Professional Documents
Culture Documents
1.4. Khái quát về nguyên liệu tổng hợp xanh nano bạc trên hệ mang Alginate/CD .. 12
2.1. Nguyên liệu, hóa chất, dụng cụ và thiết bị thực nghiệm ..................................... 24
2.3. Quy trình tổng hợp hệ mang Alginate/β-CD không chứa ion bạc (Nano Blank) 26
2.4. Quy trình tạo nano bạc trên hệ mang Alginate/β–CD ......................................... 27
2.5. Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành nano bạc bằng phương
pháp quang phổ UV-Vis................................................................................................. 28
2.5.1. Khảo sát ảnh hưởng của tỉ lệ khối lượng so với thể tích dịch chiết lên quá
trình hình thành nano .................................................................................................. 28
2.5.2. Khảo sát ảnh hưởng của thời gian phản ứng lên quá trình hình thành nano
bạc…… ....................................................................................................................... 29
3.1. Khảo sát ảnh hưởng của tỉ lệ khối lượng so với thể tích dịch chiết lên quá trình
hình thành nano .............................................................................................................. 33
3.2. Khảo sát ảnh hưởng của thời gian phản ứng lên quá trình hình thành nano bạc . 35
3.9. Kết quả phân tích kính hiển vi điện tử truyền qua độ phân giải cao ................... 45
........................................................................................................................................ 56
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Nhà vật lí Richard Feynman, cha đẻ của công nghệ nano. .................... 3
Hình 1.2: Hình ảnh hiển thị các hạt nano của hợp kim vàng (màu vàng) và
palladium (màu xanh) với acid hỗ trợ carbon (màu xám). Các hạt này được sử
dụng làm chất xúc tác cho sự hình thành hydrogen peroxide từ hydrogen (trắng)
và oxy (màu đỏ). .................................................................................................... 7
Hình 1.3: Một số sản phẩm nano bạc chống khuẩn. ............................................ 11
Hình 1.4: Cây Quao Bình Châu-Stereospermum binhchauensis V.S. Dang. ...... 18
Hình 2.1: Quy trình tổng hợp hệ mang Alginate/β-CD không chứa ion bạc. ...... 26
Hình 2.3: Kết quả khảo sát thời gian: A- mẫu dịch chiết ban đầu, B- Mẫu dịch
chiết sau khi khử bạc. ........................................................................................... 30
Hình 3.1: Kết quả đo UV-Vis của khảo sát tỉ lệ mgel:Vdịch chiết............................. 33
Hình 3.2: Đồ thị biểu thị cường độ hấp thụ cực đại giữa các tỉ lệ phản ứng. ...... 34
Hình 3.3: Kết quả đo UV-Vis của khảo sát thời gian. ......................................... 35
Hình 3.4: Đồ thị biểu diễn cường độ hấp thụ cực đại của từng thời gian phản ứng.
.............................................................................................................................. 36
Hình 3.7: Kết quả đo kích thước hạt của mẫu Nano Blank và AgNPs. ............... 38
Hình 3.8: Kết quả phân tích thế Zeta của nano trống và AgNPs. ........................ 39
Hình 3.9: Kết quả phân tích phổ hồng ngoại (IR) sự tồn tại của các nhóm chức
trong các chất. ...................................................................................................... 40
Hình 3.10: Thành phần hóa học tồn tại trong hệ AgNPs. .................................... 41
Hình 3.11: Bề mặt của vật liệu AgNPs trên chất mang Alg/β-CD. ..................... 42
Hình 3.12: Đồ thị biểu diễn sự phân hủy bằng nhiệt của các chất bởi TGA. ...... 42
Hình 3.13: Đồ thị biểu diễn nhiệt vi sai của các chất .......................................... 43
Hình 3.14: Hình ảnh ở HR-TEM của các hạt AgNPs. ......................................... 45
Hình 3.16: Hoạt tính kháng khuẩn ở nồng độ 7,776μg/mL -11,664μg/ mL........ 47
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Kết quả phân tích nhiệt .................................................................................. 43
Bảng 3.2: Kích thước vòng kháng khuẩn của AgNPs ................................................... 47
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt Viết đầy đủ
CD Cyclodextrin
FTIR Fourier-transform infrared spectroscopy
SEM-EDX Scanning Electron Microscope- Energy Dispersive X-ray spectrum
TG-DTA Thermogravimetric analysis- Differential thermal analysis
UV-Vis Ultraviolet–visible spectroscopy
AgNPs Nano Bạc
HR-TEM High-Resolution Transmission Electron Microscopy
E. coli Escherichia coli
P. aeruginosa Pseudomonas aeruginosa
PVA/SA Polyvinyl alcol / sodium alginate
IC50 half maximal inhibitory concentration
MIC Minimum Inhibitory Concentration
1
LỜI MỞ ĐẦU
Xu hướng của khoa học ứng dụng hiện nay là tích hợp lại để cùng nghiên cứu các
đối tượng nhỏ bé có kích thước tiến đến kích thước của nguyên tử. Hàng ngàn năm trước
đây đối tượng của khoa học lúc bấy giờ là các vật thể vĩ mô. Cùng với thời gian, hiểu
biết của con người càng tăng lên và do đó, độ phức tạp cũng gia tăng, khoa học một lần
nữa lại tích hợp với nhau khi nghiên cứu các vật thể ở cấp độ nano mét.
Trong những năm gần đây nano bạc là một ứng dụng hoàn thiện của khoa học và
công nghệ nano đối với vật liệu bạc đã được đưa vào đời sống ngày càng rộng rãi trên
khắp các lĩnh vực từ y tế đến hàng tiêu dùng, từ hàng công nghệ đến các mặt hàng phục
vụ cho nền nông nghiệp sạch với tính chất đặc trưng là phòng và tiêu diệt vi khuẩn, vi
rút, nấm… khử mùi hiệu quả và an toàn hiệu quả cao và tác động nhanh chóng.
Hiện có nhiều phương pháp chế tạo nano bạc, các phương pháp thường được sử
dụng như điện hóa, khử hóa học, sinh học, khử nhiệt… Nguyên tắc chung của hầu hết
các phương pháp này là khử ion kim loại có trong muối thành các nguyên tử kim loại rồi
các nguyên tử này liên kết và phát triển về mặt kích thước tạo thành các hạt nano với sự
có mặt của chất ổn định, thông thường nhất là polymer.
Ưu điểm của tất cả các phương pháp trên là sản xuất nhanh mang lại hiệu suất
cao và có thể thực hiện trên quy mô lớn tuy nhiên chi phí cao do sử dụng thiết bị đắt,
dung môi độc hại ảnh hưởng đến con người và môi trường xung quanh. Vì vậy từ những
lý do trên, tổng hợp nano bạc theo hướng hóa học xanh (tổng hợp sinh học) ra đời và
được chú ý nhiều hơn trong những năm gần đây. Cây Quao Bình Châu - Stereospermum
binhchauensis V.S. Dang là một loại mới được tìm thấy gần đây, với khả năng có tính
dược học trong việc chữa bệnh xơ gan viêm gan, bổ phổi trừ ho, chữa ngộ độc, sỏi thân.
Từ những cơ sở khoa học đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Tổng hợp
xanh nano bạc trên nền CD/Alginate sử dụng dịch chiết cây trồng”.
Hình 1.1: Nhà vật lí Richard Feynman, cha đẻ của công nghệ nano.
- Hiệu ứng bề mặt: Khi vật liệu có kích thước nm, các số nguyên tử nằm trên cùng
một bề mặt sẽ chiếm tỉ lệ đáng kể so với tổng số nguyên tử. Chính vì vậy mà các hiệu
ứng có liên quan đến bề mặt, gọi tắt là hiệu ứng bề mặt sẽ trở nên quan trọng làm cho
tính chất của vật liệu có kích thước nanomet khác biệt so với vật liệu ở dạng khối [3].
- Kích thước tới hạn: Các tính chất vật lý, hóa học của vật liệu đều có một giới hạn
về kích thước. Nếu vật liệu mà nhỏ hơn kích thước này thì tính chất của nó sẽ hoàn toàn
bị thay đổi. Người ta gọi đó là kích thước tới hạn. Vật liệu nano có tính chất đặc biệt là
do kích thước của nó có thể so sánh được với kích thước tới hạn của các tính chất của
vật liệu [3].
