You are on page 1of 132

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH


------***------

TRẦN VIỆT NHÂN

Chuyên ngành : LỊCH SỬ VIỆT NAM


Mã số : 60 22 54

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


TS. TRẦN THỊ THANH THANH

Tp. Hồ Chí Minh - 2010


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các kết quả nghiên cứu của luận văn là trung thực và không có trong bất kỳ công trình
nào khác.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 06 năm 2010

Tác giả luận văn

TRẦN VIỆT NHÂN


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................................... 2


2T 2T

MỤC LỤC ...................................................................................................................................... 3


2T T
2

MỞ ĐẦU ......................................................................................................................................... 5
2T T
2

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI, MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU. ......................................................................... 5


2T T
2

2.LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ. ...................................................................................................... 7


2T 2T

3.NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. ................................................................. 12


2T T
2

4.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU. ..................................................................................... 13


2T T
2

Chương 1: KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA
2T

VÙNG ĐẤT HÀ TIÊN ................................................................................................................. 17


2T

1.1.ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA HÀ TIÊN. ..................................... 17


2T T
2

1.1.1. Đặc điểm địa lí tự nhiên............................................................................................................. 17


2T 2T

1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội. .......................................................................................................... 22


2T 2T

1.2.QUÁ TRÌNH KHAI PHÁ VÙNG ĐẤT HÀ TIÊN. ........................................................................... 25


2T T
2

1.2.1. Công cuộc khai phá vùng đất Hà Tiên thời chúa Nguyễn và họ Mạc. ......................................... 26
2T T
2

1.2.2. Trần Hà Tiên dưới triều Nguyễn ............................................................................................... 34


2T 2T

Chương 2: SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THƯƠNG CẢNG HÀ TIÊN (Thế kỷ XVII –
2T

XVIII) ........................................................................................................................................... 39
T
2

2.1.SỰ RA ĐỜI CỦA THƯƠNG CẢNG HÀ TIÊN. ............................................................................... 39


2T T
2

2.1.1. Những điều kiện để Hà Tiên trở thành thương cảng. .................................................................. 39
2T T
2

2.1.2. Quá trình hình thành thương cảng Hà Tiên. .............................................................................. 42


2T T
2

2.2. CÁC HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI CỦA THƯƠNG CẢNG HÀ TIÊN. ....................................... 50
2T T
2

2.2.1. Hoạt động buôn bán trong nước. ................................................................................................ 50


2T 2T

2.2.2. Giao lưu thương mại với nước ngoài. ........................................................................................ 55


2T T
2

2.2.3. Những ảnh hưởng đến đời sống văn hóa - xã hội. ...................................................................... 61
2T T
2

2.3. VAI TRÒ CỦA DÒNG HỌ MẠC TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THƯƠNG CẢNG HÀ TIÊN. 65
2T T
2

Chương 3: THƯƠNG CẢNG HÀ TIÊN THỜI KỲ SUY TÀN (Đầu thế kỷ XIX) .................... 70
2T T
2

3.1. NGUYÊN NHÂN SUY TÀN CỦA THƯƠNG CẢNG HÀ TIÊN VÀO ĐẦU THẾ KỶ XIX. .......... 70
2T T
2

3.2.1. Sự tàn phá của chiến tranh: ....................................................................................................... 70


2T 2T

3.2.2. Những thay đổi về tình hình kinh tế, chính trị và xã hội Việt Nam từ cuối thế kỷ XVIII – đầu thế
2T

kỷ XIX. ............................................................................................................................................... 74
T
2

3.2.3. Sự thay đổi con đường thương mại Đông – Tây. ........................................................................ 75
2T T
2

3.2. CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NGUYỄN ĐỐI VỚI HÀ TIÊN (ĐẦU THẾ KỶ XIX). ..................... 77
2T T
2

3.3.TRIỂN VỌNG CỦA CẢNG HÀ TIÊN NGÀY NAY........................................................................ 81


2T T
2

KẾT LUẬN ................................................................................................................................... 87


2T T
2

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................ 90


2T 2T

DANH MỤC PHỤ LỤC ............................................................................................................... 96


2T 2T
Hình 14 : Biển Hà Tiên (Nguồn : http://www.chudu24.com) ................................................................... 97
2T T
2

Hình 16 : Tượng những nàng tiên đang tắm – sự tích tên gọi Hà Tiên (Ảnh - TVN) ................................ 97
2T T
2
MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI, MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.

Hà Tiên là một vùng đất rất đặc biệt, từ tên gọi cho đến lịch sử hình thành và phát
triển của nó. Nằm ở phía Tây cực Nam của Tổ Quốc, Hà Tiên là một vùng đất có cả biên
giới biển lẫn biên giới lục địa, một vùng đất có nhiều ưu thế nhưng cũng ẩn chứa nhiều khó
khăn trong xây dựng kinh tế và bảo vệ lãnh thổ. Vì thế, từ rất sớm, Hà Tiên đã trở nên nổi
tiếng và nói như “nhà Hà Tiên học” Trương Minh Đạt, thì “Hà Tiên có bề dày lịch sử và văn
hóa mà không phải địa phương nào cũng có” [14, tr. 6].

Thật vậy, đến với Hà Tiên, chúng ta sẽ đến với một xứ sở thơ mộng với nhiều danh
thắng du lịch nổi tiếng như Hòn Phụ Tử - quanh năm rủ mình xuống biển xanh ( 1)
P F
0 , hay Hà
P

Tiên thập vịnh – mười cảnh đẹp tuyệt diệu mà ngày xưa Mạc Thiên Tứ đã bình chọn với núi
Tô Châu, núi Bình San, chùa Phù Dung, sông Giang Thành, …mà cho đến bây giờ vẫn còn
nguyên giá trị; hoặc những bãi tắm tuyệt đẹp như mũi Nai, bãi Ớt, bãi Dương... với cát vàng
mịn, nước trong xanh, quanh năm sóng biển rì rào, có thể gọi là một “Hạ Long phương
Nam”. Và hơn tất cả, đến với Hà Tiên, chúng ta sẽ được sống lại một thời sôi động của
những bước chân khai khẩn của lưu dân ở vùng đất mới; đến với không khí sinh hoạt văn
chương của kẻ sĩ từ bốn phương ở vùng hải ngoại xa xôi; đến với cả không khí binh đao
trong những ngày quân dân Hà Tiên chống giặc ngoại xâm dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của
những người con ưu tú của Mạc gia và đặc biệt là quang cảnh buôn bán nhộn nhịp của
thương khách gần xa của một hải cảng từng là “quyền lực thương mại” ở Việt Nam và thế
giới lúc bấy giờ - thương cảng Hà Tiên.

Thương cảng Hà Tiên hình thành từ những năm cuối thế kỷ XVII, phát triển đỉnh cao
vào giữa thế kỷ XVIII và lùi tàn vào đầu thế kỷ XIX. Quá trình phát triển ấy của thương
cảng Hà Tiên gắn liền với sự hình thành và phát triển của vùng đất Hà Tiên.

Hà Tiên xưa vốn là vùng đất rộng lớn có tên gọi là Mang Khảm hay Phương Thành
trên danh nghĩa thuộc phủ Sài Mạt của Chân Lạp nhưng xét về mặt hành chính thì chưa có hệ

(1) : Hiện nay, do sự bào mòn của sóng biển theo thời gian, một trong hai hòn đá của Hòn Phụ Tử đã chìm xuống lòng biển xanh.
Tuy vậy, điều đáng mừng là tỉnh Kiên Giang đang có kế hoạch khôi phục lại Hòn phụ tử như hình ảnh vốn có của nó.
thống chính quyền nào quản lí. Cho đến đầu thế kỷ XVII, Hà Tiên vẫn là một vùng đất
hoang vu, rừng sác mịt mùng nhưng ở đó đã có các tộc người Khmer, người Việt…định cư,
sinh sống và sự phát triển kinh tế đã ở một mức độ nhất định.

Đến cuối thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XVIII (khoảng năm 1700 ( 1)), một người Trung Hoa
P F
1 P

tên là Mạc Cửu đã đến định cư, khai phá vùng đất Mang Khảm. Sau đó, Mạc Cửu thần phục
vua Chân Lạp là Nặc Yêm (Ang Em) và được phong chức Ốc Nha (Oknha – chức quan cai
quản một tỉnh). Với vị trí thuận lợi của Hà Tiên và khả năng của mình, Mạc Cửu đã xây
dựng Hà Tiên thành một vùng đất phát triển trù phú bậc nhất thời ấy. Đến năm 1708, trước
sự quấy phá của quân Xiêm và sự suy yếu của Chân Lạp, Mạc Cửu đã quyết định nương nhờ
chúa Nguyễn, xác nhập vùng đất Hà Tiên vào lãnh thổ Việt Nam. Từ thời điểm ấy, Mạc Cửu
và Mạc Thiên Tứ - người kế nghiệp ông đã ra sức xây dựng thương cảng Hà Tiên, biến nó
thành cảng biển quan trọng nhất trên con đường buôn bán qua vịnh Thái Lan.

Nhưng thương cảng Hà Tiên phát triển không êm ả mà đầy những biến đổi thăng trầm.
Từ một địa điểm buôn bán nhỏ trên vùng đất hoang sơ, cảng Hà Tiên phát triển nhanh chóng,
trở nên sầm uất, rồi lại suy tàn sau hơn một thế kỷ phát triển. Khoảng thời gian một thế kỷ
không dài lắm nhưng cảng Hà Tiên cũng đã để lại những dấu ấn khó phai mờ. Và chính điều
đặc biệt ấy của thương cảng Hà Tiên đã làm chúng tôi hết sức quan tâm. Đây là lí do quan
trọng thúc đẩy chúng tôi chọn vấn đề thương cảng Hà Tiên làm đề tài nghiên cứu.

Nghiên cứu về thương cảng Hà Tiên là để tìm hiểu rõ trong quá khứ thương cảng Hà
Tiên đã hình thành và phát triển như thế nào ? Họ Mạc có vai trò gì đối với sự phát triển của
thương cảng Hà Tiên và vùng đất Hà Tiên ? Vì sao thương cảng Hà Tiên chỉ tồn tại đúng
trong một thế kỷ ? Và với vị trí và tiềm năng của mình, ngày nay Hà Tiên sẽ phát triển ra sao
?... Mặc khác, Hà Tiên là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng nằm ở tận cùng phía Tây Nam
Tổ Quốc thì việc tìm hiểu về Hà Tiên sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về quá trình mở cõi Nam
tiến của dân tộc Việt Nam, hiểu rõ hơn về vai trò, vị trí của Hà Tiên trong sự phát triển
chung của đất nước.

Trong những năm qua, với những tiềm năng vốn có và vị trí đặc biệt quan trọng cả về
kinh tế và quốc phòng, Hà Tiên – Kiên Giang giữ vị trí quan trọng trong sự phát triển của

(1) : Lấy mốc năm 1700 là theo sách Nghiên cứu Hà Tiên của nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt; Còn theo Trịnh Hoài Đức trong
sách Gia Định thành thông chí thì Mạc Cửu đến Hà Tiên vào năm 1680.
vùng đất Nam Bộ nói riêng và cả nước nói chung. Đúng như cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã
viết: “Kiên Giang là một cửa ngõ quan trọng ở phía Tây Nam Tổ Quốc” [51, tr. 10]. Chính vì
thế, vùng đất Hà Tiên – Kiên Giang đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên
cứu sử học. Nhiều công trình nghiên cứu đã ra đời, khai thác nhiều lĩnh vực khác nhau mang
tầm khu vực và ở từng địa phương. Tuy nhiên, những đề tài nghiên cứu về lĩnh vực kinh tế
lại rất ít, nhất là kinh tế thời trung cổ. Trong bối cảnh đó, việc tìm hiểu về thương cảng Hà
Tiên cũng chưa được quan tâm đúng mức. Đây là một khoảng trống khoa học cần được lắp
đầy. Bởi vì muốn hiểu biết một cách đầy đủ khoa học về vùng đất Nam Bộ nói chung thì
không thể không nói đến vùng đất Hà Tiên, trong đó có thương cảng Hà Tiên. “Không có
nghiên cứu cơ bản thì không có nguồn dự trữ về lý luận…Nghiên cứu cơ bản là cơ sở cho sự
phát triển toàn bộ nền khoa học của đất nước. Nghiên cứu cơ bản càng sâu, khả năng ứng
dụng vào thực tiễn càng có hiệu quả”. [26, tr. 2]

Như vậy, mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm: Thứ nhất, góp phần tìm hiểu
một cách rõ nét và có hệ thống về quá trình hình thành và phát triển của thương cảng Hà
Tiên trong lịch sử; hiểu rõ về vai trò của họ Mạc đối với sự phát triển của thương cảng Hà
Tiên và vùng đất Hà Tiên, cũng như vai trò của chúa Nguyễn và triều Nguyễn trong công
cuộc mở cõi về phương Nam của dân tộc Việt Nam. Đó là những căn cứ quan trọng tạo cơ sở
cho những hiểu biết cần thiết trong việc xây dựng các chương trình kinh tế - xã hội trong
hiện tại cũng như việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Hà Tiên trong
tương lai; Hai là, những hiểu biết về di sản thương cảng Hà Tiên sẽ góp phần làm phong phú
hơn những hiểu biết về những di sản chung của vùng đất Nam Bộ ở thế kỷ XVII – XIX, góp
phần hoàn chỉnh bức tranh lịch sử Nam Bộ, lắp đầy khoảng trống khoa học.

2.LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ.

Lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Hà Tiên nằm trong sự phát triển chung
của vùng đất Nam Bộ, cho nên những tư liệu về vùng đất này đã được các sử gia triều
Nguyễn đề cập đến trong các tác phẩm nổi tiếng như:

Đại Nam thực lục (tiền biên và chính biên) và Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử
quán triều Nguyễn. Đây là những bộ chính sử lớn nhất và quan trọng nhất của triều Nguyễn,
ghi chép gần như toàn bộ những sự kiện chính liên quan đến quá trình hình thành và phát
triển của các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn; về quá trình mở cõi phương Nam của dân
tộc Việt. Trong những tác phẩm này, các sử gia đã cho chúng ta biết những nét chính yếu
nhất về về vị trí địa lí, địa hình, những sản vật phong phú, quá trình khai phá và phát triển
của vùng đất Hà Tiên. Đặc biệt là những sự kiện liên quan đến Mạc Cửu thần phục chúa
Nguyễn, dâng đất Hà Tiên xác nhập vào lãnh thổ Việt Nam và những hoạt động của Mạc
Cửu, Mạc Thiên Tứ trong việc xây dựng, phát triển, bảo vệ cảng thị Hà Tiên.

Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn cũng là một tác phẩm đã đề cập đến nhiều chi tiết
quý báu để giúp chúng ta hiểu rõ hơn về vùng đất Hà Tiên. Mặc dù trong tác phẩm, nhà bác
học không trực tiếp viết về Hà Tiên nhưng ít nhiều đã nói đến những ưu thế của Hà Tiên
trong việc phát triển kinh tế, nhất là kinh tế thương nghiệp, cũng như mối quan hệ giữa
thương cảng Hà Tiên với Đàng Ngoài và các quốc gia trong khu vực.

Đặc biệt, tác phẩm quan trọng nhất có ghi chép về Hà Tiên phải kể đến là Gia Định
thành thông chí của Trịnh Hoài Đức. Đây có thể được coi là tác phẩm viết về Hà Tiên nhiều
nhất và đầy đủ nhất. Trong cả 3 tập Thượng, Trung, Hạ, tác giả đều có phần viết về Trấn Hà
Tiên. Tác giả đã phác họa cho chúng ta một cách khá rõ nét đặc điểm vị trí địa lí, xã hội,
kinh tế, về hình thể của thương cảng Hà Tiên. Đó là những tư liệu vô cùng quý giá, cho phép
các thế hệ nghiên cứu sau này hình dung được những nét lớn về bộ mặt của vùng đất Hà
Tiên vào thế kỷ XVII – XIX.

Có thể nói, đó là những tác phẩm đầu tiên nghiên cứu về vùng đất phía Nam của Tổ
quốc. Và mặc dù, những sử liệu về vùng đất Hà Tiên được ghi chép khá tản mạn nhưng đây
là một căn cứ quan trọng để chúng ta hiểu rõ hơn về quá trình hình thành và phát triển của
vùng đất này.

Bên cạnh các bộ sử lớn trên, lịch sử vùng đất Hà Tiên đã được đề cập đến trong một
số tác phẩm của các tác giả trong và ngoài nước.

Tác phẩm đầu tiên phải kể đến là Mạc thị gia phả của Dinh Đức hầu Vũ Thế Dinh. Do
là người trong cuộc, chứng kiến mọi bước phát triển và những biến cố thăng trầm của Hà
Tiên, nên trong Mạc thị gia phả, Vũ Thế Dinh đã đề cập đến nhiều thông tin quan trọng để
giúp chúng ta hiểu đúng hơn về họ Mạc và đất Hà Tiên nói riêng, về một bộ phận quan trọng
của lãnh thổ xứ Đàng Trong các thế kỷ XVII và XVIII nói chung. Đọc Mạc thị gia phả
chúng ta sẽ có thêm những cơ sở tư liệu tin cậy để hình dung về chủ trương của họ Mạc
trong việc quy tụ nhân dân lưu tán về mở đất lập làng tại Hà Tiên, về vị trí cũng như quy mô
cụ thể của bảy xã thôn đầu tiên nằm rải rác trên vùng đất ngày nay tương ứng với các tỉnh
Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau. Đọc Mạc thị gia phả chúng ta sẽ hiểu được Mạc Cửu và
Mạc Thiên Tứ “đã tìm cách thi vị hóa vùng đất Hà Tiên nhằm tạo ra sức hấp dẫn đối với kẻ
sĩ và thường dân trong khắp bốn phương thiên hạ ra sao” [24, tr. 9]. Có thể nói, Mạc thị gia
phả là cuốn sử sinh động nhất về vùng đất Hà Tiên.

Thế nhưng, đáng tiếc là Mạc thị gia phả của Vũ Thế Dinh cũng tồn tại nhiều hạn chế.
Đó là xác định chưa đúng niên đại Mạc Cửu đến lập nghiệp ở vùng đất Mang Khảm, khi cho
rằng đó là năm 1671 [24, tr. 14]. Mốc thời gian này được nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt
xác định là khoảng năm 1700. Hay Vũ Thế Dinh chép rằng sự kiện Mạc Cửu dâng đất Mang
Khảm, thần phục chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725) diễn ra vào năm 1714 cũng không
chính xác. Sự kiện này xảy ra vào năm 1708 mới đúng. Điều này đã được xác nhận trong
nhiều bộ sách lớn của các sử gia triều Nguyễn. Hoặc là trong Mạc thị gia phả, Vũ Thế Dinh
ít ghi chép về vấn đề phát triển kinh tế của Hà Tiên mà quan tâm nhiều đến cuộc tranh chấp
quyền lực của các thế lực phong kiến, về sự tồn vong của dòng họ Mạc.

Tuy vậy, dù còn có những hạn chế nhất định nhưng giá trị lịch sử của Mạc thị gia phả
là không thể phủ nhận. Đúng như Giáo sư Trần Văn Giàu đã viết : Mạc thị gia phả được xem
“ là bộ sử giản lược về Nam Bộ nói riêng và xứ Đàng Trong nói chung” [24, tr. 5]. Vì thế,
tìm hiểu về thương cảng Hà Tiên chúng ta không thể bỏ qua tác phẩm này.

Một công trình khác rất đáng kể tới về mặt khoa học là tác phẩm Nghiên cứu địa bạ
triều Nguyễn, Hà Tiên (Kiên Giang – Minh Hải), (NXB. Tp. HCM, 1994) của nhà nghiên
cứu Nguyễn Đình Đầu. Dựa trên nguồn tài liệu quý giá là 35 tập, gồm 144 quyển địa bạ của
tỉnh Hà Tiên được triều Nguyễn lập năm 1836, Nguyễn Đình Đầu đã miêu tả kỹ lưỡng, chân
xác địa lí lịch sử Hà Tiên, địa bàn từng huyện của tỉnh, thống kê diện tích điền thổ của các xã
thôn. Địa bạ tỉnh Hà Tiên đã đóng góp căn bản vào việc tìm hiểu tình hình kinh tế - xã hội
của Hà Tiên ở thế kỷ XIX.

Một tác phẩm quan trọng khác cũng đề cập đến Hà Tiên là tác phẩm Lịch sử khai phá
vùng đất Nam Bộ do Huỳnh Lứa (chủ biên). Với bốn chương, tác phẩm đã trình bày một
cách rõ nét quá trình khai phá vùng đất Nam Bộ của cộng đồng dân tộc Việt Nam trong các
thế kỷ XVII, XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX và thời thuộc Pháp. Đây được coi là tác phẩm đánh
dấu một cột mốc ban đầu cho các công trình nghiên cứu về công cuộc khẩn hoang đồng bằng
sông Cửu Long. Trong tác phẩm, các tác giả đã dành một phần phân tích về vùng đất Hà
Tiên trong bức tranh tổng thể lịch sử khai hoang vùng đất Nam Bộ.

Một số tác giả cũng đề cập đến lịch sử Hà Tiên nhưng chủ yếu là trong bối cảnh lịch
sử Nam Bộ như : Việt sử xứ Đàng Trong – cuộc nam tiến của dân tộc Việt của Phan Khoang,
Lịch sử khẩn hoang Miền Nam của Sơn Nam, Lược sử vùng đất Nam Bộ - Việt Nam do GS.
Vũ Minh Giang (chủ biên), Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII, XIX
của Huỳnh Lứa…

Năm 2008, nhân kỷ niệm 300 trấn Hà Tiên, nhà “Hà Tiên học” Trương Minh Đạt đã
cho ra đời một tác phẩm rất đáng quan tâm, tác phẩm Nghiên cứu Hà Tiên (Tạp chí xưa và
nay, NXB. Trẻ ấn hành). Đây là một công trình chuyên khảo rất có giá trị về vùng đất Hà
Tiên với tập hợp gồm 35 bài khảo cứu – đính chính – tư liệu được viết từ năm 1990 đến nay.
Với tầm hiểu biết sâu rộng về đất Hà Tiên, cộng với những ý kiến mang tính phát hiện, tác
giả đã đưa ra nhiều kiến giải quan trọng, giúp chúng ta nhận thức đứng đắn về các sự kiện,
niên đại …liên qua đến quá trình hình thành và phát triển của vùng đất Hà Tiên như : người
xây dựng lũy đất Trúc Bàn Thành là Mạc Cửu, từ đầu thế kỷ XVIII, chứ không phải là từ
giữa thế kỷ XIX; Mạc Cửu bắt đầu tạo dụng cơ nghiệp ở Hà Tiên vào năm 1700 (chứ không
phải năm 1671, 1674, 1680, 1708, hay 1715 như một số tác giả đã viết); Mạc Cửu thần phục
chúa Nguyễn vào năm 1708 (chứ không phải năm 1714 như Vũ Thế Dinh đã viết trong Mạc
thị gia phả)…Ngoài ra tác giả còn giúp chúng ta xác định vị trí của nền nhà Chiêu Anh Các,
hiểu về lai lịch chùa Phù Dung. Đặc biệt, ông đưa ra ý kiến Hà Tiên từng là điểm cư trú xưa
của người Việt cổ.

Tuy vậy, điểm đáng tiếc là trong Nghiên cứu Hà Tiên, tác giả Trương Minh Đạt lại ít
quan tâm đến vấn đề phát triển kinh tế của vùng đất Hà Tiên nói chung và cảng Hà Tiên nói
riêng.

Ngoài ra, chúng ta cũng có thể tìm thấy nhiều bài viết chuyên khảo về thương cảng Hà
Tiên như : Kinh tế Hà Tiên – Rạch Giá thời Pháp thuộc (1867 – 1939), luận án phó Tiến sĩ
sử học của Nguyễn Thùy Dương. Đây là một công trình nghiên cứu khá toàn diện về vùng
đất Hà Tiên. Tác giả đã giành toàn bộ chương một để trình bày về lịch sử khai phá vùng đất
Hà Tiên. Các chương còn lại viết về kinh tế Hà Tiên – Rạch Giá thời Pháp thuộc nhưng lại
thiên về kinh tế nông nghiệp, ít nói về kinh tế thương nghiệp, nhất là ở thế kỷ XVIII. Điều
này cũng dễ hiểu, vì nó nằm ngoài phạm vi nghiên cứu của đề tài. Cùng với đó, các bài viết
Hà Tiên từng là thương cảng trung tâm Đông Nam Á của Nguyên Khang, đã chứng minh Hà
Tiên là một thương cảng sầm uất vào thế kỷ XVIII; Công cuộc khai phá trấn Hà Tiên vào
những thập kỷ cuối thế kỷ XVII, nửa đầu thế kỷ XVIII và vai trò của họ Mạc của Huỳnh Lứa,
phân tích khá rõ nét vai trò của họ Mạc đối với công cuộc khai phá và phát triển vùng đất Hà
Tiên; Vai trò lịch sử của Hà Tiên trong tiến trình mở đất phương Nam của dân tộc Việt Nam
của Trương Minh Đạt, khẳng định vị thế của Hà Tiên trong lịch sử khai phá vùng đất Nam
Bộ; Nam Bộ Việt Nam – Môi trường kinh tế biển và mối quan hệ với các quốc gia khu vực
(thế kỷ XVII – XVIII) của Nguyễn Văn Kim, đề cập khá nhiều chi tiết liên quan đến hoạt
động thương nghiệp của cảng Hà Tiên trong mối quan hệ với các quốc gia trong khu vực,
nhất là đối với Xiêm; Hà Tiên trong lịch sử Nam Bộ đến cuối thế kỷ XVIII của Nguyễn Hữu
Hiếu.v.v. cũng đã đề cập đến sự phát triển của thương cảng Hà Tiên ở nhiều khía cạnh khác
nhau. Đây chính là những luận điểm rất quan trọng, giúp tác giả luận văn tiếp tục phát triển
để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.

Bên cạnh các nhà nghiên cứu trong nước, một số tác giả nước ngoài cũng đã quan tâm
nghiên cứu về Hà Tiên. Họ Mạc và chúa Nguyễn ở Hà Tiên (Văn hóa Á Châu số 7, tháng 10
– 1958) của Trần Kinh Hòa (Chen Ching Ho) là một ví dụ. Ngoài ra, còn phải kể đến một số
tác phẩm viết bàng tiếng Pháp nghiên cứu về Hà Tiên như Un Chinois des Mers du Sud le
Fondateur de Ha Tien (Người Trung Hoa ở biển Nam, người sáng lập Hà Tiên) của Emile
Gaspardone (Tạp chí journal Asiatique, 1952)…

Đặc biệt vào tháng 9 năm 2009, Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang phối hợp với Viện
Văn học nghệ thuật Việt Nam (phân viện Tp. Hồ Chí Minh) tổ chức Hội thảo Khoa học Di
sản văn hóa Hà Tiên – bảo tồn và phát triển. Cuộc hội thảo đã quy tụ được trên 100 bài viết
của các nhà nghiên cứu, đề cập đến nhiều khía cạnh văn hóa của vùng đất Hà Tiên, giúp
chúng ta có cái nhìn khá toàn diện về di sản văn hóa Hà Tiên.

Như vậy, đã có nhiều tác giả, tác phẩm đề cập đến vùng đất Hà Tiên. Điều dễ nhận
thấy là các tác phẩm ấy chỉ nghiên cứu về Hà Tiên trong lịch sử chung của Nam Bộ, hoặc có
nghiên cứu chuyên khảo thì cũng chỉ ở mức độ sơ lược, mang tính gợi ý, chứ chưa có một
tác phẩm nào đề cập một cách toàn diện và có hệ thống lịch sử hình thành và phát triển của
thương cảng Hà Tiên ở thế kỷ XVII – XIX. Vì vậy, cần có một công trình nghiên cứu mang
tính hệ thống về thương cảng Hà Tiên. Dẫu biết rằng, đây là một vấn đề khó, đòi hỏi nhiều
công sức để đầu tư nghiên cứu nhưng trên cơ sở thừa hưởng thành quả của những người đi
trước, cùng với sự tìm tòi nghiên cứu của bản thân, tác giả mong muốn làm sáng tỏ vấn đề
đặt ra.

3.NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.

Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đã kế thừa về tư liệu và cả về lý luận của
các công trình nghiên cứu đi trước có liên quan đến đề tài. Thực tế đã có nhiều nguồn sử liệu
ghi lại quá trình hình thành và phát triển của thương cảng Hà Tiên nhưng lại tản mạn, thiếu
hệ thống, chậm chí là trùng lập, rất khó nghiên cứu. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận
văn, chúng tôi đã cố gắng khai thác các nguồn sử liệu sau:

Một là, các bộ chính sử được ra đời dưới triều Nguyễn như Đại Nam thực lục (chính
biên và tiền biên), Đại Nam nhất thống chí, Gia Định thành thông chí, Phủ biên tạp lục
…Đây chính là nguồn tài liệu gốc mà chúng tôi dùng để đối chiếu, so sánh các sự kiện, niên
đại liên qua đến vùng đất Hà Tiên.

Hai là, các tác phẩm nghiên cứu về lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, trong đó có đề
cập đến vùng đất Hà Tiên với nhiều khía cạnh khác nhau. Và những tác phẩm chuyên khảo
về Hà Tiên của một số ít các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Những tác phẩm này, bên
cạnh việc dựa vào các tư liệu gốc trình bày về lịch sử vùng đất Hà Tiên, đã đưa ra nhiều kiến
giải quan trọng, làm cơ sở để chúng tôi hiểu rõ hơn vấn đề đặt ra.

Ba là, các bài viết trên tạp chí khoa học như tạp chí nghiên cứu lịch sử, tạp chí xưa và
nay. Các bài báo cáo trong các hội thảo khoa học về vùng đất Nam Bộ thế kỷ XVII – XIX,
kỷ yếu Hội thảo về Hà Tiên và các bài viết đăng trên các báo có uy tín. Đặc biệt, chúng tôi
đã sử dụng kho tư liệu đồ sộ trên Internet, trên cơ sở so sánh, đối chiếu và chọn lọc kỹ càng.

Bốn là, nguồn tài liệu điền dã tại Hà Tiên, Kiên Giang, thu thập từ các cuộc tọa đàm
với các học giả có hiểu biết sâu sắc về Hà Tiên và những tư liệu về dòng họ Mạc còn lưu giữ
trong nhân dân ở địa phương.

Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau :
1. Phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Đây là hai phương pháp căn bản
được sử dụng trong luận văn. Vận dụng phương pháp lịch sử là dựa trên những sử liệu lịch
sử xác thực để miêu tả, khôi phục lại quá khứ gần đúng như nó từng tồn tại. Cụ thể ở đây là
quá trình hình thành và phát triển của thương cảng Hà Tiên. Phương pháp logic được vận
dụng trong việc hệ thống hóa các sự kiện lịch sử, hình thành ý kiến nhận xét, đánh giá khoa
học về vấn đề được nghiên cứu. Hai phương pháp này được vận dụng phối hợp trong toàn bộ
các chương của luận văn.

2. Bên cạnh hai phương pháp đặc trưng của khoa học lịch sử, trong quá trình nghiên
cứu, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp như phương pháp liên ngành, phương pháp
tiếp cận hệ thống và đặc biệt là phương pháp khảo sát điền dã. Vận dụng những phương
pháp ngày cho phép tôi phân tích, đánh giá một cách chính xác các số liệu, tình hình phát
triển kinh tế của thương cảng Hà Tiên dựa trên phương pháp của kinh tế chính trị học; đặt
thương cảng Hà Tiên trong bối cảnh lịch sử Đàng Trong nói riêng và cả nước nói chung để
nghiên cứu; đồng thời khảo sát vị trí thực tế của thương cảng Hà Tiên ngày nay, tiếp xúc với
các di tích gắn liền với dòng họ Mạc, sưu tầm các tài liệu dân gian… Từ đó, có thể hình
dung và tái hiện lại phần nào hình ảnh của thương cảng Hà Tiên xưa.

3. Ngoài ra, tôi cũng sử dụng các phương pháp như : phương pháp tổng hợp, phân
tích, so sánh…để làm sáng tỏ vấn đề đặt ra.

4.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình hình thành và phát triển của thương cảng
Hà Tiên trong lịch sử.

Không gian nghiên cứu của luận văn được xác định là vùng đất thuộc thị xã Hà Tiên
ngày nay. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu, không gian cũng được mở rộng cả vùng đất
Hà Tiên xưa, tức là vùng đất thuộc các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau và Bạc Liêu ngày nay.

Về mặt thời gian, luận văn được giới hạn trong khoảng từ cuối thế kỷ XVII đến giữa
thế kỷ XIX. Mốc mở đầu được xác định là khoảng năm 1700, khi Mạc Cửu đến định cư khai
phá ở Hà Tiên và mốc kết thúc là năm 1867 – năm sáu tỉnh Nam Kỳ ( 1) (trong đó có Hà Tiên) P F
2 P

(1) : Sáu tỉnh Nam kỳ khi ấy là : Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.
rơi vào ách cai trị của thực dân Pháp. Sự giới hạn này nhằm làm sáng tỏ thời kỳ phát triển
hoàng kim của thương cảng Hà Tiên.

Trong phạm vi tài liệu mà tác giả tiếp cận được, luận văn sẽ đi sâu nghiên cứu để làm
sáng tỏ các vấn đề sau:

1. Quá trình khai phá vùng đất Hà Tiên thời kỳ thời các chúa Nguyễn và dòng họ Mạc.

2. Các hoạt động kinh tế của thương cảng Hà Tiên thời kỳ phát triển đỉnh cao ở thế kỷ
XVIII qua hoạt động kinh tế trong nước và ngoài nước.

3. Mối quan hệ về kinh tế giữa Hà Tiên với Đàng Trong (Gia Định – Đồng Nai…),
Đàng Ngoài (Hội An, Đà Nẵng…), các quốc gia trong khu vực (Trung Quốc, Nhật Bản,
Xiêm …) và cả với các nước Châu Âu.

4. Vai trò của họ Mạc (Mạc Cửu và Mạc Thiên Tứ) đối với vùng đất Hà Tiên.

5. Những nguyên nhân làm cho thương cảng Hà Tiên suy tàn vào đầu thế kỷ XIX và
nguyên nhân nào là quan trọng nhất.

6. Phác họa những nét cơ bản về triển vọng phát triển của Hà Tiên ngày nay.

Qua những vấn đề trên, luận văn có những đóng góp sau :

Thứ nhất, làm rõ quá trình hình thành và phát triển của vùng đất Hà Tiên từ thế kỷ
XVII – XIX. Với những phác họa rõ nét qua từng thời kỳ lịch sử, luận văn sẽ giúp cho người
đọc nắm một cách tương đối hoàn chỉnh lịch sử phát triển của thương cảng Hà Tiên từ thuở
sơ khai đến thời kỳ phát triển đỉnh cao thời họ Mạc và lùi tàn vào đầu triều Nguyễn.

Thứ hai, hình thành một cách tương đối bức tranh lịch sử về thương cảng Hà Tiên.
Bằng những cứ liệu lịch sử cụ thể và dẫn chứng sinh động, luận văn giúp cho người đọc có
thêm kiến thức thú vị rằng, Hà Tiên không chỉ nổi tiếng với cảnh đẹp của non nước, sự trù
phú của thiên nhiên và sự hào phóng của dân cư mà Hà Tiên còn nổi tiếng với một thương
cảng trù phú bậc nhất khu vực Đông Nam Á vào thế kỷ XVIII. Trong suốt một thế kỷ, cảng
Hà Tiên là một quyền lực thương mại của con đường buôn bán Đông – Tây trên biển qua
vịnh Thái Lan, giữ vai trò quan trọng trong nền thương mại Việt Nam và thế giới ở thế kỷ
XVIII, trước khi vai trò này được chuyển giao cho thương cảng Sài Gòn vào giữa thế kỷ
XIX.
Thứ ba, qua việc trình bày quá trình hình thành và phát triển của thương cảng Hà Tiên,
vùng đất Hà Tiên, luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trò của các chúa Nguyễn và họ Mạc
trong sự nghiệp mở cõi về phương Nam của dân tộc Việt Nam. Từ đó, luận văn giúp cho
người đọc hiểu hết giá trị, biết trân trọng những cống hiến của cha ông và biết gìn giữ di sản
của dân tộc, biết phấn đấu sao cho xứng đáng với những người đi trước.

Luận văn được trình bày trong 163 trang và cấu tạo thành ba phần :

Phần mở đầu: Trình bày lí do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu, lịch sử nghiên cứu
vấn đề, nguồn sử liệu và phương pháp nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề
tài. (gồm có 15 trang, từ trang 4 – trang 18).

Phần nội dung: Gồm có ba chương. (gồm có 90 trang, từ trang 19 – trang 108).

+ Chương một : Khái quát đặc điểm địa lí tự nhiên và kinh tế - xã hội của vùng
đất Hà Tiên. Trong chương này, luận văn trình bày những nét cơ bản đặc điểm về vị trí địa
lí và đặc điểm kinh tế - xã hội và quá trình khai phá vùng đất Hà Tiên thời các chúa Nguyễn
và họ Mạc. (gồm có 29 trang, từ trang 19 – trang 47)

+ Chương hai : Sự ra đời và phát triển của thương cảng Hà Tiên (thế kỷ XVII
– XVIII). Luận văn trình bày những điều kiện dẫn đến sự ra đời của thương cảng Hà Tiên;
quá trình quát triển của thương cảng Hà Tiên, các hoạt động kinh tế trong nước và ngoài
nước; sự phát triển về văn hóa – xã hội; vai trò của họ Mạc đối với vùng đất Hà Tiên. (gồm
có 41 trang, từ trang 48 – trang 88).

+ Chương ba : Thương cảng Hà Tiên thời kỳ suy tàn (đầu thế kỷ XIX). Trong
chương này, luận văn trình bày những nguyên nhân làm cho thương cảng Hà Tiên suy tàn;
chính sách của nhà Nguyễn đối với Hà Tiên (đầu thế kỷ XIX) và những phác họa về triển
vọng phát triển của Hà Tiên ngày nay. (gồm có 22 trang, từ trang 89 – trang 110)

Phần kết luận: Trình bày khái quát những nội dung đã thể hiện trong luận văn và
khẳng định những đóng góp của luận văn. (gồm có 3 trang, từ trang 111 – trang 113).

Tài liệu tham khảo : Liệt kê các tài liệu chính có trích dẫn trong luận văn. (gồm có 7
trang, từ trang 114 – trng 120).
Phần phụ lục : Trình bày một số tài liệu tham khảo liên quan đến luận văn. (gồm có 43
trang, từ trang 121 đến trang 163).
Chương 1: KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ - XÃ HỘI
CỦA VÙNG ĐẤT HÀ TIÊN

Lịch sử phát triển của vùng đất Hà Tiên đã trải qua nhiều biến đổi thăng trầm. Hà Tiên
xưa kia vốn là vùng đất hoang vu với tên gọi là Mang Khảm. Đến khoảng cuối thế kỷ XVII -
đầu thế kỷ XVIII, Mạc Cửu đã đến khai phá vùng đất đó. Ông đã ra sức mở mang, khai phá
và phát triển buôn bán làm cho vùng đất này trở thành trù phú. Vào năm 1708, Mạc Cửu đã
thần phục chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu (chúa Minh). Từ đó, vùng đất do Mạc Cửu cai
quản thuộc về lãnh thổ Việt Nam và có tên gọi là Hà Tiên. Sau đó, con Mạc Cửu là Mạc
Thiên Tứ đã mở rộng thêm vùng đất này. Đến đời vua Minh Mạng, Hà Tiên là một trong 30
tỉnh của Việt Nam và là một trong 6 tỉnh của Nam Bộ. Ngày nay, Hà Tiên là một thị xã phát
triển của tỉnh Kiên Giang.

1.1.ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA HÀ TIÊN.

1.1.1. Đặc điểm địa lí tự nhiên.

Hà Tiên xưa là vùng đất rộng lớn (bao gồm toàn bộ tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Bạc
Liêu, một phần nhỏ của tỉnh An Giang và tỉnh Sóc Trăng ngày nay), là dãy đất tận cùng phía
Tây Nam của Tổ quốc Việt Nam, cũng là vùng đất cuối cùng phía Tây Nam của đồng bằng
sông Cửu Long.

