NXB Trẻ.
45. Phan Cự Đệ (1983), Tuyển tập Nguyên Hồng (tập1), NXB Văn học Hà Nội.
46. Phan Cự Đệ (2003), Văn học Việt Nam 1900 – 1945, NXBGD.
47. Phan Cự Đệ chủ biên (2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, NXBGD.
48. Phan Trọng Thưởng – Nguyễn Hữu Sơn – Trịnh Bá Dĩnh biên soạn (1999), Tuyển tập 40 năm
tạp chí văn học 1960-1999 (Tập 3: Văn học hiện đại Việt Nam), NXB TP.HCM.
49. Phạm Ngọc Lan (2006), Tự truyện trong văn học Việt Nam hiện đại. Luận văn Thạc sĩ, Đại học
Sư phạm. TP – HCM.
50. Phong Lê – Vân Thanh (2000), Tô Hoài về tác gia và tác phẩm, NXBGD.
51. Phong Lê (2001), Một số gương mặt văn chương – học thuật Việt Nam hiện đại, NXBGD.
52. Phong Lê (2001), Ngót sáu mươi năm văn Tô Hoài (Một số gương mặt văn chương học thuật
Việt Nam Hiện Đại), NXBGD.
53. Phương Lựu (1997), Lý luận Văn Học, NXBGD.
54. Phương Lựu (2009), Vì một nền lý luận Văn Học, NXB Văn học.
55. Tô Hoài (1959), Một số kinh nghiệm viết văn của tôi, NXB VH.
56. Tô Hoài (1969), Nhật kí vùng cao, NXB Thanh niên, HN.
57. Tô Hoài (1977), Sổ tay viết văn, NXB Tác phẩm mới, HN.
58. Tô Hoài (1984), Họ Giàng ở Phìn - Sa, NXB Tác phẩm mới, HN.
59. Tô Hoài (1985), Mùa thu Luông Pha - Bang, NXB Thanh niên Hà Nội.
60. Tô Hoài (1985), Tự truyện – hồi kí, NXB VHHN.
61. Tô Hoài (1985), Tự truyện, NXB VHHN.
62. Tô Hoài (1987), Dế Mèn phiêu lưu kí, NXBGD.
63. Tô Hoài (1992), Cát bụi chân ai, NXB Hội nhà văn.
64. Tô Hoài (1994), Tuyển tập (tập 1), NXB VH.
65. Tô Hoài (1994), Tuyển tập (tập 2), NXB VH.
66. Tô Hoài (1994), Tuyển tập (tập 3), NXB VH.
67. Tô Hoài (1995), O chuột, NXB Văn nghệ.
68. Tô Hoài (1999), Chiều chiều, NXB Hội nhà văn.
69. Tô Hoài (1999), Miền Tây (tập 1, 2), NXB Văn học dân tộc.
70. Tô Hoài (1999), Quê nhà, NXB Văn nghệ TP. HCM.
71. Tô Hoài (1999), Trăng thề, NXB Văn nghệ TP. HCM.
72. Tô Hoài (2001), Những tác phẩm tiêu biểu trước 1945, NXBGD.
73. Tô Hoài (2003), Mười năm, NXB Hội nhà văn.
74. Tô Hoài (2004), Bút kí Tô Hoài, NXB HN.
75. Tô Hoài (2004), Chuyện cũ Hà Nội (tập 1, 2), NXB Trẻ.
76. Tô Hoài (2005), Hồi kí (Cỏ dại, Tự truyện, Cát bụi chân ai, Những gương mặt) NXB Hội nhà
văn.
77. Tô Hoài (2006), Giấc mộng ông thợ dìu, NXBHNV.
78. Tô Hoài (2007), Tạp bút, NXB Hội nhà văn.
79. Tô Hoài (2009), Những ngõ phố, NXB Hội nhà văn.
80. Trần Đăng Khoa (1999), Chân dung và đối thoại, NXBTN.
81. Trần Đình Sử (2003), Lý luận và phê bình văn học, NXBGD.
82. Trần Đình Sử chủ biên (2004), Tự sự học – một số vấn đề lý luận và lịch sử, Hà Nội. NXB Đại
học Sư phạm.
83. Trần Hữu Tá, Nguyễn Trí (1985), Truyện và kí Việt Nam 1955 – 1975, Hà Nội. NXBGD.
84. Trần Hữu Tá ( 2001), Tô Hoài một đời văn phong phú và độc đáo, NXB Trẻ.
85. Trần Mạnh Hảo (2004), Văn Học Phê bình – Tranh luận, NXBLĐ.
86. Trịnh Bá Dĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, TP.HCM. Giáo dục – Trung tâm nghiên
cứu quốc học.
87. Vũ Ngọc Phan (1960), Nhà văn hiện đại, 4 tập, Sài Gòn. NXB Thăng Long.
88. Vương Trí Nhàn (2002), Tô Hoài và thể hồi kí, Tạp chí văn học số 8, tháng 8, 2002.
89. Vương Trí Nhàn (2004), Trở lại cái thời lãng mạn – Về tiểu thuyết “Thượng đế thì cười” của
Nguyễn Khải, Báo Văn nghệ ngày 7/8/2004.
90. Xuân Sách và Trần Đức Tiến (1993), Trao đổi về “Cát bụi chân ai”, Báo Văn nghệ 13/11/1993.
PHỤ LỤC

You might also like