1.1.6. Ứng dụng của công nghệ nano
Do kích thước và tính chất, công nghệ nano được sử dụng trong các lĩnh vực khác
nhau cho các mục đích khác nhau. Ví dụ, trong mỹ phẩm chúng hoạt động như bộ lọc
tia cực tím, trong kem đánh răng chúng chống lại sự hình thành màng sinh học, trong
các ngành công nghiệp chế biến thực phẩm chúng giúp cải thiện các tính chất hóa lý
khác nhau của các thực phẩm như tính ngon miệng, sinh khả dụng dinh dưỡng và sự
phóng thích các thành phần hoạt tính sinh học kéo dài. Ngoài ra, công nghệ nano là một
phần không thể tách rời của ngành công nghiệp đóng gói thực phẩm vì chúng không chỉ
tăng sức mạnh cơ học của vật liệu bao gói mà còn là thời hạn sử dụng của sản phẩm.
Gần đây, công nghệ nano cũng đã được sử dụng để chế tạo cảm biến nano để phát hiện
ô nhiễm vi sinh vật và thuốc trừ sâu trong thực phẩm. Không những thế, công nghệ nano
cũng đã trở thành một công cụ tuyệt vời trong chẩn đoán và điều trị các bệnh đe doạ đến
tính mạng khác nhau như ung thư vì tỷ lệ tập hợp trên bề mặt, tính chất lượng tử và khả
năng hấp thụ và mang các hợp chất khác như thuốc, đầu dò và protein tới vị trí mục tiêu
cao. Để có kết quả hiệu quả, công nghệ nano giúp vượt qua các rào cản sinh học để phân
phối các chất điều trị đến các tế bào và các mô tham gia vào quá trình sinh bệnh học [8].
Hình 1.2: Hình ảnh hiển thị các hạt nano của hợp kim vàng (màu vàng) và palladium
(màu xanh) với acid hỗ trợ carbon (màu xám). Các hạt này được sử dụng làm chất xúc
tác cho sự hình thành hydrogen peroxide từ hydrogen (trắng) và oxy (màu đỏ).
Có ba đặc tính vật lý chính của các hạt nano và tất cả đều liên quan với nhau: (1)
chúng có tính di động rất cao trong trạng thái tự do, (2) chúng có những diện tích bề mặt
cụ thể khổng lồ và (3) chúng có thể biểu lộ ra, các hạt nano có thể được phân loại là cứng
(ví dụ: titan dioxit, các hạt silica dioxidhiệu ứng lượng tử. Ngoài ra các chất đầy đủ) hoặc
mềm (ví dụ, liposome, túi khí, và nano). Do đó, các hạt nano có rất nhiều thành phần,
tùy thuộc vào việc sử dụng hoặc sản phẩm [15].
1.2.4. Nguyên tắc tổng hợp hạt nano
Xét một cách tổng thể có hai phương pháp chung để chế tạo hạt nano: Phương
pháp từ trên xuống (top - down) và phương pháp từ dưới lên (bottom - up) [4].
Phương pháp từ trên xuống (top – down): Trong phương pháp này sử dụng kĩ
thuật nghiền và biến dạng để biến khối vật liệu có kích thước lớn tạo thành các vật liệu
có kích thước nanomet. Ưu điểm của phương pháp này đơn giản, khá hiệu quả, có thể
tạo một lượng lớn nano khi cần. Tuy nhiên, phương pháp này tạo ra vật liệu có tính đồng
nhất không cao, cũng như tốn nhiều năng lương, trang thiết bị phức tạp. Chính vì vậy,
phương pháp này ít được sử dụng trong thực tế [4].
Phương pháp từ dưới lên (bottom – up): Đây là phương pháp phổ biến hiện nay
để chế tạo hạt nano. Nguyên lí của phương pháp này là dựa trên việc hình thành các hạt
nano từ các nguyên tử hay ion. Các nguyên tử hay ion được xử lí bằng các tác nhân vật
lí, hóa học sẽ kết hợp với nhau tạo thành các hạt có kích thước nanomet. Ưu điểm của
phương pháp này là tiện lợi, các hạt tạo ra có kích thước nhỏ và đồng đều. Đồng thời,
các trang thiết bị phục vụ cho phướng pháp này rất đơn giản. Tuy vậy, phướng pháp này
khi có yêu cầu điều chế một lượng lớn vật liệu nano sẽ rất khó khăn và tốn kém [4].
1.3. Giới thiệu về hạt nano kim loại
1.3.1. Nguồn gốc của hạt nano kim loại
Các hạt nano kim loại đã được biết đến trong một thời gian dài kể từ khi phát
minh ra kính cranberry có chứa các hạt nano vàng vào cuối Đế quốc La Mã, mặc dù mới
chỉ được hiểu trong thời đại của chúng ta. Các hạt kim loại quý biểu hiện các tính chất
quang học có thể điều chỉnh được do cộng hưởng plasmon bề mặt, phụ thuộc rất nhiều
vào kích thước và hình dạng của các hạt như vậy [40].
diệt khuẩn tuyệt vời chống lại 650 loại vi khuẩn, vi rút, nấm và có khả năng hạn chế sự
phát triển của các dòng vi khuẩn kháng thuốc ở nồng độ thấp đặc biệt với độc tính thấp
động vật có vú [39].
- Dura'n và cộng sự (2007) báo cáo rằng các hạt nano (NPs) của bạc không độc đối
với tế bào người và có sự ổn định ở nhiệt độ cao (Muhammad và cộng sự, 2014). Ngoài
tính không độc, đặc điểm độc đáo của nano bạc bao gồm quang học (Evanoff và
Chumanov, 2005), điện (Dapeng et al., 2009) và tính chất từ tính (Adnan và cộng sự,
năm 2015). Những điều này đã làm cho nano bạc sở hữu các ứng dụng khác nhau, từ
chất xúc tác (Salehi-Khojin và cộng sự, 2013) và cảm nhận quang học, các chất kháng
khuẩn, các chất chống oxy hoá và dữ liệu lưu trữ (Kholoud và cộng sự, 2010, Chen và
cộng sự, 2009, Rai và cộng sự, 2009; Chandra Mohan và cộng sự, năm 2014). Đặc biệt,
các hạt nano bạc (AgNPs) có tiềm năng kháng khuẩn tuyệt vời và có thể được sử dụng
trong y học về vật liệu nha khoa, điều trị bỏng, xử lý nước và phủ các vật liệu bằng thép
không rỉ [25].
Tính kháng khuẩn của nano bạc được giải thích theo cơ chế sau:
- Hạt nano bạc có khả năng xâm nhập vào các tế bào vi khuẩn và sau đó thâm nhập
vào nó nên gây thay đổi cấu trúc trong màng tế bào như tính thấm của màng tế bào và
gây chết tế bào [31,34].
- Sự hình thành các gốc tự do của các hạt nano bạc có thể được coi là một cơ chế
làm chết tế bào của vi khuẩn. Nghiên cứu quang phổ cộng hưởng điện tử cho thấy sự
hình thành các gốc tự do bằng các hạt nano bạc khi tiếp xúc với vi khuẩn và các gốc tự
do có khả năng gây tổn hại các màng tế bào và làm cho nó xốp rồi cuối cùng là làm chết
tế bào [9,20].
- Bạc nano có khả năng giải phóng ra các ion bạc. Các ion này có thể tương tác với
các nhóm thiol của nhiều enzyme, protein quan trọng và vô hiệu hóa chúng. Với các loại
vi khuẩn hô hấp bằng oxi, các ion bạc gây sự ức chế enzyme hô hấp và tấn công các tế
của của nó [27,16].
- Các hạt nano bạc có kích thước nhỏ chui vào trong tế bào, kết hợp với các enzyme
hay DNA có chứa nhóm sunfua hoặc phosphate gây bất hoạt enzyme hay DNA làm rối
loạn quá trình sao chép DNA làm chết vi khuẩn [38,28].
giảm hóa chất là một trong những phương pháp phổ biến để chuẩn bị các hạt nano.
Phương pháp này có lợi thế là khả năng tái sản xuất và khả năng thu được chất keo đơn
phân tán, với sự phân bố hẹp trong kích thước hạt [18]. Việc sử dụng các chất ổn định
gắn với mặt nano sẽ cải thiện tính ổn định và khả năng ướt và rất cần thiết để ngăn ngừa
sự tập hợp của các hạt nano bạc, đảm bảo phóng thích bền vững và tạo ra sự ổn định của
Ag [1].