Ngày nay về địa giới hành chính, Hà Tiên thuộc về tỉnh Kiên Giang. Tỉnh Kiên Giang
có tổng diện tích tự nhiên là 617.709 ha, trong đó phần đất liền là 554.734 ha, phần hải đảo
là 62.975 ha, chiếm 1,9% diện tích cả nước và đứng đầu vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Tỉnh Kiên Giang có chung đường biên giới đất liền với Camphuchia ở phía Bắc trên chiều
dài 56,8 km, phía Đông và đông Nam giáp các tỉnh An Giang, Hậu Giang và thành phố Cần
Thơ; phía Nam giáp các tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau; phía Tây giáp vịnh Thái Lan với đường
bờ biển dài 200 km. Trên phần đất liền, tỉnh Kiên Giang nằm trong khoảng từ 9023’50” đến
P P

10032’30” vĩ độ Bắc và từ 104026’40” đến 105032’40” kinh độ Đông. Phần biển và hải đảo
P P P P P P

từ 100 đến 10027’ vĩ độ Bắc và từ 103050’10” đến 104050’ độ kinh Đông. [72, tr. 324]
P P P P P P P P
Tỉnh Kiên Giang gồm một thành phố (Rạch Giá), một thị xã (Hà Tiên), 7 huyện đất
liền : Hòn Đất, Châu Thành, Tân Hiệp, Giồng Riềng, Gò Quao, An Biên, An Minh, Vĩnh
Thuận và hai huyện hải đảo : Kiên Hải và Phú Quốc.

So với các tỉnh khác của khu vực đồng bằng sông Cửu Long, thì thiên nhiên của Kiên
Giang đa dạng, phức tạp và biến động hơn. Kiên Giang có vùng đồng bằng phù sa phì nhiêu,
có núi, có rừng, có sông rạch và biển cả, hải đảo.

Kiên Giang là vùng tiếp giáp giữa cổ đại và hiện đại, núi, biển và quá trình bồi đắp
vẫn đang tiếp tục. Địa hình Kiên Giang tương đối bằng phẳng, ngoại trừ các đảo và núi, theo
hướng thấp dần từ đông Bắc (độ cao trung bình từ 0,8 – 1,2 m) xuống tây Nam (độ cao trung
bình từ 0,2 – 0,4 m) so với mặt nước biển. Địa hình đồi núi của Kiên Giang tập trung tại ven
biển phía tây Bắc, thuộc các huyện Hòn Đất, Kiên Lương và thị xã Hà Tiên, độ cao trung
bình dưới 200m. Địa hình vùng đồng bằng thuộc các huyện còn lại của tỉnh, được phù sa
sông Hậu bồi đắp, độ cao trung bình từ 0,2 – 0,4 m, có nhiều kênh rạch và sông ngòi chảy
qua.

Kiên Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới cận xích đạo, do nằm ở vĩ độ thấp và
giáp biển nên khí hậu Kiên Giang mang tính chất nhiệt đới đại dương với đặc chung là nóng
ẩm và mưa nhiều theo mùa. Tổng lượng bức xạ trong năm đạt từ 120 – 130 kca/cm2, nhiệt độ
P P

trung bình trong năm là 27,0 – 27,60C. Khí hậu Kiên Giang thể hiện rõ tính chất nhiệt đới gió
P P

mùa điển hình. Kiên Giang là tỉnh có nhiều mưa ở Nam Bộ. Lượng mưa trung bình trong
năm từ 1600 – 2000 mm ở đất liền và 2400 – 2900 mm ở khu vực hải đảo. Mùa mưa từ
tháng 5 đến tháng 11 hàng năm, tập trung đến 90% lượng mưa cả năm. Tháng có mưa nhiều
nhất là tháng 8 (lượng mưa đạt 300 – 500 mm), gây khó khăn cho thu hoạch và bảo quản lúa
hè thu. Mùa khô ở Kiên Giang kéo dài từ tháng 12 đến tháng 4. Trong mùa khô, hầu như
không có mưa, đặc biệt ít mưa nhất là tháng 1. Nhìn chung, khí hậu ở Kiên Gang có những
thuận lợi cơ bản : ít thiên tai, không có bão đổ bộ trực tiếp, không rét, ánh sáng và nhiệt
lượng dồi dào, rất thuận lợi cho cuộc sống con người cũng như cho sự sinh trưởng và phát
triển của nhiều loại cây trồng và vật nuôi. Tuy nhiên, do nằm ở ven biển, nên Kiên Giang
chịu ảnh hưởng của chế độ thủy triều Biển tây, với đặc trưng là chế độ nhật triều không đều,
chi phối rất lớn khả năng tiêu úng về mùa mưa và bị ảnh hưởng lớn của sự xâm nhập mặn
vào các tháng mùa khô, gây trở ngại cho sản xuất và đời sống.
Đất đai của Kiên Giang cũng rất đa dang. Phân bố ở Hà Tiên, Kiên Lương, Phú Quốc
là nhóm đất hình thành tại chỗ - đất pheralit và sialit – pheralit. Phân bố ở các huyện Tân
Hiệp, Châu Thành, Giồng Riềng, Rạch Giá, Hòn Đất, Gò Quao là đất phù sa ngọt. Đây là
loại đất tốt nhất ở Kiên Giang, giàu đạm và kali rất thích hợp cho cây trồng. Đất phèn, chiếm
tới 40% diện tích tự nhiên của tỉnh, phân bố chủ yếu ở Hà Tiên, Hòn Đất, An Biên, An
Minh, Vĩnh Thuận. Loại đất này chỉ thích hợp trồng các giống cây như tràm, khóm, hoặc sử
dụng kỹ thuật lên liếp, ém phèn để trồng cây ăn quả, cây công nghiệp. Ngoài ra còn có đất
mặn và đất phèn mặn, phân bố rải rác các huyện trong tỉnh. Các loại đất này chỉ có thể trồng
lúa một vụ, trồng rừng và nuôi trồng thủy sản.

Về chế độ thủy văn, Kiên Giang có ba sông lớn là sông Cái Lớn, sông Cái Bé, sông
Giang Thành và một số sông rạch nhỏ. Trong đó, đáng kể nhất là sông Giang Thành – một
trong “Hà Tiên thập vịnh”, không chỉ có giá trị về thủy lợi, giao thông, thương mại mà còn
có giá trị về du lịch. Sông Giang Thành bắt nguồn từ cao nguyên Sài Mạt (Camphuchia) và
chảy vào khu vực Hà Tiên. Chiều dài sông trên lãnh thổ Kiên Giang là 23 km. Sông đổ vào
Đông Hồ (Hà Tiên) với chiều rộng cửa sông trên 200 m. Sau này sông Giang Thành được
nối liền với kênh Vĩnh Tế, tạo nên tuyến đường thủy quan trọng từ Châu Đốc đến Hà Tiên.

Nguồn nước ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long có trạng thái nghịch lý là “cực kỳ
thừa thãi mà cũng cực kỳ thiếu thốn” [8, tr. 12] và chế độ nước ở Kiên Giang cũng không
thoát khỏi nghịch lý đó mà còn có phần trầm trọng hơn. Chế độ thủy văn Kiên Giang chịu
ảnh hưởng mạnh mẽ bởi chế độ lũ sông Cửu Long, chế độ mưa nội vùng và chế độ thủy triều
của vịnh Thái Lan. Mùa lũ ở Kiên Giang thường chậm hơn mùa mưa khoảng 3 tháng, kéo
dài trong 5 tháng (từ thàng 7 – 11). Thời gian ngập lụt kéo dài từ tháng 9 đến tháng 11. Thời
gian xuất hiện đỉnh lũ thường xảy ra vào đầu tháng 10, tuy nhiên cũng có năm đến sớm hơn
hoặc muộn hơn (tháng 9 hoặc đầu tháng 11). Mùa cạn ở Kiên Giang kéo dài từ tháng 12 đến
tháng 6. Vào mùa cạn, tình trạng xâm nhập mặn vào sâu trong đất liền, gây nhiễm mặn cho
vùng, nội vùng, dẫn đến tình trạng thiếu nguồn nước ngọt cho sản xuất và đời sống.

Biển và hải đảo là một điểm đặc biệt của thiên nhiên Kiên Giang. Biển Kiên Giang
nằm ở phía Đông vịnh Thái Lan, là nơi rất thuận lợi cho việc phát triển các ngành kinh tế
biển và là nơi thuận lợi cho việc buôn bán giao thương. Tài nguyên thủy sản của Kiên Giang
rất phong phú, đa dạng bao gồm tôm, cá các loại và nhiều đặc sản quý như đồi mồi, hải sâm,
sò huyết, nghêu lụa, ngọc trai, bào ngư, mực, vi (vây) cá… Theo điều tra của Viện nghiên
cứu biển Việt Nam thì trữ lượng tôm cá ở biển Hà Tiên – Kiên Giang ước tính khoảng 465
nghìn tấn, khả năng khai thác cho phép bằng 44% trữ lượng (khoảng trên 200 nghìn tấn).
[72, tr. 334] Với nguồn thủy hải sản phong phú, cùng với việc Hà Tiên – Kiên Giang có bờ
biển dài hơn 200 km dọc theo Vịnh Thái Lan, Hà Tiên – Kiên Giang là nơi rất thuận lợi cho
việc phát triển các ngành kinh tế biển và là nơi thuận lợi cho việc buôn bán giao thương.
Hiện nay, ngư trường vùng biển Tây Nam (bao gồm tỉnh Cà Mau và Kiên Giang) là một
trong những ngư trường lớn nhất cả nước với diện tích khai thác trên 63 nghìn km2.
P P

Kiên Giang là một tỉnh quy tụ nhiều đảo nhất của Nam Bộ và Trung Bộ Việt Nam, có
trên 100 hòn đảo lớn nhỏ, có những hòn đơn và những quần đảo. Có thể kể như: hòn Sơn
Rái, Hòn Tre, Hòn Chông… và đặc biệt là đảo Phú Quốc – là một đảo lớn nhất trong các đảo
của Việt Nam. Đảo Phú Quốc có vị trí đặc biệt đối với vịnh Thái Lan cả về kinh tế, giao
thương và quốc phòng. Từ xa xưa, đảo Phú Quốc là một điểm đến quan trọng trong các hoạt
động buôn bán của thương cảng Hà Tiên.

Các núi đồi ở Kiên Giang là một nguồn nguyên liệu lớn lao, đặc biệt là với công
nghiệp khai khoáng, nhất là các mỏ đá vôi. Toàn tỉnh có trên 20 ngọn núi đá vôi, tập trung
nhiều nhất ở Hà Tiên với trữ lượng khoảng 440 triệu tấn, trữ lượng có thể khai thác để sản
xuất vật liệu xây dựng là gần 250 triệu tấn. Nguồn đá vôi phong phú của tỉnh không chỉ có
giá trị để sản xuất vật liệu xây dựng mà còn tạo ra những hang động và danh lam thắng cảnh
có ý nghĩa du lịch. “Đá vôi được xác nhận là thế mạnh của tỉnh Kiên Giang so với các tỉnh
Nam Bộ. Nó được coi là một trong những mỏ chiến lược của nước ta. Vì vậy, phải sử dụng
sao cho hợp lý và kinh tế nhất”. [34, tr. 48]

Rừng của Kiên Giang gồm nhiều loại như rừng ven sông, rừng gỗ lớn, rừng ngập mặn
và rừng tràm với nguồn tài nguyên rất phong phú và dồi dào. Rừng ngập mặn Kiên Giang,
tiêu biểu là vườn quốc gia U Minh Thượng là nơi sinh sống của nhiều sinh vật quý hiếm
được ghi trong sách đỏ Việt Nam và thế giới. Rừng ngập mặn của Kiên Giang có vai trò lớn
trong bảo tồn, cải tạo đất và lấn biển. Rừng tràm là rừng đặc trưng của vùng đất phèn. Cây
tràm chủ yếu làm củi đốt, vật liệu xây dựng, lá tràm dùng chiết suất tinh dầu. Rừng tràm có
tác dụng cải tạo đất phèn và cân bằng sinh thái, nhất là những vùng mà môi trường thiên
nhiên đã bị hủy hoại. Từ xa xưa, rừng là nơi cung cấp chất đốt, vật liệu xây dựng, chất
nhuộm và cũng là nơi sinh sống, nơi cung cấp dinh dưỡng của nhiều loại cá, tôm và nhiều
loại giáp xác. Hiện nay do quá trình khai hoang nên diện tích rừng đã bị thu hẹp nhiều.

Có thể thấy, vị trí địa lí và thiên nhiên của tỉnh Kiên Giang rất giàu tiềm năng, thuận
lợi cho sự phát triển kinh tế. Đây là cửa ngõ của Tổ Quốc Việt Nam đi ra vịnh Thái Lan và là
một vị trí tốt để giao lưu với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Nhưng bên cạnh
đó, thiên nhiên Kiên Giang cũng chứa đựng nhiều khó khăn, thách thức cho việc thích ứng
cải tạo và chinh phục, nhất là thời kỳ xa xưa. Điều này lí giải cho sự hoang du của nó cho
đến tận thế kỷ XVII.

Trong sự phát triển tỉnh Kiên Giang ngày nay, thị xã Hà Tiên với nhiều thế mạnh của
mình, đang giữ vị trí đặc biệt quan trọng.

Thị xã Hà Tiên nằm phía Tây Bắc tỉnh Kiên Giang, phía Đông và phía Nam giáp
T
2 T
2

huyện Kiên Lương; phía Tây giáp Biển tây; phía bắc giáp Campuchia. Thị xã Hà Tiên gồm
T
2 2T T
2 T
2

có 7 đơn vị trực thuộc là phường Đông Hồ, phường Bình San, phường Pháo Đài, phường Tô
Châu, xã Thuận Yên, xã Mỹ Đức và xã đảo Tiên Hải.

Diện tích tự nhiên của thị xã Hà Tiên là 8.851,5 ha, trong đó đầm ngập mặn Đông Hồ
chiếm 1.047 ha. Hà Tiên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới cận xích đạo, do ở vĩ độ thấp và ở
ven biển nên khí hậu mang tính chất khí hậu đại dương. Nhiệt độ trung bình hàng năm
T
2 T
2

khoảng 27 – 28°C, tháng lạnh nhất là tháng 12 và tháng 1 (25 – 26°C); tháng nóng nhất là
tháng 4 và tháng 5 (28 – 29°C). Độ ẩm tương đối trung bình 81,9%. Mùa mưa từ tháng 5 đến
2T T
2

tháng 10, có nhiều năm mùa mưa đến sớm và kết thúc muộn hơn các khu vực khác của đồng
bằng sông Cửu Long. Lượng mưa lớn, trung bình 2.118 mm/năm.
T
2 2T

Địa hình thị xã Hà Tiên rất đa dạng, bao gồm đồng bằng, núi và núi đá, hang động,
T
2 T
2 T
2 T
2

biển, đầm, quần đảo… Thi sĩ Đông Hồ đã từng ca ngợi Hà Tiên như một Việt Nam thu nhỏ :
2T 2T T
2 T
2 T
2 2T

“Ở đó kì thú thay, như gồm đủ hết. Có một ít hang sâu động hiếm của Lạng Sơn. Có một ít
ngọn núi đá chơi vơi ngoài biển của Hạ Long. Có một ít núi đá vôi của Ninh Bình. Có một ít
thạch thất sơn môn của Hương tích. Có một ít Tây Hồ, một ít Hương Giang. Có một ít chùa
chiền của Bắc Ninh, một ít lăng tẩm của Thuận Hóa. Có một ít Đồ Sơn, Cửa Tùng, một ít
Nha Trang, Long Hải…”. [32, tr. 26]
Hà Tiên có rất nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như Hòn Phụ Tử, hang Tiền,
Thạch Động, núi Bình San, núi Phù Dung, núi Lộc Trĩ, núi Đá Dựng, núi Châu Nham, Hòa
Đại Kim dữ, biển Đông Hồ,…và nhiều bãi biển tuyệt đẹp như bãi Dương, Mũi Nai…không
chỉ có giá trị về mặt phát triển du lịch mà còn có giá trị về văn hóa bởi những câu chuyện
nửa thật, nửa hư xung quanh các danh thắng ấy.

Hà Tiên có khoảng 22 km chiều dài bờ biển, với rất nhiều tài nguyên lâm sản, hải sản
phong phú, rất thuận lợi để phát triển thương nghiệp trên biển. Trong đó, biển Đông Hồ có vị
trí đặc biệt quan trọng. Biển Đông Hồ là vùng biển rộng, chia thị xã làm hai khu riêng biệt:
phía đông Nam là phường Tô Châu và Thuận Yên; phía tây Bắc là phường Đông Hồ,
phường Bình San, phường Pháo Đài và xã Mỹ Đức. Đây là nơi rất thuận lợi để xây dựng
cảng biển. Ngoài ra, Hà Tiên còn có xã đảo Tiên Hải (quần đảo Hải Tặc) gồm 15 đảo lớn
nhỏ là ngư trường đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản đầy tiềm năng.

Như vậy, vùng đất Hà Tiên có nhiều kiều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế. Trong
đó, phát triển kinh tế biển, với việc khai thác nguồn lợi từ biển, xây dựng các hải cảng làm
nơi trung chuyển, trao đổi mua bán hàng hóa và phát triển du dịch dựa trên những danh lam
thắng cảnh nổi tiếng là hai ưu thế nổi bật của Hà Tiên. Hiểu rõ về vị trí địa lí, thiên nhiên của
vùng đất Hà Tiên – Kiên Giang là điều kiện rất quan trong để xây dựng chiến lược phát triển
vùng đất này về mọi mặt trong tương lai, nhất là về kinh tế. Đồng thời, hiểu rõ về vùng đất
Hà Tiên – Kiên Giang ngày nay là nhân tố quyết định giúp chúng ta biết rõ vì sao ở thế kỷ
XVIII, họ Mạc có thể xây dựng Hà Tiên thành một thương cảng sầm uất bậc nhất Đông Nam
Á, bởi vì, tuy hiện nay thương cảng Hà Tiên xưa không còn nữa nhưng những điều kiện để
hình thành nên cảng Hà Tên là vị trí địa lí, tài nguyên thiên nhiên…vẫn còn đó.

1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội.

Từ những bằng chứng khảo cổ học, dân tộc học, rất nhiều nhà khoa học đã kết luận
rằng : vào cuối thời đại đá mới hay sơ kỳ thời đại kim khí, tại vùng đồng bằng ở miền tây
sông Hậu, trong đó có Hà Tiên - Kiên Giang đã từng có cư dân cổ sinh sống. Đó là cư dân
của nền văn hóa Óc Eo.

Trong bài viết Hà Tiên – điểm cư trú xưa của người Việt cổ, nhà nghiên cứu Trương
Minh Đạt đã dựa trên những luận cứ lịch sử chứng minh rằng : Hà Tiên thời xa xưa là đất
của người Việt cổ. “Người Việt thời xưa đã dùng thuyền đi đến những nơi thật xa…khi đi
vào vùng biển Hà Tiên, họ đã gặp một dãy núi dài án ngữ phía trước, vùng bán đảo Mũi Nai.
Đó là nơi thích hợp cho người thời cổ dừng chân. Họ đã ở lại và sản sinh một lớp địa danh
cổ mang từ tố Pù – Tà – Nạy” [14, tr. 23]. Từ đó, ông khẳng định, từ thời xa xưa, vùng đất
Hà Tiên chính là vùng đất Phù Dung (Phù Youn) của người Lạc Việt. Đồng thời ông cũng
giải thích rõ tên gọi Hà Tiên là bắt nguồn từ tên gọi của một dòng sông xưa có tên là Tà Ten
và đây cũng là tên của một ấp cư dân Việt cổ ở hướng đông bắc thị xã Hà Tiên ngày nay. Và
ông kết luận, tên gọi Hà Tiên theo “cách giải thích cũ theo truyền thuyết mà sách địa lý đời
Tự Đức chép lại: “Nơi đây xưa kia có tiên (Tiên) hiện xuống đi lại trên sông (Hà) nên gọi là
đất Hà Tiên” thật rõ ràng không có căn cứ và thiếu khoa học”. [14, tr.30]

Năm 1983, một trống đồng Đông Sơn được tìm thấy ở đảo Lại Sơn (Sơn Rái), huyện
Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang. Cổ vật này là chứng tích cụ thể còn sót lại trên đường hải hành
2T T
2

của người Việt cổ. Họ khởi hành từ Vịnh Bắc Bộ, nương theo gió mùa Đông Bắc - Tây Nam,
T
2 T
2 T
2 T
2

men ven bờ bán đảo Đông Dương để vào vịnh Thái Lan… Và họ đã gặp một nơi khá thích
2T 2T T
2 T
2

hợp để làm trạm dừng chân, sau có người định cư luôn, đó là vùng đất mà bây giờ có tên là
bán đảo Mũi Nai (Hà Tiên). Tác giả Lê Trọng Khánh viết: “Từ Lưỡng Việt đến Mũi Nạy
(Mũi Nai) ở phía Nam là địa bàn gốc của người Lạc Việt có nguồn gốc và ngôn ngữ chung,
nằm trong khối Bách Việt” [34]. Câu nói này, một lần nửa cho thấy lời khẳng định Hà Tiên
thời xa xưa là đất của người Việt cổ là hoàn toàn có cơ sở.

Cùng quan điểm trên, trong tác phẩm Tìm hiểu Kiên Giang, Dương Tấn Phát đã chỉ ra
trên địa bàn tỉnh Kiên Giang có 5 di chỉ quan trọng thuộc về văn hóa Óc Eo chứa di tích cư
trú, kiến trúc, mộ táng, đường nước cổ như:

1- Nền Chùa (huyện Tân Hiệp) : có nhiều di tích cư trú, kiến trúc, mộ tán, đường nước
cổ.

2- Cạnh Đền (xã Vĩnh Phong - huyện Vĩnh Thuận): có di tích cư trú nhà sàn, đồ gốm,
đường nước cổ.

3- Đá Nổi (xã Thạnh Đông - huyện Tân Hiệp) : có nhiều di tích cư trú, kiến trúc, hệ
thống đường nước hình rẽ quạt.
4- Giồng Đá (xã Bàn Tân Định - huyện Giồng Riềng) : có nhiều mẫu gốm thuộc loại
hình văn hóa Óc Eo.

5- Mốp Giăng (xã Mỹ Linh - huyện Hòn Đất) : di tích kiến trúc, mảng gốm đặc trưng
loại hình văn hóa Óc Eo.

Ngoài ra còn nhiều di tích rải rác các nơi . [51, tr. 90]

Các nhà khoa học cũng khẳng định rằng, nền văn hóa Óc Eo là thành quả của sự hợp
tác giữa cư dân Việt, cư dân Khmer và nhiều cư dân khác. Thời đó, chủ nhân của nền văn
hóa Óc Eo đã có một trình độ khá cao về tổ chức xã hội và hoạt động kinh tế. Họ đã lập nên
nhà nước có tên gọi là Phù Nam (vào thế kỷ I sau CN). Vào thời kỳ cực thịnh của mình, Phù
Nam từng giữ vị thế là một “Trung tâm liên thế giới” [37, tr.2]. Óe Eo là cảng quốc tế lớn,
tiêu biểu nhất của đế chế Phù Nam. Trong khoảng hơn sáu thế kỷ, Óc Eo không chỉ là một
trung tâm văn hóa rực rỡ, là nền tảng của văn hóa Phù Nam, mà còn có nhiều ảnh hưởng đến
các nền văn hóa Đông Nam Á. Tuy nhiên, vì nhiều lí do như sự thay đổi con đường buôn bán
Đông – Tây trên biển, bị lũ lụt, bị chiến tranh tàn phá …vương quốc Phù Nam đã bị suy tàn
vào thế kỷ VII và bị Chân Lạp thôn tính. [49]

Từ thế kỷ VII - cho đến cuối thế kỷ XVII, trên danh nghĩa vùng đất đồng bằng sông
Cửu Long nói chung và Hà Tiên nói riêng thuộc Chân Lạp nhưng phụ thuộc một cách lõng
lẻo, chưa có chính quyền Chân Lạp trực tiếp cai trị. Sự không ổn trong nội bộ đất nước cũng
như nhiều nguyên nhân khách quan khiến họ không thể làm chủ vùng đất này. Đúng như ông
Pierre Dupont đã nói : “Người Camphuchia chưa bao giờ chiếm đoạt đất Nam Kỳ”. [14, tr.
31]. Thật vậy, người Khmer chiếm lấy đất của Phù Nam nhưng họ đã không hề làm chủ
được vùng đất thấp. “Đối với họ, vùng hạ lưu sông Cửu Long cận biển là một trở lực to tát,
đồng thời là sự thách đố của thiên nhiên. Chính họ đã chịu khuất phục. Suốt gần 10 thế kỷ
(từ thế kỷ VII – thế kỷ XVII), họ chẳng hề khai phá được vùng đất này, mãi cho đến khi
người Việt tràn đến” [14, tr. 31].

Đầu thế kỷ XIII, Châu Đạt Quan, một sứ giả Trung Quốc đã ghi rõ sự hoang sơ, tiêu
điều của vùng hạ lưu sông Cửu Long trong tác phẩm Chân Lạp phong thổ ký: “Gần hết cả
vùng đều là bụi rậm của rừng thấp, những cửa rộng của con sông lớn chảy dài hàng trăm
dặm, bóng mát um tùm của những gốc cổ thụ và cây mây dài tạo thành nhiều chổ trú xum
xuê, khắp nơi vang tiếng chim hót và tiếng thú kêu. Vào nửa đường trong sông thấy những
cách đồng hoang không có một gốc cây, xa nữa, tầm mắt chỉ thấy toàn cỏ cây đầy rẫy”. [58,
tr. 36] Trong Phủ Biên tạp lục, Lê Quý Đôn cũng viết : “Phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ các
cửa biển như Cần Giờ, Soài Lạp, cửa Đại, cửa Tiểu đi vào, toàn là rừng rậm, rộng hơn ngàn
dặm.” [19, tr. 255].

Trong bối cảnh ấy, thời bấy giờ, Hà Tiên vẫn còn là vùng đất hoang vắng vô chủ trong
vùng vịnh Thái Lan. Trong bản du ký của Pierre Poivre, một du hành người Pháp, viết : “Khi
rời khỏi quần đảo Mã Lai, chúng tôi nhận thấy ở hướng bắc một lãnh thổ gọi là Cancar (Hà
Tiên), và được nhận biết ra trên bản đồ hàng hải dưới cái tên là Panthiamas. Lãnh thổ này
nằm ... giữa một bên là xứ Chân Lạp mà chính quyền không có lấy một hình thức ổn định,
một bên là đất đai dưới quyền đô hộ của người Mã Lai... Bị bao quanh bởi những nước láng
giềng như thế, nên cách đây độ 50 năm ( 1), xứ sở tốt đẹp này là một vùng hoang vu, gần như
P F
3 P

không có người ở... ” [81, tr. 367]

Chính vì thế, từ năm 1700, Mạc Cửu đến khai phá vùng đất Hà Tiên và đem dâng cho
chúa Nguyễn Phúc Chu vào năm 1708, vùng đất này còn nguyên sơ, đó là vùng đất mới.
Đúng như lời tựa quyển sách Hà Tiên thập vịnh in năm 1737 do Mạc Thiên Tứ tự tay viết :
“Trấn Hà Tiên của nước An Nam xưa là cõi xưa. Từ khi cha tôi mở mang đến nay đã được
hơn 30 năm, dân cư mới được yên, tạm biết cấy cày...Non sông này thấm nhuần phong hóa
của cha tôi đã được thêm phần tráng lệ, lại được các bậc danh sĩ đề vịnh, thì lại càng thêm
thiêng liêng, tươi sáng…”. [32, tr. 82]

Có thể thấy, sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói
chung và khu vực Hà Tiên nói riêng trước thế kỷ XVII là rất chậm chạp. Cho đến đầu thế kỷ
XVII, một đồng bằng màu mở, phì nhiêu như đồng bằng sông Cửu Long vẫn là vùng đất
hoang vu, đầm lầy trũng thấp và rừng sác mịt mùng. Chính vào lúc đó, những lưu dân người
Khmer, người Việt, người Hoa... đã đến và đã cùng nhau chung sức lao động sáng tạo để
biến đồng bằng sông Cửu Long từ rừng hoang thành những cánh đồng màu mở, những
thương cảng trù phú.

1.2.QUÁ TRÌNH KHAI PHÁ VÙNG ĐẤT HÀ TIÊN.

(1) : Tập du ký này được công bố năm 1794.


1.2.1. Công cuộc khai phá vùng đất Hà Tiên thời chúa Nguyễn và họ Mạc.

Như trên đã nói, cho đến đầu thế kỷ XVII, vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung
và Hà Tiên – Kiên Giang nói riêng vẫn là vùng đất hoang hóa, dân cư thưa thớt và cũng chưa
có một chính quyền nào thật sự để quản lí vùng đất này. Đây chính là nơi dung thân lý tưởng
cho dân phiêu tán vì những lí do khác nhau. Quá trình khai phá vùng đất Hà Tiên – Kiên
Giang có thể hình dung qua ba cuộc di dân lớn của người Khmer, người Việt, người Hoa.

Cuộc di dân đầu tiên đến vùng đất Hà Tiên – Kiên Giang phải nói đến là của những
người Khmer diễn ra vào thế kỷ XI – XV.

Vào đầu thế kỷ IX, trên lãnh thổ vương quốc Camphuchia ngày nay, đế chế Angkor ra
đời. Từ đó, cho đến 7 thế kỷ tiếp theo, quốc gia Angkor là một nhà nước trung ương tập
quyền mạnh. Nhà nước này, về đối ngoại đã tiến hành rất nhiều cuộc chiến tranh xâm lược
và cướp bóc các quốc gia, các bộ lạc láng giềng ; về đối nội, lại thực hiện chính sách sưu cao
thuế nặng để thỏa mãn sinh hoạt xa hoa nơi cung đình và công cuộc xây dựng vô số đền đài,
cung điện nguy nga, đồ sộ, đồng thời dùng quân đội nhà nghề và hình phạt dã man để đàn áp
mọi phản kháng của giới quý tộc ly khai và quần chúng nhân dân.

Không chịu nổi ách thống trị hà khắc và sự lao dịch quá nặng nhọc, người Khmer
buộc phải rời xứ sở, tràn về phía đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có các vùng rìa phía
tây biên giới Hà Tiên của tỉnh kiên Giang ngày nay để lánh nạn và kiếm sống. Những cuộc
di dân này diễn ra trong suốt thế kỷ XI, XII là thời kỳ đế chế Angkor hưng thịnh.

Sang thế kỷ XIV, XV, do sự bóc lột thậm tệ của bọn phong kiến làm cho sức sản xuất
trong nước bị kiệt quệ, nhất là do bị xâm lược liên miên, đế chế Angkor từ suy yếu đi đến
chỗ bị sụp đổ hoàn toàn. Trong các năm 1353, 1394 và 1431, ba lần quân Xiêm tấn công
vương quốc và đánh chiếm kinh đô Angkor. Mỗi lần bị xâm lược, đất nước Camphuchia lại
bị tàn phá hết sức nặng nề, hàng vạn tù binh, vô số của cải bị bắt, bị cướp đem về Xiêm. Đặc
biệt là sau khi kinh đô thất thủ lần thứ ba (1431), đế chế Angkor bị suy sụp hoàn toàn, không
thể phục dựng được nữa và phải dời đô về Phnom Pênh.

Trước tình hình đó, một dòng người Khmer, nạn nhân của các cuộc chinh phạt, đã
thiên di xuống đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có vùng đất phía tây (Tri Tôn, Rạch
Giá…), và phía nam (An Biên, Vĩnh Thuận…) của tỉnh Kiên Giang ngày nay [51, tr. 95].
Chính những cư dân này trong quá trình sinh sống ở vùng đất mới đã tạo nên tộc người
Khmer Nam Bộ, họ tách khỏi khối đồng tộc của mình ở Camphuchia, rồi về sau, do điều
kiện lịch sử cụ thể ấn định, trở thành một tộc người trong cồng đồng các dân tộc Việt Nam.

Trên địa bàn rộng mênh mông, tuyệt đại bộ phận đất đai vẫn là đầm lầy và rừng rậm
của vùng đất Hà Tiên xưa, người Khmer Nam Bộ đã hình thành được ba trục cư dân chính ở
Rạch Giá, Gò Quao và Vĩnh Thuận. Ba trục cư dân này nằm trải dài, cách biệt nhau, quan hệ
với nhau rất lỏng lẻo do giao thông quá trắc trở, mỗi trục lại chỉ gồm một vài khu cư trú
(phum, sóc) rất nhỏ. Điều đó cho thấy, tổng số dân Khmer Nam Bộ lúc này là rất ít ỏi. Trong
ba trục cư dân trên, thì trục Rạch Giá giữ vai trò nồng cốt, vì đây là tụ điểm của mấy dòng
sông đổ ra biển và là nơi sản xuất, trao đổi hàng hóa quan trọng nhất thời bấy giờ, đó là sáp
trắng (sáp ong - tiếng Khmer gọi là Kramuôn sor).

Những khu cư trú của người Khmer được gọi là phum, sóc. Và nếu như ở
Camphuchia, phum, sóc là đơn vị hành chính, thì tại đây, chúng chỉ còn là các công xã nông
thôn. Những người đứng đầu phum, sóc đều do chính nhân dân trong phum, sóc lựa chọn.
Mọi việc phum, sóc đều tự lo liệu lấy. Ở đây không hề có quan Óc Nha (Oknha), một lãnh
chúa địa phương, quan cai quản một tỉnh. “Điều đó cho thấy một cách hiển nhiên là vùng đất
còn quá hoang vu này không hề được nhà nước Angkor quản lý, ngay cả trên hình thức”.
[51, tr. 97]

Với một dân số ít ỏi, tổ chức xã hội lỏng lẻo và nhất là sức sản xuất thấp kém, mang
tính tự cung tự cấp, sự giao lưu với bên ngoài là rất hạn chế (trừ việc buôn bán sáp trắng –
một sản phẩm vốn quá nhiều và dễ kiếm), cho nên trong nhiều thế kỷ khai phá, tộc người
Khmer ở Hà Tiên – Kiên Giang vẫn chưa khai phá đất đai được bao nhiêu. Quá trình khai
phá chỉ thật sự diễn ra mạnh mẽ khi người Việt đến vào thế kỷ XVII. Chính người Việt đã
đảm đương và hoàn thành sứ mệnh khai phá vùng đất này.

Cuộc di dân của người Việt là cuộc di cư khai phá lớn lần thứ hai ở vùng đất Hà Tiên
– Kiên Giang. Và cũng như người Khmer, những lưu dân người Việt buộc phải rời bỏ quê
hương vì nhiều lí do nhưng chủ yếu vẫn là chiến tranh.

Từ thế kỷ XVI, nước Đại Việt rời vào thời kỳ chia cắt, chiến tranh loạn lạc. Triều đại
nhà Lê suy yếu, không còn khả năng quản lí đất nước. Các thế lực phong kiến nổi lên tranh
giành quyền lực. Sau cuộc chiến tranh bất phân thắng bại của chúa Nguyễn ở Đàng Trong và
chúa Trịnh ở Đàng Ngoài (1627 – 1672), nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai, lấy sông Gianh
làm giới tuyến.

Những cuộc chiến tranh liên miên đã đẩy cuộc sống của người dân lâm vào cảnh khốn
cùng : nạn hán, ruộng đất bỏ hoang, đói khổ, bị áp bức bóc lột nặng nề …Lê Quý Đôn đã
viết về cuộc sống của người nông dân thời chúa Nguyễn Phúc Lan (1635 – 1648) như sau :
“Xứ Đàng Trong đại hạn, và mất mùa, dân phải trôi dạt và chết đói rất nhiều” [18, tr. 61].
Trong hoàn cảnh ấy, đã buộc người dân phải bỏ làng đi tha hương và điểm đến của họ là khu
vực đồng bằng sông Cửu Long, nơi họ nghe nói đất đai rộng lớn, phì nhiêu nhưng chưa được
khai phá.

Những hệ lụy của chiến tranh đã đẩy bật người nông dân ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn
của họ, nhiều nơi cả một làng phải rời bỏ quê cha đất tổ để tha hương cầu thực. Người nông
dân miền Bắc di cư vào Nam Bộ ngày càng tăng theo mức độ tàn hại, khốc liệt của chiến
tranh, các mâu thuẫn xã hội. Và lực lượng tham gia vào những đoàn lưu dân tha hương cầu
thực ấy là rất phong phú. Ngoài số dân nghèo thất sở, xiêu tán là đông nhất, trong lớp lưu
dân người Việt đến vùng đất Nam Bộ còn có những người trốn tránh binh dịch, những tù
nhân bị lưu đày, những binh lính đào ngũ hoặc giải ngũ, những thầy lang, thầy đồ nghèo…
và kể cả những người vốn đã giàu có nhưng muốn tìm đất mới để mở rộng công việc làm ăn.
[43, tr. 42].

Di dân người Việt đi vào Nam Bộ bằng nhiều cách như tự động đi hoặc do chính
quyền tổ chức và đi bằng đường biển là chủ yếu. Bởi vì “Đất nước Đại Việt chỉ là một dãy
núi dọc theo mé biển, các đồ ấp đều tựa núi dai ra mặt biển, núi cao sông hiểm, cây rừng rậm
rập nhiều tê tượng, hùm beo, các phủ không có đường lối thông nhau, mỗi phủ đều có một
cửa biển đi vào; muốn đi từ phủ này qua phủ khác tất do đường biển…Núi cao nắng gắt, trèo
qua rất khó nên đi thuyền theo đường biển tiện hơn” [43, tr. 43].

Lưu dân người Việt vào Nam Bộ đã định cư ở nhiều địa điểm khác nhau, trong đó
vùng đất Hà Tiên – Kiên Giang là một trong những địa điểm định cư mà người Việt đã lựa
chọn. Hà Tiên là vùng đất có hai mặt giáp biển và có nhiều sông ngòi đổ ra biển, nên có thể
khẳng định phương tiên nhập cư vào vùng đất này của các lưu dân chắc chắn là đường biển
và đường sông rạch. Từ đầu cho tới giữa thế kỷ XVII, nhiều người Việt đã dùng thuyền vượt
biển vào miền cực nam, trong đó có Hà Tiên để sinh sống. Trong Phủ Biên tạp lục, Quý Đôn
đã gián tiếp cho thấy tình hình di dân ấy khi ông thuật chuyện các chúa Nguyễn tổ chức ra
đội Bắc Hải “hoặc người thuộc thôn Tứ Chiếng ở Bình Thuận hoặc người xã Cảnh Dương, ai
tình nguyện thì sung vào và cấp giấy sai đi, miễn nộp tiền sưu cùng các thứ thuế lặt vặt như
tiền tuần đò, tiền đò, sai họ đi thuyền câu nhỏ ra các xứ như cù lao Côn Lôn ở Bắc Hải, Cồn
Tự ở Hà Tiên, để tìm kiếm lượm nhặt đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm…” [18, tr. 149].

Đặc biệt, từ khoảng năm 1658 đến 1669, để gấp rút xây dựng một khu đặc biệt đủ sức
mạnh chống lại Đàng Ngoài, các chúa Nguyễn đã dùng mọi biện pháp, từ khuyến khích, dụ
dỗ tới cưỡng bức, để đưa người vào Nam khai hoang. Ai tình nguyện đi khai hoang thì được
miễn sưu thuế, được cấp nông cụ, tiền bạc … để sản xuất. Những tù binh cũng được đưa vào
Nam để khai khẩn, lập đồn điền. Chính vì thế, cho đến cuối thế kỷ XVII, chỉ riêng số di dân
người Việt cư trú tại Đồng Nai (bao gồm Biên Hòa và Gia Định ngày nay) đã đạt tới 4 vạn
hộ (tính trung bình 1 hộ 5 khẩu thì số dân là 200.000 người). [43, tr. 77]

Để quản lí dân số của mình cũng như thiết lập bộ máy chính quyền ở vùng đất mới,
năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu đã “sai thống suất chưởng cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu
Cảnh kinh lược nước Chân Lạp, lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, đặt xứ Đồng Nai
làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh
Phiên Trấn, mỗi dinh đặt ra các chức Lưu thủ, Cai bạ, Ký lục để giữ và chăm dân, nha thuộc
thì có hai ty Xá xai và Tướng thần lại để làm việc; quân lính thì có tinh binh và thuộc binh
thủy bộ các cơ đội thuyền để hộ vệ; mở đất đai nghìn dặm, được dân hơn bốn vạn hộ…” [20,
tr. 77], chính thức xác lập chính quyền của chúa Nguyễn ở vùng đất Nam Bộ. Việc chính
quyền chúa Nguyễn được thành lập được coi như một tất yếu, một việc đã rồi, chính thức
hóa một sự thể “dân làng mở đất trước, Nhà nước đến cai trị sau”. [12, tr. 154] Từ đây, lịch
sử vùng đất Nam Bộ nói chung và Hà Tiên – Kiên Giang nói riêng đã bước sang một thời kỳ
mới.