Trong trường hợp này, polyme là vật liệu ưu tiên hàng đầu vì cấu trúc linh hoạt
của chúng với các nhóm chức thích hợp trên các chuỗi polyme dài để cho phép kết hợp
và cố định các hạt nano tạo thành các nanocomposite [39]. Sự kết hợp của các hạt nano
bạc với các polyme hòa tan trong nước sẽ tạo ra các kháng sinh mới. Dựa vào đó, các
polyme tự nhiên khác nhau như keo kẹo cao su, tinh bột, gelatine, natri alginat, carboxy
methyl cellulose...đã được sử dụng để chế tạo các vật liệu nano polyme bạc tương thích
sinh học [24].
1.4. Khái quát về nguyên liệu tổng hợp xanh nano bạc trên hệ mang Alginate/CD
1.4.1. β – Cyclodextrin (β-CD)
1.4.1.1. Nguồn gốc và cấu tạo của cyclodextrin
Nguồn gốc: β – cyclodextrin được tổng hợp từ carbohydrat với xúc tác bởi một
enzym tự nhiên là Cyclomaltodextrin glucanotransferase, bài tiết bởi vi khuẩn Bacillus
macerans được phát hiện vào năm 1891. β - cyclodextrin có nhiều đặc điểm lý hóa và
sinh học tương tự như dextrin mạch thẳng [26,11].
Công thức cấu tạo: (C6H10O5)7. Kích thước của β-CD: Cao 0,78 nm, đường kính
ngoài 1,53 nm, đường kính trong 0,78 nm [29].
Cấu trúc hóa học: β-cyclodextrin là một oligosaccharide cyclic được hình thành
gồm có bảy đơn vị α-1,4 liên kết D-glucopyranose với một khoang kị nước bên trong
[13]. β-CD có dạng hình nón cụt thay vì một hình trụ vì cấu trúc hình ghế của các đơn
vị glucopyranose [27]. Định hướng của các đơn vị glucopyranose gồm các nhóm
hydroxyl bậc 1 tại các vị trí C6 phía ngoài vành hẹp, trong khi các nhóm hydroxyl bậc 2
ở các vị trí C2 và C3 phía ngoài vành rộng hơn của hình nón cụt. Phân tử β-CD có bề mặt
bên ngoài ưa nước và khoang bên trong kỵ nước [5].
Các cặp điện tử không liên kết của các cầu oxy hướng vào bên trong khoang, do
đó tạo ra mật độ điện tử cao [22]. Sự phân cực của khoang β-CD được ước tính tương tự
như sự phân cực của ethanol, do liên kết hydro nội phân tử giữa các nhóm OH ở C2 và
C3 tương đối mạnh làm cho β-CD kém tan trong nước [29].
Phân tử này có khoang trung tâm kị nước và bề mặt bên ngoài ưa nước với các
nhóm hydroxyl, có thể cho phép sự hòa tan của các chất không cực và các phân tử hữu
cơ phân cực thấp có kích thước và hình dạng thích hợp thông qua sự hình thành các phức
hợp hòa tan trong nước [1]. "Khoang bên trong" là một tính năng cấu trúc chính của β –
cyclodextrin vì nó cung cấp khả năng hình thành phức hợp với các phân tử khác có tính
chất khác nhau. Tuy nhiên, các phân tử này phải có kích thước tương thích với khoang
bên trong của β – cyclodextrin để tạo thành một "phức chất" ổn định [18]. Vì vậy đã có
nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến β – cyclodextrin đã tăng lên vì khả năng hỗ
trợ hòa tan cho các chất kém tan khác trong nước và khả năng tự lắp ráp với các phân tử
có kích thước thương thích khác [35].
1.4.1.2. Tính chất và ứng dụng của β – cyclodextrin
Người ta biết rõ rằng cấu trúc của β – cyclodextrin tạo ra một khả năng đáng kể
để hình thành phức với phân tử hữu cơ thông qua các tương tác chủ-khách (hoste-guest).
Có hai cách để tổng hợp các chất hấp phụ: Thứ nhất, các phân tử β – cyclodextrin có thể
được trùng hợp với một chất kết dính để tạo ra các polyme liên kết không hòa tan. Thứ
hai dựa vào sự liên kết cộng hóa trị của các phân tử β – cyclodextrin với một chất nền
không hòa tan [13].
Các phân tử β – cyclodextrin có khả năng hình thành các mạng chéo bởi một phản
ứng giữa các nhóm hydroxyl của nó với một chất kết hợp để tạo thành các cấu trúc
polyme không tan. Một trong những liên kết chéo thường xuyên được sử dụng nhất là
epichlorohydrin (EPI) [13].
sinh học của nó, độc tính thấp, chi phí tương đối thấp và gel nhẹ bằng cách bổ sung
cation hóa trị hai như Ca 2+ [21].
Alginate có trong thương mại thường được chiết xuất từ tảo nâu (Phaeophyceae),
bao gồm Laminaria hyperborea, Laminaria digitata, Laminaria japonica, Ascophyllum
nodosum và Macrocystis pyrifera và bao gồm axit α-L-guluronic (G) và lượng acid β-
D-mannuronic (M) dư, liên kết tuyến tính bằng các liên kết 1,4-glycosidic và được xử lý
bằng các dung dịch kiềm điển hình với NaOH. Chiết xuất được lọc và natri hoặc canxi
clorua được trộn để kết tủa. Muối alginate này có thể chuyển thành axit alginic bằng
cách xử lý với HCl pha loãng. Sau khi tinh chế và chuyển đổi, alginate natri hòa tan
trong nước được tạo ra [19,23,17].
1.4.2.2. Tính chất và ứng dụng
Tính chất
Alginate thì không độc hại, phân huỷ sinh học, chi phí thấp, sẵn có, và đã được
tìm thấy là một chất kết dính, tương thích sinh học, và không gây miễn dịch [33].
Các đặc tính hóa lý của gel alginate phụ thuộc vào loại kết nối chéo, mật độ liên
kết chéo, thành phần của alginate và trọng lượng phân tử. Sự hiện diện của các chất phức
tạp như phosphate hay citrat là một yếu tố quan trọng. Phương pháp phổ biến nhất cho
sự hình thành của alginate gel là do ion liên kết chéo với các cation nhiều hóa trị. Alginat
có thể dễ dàng bị gel hóa với các cation nhiều hóa trị trong điều kiện không quá khắc
nghiệt, làm cho nó có thể áp dụng cho việc bắt các vật liệu nhạy cảm. Hầu hết các hạt
alginate gel được mô tả đều có đường kính lớn hơn 100 μm, các hạt alginate nhỏ hơn
nhiều (<1 µm) có nhiều ưu điểm hơn so với các hạt alginat lớn hơn. Các hạt nhỏ có độ
bền cơ học cao hơn và diện tích bề mặt cụ thể lớn hơn. Chúng có thể dễ dàng chảy qua
các vòi phun và các ống hẹp trong khi đó các hạt lớn hơn sẽ bị chặn [33].
Ứng dụng
Alginate có thể dễ dàng biến đổi dưới bất kỳ hình thức nào ví dụ như hydrogel,
viên micro, viên nén nhỏ, bọt biển, bọt và sợi. Tính chất này có thể làm tăng các ứng
dụng của alginate trong các lĩnh vực khác nhau như kỹ thuật mô và phân phối thuốc [19].
Thay đổi tính chất hóa – lý của alginate để có thể điều chỉnh được các tính chất và
chức năng của nó như khả năng phân hủy sinh học, sức mạnh cơ học, khả năng gel và
sự liên kết tế bào đối với các ứng dụng tương ứng. Thay đổi hóa- lý có thể được thực
hiện bằng cách kết hợp các phân tử khác như các yếu tố tăng trưởng và peptides để tái
tạo mô xương [19,20].
Một số ứng dụng y sinh học của alginate:
- Vận chuyển protein: Alginate là một chất tuyệt vời cho vận chuyển protein, vì
protein có thể được đưa vào công thức alginate dựa trên các điều kiện tương đối mà
không làm giảm thiểu đáng kể sự biến tính của protein, và gel có thể bảo vệ protein khỏi
suy giảm cho đến khi nó được giải phóng. Nhìn chung, tỷ lệ giải phóng của các protein
từ gel alginate là nhanh chóng, do độ xốp vốn có và bản chất ưa nước của gel [21].
- Vận chuyển thuốc hóa học có kích cỡ nhỏ: Alginate gel đã được nghiên cứu để
phân phối các loại thuốc có trọng lượng phân tử thấp và hữu ích nhất là khi mối liên kết
giữa thuốc và alginate có thể được khai thác để điều chỉnh động học của việc phóng thích
thuốc [21].
- Nuôi cấy tế bào: Gel alginate đang ngày càng được sử dụng như một hệ thống
cho mô hình nuôi cấy tế bào động vật có vú trong nghiên cứu y sinh [21].
- Băng bó vết thương: Việc điều trị các vết thương cấp tính và mãn tính là nhu cầu
cấp bách trong nhiều khía cạnh y học và băng vết thương bằng alginate cung cấp nhiều
tính năng thuận lợi. Băng alginate được tạo ra bởi ion liên kết ngang của dung dịch
alginate với ion canxi để tạo thành một loại gel, tiếp đến là xử lý để tạo thành tấm xốp
đông lạnh khô và các loại gạc không dệt sợi. Băng alginate theo hình thức khô hấp thụ
chất lỏng của vết thương và gel sau đó có thể cung cấp nước cho vết thương khô tạo môi
trường sinh lý ẩm và giảm thiểu nhiễm khuẩn tại chỗ vết thương. Các chức năng này
cũng có thể thúc đẩy sự hình thành hạt mô, biểu mô nhanh chóng [21].
1.4.3. Bạc nitrat- AgNO3
Tính chất hóa-lý: Khối lượng phân tử 169,87 g/mol, điểm nóng chảy là 2120C,
mật độ 4,35 g/cm³, điểm sôi ở 4400C. Có thể hòa tan trong nước, kiềm và ít tan trong
ether.
Đặc tính: Phản ứng mạnh với kim loại kiềm, amoniac, cồn, magiê, vật liệu dễ
cháy hoặc phát nổ.
Ứng dụng: Dùng làm chất khởi đầu trong việc tổng hợp các hợp chất bạc khác,
khử trùng, vật liệu cảm quang và tạo màu vàng cho thủy tinh của kính màu…
1.4.4. Cây Quao Bình Châu
Trong chương trình nghiên cứu đa dạng thực vật của khu vực Nam Bộ nhằm thu
thập bổ sung các mẫu vật cho Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam, các nhà khoa học Viện
Sinh học nhiệt đới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã phát hiện
và mô tả một loài thực vật mới thuộc họ Quao (Bignoniaceae) ở Khu bảo tồn thiên nhiên
Bình Châu-Phước Bửu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Được đặt tên là Quao Bình Châu-
Stereospermum binhchauensis V.S. Dang [41].
Chi Stereospermum có khoảng 20 loài phân bố từ châu Phi, Madagascar tới khu
vực Đông Nam Á. Ở Việt Nam có 6 loài kể cả loài mới này, và đây cũng là phát hiện bổ
sung cho họ Quao (Bignoniaceae) ở khu vực Đông Dương sau hơn 30 năm kể từ công
bố của Santisuk & Vidal (1985) [41].
cải dầu). Đặc tính chi tiết của hạt nano bạc qua quang phổ UV-Vis với bước sóng 440
nm, kích thước hạt trung bình là 15 nm và thường kết tụ thành những tập hợp nhỏ [31].
1.5.1.3. Đánh giá các hoạt động kháng khuẩn của hạt nano bạc được tổng hợp
bằng lá dứa (Ananas comosus)
Năm 2013, công trình nghiên của Elemike Elias Emeka cùng với các cộng sự đã
thực hiện báo cáo đánh giá các hoạt động kháng khuẩn của hạt nano bạc được tổng hợp
bằng lá dứa. Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng lá dứa được coi là chất thải đã biến đổi bạc
nitrat thành các hạt nano với độ ổn định lớn. Sự hình thành các hạt nano bạc dường như
được hiển thị trong vòng 2 phút với bước sóng nằm trong khoảng 440 đến 460 nm, kích
thước hạt 12,4 nm. Việc sử dụng các hạt nano tổng hợp như các chất chống vi khuẩn có
kết quả dương tính trên Staphylococcus aureus, Streptococcus pneumoniae, Proteus
mirabilis và Escherichia coli [12].
1.5.1.4. Nghiên cứu cấu trúc và hình thái của các hạt nano bạc trên nền β-
cyclodextrin
Năm 2014, công trình nghiên cứu của Patricia Fernanda Andrade và cộng sự được
đăng trên tạp chí Colloids and Surfaces B: Biointerfaces về việc nghiên cứu cấu trúc và
hình thái của các hạt nano bạc trên nền β- cyclodextrin. Hạt nano bạc phân tán tốt với
đường kính 28,0 ± 8,5 nm và dạng hình cầu đã được điều chế bằng cách giảm lượng
AgNO3 với sự có mặt của glucose như một chất khử, NaOH làm chất xúc tác phản ứng
và β-CD làm chất ổn định. Kết quả cho thấy các hạt nano bạc có độ dày trung bình của
7 nm. Hoạt tính kháng khuẩn cũng được nghiên cứu và các hạt nano bạc có lớp vỏ bọc
β-CD cho thấy hoạt tính diệt khuẩn như sau: có thể làm giảm hơn 99% E. coli và các
đơn vị hình thành của P. aeruginosa. Tuy nhiên, hiệu quả diệt khuẩn với S. aureus thấp
hơn khoảng 69,0 ± 8,6% khi so sánh với E. coli và P. aeruginosa. Kết quả này hứa hẹn
và hướng tới khả năng sử dụng các hạt nano này như các chất phụ gia kháng khuẩn cho
các ứng dụng khác nhau như bao bì thực phẩm chống vi khuẩn và màng siêu lọc [29].
1.5.1.5. Hỗn hợp hạt nano bạc-alginate được sử dụng để khử trùng nước uống
Năm 2012, Shihong Lin và các cộng sự đã nghiên cứu về việc khử trùng nước
uống bằng hỗn hợp hạt nano bạc-alginate. Có 3 phương pháp thực hiện: Phương pháp
thứ nhất là các ion bạc được hấp thụ bởi hạt alginate đầu tiên và sau đó khử bởi natri
borohydrit (NaBH4) với kích thước hạt thu được là 2,45 ± 0,62 nm. Trong phương pháp
thứ hai, các hạt nano bạc được tổng hợp trước rồi được phủ bằng các ion citrate được kết
hợp vào hạt alginate trong suốt quá trình gel với kích thước hạt là 28,56 ± 13,45 nm.
Cuối cùng ở phương pháp thứ ba các ion bạc đã được khử đồng thời với sự gel hóa của
alginate với kích thước hạt là 2,61 ± 0,92 nm. Hỗn hợp các hạt ở phương pháp thứ 1 và
3 có thể đạt được hiệu quả khử trùng trên 5 log với HRT 1 phút, cho thấy các hạt hỗn
hợp hạt Ag-alginate có thể là một phương tiện hữu hiệu để làm sạch nước đóng chai
[37].
1.5.1.6. Polyvinyl alcol / sodium alginate (PVA/SA) tích hợp với các hạt nano bạc
như là giải pháp để làm sạch nước bị nhiễm khuẩn
Năm 2017, M.A. Abu-Saied cùng với các cộng sự đã thực hiện tổng hợp nano bạc
trên hệ mang kép là polyvinyl alcol / sodium alginate với mục đích làm sạch nước nhiễm
khuẩn. Hoạt động kháng khuẩn của các hạt nano bạc trên PVA/SA với dòng vi khuẩn bị
ảnh hưởng nhiều nhất là Staphylococcus aureus - Gram dương dương tính với vùng rõ
nét là 21 mm. Các chủng coliform tiêu cực Gram âm (Enterobacter sp. Và Escherichia
coli) gần như bị ảnh hưởng bởi mức độ ức chế tương tự lần lượt khoảng 19 và 18 mm.
Mặt khác, các hạt nano polymer-bạc hiệu quả không cáo đồi với bệnh viêm phổi
Klebsiella. Hơn nữa, hoạt tính kháng nấm của các hạt nano bạc chống lại Candida
albicans cũng tương đồng với hoạt tính của bệnh viêm phổi Klebsiella và vùng ghi rõ là
14 mm [24].