Từ sau sự kiện 1698, công cuộc khai khẩn vùng đất Hà Tiên của lưu dân người Việt
vẫn được tiếp tục ở những thế kỷ sau. Nhưng cũng từ đây, công cuộc khai phá Hà Tiên, bên
cạnh người Khmer Nam Bộ, người Việt, còn có sự giúp sức của một nhóm di dân mới – đó
là những người Trung Hoa dưới sự lãnh đạo của Mạc Cửu.
Vào những năm nửa sau thế kỷ XVII, nhiều nhóm di dân người Hoa đã vượt biển Nam
Hải sang định cư ở Việt Nam. Nếu như nhóm Dương Ngạn Định và Hoàng Tiến đến vùng
đất Mỹ Tho, lập nên Mỹ Tho Đại Phố ; nhóm Trần Thượng Xuyên đến Biên Hòa, lập nên
Nông Nại Đại Phố, thì nhóm do Mạc Cửu lãnh đạo lại tiếp tục đi xa nữa, vào miền duyên hải
vịnh Xiêm La để định cư, kiến thiết vùng đất Hà Tiên, lập nên Hà Tiên đại phố. Lịch sử vùng
đất Hà Tiên từ thời Mạc Cửu trở đi được các bộ chính sử của ta chép một cách rõ ràng.

Các bộ chính sử đều chép rằng : Mạc Cửu vốn là người Lôi Châu (Quảng Đông –
Trung Quốc) do nhà Minh mất, không chịu thần phục nhà Thanh nên chạy xuống phương
Nam và đến vùng Hà Tiên xin vua Chân Lạp cho định cư khai phá. Khi đến Hà Tiên thấy
nhiều thương nhân đến buôn bán, bèn mở sòng bạc để thu thuế. Ông còn lập ra 7 xã thuộc Hà
Tiên. Chẳng hạn, trong sách Gia Định thành thông chí, sử gia Trịnh Hoài Đức đã chép: “Hà
Tiên, là đất cũ của Chân Lạp, tục gọi là Mang Khảm, người Kinh gọi là Phương Thành ( 1)
P F
4 .
P

Buổi đầu, người xã Lê Quách huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu tỉnh Quảng Đông nước Đại
Minh là Mạc Cửu, năm Khang Hy thứ 19 (1680) ( 2) … nhà Minh mất không thần phục chính
P F
5 P

sách buổi đầu của nhà Đại Thanh, để tóc sang phương Nam, ở tại Nam Vang nước Chân
Lạp. Thấy phủ Sài Mạt ở nước ấy người Trung Quốc, người Chân Lạp, người Chà Và, các
nước tụ tập mở sòng đánh bạc mà đánh thuế thuế gọi là hoa chi, rồi trưng mua thuế ấy, lại
bắt được bạc chôn, trở nên giàu có. Ông lại chiêu mộ dân phiêu tán người nước Việt, lập
nên 7 xã thôn ở các xứ Phú Quốc, Lũng Kỳ, Cần Bột, Vũng Thơm, Rạch Giá, Cà Mau” ( 3)
P F
6

[20, tr. 119 – 120].


P

Dưới sự quản lí của Mạc Cửu, vùng đất Hà Tiên rất phát triển, vì thế nó trở thành đối
tượng dễ bị xâm lược, nhất là vương quốc Xiêm. Với tầm nhìn chiến lược và sự nhạy cảm về
chính trị, cũng như từ kinh nghiệm lịch sử, Mạc Cửu nhận thức rõ, trước thế lực của Xiêm
hùng mạnh và sự suy vi của Chân Lạp, Mang Khảm không thể độc lập. Theo sự gợi ý của

(1) : Trong sách Hà Tiên phương địa chí, Trần Thiêm Trung đã giải thích tên gọi Phương Thành như sau : “Tại trấn lỵ, một thành
vuông, đặt tên Phương Thành, chung quanh bao bọc chiến lũy, trồng tre gai, vì thế còn có tên chung là Trúc Bàn Thành.”
(2): Về niên đại Mạc Cửu đến Hà Tiên có nhiều giả thiết khác nhau. Mạc thị gia phả của Vũ Thế Dinh thì cho là năm 1671, còn
Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức cho là năm 1680 (như trên đã dẫn). Cả hai niên đại này điều không ổn, bởi Mạc
Cửu sinh năm 1655, thì khi ấy ông mới 25 tuổi mà thôi. Còn giáo sư Trần Kinh Hòa thì đưa ra một giải thiết rằng : “sự mở mang
của Hà Tiên có lẽ bắt đầu từ trước sau năm 1686. Chừng năm 1687 hoặc 1688, Hà Tiên bị quân đội Xiêm chiếm đóng, Mạc Cửu
bắt buộc phải theo quân Xiêm đi ở Vạn Tuế Sơn Hải Tân (tức là Muang Galapuri), một hải cảng ở địa hạt Xiêm La. Nhưng chẳng
bao lâu, Mạc Cửu đã trốn về Long Kỳ (Sre Umbell), rồi đến khoảng năm 1700 về tới Hà Tiên”.[32, tr. 33] Sau này, nhà nghiên
cứu Trương Minh Đạt trên cơ sở đối chiếu nhiều nguồn tư liệu khác nhau, đã chứng minh thời gian Mạc Cửu đến Hà Tiên vào
khoảng năm 1700 là đáng tin hơn cả. Và theo chúng tôi, mốc thời gian năm 1700 là chính xác.
(3) : Xã còn lại là Hà Tiên. Các xã Lũng Kỳ, Cần Bột, Vũng Thơm hiện nay thuộc lãnh thổ Camphuchia.
mưu sĩ họ Tô ( 1) Mạc Cửu đã quyết định nương nhờ vào chúa Nguyễn, “bèn sai hai thuộc hạ
P F
7 P

là Trương Cầu và Lý Xá mang tờ biểu trần tình đến kinh đô Phú Xuân để xin làm người
đứng đầu xứ ấy” [59, tr. 120]. Chúa Nguyễn nhận thấy Hà Tiên là vùng đất “có thể kiểm soát
bờ biển từ Xiêm La đến Nam Việt, và từ đất ấy, chúa sẽ làm bàn đạp để tiến lên phía Bắc,
nối liền với Tiền Giang”[35, tr. 352] nên vui mừng chấp nhận thỉnh cầu của Mạc Cửu.

Mùa Thu, tháng 8 năm Mậu Tý (1708), Nguyễn Phúc Chu đã sắc phong cho Mạc Cửu
làm Tổng Binh Trấn Hà Tiên, tước Cửu ngọc hầu ( 2). Năm sau (1711) Mạc Cửu thân hành
P F
8 P

đến Huế yết kiến Minh Vương Nguyễn Phúc Chu. Việc này biểu thị chủ quyền của Hà Tiên
không phải thuộc về Chân Lạp. Cửu về trấn dựng thành quách, lập doanh ngũ, đặt liêu tá,
làm nhiều nhà khách để tiếp đón hiền tài. Dân đến ở ngày càng đông, Hà Tiên trở thành một
nơi đô hội nhỏ. Trong Mạc thị gia phả, Vũ Thế Vinh ghi khá chi tiết về sự kiện này : “Nam
triều Tiên vương (Nguyễn Phúc Chu) thấy Thái Công (Mạc Cửu) tướng mạo khôi ngôi, dáng
vẻ kiệt hiệt, cử chỉ kính cẩn, khen là người có lòng trung thành, bèn hạ chỉ cho làm thuộc
quốc, đặt tên đất Thái công cai trị là trấn Hà Tiên, phong cho chức Tổng binh, ban ấn tính và
sai nội thần tiễn Thái Công đến tận cửa ải. Thực là một vinh dự đặc biệt hiếm thấy. Thái
Công về Hà Tiên, tuân theo chỉ dụ của Vương (Nguyễn Phúc Chu), xây thành đắp lũy, tôn
tạo vinh thự, đặt các chức thuộc hạ và lập sở Mạc thị để chiêu tập người hiền tài” [24, tr. 17].

Hành động của chúa Nguyễn Phúc Chu có ý nghĩa rất quan trọng đối với lịch sử phát
triển của vùng đất Hà Tiên. Từ thời điểm này, trấn Hà Tiên (bao gồm Hà Tiên, Rạch Giá, Cà
Mau và Phú Quốc) chính thức được thành lập và cũng bắt đầu từ đây trở đi, trấn Hà Tiên là
một đơn vị hành chính của Nhà nước phong kiến Việt Nam ở Đàng Trong (chúa Nguyễn).
“Cùng với Gia Định, Đồng Nai, Hà Tiên trở thành một trong ba đỉnh của tam giác Việt Nam
ở Nam Bộ, đồng thời là một tiền trạm chiến lược phía Tây sông Hậu, tạo ra cái thế không thể
dừng trong cuộc khai thác phương Nam” [69, tr. 22]. Lịch sử vùng đất Hà Tiên đã sang
trang. “Mạc Cửu đã xây dựng dinh ngũ, đóng ở Phương Thành, nhân dân ngày càng đến
đông” [59, tr. 122].

(1) : Mưu sĩ họ Tô (Tô Quân) đã nói với Mạc Cửu rằng : “Người Chân Lạp vốn nông nổi và bạc bẽo, gian xảo thì nhiều mà trung
hậu thì ít, cho nên không thể nào dựa cậy lâu dài được. Chi bằng hãy xin hàng nước Việt, xin nhận chức và xưng thần để làm chỗ
căn bản, nếu vạn nhất có thể xảy điều gì thì cũng có người giúp đỡ” (Vũ Thế Dinh, Mạc thị gia phả, tr. 16 – 17).
(2) : Về niên đại ghi sự kiện Mạc Cửu được chúa Nguyễn phong chức Tổng trấn Hà Tiên, các bộ sử ghi có khác nhau : Đại Nam
thực lục ghi năm 1708, Mạc thị gia phả ghi năm 1714. Theo tác giả năm 1708 mới chính xác.
Năm 1735, sau 27 năm dốc tâm kiến lập đất Hà Tiên, Tổng binh trấn Hà Tiên là Mạc
Cửu qua đời. Ông được chúa Nguyễn tặng “Khai trấn thượng trụ quốc đại tướng quân Vũ
nghị công” ( 1)[32, tr. 145].
P F
9 P

Năm 1736, con của Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ (1718 – 1780) được chúa Nguyễn Phúc
Chú (1725 – 1738) phong làm đô đốc trấn Hà Tiên. Về sự kiện này, trong Mạc thị gia phả
Vũ Thế Dinh chép như sau : “Khi Thái Công qua đời (chỉ Mạc Cửu), Công (chỉ Mạc Thiên
Tứ) liền đến tận cửa khuyết để tâu bày. Tiên Hoàng Đế (chỉ chúa Nguyễn Phúc Chú) nghĩ
rằng, Hà Tiên là hùng trấn, án ngữ nơi biên ải khó khăn của nước nhà, bèn ban sắc truy tặng
Thái Công chức Khai Trấn Thượng Trụ Quốc Đại Tướng Quân Vũ Nghị Công và cho Công
Da ta được hưởng quyền thế tập chức Tổng Binh Đại Đô Đốc, lại còn ban cho một bộ áo
mãng bào sắc đỏ cùng với các thứ ấn tín”. [25, tr. 18]. Thời kỳ cai trị của Mạc Thiên Tứ
chính là thời thịnh trị nhất của Hà Tiên.

Tính cho đến năm 1771, tức là sau 63 năm (1708 – 1771), dưới sự ủng hộ, giúp đỡ của
các chúa Nguyễn và qua bàn tay xây dựng của cha con họ Mạc, vùng đất Hà Tiên đã trải qua
những năm tháng phát triển hàng kim với nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, văn hóa và cả
quân sự. Đô thị Hà Tiên đã trở thành trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của toàn trấn.
Cảng thị Hà Tiên trở thành điểm xuất phát, là khởi nguồn cho quá trình khai hoang của dân
tộc Việt Nam ở xứ Đàng Trong, là cầu nối quan trọng của nền thương mại thế giới Đông –
Tây.

Nhưng cũng từ năm 1771 trở đi, vùng đất Hà Tiên đã phải trải qua hai biến cố lớn, làm
thay đổi hẳn số phận của nó. Vào năm này, Hà Tiên đã bị Xiêm chiếm và phải đến năm
1773, nhờ sự giúp sức của quân đội nhà Nguyễn đóng ở Gia Định, Mạc Thiên Tứ mới lấy lại
được. Sau đó, Hà Tiên lại bị cuốn vào vòng xoáy của những cuộc chiến tranh giành quyền
lực giữa hai tập đoàn phong kiến Nguyễn – Tây Sơn.

Từ 1773, nghĩa quân Tây Sơn đã đánh chiếm phủ Quy Nhơn. Năm 1775, đánh chiếm
kinh đô Phú Xuân, buộc chúa Nguyễn phải chạy vào Gia Định. Triều đình chúa Nguyễn lâm
vào cảnh nguy khốn và đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt nhưng Mạc Thiên Tứ vẫn một lòng
đứng về các chúa Nguyễn. Năm 1775, nhân việc chúa Nguyễn Phúc Thuần đến Gia Định,
Mạc Thiên Tứ đã thân hành đến bái yết, rồi sau đó trở về Trấn Giang chiêu tập dân xiêu tán.
1
Đại Nam thực lục, tập 1, tr. 145
[20, tr. 126] Và cũng từ thời điểm này, Mạc Thiên Tứ và trấn Hà Tiên phải trải qua những
tháng ngày lận đận cùng với dòng họ Nguyễn.

Năm 1777, nghĩa quân Tây Sơn đánh chiếm Gia Định, giết chết các chúa Nguyễn là
Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương, lật đổ ách thống trị của họ Nguyễn ở Đàng
Trong, chỉ còn Nguyễn Ánh (cháu Nguyễn Phúc Thuần) may mắn trốn thoát. Sau khi chiếm
được Gia Định, nghĩa quân Tây Sơn tiến đánh Long Xuyên, truy đuổi Nguyễn Ánh ra tận
đảo Phú Quốc. Cũng thời gian này, nghĩa quân Tây Sơn đã làm chủ trấn Hà Tiên, Mạc Thiên
Tứ vì không chịu theo Tây Sơn đã chạy ra đảo Phú Quốc và sau đó, Mạc Thiên Tứ được vua
Xiêm là Phi Nhã Tân đón sang Xiêm. Đến năm 1780, Mạc Thiên Tứ mất tại Xiêm. [20, tr.
128, 129]. Sau này, Mạc Thiên Tứ được triều Nguyễn sắc phong là Hà Tiên trấn Tổng binh
Đại đô đốc Quốc lão sùng quận công.

Từ năm 1778 – 1787, vùng đất Gia Định nói chung và trấn Hà Tiên nói riêng trở thành
vùng tranh chấp giữa Nguyễn Ánh và nghĩa quân Tây Sơn. Năm 1784, sau những thất bại
liên tiếp, Nguyễn Ánh đã cầu cứu quân Xiêm. Tháng 3 năm ấy (1784), 5 vạn quân Xiêm đã
kéo sang Gia Định nhưng bị Nguyễn Huệ đánh cho tan tác tại Rạch Gầm – Xoài Mút (1785).
Nguyễn Ánh một lần nữa may mắn thoát chết.

Đến năm 1787, Nguyễn Ánh mới lần lượt chiếm lại được các vùng đất ở Nam Bộ,
trong đó có Hà Tiên. Tháng 6 năm 1787, Nguyễn Ánh cử tham tướng Lý Chính Hầu làm
tổng trấn Hà Tiên. Năm 1789, Lý Chính Hầu mất, Mạc Công Bính (con Mạc Tử Hoàng,
cháu Mạc Thiên Tứ) được cử làm tổng trấn Hà Tiên nhưng do bị chiến tranh tàn phá, Hà
Tiên trở nên điêu tàn, Mạc Công Bính không đóng ở Hà Tiên mà đóng ở Long Xuyên. Sau
đó, Mạc Công Bính chết, trấn Hà Tiên bị khuyết quan cai trị.

Mãi đến năm 1799, Mạc Tử Thiêm (con thứ của Mạc Thiên Tứ) và Mạc Tử Hoàng
mới được Nguyễn Ánh đón từ Xiêm về để quản lý trấn Hà Tiên. Từ đây, lịch sử vùng đất Hà
Tiên bước sang một trang sử mới, dưới sự quản trí thống nhất của vương triều Nguyễn.

Như vậy, từ một vùng đất giàu tiềm năng, nhưng lại hoang vu, dân cư thưa thớt, qua
bàn tay kiến thiết của các tộc người Kinh, Khmer, Hoa...dưới sự lãnh đạo của họ Mạc, nhất
là của Mạc Cửu và Mạc Thiên Tứ, cùng với sự che chở và bảo vệ của chính quyền chúa
Nguyễn, Hà Tiên đã trở thành một vùng đất phát triển thịnh vượng. “Tuy nhiên, do ranh giới
địa lý chưa ổn định và do trấn Hà Tiên nằm trong “khu đệm” với những dao động rất lớn do
sự tranh chấp về chính trị, quân sự của các nước trong khu vực cho nên sự hưng thịnh và suy
vong của trấn Hà Tiên rất khó lường. Hà Tiên đã vươn lên thành một đại đô hội, song chiến
tranh và những tranh chấp trong khu vực đã tàn phá Hà Tiên vào những năm cuối thế kỷ
XIX”. [26, tr. 25]

1.2.2. Trần Hà Tiên dưới triều Nguyễn

Sau khi lên ngôi năm 1802, cùng với việc thiết lập hệ thống hành chính thống nhất
toàn quốc, Hà Tiên được Gia Long chú ý cũng cố và tạo điều kiện để phát triển. Dưới thời
Gia Long, Hà Tiên dần dần ổn định tuy không còn phồn thịnh như trước đây nữa.

Ngay năm 1802, Mạc Tử Thiêm được Nguyễn Ánh phong làm Cai cơ trấn thủ trấn Hà
Tiên, và ra lệnh sai gọi nhân dân lưu tán vì chiến tranh quay về nơi ở cũ và tha bớt cho thuế
đinh điền. Đồng thời, hai đạo Long Xuyên và Kiên Giang thuộc trấn Hà Tiên được cải tổ lại
thuộc về trấn Vĩnh Thanh. Năm 1808, đặt hai huyện Kiên Giang và Long Xuyên vẫn do đạo
quản hạt.

Đến năm 1809, Mạc Tử Thiêm mất, Mạc Công Du, Mạc Công Thê, Mạc Công Tài
(con Mạc Tử Thiêm) vì nhỏ tuổi nên chỉ được phong chức hàm Cai đội để giữ việc cúng tế
Mạc Cửu và Mạc Thiên Tứ. Dòng họ Mạc trải qua 7 năm không có người đứng đầu Hà Tiên.

Năm Gia Long thứ 9 (1810), Gia Long đặt lại Trấn Hà Tiên, cho hai huyện Kiên
Giang và Long Xuyên lệ vào. Sai Ngô Y Nghiễm và Lê Tiến Phúc làm án thủ trấn Hà Tiên.
Đồng thời cũng năm này, triều đình đã chuẩn y lời tuân của quan án thủ trấn Hà Tiên “cho
bỏ ba ngạch thuế hoa chi (thuế sòng bạc), thuốc phiện, mỡ lợn và dụ rằng : phàm các thuế
khóa của tàu buôn ghe buôn hạt Hà Tiên, từ nay về sau đều cho tha miễn.” [20, tr. 136]

Tháng 9 năm 1810, Nguyễn Văn Thiện được phong làm trấn thủ trấn Hà Tiên nhưng
ông chưa kịp nhận thức đã bị ốm chết. Hà Tiên lại tiếp tục trải qua những tháng ngày rối ren
bởi những cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa các tướng lĩnh và nạn trộm cướp. Về sau
triều đình cử Nguyễn Phúc Thụy đến dẹp loạn, Hà Tiên mới bình yên trở lại.

Năm 1811, Trương Phúc Giáo được bổ nhiệm làm Trấn thủ trấn Hà Tiên. Từ đây, trấn
Hà Tiên bắt đầu trở lại những hình ảnh vốn có khi xưa. Trương Phúc Giáo đã cho “gọi dân
lưu tán trở về, họp người đến buôn bán, đặt nhà học, khẩn ruộng hoang, chia vạch phố chợ,
thứ tự phân biệt người Kinh, người Thanh (Hoa Kiều), người Lào, Miên, người Chà Và, loại
nào theo loại ấy. Chính lệnh thì khoan giản, không có phiền nhiễu, công việc của trấn mới có
giềng mối khả quan”. [20, tr. 136 – 137]

Đến năm 1816, Mạc Công Du (con Mạc Tử Hoàng, cháu Mạc Thiên Tứ) được phong
làm Hiệp trấn trấn Hà Tiên và hai năm sau (1818) được thăng làm Trấn thủ trấn Hà Tiên.
Đồng thời, vua Gia Long đã ra lệnh cho Mạc Công Du tìm hiểu về sự tích Hà Tiên, vua dụ
rằng : “Đất Hà Tiên là bờ cõi mới do các thánh nhân mở mang và là đất cũ của tổ tiên ngươi
là Mạc Cửu và Mạc Thiên Tứ được phong. Từ triều trước trở đi công việc đều có sách vở ghi
chép. Từ giặc Tây Sơn nổi loạn, sách vở tản mác, không theo đâu mà kê cứu được. Nay bắt
đầu yên định, dân trước sót lại hãy còn, ngươi nên hết lòng tìm hỏi thu nhặt việc cũ, biên
chép tiến lên. Trẫm sẽ đăng vào tín sứ, để lại đời sau”. [59, tr. 974] Điều này cho thấy, vua
Gia Long đánh gia rất cao công lao của họ Mạc và vị thế của Hà Tiên. Nói về ý nghĩa của
việc triều đình trọng dụng con cháu họ Mạc, Trịnh Hoài Đức viết: “Đó là triều đình nghĩ đến
người công thần khai thác đất đai, mà con cháu được nhờ mãi ơn ấm của tổ tông vậy”. [20,
tr. 137] Con cháu sau này của họ Mạc như Mạc Hầu Hy, Mạc Hầu Diệu, Mạc Hầu Phong
đều được làm quan và được quyền thế tập hàm Cai Đội.

Từ năm 1816 trở đi, địa giới trấn Hà Tiên đã dần đi vào ổn định. Toàn trấn có 2 huyện,
4 tổng và 103 xã, thôn. Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức đã viết về trấn Hà
Tiên thời bấy giờ như sau : “Trấn này phía nam giáp trấn Vĩnh Thanh, phía tây giáp nước
Xiêm La, phía đông trông sang thành Gia Định, phía bắc giáp nước Chân Lạp. Hai hòn Đại
Kim dữ, Tiểu Kim dữ tức là viên ngọc châu trấn ngoài biển, dàn bầy đằng trước; núi Ngũ Hổ
tức là quả ấn cắp nách, ôm cặp đằng sau; phía đông có núi Tô Châu cao vót, là cửa ải để
ủng vệ nơi cửa sông; phía tây có núi Lộc Trĩ đứng sững làm cột đá để che chặn sóng dữ;
sông Tiên vòng ôm bên tả, núi Bình Sơn hộ vệ bên hữu. Các hòn đảo làm án gần trước mặt,
hòn ra, hòn vào xen nhau hoặc như cái đai ngọc, cái cung nằm, như cái đài vuông, cái đàn
nằm ngang, phục dưới thấp mà vòng quanh họp lại. Đảo Phú Quốc ở đằng sa chầu lại, cao
vót đẹp đẽ. Nay lại được sông Vĩnh Tế khơi thông, thuyền buồm ở sông ở biển tụ họp, đường
thủy, đường bộ tiện lợi. Thực là một nơi hình thế đẹp. Từ nam đến bắc chỉ 54 dặm, từ đông
sang tây 419 dặm, phía đông bắc đến thành (Gia Định) 773 dặm. Có 2 huyện, 4 tổng, 103
xã, thôn…” [20, tr. 137]
Năm Minh Mạng thứ 6 (1825), trên địa giới trấn Hà Tiên, triều đình đặt thêm huyện
Hà Tiên và gộp cả ba huyện (Kiên Giang, Long Xuyên và Hà Tiên) làm phủ An Biên.

Từ năm 1831 – 1832, vua Minh Mạng tiến hành một cuộc cải cách hành chính lớn,
chia nước Việt Nam thành 30 tỉnh và 1 phủ Thừa Thiên. Trong đó tỉnh Hà Tiên được lập vào
năm 1832 trên cơ sở trấn Hà Tiên. Đồng thời trong năm này, phủ An Biên được đổi thành
phủ Khai Biên, huyện Hà Tiên làm huyện Hà Châu. Tỉnh Hà Tiên gồm có 1 phủ (phủ An
Biên) và 3 huyện ( Hà Châu, Kiên Giang và Long Xuyên).

Năm 1833, Lê Văn Khôi nổi lên khởi nghĩa chống lại triều đình và tiến đánh chiếm
lĩnh tỉnh Hà Tiên. Và ngay năm này, quân Xiêm lại đưa quân sang xâm chiếm Hà Tiên, triều
đình phải cử đại binh của Trương Minh Giản đến tiễu trừ mới yên được.

Năm 1834, triều đình đổi lại phủ Khai Biên làm phủ An Biên, lấy đất Cần Bột, Hưng
Ức làm phủ Quảng Biên và phủ Khai Biên.

Năm 1836, triều đình cử Trương Đăng Quế và Trương Minh Giản làm việc đặt điền,
lập địa bạ cho 6 tỉnh Nam Kỳ. Toàn tỉnh Hà Tiên làm xong và được kiểm thực vào ngày 3
tháng 6 năm Minh Mạng thứ 17 (1836). Theo đó, tỉnh Hà Tiên gồm có 1 phủ (Phủ An Biên)
và 3 huyện (Hà Châu, Kiên Giang và Long Xuyên), 11 tổng, 106 thôn, 43 xã (có 3 xã, 2 thôn
mất địa bạ). [9, tr. 101] Căn cứ vào diện tích của hai tỉnh Kiên Giang và An Xuyên (trước
năm 1975), nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, phỏng đoán diện tích của tỉnh Hà Tiên vào
năm 1836 là khoảng 10.459 km2 , với số dân đinh là khoảng 1.481 người (số dân cụ thể
P P

không thống kê được). Sách Đại Nam nhất thống chí miêu tả về tỉnh Hà Tiên năm 1836 như
sau : Tỉnh Hà Tiên “phía đông giáp tỉnh An Giang, phía tây nam giáp biển, phía bắc tiếp
giáp Chân Lạp, núi cao có Vân Sơn (Thạch Động), sông lớn có Đông Hồ; dựa núi làm
quách, sát biển làm hào, bảo Giang Thành đỡ mặt sau, lũy bảo Phù Anh Thi Vạn che mặt
sau; pháo đài Kim dữ là then khóa ở cửa biển, đảo Phú Quốc là bình phong ở ngoài khơi.
Phía đông có sông Vĩnh Tế để thông đường quân đường lương với các tỉnh ngoài, thực là
nơi cửa ngõ hiểm yếu của Nam Kì”. [61, tr. 9]

Năm 1839, triều đình đặt phủ Tịnh Biên, lấy hai huyện Hà Dương và Hà Âm làm phủ
và giao cho tỉnh Hà Tiên quản hạt.
Năm 1842, Thiệu Trị trả đất phủ Quảng Biên cho Chân Lạp, đem phủ Tịnh Biên và
hai huyện Hà Dương và Hà Âm cho thuộc tỉnh hạt An Giang. [11, tr. 78 – 79]

Năm 1867, Pháp đem quân đánh chiếm 3 tỉnh miền Tây (An Giang, Vĩnh Long, Hà
Tiên). Tỉnh Hà Tiên bị Pháp chiếm ngày 24 tháng 6 năm 1867. Từ đây, Hà Tiên nằm dưới sự
cai trị của Pháp cho đến khi giành được độc lập vào năm 1945.

Lúc đầu, Pháp giữ ranh giới hành chánh Nam kỳ như cũ. Sau đó thay đổi dồn nhập,
chia cắt ra thành 20 địa hạt và hai thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn. Tỉnh Hà Tiên cũ chia làm 3
địa hạt là: Hà Tiên, Rạch Giá và Bạc Liêu. Địa bàn Hà Tiên mới là huyện Hà Châu cũ, Rạch
Giá là Kiên Giang còn huyện Bạc Liêu là huyện Long Xuyên cũ cộng với hai tổng xưa thuộc
An Giang.

Khi người Pháp cai trị, sự phân chia hành chánh của Hà Tiên rất phức tạp và theo một
quá trình quanh co. Sau năm 1867, Hà Tiên vẫn tồn tại 3 huyện cũ hay là hạt nhưng Pháp chỉ
đặt Tham Biện ở Rạch Giá để cai trị huyện Kiên Giang và ở Cà Mau để cai trị huyện Long
Xuyên. Còn ở Hà Tiên chưa đặt tham biện vì địa bàn nhỏ hẹp. Đến tháng 8 năm 1867, Pháp
thấy Cà Mau còn vắng vẻ nên chuyển tham biện về Hà Tiên để trông nom việc giao thương
với Xiêm và các xứ khác trong vùng. Bỏ Tòa Bố Chánh ở Cà Mau, đưa huyện Long Xuyên
thuộc về hạt Rạch Giá. Lúc ấy Rạch Giá là địa hạt lớn nhất Nam Kỳ. Từ năm 1874, đảo Phú
Quốc cũng trở thành một địa hạt riêng.

Ngày 18 tháng 7 năm 1882, Pháp thành lập tỉnh Bạc Liêu gồm địa phận hai tổng
Thạnh Hòa và Thạnh Hưng của tỉnh An Giang cũ cùng với 3 tổng Quảng Long, Quảng
Xuyên, Long Hưng của huyện Long Xuyên thuộc tỉnh Hà Tiên cũ.

Năm 1888, vì thấy Hà Tiên đất hẹp người thưa nên đã xác nhập vào Châu Đốc. Đến
năm 1892, lại phục hồi vị trí tỉnh Hà Tiên như cũ. Từ năm 1913 – 1924, lại xác nhập Hà Tiên
về Châu Đốc.

Năm 1945, cách mạng tháng Tám thành công, tỉnh Hà Tiên cũng giành được độc như
các tỉnh khác trong cả nước.

Từ 1945 – 1956, địa giới hành chính của Hà Tiên vẫn giữ như cũ.
Năm 1956, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa nhập hai tỉnh Hà Tiên, Rạch Giá thành tỉnh
Kiên Giang, lấy Rạch Giá làm tỉnh lị, lại cắt phần lớn tỉnh Bạc Liêu thành tỉnh An Xuyên.
Hà Tiên là 1 quận trong 7 quận thuộc tỉnh An Giang.

Từ sau năm 1975, tỉnh Kiên Giang vẫn giữ tên cũ, kể cả địa phận và ranh giới. Tỉnh
Minh Hải được thành lập gồm cả tỉnh An Xuyên và phần lớn tỉnh Bạc Liêu. Hà Tiên là thị xã
Hà Tiên thuộc tỉnh Kiên Giang.

Năm 1997, thị xã Hà Tiên bị hạ cấp, phần nội thị trở thành thị trấn thuộc huyện lị
huyện Hà Tiên của tỉnh Kiên Giang.
T
2 T
2

Ngày 8 tháng 7 năm 1998, tái lập lại thị xã Hà Tiên. Ngày 1/9/1998, thị xã Hà Tiên
T
2 2T 2T 2T

chính thức đi vào hoạt động. Năm 1999, huyện Hà Tiên đổi tên thành huyện Kiên Lương,
T
2 T
2

với huyện lị mới là thị trấn Kiên Lương. Từ đây, lịch sử Hà Tiên bước sang một trang sử
phát triển mới, với vai trò là một trung tâm kinh tế của tỉnh Kiên Giang nói riêng và đồng
bằng sông Cửu Long nói chung.

Tóm lại, từ những điều trình bày như trên, chúng ta nhận thấy rằng, lịch sử vùng đất
Hà Tiên đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển. Mỗi bước đi của vùng đất này là sự phản ánh
sinh động quá trình mở cõi và làm chủ vùng đất phương Nam của dân tộc Việt Nam. Từ một
vùng đất hoang vu, dân cư thưa thớt trở nên trù phú dưới sự cai trị của dòng họ Mạc. Và
quyết định nương nhờ chúa Nguyễn của Mạc Cửu đã đánh dấu bước ngoặt đối với vùng đất
Hà Tiên. Mạc Cửu và sau đó là Mạc Thiên Tứ đã xây dựng Hà Tiên thành một nơi đô hội,
cảng Hà Tiên trở thành thương cảng giao thương đóng vai trò quan trọng trong nền thương
mại của khu vực Đông Nam Á và thế giới.
Chương 2: SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THƯƠNG CẢNG HÀ TIÊN (Thế kỷ
XVII – XVIII)

Trên cơ sở đặc điểm về vị trí địa lí và kinh tế - xã hội có nhiều điều kiện thuận lợi để
phát triển kinh tế, nhất là kinh tế thương nghiệp, qua bàn tay kiến thiết của họ Mạc, sự quan
tâm giúp đỡ của các chúa Nguyễn, sự năng động của người Hà Tiên, thương cảng Hà Tiên đã
dần dần hiện hữu từ những năm cuối thế kỷ XVII và phát triển huy hoàng trong suốt thế kỷ
XVIII. Thời ấy, thương cảng Hà Tiên là một trung tâm kinh tế của Đàng Trong và là một
thương cảng quốc tế quan trọng với những hoạt động giao lưu kinh tế, văn hóa hết sức sôi
động.

2.1.SỰ RA ĐỜI CỦA THƯƠNG CẢNG HÀ TIÊN.

2.1.1. Những điều kiện để Hà Tiên trở thành thương cảng.

Để hiểu rõ những điều kiện thuận lợi giúp cho Hà Tiên có thể hình thành được thương
cảng, một đô thị cảng, trước hết chúng ta phải hiểu được khái niệm “cảng” và “thương
cảng”.

Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam thì “Cảng (giao thông, kinh tế) khu vực ở bờ biển
hay bờ sông có những công trình xây dựng và trang thiết bị phục vụ cho tàu thuyền cập bến,
bốc dỡ hàng hóa, hành khách lên xuống, sửa chữa phương tiện vận tải, bảo quản hàng hóa và
thực hiện các công việc khác phục vụ quá trình vận chuyển đường thủy” [67, tr. 352]. Còn
“thương cảng” theo Từ điển Tiếng Việt là “thứ cảng biển chủ yếu dùng vào việc buôn bán”
[68, tr. 157].

Như vậy, điều kiện tiên quyết để hình thành cảng là khu vực đó phải có bờ biển hoặc
bờ sông và có các công trình phục vụ tàu thuyền cập bến. Thực tế lịch sử cho thấy Hà Tiên
có đầy đủ điều kiện để trở thành một thương cảng. Hà Tiên nằm trong vịnh Thái Lan với bờ
biển dài 200 km là điều kiện thuận lợi để xây dựng cảng biển nên Hà Tiên đã sớm trở thành
một trung tâm thương mại khu vực và quốc tế, với Hà Thành làm trung tâm điểm.

Cảng Hà Tiên được xây dựng bên bờ biển Đông Hồ thông ra vịnh Thái Lan. Trong
Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức đã viết về biển Đông Hồ như sau: “Đông Hồ, là
hồ ở trước trấn thự, phía Nam khóa chặt cửa nước của hải cảng Hà Tiên, để giữ địa khí, bề
ngang 5 trượng, bề sâu 10 thước. Phía Bắc tiếp với hạ lưu sông Vĩnh Tế. Giữa lòng hồ mênh
mông, rộng 71 trượng, gọi là hồ Hà Tiên, còn gọi là Đông Hồ, vì hồ ở về phía Đông của
huyện. Trong hồ nổi cồn cát non; phía Đông và phía Tây nước sâu trên dưới 5 thước.
Thuyền biển thuyền buôn neo chen nhau, khách buôn tụ tập, nước trăng man mác, trong
mười cảnh thì “Đông Hồ ấn Nguyệt (trăng in Đông Hồ) là một”. [20, tr. 69]

Về tự nhiên, vịnh Thái Lan là một vùng biển tương đối khép kín. Tuy nhiên, vịnh có
một cửa lớn thông với biển Đông và hai eo biển ở phía Tây Bắc đảo Sumatra là Malaca và
phía Đông Nam là eo biển Sunda. Các eo biển này là huyết mạch giao thông quan trọng nối
thế giới phương Đông với phương Tây, đặc biệt là khi “Con đường tơ lụa trên biển” hình
thành vào thế kỷ VII. Trên thực tế, ở phía Tây bờ vịnh còn có eo Kra, nằm ở một dải đất hẹp
nhất của miền Nam bán đảo Mã Lai. Từ khoảng thế kỷ II sau CN, Kra đã là một vùng đất nổi
tiếng bởi vị thế thương mại quốc tế. Trong nhiều thế kỷ, thuyền buôn từ các nước vùng Ấn
Độ, Tây Á, Ba Tư … đã chuyên chở hàng hóa qua vịnh Bengan, tiến vào Kra, rồi từ đó tiến
vào vịnh Thái Lan để tập trung ở cảng Óc Eo – cảng quốc tế lớn, tiêu biểu nhất của đế chế
Phù Nam.

Vịnh Thái Lan có tất cả khoảng 6.750 đảo lớn nhỏ, trong đó Phú Quốc nổi bật lên vì
tầm cỡ, tiềm năng kinh tế truyền thống và cả những huyền tích lịch sử. Đảo có diện tích
khoảng 580km2, là đảo ven bờ lớn nhất Việt Nam. Về tài nguyên trên đáo Phú Quốc, sách
P P

Đại Nam nhất thống chí ghi rõ : “Đông Tây cách nhau 200 dặm, Nam Bắc cách nhau 100
dặm; không có hổ báo mà nhiều lợn rừng, trong núi có hươu nai; yến sào, dây mây, gỗ tốt,
đồi mồi, hải sản, hải sâm, quế thơm. Đất ưa cấy lúa sớm, trồng các thứ đậu, ngô, dưa, ít cấy
lúa nếp. Trong núi sản huyền phách, sắc óng ánh như sơn, có thể dùng làm hạt đeo, cục lớn
có thể tạc hộp trầu, chén, đĩa. Có khi có long diên hương. Lại có cây hắc ban hương, ngoài
vỏ có chấm lốm đốm, đen như trầm hương non, chất nhẹ, vị kém, gỗ to, ruột rỗng, có thể
dùng làm ống bút” [61, tr. 18].

Chỉ qua đoạn miêu tả trên, chúng ta đã thấy rằng, tài nguyên thiên của vùng đất Hà
Tiên là vô cùng phong phú. Hà Tiên là một vùng đa dạng về sinh thái. Ở vùng đất này có
biển, có rừng, có núi đồi và đồng ruộng. Chính vì vậy, sản phẩm khai thác ở đây là rất đa
dạng và dồi dào.
Ngoài các sản vật đã làm nên tên tuổi của vùng đất Hà Tiên là cá biển, đồi mồi, ba ba,
hải sâm (có hai thứ trắng và đen, mỗi năm được 5 vạn cân) [20, tr. 161], nước mắm, tổ yến,
tiêu, quế, lúa gạo… Chúng ta cũng dễ dàng kể ra nhiều sản phẩm khác vốn là những hàng
hóa quan trọng của Hà Tiên.

Khai thác muối : Với bờ biển dài, từ rất sớm ngành khai thác muối của Hà Tiên đã rất
phát triển. Cho đến những năm đầu thế kỷ XIX, diện tích ruộng muối của Hà Tiên chỉ đứng
sau diện tích trồng lúa và trồng dâu.

Khai thác tổ ong : Tổ ong là một trong những sản phẩm đặc biệt và phong phú của
rừng tràm Hà Tiên. Do toàn bộ vùng đất Hà Tiên là một dãi đất thấp phía Tây sông Hậu nên
điều kiện môi sinh ở đây đã tạo nên diện tích rừng ngặp mặn rộng lớn. Trong rừng ngặp
mặn, cây tràm giữ vị trí thống trị. Cây tràm ở đây có thân cao từ 10 – 20 m, tạo ra một kiểu
rừng thuần nhất. Cây tràm nở hoa vào mùa hè, từ tháng 5 âm lịch đến tháng 12 âm lịch.
Chính rừng tràm đã tạo nên một môi trường hấp dẫn, nuôi sống các đàn ong rừng. Tổ ong ở
đây nhiều đến nổi, người Khmer Nam Bộ gọi vùng này là “Kramuôn – Sor”, có nghĩa là “xứ
sáp trắng” do có nhiều ổ ong bám vào cây tràm, lâu ngày rụng xuống rồi trôi trên sông,
không người vớt [59, tr. 229]. Ở thời kỳ này, người ta khai thác tổ ong chủ yếu là lấy sáp để
làm nến, cho nên sáp ong được chú ý hơn là mật ong. Tuy không thật sự nổi tiếng về kỷ nghệ
thủ công nhưng tài chế biến sáp ong (còn gọi là bạch lạp) của người Hà Tiên đã có trình độ
rất cao.