Hoạt tính kháng khuẩn của liều không gây độc tế bào của PVA / SA với các hạt
nano bạc sử dụng phương pháp khuếch tán đĩa. Giá trị IC50 của PVA / SA với các hạt
nano bạc có thể hình thành các vùng rõ ràng với các đường kính khác nhau đối với tất
cả các vi khuẩn và nấm men được xét nghiệm. Loài bị ảnh hưởng nặng là Candida sp.
đường kính vùng 15 mm rõ ràng, tiếp theo là E. coli cho thấy 12 mm, phần còn lại của
các chủng gần như bị ảnh hưởng bởi cùng nồng độ và cho thấy các vùng rõ ràng với
đường kính khoảng 11 và 10 mm [24].
Dữ liệu thu được cho thấy rằng tất cả các vi khuẩn và nấm men đã được thử
nghiệm bên cạnh mẫu nước uống không thể phát triển hoặc thậm chí hình thành nên một
khuẩn lạc duy nhất trên đĩa. Mặt khác, các tấm thạch dinh dưỡng thiếu PVA / SA với
các hạt nano bạc cho thấy một số lượng lớn các vi khuẩn và nấm men được kiểm tra
cùng với vi khuẩn của mẫu nước uống. Số lượng các khuẩn lạc đang phát triển gần như
ở khoảng ≥ 650 khuẩn lạc [24].
1.5.1.7. Tổng hợp và tính chất của hạt nano β-Cyclodextrin / alginate như một hệ
thống phân phối thuốc mới
Năm 2015, T.-D. Nguyen cùng với cộng cự của mình đã báo cáo về một hệ mang thuốc
mới bằng hạt nano β-Cyclodextrin / alginate. Mục tiêu của nghiên cứu này là để nghiên
cứu một hệ thống nano mới được tạo ra từ hỗn hợp alginate và β-cyclodextrin bằng
phương pháp gel - ion hóa và để đánh giá khả năng của chúng trong việc kết hợp và phân
phối thuốc. Hình ảnh SEM cho thấy hình thái học của hạt nano được nạp thuốc là vật
rắn dày đặc. Ngoài ra, các hạt nano có cấu trúc giống như bó với kích cỡ từ 50 - 80 nm
dường như hình thành từ sự kết tụ của các đơn vị nano nhỏ hơn [38].
1.5.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Trong báo cáo luận văn thạc sĩ khoa học của Huỳnh Thị Mỹ Linh năm 2013 tại
trường Đại học Đà Nẵng đã thực hiện tổng hợp nano bạc từ dung dịch bạc nitrat bằng
tác nhân khử dung dịch nước lá bàng với mục đích là có thể tổng hợp một vật liệu nano
vốn đa ứng dụng trong đời sống bằng phương pháp hóa học lành tính, không gây độc hại
đối với con người và môi trường. Tác giả đã chỉ ra rằng lượng bạc được tạo ra tốt nhất
khi sử dụng 2ml dịch chiết, hạt nano bạc tạo ra có dạng hình cầu với kích thước từ 9,25
nm đến 26 nm và hạt nano tạo ra là tinh khiết [2].
- Milipore: 0.45µm
- Ống li tâm: 15ml
- Ống hút, đũa thủy tinh, pipet, cá từ, lọ thủy tinh, chai đựng mẫu.
- Máy khuấy từ gia nhiệt OMNILAB, type RCT S26 batch Inpected UPAE 117537
- Bồn siêu âm
- Máy li tâm Centrifuge Machine-Model EBA 20-Hettich (Đức)
- Cân kĩ thuật và cân phân tích điện tử: Mettler Toledo Ab204, Sartorious GP 1503P
- Máy cô quay chân không Heidolph Laborota 4001
- Tủ sấy
- Máy bơm chân không.
2.2. Chuẩn bị mẫu
- Alginate được pha theo tỉ lệ 0,7g/ml nước cất, khuấy từ 60 phút với tốc độ khuấy
1200 vòng/phút. Sau đó đánh siêu âm 30 phút nữa.
- (CH3COO)2Ca x H2O được pha theo tỉ lệ 0,65g/ml nước cất, khuấy từ 60 phút với
tốc độ khuấy 1200 vòng/phút. Sau đó đánh siêu âm 30 phút nữa.
- β-CD được pha theo tỉ lệ 0,16g/ml nước cất, khuấy từ 60 phút với tốc độ khuấy
là 1200 vòng/phút. Sau đó đánh siêu âm 30 phút.
- AgNO3 được pha theo tỉ lệ 0,625g/20ml nước cất, khuấy 60 phút với tốc độ khuấy
1200 vòng/phút. Sau đó đánh siêu âm 15 phút.
- Tỉ lệ các hóa chất dùng trong quá trình thực nghiệm đã được khảo sát ở các tỉ lệ
khác nhau để chọn ra tỉ lệ tối ưu:
Tỉ lệ giữa β-CD: Alginate=1:8
Tỉ lệ giữa Alginate: (CH3COO)2Ca x H2O = 4:1
Nồng độ của AgNO3 là 5% so với tổng nồng độ của Alginate và β-CD
Tất cả đều áp dụng theo tỉ lệ khối lượng giữa các chất và sử dụng khối lượng
alginate làm chuẩn.
2.3. Quy trình tổng hợp hệ mang Alginate/β-CD không chứa ion bạc (Nano
Blank)
Sơ đồ
Alginate
Gel β-CD
Alginate/β-CD
Hình 2.1: Quy trình tổng hợp hệ mang Alginate/β-CD không chứa ion bạc.
Thuyết minh
- Nhỏ từ từ 23,08ml (CH3COO)2Ca x H2O vào erlen có chứa sẵn 100ml alginate,
khuấy từ 60 phút tốc độ 1200 vòng/phút, đánh siêm âm 30 phút giúp làm tăng khả năng
phân tán đều của các phân tử có trong hỗn hợp. Sản phẩm thu được ở dạng gel không
màu trong suốt, dung dịch được để qua đêm.
- Sau đó, hỗn hợp được li tâm lần đầu để loại bỏ những hóa chất và nước còn dư ra
khỏi hỗn hợp, tiếp theo rửa lại với nước cất và li tâm thêm 2 lần để loại bỏ các chất còn
sót, quá trình li tâm diễn ra trong vòng 10 phút với tốc độ quay 4000 vòng/phút. Thu
được gel sạch.
- Tiếp đến cho 46,875ml dung dịch β-CD vào hỗn hợp gel đem khuấy từ 60 phút
với tốc độ khuấy là 1200 vòng/phút tiếp tục đem siêu âm 30 phút rồi để qua đêm.
- Hỗn hợp đem li tâm lần đầu để loại bỏ hóa chất và nước dư, tiếp tục cho thêm
nước cất để rửa và li tâm thêm 3 lần để bỏ các chất còn sót lại, mỗi lần li tâm diễn ra
trong vòng 10 phút với tốc độ quay 5000 vòng/phút.
2.4. Quy trình tạo nano bạc trên hệ mang Alginate/β–CD
Sơ đồ
Alginate
(CH3COO)2Ca x
Khuấy từ, siêu âm,ly tâm, để qua đêm H2 O
Gel
AgNO3+ β-CD
Khuấy từ, siêu âm,ly tâm, để qua đêm Khuấy từ,siêu âm,để qua đêm
Ag+/β-CD/Alginate
Khuấy từ gia nhiệt 900C, để qua đêm Dịch chiết Quao bình châu
Thuyết minh
- Nhỏ từ từ 23,08ml (CH3COO)2Ca x H2O vào erlen có chứa sẵn 100ml alginate,
khuấy từ 60 phút tốc độ 1200 vòng/phút, đánh siêm âm 30 phút giúp làm tăng khả năng
phân tán đều của các phân tử có trong hỗn hợp. Sản phẩm thu được ở dạng gel không
màu trong suốt, dung dịch được để qua đêm.
- Sau đó, hỗn hợp được li tâm lần đầu để loại bỏ những hóa chất và nước còn dư ra
khỏi hỗn hợp, tiếp theo rửa lại với nước cất và li tâm thêm 2 lần để loại bỏ các chất còn
sót, quá trình li tâm diễn ra trong vòng 10 phút với tốc độ quay 5000 vòng/phút. Thu
được gel sạch.
- Cho 1,7ml dung dịch AgNO3 vào 46,875ml β-CD khuấy từ 60 phút với tốc độ
khuấy 1200 vòng/phút. Sau đó siêu âm 30 phút rồi để sản phẩm qua đêm.
- Tiếp theo cho hỗn hợp Ag+/β-CD vào gel rồi khuấy từ 60 phút với tốc độ khuấy
1200 vòng/phút, sau đó siêu âm 30 phút rồi để yên qua đêm. Tiến hành li tâm lần đầu để
loại bỏ các hóa chất còn sót lại, quá trình li tâm diễn ra trong vòng 10 phút với tốc độ
quay 5000 vòng/phút.
2.5. Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành nano bạc bằng
phương pháp quang phổ UV-Vis
2.5.1. Khảo sát ảnh hưởng của tỉ lệ khối lượng so với thể tích dịch chiết lên quá
trình hình thành nano
Mục tiêu: Xác định màu sắc, bước sóng hấp thụ cực đại và độ hấp thụ cực đại của
quá trình khử Ag+ thành Ag để chọn tỉ lệ khảo sát tối ưu.
Chọn cố định các dữ liệu sau:
- Dịch chiết: 10g/100ml nước cất 2 lần
- Nồng độ AgNO3: 0,625g/20ml
- Tốc độ khuấy: 1200 vòng/phút
- Thời gian phản ứng: 2 giờ
- Nhiệt độ phản ứng: 900C
- Dịch chiết Quao Bình Châu và nano ion Ag+ theo tỉ lệ mgel:Vdịch chiết như sau: 20:1,
4:1, 2:1, 1.3:1, 1:1.
Thực nghiệm
Cho dịch chiết Quao Bình Châu và lượng gel nano ion Ag+ theo tỉ lệ như
trên và 5ml nước cất 2 lần vào 5 hủ thủy tinh. Sau đó để phản ứng diễn ra bằng
cách khấy từ liên tục trong 2 giờ với tốc độ khuấy là 1200 vòng/phút, nhiệt độ
khuấy ở 900C dung dịch sẽ chuyền màu từ màu nâu sang xanh đen.
2.5.2. Khảo sát ảnh hưởng của thời gian phản ứng lên quá trình hình thành nano
bạc
Mục đích: Xác định bước sóng hấp thụ cực đại và độ hấp thụ cực đại của quá
trình khử Ag+ thành Ag để chọn ra thời gian phản ứng tối ưu.
Chọn cố định các dữ liệu sau:
- Dịch chiết: 10g/100ml nước cất
- Nồng độ AgNO3: 0,625g/20ml
- Tốc độ khuấy: 1200 vòng/phút
- Thời gian phản ứng: 2 giờ
- Nhiệt độ phản ứng: 900C
- Khảo sát ở các khoảng thời gian sau: 0 phút, 10 phút, 20 phút, 40 phút, 60 phút,
80 phút, 100 phút, 120 phút.
Thực nghiệm:
Từ khảo sát tỉ lệ khối lượng so với dịch chiết, chọn ra được tỉ lệ tối ưu để tiến
hành làm khảo sát thời gian như sau: Cho dịch chiết Quao Bình Châu và lượng gel nano
ion Ag+ cùng với nước cất, sau đó để phản ứng diễn ra bằng cách khuấy từ liên tục trong
2 giờ với tốc độ khuấy là 1200 vòng/phút, nhiệt độ khuấy ở 900C.
2 giờ ở 900C
Hình 2.3: Kết quả khảo sát thời gian: A- mẫu dịch chiết ban đầu, B- Mẫu dịch chiết sau
khi khử bạc.
2.6. Khảo sát hoạt tính kháng khuẩn của AgNPs
Chuẩn bị
Tại pH=7
Chuẩn bị ba mẫu lỏng gồm:
Mẫu AgNPs 1mg/ml
Mẫu Nano Blank 1mg/ml
Dịch chiết.
Tại pH = 4,5
Chuẩn bị hai mẫu lỏng gồm:
Mẫu AgNPs 1mg/ml
Hệ dung dịch đệm p H = 4,5.
Thực nghiệm:
- Nuôi Agrobacterium tumefaciens trong dung dịch Luria Bertani (LB)
Lấy một lượng vi khuẩn nhỏ cho vào 1mL dung dịch LB
Để tủ nuôi cấy 370C trong vòng 8h-14h.
- Chuẩn bị dung dịch Ampicillin (100mg/ml) làm đối chứng dương
tồn tại trong hợp chất. Nơi đo Viện Hóa học-Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ
Việt Nam địa chỉ: số 1 Mạc Đĩnh Chi, Quận 1, Tp.HCM.
Máy đo thế Zeta, Raman và kích thước hạt dùng để xác định khoảng phân
bố kích thước của từng hạt nano, cân bằng điện hóa trên bề mặt và sự rung động của
phân tử. Nơi đo Viện Khoa học vật liệu và ứng dụng, Tp.HCM.
Phổ tán sắc năng lượng EDX có trong kính hiển vi điện tử (EMAX
ENERGY EX-400) dùng để phân tích thành phần hóa học của vật rắn và sự phân bố của
các phân tử AgNP dựa vào việc ghi lại phổ tia X phát ra từ vật rắn do tương tác với các
bức xạ được đo tại Viện vễ sinh dịch tễ địa chỉ: Số 1 Yersin, Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Thiết bị phân tích nhiệt (DTA/ DSC/TGA) Labsys Evo S60/58988 sử dụng
3 phép đo phân tích nhiệt vi sai (DTA), nhiệt lượng quét vi sai (DSC) và phân tích nhiệt-
trọng lượng (TGA). Mục tiêu là để xác đinh độ tinh khiết của hệ nano bạc và nhiệt độ
phân hủy của các nguyên tố có trong hệ nano bạc. Nơi đo Viện Hàn lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam địa chỉ số 18 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội.
Hình 3.1: Kết quả đo UV-Vis của khảo sát tỉ lệ mgel:Vdịch chiết.
Hình 3.2: Đồ thị biểu thị cường độ hấp thụ cực đại giữa các tỉ lệ phản ứng.
Từ đồ thị kết quả đo UV-Vis của khảo sát tỉ lệ mgel:Vdịch chiết, chúng tôi thấy rằng
cường độ hấp thụ tăng dần khi thay đổi lượng gel. Tỉ lệ 1:1 thì có cường độ hấp thụ thấp
nhất tức là lượng gel không đủ để xảy ra quá trình khử bạc còn cao nhất là tỉ lệ 4:1 và
20:1, tuy nhiên tỉ lệ 4:1 là tỉ lệ tối ưu với cường độ hấp thụ ở bước sóng 426 nm còn đối
với tỉ lệ 20:1 thì cường độ hấp thụ thay đổi không đáng kể so với tỉ lệ 4:1 chứng tỏ dù
có sử dụng một lượng lớn gel thì quá trình khử vẫn không xảy ra vì đã đạt giới hạn cực
đạt của nó ở tỉ lệ 4:1. Tỉ lệ 4:1 được dùng làm tỉ lệ tối ưu để thực hiện các khảo sát khác.
3.2. Khảo sát ảnh hưởng của thời gian phản ứng lên quá trình hình thành nano
bạc
Hình 3.3: Kết quả đo UV-Vis của khảo sát thời gian.
Hình 3.4: Đồ thị biểu diễn cường độ hấp thụ cực đại của từng thời gian phản ứng.
Từ kết quả đo UV-Vis của khảo sát ảnh hưởng thời gian lên quá trình hình
thành nano bạc, chúng tôi thấy rằng cường độ hấp thụ hay là khả năng khử bạc tăng
dần theo thời gian từ 0 đến 80 phút tương ứng với nồng độ nano bạc được tăng lên
trong dung dịch và đạt giá trị không đổi ở 100-120 phút.
Cường độ hấp thụ từ 60-80 phút là thời gian khử bạc đặc trưng của nano bạc với
80 phút có cường độ hấp thụ cao nhất với bước sóng là 426nm là bước sóng phù hợp
với khả năng hấp thụ của nano bạc. Từ 0-40 phút chưa xuất hiện cường độ hấp thụ vì
thời gian chưa đủ để xảy ra phản ứng khử ion bạc. Tuy nhiên khi tăng thời gian thì
cường độ hấp thụ không đổi và có xu hướng giảm cường độ hấp thụ tức là quá trình
khử bạc đã kết thúc. Vì vậy thời gian tối ưu cho phản ứng khử bạc xảy ra là 80 phút và
được chọn để thực hiện các phản ứng tiếp theo.