Khai thác lông chim : Đất và rừng nước mặn Hà Tiên, với sự hoang vu của nó là nơi
lý tưởng cho sự quần tụ của các loài chim. Các loại ngan, sếu, ngỗng trời và vịt nước, lông ô,
già sói, thằng bè, bồ nông…sinh trưởng rất nhiều ở vùng đất này. Sản phẩm từ lông chim rất
đa dang, chính vì vậy, ngành này rất phát triển ở Hà Tiên. Trong sách Đại Nam nhất thống
chí ghi rằng ở Kiên Giang có “Sở Điểu Đình khá trù mật”. Và theo nhà văn Sơn Nam, “Sở
Điểu Đình” chính là sân chim ở Gò Quao (huyện Kiên Giang).

Khai thác gỗ : Với diện tích rừng khá lớn, rừng Hà Tiên có nhiều loại lâm sản quý
như gỗ kiền kiền, gỗ sao, gỗ tếch…Đây là những loại gỗ chuyên dùng để đóng thuyền và
được coi là những loại tốt nhất để đóng thuyền đi biển.
Có thể thấy, các sản vật của Hà Tiên là rất phong phú, từ lúa gạo, tiêu, sáp ong, lông
chim, tổ yến đến cá biển, đồi mồi, hải sâm…thứ gì cũng có và cũng nhiều. Sự đa dạng của
những sản phẩm khai thác được tất yếu nảy sinh những luồng mậu dịch để trao đổi theo quy
luật cung cầu. Tục ngữ có câu “Gạo Rạch Giá, cá Hà Tiên, tiêu Phú Quốc” đã nói lên sự phát
triển kinh tế hàng hóa của vùng đất này. Sách Đại Nam nhất thống chí nói về con người Hà
Tiên rằng : “Kẽ sĩ biết chữ, dân siêng làm ăn, quá nửa là nghề buôn bán, còn kỹ nghệ thì tầm
thường” [61, tr. 10]. Chi tiết “quá nửa là nghề buôn bán” cho chúng ta thấy hoạt động buôn
bán nhộn nhịp của vùng đất này.

Bên cạnh, những đặc điểm thuận lợi về vị trí địa lí, tài nguyên thiên nhiên… để xây
dựng thương cảng Hà Tiên, chúng ta còn phải kể đến chính sách của những người đứng đầu
trong việc hoạch định chiến lược phát triển Hà Tiên. Đó là những ưu tiên của các chúa
Nguyễn đối với hoạt động thương nghiệp của Hà Tiên, khi giành cho Hà Tiên quyền tự trị rất
lớn và sự ưu ái về thuế thương mại, về việc cho phép được trao đổi buôn bán với bên ngoài.
Và hơn tất cả là chính sách phát triển Hà Tiên của họ Mạc, với việc phát triển kinh tế hàng
hóa làm chủ đạo. Cả Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích đều chú trọng đến hoạt động thương
nghiệp và coi đây là nhân tố quyết định sự hưng thịnh của Hà Tiên. Có thể khẳng định, đây
chính là những điều kiện quyết định trong việc thương cảng Hà Tiên hình thành và phát triển
từ những năm cuối thế kỷ XVII.

Như vậy, Hà Tiên có đầy đủ những điều kiện thuân lợi “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”,
để trở thành một thương cảng phồn vinh. Vị trí địa lí thuận lợi, tài nguyên nhiên thiên phong
phú, một chiến lược phát triển đúng đắn của họ Mạc, sự ủng hộ và giúp đỡ của các chúa
Nguyễn, chính là những nhân tố hình thành nên thương cảng Hà Tiên vang bóng một thời.
Đúng như lời nhận xét của giáo sư Emile Gaspardone “Xứ sở này có núi và biển bao bọc
xung quanh, là nơi đặc trưng làm giàu nhờ vào thương mại”. [81, tr. 375] Quá trình hình
thành và phát triển của thương cảng Hà Tiên, chính là sự hiện thực hóa những điều kiện
thuận lợi trên.

2.1.2. Quá trình hình thành thương cảng Hà Tiên.

Thương cảng Hà Tiên là điểm sáng nhất, là nơi khởi nguồn cho quá trình khai khẩn
vùng đất Hà Tiên, cho nên quá trình hình thành cảng Hà Tiên gắn liền với lịch sử hình thành
vùng đất, gắn liền với chính sách của chúa Nguyễn và công cuộc kiến thiết của họ Mạc, mà
nổi bật là Mạc Cửu và Mạc Thiên Tứ.

Mạc Cửu vốn là một người chủ thuyền buôn, đã từng giông buồm đi khắp nơi để buôn
bán. Ông đã từng sang Phi Luật Tân (Philippin), Batavia (Inđônêxia) và còn giúp đỡ Trịnh
Thành Công ở Đài Loan phát triển nền thương mại với hải ngoại. Khi nhà Minh mất, ông
không thể thần phục sự cai trị của nhà Thanh, đã phải rời bỏ quê hương tìm đến vùng đất Hà
Tiên để kiến lập sự nghiệp mới. Giáo sư Trần Kinh Hòa đã chỉ ra hai lí do Mạc Cửu đến cư
trú ở Hà Tiên “một là nhà Thanh bắt nhân dân phải dóc tóc bím đuôi sam, hai là không chịu
được sự khuấy rối của nhà Thanh”. [31, tr. 32] Vì thế, ông đã đến Hà Tiên và chọn phủ Sài
Mạt là nơi định cư đầu tiên. Lúc đầu, ông nương nhờ vua Chân Lạp và được phong chức Óc
Nha. Nhưng chẳng bao lâu sau do sự bất ổn của Chân Lạp, ông phải bỏ Sài Mạt đến với
Mang Khảm để xây dựng cơ nghiệp mới.

Vùng đất Mang Khảm, trước khi Mạc Cửu đến mặc dù còn khá hoang vu nhưng đã có
người Việt, người Khmer ...sinh sống và nền kinh tế ở đây đã phát triển ở một mức độ nhất
định. Đây là vùng đất có địa thế rất thuận lợi cho việc sinh sống, làm ăn và buôn bán, vừa
nằm ở trong vịnh, tránh được dông bão, vừa là nơi tàu thuyền nước ngoài qua lại. Với những
điều kiện thuận lợi ấy, ngay từ rất sớm, trong quá trình đấu tranh với tự nhiên để mở đất,
những người lưu dân Việt, Khmer, Hoa.. đã sớm thích nghi, khai thác và làm chủ nguồn lợi
hết sức trù phú từ đất đai, sông, đầm và kênh rạch mang lại. Trên một vùng đất mà “mối lợi
sông chằm không bao giờ hết” [61, tr. 27], tự nhiên đã góp phần nuôi dưỡng, làm phong phú
đời sống, sinh hoạt và tạo nên sức hấp dẫn cho các dòng người từ nhiều vùng khác nhau đến
sinh tụ, định cư.

Thêm vào đó, Mạc Cửu đã đề ra nhiều chính sách hợp lí để phát triển các ngành kinh
tế. Mạc Cửu chia đất cho nông dân để họ làm của riêng, hỗ trợ nông cụ sản xuất cần thiết cho
nông dân để khai thác ruộng đất, hỗ trợ ngư cụ cho ngư dân, không thu thuế lâu dài, thu mua
sản phẩm với giá cao ...đã tạo điều kiện tích cực cho sự phát triển của vùng đất này cả về
nông nghiệp, ngư nghiệp và thương nghiệp. “Ông phân chia ruộng đất cho những nông dân
của ông như là cấp cho, không giữ lại một quyền lợi nào cả,... ông còn cung cấp cho tất cả tá
điền của ông những phương tiện cần thiết để làm cho đất đai có giá trị ... rừng đã được đốn
hạ có kế hoạch, đất đai được mở rộng và gieo hạt lúa ; những con kinh đào từ những con
sông đem nước vào những cánh đồng, và mùa màng dồi dào trước tiên là cung cấp cho
những người nông dân phương tiện để sống, sau đó là đối tượng của một nền thương mại
rộng lớn”. [81, tr. 368].

Và theo lẽ tự nhiên, khi các sản phẩm nông, ngư nghiệp dồi dào đã kích thích sự phát
triển của ngoại thương, làm cho vùng đất Hà Tiên trở nên giàu có. Pierre Poivre đã nhận xét
một cách xác đáng rằng : "nhờ vào nền nông nghiệp và việc mua bán những hoa lợi do đất
đai trong lãnh thổ của ông sản xuất ra, mà ông đã đạt được một mức độ thịnh vượng... ” [81,
tr. 369]

Bằng nhạy cảm của một thương gia giàu kinh nghiệm, hơn ai hết Mạc Cửu hiểu rất rõ
vị thế thiên thú của Hà Tiên trong vùng Đông Nam Á lúc bấy giờ. Không chỉ khai thác nông
nghiệp, Mạc Cửu còn chú ý đặc biệt nguồn lợi từ biển và cảng biển mang lại. Cho nên ông
đã dồn sức lực xây dựng nơi đây thành thương cảng trung chuyển có tầm quốc tế. Chính vì
vậy, ngay từ khi đặt chân đến vùng đất Mang Khảm, Mạc Cửu đã đẩy mạnh công cuộc khai
hoang, đồng thời “ngày đêm lo chiêu tập người ở khắp hải ngoại đến buôn bán, tàu thuyền
vào ra rất nhộn nhịp, người Việt, người Đường, người Liêu, người Man đua nhau kéo đến trú
ngụ, hộ khẩu ngày một đông” [24, tr. 15].

Trên cơ sở ấy, ông lập nên 7 xã nằm ven vịnh Thái Lan, lấy phát triển kinh tế hàng
hóa làm chủ đạo, chọn Hà Tiên để xây dựng thương cảng và thực thi chính sách thu thuế
hàng hóa vừa phải để thu hút thương nhân từ bốn phương tới. Khi ấy “lãnh thổ của ông trở
thành xứ sở của tất cả những người siêng năng muốn tới đó để lập nghiệp. Hải cảng của ông
mở ra cho tất cả các nước… ông chỉ thiết lập nên một mức thuế tầm thường trên những hàng
1T 1T

hóa vào trong cảng”[81, tr. 368]. Cảng Hà Tiên phát triển một cách nhanh chóng.
1T 1T

Và đặc biệt là từ khi quy thuận chúa Nguyễn, được sự che chở, bảo bộc của chúa
Nguyễn, Mạc Cửu càng ra sức “xây thành đắp lũy, tôn tạo dinh thự, đặt các chức thuộc hạ và
lập sở Mạc thị để chiêu tập người tài”, chính thức biến vùng đất này thành quốc gia lấy
ngành kinh tế thương mại làm chủ đạo. “Hà Tiên trở thành một thủ đô nho nhỏ” [81, tr. 375].
Cho đến những năm 20 của thế kỷ XVIII, thương cảng Hà Tiên đã được các thương nhân
Châu Âu biết đến. Giáo sư Emile Gaspardone dẫn lời của viên thuyền trưởng người Anh
Alexandre Hamilton, buôn bán qua Hà Tiên năm 1720 viết về cảng Hà Tiên như sau : “Can
Cao hay là Hà Tiên, nằm ở phía Tây châu thổ Chân Lạp, là một hải cảng tuyệt hảo cho tàu
thuyền không có trọng tải quá 18 foot nước (1 foot = 0,3048m), cửa sông phía Tây của dòng
Mê Công đã đổ vào hải cảng này, những nơi đó chỉ có thể lưu thông được bằng thuyền, suốt
mùa mưa…” [81, tr. 371]

Nếu như những người Châu Âu gọi Hà Tiên là Can Cao, thì những người Trung Hoa
đã đặt cho Hà Tiên một cái tên khác, phản ánh đúng bản chất phát triển của vùng đất này hơn
– Cảng Khẩu Quốc. Nguồn tư liệu Trung Quốc Hoàng triều Văn hiến Thông khảo viết :
“Cảng khẩu ( 1) là một tiểu quốc ở miền Nam Hải. Nước này có nhiều núi cao, địa hạt khoảng
P F
0
1 P

trăm dặm vuông. Thành và các cung thất làm bằng gỗ không khác Trung Quốc mấy. Chỗ
vua (chi Mạc Cửu – nhưng Mạc Cửu chưa từng làm vua) ở xây bằng gạch ngói. Chế độ
trang phục phảng phất các vua đời trước, búi tóc, đi võng, chít khăn, đội mũ. Vua mặc áo
bào vẽ trăn rắn, lưng thắt dải đai, giày dép bằng da. Dân mặc áo vạt cổ rộng… dân xứ này
thích văn chương chữ nghĩa, sách vở thánh hiền. Xứ này có cả đền thờ đức Khổng Phu Tử,
có trường để dạy các thanh niên…Sản vật có hải sâm, cá, thịt, tôm khô.” [81, tr. 265].

Những người Pháp đến Hà Tiên truyền giáo trong thời gian này cũng đã cho chúng ta
biết thêm về nhà cửa và tín ngưỡng của cư dân ở đây như sau: “Nhà cửa ở Hà Tiên phần lớn
làm bằng tranh (Pailles), mặc dù tại Hà Tiên có nhiều đá. Dân Hà Tiên theo đạo Khổng,
ngoài ra thờ tất cả các vị nổi tiếng về đạo đức (Thánh hiền). Riêng nhà ở của họ Mạc thì
bằng đá”. [14, tr. 244]

Những đoạn miêu tả trên đã cho chúng ta thấy hình ảnh một thương cảng với đầy đủ
những hoạt động của nó. Cảng Hà Tiên khi ấy có bến cảng “tuyệt hảo” hoạt động xuyên
suốt, có nhà cửa của những người đứng đầu, của dân chúng, có phong tục tập quán, có lễ
giáo, có trường học, có hàng hóa để trao đổi buôn bán…Đó chính là thương cảng Hà Tiên
thời Mạc Cửu. Có thể nói, Mạc Cửu chính là người đã đặt nền móng đầu tiên, để cho những
người kế tục ông xây dựng Hà Tiên trở thành một thương cảng thịnh vượng bậc nhất của
Việt Nam và thế giới ở thế kỷ XVIII.

Đến thời Mạc Thiên Tứ, nối chí cha, ông càng chú ý mở mang sự nghiệp hưng thịnh
Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ được xem là người thông minh mẫn tiệp, đọc rộng kinh sử và tinh
thông võ lược. Trong Mạc thị gia phả, Vũ Thế Dinh đã miêu tả một cách trịnh trọng, bằng

(1) : Cảng Khẩu : Địa danh của Hà Tiên xưa, thông dụng trong giới người Hoa. Người Triều Châu (Phúc Kiến) phát âm là “Cản
Kháo”, do đó, người Châu Âu phiên âm thành “Cancao”. (Xem Trương Minh Đạt, nền kinh tế Hà Tiên thời Mạc Cửu, tập chí
Kinh tế hợp tác Kiên Giang, số 3, 1999).
ngôn ngữ gần gũi thân thiết rằng : “Ông là người tính khí trung nghĩa mà lương thiện, nhân
từ mà dũng lược, tài đức vẹn toàn... rộng xem kinh điển, đọc hết bách gia chư tử, không sách
nào là không xem qua…lại giỏi cả binh pháp” [24, tr. 20]. Thay cha làm Tổng binh trấn Hà
Tiên, Mạc Thiên Tứ đã được chúa Nguyễn ban cho rất nhiều đặc ân : cho 3 chiếc thuyền
long bài được miễn thuế và sai mở Cục đúc tiền để thuận tiện cho buôn bán. Sách Đại Nam
thực lục chép: “Bính thìn, năm thứ 11 (1736), lấy Mạc Thiên Tứ (con Mạc Cửu) làm đô đốc
trấn Hà Tiên. Cho 3 chiếc thuyền long bài được miễn thuế, sai xuất dương tìm mua các của
quý báu để nộp. Lại sai mở cục đúc tiền để tiện việc trao đổi.” [59, tr. 146]. Cũng từ thời của
Mạc Thiên Tứ trở đi, gia đình họ Mạc được chúa Nguyễn nâng lên hàng vương tôn ( 1). P F
1 P

Cũng cần nói thêm rằng, Hà Tiên là cơ sở đầu tiên của nhà nước được cử thuyền đi
buôn bán ở nước ngoài và là nơi xa nhất của triều đình chúa Nguyễn được nhận nhiệm vụ
đúc tiền để lưu hành. Những sự ưu ái ấy là cơ sở rất quan trọng để Hà Tiên phát triển và nó
cũng cho thấy sự sáng suốt của chúa Nguyễn trong việc nhận thức vị trí của Hà Tiên khi trao
cho họ Mạc những quyền tự trị rất lớn. Khi so sánh chính sách của chúa Nguyễn đối với họ
Mạc ở Hà Tiên và Dương Ngạn Dịch, Trần Thượng Xuyên ở Đồng Nai, giáo sư Trần Kinh
Hòa đã nói rằng : “Ở đây, chúng ta được thấy một sự đổi chiều thật hay. Dương Ngạn Địch
và Trần Thượng Xuyên suốt đời bằng lòng làm Tổng binh và Đô đốc của chúa Nguyễn,
không bao giờ lập một chính quyền tự chủ, trái lại họ Mạc ở Hà Tiên lúc nào cũng giữ được
thực quyền của một tiểu bang, tuy rằng tiểu bang này phụ thuộc của chúa Nguyễn, nhưng các
chúa Nguyễn chưa bao giờ can thiệp vào nội chính Hà Tiên cả. Không những không can
thiệp vào nội chính, lại thừa nhận nhiều đặc quyền của họ Mạc”.[31, tr. 34]

Trên cơ sở thuận lợi ấy, Mạc Thiên Tứ đã không ngừng phát triển Hà Tiên mọi mặt.
Ông tiếp tục đẩy mạnh khai thác đất đai, mở rộng cương giới lãnh thổ. Các công việc xây
dựng, mở mang phố chợ, kho tàng, thành lũy, xưởng đóng và sửa chữa tàu, cũng như xây
dựng dinh thự, đền miếu, chùa chiền...càng được chú trọng. Ông đã “chia đặt nha thuộc văn
võ, tuyển chọn binh lính, xây dựng công thự, đắp thành lũy, quy hoạch đường sá chợ búa”

(1) : Họ Mạc từ đời Mạc Cửu trở về trước vốn không có tên lót, nhưng từ đời con Mạc Cửu trở đi, dòng họ này được chúa Nguyễn
Phúc Chu (1691 – 1725) ban tặng bảy chữ để làm tên lót cho các đời nối nhau, gồm có : Thiên, Tử, Công, Hầu, Bá, Tử và Nam.
Con của Mạc Cửu vì thế con tên là Mạc Thiên Tứ, con Mạc Thiên Tứ có tên là Mạc Tử Hoàng, Mạc Tử Thượng, Mạc Tử
Dung…và tiếp nữa con của Mạc Tử Hoàng có tên là Mạc Công Bách, Mạc Công Trụ, Mạc Công Bính…Đồng thời cho phép họ
Mạc dùng Ngũ hành để đặt tên. Chính vì thế mà Mạc Thiên Tứ được đổi tên thành Mạc Thiên Tích (Tích là Kim trong Ngũ hành).
biến Hà Tiên thành một thương cảng sầm uất. “Từ đấy thuyền buôn các nước đều cập bến
ấy”.

Hơn thế nữa, không chỉ có những chính sách hợp lí để phát triển kinh tế, Mạc Thiên
Tứ còn rất khôn khéo trong quan hệ ngoại giao để mở rộng lãnh thổ Hà Tiên mà không tốn
nhiều công sức và thành quả lớn nhất là việc có được đất 5 phủ của Chân Lạp. Năm 1757, xứ
Chân Lạp có loạn, quốc vương Nặc Tôn trốn chạy sang Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ xin chúa
Nguyễn cho hộ tống hồi hương và đưa lên làm vua. Nặc Tôn cảm đức ân đó bèn cắt đất 5
phủ : Chân Sâm, Sài Mạt, Linh Quỳnh, Cần Bột, Hương Ức tặng cho Mạc Thiên Tứ. Năm
phủ này là toàn bộ vùng ven biển đảo Phú Quốc. Đây vốn là những vùng đất hoang, không
người Khmer nào sinh sống tại đây vì sình lầy và lụt lội quanh năm. Mạc Thiên Tứ đem
dâng hết cho chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765). Võ vương xác nhập tất cả các vùng
đất mới vào trấn Hà Tiên giao cho Mạc Thiên Tứ quản lí, rồi lập đạo Kiên Giang ở đất Rạch
Giá, đạo Long Xuyên ở đất Cà Mau, đều đặt quan lại cai trị, chiêu dân cư, lập thôn ấp, làm
cho địa giới Hà Tiên ngày càng thêm rộng. [59, tr. 166, 167]. Từ đây, địa vực từ Hậu Giang
ra đến biển phía Đông và phía Tây Nam đất nước đều đã thuộc về chúa Nguyễn. Bản đồ trấn
Hà Tiên và cảng thị Hà Tiên cũng được hình thành một cách rõ ràng.

Mặt khác, Mạc Thiên Tứ cũng rất chú trọng đến học vấn khi mời gọi, chiêu nạp kẻ sĩ
bốn phương đến Hà Tiên và lập Tao đàn Chiêu Anh các, đưa nền học vấn đến với người dân
Hà Tiên, khiến cho “văn phong bắt đầu rực rỡ ở góc biển”. [20, tr. 120 - 121]

Có thể thấy, với sự che chở, bảo vệ của chúa Nguyễn và qua bàn tay cai quản của Mạc
Thiên Tứ, cảng Hà Tiên ngày càng phát triển, địa giới lãnh thổ Hà Tiên ngày càng thêm rộng
lớn, văn hóa ngày càng phát triển. Hà Tiên khi ấy trở thành một trung tâm kinh tế, văn hoá
lớn của vùng đất Gia Định.

Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức đã miêu tả về trấn Hà Tiên và
thương cảng Hà Tiên như sau :

“Trấn thự Hà Tiên, tọa kiều hướng về tốn (Đông nam) lấy núi Bình Sơn làm hậu hộ,
núi Tô Châu làm tiền án. Biển lớn làm hào phía nam, Đông Hồ làm hào phía trước, ba mặt
có lũy đất, từ Dương Chử đến cửa hữu dài 112 trượng rưỡi ( 1)
P F
2
1 , từ cửa hữu đến cửa tả dài
P

(1) : Nhà Nguyễn quy định thống nhất đơn vị đo chiều dài như sau :
153 trượng rưỡi. Từ cửa tả đến Xưởng Thuyền ra Đông Hồ 308 trượng rưỡi, đều cao 4
thước dài 7 thước. Hào rộng 10 thước, ở giữa thành dựng công thự. Vọng cung lại ở trước
công thự, tả hữu đều bày quân trại. Trước sân có cầu Tân Thạch, bên tả là Quán tiếp sứ, bên
hữu là công khố. Dinh Hiệp trấn làm ở chân núi Ngũ Hổ. Ở ngoài Vọng Cung về bên tả, chợ
của trấn họp ở đây. Bên tả công thự có đền Quan Thánh. Sau thự có chùa Tam Bảo, bên tả
chùa có đền thờ Mạc công. Chợ của trấn phía đông trông xuống bến hồ, ở bên có trại cá. Ở
phía bắc kho công có miếu Hội Đồng. Phía bắc miếu có xưởng đóng thuyền. Ngang dọc
hoạch định lấy đường cái làm giới hạn. Bên tả đền Quan Đế là phố Điếu Kiều. Đầu bến có
cầu gỗ bắc qua biển sang hòn Đại Kim, chỗ bên đông phố Điếu Kiều là phố chợ cũ. Lại về
phía đông nữa là phố chợ Tổ Sư. Nơi đấy đến phố lớn, đều là Mạc Tôn trước kia kinh doanh,
đường phố ngang dọc, cửa nhà liên tiếp. Người Việt, người Tàu, người Chân Lạp, người
Chà Và theo từng loại mà hợp ở. Thuyền biển, thuyền sông đi lại như mắc cửi, là một nơi đô
hội miền biển”. [20, tr. 200, 201]

Trong một đoạn khác, Trịnh Hoài Đức cũng cho biết thêm, lỵ sở của trấn Hà Tiên có
Nam Phố. Ông viết “Nam Phố là lỵ sở Hà Tiên, tọa ngôi kiền hướng về tốn mà địa cực thì
tọa ngôi tý hướng về ngọ, cho nên gọi bến ven biển là Nam Phố” [20, tr. 69]. Trong “Hà
Tiên thập vịnh” Mạc Thiên Tứ có bài “Nam Phố trừng ba” (Bãi Nam lặng sóng). Ngoài Nam
Phố, vùng đất Hà Tiên còn có đạo Long Xuyên và đạo Kiên Giang. Đạo Long Xuyên có lỵ
sở ở phía Đông trấn thự. Bến sát ngoài biển. Xưa đất thuộc đất Chân Lạp gọi là Cà Mau.
Trước lỵ sở có phố chợ, người Kinh, người Trung Quốc, người Chân Lạp tụ tập. Thuyền
nước Xiêm cũng đến mua bán nhiều. Đạo Kiên Giang cũng nằm ở phía Đông trấn thự, là nơi
có đông người buôn bán tụ họp, sau được lập thành huyện. [20, tr. 201]

Qua những đoạn văn trên, ta thấy, trấn Hà Tiên và đô thị cảng Hà Tiên là một thể
thống nhất về đô và thị. Phần đô là trấn thành có quy mô lớn, với tòa thành có 3 cửa, có hào
thành, có Vọng Cung, dinh Hiệp trấn, công đường, trại lính, kho chứa hàng và vũ khí, nhà
tiếp sứ thần …là đại diện cho cơ quan chính quyền của chúa Nguyễn ở đất phương Nam.

1 trượng = 10 thước = 4 m;
1 ngũ (bộ) = 5 thước = 2 m;
1 thước = 10 tấc = 0,4m;
1 tấc = 10 phân = 0,04m;
1 dặm (lý) = 360 bộ = 720 m;
1 bộ (ngũ) = 5 thước = 2 m.
Phần thị có 3 ngôi chợ và phố xá liên hoàn; cầu, đường phố, đường sông, chằng chịt người
và tàu thuyền đi lại tấp nập; thị dân có người Việt, người Trung Hoa, người Khmer, người
Java (Indonesia) đều ở trong các khu đất được quy hoạch hoàn chỉnh. Cảng có bến thuyền,
kho bãi, xưởng đóng thuyền, trại cá. Khu vực tâm linh có đền, miếu, chùa…Khu trung tâm
của cảng thị được gọi là Nam Phố. Khu vực xunh quanh có đạo Long Xuyên, Kiên Giang,
Cà Mau...đều là những nơi dân họp chợ, mua bán đông đúc.

Ở vùng đất Hà Tiên lúc bấy giờ, ngoài cảng Hà Tiên, là cảng trung tâm của vùng, còn
có nhiều cảng khác tạo thành một hệ thống thương mại thông suốt. Trong Gia Định thành
thông chí, Trịnh Hoài Đức đã cho biết có các cảng sau:

Cảng Cần Bột, nằm ở phía Tây trấn thự Hà Tiên, cách trấn thự 160 dặm rưỡi, rộng 49
trượng, sâu 5 thước, có sở thủ ngự Chà Và. Trong cảng có phố chợ, là nơi tụ họp của người
Kinh, người Trung Quốc, người Chân Lạp, người Chà Và. Ở đây có công quán là nơi khách
Xiêm thường xuyên đến nghỉ ngơi; Cảng Kiên Giang (Rạch Giá), ở phía Đông trấn thự, cách
hơn 193 dặm. Cảng Kiên Giang nằm ở phía tây của đạo Kiên Giang, ở đây có phố chợ trù
mật, thuyền buôn họp đông; Cảng Đại Môn (Cửa Lớn) ở phía Đông trấn Kiên Giang, cách
26 dặm, thông với sông Kiên Giang, là nơi lưu trú của dân nghề chài lưới; Cảng Đốc Hoàng
(Ông Đốc), rộng 4 trượng, sâu 10 thước, cách đạo Long Xuyên về phía Tây 107 dặm rưỡi,
trong cảng quán xá trù mật, các thuyền buôn tụ tập đi 84 dặm đến ngã ba sông Khoa Giang,
thông chảy ra biển; Cảng Hào Ky (Ghềnh Hàu), ở phía cực đông của trần thự, phía đông đạo
Long Xuyên cách 120 dặm rưỡi, phía tây nam họp với thượng lưu cảng Bồ Đề, phía tây bắc
ra cảng Đốc Hoàng. Ở đây có nhiều ngòi lạch thông nhau, cái lợi riêng chằm dùng không
bao giờ hết. [20, tr. 70 – 72]

Có thể thấy, các cảng trên được phân bố dọc theo bờ biển từ Hà Tiên đến mũi Cà Mau,
với đặc trưng là cảng rộng, nước sâu, dân cư sinh sống đông đúc, rất thuận lợi để tàu buôn từ
bốn phương dừng chân và trao đổi mua bán hàng hóa.

Tóm lại, do nhận thức đúng đắn vị trí đặc biệt quan trọng của Hà Tiên nên từ khi thu
phục được vùng đất này, các chúa Nguyễn đã dành cho Hà Tiên một quy chế phù hợp với
đặc điểm phát triển của vùng. Hà Tiên được sự yểm trợ, giúp đỡ và bảo vệ của chính quyền
chúa Nguyễn, cùng với tài năng quản lý của Mạc Cửu và Mạc Thiên Tứ là những nhân tố
quyết định làm cho vùng đất Hà Tiên trở thành một nơi đô hội. Sự ra đời và phát triển của
thương cảng Hà Tiên gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của vùng đất Hà Tiên.
Đi trước cảng Bến Nghé – Sài Gòn một bước, cảng Hà Tiên có vai trò tiên phong trong việc
mở mang và phát triển kinh tế khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Cảng Hà Tiên đón nhận
hàng hóa sản xuất từ khắp miền châu thổ sông Hậu, sông Tiền đến bán hoặc trao đổi hàng
hóa với thương nhân nhiều nước trên thế giới. Điều này khác với các thương cảng khác,
thường là phát triển ở các vùng xung quanh sau đó tụ lại ở một địa điểm phát triển nhất. Âu
đây cũng là điều đặc biệt của thương cảng Hà Tiên.

2.2. CÁC HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI CỦA THƯƠNG CẢNG HÀ TIÊN.

2.2.1. Hoạt động buôn bán trong nước.

Như trên đã trình bày, với sự phong phú về tài nguyên thiên nhiên và nhiều sản phẩm
được làm ra, đã tạo nên các hoạt động kinh tế hàng hóa nhộn nhịp của vùng đất Hà Tiên.
Trước khi Mạc Cửu đến phủ Sài Mạt thì ở đó đã “có người Kinh, người Trung Quốc, người
Chân Lạp và người Chà Và buôn bán đông đúc” [61, tr. 201]. Điều này cho thấy, từ rất sớm
kinh tế chủ yếu ở đây đã là kinh tế thương nghiệp, mua bán, trao đổi hàng hóa, bên cạnh nền
kinh tế nông nghiệp vẫn được duy trì.

Vốn là một thương nhân và chính vì thấy Sài Mạt có nhiều điều kiện để phát triển kinh
tế hàng hóa nên Mạc Cửu đã chọn vùng đất này làm nơi định cư lâu dài. Khi mới đến, ông
đã đứng ra thu mua hàng hóa trong nhân dân và bán lại cho các lái buôn người nước ngoài.
Ông còn mở các sòng bạc để thu thuế hoa chi. Và với việc ông lập 7 xã nằm dọc theo ven
biển vịnh Thái Lan là cở sở cho sự ra đời của các chợ sau này. Bởi vì, đất đai ở đây không
thuận lợi cho kinh tế nông nghiệp, mặc dù Mạc Cửu cũng có chính sách để phát triển, nên
hoạt động kinh tế chủ đạo ở đấy là trao đổi mua bán hàng hóa, hay nói cách khác chỉ có thể
phát triển kinh tế thương nghiệp. Chúng ta có thể hiểu, 7 xã ấy chính là những nơi tiếp nhận
và trao đổi hàng hóa từ khắp nơi đến, cả trong nước và ngoài nước.

Cho đến thế kỷ XIX, các sử gia triều Nguyễn còn ghi lại trong Đại Nam nhất thống chí
các hệ thống chợ của Hà Tiên hoạt động tương đối nhộn nhịp như : chợ Mỹ Đức ở huyện Hà
Châu có quán xá liên tiếp, người Kinh, người Trung Quốc thường hay tụ họp; chợ Sái Phu ở
huyện Kiên Giang, tục gọi là chợ Rạch Giá, phố xá đông đúc, thuyền buôn tấp nập; chợ
Hoàng Giang ở huyện Long Xuyên, phố xá trù mật, thuyền buôn tụ họp và đặc biệt là chợ
Sân Chim (Sở điểu đình) “ở địa phận thôn Đông An và Vĩnh Hòa huyện Kiên Giang, có một
sở sân chim, chim biển tụ họp hàng ngàn, hàng vạn, hàng năm đến kỳ sinh đẻ, các nghiệp hộ
lĩnh trưng, gọi là “thuế sân chim”, họ lấy cánh và lông chim bán cho lái buôn Trung Quốc”
[61, tr. 27].

Cũng theo Đại Nam nhất thống chí cho biết ở Nam Bộ có 93 chợ với qui mô lớn nhỏ,
phân bố như sau : tỉnh Gia Định có 12 chợ; tỉnh An Giang có 12 chợ, tỉnh Vĩnh Long có 19
chợ; tỉnh Định Tường có 17 chợ, tỉnh Biên Hòa có 19 chợ và tỉnh Hà Tiên có 14 chợ. [61]

Các chợ Mỹ Đức, chợ Hoàng Giang và chợ Rạch Giá chính là những chợ trung tâm
của Hà Tiên.

Chợ Rạch Giá ban đầu chỉ là một chợ nhỏ ven một con rạch nhỏ tên là Rạch Giá. Con
rạch này có lạch sâu ăn thông với rạch Lạc Dục, thông ra sông Hậu vào mùa nước lớn. Gần
Rạch Giá có vàm sông Cái Bé và Cái Lớn là hai con sông lớn nhất trong vùng Tây sông Hậu.
Ở lưu vực của nó có nhiều sản vật thiên nhiên như chim, sáp ong, lâm sản. Vàm Rạch Giá
trở thành bến cảng Kiên Giang. Cảng Kiên Giang, chợ Rạch Giá vươn dần lên thành trung
tâm thương nghiệp.

Ngoài con đường buôn bán theo kinh Thoại Hà mà tụ điểm của nó là chợ Rạch Giá
còn phải kể đến con đường buôn bán trên kinh Vĩnh Tế với tụ điểm là chợ Mỹ Đức và tuyến
đường cận hải hành ven vịnh Thái Lan gồm có các chợ Gành Hào, chợ Rạch Giá, chợ Hòn
Chông, chợ Mỹ Đức.

Trong hệ thống các chợ trên, hàng hóa được trao đổi, buôn bán rất phong phú và đa
dạng, với nhiều chủng loại. Có thể thấy, đó là sáp trắng (sáp ong), lông chim… là những thứ
có rất nhiều và dễ kiếm; các mặt hàng lâm sản (các loại gỗ), hải sản (tôm, cua, cá, muối…)
vốn rất dồi dào, sẵn có trong tự nhiên; đến các mặt hàng thủ công (đồ đan lát, đồ mỹ nghệ...)
phục vụ thiết thực cho cuộc sống hàng ngày. v.v. Người dân thường đem những thứ hàng
hóa mình kiếm được trong tự nhiên hoặc tự làm ra đến chợ để trao đổi mua bán và mang về
những nhu yếu phẩm cần thiết cho gia đình. Cứ như thế, các chợ hoạt động tấp nập và đều
đặn từ ngày này qua tháng khác. Hệ thống các chợ từ làng, xã, huyện đến tỉnh hoạt động
nhộn nhịp là một điểm rất đặc biệt trong nền thương mại Việt Nam.
Sự phong phú về các chợ với một hệ thống liên hoàn và sự đa dạng về hàng hóa được
trao đổi buôn bán là những minh chứng rất cụ thể về sự sung túc của cảng thị Hà Tiên. Điều
đặc biệt hơn nữa là, cảng thị Hà Tiên không chỉ trao đổi mua bán trong địa phận trấn Hà Tiên
mà hoạt động kinh tế còn được phát triển ra toàn Đàng Trong, vươn ra Đàng Ngoài và cả
nước.

Trong quan hệ kinh tế với Đàng Trong, mà cụ thể là Biên Hòa – Gia Định, cảng thị Hà
Tiên đã có nhiều hoạt động tích cực. Mặc dù, hiện nay chúng ta chưa có số liệu cụ thể để làm
rõ mối quan hệ buôn bán này nhưng theo nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt, có hai việc
chứng tỏ Mạc Cửu liên hệ mua bán, trao đổi với trung tâm thương mại Biên Hòa – Gia Định.
Một là, Mạc Cửu cưới vợ người Biên Hòa, bà Bùi Thị Lẫm ở Đồng Môn (tức là Hóc Môn,
cửa ngõ đi vào Sài Gòn – Gia Định). Chúng ta nhìn sự việc này dưới gốc độ kinh tế, có thể
thấy hai họ (Mạc và Bùi) là hai đối tác thương mại, ít ra là hai đầu mối giao thương về lúa
gạo. Hai là, chính mối quan hệ này, nên Mạc Cửu đã có dịp đi lại Biên Hòa nhiều lần, tạo
điều kiện cho ông kết làm sui gia với Trần Thượng Xuyên và gả con gái cho con trai họ Trần
là Trần Đại Định. Chính họ Trần cũng có vai trò mở mang lãnh đạo kinh tế đất Biên Hòa –
Gia Định. Hai ông có thể liên kết thị trường lúa gạo miền Đông và miền Tây. “Rất có thể, từ
những giao thiệp bước đầu với thị trường vùng Đồng Nai – Gia Định, Mạc Cửu ngày một
mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa của mình, thu hút ngày một đông di dân Nam Hà đến
trấn Hà Tiên. Bởi vì, ở Hà Tiên quy chế thông thoáng, thuế khóa nhẹ, ưu đãi cho người sản
xuất. Như thế, ta không lấy làm lạ về kết quả rực rỡ, Hà Tiên trở thành cảng khẩu phồn thịnh
nhất thời đó”. [16, tr. 13]

Đến thời Mạc Thiên Tứ, cảng Hà Tiên còn mở rộng buôn bán với Đàng Ngoài qua
một số cảng trung tâm như Hội An. Thời bấy giờ, các chúa Nguyễn cũng đã tổ chức ra đội
thuyền đi biển để khai thác các đảo xa như đội Hoàng Sa gồm 70 suất có nhiệm vụ thu nhặt
sản vật ở Trường Sa và hóa vật của tàu thuyền bị đắm và trôi dạt vào đảo; đội Hải Môn khai
thác đảo Phú Quý (Bình Thuận) và đặc biệt là đội “Bắc Hải” để thu lượm sản vật trên các
đảo thuộc sự kiểm soát của Đàng Trong, trong đó có Hà Tiên. Có thể nói, những đội thuyền
đi biển này đã có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động trau đổi buôn bán giữa
Đàng Trong, trong đó có Hà Tiên với Đàng Ngoài.
Mặc khác, như chúng ta đã biết, khi nhận chức Đô đốc trấn Hà Tiên, Mạc Thiên Tứ đã
được chúa Nguyễn Phúc Chu cấp cho 3 chiếc thuyền buôn mang long bài được miễn thuế.
Đây chính là điều kiện thuận lợi để Mạc Thiên Tứ mở rộng việc buôn bán ra Đàng Ngoài. Lê
Quý Đôn cũng cho biết thêm rằng, ngoài 3 chiếc thuyền mang long bài được miễn thuế, khi
thuyền từ Hà Tiên đến buôn bán với Hội An, thương cảng lớn nhất của Đàng Ngoài, cũng
chỉ phải nộp một mức thuế rất nhẹ. Cụ thể, các thuyền buôn từ Hà Tiên đến Hội An chỉ phải
chịu “thuế đến là 300 quan, thuế về là 30 quan” [19, tr. 53]. Nếu so với thuyền đến từ các
nước phương Tây phải chịu mức thuế đến là 8000 quan, thuế về là 800 quan, thuyền đến từ
Quảng Đông phải chịu thuế đến là 3000 quan, thuế về là 300, thuyền đến từ Xiêm La, Lữ
Tống phải chịu thuế tương ứng là thuế đến 2000 quan, thuế về 500 quan và 200 quan…thì
thuế mà Hà Tiên phải đóng là rất thấp. Đó là sự thể hiện chính sách ưu ái của chúa Nguyễn
trong mối thâm giao với vùng đất Hà Tiên.

Sự ưu ái đó còn được thể hiện rõ hơn, khi chúa Nguyễn đã ban cho Mạc Thiên Tứ đặc
ân được mở Cục đúc tiền. Lưu thông tiền tệ chính là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển
của ngành giao thương. Và việc tiền được đúc tại Hà Tiên đã cho thấy sự phát triển mạnh mẽ
về kinh tế của vùng đất này.