Hình 3.7: Kết quả đo kích thước hạt của mẫu Nano Blank và AgNPs.
Kích thước cụ thể các hạt AgNPs được đo bằng công nghệ tán xạ ánh sáng với
các hạt lơ lửng trong hỗn hợp lỏng chuyển động ngẫu nhiên. Sự phụ thuộc vào thời gian
của cường độ tán xạ cho thấy các hạt đang chuyển động nhanh như thế nào. Từ thông tin
này, có thể tính toán kích thước trung bình của hạt cũng như sự phân bố kích thước.
Kích cỡ trung bình của mẫu AgNPs là 20,6±3,6 nm, kích thước thu được nhều nhất là
21,5nm đây là kích thước mong muốn trong quá trình tổng hợp AgNPs và phù hợp với
kết quả thu được khi sử dụng kính hiển vi điện tử truyền qua để quan sát bên trong vật
liệu. Kích thước trung bình của các hạt nano Blank là 125,3±10,5nm, kích thước thu
được nhiều nhất là 134,16nm lớn hơn rất nhiều so với kích thước của các hạt AgNPs
điều này chứng tỏ rằng các hạt nano trống có khả năng phân ly thành các hạt có kích cỡ
nhỏ hơn.
3.5. Kết quả phân tích thế Zeta
Hình 3.8: Kết quả phân tích thế Zeta của nano trống và AgNPs.
Thế Zeta của hạt AgNPs được tìm thấy khoảng -27,9mV còn đối các hạt nano
trống nằm trong khoảng -62,5mV cho thấy tương tác điện thế bề mặt của mẫu AgNPs
tăng lên chứng tỏ trong mẫu AgNPs tồn tại các hạt kim loại nano bạc. Kết quả cho thấy
cả hai hệ bền trong dung dịch nước.
3.6. Kết quả phân tích FTIR
Hình 3.9: Kết quả phân tích phổ hồng ngoại (IR) sự tồn tại của các nhóm chức trong
các chất.
Kết quả phân tích FTIR của cây Quao Bình Châu chúng tôi thấy sự hiện diện của
nhóm -OH ở tần số 3421 cm-1, nhóm -CH ở tần số 2921 cm-1. Ngoài ra còn có các nhóm
chức -NH2 ở tần số 1616 cm-1, ở tần số 1073 cm-1 là sự hiện diện của một loạt các nhóm
chức C=O.
Kết quả phân tích FTIR của β-CD cho thấy sự hiện diện của các nhóm -OH với
một dải rộng ở tần số 3383 cm-1; nhóm chức -CH2-, COOH ở tần số 2925 cm-1, ở tần số
1648 cm-1 thể hiện sự uốn cong của các phân tử nước được hấp thụ. Tần số 1029 cm-1
cho thấy sự có mặt của nhóm CO kéo dài.
Kết quả phân tích FTIR của alginate cũng như các chất trên có sự dao động kéo
dài của liên kết -OH ở tần số 3427 cm-1; ở tần số 2924 cm-1 có nhóm -CH-, COOH. Ở
tần số 1640 cm-1 có sự tồn tại của nhóm C=C kéo dài, ở tần số 1124 cm-1 có thể là do
các nhóm C-C-H hoặc O-C-H bị biến dạng.
Kết quả phân tích FTIR của Nano Blank cho thấy sự hiện diện của nhóm chức -
OH ở tần số 3425 cm-1; nhóm chức -CH2-, COOH ở tần số 2925 cm-1 tương tự như
Alginate và β-CD. Các nhóm C=C ở tần số 1627 cm-1; các nhóm chức C-OH, CO, -C-
O-C ở tần số 1030 cm-1.
Kết quả phân tích FTIR của AgNPs có sự hiện diện của nhóm -OH và -NH2 ở tần
số 3406 cm-1, nhóm -CH; COOH ở tần số 2928 cm-1. Ở dải tần số 1608 cm-1 chỉ ra sự
liên quan có thể là của các nhóm -C-C- kéo giãn của vòng thơm hoặc C-O kéo giãn trong
carboxyl hoặc C-N uốn cong trong nhóm amit trong tổng hợp các hạt nano, lý do của
việc xuất hiện các nhóm chức như trên là do các hợp chất như flavonoid và terpenoids
có trong dịch chết cây có tác dụng khử bạc. Các nhóm chức còn lại như alcohol bậc một
thẳng C-OH, nhóm CO, nhóm chứa phosphor P-O-C ở tần số 1031 cm-1.
3.7. Kết quả phân tích phổ EDX
Hình 3.10: Thành phần hóa học tồn tại trong hệ AgNPs.
Hình 3.11: Bề mặt của vật liệu AgNPs trên chất mang Alg/β-CD.
Kết quả phân tích phổ X-ray trên bề mặt của vật liệu cho thấy có sự tồn tại của kim loại
Ag ngoài ra còn có C, Ca, O. Kết quả phân tích tại 10 vị trí trên bề mặt vật liệu cho thấy
tại vị trí cao nhất chứa Ag chiếm 16,72% (kl/kl) còn lại O chiếm 22,7% (kl/kl), C chiếm
20,3% (kl/kl), và Ca là 10,53% (kl/kl). Kết quả trung bình cho mẫu AgNPs có khoảng
6,411% (kl/kl). Sự có mặt của Ag, C, O và Ca cho thấy đã tổng hợp thành công AgNPs
trên hệ chất mang Alginate/β-CD.
3.8. Kết quả phân tích nhiệt
Hình 3.12: Đồ thị biểu diễn sự phân hủy bằng nhiệt của các chất bởi TGA.
Hình 3.13: Đồ thị biểu diễn nhiệt vi sai của các chất
Bảng 3.1: Kết quả phân tích nhiệt
Tên mẫu Giá trị Peak
Giai đoạn 1 Giai đoạn 2 Giai đoạn 3
Nano Blank Td (0C)/mloss (%) 29-200/2 200-500/50 500-800/23
Texo (0C) - 389,73 626,41
AgNPs Td (0C)/mloss (%) 29-200/8 200-500/39 500-800/20
Texo (0C) - - 683,19
β-CD Td (0C)/mloss (%) 29-200/8 200-800/60 -
Texo (0C) 347,06 653,06 -
Alginate Td (0C)/mloss (%) 31-200/10 200-500/46 500-800/14
Texo (0C) - 357,51 619,43
Chú thích: Td (0C)/mloss (%): Mô tả cho quá trình phân tích nhệt TG ở Hình 3.12
Texo (0C): Mô tả cho quá trình DTA ở Hình 3.13
AgNPs và các chất liên quan được phân tích nhiệt lượng (TG-DTA) ở 8000C, tỷ lệ nhiệt
là 100C/phút cho kết quả như sau:
Mẫu β-CD bị phân hủy bởi nhiệt ở hai giai đoạn: giai đoạn 1 từ 29-200 mất
khoảng 8% khối lượng, giai đoạn hai từ 200-8000C là 60% và mỗi giai đoạn oxi hóa tại
nhiệt độ tương ứng với 347,060C và 653,060C trong phổ DTA. Tổng khối lượng các chất
bị phân hủy là 68%.
Mẫu alginate từ 31-2000C bị mất 10% khối lượng, từ 200-5000C mất 46% khối
lượng, từ 500-8000C mất khoảng 14% khối lượng. Tổng khối lượng bị mất là 70% còn
lại 30% chưa bị phân hủy. Nhiệt oxi hóa của mẫu ở giai đoạn 2 là 357,510C và giai đoạn
3 là 616,430C.
Mẫu Nano Blank từ 29-2000C mất khoảng 2% khối lượng, từ 200-5000C mất
khoảng 50% và từ 500-8000C mất khoảng 23%. Vậy xuyên suốt quá trình lượng mẫu bị
phân hủy 75% và còn lại 25 % là các chất vô cơ. Qúa trình oxi hóa mẫu xảy ra ở giai
đoạn 2 và 3 tương ứng là 389,730C và 626,410C. Mẫu Nano Blank bị phân hủy nhiều
nhất trong 5 chất.