Lúc bấy giờ, Đàng Ngoài đúc tiền theo niên hiệu vua Lê, còn Đàng Trong các chúa
Nguyễn muốn khuếch trương thế lực đẩy mạnh giao thương với nước ngoài đã cho đúc nhiều
loại tiền khác nhau. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Tăng Khôi ( 1)
P F
3
1 tiền Mạc Thiên Tứ đúc có
P

nhiều tên gọi khác nhau như: “An Pháp nguyên bảo”, “Thái Bình thánh bảo”, “Thánh
Nguyên thông bảo”. Hiện nay Bảo tàng Kiên Giang đang bảo quản và giới thiệu bộ sưu tập
tiền cổ do Mạc Thiên Tứ đúc tại Hà Tiên vào năm 1736. Chúng được làm từ kẽm và hợp kim
kẽm – đồng, đường kính từ 2 – 2,1 cm, có hình tròn, dẹp. Chữ Hán và khuôn hình viền
quanh đồng tiền đúc nổi. Chính giữa có một lỗ vuông xâu dây [4, tr. 14]. Theo Lê Quý Đôn
thì dòng họ Mạc ở Hà Tiên đã đúc trên 30 triệu tiền. Có hiệu đúc ít, có hiệu đúc nhiều. Tiền
của họ Mạc lưu hành khắp nước ta.

Với việc một số lượng khá lớn đồng tiền được đúc tại Hà Tiên và được lưu hành khắp
nước ta thời bấy giờ, ngoài việc một lần nữa khẳng định, chúa Nguyễn đã xem Hà Tiên là
một bộ phận thiêng liêng của chính quyền Đàng Trong, còn cho thấy sự tự chủ trong phát

(1) : Bảo tàng Mỹ thuật cung đình Huế


triển kinh tế của Hà Tiên, với vai trò là nơi trung chuyển, lưu thông hàng hóa quan trọng của
cả nước. Đồng thời, đó là biểu hiện sinh động nhất của sự phát triển về kinh tế.

Có thể nói, hoạt động buôn bán trong nước của cảng Hà Tiên là rất nhộn nhịp. Sự sôi
động ấy đã được ghi nhận trong hồi ký của những người nước ngoài đến Hà Tiên và cả
những hoạt động tích cực của thương nhân Hà Tiên. Năm 1743, vị Giám mục người Pháp tên
là Armand Fracois Lefèvere đến Hà Tiên đã viết rằng “Hải cảng của ông (Mạc Thiên Tứ) đã
có một số tàu người Nam Việt Nam qua lại, đến đó để mua gạo, sáp ong, ngà voi và một số
mặt hàng khác”. [81, tr. 370] Điều đó cho thấy, cảng Hà Tiên đã được các thương nhân trong
nước biết đến và các hoạt động giao lưu buôn bán đã diễn ra. Các loại hàng hóa như gạo, sáp
ong, ngà voi… là những mặt hàng chủ lực của Hà Tiên lúc bây giờ. Thương nhân trong
nước, nhất là thương nhân Đàng Trong đã coi những kho hàng hóa dồi dào của Hà Tiên
chính “là một nguồn đảm bảo chống lại những nạn đói”.

Hơn thế nữa, cảng Hà Tiên không chỉ rộng cửa chào đón các thuyền buôn đến mà còn
chủ động tìm đến các hải cảng khác trong nước để giao lưu buôn bán. Năm 1747, một trong
3 chiếc thuyền buôn mang long bài của Hà Tiên đã vượt biển, mang nhiều hàng hóa quý
hiếm đến Kinh đô Phú Xuân tiến dâng chúa Nguyễn và tiến hành các hoạt động trao đổi
buôn bán. Chiếc tàu này, với nhiều đặc quyền chắc hẳn đã ghé qua cảng Đà Nẵng – cảng lớn
bậc nhất của nước ta khi ấy. Và lẽ dĩ nhiên, mối quan hệ buôn bán giữa Hà Tiên với Đà Nẵng
cũng đã được hình thành.

Như vậy, cảng thị Hà Tiên đã thiết lập được một hệ thống buôn bán thông suốt từ Hà
Tiên đến Biên Hòa – Gia Định và ra đến Hội An. Mối quan hệ buôn bán giữa các trung tâm
kinh tế lớn là minh chứng cụ thể nhất về một nền thương mại sầm uất của Hà Tiên nói riêng
và cả nước nói chung trong suốt thế kỷ XVIII. Và đặc biệt là, cảng thị Hà Tiên không dựng
lại ở việc buôn bán trong nước mà còn vươn xa ra nước ngoài, giong buồm, vượt biển đến
các nước láng giềng như Trung Quốc, các nước Đông Nam Á, Nhật Bản và giao lưu với cả
các thuyền buôn đến từ phương Tây xa xôi. Để rồi từ một thương cảng nhỏ, Hà Tiên trở
thành một thương cảng có tầm vóc quốc tế, giữ vai trò quan trọng trong nền thương mại thế
giới ở thế kỷ XVIII.
2.2.2. Giao lưu thương mại với nước ngoài.

Thương cảng Hà Tiên là một mắt xích quan trọng ở phía đông vịnh Thái Lan, trên
tuyến hàng hải thương mại châu Á qua vịnh Thái Lan, men theo bờ biển Đông Việt Nam lên
T
2 T
2 T
2 T
2

Quảng Châu, Trung Quốc hay Luzon (Lữ Tống - Philippin). Thời kỳ Mạc Cửu và Mạc Thiên
2T T
2 2T 2T T
2 T
2

Tứ, chính sách bang giao quốc tế của Hà Tiên rất thực tế và đặt căn bản trên tự do doanh
thương và trọng thương, do vậy đã hấp dẫn được các thương nhân trong nước và quốc tế. Sự
sầm uất của cảng Hà Tiên đã được các thương nhân Anh, Pháp, Bồ Đào Nha… ghi nhận
trong hồi ký của mình.

Là nhà quản lý giàu bản lĩnh, Mạc Thiên Tứ mở cảng cho tàu buôn nước ngoài buôn
bán tự do. Hà Tiên lúc đó được gọi là “Tiểu Quảng Châu”, là điểm đến của các đoàn thương
thuyền từ bán đảo Mã Lai, Sumatra, Java, Xiêm, Ấn Độ, Miến Điện, Phúc Kiến, Quảng
2T 2T T
2 T
2 T
2 T
2 T
2 T
2

Đông, Hải Nam,... Họ đến mua hải sâm, cá, tôm khô, đỉa biển, sáp, mật ong, gạo, lông
chim…Để khuyến khích thương nhân đến mua bán, vào các dịp sinh nhật Mạc Thiên Tứ
(ngày 7/3 âm lịch), các thuyền buôn được phép vào cảng Hà Tiên miễn thuế. Ngược lại, các
thương nhân, nhất là người Hoa, họ lại mang quà biếu tặng quan lại địa phương để kết chặt
tình giao thương. Những tàu buôn người Việt từ Ngũ Quảng tới mua gạo, sáp ong, ngà voi
và các mặt hàng khác. Đồng thời, họ mang đến hàng tơ lụa, đường mía, đường phèn…Người
Mã Lai đến mua gạo, hàng vải và bán cau…

Không chỉ mở rộng cửa chào đón các thương gia đến từ nhiều nước trên thế giới bằng
nhiều chính sách ưu đãi, họ Mạc còn chủ động thành lập các đội thương thuyền để ra nước
ngoài buôn bán. Lịch sử đã ghi nhận, rất nhiều lần các đội thuyền buôn của họ Mạc đã giong
buồm đi khắp nơi trên thế giới.

Vào năm 1728 và 1729, hai đội thuyền buôn của cảng Hà Tiên do Lưu Vệ Quân và
Quỳnh Tập Quan chỉ huy đã được Mạc Cửu cử sang Nhật giao lưu buôn bán và được chính
phủ Nhật là Mạc Phủ Đức Xuyên cấp giấy phép giao thương. Cũng năm 1729, một đội
thuyền buôn khác của Hà Tiên cũng được phái sang Trung Quốc buôn bán, bắt đầu mối quan
hệ giao thương giữa Cảng Khẩu (Hà Tiên) và Trung Quốc. “Vào năm Ung Chính thứ 7
(1729), một đường thương mại giữa xứ này với Quảng Đông đã được thiết lập dài cả 7.200
lý đường bể”. [81, tr. 265] Sử sách Trung Quốc thời nhà Thanh chép từ đời Ung Chính
(1723 – 1735) rằng các sản phẩm ở Hà Tiên như : lúa gạo, hải sâm, đồi mồi, thịt bò khô, ngà
voi…đã xuất khẩu qua Trung Quốc. Lúa gạo Hà Tiên cũng từng xuất qua nhiều nước Đông
Nam Á như Chân Lạp, Xiêm, Singapo. [72, tr. 22]. Đến năm 1731 và 1732, hai chiếc thuyền
buôn khác của cảng Hà Tiên lại giong buồm vượt biển sang Nhật Bản buôn bán nhưng gặp
thời tiết không thuận lợi, hai chiếc thuyền sau chỉ tới tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc).

Thời Mạc Thiên Tứ, nhiều tàu buôn khác của Hà Tiên cũng đã giong buồm ra khơi.
Chúng ta biết rằng, khi nhận chức Đô đốc trấn Hà Tiên vào năm 1736, Thiên Tứ đã được
chúa Nguyễn Phúc Chú ban cho ba chiến thuyền long bài, miễn cho lệ thuế thuyền buôn, với
nhiệm vụ “hàng năm ra nước ngoài mua đồ vật quý đến Kinh dâng tiến” [20, tr. 120]. Thực
hiện nhiệm vụ ấy, trong hai năm 1740 và 1742, hai chiếc thuyền buôn của cảng Hà Tiên do
Ngô Chiên Viên và Lâm Thiên Trường chỉ huy đã được Mạc Thiên Tứ cử sang đảo Nagasaki
của Nhật Bản để giao thương buôn bán. [31, tr. 33 - 34].

Trong các thương thuyền ấy, hàng hóa buôn bán rất phong phú. Theo thương nhân
người Anh là Bowyear thì vào thế kỷ XVII, thuyền buôn từ Đông Nam Á thường đem đến
Đàng Trong nhiều hàng hóa : “Từ Siam : lá trầu không, gỗ đỏ (dùng để nhuộm vải), sơn, xà
cừ, ngà voi, thiếc, chì, gạo; Từ Camphuchia : thư hoàng (dùng làm thuốc vẽ), cánh kiến
trắng, sa nhân, sáp, sơn, xà cừ, gỗ đỏ, nhựa thông, da trâu, da và gân hươu, ngà voi, sừng
tê.v.v.; Từ Batavia : bạc, bạch đàn, trâu không, vải cát bá đỏ và trắng, thuốc màu đỏ; Từ
Mani : bạc, diêm xinh, gỗ đỏ, vỏ sò, thuốc hút, sáp, gân hươu. Còn Đàng Trong bán ra :
vàng, sắt, tơ và hàng hóa như : lĩnh, lụa, kỳ nam, trầm hương, đường, đường phèn, yến sào,
hạt tiêu, bông…” [37, tr. 41]. Sách Đại Nam nhất thống chí cũng viết : Hàng hóa ở Hà Tiên
“có vải lụa, mai, đồi mồi, huyền bách, sáp ong, mật ong, chiếu hoa, tốc hương, hồ tiêu, yến
sào, hải sâm, bóng cá, vây cá, nước mắm” [61, tr. 33]. Trong các loại hàng hóa đó, huyền
phách được xem là một loại hàng hóa rất quý. Lê Quý Đôn đã viết trong Phủ biên tạp lục
T
2 T
2

rằng: "Huyền phách có nhiều ở trấn Hà Tiên, trông giống khối đồng nhưng màu đen như sắt.
Người ta nói đeo huyền phách vào mình thì có thể trừ được gió độc, rất tiện làm chuỗi tràng
hạt." [19, tr. 238] Thuyền buôn Trung Quốc, Xiêm, Mã Lai nhập về rất nhiều loại hàng này.

Bên cạnh đó, hải sâm và bong bóng cá cũng là những mặt hàng rất được ưa chuộng
thời bấy giờ. Trong sách Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức cũng cho biết thêm:
“Thuyền Quỳnh Châu ở Quảng Đông thường đến đậu ở hải đảo để mua hải sâm và bong
bóng cá, lẫn với dân ta, buồm thuyền liền nhau” [20, tr. 69]. Số hàng hóa được chở trên
chiến thuyền long bài mà Mạc Thiên Tứ đem dâng chúa Nguyễn năm 1747 cũng cho ta thấy
sự đa dạng về hàng hóa có mặt ở Hà Tiên lúc bấy giờ “ngọc thủy toản chiếu, ngọc hỏa toản
chiếu mỗi thứ một viên ngọc, hạc đính 20 viên, một con gà tây, một con chó tây, chim anh
vũ năm sắc mỗi sắc một con, vải tây, chiếu hoa bằng cỏ khô, chiếu hoa mây…” [20, tr. 121].
Một thương nhân người Anh là A. Hamilton khi đến Hà Tiên đã thừa nhận rằng hàng hóa ở
Hà Tiên vô cùng phong phú. Trong một đoạn ghi chép ông cho biết : năm 1720, khi quân
Xiêm đánh phá Hà Tiên “Hải quân của họ… khi đến Ponteamas, đã đưa những đội quân nhỏ
để cướp phá và đốt thành phố,…và nội chỉ tính ngà voi, họ đốt cũng cả trên 200 tấn. Những
chiếc tàu, và những chiếc thuyền của họ (quân Xiêm) chứa đầy đồ vật cướp được, nằm dài
trên đường, cách xa thành phố cả 4 dặm đường…” [81, tr. 372]. Ngà voi, vốn là sản phẩm
được người Việt mang về từ đất bạn Lào và đây là một hàng hóa rất được các thương nhân,
nhất là thương nhân Châu Âu ưu chuộng.

Như vậy, chúng ta thấy trong hoạt động trao đổi buôn bán của cảng Hà Tiên nói riêng
và ở Đàng Trong nói chung thì hàng hòa được bán ra là : các loại nông sản như lúa gạo,
đường, bông, hạt tiêu…; các loại hải sản như đồi mồi, hải sâm, cá biển, tổ yến, nước mắm
…; các loại lâm sản với nhiều loại gỗ quý như gỗ kiền kiền, gỗ sao, gỗ tếch…là những sản
phẩm có rất nhiều ở Hà Tiên và cả các sản phẩm được người Việt mang về từ Chân Lạp, Lào
như ngà voi, xà cừ, vàng...Còn các mặt hàng nhập khẩu cũng rất đa dạng, có thể kể như các
loại nguyên liệu dùng trong việc dệt vải, làm giấy, thuốc màu, đồ trang sức…Đặc biệt, vũ
khí cũng là một mặt hàng được buôn bán ở Hà Tiên. Lời miêu tả của giáo sư Emile
Gaspardone về chính sách bảo vệ Hà Tiên thời Mạc Cửu cho ta thấy thực tế này : “không
bao lâu, những lợi nhuận từ thương mại đặt ông trong tình trạng xây dựng lên những thành
lũy, đào các hầm hố, và cung cấp cho mình súng đại pháo.”[81, tr. 368] Rất có thể, Mạc Cửu,
rồi Mạc Thiên Tứ để bảo vệ Hà Tiên trước sự quấy nhiễu của cướp biển và đặc biệt là chống
lại các cuộc xâm lược của quân Xiêm đã phải mua nhiều vũ khí từ các lái buôn Châu Âu.

Với sự phong phú về hàng hóa và các hoạt động buôn bán diễn ra tấp nập đã đem đến
sự giàu có cho Hà Tiên. Và lại chính sự nhộn nhịp ấy đã tạo ra cho cảng Hà Tiên sức hấp dẫn
lớn lao mà các thương gia không thể cưỡng lại được. Cảng Hà Tiên thời Mạc Thiên Tứ
không chỉ là nơi dung thân lý tưởng cho những lưu dân tha hương mong muốn tìm cuộc sống
bình yên mới mà còn là nơi lui tới thường xuyên của thương nhân muốn làm giàu đến từ
nhiều nước trên thế giới như: Chân Lạp, Mã Lai, Xiêm, Trung Quốc, Nhật Bản, Bồ Đào
Nha... Có nhiều nguyên nhân lí giải cho sự phát triển của Hà Tiên, nhưng theo Mạc thị gia
phả thì sự sầm uất của Hà Tiên khi ấy là kết quả của nhiều yếu tố: thiên thời - địa lợi - nhân
hoà, nhưng căn bản nhất vẫn là nhân hoà. Mạc Thiên Tứ đã áp dụng ở nơi đây một chính
sách thuế nhẹ nhàng, khôn khéo nên thu được khách thương bốn phương tụ hội về.

Trong suốt thế kỷ XVIII, các hoạt động ngoại thương của cảng Hà Tiên diễn ra rất
nhộn nhịp. Cảng Hà Tiên không chỉ đón nhận các thương gia trong khu vực Đông Nam Á,
Trung Quốc, Ấn Độ mà cả các nước phương Tây xa xôi. Có thể nói, ngành thương mại đã
đóng vai trò làm hưng thịnh Hà Tiên, trước khi “quyền lực thương mại” của Hà Tiên chuyển
giao cho cảng Bến Nghé – Sài Gòn gần một thế kỷ sau.

Với các hoạt động buôn bán nhộn nhịp, cảng Hà Tiên đã có vị thế rất quan trọng trong
nền ngoại thương Việt Nam và con đường buôn bán Đông – Tây thời bấy giờ. Cảng Hà Tiên
vừa đóng vai trò vừa là nơi phân phối hàng hóa, vừa là trạm dừng chân cho những chuyến
hải hành dài ngày.

Hoạt động thương mại của Việt Nam được hình thành và phát triển từ khá sớm và thế
kỷ XVII – XVIII, có thể được xem là thời kỳ hoàng kim của hoạt động thương mại Việt
Nam phong kiến. Thời kỳ này, trên đất nước ta xuất hiện một lực lượng khá đông các kiều
dân Trung Quốc, Nhật Bản định cư lâu dài và hoạt động buôn bán là chủ yếu.

Từ thế kỷ XVI – XVII, thương nhân phương Tây cũng lần lượt đến buôn bán và lập
thương điếm (cơ sở đại diện thương mại) ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài. Thương nhân
phương Tây thường mua hàng từ nước này sang nước khác để bán lại kiếm lãi. Họ bán các
thứ hàng hóa như bạc, vũ khí của Nhật; tơ lụa, thuốc bắc, đồ sứ của Trung Quốc; len, dạ,
súng đại bác, pha lê, thủy tinh và một số sản phẩm khác của nền công nghiệp phương Tây.
Họ mua của Việt Nam sản phẩm thủ công nghiệp như đồ sứ, tơ lụa, đường mía và các loại
lâm thổ sản.

Sự thông thương buôn bán với nước ngoài, nhất là các nước phương Tây, đã bước đầu
đưa đất nước ta tiếp xúc với luồng thương mại quốc tế đang phát triển, góp phần mở rộng thị
trường trong nước và thúc đẩy sự hưng thịnh của các đô thị.
Ở Việt Nam thế kỷ XVII – XVIII, hàng loạt đô thị đã xuất hiện và phát triển phồn
vinh. Ở Đàng Ngoài có Thăng Long, Phố Hiến, đúng như câu “Thứ nhất Kinh kì, thứ nhì
Phố Hiến”, còn ở Đàng Trong xuất hiện khá nhiều đô thị sầm uất như : Thanh Hà (Huế), Hà
Tiên, Hội An… Trong đó, Hội An là trung tâm trao đổi, buôn bán của cả vùng Đàng Trong,
là một thương cảng quốc tế nằm trên con đường thương mại Biển Đông từ Đông sang Tây,
từ Nam lên Bắc. Còn Hà Tiên là trung tâm thương mại quan trọng của vùng đất biên viễn tận
cùng Tây Nam Đàng Trong và cả của khu vực Đông Nam Á, trước khi thương cảng Sài Gòn
chính thức ra đời vào năm 1862.

Trong nền thương mại Việt Nam, Hà Tiên đóng vai trò là trạm đầu mối thương mại
cuối cùng của Đàng Trong, là điểm dừng chân lí tưởng cho thương nhân đến từ khắp các địa
phương trong cả nước. Với vị trí địa lí thuận lợi, sự giàu có về tài nguyên và sự trù phú trong
giao thương đã đưa cảng Hà Tiên là cảng lớn nhất ở Đàng Trong suốt thế kỷ XVIII. Ra đời
trước cảng Sài Gòn hơn một thế kỷ, hoạt động nhộn nhịp suốt từ Nam ra Bắc, vai trò to lớn
của cảng Hà Tiên trong nền thương mại Việt Nam là không thể phủ nhận được. Đúng như
Emile Gaspardone đã nói : Thời Mạc Thiên Tứ, cảng Hà Tiên “là bến đỗ cực nam lớn nhất
của những trung tâm sinh sống của người Trung Hoa” [81, tr. 370].

Trong nền thương mại thế giới, Hà Tiên là cảng trung chuyển hàng hóa không thể bỏ
qua của thương nhân Đông Nam Á và một số thương nhân phương Tây trên hành trình buôn
bán Đông – Tây của con đường tơ lụa trên biển. Vào thế kỷ XVIII, những thương nhân
người Trung Hoa và Châu Âu đã viết về cảng Hà Tiên với những lời đầy trân trọng.

Một tài liệu Trung Hoa đã viết về thương cảng Hà Tiên ở thế kỷ XVIII như sau : “Hà
Tiên ngày hôm nay là cảng về hướng tây của Nam Bộ Việt Nam, nằm êm đềm dưới ánh nắng
mặt trời, trên cái vịnh của nó không sâu lắm. Cả một thế kỷ nay, Hà Tiên vẫn đang còn sống.
Vào thế kỷ thứ XVIII, Hà Tiên phồn thịnh một thời có tiếng vang tận bên Trung Hoa và ngay
cả tới Châu Âu. Những tuyển tập lớn Trung hoa hướng về phía tây khi đó đã có ghi chép về
Hà Tiên. Những tuyển tập này làm rõ nét về Hà Tiên bằng hai tính chất, nhạy cảm bên
Trung Hoa và bây giờ vẫn còn giá trị : một nền thương mại tích cực và sự quan tâm đến văn
chương.” [81, tr. 363] Những dòng ghi chép này cho chúng ta biết, những thương nhân
Trung Hoa đánh giá rất cao vị thế của cảng Hà Tiên lúc ấy và vai trò của nó là đều không cần
bàn cãi.
Hà Tiên phát triển một phần bởi vì nó có tiềm năng và thế mạnh để phồn thịnh và còn
vì nó có những người lãnh đạo tài ba, biết phát huy lợi thế của nó, tạo danh tiếng cho nó
trong nền thương mại quốc tế. Cảng Hà Tiên không chỉ buôn bán trong lãnh thổ “cảng khẩu”
Hà Tiên, mà còn cả khu vực Đàng Trong, vươn ra Đàng Ngoài và cả nước. Hơn thế nữa,
cảng Hà Tiên còn hướng đến nước láng giềng Trung Hoa, đến các nước Đông Nam Á, sang
tận Nhật Bản và đến cả phương Tây xa xôi. Ngay từ trước khi Mạc Cửu đến lập nghiệp, hoạt
động buôn bán của vùng đất Hà Tiên đã khá phát triển và sớm có mối quan hệ với bên ngoài.
Giáo sư Emile Gaspardone cho biết từ xa xưa Hà Tiên đã làm điểm buôn bán lớn lao của
người Bồ Đào Nha và “là một hải cảng thương nghiệp kỳ cựu của người Tây Ban Nha” [81,
tr. 369, 372].

Năm 1720, một thương nhân người Anh là Alexandre Hamilton đến Hà Tiên buôn bán
đã dành cho Hà Tiên những lời nhận xét đầy hảo ý: “…Ponteamass (Hà Tiên – theo cách gọi
của người Châu Âu thế kỷ XVIII), đó là một nơi đẹp, thuận tiện cho việc mua bán trong
nhiều năm, có một điểm thuận tiện là có dòng sông hẹp mà sâu (sông Giang Thành), trong
mùa mưa có gió mùa Tây Nam, giao lưu với Bausack hay con sông Cambodia (sông Mê
Công), khiến nó lôi cuốn được nền ngoại thương từ kinh đô của Chân Lạp (Kinh đô Uđông)
đến đó… người nước ngoài đến mua bán đã chọn nơi đến là Ponteamas, nên nơi này trở
thành phồn thịnh”. [81, tr. 371]

Chính sự phồn thịnh ấy đã làm cho vai trò của Hà Tiên ngày càng quan trọng. Cảng
Hà Tiên không chỉ là điểm đến hấp dẫn của thương nhân từ bốn phương đến để làm giàu bởi
sự phong phú của hàng hóa và những mối lợi lớn do nó mang lại, mà Hà Tiên thời đó như
một kho thóc dồi dào nhất ở phần phía đông Châu Á, là nơi đảm bảo sự sống cho phần lớn
các dân tộc. Người Mã Lai, người Việt Nam, người Xiêm La đều trông cậy vào hải cảng này
như một nguồn tài nguyên đảm bảo chống sự đói nghèo. “Các dân ... ở vùng xung quanh...
đến tìm kiếm thực phẩm trong các kho hàng của Ponthiamas (Hà Tiên). Mảnh đất nhỏ bé
này...được nhìn như là kho thóc dồi dào nhất trong cái phần ở hướng đông này của Châu Á.
Những người Mã Lai, những người Nam bộ, và ngay cả nước Siam... nhìn cái hải cảng này
như là một nguồn bảo đảm chống lại những nạn đói" [81, tr. 368].

Qua những lời nhận xét trên, có thể thấy thương cảng Hà Tiên không chỉ ảnh hưởng
lớn đến nền thương mại trong nước mà còn có vai trò to lớn trong nền thương mại thế giới.
Khi ấy, cảng Hà Tiên là trạm trung chuyển hàng hóa, là cầu nối đảm bảo sự hoạt động nhộn
nhịp, thông suốt của nền thương mại thế giới ở thế kỷ XVIII

Tiếc rằng, vì nhiều lí do khác nhau, vào đầu thế kỷ XIX, cảng Hà Tiên không còn
phồn thịnh nữa và dần mất đi vai trò quan trọng của mình. Nhưng những gì người dân Hà
Tiên đã làm được sẽ mãi là niềm tự hào sâu sắc không chỉ đối với những cư dân ở nơi đây
mà còn là niềm tự hào của Tổ quốc Việt Nam thân yêu và là một hình ảnh đẹp đẽ trong mắt
bạn bè quốc tế.

2.2.3. Những ảnh hưởng đến đời sống văn hóa - xã hội.

Sự phát triển về kinh tế tất yếu dẫn đến những thay đổi lớn lao về mặt văn hóa – xã
hội. Vùng đất Hà Tiên có thể được coi là thiên đường của những người nhập cư. Người Hà
Tiên với bản tính phóng khoáng, không chỉ là những thương gia tài ba mà còn là những
người yêu văn chương thơ phú.

Năm 1736, khi được trao quyền cai quản vùng đất Hà Tiên, Mạc Thiên Tứ đã “vời
những người văn học” thành lập “Chiêu Anh Các” ( 1), nơi tụ họp văn nhân, tài tử, cùng nhau
P F
4
1 P

xướng họa ca ngợi cảnh đẹp Hà Tiên. Đồng thời cũng là nơi để anh tài trong và ngoài trấn
đến đàm đạo thơ văn. Tiếng vang của Chiêu Anh Các ra tận xứ Đàng Ngoài và đến cả một số
tỉnh của đất nước Trung Hoa.

Chiêu Anh Các là Tao đàn thứ hai trong lịch sử văn hoá dân tộc Việt Nam, sau tao
đàn của Lê Thánh Tông (1442 – 1497). Tao Đàn do Lê Thánh Tông làm nguyên súy gồm 28
ông tiến sĩ giỏi thơ văn nhất nước thời đó gọi là “Tao đàn nhị thập bát tú”. Còn Chiêu Anh
Các của Mạc Thiên Tứ với 36 vị văn nhân đã để lại 320 bài thơ chữ Hán và tất cả đều có
chung chủ để là ca ngợi “trấn Hà Tiên của nước An Nam”, mà cụ thể là 10 cảnh đẹp của Hà
Tiên [14, tr. 438]. Năm 1757, Tham mưu Ngũ dinh Gia Định Nguyễn Cư Trinh đã họa thơ
Hà Tiên thập vịnh, tặng đáp thơ văn với Mạc Thiên Tứ và cùng nhau xác lập bản đồ của Việt
Nam ở Đàng Trong.

Chiêu Anh Các không chỉ là một tao đàn văn chương, mà còn là một Văn Miếu, nơi
thờ đức Vạn thế sư biểu Khổng Tử và là nhà nghĩa học, chọn con em tuấn tú trong vùng về

(1) : Thi sĩ Đông Hồ giải thích : Chiêu là chiêu tập, hội họp. Anh là anh hùng, anh tài. Các là tòa lầu các. (Xem Đông Hồ, Văn học
Hà Tiên).
đào tạo nhân tài cho tương lai. Hiện nay, Chiêu Anh Các không còn nữa, nhưng dấu vết nền
nhà xưa vẫn còn đó. Theo một số nhà nghiên cứu Hà Tiên, Chiêu Anh Các xưa được xây
dựng dưới chân dãy Bình San, tức chùa Phù Dung ngày nay [14, tr. 220].

Tao đàn Chiêu Anh Các đã đóng góp quan trọng vào việc củng cố ý thức dân tộc và
truyền thống văn hoá Ðại Việt ở vùng đất mới, vùng biên thùy nơi địa đầu đất nước. Chính
thành tựu văn hoá này đã biến đất Hà Tiên thành ngọn hải đăng sáng rực bên bờ Thái Bình
Dương, làm cho lịch sử miền đất này trở thành bất tử. Các tác phẩm Hà Tiên thập vịnh, với
Minh Bột di ngư... để lại cho chúng ta những áng văn thơ đặc sắc trong lịch sử văn hoá dân
tộc và đó là nơi khơi nguồn của văn mạch phía Nam.

Bốn chục năm sau ngày tao đàn Chiêu Anh Các xuất hiện, có lúc bị lụi tàn bởi chiến
tranh binh lửa, nhưng năm 1776 khi vào Ðàng Trong, học giả uyên bác, nhà văn hoá lớn thời
Hậu Lê là Lê Quý Ðôn (1726 – 1784) say mê đọc văn thơ Chiêu Anh Các, đã kinh ngạc và
phán phục trước sự phát triển bền bỉ của văn hóa dân tộc ở Đàng Trong “văn mạch một
phương dằng dặc không dứt, thật đáng khen lắm”. Trong đó, phong khí văn chương ở Hà
Tiên thế kỷ XVIII là một biểu hiện “không thể nói là ở ngoài biển xa thì không có văn
chương vậy”. [19, tr. 123] Còn thi sĩ Đông Hồ thì thốt lên : “Lạ lùng thay, cách nay hơn hai
thế kỷ, ở góc Hà Tiên diệu viễn, đã có một tướng quân thi sĩ con cháu Minh Hương, làm
được những câu thơ tiếng Việt lọc lõi trau chuốt đến vậy”. [32, tr. 148]. Phan Huy Chú thì
đánh giá, “Hà Tiên thập vịnh” là “êm ái, xinh đẹp, đáng học”. [10, tr. 153]

Mười cảnh đẹp tiêu biểu của đất Hà Tiên trong thi tập “Hà Tiên thập vịnh” mà Tao
đàn Chiêu Anh Các của Mạc Thiên Tứ mô tả đó là:

1. Kim Dữ lan đào – Đảo vàng ngăn sóng (Núi Tô Châu)

2. Bình San điệp thuý – Núi bình phong lớp lớp xanh (Núi Lăng)

3. Tiêu Tự thần chung - Chuông mai chùa vắng (Chùa Phù Dung)

4. Giang Thành dạ cổ - Trống canh đêm thành lũy bên sông (S. Giang Thành)

5. Thạch Ðộng thôn vân – Động đá nuốt mây (Hang Thạch Ðộng)

6. Châu Nham lạc lộ - Cò đậu bãi Châu Nham (Núi Ðá Dựng)

7. Ðông Hồ ấn nguyệt - Trăng in Ðông Hồ (Biển Đông Hồ)


8. Nam Phố trừng ba – Sóng lặng bến Nam (Biển Bãi Ớt)

9. Lộc Trĩ thôn cư - Xóm quê Mũi Nai (Bãi Mũi Nai)

10. Lư Khê ngư bạc – Thuyền câu đậu Rạch vược (Rạch Vược) ( 1) P F
5
1

Qua mười cảnh đẹp trên, một bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp làm say đắm lòng người
như hiện hữu trước mắt chúng ta: sáng sớm tiếng chuông chùa ngân lên từ ngôi chùa tịch
mịch (Tiêu Tự Thần chung), thôn xóm ở Mũi Nai thanh bình (Lộc Trĩ thôn cư), thuyền chài
Rạch Vược vui chài lưới (Lư Khê ngư bạc), đảo vàng chắn sóng hiện ra (Kim dự lan đào),
dãy núi như bức bình phong trùng điệp một màu xanh (Bình san điệp thúy), chiều về cò đậu
triền đất đỏ (Châu nham lạc lộ), hang đá nuốt mây (Thạch động thôn vân), bãi nam giữ sóng
(Nam phố trừng ba). Khi màn đêm buông xuống, trăng in ở hồ nước phía đông (Đông Hồ ấn
nguyệt):

Khói lạnh mây tan cõi diểu mang,

Một vùng phong cảnh giữa hồng hoang.

Trời xa mặt sóng in đôi bóng,

Biển bạc vàng gương dọi bốn phương

Rộng đã sánh cùng trời bát ngát,

Sâu còn so với biển mênh mang.

Cá rồng tỉnh giấc chi tan vỡ,

Một tấm lòng băng vẫn chói chang.

(Đông Hồ ấn nguyệt – Đông Hồ Lâm Tấn Phát dịch thơ)

Hay thỉnh thoảng vọng về tiếng trống đêm ở bên bức thành cổ (Giang Thành dạ cổ):

Gió cuốn trời cao mây lạnh tung,

Sông dài vây tỏa khí anh hùng.

Lâu thuyền dãi bóng trăng sương lạnh,

(1) : Xem chi tiết nội dung các bài thơ ở phụ lục 5.
Trống mõ cầm canh sóng nước trong.

Kim giáp đã nhờ đêm chặt chẽ,

Cẩm bào cho được chốn thung dung.

Lược thao đem đáp tình minh chúa,

Nước Việt biên thùy vững núi sông.

(Giang Thành dạ cổ - Đông Hồ Lâm Tấn Phát dịch thơ)

Tất cả tạo nên một bức tranh quê thanh bình, yên ấm!

Từ sự ngợi ca vẻ đẹp, ngợi ca cuộc sống lao động thanh bình, thơ Chiêu Anh các
không những làm đẹp thêm cuộc sống mà hơn thế nữa, nó còn góp phần chấn hưng văn hoá,
truyền bá nho phong làm cho đất Hà Tiên thêm mở mang hưng thịnh. Thông qua hoạt động
của Tao Đàn, các nhà thơ không chỉ xướng hoạ, bình thơ, mà còn dùng nó như một công cụ
để ổn định tình hình phức tạp trong sinh hoạt tinh thần của đám cư dân tứ chiếng; dùng nó
làm trường học để truyền bá Nho học, đào tạo ra một lớp người thấm nhuần tư tưởng Nho
giáo, và cũng dùng nó làm nơi tụ hội để bàn luận thế sự, hoạch định những sách lược, biện
pháp kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao...liên quan trực tiếp đến sự sống còn, hưng vong
của vùng đất biên trấn.

Tuy hoạt động của Tao đàn Chiêu Anh Các không rộng, tư tưởng chi phối chủ đạo của
thi xã này vẫn là tư tưởng Nho giáo (đã ở buổi chiều tàn), song giá trị thơ văn của Chiêu Anh
Các là rất lớn. Đúng như ý tứ trong lời đề tựa tập Hà Tiên thập vịnh của Mạc Thiên Tứ đã
nói: “Thơ này chẳng những làm cho chốn ven biển thêm phần tươi đẹp mà cũng là trang sử
của Trấn Hà Tiên vậy". [32, tr. 82] Thật vậy, “ý nghĩa của thơ văn Chiêu Anh Các không chỉ
ở tình cảm lạc quan của những tâm hồn gắn bó với cuộc sống một vùng đất mới khai phá;
thơ văn vịnh cảnh, vịnh vật của các thành viên thi xã này còn có ý nghĩa như là việc đồng
hóa về mặt văn hóa đối với một vùng đất mới mà trước đó chưa thuộc về người Việt, chưa in
dấu văn hóa người Việt”.[42, tr. 175]

Bên cạnh những tài sản lớn lao về văn hóa mà người Hà Tiên đã tạo dựng được và để
lại cho hậu thế thì trong cuộc sống đời thường, người Hà Tiên cũng đã tạo dựng cho mình
một thế ứng xử và đặc tính văn hóa riêng biệt. Ở vùng đất ấy, “người kinh, người Man ở lẫn
nhau, quá nửa là nghề buôn bán… người Trung Quốc, người Chân Lạp, người Chà Và hay ở
ven sông để sinh nhai; người ta không định cư ở một chỗ mà thiên di không thường” [61, tr.
10]. Đó là cuộc sống của những cư dân quen nghề buôn bán.

Về tính cách của người Hà Tiên, trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hòa Đức đã
miêu tả một cách chi tiết rằng : người Hà Tiên “tính người khinh bạc phù hoa, thích trang
sức phong nhã. Đàn ông dùng cái lược nhỏ bới tóc cao rồi sau chít khăn, bên cạnh tóc
thường dắt cái trâm cong, dùng để vén tóc và gãi đầu. Râu thì bôi sáp thơm và vuốt ngang ra
như hình hai chữ “nhất” đối với nhau. Đàn bà thì mặc áo ngắn, cửa tay hẹp, thích đội khăn
bịt đầu màu thiên thanh, ngọc lam, cánh chả, cá trắng, đậu xanh, các màu non mà nhạt. Bắt
đầu bới tóc cao, khi đã xức dầu, phấn xong rồi, mới lấy tay bới tóc thấp xuống để cho cong
xuống gáy, như hình ức gà, lấy hai bàn tay ép đầu bới tóc lại cho dẹp và nhọn, gọi là kiểu
trang sức mới. Đeo vòng xuyến, hoa tay, vàng ngọc xen lẫn. Khi đi thì đi thẳng mình cứng
cát, không có dáng uống éo, bay bướm. Thích khoác cái khăn dài trên đầu mà đi, hoặc vắt
vào vai, hoặc cầm ở tay, không dùng nón…Thêu thùa, may áo, làm mứt làm bánh, những
việc kim chỉ, nấu nướng, cũng khá tinh xảo” [20, tr. 152].

Trong Đại Nam nhất thống chí, các sử gia triều Nguyễn cũng viết rằng : cư dân Hà
Tiên có “tính người nhẹ nhõm, ham thích phong lưu. Không ai gian tham, không ai trộm
cướp, phần nhiều hào phóng” [61, tr. 10]. Và chính những con người phong lưu, hào phóng
đó đã chung sức, chung lòng xây dựng, bảo vệ đất Hà Tiên, biến nơi đây thành “một nơi đô
hội miền biển”.

Từ những đoạn trích trên, chúng ta thấy rằng, Hà Tiên không chỉ là một thương cảng trú
phú về kinh tế mà đó còn là một xã hội văn nhã theo đúng lý tưởng nho giáo, là một hình
mẫu lý tưởng của thời cực thịnh của chế độ phong kiến. Sự phát triển về kinh tế và phong
phú về văn hóa của vùng đất Hà Tiên đã góp phần làm huy hoàng hơn những trang sử vẻ
vang trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Và với những thành tựu
đạt được, cảng thị Hà Tiên có vai trò rất lớn trong công cuộc mở cõi về phương Nam của
người Việt và giữ vị trí xứng đáng trong nền thương mại Việt Nam và thế giới ở thế kỷ
XVIII.

2.3. VAI TRÒ CỦA DÒNG HỌ MẠC TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THƯƠNG CẢNG HÀ
TIÊN.
Từ sự trình bày lịch sử hình thành và những hoạt động buôn bán của cảng Hà Tiên
như trên, chúng ta thấy nổi rõ lên vai trò của họ Mạc – Mạc Cửu và con là Mạc Thiên Tứ
trong việc xây dựng mở mang phố thị Hà Tiên và thương cảng Hà Tiên.

Mạc Cửu là người có công lớn trong việc biến Hà Tiên thành một trung tâm kinh tế -
văn hóa trong khu vực. Ông là người có tầm nhìn xa trông rộng, khi quyết định từ bỏ chức
quan Ốc Nha của quốc vương Chân Lạp, vì nội tình nước này luôn rối ren do nạn tranh giành
ngôi vua và thường bị người Xiêm khống chế để đến định cư ở Mang Khảm, nơi có nhiều
triển vọng, xây dựng giang sơn riêng. Vùng đất Mang Khảm, trước khi Mạc Cửu đến ở và
lập nghiệp tuy là một vùng đất còn hoang sơ nhưng đã là một cảng khẩu có tàu thuyền nước
ngoài đến buôn bán hoặc ghé qua trên đường di chuyển. Việc buôn bán ở đây đã có sự tấp
nập ở một mức độ nhất định. Chính yếu tố này đã kích thích Mạc Cửu, vốn là một thương
nhân buôn bán lớn trên mặt biển, chọn là nơi khởi nghiệp của mình.

Khi đặt chân đến Hà Tiên, việc làm đầu tiên của Mạc Cửu là nhanh chóng tạo dựng
thanh thế, nền tảng để phát triển lâu dài. Ông mở tiệm hút, trưng mua việc thu thuế hoa chi
các sòng bạc lớn để làm giàu. Sau khi trở nên giàu có, Mạc Cửu đã nghĩ tới và bắt tay ngay
vào việc phát triển công cuộc kinh doanh buôn bán của Hà Tiên, nhất là việc buôn bán với
nước ngoài, mở mang phố chợ, xây dựng Hà Tiên thành một thương cảng sầm uất. Mạc Cửu
đã cho xây dựng trường lũy Trúc Bàn Thành hay Phương Thành để bảo vệ sự phát triển bền
vững của thương cảng.

Mạc Cửu đã tích cực kêu gọi và đón nhận thuyền buôn của tất cả các nước đến buôn
bán, đồng thời còn chủ động đặt quan hệ buôn bán với các nước. Không ít lần Mạc Cửu đã
cử những đoàn thuyền buôn sang Nhật Bản và Trung Quốc giao thương. Hơn thế nữa, để
khuyến khích tàu buôn nước ngoài đến buôn bán, Mạc Cửu đã cho thi hành một chính sách
thuế hàng hoá khá ưu đãi. Hàng hoá buôn bán chỉ phải chịu thuế rất nhẹ.

Đó là những cơ sở ban đầu làm nên sự phát triển của cảng Hà Tiên về sau. Và sự phát
triển của Hà Tiên chỉ thật sự vững chắc từ khi Mạc Cửu có một quyết định lịch sử, nương
nhờ vào chúa Nguyễn vào năm 1708. Việc làm này không những đã gắn chặt sự phát triển
của Hà Tiên với sự phát triển của đất nước Việt Nam mà nó còn góp phần quan trọng trong
việc làm chủ vùng đất phương Nam của dân tộc Việt Nam . “Hà Tiên trở thành một bộ phận
của Tổ quốc Việt Nam rất đúng lúc, không sớm, không trễ. Nếu sớm hơn, tức lúc phủ Gia
Định chưa thành lập; hoặc trễ hơn, thì cuộc nội chiến Tây Sơn – Nguyễn Ánh đã nổ ra, Hà
Tiên không thể đứng vững trước thế lực của người Xiêm. Chính vì thế, sau khi nội thuộc
Đàng Trong, Hà Tiên trở thành động lực mạnh mẽ, có tác động kích thích lịch sử khu vực
tiến lên, góp phần không nhỏ trong công cuộc mở mang bờ cõi, giữ vùng cương vực quốc gia
ở vùng biên viễn tận cùng phía Tây Nam Tổ quốc và phát triển kinh tế xã hội” [42, tr. 43].
Âu ấy cũng là một đóng góp to lớn của Mạc Cửu vậy.

Công lao của Mạc Cửu là không thể phủ nhận. Bốn chữ “Khai trấn trụ quốc” mà vua
nhà Nguyễn ban cho Mạc Cửu là một sự ghi nhận cộng trạng lớn lao của con cháu Mạc gia
và xem họ như các vị “khai quốc công thần”. Thật vậy, “suốt hơn 40 năm cai quản đất Hà
Tiên, với tài năng, đức độ và lòng nhân nghĩa, Mạc Cửu đã để lại dấu ấn khó phai mờ trong
sử sách, đặc biệt trong lòng người dân của cả vùng đất Nam Bộ nói chung, Hà Tiên và Kiên
Giang nói riêng”.( 1) P 16F

Đến thời Mạc Thiên Tứ, kế tục sự nghiệp của Mạc Cửu, Thiên Tứ càng ra sức đẩy
mạnh việc thông thương với nước ngoài. Có ít nhất hai lần Mạc Thiên Tứ đã phái thuyền
buôn sang Nagasaki để xúc tiến việc mậu dịch với Nhật Bản. Đi đôi với việc mở rộng buôn
bán với các nước, Thiên Tứ còn khuếch trương việc xây dựng phố chợ, đường xá, xây cất
dinh thự, đền miếu, trại quân, kho tàng, công xưởng (xưởng sửa chữa tàu thuyền), thành luỹ,
bến bãi để tàu thuyền ra vào thuận lợi .v.v… làm cho bộ mặt của phố cảng Hà Tiên càng
được đổi mới, càng trở nên sầm uất, “thuyền buôn các nước đến rất nhiều” [20, tr. 120], thật
đúng “là một nơi đô hội miền biển”.

Không chỉ dừng lại ở việc phát triển kinh tế, Mạc Thiên Tứ còn có công trong việc mở
mang văn hóa của vùng đất Hà Tiên. Tao Đàn Chiêu Anh Các do ông sáng lập đã có vai trò
rất quan trọng trong lịch sử văn hóa dân tộc Việt Nam. Đúng như trong Mạc Thị gia phả, Vũ
Thế Dinh đã viết : “Công (Mạc Thiên Tứ) đã lập ra Chiêu Anh Các để kính thờ các đấng tiên
thánh và dùng hậu lễ để chiêu tập những người hiền tài, các bậc danh sĩ tuấn tú ở Thanh triều
(Trung Quốc) cùng các nước khác. Văn giáo Đông Nam (đúng hơn là Tây Nam) bắt đầu có
bề hưng thịnh là do Công (Thiên Tứ) gầy dựng vậy”. [24, tr. 20] Còn sách Đại Nam liệt
truyện thì ghi nhận “ Từ đấy, Hà Tiên mới biết đến văn học”. [58, tr. 204]

(1) : Phát biểu của ông Mai Văn Huỳnh – Chủ tich UBND thị xã Hà Tiên tại lễ khánh thành tượng đài danh nhân Mạc Cửu (ngày
7/9/2008), Báo Tuổi trẻ ngày 8/9/2008.
Bên cạnh việc mở mang kinh tế, phát triển văn hóa, Mạc Thiên Tứ còn có công trong
việc chống lại các thế lực xâm chiếm Hà Tiên. Lịch sử ghi nhận không ít lần Mạc Thiên Tứ
đã phải dùng hết quân bản hộ để chống lại các cuộc xâm chiếm của Chân Lạp, của bọn cướp
biển và nhất là quân Xiêm để bảo vệ sự yên bình cho Hà Tiên.

Toàn bộ những hoạt động nói trên của Mạc Cửu và Mạc Thiên Tứ đã nhanh chóng
mang lại sự mua bán sầm uất, trù mật cho phố cảng Hà Tiên. Từ đó đã thu hút thêm nhiều
lưu dân đến ở, trong đó có người Việt, người Hoa, người Giava và dân cư Khmer gần bên.
Chúng ta có thể khẳng định đó là một sự đóng góp trực tiếp và to lớn của hai cha con Mạc
Cửu vào sự thịnh vượng của phố cảng Hà Tiên vào những thập niên đầu thế kỷ XVIII. Đúng
như, Trần Kinh Hòa, một học giả nghiên cứu về họ Mạc ở Hà Tiên đã nói : “Hà Tiên dưới
thiện chí của Mạc Cửu ngày một thịnh vượng, nhân dân được an cư lạc nghiệp, xã hội Hà
Tiên là một xã hội văn nhã” [44, tr. 215]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Thuần cũng viết :
“Dấu tích của Phương Thành xưa còn đó, những vần thơ của các bậc tao nhân mặc khách
trong Chiêu Anh các còn ngân vang đâu đó, mười cảnh đẹp của Hà Tiên theo cách tuyển lựa
và giới thiệu của Mạc Thiên Tứ cũng đang còn đó…Đến với Hà Tiên xưa, đến với xứ Đàng
Trong thuở xưa, không ai lại không được nghe những lời đầy trân trọng đối với họ Mạc.
Việc họ Mạc theo phò chúa Nguyễn, đặc biệt, việc Mạc Thiên Tứ một lòng trung thành với
Nguyễn Ánh là điều có thật, nhưng những gì mà họ Mạc đã cống hiến cho Hà Tiên, cho
giang sơn một thuở cũng là điều có thật. Không ai có thể xóa bỏ quá khứ mà họ Mạc chính là
một phần của quá khứ đó thôi.” [24, tr. 10]

Cố thi sĩ Đông Hồ cũng đã có thơ nói về công trạng của hai cha con họ Mạc như sau:

“Chẳng đội trời Thanh Mãn

Lần qua đất Việt bang

Triều đình riêng một góc

Trung hiếu vẹn đôi đường

Trúc thành xây vũ lược

Anh Các cao văn chương

Tuy chưa là cô quả


Mà cũng đã bá vương

Bắc phương khi vỡ lở

Nam hải lúc kinh hoàng

Giang hồ giữa lang miếu

Hàn mạc trong chiến trường

Đất trời đương gió bụi

Sự nghiệp đã tang thương...” [ 32, tr. 158].

(Trích : Nghĩ vịnh Mạc Cửu và Mạc Thiên Tứ)

Vào năm 1836, đại học sĩ Trương Đăng Quế đi kinh lý, tổ chức lại việc cai trị ở các
2T T
2

tỉnh vừa trải qua tai họa chiến tranh, khi về đã tâu trình lên vua Thiệu Trị rằng: “Việc mở
T
2 T
2

mang đất Hà Tiên lúc ban đầu do công lao của Mạc Thiên Tứ rất lớn, nên lưu dụng lại con
cháu họ Mạc.” [59] Lời tâu ấy, một lần nữa đã khẳng định vai trò của họ Mạc đối với vùng
đất Hà Tiên.

Nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt, khi đánh giá công lao của Mạc Thiên Tứ đối với
Hà Tiên đã viết : “Ngay khi lãnh nhiệm vụ, Thiên Tứ đã vực dậy nền kinh tế, tạo dựng Hà
Tiên thành một cảng khẩu trù phú, sung túc. Điều đó, cho thấy năng lực của người lãnh đạo
Hà Tiên (ý nói Mạc Thiên Tứ) thời đó quả là không nhỏ”. [14, tr. 346]

Tóm lại, ra đời từ những năm cuối thế kỷ XVII cho đến đầu thế kỷ XIX, thương cảng
Hà Tiên đã có sự phát triển vượt bậc. Từ một vùng đất đầy tiềm năng nhưng hoang vu, qua
bàn tay xây dựng của họ Mạc, sự giúp sức của các chúa Nguyễn và sự năng động sáng tạo
của cư dân, Hà Tiên đã trở thành một thương cảng trung tâm Đông Nam Á, và là thương
cảng trung chuyển quốc tế quan trọng. Có thể nói, thương cảng Hà Tiên là sự kế tục xứng
đáng những gì mà cư dân Óc Eo đã làm được từ hơn mười thập kỷ trước. Cảng Hà Tiên đã
đóng góp to lớn và giữ vị trí quan trọng trong nền thương mại Việt Nam. Trong sự phát triển
của cảng Hà Tiên, Mạc Cửu và Mạc Thiên Tứ đã giữ một vai trò hết sức to lớn.
Chương 3: THƯƠNG CẢNG HÀ TIÊN THỜI KỲ SUY TÀN (Đầu thế kỷ XIX)

Từ đầu thế kỷ XIX, Hà Tiên trải qua trên trăm năm khai phá và xây dựng, trở thành
một vùng kinh tế phát triển trù phú, tiến lên giữ vai trò trung tâm kinh tế - chính trị, văn hóa
- xã hội của toàn vùng. Tuy nhiên, cũng từ thời điểm này trở đi, vì nhiều nguyên nhân cảng
Hà Tiên suy yếu dần và nhường vai trò của nó cho một thương cảng phát triển huy hoàng
hơn – cảng Bến Nghé – Sài Gòn.

3.1. NGUYÊN NHÂN SUY TÀN CỦA THƯƠNG CẢNG HÀ TIÊN VÀO ĐẦU THẾ KỶ XIX.

Với vị thế và tiềm năng vốn có, Hà Tiên từ một vùng đất không có tên trên bản đồ
thương mại thế giới, trở thành một thương cảng tiếng tăm lừng lẫy. Nhưng cũng với vị thế và
tiềm năng ấy, thương cảng Hà Tiên đã lụi tàn chỉ sau một thế kỷ phát triển. Có thể lí giải sự
suy tàn của cảng Hà Tiên bởi những nguyên nhân sau :

3.2.1. Sự tàn phá của chiến tranh:

Do nằm ở ví trí quan trọng, lại thêm tài nguyên thiên nhiên phú, thêm vào đó là sự xây
dựng của họ Mạc đã làm cho cảng Hà Tiên nhanh chóng trở nên phồn vinh. Nhưng chính sự
phát triển của thương cảng Hà Tiên đã dẫn đến sự bất ổn cho vùng đất này trước sự quấy
nhiễu, cướp phá của hải tặc và sự xâm chiếm của quân Xiêm.

Vùng đất Hà Tiên có nhiều ưu thế để phát triển nhưng lại có nhược điểm là rất khó
phòng thủ. Chính vì vậy mà trước khi về với Đại Việt, không ít lần Mạc Cửu phải đưa cả gia
đình chạy loạn. Mà mỗi lần chạy loạn là mỗi lần dường như phải làm lại từ đầu. Trong Mạc
thị gia phả, Vũ Thế Dinh đã viết rằng : “Khi ấy, nước Xiêm La ỷ thế giàu mạnh, thường đem
quân sang xâm lược Chân Lạp. Phương Thành (Hà Tiên) nằm ngay bên bờ biển, chỉ là nơi
buôn bán sinh lợi chứ chẳng phải là chốn hiểm địa để có thể dụng võ, cho nên hễ giặc cho
thủy binh đến là chúng chiếm được ngay, không sao có thể giữ nổi…Quân Xiêm La vào
nước cướp bóc của cải, vàng bạc và con gái rồi ung dung rút về” [24, tr. 15]. Thật vậy, sau
cuộc xâm lăng năm 1718, quân Xiêm đã tàn phá vùng đất Hà Tiên một cách không thương
tiếc, đến nỗi hai năm sau (1720), thương nhân người Anh A. Hamilton ghé cảng Hà Tiên vẫn
còn nhận rõ dấu vết điêu tàn với ngổn ngang những xác tàu chìm và sự đổ nát của phố thị Hà
Tiên. [81, tr. 372]

Mạc Thiên Tứ lên kế tục sự nghiệp của Mạc Cửu, Hà Tiên lại càng phát triển hơn nữa
nhưng mối hiểm họa bị xâm chiếm vẫn không dứt. Mạc Thiên Tứ và quân dân Hà Tiên đã
phải nhiều lần căng sức chống lại các cuộc xâm lược, bảo vệ sự bình yên của Hà Tiên trước
sự quấy nhiễu của hải tặc và quân Xiêm.

Ngay từ năm 1739, vua Chân Lạp là Nặc Bôn, lấy cớ vì Mạc Cửu mà mất đất và nhân
việc Mạc Thiên Tứ mới lên nắm quyền, đã đem quân xâm chiếm Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ
phải đem hết quân bản hộ ra mới chiến thắng được quân thù, bảo vệ đất đai, đồng thời còn
truy kích đuổi quân Chân Lạp tới Sài Mạt. Nhờ đó, Chân Lạp không dám dòm ngó Hà Tiên
nữa. Về cuộc chiến này, sách Đại Nam liệt truyện tiền biên chép : “Thiên Tứ đem bộ thuộc
đi đánh, chiến đấu suốt ngày đêm. Vợ Thiên Tứ là Nguyễn Thị đốc suất vợ quân lính chuyển
lương ăn và đem cơm nước cho quân, do đó, quân được ăn no. Thiên Tứ bèn đánh hăng,
quân của Nặc Bôn bị tan vỡ ”. [58, tr. 205]. Qua đó, chúng ta thấy để đánh thắng kẻ thù,
Thiên Tứ gần như phải dốc toàn bộ lực lượng của mình. Những cuộc chiến tranh như thế làm
cho Hà Tiên bị tổn thất rất nhiều.

Cuộc chiến tranh với Chân Lạp, Mạc Thiên Tứ toàn thắng, Hà Tiên trở lại thanh bình.
Nhưng nguy cơ bị xâm chiếm thì không bao giờ hết đối với một vùng đất như Hà Tiên. Năm
1767, một người Hoa quê Triều Châu (Trung Quốc) là Hoắc Nhiên đã thành lập một đảng
cướp, chiếm cứ đảo Cổ Công ngoài biển Hà Tiên làm sào huyệt. Từ đó, đám hải tặc này đã
thường xuyên cướp phá các thuyền buôn quan lại vùng Hà Tiên và âm mưu đánh chiếm đất
Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ đã phải dùng đến một lực lượng thủy binh tinh nhuệ và một chiến
thuật hợp lí mới tiêu diệt được bọn hải tặc Hoắc Nhiên.

Năm 1769, sau khi đám hải tặc Hoắc Nhiên bị triệt phá chưa được bao lâu thì một lưu
dân Triều Châu khác là Trần Thái lại tụ họp đảng cướp, lấy núi Bạch Mã đất Hà Tiên làm
hang ổ hoạt động. Trần Thái đã ngầm cấu kết với hai tên phản bội họ Mạc là Mạc Sùng và
Mạc Khoan âm mưu đánh úp Hà Tiên. Nhưng nhờ sự cảnh giác cao độ, Mạc Thiên Tứ đã
biết rõ âm mưu ấy và đề ra kế sách phù hợp. Mạc Thiên Tứ “theo đúng kỳ hẹn phục quân để
bắt, đuổi đánh bọn cướp ở chùa Hương Sơn (tục gọi là chùa Thầy Hương). Trần Thái chạy
trốn đến xứ Chân Bôn nước Xiêm La ”. [20, tr. 123 ] Vì thế âm mưu của Trần Thái đã thất
bại. Tuy nhiên, việc không giết chết Trần Thái đã để lại hậu quả tay hại sau này, bởi vì trong
cuộc chiến tranh năm 1771, chính Trần Thái đã dẫn đường quân Xiêm đánh chiếm Hà Tiên
và tàn phá thành phố này.

Mới dẹp yên đảng cướp Trần Thái năm trước, Hà Tiên chưa kịp yên ôn được bao lâu
thì năm sau (1770), một tên lính trốn ở Hà Tiên là Phạm Lam chạy tới Hương Úc và Cần
Vọt, kết hợp với người Chà Và là Vang Ly Ma Lư và người Chân Lạp là Ốc Nha Kê tập hợp
bọn cướp hơn 800 người cùng 15 chiếc thuyền, chia đường thủy bộ đến đánh trấn Hà Tiên.
Mạc Thiên Tứ phải đem quân chống cự, đánh tan được. [59, tr. 174].

Những cuộc chiến tranh trên đã làm cho quân lương hao tốn, lòng dân dao động và nó
là dấu hiệu bắt đầu cho thời kỳ loạn lạc ở Hà Tiên. Chúa Nguyễn bắt đầu có ý thức phải đưa
quân tới bảo vệ vùng biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Đúng như các tác giả Đại Nam thực
lục đã viết : “Bấy giờ, Hà Tiên luôn gặp binh hỏa, quân lương hao tổn, lòng dân dao động.
Thiên Tứ dâng sớ tự trách. Chúa ban thư tỏ lòng khoan hồng và an ủi. Lại sắc cho điều khiển
Gia Định rằng hễ Hà Tiên có tin báo động thì phải ứng mau” [59, tr. 174, 175].

Nhưng kẻ thù đáng ngại nhất của Hà Tiên là quân Xiêm. Vào thế kỷ XVI – XVII,
Xiêm luôn là một cường quốc kinh tế ở Đông Nam Á. Với chính sách khai phong và triệt để
phát huy tiềm năng kinh tế của khu vực, các thương cảng của Xiêm luôn là điểm đến hấp dẫn
của nhiều đoàn thuyền buôn Châu Á và Châu Âu. Đối với Đàng Trong, do nằm trên trục
chính phía Đông của tuyến hải thương Châu Á, thuyền Xiêm thường ghé vào tránh bão, lấy
thực phẩm, nước ngọt ...rồi từ đó tiếp tục tiến lên phía Bắc, nơi có thị trường Trung Hoa rộng
lớn. Có thể nói “chính những lợi ích kinh tế của thị trường này đã khiến cho người Thái nhận
thức đầy đủ hơn về tầm quang trọng của vịnh Xiêm và các cảng duyên hải phía đông của
Việt Nam” [38, tr. 40].

Thế nhưng những cuộc binh hỏa nhiều năm liên tiếp đã làm cho sức lực quân đội Hà
Tiên bị bào mòn, tiềm năng bị cạn kiệt và đó là lí do làm cho Hà Tiên không thể đứng vững
trước cuộc xâm lăng của Xiêm. Năm 1771, quân Xiêm đã huy động một lực lượng lớn đánh
chiếm Hà Tiên. Do tương quan lực lượng và vì không được quân của chúa Nguyễn ở Gia
Định tiếp cứu kịp thời nên Thiên Tứ đã để Hà Tiên rơi vào tay Xiêm [59, tr. 176]. Mạc Thiên
Tứ phải rời bỏ Hà Tiên chạy về Trấn Giang (Cần Thơ) sinh sống. Hà Tiên một lần nữa bị
quân Xiêm tàn phá nặng nề. Phải đến năm 1773, với sự hậu thuẫn của quân Nguyễn, Mạc
Thiên Tứ mới lấy lại được Hà Tiên. Và sau sự kiện này, Hà Tiên không thể khôi phục được
nữa. Hà Tiên không còn giữ được địa vị quan trọng về kinh tế, trọng tâm thương mại Đàng
Trong nghiêng hẳn về phía Sài Gòn, Đà Nẵng, còn việc buôn bán với Chân Lạp thì đã có Sa
Đéc, Cài Bè.

Đến năm 1777, quân Tây Sơn đánh chiếm Gia Định, rồi sau đó là Long Xuyên. Hà
Tiên của Mạc Thiên Tứ cũng bị nghĩa quân Tây Sơn chiếm. Mạc Thiên Tứ vì một lòng tôn
thờ chúa Nguyễn đã không chịu thần phục Tây Sơn nên phải sống những năm tháng lưu
vong gian khổ cùng chúa Nguyễn. Sau đó, Mạc Thiên Tứ phải lưu lạc sang tận Xiêm và mất
tại nơi này vào năm 1780. Hà Tiên mất đi một vị thủ lĩnh tài ba.

Năm 1784, quân Xiêm lại huy động một lực lượng rất lớn (5 vạn quân) tiến sang xâm
lược nước ta. Và phải nhờ thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, quân Tây Sơn đã đánh bại
quân Xiêm tại trận Rạch Gầm – Xoài Mút (1785), chặn đứng tham vọng bành trướng về phía
Đông của vương quốc Xiêm. Thế nhưng quân Xiêm vẫn chưa từ bỏ âm mưu xâm lược nước
ta, nhất là đối với vùng đất Hà Tiên.

Sang đầu thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn, quân Xiêm đã nhiều lần đem quân cướp phá
Hà Tiên. Sách Đại Nam nhất thống chí – Lục tỉnh Việt Nam chép : “Năm Minh Mạng thứ 14
(1833) có biến ngụy Khôi, tỉnh thành (Hà Tiên) thất thủ, bị quân Xiêm xâm lăng dày đạp”
[62, tr. 49]. Quân Xiêm thẳng tay đốt phá, cướp bóc, “dân ta phải bỏ cả đồng ruộng rút vào
rừng” [19, tr. 239]. Sau nhờ có đại binh của triều đình tấn tiễn mới dẹp yên được. Sau sự
kiện năm 1833, vào thời vua Thiệu Trị, nhân dân Hà Tiên lại còn phải chạy giặc Xiêm thêm
hai lần nữa vào năm 1842 và 1845.

Có thể nói, chính những cuộc chiến tranh ấy đã tàn phá Hà Tiên rất nhiều. Chiến tranh
đã làm cho trật tự xã hội bất ổn, các hoạt động kinh tế bị ngưng trệ, nhân dân lưu tán khiến
cho Hà Tiên vốn giàu có cũng trở nên điêu tàn. Và sau biến cố 1771, Hà Tiên không thể gây
dựng lại được như trước đây nữa. Thương cảng Hà Tiên cũng lụi tàn theo những biến cố của
lịch sử.
3.2.2. Những thay đổi về tình hình kinh tế, chính trị và xã hội Việt Nam từ cuối thế kỷ
XVIII – đầu thế kỷ XIX.

Bên cạnh yếu tố chiến tranh làm cho cảng Hà Tiên suy yếu, thì những biến đổi về tình
hình kinh tế, chính trị và xã hội Việt Nam từ cuối thế kỷ XVIII cũng là một nguyên nhân
quan trọng.

Từ thế kỷ XVI – XVIII, mặc dù đây là thời kỳ nước ta bị chia cắt nhưng vì nhiều lí do
như sự phát triển của ngành thương mại thế giới sau các cuộc phát kiến địa lí…ngành thương
mại Việt Nam rất phát triển, rất nhiều đô thị sầm uất đã ra đời, nhất là ở Đàng Trong và phố
thị Hà Tiên là một trong những số đó.

Thời bấy giờ, nếu như Phố Hiến là trung tâm buôn bán của miền Bắc, Hội An là nơi
đô hội của miền Trung thì Hà Tiên chính là thương cảng quan trọng nhất của miền Tây Nam
Bộ trước khi cảng Sài Gòn ra đời. Sự phồn vinh của cảng Hà Tiên vào thế kỷ XVIII là đều
không ai có thể phủ nhận.

Nhưng bắt đầu từ cuối thế kỷ XVIII, những biến đổi mạnh mẽ của tình hình trong
nước và thế giới đã tác động mạnh đến các hải cảng Việt Nam nói chung và cảng Hà Tiên
nói riêng. Ở Đàng Trong, lúc ấy, quân Tây Sơn đang tấn công quyết liệt vào tập đoàn phong
kiến của các chúa Nguyễn và vùng đất Hà Tiên cũng bị cuốn vào vòng xoáy của cuộc chiến
ấy. Mạc Thiên Tứ vốn là người trung thành, cho nên trước sau ông vẫn đứng về các chúa
Nguyễn và chính điều này đã khiến ông phải buôn tẩu theo các chúa Nguyễn trước sự truy
kích của Tây Sơn. Chiến tranh, loạn lạc đã làm cho Mạc Thiên Tứ không có điều kiện và
cũng không có thời gian để toàn tâm khôi phục, phát triển cảng Hà Tiên. Vì thế đã làm cho
Hà Tiên vốn bị quân Xiêm tàn phá càng trở nên tiêu điều nhanh hơn.

Cũng cần nói thêm rằng, sau khi Mạc Thiên Tứ qua đời, Hà Tiên như rắn mất đầu.
Những người kế tục Mạc Thiên Tứ không có khả năng và điều kiện để xây dựng lại Hà Tiên
như những gì ông cha mình đã làm trước đây. Các con cháu của họ Mạc, phần thì còn nhỏ,
phần thì phải sống lưu vong tại Xiêm nên không có điều kiện gầy dựng lại Hà Tiên. Và mặc
dù, các chúa Nguyễn có chú ý đến Hà Tiên nhưng cũng không ưu ái như thời Mạc Cửu và
Mạc Thiên Tứ cai trị, vì đây là thời kỳ chiến tranh loạn lạc.

Hơn nữa, bắt đầu từ thời Gia Long, vương triều Nguyễn đã thi hành chính sách “bế
quan tỏa cảng”, hạn chế sự phát triển của ngoại thương, đặc biệt là các thuyền buôn đến từ
phương Tây. Các thuyền buôn bị kiểm tra nghiêm ngặt và chỉ được cập cảng một cách hạn
chế. Tất cả các thuyền buôn muốn đến buôn bán ở bất kỳ cảng nào trong nước đều phải tới
xin phép ở cảng Đà Nẵng hay Hội An. Chính điều này đã làm cho những cảng lừng danh như
Phố Hiến, Thanh Hà… dần dần biến mất trên bản đồ thương mại khu vực và thế giới. Đặc
biệt, từ thời vua Minh Mạng, các thuyền buôn bị cấm không được cập bến ở cảng Hà Tiên
mà chỉ được phép đến cảng Đà Nẵng và Gia Định. Đây là một thiệt thòi rất lớn đối với một
thương cảng có nhiều ưu thế phát triển như Hà Tiên. Có thể khẳng định, cùng với chiến
tranh, đây chính là nguyên nhân trực tiếp vẫn đến sự biến mất của cảng Hà Tiên vào đầu thế
kỷ XIX.

Như vậy, những biến đổi phức tạp của tình hình chính trị, xã hội ở Việt Nam vào cuối
thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX, sự ra đi của Mạc Thiên Tứ và chính sách hạn chế thương
nghiệp của triều Nguyễn đã dần dần chấm dứt vai trò của cảng Hà Tiên trong nền thương
mại Việt Nam và thế giới.

3.2.3. Sự thay đổi con đường thương mại Đông – Tây.

Tất cả các điều trên là nguyên nhân chủ quan dẫn đến sự suy sụp của cảng Hà Tiên.
Bên cạnh đó, chúng ta phải nói đến nguyên nhân khách quan, đó chính là sự thay đổi của con
đường thương mại Đông - Tây vào đầu thế kỷ XIX.

Như chúng ta đã biết, vào thế kỷ XV – XVI, những nhà hàng hải Tây Ban Nha và Bồ
Đào Nha đã đi tiên phong mở những con đường trên đại dương nối liền thế giới phương Tây
và phương Đông. Sau những cuộc phát kiến địa lí ấy, thế giới gần như không còn khoảng
cách nữa. Nối bước sau các nhà phát kiến, từng đoàn thuyền buôn của Tây phương đã lần
lượt tiến sang phương Đông và ngược lại những thương nhân phương Đông cũng giương
buồm tiến về trời Tây, tạo nên những hoạt động thương mại hết sức sôi nổi ở thế kỷ XVII –
XVIII.

Trong bối cảnh chung ấy, hoạt động thương mại của Đại Việt cũng hết sức phát triển.
Với sự góp sức của các thương gia mại quốc đến từ Nhật Bản, Trung Quốc, Hà Lan, Tây
Ban Nha, Bồ Đồ Nha…hàng loạt đô thị cảng của Việt Nam đã lần lượt ra đời. Trong số
những đô thị cảng của Việt Nam ra đời vào thế kỷ XVII, XVIII, thương cảng Hà Tiên có một
vị thế hết sức quan trọng. Với vị trí nằm ở tận cùng phía Tây Nam của Tổ quốc Việt Nam
trên tuyến đường biển quan trong qua vịnh Thái Lan, cộng với điều kiện thuận lợi là có bờ
biển dài, có tài nguyên dồi dào, có nhiều hòn đảo án ngữ tránh bảo và một chính sách phát
triển thương mại hợp lí của họ Mạc, cảng Hà Tiên trở thành một điểm đến hấp dẫn của
thương gia từ bốn phương. Trong suốt thế kỷ XVIII, cảng Hà Tiên giữ vai trò to lớn và ảnh
hưởng sâu sắc đến nền thương mại thế giới. Cảng Hà Tiên là “một quyền lực thương mại”
thời bấy giờ.

Tuy nhiên, càng về sau này, đặc biệt là từ thế kỷ XIX, khi khoa học kỹ thuật không
ngừng phát triển, các con đường giao thương lại càng được mở rộng hơn. Lúc này, thương
gia không còn quá phụ thuộc vào những con đường sẵn có trước đó, mà với điều kiện hiện
có, họ có thể đến bất cư nơi đâu họ muốn một cách dễ dàng. Và họ cũng không còn phụ
thuộc quá nhiều vào đường biển, cũng như không nhất thiết phải đi men theo bờ biển mà có
thể vượt đại dương bằng những con tàu lớn và hiện đại. Theo lí do đó, các thương nhân buôn
bán từ Trung Quốc qua Đông Nam Á, Nhật Bản và ngược lại cũng không nhất định phải đi
qua vịnh Thái Lan. Và lẽ dĩ nhiên, họ cũng không nhất định phải ghé vào Hà Tiên khi những
điều kiện hấp dẫn của Hà Tiên không còn như trước đây nữa.

Thêm vào đó, trong khi chính sách hạn chế giao thương với người phương Tây của
triều đình nhà Nguyễn đã làm cho rất nhiều cảng thị nổi tiếng của Việt Nam suy tàn thì ở
ngoài biển đông xa xôi, một thương cảng nổi tiếng mang tên cảng Luzon (Philippin) lại đang
rất phát triển, trở thành một thế lực thương mại mới, thu hút phần lớn các tàu buôn từ thế
giới đến đó. Chính vì thế, cảng Hà Tiên dần dần đã bị các thương gia lãng quên và nó gần
như biến mất trên bản đồ thương mại thế giới từ đầu thế kỷ XIX.

Ở đây cũng cần nói thêm rằng, sự thay đổi con đường thương mại trên biển cũng chịu
tác động rất lớn của tình hình chính trị thế giới lúc bấy giờ.

Thế kỷ XIX, là thế kỷ chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ và kèm theo nó là các cuộc
xâm chiếm thuộc địa, thị trường cũng diễn ra sôi nổi hơn bao giờ hết, nhất là vào cuối thế kỷ
XIX, khi các nước tư bản phương Tây đã hoàn thành xong việc xâm chiếm và phân chia
thuộc địa. Các cuộc xâm lăng của chủ nghĩa thực dân đã làm cho nền thương mại thế giới bị
tác động mạnh mẽ. Các tàu buôn phương Tây không còn được tự do cập bến các hải cảng
phương Đông nữa, mà thay vào đó là sự dè dặt và cấm đoán nghiêm ngặt. Bởi vì theo sau
những tàu buốn ấy là sự buôn bán bất bình đẳng, là âm mưu xâm lược của chủ nghĩa thực
dân. Chính vì thế, trong thời gan này, hàng loạt các đô thị sầm uất của các quốc gia phương
Đông đã lần lượt biến mất và trong bối cảnh ấy, nhiều đô thị cổ Việt Nam cũng bị suy tàn.
Những đô thị cổ như Cù Lao đại phố, Nông Nại đại phố và Hà Tiên đại phố đã làm xong vai
trò của mình, đã được khắc ghi vào lịch sử, nhường chỗ cho những đô thị mới với những
thương cảng mới ra đời.

Như vậy, có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự suy tàn của thương cảng Hà Tiên. Trong
đó, chiến tranh là nhân tố quan trọng nhất góp phần làm cho thương cảng Hà Tiên nhanh
chóng lụi tàn sau hơn một thế kỷ hưng thịnh. Đồng thời, chính sách hạn chế thương nghiệp
của triều Nguyễn và những biến đổi trong nền thương mại thế giới ... cũng đã góp phần chấm
dứt vai trò lịch sử của thương cảng Hà Tiên.

3.2. CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NGUYỄN ĐỐI VỚI HÀ TIÊN (ĐẦU THẾ KỶ XIX).

Từ đầu thế kỷ XIX, toàn bộ lãnh thổ Việt Nam đã được đặt dưới sự cai trị thống nhất
của vương triều Nguyễn. Đây là triều đại cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam, được
lập nên trong hoàn cảnh tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến động, nhất là nguy cơ
xâm lược ngày càng lớn từ các nước thực dân phương Tây. Trong bối cảnh ấy, chính sách
ngoại giao của triều Nguyễn (trong đó có việc trao đổi buôn bán) với phương Tây đã có ảnh
hưởng quyết định đến sự tồn vong của các thương cảng ở Việt Nam. Với chính sách cai trị
của triều Nguyễn, nhiều thương cảng ngày càng phát triển hơn nhưng cũng có nhiều thương
cảng phải lùi tàn mà cảng Hà Tiên là một trong số ấy.

Sau khi lên nắm quyền (1802), các vua triều Nguyễn đã có nhiều có gắng để khôi phục
trật tự xã hội và phát triển kinh tế đất nước. Vùng đất Nam Bộ nói chung và Hà Tiên nói
riêng đã được các vua Nguyễn chú ý và tạo điều kiện để phát triển. Trong đó, có việc triều
đình cho đào các con kênh quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của Nam Bộ.

Cuối năm 1816, vua Gia Long nghiên cứu địa đồ vùng đất phía Tây sông Hậu và bảo
với các thị thần rằng : “Đất này nay mở mang đường sông để đi thẳng tới Hà Tiên làm ruộng,
đi buôn đều có lợi cả. Sau này dân ở đông đúc, đất mở rộng rãi, có thể trở thành một trấn to
lớn” [59, tr. 940].

Việc đào kênh Thoại Hà được tiến hành ngay trong năm 1817, dựa trên cơ sở một con
sông cũ có tên là Tam Khê. Sách Đại Nam thực lục chép rằng : “Vua thấy đất ấy gần Chân
Lạp, mênh mông lầy rộng, đường sông qua Kiên Giang bị bùn cỏ ùn tắc, thuyền bè không đi
được, bèn sai trấn thủ Nguyễn Văn Thoại sửa sang đường sông, điều động dân Hán (tức
người Việt), dân Di (người Miên) 1.500 người để vét, nhà nước cấp cho tiền gạo, khiến nhân
lối cũ mà đào sâu rộng thêm. Hơn một tháng sông vét xong, ngang hơn 10 trượng, sâu 18
thước, dân Hán, dân Di đều có lợi cả. Vua khen công của Thoại, đặt tên sông là Thoại Hà”
[59, tr. 958].

Việc đào kênh Thoại Hà là cố gắng lớn đầu tiên của triều đình nhà Nguyễn đối với
vùng đất phía Tây sông Hậu xét về mặt cơ sở hạ tầng. Trên bia Thoại Sơn dựng năm 1822 có
ghi : “kinh dài 12.410 tầm (1 tầm tương đương 2m56), trải một tháng thì việc xong, nghiểm
nhiên trở thành một con sông to, luôn luôn ghe thuyền qua lại tiện lợi” [29]. Tầm quan trọng
của kênh Thoại Hà (tức kênh Rạch Giá – Long Xuyên ngày nay) là không thể phủ nhận. Con
kênh này đã tiếp nhận nước sông Hậu tại thị xã Long Xuyên vòng chảy qua núi Sập và chảy
vào Vàm Rạch Giá. Con kênh này lúc bấy giờ là con kênh đào duy nhất đưa nước ngọt và
phù sa từ sông Hậu về các cánh đồng phía Tây bắc Kiên Giang. Điều đặc biệt nửa là, bên
cạnh giá trị phục vụ thủy nông, kênh Thoại Hà còn có giá trị lớn về giao thông thủy. Đây là
con đường tắt xuôi ngược lên sông Hậu, đạt hiệu quả lớn về kinh tế - xã hội. Nói cách khác,
đây là tuyến đường thủy thông thương quan trọng nối liền Hà Tiên – Kiên Giang với các tỉnh
khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Năm 1819, vua Gia Long ra lệnh đào tiếp kênh Vĩnh Tế. Đây là công trường đào kênh
qui mô nhất vào đầu thế kỷ XIX. Trịnh Hoài Đức chép về việc đào kênh Vĩnh Tế như sau :
vua “sai trấn thủ trấn Vĩnh Thanh là thống chế Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại, Vệ úy
chưởng cơ vệ Hữu bảo hữu quân là Tuyên quan hầu Phan Văn Tuyên, đốc sức dân phu, trấn
vĩnh Thanh, mỗi phiên 5000 người, với quân lưu trú ở đồn Uy Viễn 500 người. Chiêu Chùy
nước Chân Lạp là Tôn La A Toàn Phù đem quân dân mỗi phiên 5000 người” [20, tr. 58].
Năm 1824, sau 5 năm thi công, kênh Vĩnh Tế hoàn thành. Kênh rộng 15 tầm (1 tầm khoảng
2.56 m), chiều dài tổng cộng 205 dặm rưỡi. Đây là một công trình giao thông thủy quan
trọng dùng để lưu thông trực tiếp giữa các con sông Nam kỳ và vịnh Thái Lan, có ý nghĩa
lớn về kinh tế - xã hội lẫn quốc phòng.

Đối với Hà Tiên, việc đào kênh Vĩnh Tế còn có ý nghĩa đặc biệt, bởi vì sông Giang
Thành – một trong những tuyến giao thông thủy quan trọng của Hà Tiên đã được nối liền với
kênh Vĩnh Tế, tạo nên tuyến đường thủy thông suốt từ Châu Đốc đến Hà Tiên. Tuyến kênh
này còn góp phần đưa nước ngọt từ sông Hậu về Hà Tiên – Kiên Giang phục vụ cho sản xuất
và đời sống. Kênh Vĩnh Tế cũng góp phần tích cực vào việc tiêu thoát lũ cho khu vực Tây
nam sông Hậu.