Mẫu AgNPs từ 29-2000C mất khoảng 8% khối lượng, từ 200-5000C khối lượng
bị mất 39% và từ 500-8000C khối lượng mất là 20%. Khối lượng bị mất của AgNPs ở
giai đoạn 2 và 3 thấp hơn so với Nano blank. Tổng khối lượng mẫu bị phân hủy bởi nhiệt
là 67% còn lại 33% các chất vô cơ không oxi hóa. Nhiệt oxi hóa tại 689,130C xảy ra giai
đoạn cuối của quá trình phân hủy.
3.9. Kết quả phân tích kính hiển vi điện tử truyền qua độ phân giải cao
Tại pH=7
Tại pH = 4,5
trò quan trọng trong hệ nano bạc trên chất mang Alginate/β-CD. Giá trị pH thấp có thể
gây ra sự tương tác bên trong của chất mang làm ảnh hưởng đến khả năng giải phóng
AgNPs vào dung dịch. Tính chất này có ý nghĩa quan trong trong ứng dụng vi sinh.
KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu này, các hạt nano bạc được mang thành công trên hệ chất mang
Alginate/β-CD bằng phương pháp ion gel hóa. Nano bạc trên hệ mang Alginate/β-CD
được khử hoàn toàn bằng phương pháp tổng hợp xanh từ cây Quao Bình Châu-
Stereospermum binhchauensis V.S. Dang. Từ những kết quả của nghiên cứu này, chúng
tôi rút ra một số kết luận sau:
- Sau khi tiến hành khảo sát tỉ lệ phản ứng và thời gian phản ứng, cho thấy
rằng các hạt nano bạc với nồng độ 0.18mM được tạo thành tối ưu nhất ở tỉ lệ 4:1 ở 900C
trong vòng 80 phút.
- Đặc tính chi tiết của các hạt nano bạc được đo bằng máy quang phổ UV-
Vis cho thấy bước sóng đặc trưng tạo 426nm.
- Kết quả đo TEM của các hạt AgNPs có kích thước trung bình ở 20.6 nm,
những hạt có kích thước lớn hơn khoảng 29 nm.
- Kích thước và thế Zeta của hạt nano bạc được xác định trong khoảng
20,6±3,6 nm và -27,9mV
- EDX cho thấy hàm lượng nano bạc trong mẫu là 6.411%.
- TG-DTA cho thấy khả năng bền với nhiệt độ của hạt nano trong khoảng
từ 290-6000C.
- Ứng dụng của các hạt nano bạc được thể hiện thông qua hoạt tính kháng
khuẩn với Agrobacterium tumefaciens với giá trị nồng độ kháng sinh tối thiểu ức chế sự
hoạt động của vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens là 6,804μg/mL trong môi trường
pH=4,5.
KIẾN NGHỊ
Căn cứ vào các kết nghiên cứu đã thực hiện, chúng tôi kiến nghị một số điểm cho
hướng nghiên cứu tiếp theo của đề tài như sau:
Cây Quao Bình Châu- Stereospermum binhchauensis V.S. Dang là loài thực vật
mới được tìm thấy chưa có nhiều nghiên cứu trên loài cây này nên sẽ là hướng đi mới
trong ứng dụng y học. Với mong muốn mở rộng nghiên cứu toàn diện: Tổng hợp nano
bạc trên hệ mang Alginate/β-CD từ dung dịch bạc nitrat với các bộ phận khác của cây
Quao Bình Châu- Stereospermum binhchauensis V.S. Dang vỏ, quả và rễ.
Tiếp tục khảo sát ở nồng độ AgNO3 khác, ứng dụng xúc tác trong các phản ứng
hóa học và khả năng kháng khuẩn ở các chủng vi khuẩn trong các môi trường khác nhau.
[8]. Dinesh Kumar Dahiy, Renuka, Anil Kumar Puniya (2017), “Impact of nanosilver on
gut microbiota: a vulnerable link”, Future Microbiology.
[12]. Elemike Elias Emekaa, Oseghale Charles Ojiefoha, Chuku Aleruchi, Labulo
Ayomide Hassan, Owoseni Mojisola Christiana, Mfon Rebeccac, Enock Olugbenga
Darea, Adesuji Elijah Temitope (2013), “Evaluation of antibacterial activities of silver
nanoparticles green-synthesized using pineapple leaf (Ananas comosus)”, Micron.
[13]. Grégorio Crini (2008), “Kinetic and equilibrium studies on the removal of cationic
dyes from aqueous solution by adsorption onto a cyclodextrin polymer”, Dyes and
Pigments, 77, pp.415-426.
[14]. Geeta Aryaa , Nikita Sharmaa , Jahangir Ahmeda , Nidhi Guptab , Ajeet Kumarc ,
Ramesh Chandrad , Surendra Nimesh (2017), “Degradation of anthropogenic pollutant
and organic dyes by biosynthesized silver nano-catalyst from Cicer arietinum leaves”,
Journal of Photochemistry & Photobiology, B: Biology, 174, pp. 90-96.
[15]. Helen Jarvie, Peter Dobson, Stephen King See, Article History, Nanoparticle,
Encyclopaedia Britannica.
[17]. Jerome P. Paques, Erik van der Linden, Cees J.M. van Rijn, Leonard M.C. Sagis
(2014), “Preparation methods of alginate nanoparticles”, Advances in Colloid and
Interface Science.
[20]. Kim JS, Kuk E, Yu K, Kim JH, Park SJ, Lee HJ, Kim SH, Park YK, Park YH,
Hwang CY, Kim YK, Lee YS, Jeong DH, Cho MH (2007), “Antimicrobial effects of
silvernanoparticles”, 3, pp. 95-101.
[21]. Kuen Yong Lee, David J. Mooney (2011), “Alginate: properties and biomedical
applications”, Progress in Polymer Science, 37, pp. 106-126.
[23]. Li Qiu, Ryan McCaffrey, Wei Zhang (2017), “Synthesis of Metallic Nanoparticles
Using Closed-Shell Structures as Templates”, Chemistry an Asian Journal.
[24]. M.A. Abu-Saied, Tarek H. Taha, Nehal M. El-Deeb, Elsayed E. Hafez (2017),
“Polyvinyl alcohol/Sodium alginate integrated silver nanoparticles as probable solution
for decontamination of microbes contaminated water”, International Journal of
Biological Macromolecules.
[28]. Nelson Durán, Camila P. Silveira, Marcela Durán and Diego Stéfani T. Martinez
(2015), “Silver nanoparticle protein corona and toxicity: a mini-review”, Journal of
Nanobiotechnology, pp.13-55.
[29]. Patricia Fernanda Andrade, Andreia Fonseca de Faria, Douglas Soares da Silva,
Juliano Alves Bonacin, Maria do Carmo Goncalves (2014), “Structural and
morphological investigations of β-cyclodextrin-coated silver nanoparticles”, Colloids
and Surfaces B: Biointerfaces, 118, pp. 289-297.
[30]. Priyanka Singh, Yeon Ju Kim, Hina Singh, Chao Wang, Kyu Hyon Hwang,
Mohamed El-Agamy Farh, Deok Chun Yang (2015), “Biosynthesis, characterization,
and antimicrobial applications of silver nanoparticles”, International Journal of
Nanomedicine,10.
[31]. Rayhaneh Amooaghaie, Mohammad Reza Saeri, Morteza Azizi (2015), “Synthesis,
characterization and biocompatibility of silver nanoparticles synthesized from Nigella
sativa leaf extract in comparison with chemical silver nanoparticles”, Ecotoxicology and
Environmental Safety, 120, pp. 400-408.
[33]. Rijn, Leonard M.C. Sagis (2014), “Preparation methods of alginate nanoparticles”,
Advances in Colloid and Interface Science.
[37]. Shihong Lin, Rixiang Huang, Yingwen Cheng, Jie Liu, Boris L.T. Lau, Mark R.
Wiesner (2012), “Silver nanoparticle-alginate composite beads for point-of-use drinking
water disinfection”, SciVesi ScienceDirect, pp. 1-7.
[38]. T.-D. Nguyen, T. Hong-Ngan Tran, C.-H. Nguyen, C. Im, C.-H. Danga (2015),
“Synthesis and Characterization of β-Cyclodextrin/alginate Nanoparticle as a Novel
Drug Delivery System”, Chem. Biochem. Eng. Q, 29 (3), pp. 429–435.
[41]. Van Son Dang (2015), “A New Species of Stereospermum (Bignoniaceae) from
Southern Viet Nam”, Acta Phytotax. Geobot, 66(2), 91-94.
PHỤ LỤC
1. Kết quả đo TEM