Ngoài những lợi ích về nông nghiệp, kinh tế và góp phần vào việc xác lập chủ quyền,
củng cố quốc phòng cho miền tây sông Hậu, thì thiết kế kỹ thuật của kênh Vĩnh Tế cũng là
một trong những thành công mà sau này, trong khi nghiên cứu về kinh Vĩnh Tế, kỹ sư của
thực dân Pháp cũng thừa nhận. Họ viết rằng : “Cửa vào kinh ở trong Rạch Châu Đốc, cách
vàm con rạch này và sông Ba Thắc 900m, thật khó lựa chọn nơi nào tốt hơn làm điểm tiếp
hợp của con kênh. Rạch Châu Đốc nói chung có một lưu lượng rất yếu. Ngược lại, trong
sông Hậu lưu lượng mạnh luôn luôn và dòng nước của nó đổ vào một hướng gần như trực
giao với nước của con rạch, đẩy lùi nước này lại và ngược lên con rạch độ vài sải cáp (1 sải
cáp khoảng 200m) đến tận cửa kênh Hà Tiên, kết quả là lối vào kênh có dòng nước nghịch
chiều đâm ngang, nước thường thường chững lại và chảy vào gần như không có tốc độ, điều
kiện rất tuyệt để tránh đất bồi ở cửa kinh và cũng làm dễ dàng cho tàu thuyền ra vào. Tôi
không biết người An Nam có biết những thuận lợi đó không và phải chăng những nhận xét
đó khiến họ quyết định lựa chọn nơi này, rất có thể như thế. Dù thế nào, đó cũng là sự bố trí
hữu ích cần ghi nhớ cho tuyến đường các con con kênh tương lai của ta”. [28, tr. 28] Lời
nhận xét này, một lần nữa khẳng định giá trị to lớn về mặt giao thông thủy mà kênh Vĩnh Tế
mang lại. Đó là một tuyến đường lý tưởng để phát triển kinh tế thương mại.

Có thể nói, với việc những con kênh quan trọng hình thành, nối thông Hà Tiên với các
khu vực khác đã tạo ra điều kiện thuận lợi mới để cảng Hà Tiên phát triển mạnh mẽ hơn. Lúc
này, bên cạnh đường biển, là con đường giao thương chủ yếu trước đây, bây giờ đã có thêm
đường sông, với những quãng đường đi ngắn hơn, an toàn hơn và thuận lợi hơn rất nhiều.

Tuy nhiên, với những điều kiện thuận lợi nhưng trên, đáng lẽ ra cảng Hà Tiên phải
được khôi phục sau những năm tháng chiến tranh và phát triển như thời hoàng kim vốn có
của nó nhưng cảng Hà Tiên đã phát triển theo hướng hoàn toàn ngược lại. Bởi vì, về thương
mại, vương triều Nguyễn lại thi hành chính sách “bế quan tỏa cảng” rất khắc nghiệt, nhất là
đối với tàu buôn của các nước phương Tây.
Ngay từ thời Gia Long, chính sách “ức thương”, “không phương Tây” đã được thực
hiện, tuy rằng nó chưa quá nghiệt ngã. Dưới triều Gia Long, thương nhân các nước có thể tới
mọi hải cảng của Việt Nam để thông thương nhưng họ phải đến Hội An hoặc Đà Nẵng để
làm thủ tục nhập cảng. Theo đó, các tàu buôn muốn đến cập cảng Hà Tiên phải phải xin phép
tại cảng Đà Nẵng, trong khi Đà Nẵng cách Hà Tiên hơn cả 1000 km đường biển, đây là cả
một sự tốn kém về thời gian lẫn chi phí, là một trở ngại to lớn đối với ngành ngoại thương ở
Hà Tiên. Hơn nửa, để phòng ngừa không cho các nước phương Tây có lý do xâm nhập và
bành trướng thế lực vào nước ta qua việc ký kết những thương ước, Gia Long chủ trương
không ký thương ước với bất kỳ một nước phương Tây nào. Ông cũng từ chối nhận tặng vật
của các thương gia phương Tây và không tiếp sứ giả các nước phương Tây. [66, tr. 80]

Chính sách “ức thương”, “không phương Tây” của Gia Long đã được người kế vị ông
- vua Minh Mạng thực hiện một cách triệt để. Dưới triều Minh Mạng, tàu thuyền phương
Tây chỉ được phép đến thông thương ở cảng Đà Nẵng, không được buôn bán trực tiếp với
các cảng khác. Ở Đà Nẵng, triều đình đặt Nha thương bạc để lo việc tổ chức quản lý, đối tác
kinh doanh đối với các nước phương Tây, biến Đà Nẵng – một cửa khẩu từng làm tiền cảng
cho Hội An trong các thế kỷ thịnh vượng ngoại thương, trở thành cảng quốc tế của triều
Nguyễn.

Chính sách “bế quan tỏa cảng” của nhà Nguyễn đã cản trở rất nhiều đến hoạt động
kinh tế của các cảng ở Việt Nam nói chung và của cảng Hà Tiên nói riêng. Dưới thời vua
Minh Mạng, việc nghiêm cấm các tàu buôn phương Tây cập bến Hà Tiên được thực hiện rất
nghiêm khắc. Sách Đại Nam thực lục chép rằng : vào năm 1835, có một thương nhân người
Anh đi trên một chiếc tàu buôn của người Thanh đến xin buôn bán ở trấn Hà Tiên, vua Minh
Mạng không cho và còn nhắc lại lệnh cấm “Thuyền của Tây Dương chỉ được vào đỗ ở bến
Đà Nẵng, chứ không được buôn bán ở các cửa biển khác…Từ nay hễ người nhà Thanh thì
phải đáp thuyền nhà Thanh mới cho chiếu lệ vào buôn bán ở các cửa biển. Còn người Tây
Dương phải đáp tàu Tây vào thông thương ở cửa biển Đà Nẵng, không được trà trộn vào các
cửa biển khác.” [2, tr. 255]. Việc cấm các tàu buôn phương Tây buôn bán tại Hà Tiên là một
thiệt hại to lớn cho dân cư ở đây.

Bên cạnh, việc “bế quan tỏa cảng” còn phải kể đến sự cản trở bởi các qui định khác
của nhà nước đối với ngoại thương. Đó là việc nhà Nguyễn nắm độc quyền thương ngoại và
cấm xuất khẩu các mặt hàng quan trọng, trong đó có gạo. Sách Đại Nam thực lục viết :
“Triều đình đã nhiều lần xuống dụ nghiêm cấm thuyền buôn không được lén chở gạo cho lái
buôn nhà Thanh và nước ngoài, thóc gạo do đất nước ta sản ra nên để dân ta dùng” [2, tr.
232]. Việc cấm xuất khẩu gạo đã ảnh hưởng rất lớn đối với kinh tế Nam Kỳ nói chung và Hà
Tiên nói riêng, vì ở khu vực này đến đầu thế kỷ XIX, gạo đã trở thành một loại hàng hóa
nông sản có khối lượng lớn. Đồng thời, việc cấm xuất khẩu gạo đã góp phần làm kìm hãm
tốc độ khai hoang của vùng đất Hà Tiên.

Chính vì những chính sách hạn chế thương nghiệp của triều Nguyễn, cộng với những
khó khăn sau những năm tháng chiến tranh chưa được khắc phục, thương cảng Hà Tiên đã
không còn sung túc như trước nữa. Vào đầu triều Nguyễn, số lượng thuyền buôn cả trong
nước và ngoài nước cập cảng Hà Tiên thưa dần, mặc dù sự hấp dẫn của vùng đất Hà Tiên
vẫn còn đó. Cảng Hà Tiên suy tàn dần và chuyển giao vị thế của nó cho thương cảng Sài
Gòn.

3.3.TRIỂN VỌNG CỦA CẢNG HÀ TIÊN NGÀY NAY.

Lịch sử Hà Tiên, tính từ khi trở thành một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Đại Việt
mới khoảng hơn 300 năm. Thời gian ấy so với lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt là khá ngắn ngủi nhưng với bấy nhiêu thôi, người dân Hà Tiên đã viết
nên cho mình những trang sử rất đáng tự hào.

Thật vậy, khởi nghiệp từ một vùng đất có nhiều thuận lợi nhưng lại hoang vắng, qua
bàn tay kiến thiết của Mạc Cửu, Hà Tiên nhanh chóng trở nên phồn vinh vì “ông (Mạc Cửu)
sống mà rất đau xót cho những mảnh đất bao la mà bị bỏ hoang, mặc dầu đất đai ở đây tự
nhiên là màu mỡ hơn ở những nơi khác ... Ông hình thành dự án để làm cho những đất đai đó
trở nên có giá trị” [81, tr. 368]. Mạc Cửu không chỉ biết phát huy thế mạnh của Hà Tiên, biết
tin tưởng vào khả năng của cư dân Hà Tiên mà còn có một quyết định rất sáng suốt khi
nương nhờ vào chúa Nguyễn. Giáo sư Emile Gaspardone đã viết về thời khởi nghiệp ban đầu
của Mạc Cửu như sau “Với ý định này, ông tin tưởng vào một số nông dân tại đất nước ông
và những nước xung quanh, rồi ông khởi sự tìm kiếm lấy cho mình, với nghệ thuật và tài
năng, sự bảo vệ của các ông vua mạnh nhất trong vùng, để bảo vệ cho ông...” [81, tr. 368].
Quyết định của Mạc Cửu đã mở ra trang sử huy hoàng cho vùng đất chứa đựng nhiều huyền
thoại đúng như tên gọi của nó – Hà Tiên (nơi những nàng tiên hạ giới).

Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII là thời kỳ phồn thịnh nhất của Hà Tiên, khi nó có
một nền kinh tế rất phát triển với một thương cảng sầm uất, nơi không thể bỏ qua của những
thương nhân từ bốn phương và một nền văn hóa rực rỡ của vùng đất hải ngoại xa xôi. Người
dân Hà Tiên sẽ mãi ghi nhớ thành quả của cha ông, biến nó thành động lực, sức mạnh để viết
tiếp những trang sử hào hùng khác.

Thế kỷ XVIII khép lại, cư dân Hà Tiên bước vào thế kỷ XIX với biết bao thăng trầm
của lịch sử. Hà Tiên từ một trấn có lãnh thổ rộng lớn cũng thu hẹp dần thành một tỉnh, rồi
một huyện. Dưới sự quản lí của vương triều Nguyễn, thương cảng Hà Tiên không còn được
nhắc đến nữa khi nhà Nguyễn thi hành một chính sách ngoại thương hết sức tiêu cực. Và đến
năm 1867, một biến cố thật sự đến với Hà Tiên khi vùng đất này rơi vào ách thống trị của
thực dân Pháp xâm lược. Từ đây, cư dân Hà Tiên sánh vai cùng nhân dân cả nước bước vào
cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để giành lấy độc lập tự do.
Hơn 80 năm chống Pháp đô hộ và 30 năm kháng chiến chống Mỹ, cư dân Hà Tiên đã lập nên
biết bao chiến công hiển hách, góp phần quan trọng vào chiến thắng chung của dân tộc.

Phát huy những thành quả đạt được, noi gương cha ông, từ năm 1975, cư dân Hà Tiên
đã vượt qua biết bao gian khó, góp sức cùng cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vùng
đất Hà Tiên dần đổi thay và nhân dân cả nước lại được biết đến Hà Tiên với những gì nổi
tiếng vốn có của nó. Hà Tiên của thế kỷ XX, không chỉ là một thiên đường du lịch làm say
đắm lòng người mà còn là một vùng kinh tế phát triển năng động nhất của cả nước.

Từ năm 1998, Hà Tiên trở thành một thị xã của tỉnh Kiên Giang, một trang sử mới
được mở ra. Từ đây, cư dân Hà Tiên với ba dân tộc chính là Kinh, Hoa, Khmer ( 1) vốn đã gắn P F
7
1 P

bó với nhau từ bao đời, nay lại càng gắn bó hơn, cùng chung tay góp sức xây dựng quê
hương Hà Tiên ngày càng tươi đẹp hơn. Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân thị xã Hà Tiên,
sau mười năm thành lập thị xã (1998 – 2007), tình hình kinh tế - xã hội của Hà Tiên đã đạt
được những kết quả rất đáng kích lệ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối khá, năm 2006 là
15,38%, tổng sản phẩm địa phương (GDP) năm 2006 đạt 421,553 tỷ đồng, thu nhập bình

(1) : Theo số liệu thống kê năm 2009, toàn thị xã Hà Tiên có 8.782 hộ với 45.431 người, trong đó dân tộc Kinh chiếm 85,5%,
Khmer chiếm 10,75%, Hoa chiếm 3,7%, dân tộc khác chiếm 0.02%. (Nguồn : UBND thị xã Hà Tiên)
quân đầu người đạt 9,656 triệu đồng (năm 2006). Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo
hướng tăng tỷ trọng thương mại – dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông – lâm – ngư nghiệp nhằm
phát huy thế mạnh về du dịch của Hà Tiên. Năm 2006, tỷ trọng thương mại – du dịch đạt
46,5%, nông – lâm – ngư nghiệp là 30%, công nghiệp – xây dựng đạt 23,5%. Năm 2005,
doanh thu dịch vụ - du lịch đạt 88,280 tỷ đồng. [84, 85, 86] Đặc biệt, tháng 5/2007, cửa khẩu
Xà Xía chính thức được nâng cấp thành cửa khẩu quốc tế, đã đánh dấu bước phát triển mới
của kinh tế cửa khẩu tại địa phương, là cơ sở để thúc đẩy phát triển mậu dịch vùng biên giới
giữa hai nước Việt Nam – Camphuchia. Cùng với kinh tế, các hoạt động văn hóa – giáo dục,
an ninh quốc phòng cũng đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Kinh tế phát triển, trật tự xã
hội được giữ vững, đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được nâng
cao.

Những năm tiếp theo của thế kỷ XXI, kinh tế Hà Tiên tiếp tục đạt được những thành
tựu to lớn. Tốc độ tăng tưởng kinh tế năm sau luôn cao hơn năm trước. Năm 2008, tốc độ
tăng trưởng GDP đạt 17,24%, cao hơn rất nhiều tỷ lệ chung của tỉnh và cả nước. Đến năm
2009, GDP đạt 18,5%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2008 đạt 840 USD (13,878 triệu
đồng), năm 2009 đạt 1.005 USD (16,687 triệu đồng). Năm 2009, Hà Tiên đón trên 937.000
khách du dịch, doanh thu từ dịch vụ - du dịch năm 2009 đạt 189,116 tỷ đồng. Đến năm 2010
ước đạt 242 tỷ đồng (04 tháng đầu năm 2010 đạt 79,32 tỷ đồng). [84, 85] Những thàng tựu
ấy là nền tảng rất quan trọng để thị xã Hà Tiên đề ra chiến lược phát triển kinh tế mới.

Năm 2009, Ủy ban nhân dân thị xã Hà Tiên ban hành đề án xây dựng thị xã Hà Tiên
đến năm 2010 trở thành thành phố Văn hóa – Du lịch. Theo đó, Hà Tiên sẽ được nâng cấp từ
đô thị loại IV lên đô thị loại III. Hà Tiên sẽ là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học
– kỹ thuật, dịch vụ, đầu mối giao thông, giao lưu trong tỉnh và vùng liên tỉnh, có vai trò thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Kiên Giang và liên tỉnh. Giữ vững tốc độ tăng trưởng
kinh tế (GDP) bình quân hàng năm đạt từ 17% trở lên, thu nhập bình quân đầu người đạt 17
– 18 triệu đồng. [85]

Để đạt được mục tiêu trên, thị xã Hà Tiên đang tập trung hoàn thành các công trình
trọng điểm như Trung tâm thương mại thị xã, đầu tư cảng sông, cảng biển, mở rộng giao
thương trong nước và quốc tế, xúc tiến hoàn thành khu lấn biển để mở rộng đô thị mới Hà
Tiên ; đẩy nhanh tiến độ đầu tư các khu chức năng của khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Hà Tiên
(cửa khẩu Xà Xía) như kho ngoại quan, siêu thị hàng miễn thuế, chợ đường biên...Đặc biệt
với lợi thế có nhiều danh lam thắng cảnh du dịch, di tích lịch sử văn hóa (thị xã Hà Tiên có
tổng số 8 di tích lịch sử văn hóa, trong đó có 5 di tích cấp Quốc gia và 3 di tích cấp tỉnh), du
lịch được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn đột phá thúc đẩy các ngành kinh tế khác cùng
phát triển. Thị xã đang triển khai xây dựng khu du lịch trọng điểm Mũi Nai với diện tích
170.000 m2 , khu du lịch Thạch Động diện tích 50.000 m2 , tiếp tục đầu tư các điểm du lịch
P P P P

mới tại đầm Đông Hồ, núi Đèn, Tà Lu, quần đảo Hải Tặc, khai thác các loại hình du lịch
biển, sinh thái, kết hợp với nghỉ dưỡng...

Bên cạnh đó, thị xã Hà Tiên đang đầu tư xây dựng cảng cá Tô Châu, các cảng biển,
cảng sông nhằm khôi phục lại hình ảnh đô hội sầm uất của thương cảng Hà Tiên xưa, xây
dựng khu công nghiệp Thuận Yên để thúc đẩy kinh tế phát triển. Hệ thống giao thông của thị
xã tiếp tục được đầu tư phát triển. Về đường bộ, thị xã Hà Tiên hiện có 23,5 km đường quốc
lộ ; 9.04 km tỉnh lộ, 26,13 km đường nội ô thị xã và 27,5 km đường giao thông nông thôn.
Trong đó, quan trọng nhất là quốc lộ 80 nối thành phố Rạch Giá, thị xã Hà Tiên với
Camphuchia. Về đường biển, từ Hà Tiên có tàu cao tốc đi Phú Quốc. Hà Tiên cũng có đường
thủy từ Đông Hồ đi Kiên Lương, Phú Mỹ...

Như vậy, ngày nay Hà Tiên đang có nhiều thế mạnh để phát triển du lịch và cơ sở hạ
tầng của Hà Tiên cũng đang được đầu tư theo hướng ấy. Trong hệ thống đô thị quốc gia, Hà
Tiên là thị xã trung tâm khu vực phía Tây tỉnh Kiên Giang. Vùng ảnh hưởng của đô thị Hà
Tiên còn bao trùm cả khu vực phía Tây Nam tỉnh An Giang, và Hà Tiên còn đóng vai trò hậu
cần quan trọng cho huyện đảo Phú Quốc. Trong chiến lược phát triển du lịch quốc gia, Hà
Tiên thuộc khu vực Rạch Giá – Hà Tiên – Phú Quốc, là một trong bảy trọng điểm du lịch
quốc gia. Đây là trọng điểm duy nhất của quốc gia tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Chiến lược phát triển du lịch quốc gia xác định các định hướng quan trọng là du lịch
sinh thái và văn hóa bên cạnh sản phẩm du lịch “biển, đảo” là thế mạnh truyền thống của
nước ta. Đó chính là lí do Hà Tiên, kết hợp với Phú Quốc và trung tâm Rạch Giá của Kiên
Giang, tạo thành một trọng điểm kinh tế quan trọng của Việt Nam, là hạt nhân thúc đẩy phát
triển du lịch vùng đồng bằng sông Cửu Long. Thế mạnh về tài nguyên nhân văn của Hà
Tiên, với truyền thống 300 năm xây dựng và phát triển, kết hợp với cảnh quan thiên nhiên
đặc sắc đã mang lại những giá trị to lớn cho việc phát triển của khu vực trọng điểm này.
Vì thế, phát triển du lịch là động lực, là ngành mũi nhọn để phát triển kinh tế và điều
này đã được xác định trong chiến lược phát triển của Hà Tiên. Nhận thức được vị thế quan
trọng của Hà Tiên, trong chiến lược phát triển kinh tế của thế kỷ XXI, Đảng và Nhà nước ta
đã dành ưu tiên cho Hà Tiên thành lập khu kinh tế đặc biệt, mở rộng cửa khẩu Xà Xía để tiếp
cận với các nước trong khu vực ASEAN như Thái Lan, Camphuchia, Malaysia,
Singapo…Đồng thời tỉnh Kiên Giang và thị xã Hà Tiên cũng đang có dự án xây dựng cảng
biển nước sâu ở Phú Quốc, Tiên Hải, Hà Tiên. Và cảng Hà Tiên sẽ là cảng trung chuyển
hàng hóa, hành khách du lịch, là đầu cầu mậu dịch hàng hải khu vực Tây Nam của Tổ quốc.
Đó là điều hết sức cần thiết, “nếu chúng ta không sớm đưa Hà Tiên thành khu kinh tế mở đặc
biệt trong vịnh Thái Lan, thì chúng ta sẽ bị “trễ tàu” một khi nước bạn láng giềng mở rộng
hải cảng Kampongson. Cơ hội hội nhập của ta trong vùng biển Nam Á sẽ mất thế thượng
phong”. [15, tr. 17]

Với vị thế và tiềm năng của mình, từ những thành tựu đạt được trong thế kỷ mới, cùng
với một chiến lược phát triển đúng đắn và đặt biệt là trên cái nền huy hoàng của lịch sử, chắc
chắn trong tương lai Hà Tiên sẽ phát triển bằng và vượt xa những kỳ tích từ thời họ Mạc.

Thị xã Hà Tiên đang được đầu tư phát triển. Thương cảng Hà Tiên đang dần mở rộng
và ngày càng hoàn thiện. Từ cầu Tô Châu bước lên khách sạn Pháo Đài, chúng ta có thể thu
gọn Hà Tiên vào trong tầm mắt. Dưới chân cầu, hàng trăm tàu buôn, tàu đánh cá nối đuôi
nhau đậu thành hàng dài suốt ngày nhộn nhịp. Trên bờ, một khu phố lấn biển rộng hàng trăm
hecta đang được quy hoạch thành khu du lịch - dịch vụ - thương mại trẻ trung, năng động và
thay đổi từng ngày. Ngành thương mại - du lịch Kiên Giang cũng đã xúc tiến nâng cấp các
khu du lịch, tạo nên một tam giác kinh tế Rạch Giá - Hà Tiên - Phú Quốc, giúp cho thị xã Hà
Tiên lúc nào cũng sung túc, rộn ràng và tất bật.

Trong tương lai, cảng Hà Tiên không chỉ là bến đỗ cho khách du lịch đến chiêm
ngưỡng vẻ đẹp huyền bí của Hà Tiên mà còn là cảng trung chuyển hàng hóa quan trọng của
con đường hàng hải trên biển qua vịnh Thái Lan. “Từ xa xưa, Hà Tiên đã là một bức tranh
lụa thiên nhiên, là nơi hội tụ của các nàng tiên trong truyền thuyết. Ngày nay, trong xu thế
phát triển du lịch toàn cầu và chương trình nâng cấp các khu du lịch, Hà Tiên - Kiên Lương
sẽ trở thành những khu nghỉ mát lý tưởng ” [52], và là một thương cảng quan trọng.
Hà Tiên đang từng ngày đổi thay với nhiều công trình, nhiều dự án đã và đang triển
khai, từ ngư nghiệp, nông nghiệp đến công nghiệp, du lịch, thương mại… Chẳng bao lâu nữa
Hà Tiên sẽ lại trở thành một “quyền lực kinh tế” ở vùng đất cực Nam Tổ Quốc.

Như vậy, với nhiều nguyên nhân, từ đầu thế kỷ XIX, thương cảng Hà Tiên không còn
giữ vị trí là trung tâm của miền Tây sông Hậu, không còn là thương cảng trung tâm Đông
Nam Á nữa. Nhưng ngày nay và trong tương lai, với những lợi thế vốn có của mình và sự
đầu tư đúng hướng, chắc chắn thương cảng Hà Tiên sẽ nhanh chóng phát triển hơn thời
hoàng kim trước đây.
KẾT LUẬN

Vào năm 1708, tức là cách đây hơn 300 năm, ở vùng đất địa đầu cực Nam của Tổ
Quốc Việt Nam đã diễn ra một sự kiện đặc biệt : Đó là việc Mạc Cửu đã quyết định dâng đất
Hà Tiên, quy thuận chúa Nguyễn Phúc Chu, đánh dấu sự xác lập chủ quyền của dân tộc Việt
Nam trong quá trình mở cõi về phương Nam. Sự kiện này đã mở ra một trang sử mới trong
lịch sử hình thành của vùng đất Hà Tiên. Từ thời điểm đó trở đi, Hà Tiên là lãnh thổ thiêng
liêng của dân tộc Việt Nam, là đồn tiền tiêu, nơi án ngữ cửa ngõ phía Tây Nam tận cùng của
Tổ Quốc. Và cũng từ lúc ấy, Hà Tiên trở nên nổi tiếng trong lịch sử Đông Nam Á và thế giới
bởi vì ở đó có một thương cảng trung chuyển quốc tế quan trọng – thương cảng Hà Tiên.

Lịch sử thương cảng Hà Tiên gắn liền với công lao của dòng họ Mạc. Được sự ưu ái,
giúp đỡ, che chở của các chúa Nguyễn và bằng sự nhạy bén của một thương gia có tài, Mạc
Cửu nhanh chóng nắm bắt được lợi thế của vùng đất Hà Tiên và biết cách làm cho nó trở nên
phồn thịnh. Với chiến lược phát triển kinh tế lấy thương mại làm chủ đạo, Mạc Cửu đã dốc
sức tổ chức xây dựng thành quách, mở mang phố chợ và kêu gọi thuyền buôn đến buôn bán,
biến Hà Tiên trở thành một thương cảng sầm uất. Thời bấy giờ, cảng Hà Tiên là điểm đến
hấp dẫn cho giới thương nhân từ khắp nơi trên thế giới. Mạc Cửu chính là người đã đặt nền
móng và kiến thiết cho sự phát triển của Hà Tiên, đã để lại một gia tài khá đồ sộ cho những
người kế tục sự nghiệp của ông.

Mạc Thiên Tứ - một người “văn võ toàn tài”- làm đô đốc trấn Hà Tiên đã không phụ
công sức của cha mình. Ông đã đưa thương cảng Hà Tiên phát triển đến mức cao nhất trong
điều kiện bấy giờ. Trong suốt 45 năm dưới thời của ông (1736 - 1780), Hà Tiên đã đạt nhiều
thành tựu lớn trên nhiều lĩnh vực, từ xây dựng kinh tế, mở mang văn hóa, mở rộng biên
cương bờ cõi đến đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ sự toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ
quốc gia.

Về kinh tế, Hà Tiên là một phố thị phồn vinh. Thương cảng Hà Tiên giữ vai trò
“quyền lực thương mại” của Đàng Trong, của thế giới, với tàu thuyền ra vào tấp nập. Thời
ấy, thuyền buôn ở khắp nơi trên thế giới từ Đông Nam Á, Trung Quốc, Ấn Độ đến Anh,
Pháp, Bồ Đào Nha…đã chở hàng hóa đến buôn bán và mang những sản vật phong phú của
Hà Tiên ra thế giới bên ngoài. Chính điều này tạo nên sự giàu có cho vùng đất Hà Tiên với
cảnh chợ búa nhộn nhịp. Cảng Hà Tiên không chỉ là một nơi trung chuyển, chờ thuyền buôn
nước ngoài đến. Từ đây, những đoàn thuyền buôn đầy ắp hàng hóa của cư dân Hà Tiên cũng
đã giong buồm ra khơi, hòa mình vào dòng chảy của con đường thương mại quốc tế. Thế kỷ
XVIII là khoảng thời gian phát triển thịnh đạt nhất của thương cảng Hà Tiên, là khoảng thời
gian thương cảng này có vai trò quan trọng trong nền thương mại Việt Nam và thế giới bấy
giờ.

Về văn hóa, người Hà Tiên đã tạo cho mình một thế ứng xử mang dấu ấn đặc biệt.
Con người Hà Tiên thật thà và hào phóng, yêu quê hương và yêu văn chương. Tao Đàn
Chiêu Anh Các với Hà Tiên thập vịnh là sản phẩm của trí tuệ, tài năng văn hóa xuất sắc của
người Hà Tiên, của trí thức Hà Tiên, được ngợi ca là sánh với chữ nghĩa của thánh hiền:
“gần xa, các sĩ phu đọc từng bài thưởng thức và thán phục. Dẫu ở tận cõi Nam thùy, Hà Tiên
cũng nhờ đó mà trở thành trời Trâu đất Lỗ nổi dậy tiếng tăm…”[42, tr. 164]

Thế nhưng, cũng giống như sóng biển Hà Tiên vào những ngày giông bão, sự phát
triển của thương cảng Hà Tiên không chỉ yên bình mà đầy sóng gió. Sự giàu có của Hà Tiên
đã kích thích tham vọng của những kẻ xâm lược. Để bảo vệ Hà Tiên, Mạc Cửu và Mạc
Thiên Tứ đã nhiều phen buộc phải điều động binh mã, có khi phải xin viện binh từ thành Gia
Định, để đánh dẹp bọn phiến loạn và quân xâm lược. Kết cục, với sự đồng lòng chung sức
của người Hà Tiên, sự giúp đỡ của các chúa Nguyễn, vùng đất này cũng bình yên sau mỗi
lần xảy ra xung đột, chiến tranh. Mỗi lần chiến tranh Hà Tiên lại bị tàn phá nặng nề. Đây
chính là nguyên nhân trực tiếp khiến cho thương cảng Hà Tiên dần suy tàn vào đầu thế kỷ
XIX. Nhưng trong thư tịch và ký ức dân gian, quá khứ phát triển phồn thịnh của Hà Tiên và
những thành tựu mà cư dân Hà Tiên đạt được trong thế kỷ XVIII vẫn được nhớ đến như một
kỳ tích – kỳ tích Hà Tiên.

Hiểu về quá khứ để hướng tới tương lai, nhân dân Hà Tiên đang làm tất cả để đưa thị
xã Hà Tiên, cảng Hà Tiên lên một tầm cao mới, rực rỡ hơn và huy hoàng hơn. Thị xã Hà
Tiên đang chuyển mình với nhiều công trình, nhiều dự án đã và đang triển khai để trở thành
một thành phố Văn hóa – Du lịch. Hà Tiên vẫn đang là miền đất chờ đón những nỗ lực kiến
thiết và xây dựng: “Ngày nay Hà Tiên tuy không còn rộng và nguyên vẹn như xưa nhưng
vẫn nhìn ra vịnh Thái Lan, bên kia là đảo Phú Quốc vẫy gọi, ngày đêm sóng vỗ như nhắc
nhở chúng ta phải làm gì để Hà Tiên phát triển phù hợp với thời đại mới, xứng đáng với di
sản văn hóa, công lao của tiền nhân để lại’. [42, tr. 54] Thương cảng Hà Tiên đang dần mở
rộng và ngày càng hoàn thiện. Chắc chắn chẳng bao lâu nữa Hà Tiên sẽ lại trở thành một
“quyền lực kinh tế” ở vùng đất cực Nam Tổ Quốc./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Đào Duy Anh (2006), Đất nước Việt Nam qua các đời (Nghiên cứu Địa lý học Lịch sử
Việt Nam), NXB. Thuận Hóa.

2. Nguyễn Thế Anh (1971), Kinh tế xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn, Sài
Gòn.

3. Nguyễn Thế Anh (2008), Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, NXB. Văn học, Tp. HCM.

4. Bùi Công Ba, Những đồng tiền cổ của dòng họ Mạc ở Hà Tiên, Báo Văn hóa, 20 –
27/6/2006.

5. Đỗ Bang, Mối quan hệ giữa các phố cảng Đàng Trong với Phố Hiến thế kỷ XVII –
XVIII, Tập chí Nghiên cứu Kinh tế, số 1, 1993.

6. Đỗ Bang, Những chiến công chống ngoại xâm vùng biển dưới thời các chúa Nguyễn ở
Đàng Trong, Tạp chí Huế Xưa và nay, số 57/2003.

7. Đỗ Bang (1997), Kinh tế thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn, NXB.Thuận
Hóa.

8. Nguyễn Công Bình (1995), Đồng bằng sông Cửu Long nghiên cứu và phát triển,
NXB. KHXH, Hà Nội.

9. Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Kiên Giang (1985), Lịch sử Đảng cộng sản Việt
Nam tỉnh Kiên Giang (1930 – 1945).

10. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 3, NXB. KHXH, Hà Nội.

11. Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn, Hà Tiên (Kiên Giang –
Minh Hải), NXB. Tp. HCM.

12. Nguyễn Đình Đầu (1987), Địa chí văn hóa Tp. Hồ Chí Minh, tập 1, NXB. Tp. HCM.

13. Nguyễn Đình Đầu (2007), Việt Nam quốc hiệu và cương vực qua các thời đại, NXB.
Trẻ.

14. Trương Minh Đạt (2008), Nghiên cứu Hà Tiên, NXB. Trẻ, Tp. HCM.
15. Trương Minh Đạt (1999), Hà Tiên tìm lại vị thế cảng khẩu trù phú của thế kỷ XVIII
T
5

được chăng ?, Tạp chí Kinh tế hợp tác Kiên Giang, số 2.

16. Trương Minh Đạt (1999), Nền kinh tế Hà Tiên thời Mạc Cửu, Tạp chí Kinh tế hợp tác
T
5

Kiên Giang, số 3.

17. Trương Minh Đạt (1999), Du lịch Kiên Giang không thể mất thế đứng, Tạp chí Kinh
T
5

tế hợp tác Kiên Giang, số 4.

18. Lê Quý Đôn tuyển tập (2007), tập 2, Phủ biên tạp lục, phần I/ Nguyễn Khắc Thuần
dịch và hiệu đính, NXB. Giáo Dục, Hà Nội.

19. Lê Quý Đôn tuyển tập (2008), tập 3, Phủ biên tạp lục, phần II/ Nguyễn Khắc Thuần
dịch và hiệu đính, NXB. Giáo Dục, Hà Nội.

20. Trịnh Hoài Đức (1998), Gia Định thành thông chí, Đỗ Mộng Khương, Nguyễn Ngọc
Tỉnh dịch, Đào Duy Anh hiệu đính và chú thích. NXB. Giáo Dục.

21. Sơn Hồng Đức (1973), Vịnh Thái Lan, NXB, Miền Tây.

22. Nguyễn Hiền Đức (1995), Mạc Thiên Tứ với Chiêu Anh Các, in trong Lịch sử Phật
giáo Đàng Trong, NXB. TP. HCM.

23. Lê Quang Định (2005), Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Phan Đăng dịch và chú
giải, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, NXB. Thuận Hóa.

24. Dinh Đức hầu Vũ Thế Dinh (2005), Mạc Thị Gia phả / Nguyễn Khắc Thuần dịch,
NXB. Giáo Dục, Hà Nội.

25. Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải (1995), Văn hóa Óc Eo – những khám phá
mới, NXB. KHXH, Hà Nội.

26. Nguyễn Thùy Dương (1997), Kinh tế Hà Tiên – Rạch Giá thời Pháp thuộc (1867 –
1939), Luận án phó Tiến sĩ Sử học, NXB. Viện Khoa học xã hội Tp. Hồ Chí Minh.

27. Trần Văn Giàu (1994), Lời giới thiệu tác phẩm “Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn”,
NXB. Tp. HCM.

28. Vũ Minh Giang (chủ biên) (2006), Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, NXB. Thế
Giới, Hà Nội.
29. Nguyễn Văn Hầu (1999), Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai thác miền Hậu Giang,
NXB. Trẻ, Tp. HCM.

30. Nguyễn Hữu Hiếu (2008), Hà Tiên trong lịch sử Nam Bộ đến cuối thế kỷ XVIII, Tạp
chí Xưa và Nay, số 314 (tháng 8).

31. Trần Kinh Hòa (1958), Họ Mạc và chúa Nguyễn ở Hà Tiên, Văn hóa Á Châu, số 7
(tháng 10).

32. Đông Hồ (1970), Văn học Hà Tiên, NXB. Văn Nghệ, TP. HCM.

33. Nguyễn Anh Huy (2001), Những phát hiện mới về họ Mạc đúc tiền, Tạp chí Khảo cổ
học, số 3.

34. Lê Trọng Khánh (1992), Bước đầu góp phần vào việc tiếp cận một số vấn đề lịch sử
cổ đại, Nghiên cứu lịch sử số 4 (263) tháng 7- 8.

35. Phan Khoang (2001), Việt sử xứ Đàng Trong 1558 - 1777, NXB. Văn học, Tp. HCM.

36. Trần Trọng Kim (1968), Việt Nam sử lược, NXB. Tân Việt, Sài Gòn.

37. Nguyễn Văn Kim (2006), Nam Bộ Việt Nam – Môi trường kinh tế biển và mối quan hệ
với các quốc gia khu vực thế kỷ XVII – XVIII, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 1 (357).

38. Nguyễn Văn Kim (2005), Óc Eo – Phù Nam : Vị thế lịch sử và các mối quan hệ khu
vực, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, số 1.

39. Nguyễn Văn Kim (2003), Quan hệ của Nhật Bản với Đông Nam Á thế kỷ XV – XVII,
NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội.

40. Nguyên Khang (2006), Hà Tiên từng là thương cảng trung tâm Đông Nam Á, Kiến
thức ngày nay, số 558, (ngày 10/2).

41. Kỷ yếu Hội thảo khoa học (2002), Nam Bộ và Nam Trung Bộ những vấn đề lịch sử thế
kỷ XVII – XIX, Trường ĐH Sư pham Tp. HCM.

42. Kỷ yếu Hội thảo khoa học (2009), Di sản văn hóa Hà Tiên – Bảo tồn và phát triển, Sở
Văn hóa – Thể thao và Du lịch tỉnh Kiên Giang, Hà Tiên, tháng 9.

43. Huỳnh Lứa (chủ biên) (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, NXB. Tp. Hồ Chí
Minh.
44. Huỳnh Lứa (2000), Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII, XIX,
NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội.

45. TS. Trần Thị Mai (2004), Đất Hà Tiên và dòng họ Mạc, in trong Nam Bộ - Đất &
Người, Nxb Trẻ.

46. Sơn Nam (1973), Lịch sử khẩn hoang Miền Nam (biên khảo), NXB. Trẻ, Tp. Hồ Chí
Minh.

47. Sơn Nam (1997), Đất Gia Định xưa, NXB. Trẻ, Tp. HCM.

48. Lại Bích Ngọc (2003), Về hoạt động của công ty Đông Ấn Hà Lan ở Châu Á thế kỷ
XVII, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 2.

49. Lương Ninh (2005), Vương Quốc Phù Nam – Lịch sử và văn hóa, NXB. Văn hóa
Thông Tin, Hà Nội.

50. Hãn Nguyên (1970), Hà Tiên chìa khóa Nam tiến của dân tộc Việt Nam xuống Đồng
bằng sông Cửu long, Tạp san Sử - Địa, số 19.

51. Dương Tấn Phát (chủ biên) (1986), Tìm hiểu Kiên Giang, Ban nghiên cứu Lịch sử
Đảng tỉnh Kiên Giang.

52. Hoài Phương (2008), Biển Hà Tiên - Khu du lịch “đệ nhất miền Tây”, Báo Hậu
Giang, (ngày 4/4)

53. Nguyễn Phan Quang (1999), Việt Nam thế kỷ XIX (1802 – 1884), NXB. Tp. HCM.

54. Lê Văn Quang (1995), Lịch sử vương quốc Thái Lan, NXB. Tp. HCM.

55. Chu Đạt Quan (2006), Chân Lạp phong thổ ký, Hà Văn Tấn dịch, NXB. Thế Giới, Hà
Nội.

56. Dương Kinh Quốc (1988), Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước Cách mạng tháng
Tám 1945, NXB. KHXH.

57. Quốc sử quán Triều Nguyễn (1974), Minh Mạng chính yếu/ Võ Khắc Văn, Lê Phục
Thiện dịch, NXB, Sài Gòn.

58. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam liệt truyện tiền biên, tập I, Viện sử học
Việt Nam. NXB. Thuận Hóa.
59. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, tập I, NXB. Giáo Dục, Hà Nội.

60. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, tập II, NXB. Giáo Dục, Hà
Nội.

61. Quốc sử quán triều Nguyễn (1971), Đại Nam nhất thống chí, tập 5, NXB. KHXH, Hà
Nội.

62. Đại Nam nhất thống chí – Lục tỉnh Việt Nam tập hạ (1973) : An Giang, Hà Tiên, dịch
giả Tu Trai Nguyễn Tạo, Nha Văn hóa, Phủ Quốc vụ khanh, Sài Gòn.

63. Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong – Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ XVII và
XVIII, NXB. Trẻ.

64. Hồ Qui Hứa Nhất Tâm (chủ biên) (1995), Hà Tiên đất nước con người, NXB. Cà
Mau.

65. Lê Bá Thảo (1998), Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lí, NXB. Thế Giới, Hà Nội.

66. Trần Nam Tiến (2006), Ngoại giao giữa Việt Nam và các nước phương Tây dưới triều
Nguyễn (1802 – 1858), NXB. ĐH Quốc gia Tp. HCM.

67. Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển Bách khoa Việt
Nam, tập 1, Hà Nội.

68. Trung Tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2005), Từ điển Tiếng Việt, NXB.
Văn hóa Sài Gòn.

69. Cao Tự Thanh (1998), Hà Tiên quá khứ và tương lai, Báo Công An Tp. HCM, (ngày
1/10).

70. Thành Thế Vỹ (1961), Ngoại thương Việt Nam hồi thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ
XIX, NXB. Sử học, Hà Nội.

71. Nguyễn Cẩm Thúy (2000), Định cư của người Hoa trên đất Nam Bộ (Từ thế kỷ XVII
đến năm 1945), NXB. KHXH, Hà Nội.

72. Lê Thông (Chủ biên) (2009), Địa Lí các tỉnh và thành phố Việt Nam, tập 6, NXB.
Giáo dục, Hà Nội.

73. Sở Văn hóa Thông tin Kiên Giang (2000), Kiên Giang điểm hẹn, NXB. Văn Nghệ, Tp.
HCM.
74. Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế (1992), Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, NXB.
KHXH.

75. Lê Bá Thảo (1990), Thiên nhiên Việt Nam, NXB. KH - KT, Hà Nội.

76. Hà Văn Thùy (2003), Trấn Hà Tiên và Tao đàn Chiêu Anh các, NXB. Văn học.

77. Ủy ban nhân dân thị xã Hà Tiên (2008), Báo cáo tóm tắt tình hình kinh tế - xã hội từ
khi thành lập thị xã Hà Tiên đến nay (1998 – 2007), Hà Tiên, tháng 8.

78. Ủy ban nhân dân thị xã Hà Tiên (2010), Báo cáo định hướng xây dựng thị xã Hà Tiên
đến năm 2010 trở thành thành phố Văn hóa – Du lịch, Hà Tiên, tháng 10.

79. Ủy ban nhân dân thị xã Hà Tiên (2010), Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội của thị
xã Hà Tiên trong các năm qua, định hướng đến năm 2015, Hà Tiên, tháng 4.

80. D.G.E.Hall (1997), Lịch sử Đông Nam Á, NXB. Chính trị QG, HN.

81. Emile Gaspardone (1952), Un Chinois des Mers du Sud le Fondateur de Ha Tien
(Người Trung Hoa ở biển Nam, người sáng lập Hà Tiên), Tạp chí journal Asiatique.
Bản dịch, Trương Minh Đạt hiệu đính.

82. Website : http://www.tuoitrehatien.info.vn;


2T T
2

83. Website : http://vi.wikipedia.org.


2T 2T
DANH MỤC PHỤ LỤC

Phụ lục 1 : Niên biểu tóm tắt Lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Hà Tiên (Từ thế
kỷ I – XX).

Phụ lục 2 : Thế thứ dòng học Mạc ở Hà Tiên.

Phụ lục 3 : Mạc Cửu (1655 – 1735).

Phụ lục 4 : Mạc Thiên Tứ (1718 – 1780).

Phụ lục 5 : Hà Tiên thập cảnh tổng vịnh và Hà Tiên thập vịnh.

Phụ lục 6 : Họ Mạc và chúa Nguyễn tịa Hà Tiên (Trần Kinh Hòa - Diễn văn đọc tại trụ sở
Hội VN nghiên cứu liên lạc văn hóa Á Châu).

Phụ lục 7 : Một số hình ảnh về Kiên Giang và Hà Tiên:

- Bản đồ hành chính tỉnh Kiên Giang ngày nay.

- Bản đồ hành chính thị xã Hà Tiên ngày nay.

- Tượng đài Danh nhân Mạc Cửu ở thị xã Hà Tiên.

- Một số hình ảnh về đền thờ họ Mạc trên núi Bình San.

- Một số hình ảnh về Cảng Hà Tiên ngày nay.

- Một số hình ảnh về các cảnh đẹp ở Hà Tiên ngày nay.

Nguồn :
- Đại Nam thực lục (tập 1).
- Đại Nam liệt truyện tiền biên, tập .
- Mạc Thị Gia phả.
- Gia Định thành thông chí/Lý Việt Dũng dịch và chú giải,
- Ngiên cứu Hà Tiên.
- Ảnh chụp của tác giả luận văn.
- http://www.chudu24.com; quehuong.org.vn
T
2 2T
PHỤ LỤC 1 :

NIÊN BIỂU TÓM TẮT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ

PHÁT TRIỂN CỦA VÙNG ĐẤT HÀ TIÊN (Từ thế kỷ I – XX)

(Nguồn : Đại Nam thực lục (tập 1);


Mạc Thị Gia phả; Gia Định thành thông chí, Nghiên cứu Hà Tiên)

THỜI
SỰ KIỆN CHÍNH
GIAN

TK I - VII Hà Tiên thuộc vương quốc Phù Nam.

TK VII - Hà Tiên chưa có chính quyền nào quản lí, lúc này có tên gọi là
XVII Mang Khảm.

Mạc Cửu đến định cư ở Mang Khảm và được vua Chân Lạp
1700
phong làm Ốc Nha.

Mạc Cửu thần phục chúa Nguyễn Phúc Chu và được phong
làm Tổng trấn Hà Tiên. Từ đây, Hà Tiên chính thức trở thành
1708
một phần lãnh thổ Việt Nam. Thương cảng Hà Tiên bắt đầu
phát triển.

Mạc Cửu mất và được chúa Nguyễn tặng “Khai trấn thượng
1735
trụ quốc đại tướng quân Vũ nghị công”.

Mạc Thiên Tứ được phong làm Đô đốc trấn Hà Tiên.

Tao Đàn Chiêu Anh Các được thành lập. Tác phẩm “Hà Tiên
1736
thập vịnh” ra đời.

Thương cảng Hà Tiên phát triển sầm uất.

Quân Chân Lạp xâm chiếm Hà Tiên và bị Mạc Thiên Tứ đánh


1739
bại.
Vua Chân Lạp là Nặc Tôn cắt đất 5 phủ: Chân Sâm, Sài Mạt,
Linh Quỳnh, Cần Bột, Hương Ức tặng cho Mạc Thiên Tứ và
1757 được xác nhập vào trấn Hà Tiên.

Đạo Kiên Giang ở Rạch Giá và đạo Long Xuyên ở Cà Mau


được lập.

1767 Hải tặc Hoắc Nhiên đến cướp Hà Tiên và bị đánh bại.

Mạc Thiên Tứ phá được âm mưu đánh úp Hà Tiên của Trần


1769
Thái.

Mạc Thiên Tứ đánh phá được kế hoach tấn công Hà Tiên của
1770
Phạm Lam cùng một số người Chà Và, Chân Lạp.

Quân Xiêm xâm chiếm và tàn phá Hà Tiên.


1771 - 1773
Thương cảng Hà Tiên bắt đầu suy tàn.

Nghĩa quân Tây Sơn chiếm Long Xuyên.


1777
Mạc Thiên Tứ lưu lạc sang Xiêm

Mạc Thiên Tứ mất tại Xiêm. Được phong tặng là Hà Tiên trấn
1780
Tổng binh Đại đô đốc Quốc lão sùng quận công.

1787 Nguyễn Ánh thu phục được Hà Tiên.

Hai đạo Kiên Giang và Long Xuyên thuộc trấn Hà Tiên do


1788
trấn Vĩnh Thanh quản lý.

Đặt huyện Kiên Giang và huyện Long Xuyên do trấn Vĩnh


1808
Thanh quản lý.

Hai huyện Kiên Giang và huyện Long Xuyên do trấn Hà Tiên


1810
quản lý.

1825 Đặt huyện Hà Tiên do phủ An Biên quản lý.


Thành lập tỉnh Hà Tiên. Huyện Hà Tiên gọi là huyện Hà
1832
Châu.

1836 Địa bạ tỉnh Hà Tiên được lập.

1867 Pháp chiếm Hà Tiên.

Xác nhập hai tỉnh Hà Tiên và Rạch Giá thành tỉnh Kiên
1956
Giang.

1975 - 1997 Hà Tiên là thị xã thuộc tỉnh Kiên Giang.

Thị xã Hà Tiên trở thành huyện Hà Tiên thuộc tỉnh Kiên


1997
Giang.

1998 Tái lập thị xã Hà Tiên.

1999 Huyện Hà Tiên đổi thành huyện Kiên Lương.


PHỤ LỤC 2 :
THẾ THỨ DÒNG HỌ MẠC Ở HÀ TIÊN

MẠC CỬU

MẠC THIÊN TỨ

Mạc Mạc Mạc Mạc Mạc Mạc Mạc Mạc Mạc


Tử Tử Tử Tử Tử Tử Thị Thị Thị
Hoàng Thượng Dung Thiêm Sinh Tuấn Giác Long Mai

Mạc Mạc Mạc Mạc Mạc Mạc


Công Công Công Công Công Công
Bách Trụ Bính Tài Du Thê

Mạc Mạc Mạc


Hầu Hầu Hầu
Hy Diệu Phong

Mạc Mạc Mạc Mạc Mạc


Bá Bá Bá Bá Bá
Bình Thành Thiện Trực Triện

Mạc Tử Khâm Mạc Tử Tình

Mạc Nam Hương Mạc Nam Chúng

Mạc Thiên Hậu

(1)
F
8
1
P P

Mạc Tử Bô
Phụ lục 3 :

(1) : Thế thứ dòng họ Mạc ở Hà Tiên trên đây không bao gồm tất cả con cháu dòng họ Mạc ở Hà Tiên, mà chỉ là những cái tên
được sử sách ghi chép lại có liên quan trực tiếp đến lịch sử Hà Tiên. Thực tế con cháu họ Mạc ở Hà Tiên đông hơn rất nhiều. Chỉ
tính riêng con, cháu của Mạc Thiên Tứ đã gần 90 người. Tính đến Mạc Nam Chúng (1895 – 1964) là đời thứ bảy. Đời thứ tám là
Mạc Thiên Hậu (1920 – 1999), đời thứ 9 là Mạc Tử Bô (1952 -…). Họ Mạc hiện nay có khoảng 2.000 người, sinh sống ở tỉnh Cà
Mau là chính. Ngoài ra họ còn sống ở Hà Tiên, Vĩnh Long và Tp. Cần Thơ. Hàng năm, dòng họ Mạc về khu lăng mộ của dòng họ
ở núi Bình San (Thị xã Hà Tiên) tổ chức giỗ cho Mạc Cửu vào ngày 26,27 tháng 5 âm lịch và giỗ Mạc Thiên Tứ vào ngày 4,5
tháng 10 âm lịch.
MẠC CỬU (1655 – 1735)

Mạc Cửu (8/5/1655 – 27/5/1735) người quê xã Lê Quách, huyện Khang Hải, phủ Lôi
Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Trước khi sang định cư ở Hà Tiên, ông là chủ thuyền
buôn, đi lại buôn bán trên các tuyến đường biển từ Trung Quốc đến Philippine, Batavia
(Indonesia) và đã từng giúp Trịnh Thành Công khuếch trương việc buôn bán hải ngoại ở Đài
Loan.

Khoảng năm 1700, do nhà Minh ở Trung Quốc mất, nhà Thanh lên nắm quyền đã
buộc người Hán phải dóc tóc bím đuôi sam và không chịu được sự quấy rối của nhà Thanh,
Mạc Cửu đã rời bỏ quê hương đến định cư ở vương quốc Chân Lạp. Ông là một thương gia
có tài nên đã được quốc vương Chân Lạp lúc ấy là Nặc Nôn trọng dụng và giao phó việc
buôn bán cho ông. Thế nhưng chẳng bao lâu sau, nhận thấy nội bộ của Chân Lạp rối ren,
thường diễn ra những cuộc chiến tranh giành quyền lực và trước nguy cơ bị Xiêm La xâm
chiếm, ông đã xin vua Chân Lạp được ra trấn thủ ở vùng đất Mang Khảm (tên vùng đất Hà
Tiên lúc ấy) thuộc phủ Sài Mạt (còn gọi Peam, người Trung Hoa gọi Phương Thành). Vua
Chân Lạp đã đồng ý và phong cho Mạc Cửu chức Ốc Nha (quan cai quản một tỉnh). “Từ đó,
Thái Công (Mạc Cửu) ngày đêm lo chiêu tập người ở khắp hải ngoại đến buôn bán, tàu
thuyền vào ra rất nhộn nhịp, người Việt, người Đường, người Liêu, người Man đua nhau kéo
đến trú ngụ, họ khẩu ngày một đông, tiếng tăm của Thái Công ngày một lừng lẫy.” ( 1)
F
9
1
P P

Vùng đất mang Khảm trước khi Mạc Cửu đến đã có nhiều thương nhân nước ngoài
đến buôn bán và khi đến đây Mạc Cửu đã đẩy mạnh việc kinh doanh. Ông mở sòng đánh bạc
rồi thu thuế hoa chi, ông lại đào được mỏ bạc nên nhanh chóng trở nên giàu có. Ông đã cho
xây thành quách, mở phố xá, chiêu mộ lưu dân lập nên 7 xã, thôn nằm dọc theo vịnh Thái
Lan từ Hà Tiên đến Cà Mau : Phú Quốc, Cần Bột (Kampot), Rạch Giá (Gia Khê), Luống
Cày (Lũng Kỳ), Hương Ức (Vũng Thơm, Kompong Som), Cà Mau ( 2). P F
0
2 P

Dưới sự quản lí của Mạc Cửu, vùng đất Mang Khảm trở nên thịnh vượng, ghe thuyền
trong và ngoài nước ra vào tấp nập. Vì thế nó trở thành đối tượng xâm lược của Xiêm La đầy
tham vọng. Vào khoảng năm 1706, quân Xiêm đánh chiếm Hà Tiên và Hà Tiên nhanh chóng

(1) : Vũ Thế Dinh, Mạc thị gia phả, tr. 15


(2) : Xã còn lại là Hà Tiên.
thất thủ, bời vì “Phương Thành nằm ngay bên bờ biển, chỉ là nơi buôn bán sinh lợi chứ
chẳng phải là chốn hiểm địa để có thể dụng võ, cho nên hễ giặc cho thủy binh đến là chúng
chiếm được ngay.” ( 1) Quân Xiêm vào cướp phá Hà Tiên, đồng thời bắt luôn Mạc Cửu cùng
P 21F P

gia quyến đưa về Xiêm và cho ở tại cảng Muang Galapuri (người Hoa gọi là Vạn Tuế Sơn).

Hai năm sau, nhân lúc nước Xiêm có loạn, Mạc Cửu trốn về Lũng Kỳ (Trũng Kỳ) rồi
sau đó mới về được Mang Khảm. Ông bắt tay vào việc khôi phục Hà Tiên. Hà Tiên nhanh
chóng trở lại phồn vinh. Tuy nhiên, trước sự đe dọa của Xiêm và sự yếu kém của Chân Lạp,
Mạc Cửu nhận thấy cần tìm chỗ nương tựa mới.

Khi ấy có một mưu sĩ họ Tô đến nói với Mạc Cửu rằng : “Người Chân Lạp vốn nông
nổi và bạc bẽo, gian xảo thì nhiều mà trung hậu thì ít, cho nên không thể nào dựa cậy lâu dài
được. Chi bằng hãy xin hàng nước Việt, xin nhận chức và xưng thần để làm chỗ căn bản, nếu
vạn nhất có thể xảy ra điều gì thì cũng có người giúp đỡ”.( 2) Mạc Cửu cho là phải, liền phái
P F
2 P

hai người thuộc hạ là Trương Cầu và Lý Xá đến Huế xin Minh Vương cho quy thuộc về
chúa Nguyễn.

Năm 1708, chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu chấp nhận thỉnh cầu của Mạc Cửu, thừa
nhận Hà Tiên trấn là đất chư hầu của Quảng Nam, đồng thời phong tước Tổng Binh Cửu
ngọc hầu cho Mạc Cửu. Năm sau (1711) Mạc Cửu thân hành đến Huế yết kiến Minh Vương.
Cửu về trấn dựng thành quách, lập doanh ngũ, đặt liêu tá, làm nhiều nhà khách để tiếp đón
hiền tài. Dân đến ở ngày càng đông, Hà Tiên trở thành một nơi đô hội nhỏ. Từ thời gian này
trở đi, Hà Tiên trở thành một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Việt Nam và là một thương
cảng sầm uất trong nền thương mại Việt Nam và thế giới suốt trong thế kỷ XVIII. Đó là một
công lao rất lớn của Mạc Cửu.

Sau khi Hà Tiên về với chúa Nguyễn, quân Xiêm vẫn không từ bỏ âm mưu xâm lược
của mình. Năm 1715, quân Xiêm lại xâm chiếm và tàn phá Hà Tiên. Mạc Cửu phải bỏ Hà
Tiên đến định cư ở Sre Umbel (Lũng Kỳ), mãi đến năm 1718, quân Xiêm rút đi, mới trở về
Hà Tiên và bắt đầu kiến thiết Hà Tiên. Từ đó, Hà Tiên ngày một thịnh vượng, nhân dân dưới
thiện chính của Mạc Cửu được an cư lạc nghiệp. Cũng trong thời gian này mẹ đẻ của Mạc

(1) : Mạc thị gia phả, tr. 15.


(2) : Mạc thị gia phả, tr. 16 - 17.
Cửu là Thái Thị đã từ Lôi Châu tới Hà Tiên. Mạc Cửu giữ mẹ ở lại và ngày đêm phụng sự
rất hiếu thảo.

Trong thời gian cai quản Hà Tiên, Mạc Cửu không chỉ chú trọng mở rộng cảng Hà
Tiên đón nhận tàu buôn từ các nước mà còn chủ động đi buôn bán với bên ngoài. Năm 1728
và 1729, Mạc Cửu phái Lưu Vệ Quân và Huỳnh Tập Quan mang 2 thương thuyền sang Nhật
Bản buôn bán, được Mạc Phủ Đức Xuyên cấp giấy thương mại, rồi năm 1731 và 1732 lại
phái thuyền sang Nhật, nhưng vì giờ bất thuận, hai thuyền ấy chỉ tới Quảng Đông không tới
đất Nhật được. Cũng bắt đầu từ năm 1729, con đường buôn bán giữa Trung Quốc và Hà Tiên
chính thức hình thành. Nhờ những hoạt động tích cực của Mạc Cửu mà tiếng tâm của cảng
thị Hà Tiên ngày càng vang xa trong nền thương mại thế giới.

Vào ngày 27/5/1735, sau hơn 40 năm cai trị trấn Hà Tiên, Mạc Cửu đã lâm bệnh mà
mất, hưởng thọ 81 tuổi và được chúa Nguyễn phong tặng Khai trấn thượng trụ quốc đại
tướng quân Vũ nghị công. Hiện nay, mộ của Mạc Cửu đã đặt trang trọng trên núi Lăng (một
trong mười cảnh đẹp của Hà Tiên thập vịnh mà Mạc Thiên Tứ đã chọn – Bình San điệp
thúy).

Năm 1736, con của Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ (1718 – 1780) được chúa Nguyễn Phúc
Chú (1725 – 1738) phong làm đô đốc trấn Hà Tiên.

(Tham khảo Đại Nam liệt truyện tiền biên, tập 1, Quốc sử quán triều Nguyễn, NXB.
Thuận Hóa, 2006, tr. 201 - 203)
Phụ lục 4 :
MẠC THIÊN TỨ (1718 – 1780) ( 1)
5T P F
3
2
T
5
P T
5
P

Mạc Thiên Tứ (Mạc Thiên Tứ, còn có tên khác là Mạc Tôn) là con trưởng của Mạc
Cửu và bà Nguyễn Thị Ý Đức ( 2)
P 24F một phụ nữ Việt Nam. Mạc Thiên Tứ sinh ngày 7/3/1718
P

tại Lũng Kè (người Chân Lạp gọi là Peam) và mất ngày 5/10/1780 tại Băng Cốc (Thái Lan).
Tương truyền, trước khi Mạc Thiên Tứ ra đời, ở đầm Lũng Kỳ có nổi lên một tượng Phật cao
bảy thước, tỏa hào quang rực rỡ. Lúc ấy có một nhà sư người Chân Lạp đi ngang qua, thấy
vậy bảo là điềm tốt, báo hiệu hiền nhân xuất hiện. Mạc Cửu sai người vớt lên, bao nhiêu
người cũng không mang lên được, nên đành phải xây một ngôi chùa nhỏ trên bờ để thờ. Ít
lâu sau, bà Mạc hạ sang một con trai mặt mày khôi ngô tuấn tú, đó là Mạc Thiên Tứ.

Năm 1736, Mạc Thiên Tứ được chúa Nguyễn Phúc Chú (1725 – 1738) phong làm
Tổng binh Đại đô đốc trấn Hà Tiên kế nghiệp Mạc Cửu. Thiên Tứ còn được chúa Nguyễn
ban tặng cho ba chiếc "thuyền long bài" không phải nộp thuế và còn cho phép mở lò đúc tiền
để thông thương mua bán và tìm mua của quý nộp cho chúa. Đồng thời họ Mạc cũng được
chúa Nguyễn phong theo lệ "Thất diệp phiên hàn" (Bảy đời rào dậu cho quốc gia), lấy bảy
chữ "Thiên, tử, công, hầu, bá, tử, nam" nối đời làm chữ lót đặt tên cho con cháu về sau và cứ
hết 7 thế hệ lại lập lại; đồng thời lấy năm chữ "Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ" trong ngũ hàng
tương sanh khởi đầu từ bộ "Kim" nối đời đặt tên và thêm bộ "Ấp" vào chữ "Mạc" để tỏ ý
không phải họ "Mạc" đã cướp ngôi nhà Lê. Vì thế từ đời Mạc Thiên Tứ mới có chữ lót, đồng
thời tên Thiên Tứ do Mạc Cửu đặt cũng được đổi thành Thiên Tích.

Kế tục sự nghiệp của cha, Mạc Thiên Tứ đã đưa vùng đất Hà Tiên bước sang một
trang sử mới bằng sự phát triển năng động về kinh tế, hưng thịnh về văn hóa và mở mang
rộng lớn về lãnh thổ.

Về kinh tế, Mạc Thiên Tứ cho khai mở ruộng vườn, thiết lập chợ búa, khai thông bến
bãi để thuyền bè ra vào thuận lợi. Hà Tiên được đặt tên là Căng Khẩu quốc. Thương nhân và
lữ khách các nước tới ngày một đông đảo. Năm 1740 và 1742, Thiên Tứ hai lần phái 2

(1) : Về năm sinh của Mạc Thiên Tứ có giả thuyết cho rằng là năm 1708 nhưng năm 1718 là đáng tin hơn cả.
(2) : Nhiều tài liệu khác cho rằng mẹ Mạc Thiên Tứ là bà Bùi Thị Lẫm (quê ở làng Đông Môn, tỉnh Gia Định.).
thuyền buôn sang Nhật Bản trao đổi buôn bán. Thương cảng Hà Tiên thời Mạc Thiên Tứ là
thương cảng sầm uất nhất của Nam Kỳ.

Về văn hóa, năm 1736, Mạc Thiên Tứ đã lập Chiên Anh Các, mở ra sự học cho đất Hà
Tiên. Tao Đàn Chiêu Anh Các của Mạc Thiên Tứ đã chiêu nạp văn tài các nơi, ngày ngày
cùng bàn giảng sách, xướng họa thi thơ, cùng nhau ca ngợi cảnh đẹp của Hà Tiên và để lại
cho đời 10 bài thơ bất hủ "Hà Tiên thập vịnh" (mười bài thơ vịnh cảnh Hà Tiên).

Không chỉ phát triển kinh tế, mở mang văn hóa, Mạc Thiên Tứ còn có công rất lớn
trong việc giúp chúa Nguyễn tiến hành thành công cuộc Nam tiến về phía Nam, xác lập lãnh
thổ rộng lớn của Đại Việt bằng những chiến tích chống ngoại xâm và cả những ứng xử ngoại
giao khôn khéo.

Năm 1739, quốc vương Chân Lạp là Nặc Bôn mang quân xâm lấn Hà Tiên. Mạc
Thiên Tứ đã cùng vợ là Nguyễn thị điều động binh sĩ chiến đấu ngày đêm, đánh bại được
cuộc xâm lăm của vua Chân Lạp. Giặc tan, họ Mạc được chúa Nguyễn khen ngợi, đặc cách
làm Đô đốc tướng quân, ban áo bào đỏ cùng mũ, đai. Bà Nguyễn thị cũng được phong làm
phu nhân.

Vào năm 1747, giặc biển cướp phá vùng ven biển đạo Long Xuyên, xâm lấn Hà Tiên
cũng bị Mạc Thiên Tứ dẹp yên.

Năm 1750, Miên Vương Angk Snguôn (Nặc Nguyên) đến cướp người Côn man (là
người Chăm) ở Nam Kỳ; năm 1754, Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát phái quân sĩ ngũ dinh
dưới quyền chỉ huy của Thiện Chính và Nguyễn Cư Trinh đi chiếm 4 tỉnh : Lôi Lạp, Thâm
Bôn, Cầu Nam và Nam Vịnh. Năm sau 1755, Trương Phúc Do lại dốc quân đánh Chân Lạp.
Nặc Nguyên biết rằng không thể kháng cự được chúa Nguyễn, bèn chạy đi Hà Tiên xin
Thiên Tứ bảo hộ. Thiên Tứ đã đứng ra xin chúa Nguyễn tha tội cho vua Chân Lạp, đổi lại
vua Chân Lạp sẽ nhường 2 tỉnh Lôi Lạp và Thâm Bôn cho chúa Nguyễn và sẽ bổ thục những
cống vật đã đình chỉ từ 3 năm trước. Hai vùng đất đó trở thành hai phủ Gò Công và Tân An.

Năm 1757, Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận làm giám quốc, từ lâu có ý muốn
làm vua Chân Lạp, liền dâng hai xứ Preah Trapeang và Basac (tức vùng Ba Thắc, Trà Vinh)
cho chúa Nguyễn. Nhưng lúc đó, Nặc Nhuận bị con rể là Ngọc Hinh giết chết cướp ngôi.
Con trai là Nặc Tôn sợ bị sát hại chạy sang cầu cứu Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ đứng ra sắp xếp,
xin chúa Nguyễn cho Nặc Tôn làm vua Chân Lạp. Chúa Nguyễn thuận và sai Mạc Thiên Tứ
cùng tướng sĩ năm dinh hộ tống đưa Nặc Tôn về nước.

Để tạ ơn, Nặc Tôn dâng Tầm Phong Long (vùng đất giữa Sông Tiền và Sông Hậu) cho
chúa Nguyễn. Chúa liền theo lời kiến nghị của Nguyễn Cư Trinh dồn dinh Long Hồ đi Tham
Phong Xứ (Vĩnh Long), lại ở xứ Sa Đéc lập Đạo Đông Khẩu, ở xứ Tiền Giang, lập Đạo Tân
Châu và ở xứ Hậu Giang lập Đạo Châu Đốc. Như thế, toàn khu vực đồng bằng của sông Mê
Công quy thuộc nhà Nguyễn. Riêng họ Mạc, Nặc Tôn dâng năm phủ Hương Úc, Cần Bột,
Trực Sâm, Sài Mạt và Linh Quỳnh để đền ơn giúp đỡ. Mạc Thiên Tứ đem hết đất ấy dâng
cho Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cho xác nhập vào Hà Tiên trấn, giao cho họ Mạc cai quản.
Mạc Thiên Tứ chia đất đó thành hai đạo: xứ Rạch Giá là Kiên Giang đạo, xứ Cà Mau là
Long Xuyên đạo, đặt quan cai trị, chiêu lập dân ấp. Từ đấy, diện tích của Hà Tiên đã khá
rộng, sự thực gồm hết đất giữa Hậu Giang và vịnh Xiêm La.

Năm 1768, vua Xiêm là Trịnh Quốc Anh mang quân tiến chiếm Hòn Đất. Trước khi
T
2 T
2

rút về nước, Trịnh Quốc Anh cho thành lập trên đảo một căn cứ hải quân và để lại một toán
cướp biển nghe ngóng tình hình, tìm cơ hội đánh chiếm Phú Quốc và Hà Tiên.
T
2 T
2 T
2 T
2

Năm 1769, quân Khmer dưới sự chỉ đạo của một cướp biển người Triều Châu tên Trần
T
2 T
2

Thái đổ bộ lên cướp phá Hòn Đất, rồi kết hợp với hai gia nhân của Mạc Thiên Tứ (Mạc Sung
và Mạc Khoan), tiến đánh Hà Tiên nhưng bị Mạc Thiên Tứ đánh bại.

Năm 1770, Mạc Thiên Tứ đem quân đánh chiếm lại Hòn Đất và đồng thời chuẩn bị
tiến công Xiêm La. Công việc đang tiến hành thì vào đầu năm 1771, một cận thần của Mạc
Thiên Tứ tên Phạm Lam nổi lên làm phản. Phạm Lam kết hợp với hai cướp biển Vang Ly
Ma lư (người Chà và ) và Ốc Nha Kê (người Khmer) lập đảng gồm 800 người và 15 tàu
thuyền tiến vào Hà Tiên nhưng bị Mạc Thiên Tứ đánh bại.

Giữa năm 1771, nhận thấy những đám cướp biển không đánh lại Mạc Thiên Tứ, Trịnh
Quốc Anh dùng Trần Thái làm hướng đạo, đích thân chỉ huy đạo quân 20.000 người tiến
chiếm Hà Tiên. Do lực lượng yếu hơn lại không được quân ngũ dinh ứng cứu, Hà Tiên bị
thất thủ, Mạc Thiên Tứ cùng các con trai phải rút về Rạch Giá, cho người về Gia Định cầu
T
2 T
2

cứu chúa Nguyễn. Trịnh Quốc Anh chiếm được Hà Tiên đã thiêu rụi thành phố, chiếm tất cả
2T 2T
các đảo lớn nhỏ quanh Hà Tiên, mang về rất nhiều vàng bạc về nước. Con cháu, hầu thiếp và
người con gái út của Mạc Thiên Tứ cũng bị Trịnh Quốc Anh bắt sống đem về Băng Cốc.

Năm 1772, chúa Nguyễn mang 10.000 quân cùng 300 chiến thuyền đánh quân Xiêm,
buộc quân Xiêm rút khỏi Hà Tiên. Năm 1773, Trịnh Quốc Anh rút quân khỏi Hà Tiên, Phú
Quốc và Hòn Đất, trả lại người con gái bị bắt làm tù binh cho Mạc Thiên Tứ. Mạc Thiên Tứ
trở về gây dựng lại Hà Tiên trong cảnh đổ nát hoang tàn.

Nưm 1776, khi quân Tây Sơn đánh vào Gia Định, truy kích tàn quân chúa Nguyễn,
2T 2T T
2 T
2

Mạc Thiên Tứ cùng Tôn Thất Xuân chạy sang Xiêm. Nhưng tháng 4 năm 1780, vua Xiêm
Trịnh Quốc Anh nghi ngờ ông làm gián điệp cho Gia Định, bắt giết các con lớn của ông là
T
2 T
2

Mạc Tử Hoàng, Mạc Tử Dung cùng các phó tướng Tôn Thất Xuân, Tham, Tịnh và 50 người
2T 2T

tùy tùng, chỉ để lại con nhỏ là Mạc Tử Sanh và một cháu nhỏ bắt phải đi đày. Quá phẫn uất,
Mạc Thiên Tứ đã nuốt vàng tự tử tại Băng Cốc vào năm 1780, thọ 62 tuổi, kết thúc cuộc đời
2T T
2

của một con người văn giỏi toàn tài, trung nghĩa vẹn toàn.

Sự ra đi của Mạc Thiên Tứ cũng đồng thời chấm dứt thời hoàng kim của Hà Tiên. Từ
đây, vùng đất Hà Tiên bước sang một trang sử mới. Trấn Hà Tiên thời Gia Long không còn
phồn thịnh như trước nữa. Hơn 20 năm sau (1804), con cháu Thiên Tứ đã sang Xiêm đem
tẩu cốt Thiên Tứ về mai táng ở núi Lăng (Bình San) bên cạnh người cha vĩ đại của mình. Sau
này, Mạc Thiên Tứ được nhà Nguyễn phong tặng Hà Tiên trấn Tổng binh Đại đô đốc Quốc
lão sùng quận công.

(Tham khảo Đại Nam liệt truyện tiền biên, tập 1, Quốc sử quán triều Nguyễn, NXB.
Thuận Hóa, 2006, tr. 203 - 213)

Phụ lục 5 :
HÀ TIÊN THẬP CẢNH TỔNG VỊNH

(của Mạc Thiên Tứ)

Mười cảnh Hà Tiên rất hữu tình

Non non nước nước gẫm nên xinh


Đông Hồ, Lộc Trĩ luôn dòng chảy

Nam Phố, Lư Khê một mạch xanh

Tiêu Tự, Gianh Thành chuông trống ỏi

Châu Nham, Kim Dữ cá chim quanh

Bình Sanh, Thạch Động là rường cột

Sừng sững muôn năm cũng để dành.

HÀ TIÊN THẬP VỊNH

(Mười cảnh đẹp của Hà Tiên)

1. KIM DỮ LAN ĐÀO ĐẢO VÀNG NGĂN SÓNG

Nhất đảo thôi ngôi điện bích liên, Một dãy non xanh nước bích liền,

Hoành lưu kỳ thắng tráng Hà Tiên. Giang ngang cho mạnh đẹp sông tiên.

Ba đào thế tiệt Đông Nam hải, Đông Nam sóng biển bằng trang cả,

Nhật nguyệt quang hồi thượng hạ thiên. Trên dưới trăng trời sáng rực lên.

Đắc thủy ngư long tùy biến hóa, Rồng cá vẫy vùng trong cõi nước,

Bàng nhai thạch thụ tự liên phiên. Đá cây san sát khắp ven miền.

Phong thanh lãnh tích ưng trường cứ, Nghìn thu tiếng gió quanh chân sóng,

Nùng đạm sơn xuyên dị quốc huyền. Đậm nhạt tranh treo nét lạ nhìn.

2. BÌNH SAN ĐIỆP THÚY NÚI BÌNH PHONG LỚP LỚP XANH

Long thông thảo mộc tự thiều nghiêu , Cây xanh ngăn ngắt vút cao cao,

Điệp lĩnh bình khai tử thúy kiều. Ngọn dựng bình giăng đẹp mỹ miều.

Vân ái táp quang sơn thế cận, Mây sáng vây quanh hình núi rõ,

Vũ dư giáp lệ vật hoa nghiêu. Mưa tàn thêm nổi bóng non theo.

Lão đồng thiên địa chung linh cửu, Đất trời bền vững nền linh tú,

Vinh cộng yên hà chúc vọng diêu. Mây khói vời xa nỗi ước ao.
Cảm đạo Hà Tiên phong cảnh dị, Danh thắng Hà Tiên đâu dám bảo,

Lam đồi uất uất thụ tiêu tiêu. Cây ngàn mơn mởn biếc xanh gieo.

3. TIÊU TỰ THẦN CHUNG CHUÔNG MAI CHÙA VẮNG

Tàn linh liêu lạc hương tiên phao, Lát đác trời tàn nhạt ánh sao,

Mậu dạ kinh âm viễn tự xao. Chuông chùa xa vẳng tiếng đưa vào.

Tịnh cảnh nhân duyên tinh thế giới, Mơ màng cõi tục người tiêu lẫn,

Cô thinh thanh việt xuất giang giao. Đồng vọng bờ cây bến nước xao.

Hốt kinh hạc lệ nhiễu phong thụ, Hạc để tiếng vươn cành gió thoảng,

Hựu súc ô đề ỷ nguyệt sao. Quạ đưa lời gửi ngọn trăng cao.

Đốn giác thiên gia y chẩm hậu, Gối nghiêng giấc tỉnh đêm mơ mộng,

Kê truyền hiểu tín diệc liêu liêu. Sớm giục canh gà tin khát khao.

4. GIANG THÀNH DẠ CỔ TRỐNG CANH ĐÊM THÀNH LŨY BÊN SÔNG

Thiên phong hồi nhiều đống vân cao, Gió cuốn trời cao mây lạnh tung,

Tỏa thược trường giang tương khí hào. Sông dài vây tỏa khí anh hùng.

Nhất phiếu lâu thuyền hàn thủy nguyệt, Lâu thuyền dãi bóng trăng sương lạnh,

Tam canh cổ giác định ba đào. Trống mõ cầm canh sóng nước trong.

Khánh nhưng cách dạ tỏa kim giáp, Kim giáp đã nhờ đêm chặt chẽ,

Nhân chính thiên thành ủng cầm bào. Cẩm bào cho được chốn thung dung.

Vũ lược thâm thừa anh củ quyến, Lược thao đem đáp tình minh chúa,

Nhật Nam cảnh vũ lại an lao. Nước Việt biên thùy vững núi sông.

5. THẠCH ĐỘNG THÔN VÂN ĐỘNG ĐÁ NUỐT MÂY

Sơn phong tủy thúy để tinh hà, Xanh xanh ngọn đá chạm thiên hà,

Động thất lung linh vẫn bích kha. Động bích long lanh ngọc chói lòa.

Bất ý yên vân do khứ vãng, Chẳng hẹn khói mây thường lẫn nhau,

Vô ngân thảo mộc cộng hà sa. Không ngăn cây cỏ mặc la đà.
Phong sương cửu lịch văn chương dị, Phong sương càng dãi màu tươi đẹp,

Ô thố tàn di khí sắc đa. Nhật nguyệt chi ngừng bóng lại qua.

Tối thị tinh hoa cao tuyệt xứ, Chót vót tinh hoa đây đã hẳn,

Tùy phong hô hấp tự ta nga. Theo chiều gió lộng vút cao xa.

6. CHÂU NHAM LẠC LỘ CÒ ĐẬU BÃI CHÂU NHAM

Lục ấn u vân xuyết mộ hà, Bóng rợp mây dâm phủ núi non,

Linh nham phi xuất bạch cầm tà. Bay la bay lả trắng hoàng hôn.

Vãn bài thiên trận la phương thụ, Góc trời thế trận giăng cây cỏ,

Tinh lạc bình nhai tả ngọc hoa. Đóa ngọc hoa rơi khắp bãi cồn.

Bộc ảnh cộng phiên minh nguyệt tụ, Trăng dãi non treo làn thác đổ,

Vân quang tể táp tịch dương sa. Chiều tà cát lẫn ánh mây tuôn.

Cuồng tình thế lộ tương thi kế, Trên đường bay nhảy bay xuôi ngược,

Lục lục thê tri thủy thạch nha. Nghỉ cánh dừng chân bến nước còn.

7. ĐÔNG HỒ ẤN NGUYỆT TRĂNG IN ĐÔNG HỒ

Vân tể yên tiêu cộng diểu mang, Khói lạnh mây tan cõi diểu mang,

Nhất loan phong cảnh tiếp hồn hoang. Một vùng phong cảnh giữa hồng hoang.

Tình không lãng tịch tuyền song ảnh, Trời xa mặt sóng in đôi bóng,

Bích hải quang hàn tiểu vạn phương. Biển bạc vàng gương dọi bốn phương.

Trạm khoát ứng hàn thiên đãng dạng, Rộng đã sánh cùng trời bát ngát,

Lãm linh bất quí hải thương lương. Sâu còn so với biển mênh mang.

Ngư long mộng giác xung nan phá, Cá rồng tỉnh giấc chi tan vỡ,

Y cựu băng tâm thượng hạ quang. Một tấm lòng băng vẫn chói chang.

8. NAM PHỐ TRỪNG BA SÓNG LẶNG BẾN NAM

Nhất phiến thương mang nhất phiến thanh, Một vùng xanh ngát một dành khơi,

Trừng liên giáp phố lão thu tình. Bãi nối màu thu tiếp sắc trời.
Thiên hà đái vũ yêu quang kiết, Mưa kéo đem mây về kết tụ,

Trạch quốc vô phong lãng mạt bình. Gió nào cho sóng động tăm hơi.

Hướng hiểu cô phàm phân thủy cấp, Biển hâng hâng sóng triều tuôn đẩy,

Xu triều dung phảng tải vân khinh. Bướm nhè nhẹ đưa khói thoảng trôi.

Tha tri nhập hải ngư long nặc, Vực thẳm cá rồng còn ẩn náu,

Nguyệt lãng ba quang tự tại minh. Êm đềm nước ngậm bóng trăng soi.

9. LỘC TRĨ THÔN CƯ XÓM QUÊ MŨI NAI

Trúc ốc phong qua mộng thủy tinh, Lều tre giấc tỉnh gió lay mình,

Nha đề thềm ngoại khước nan thinh. Tiếng quạ ồn chi trước mái tranh.

Tàn hà đảo quải duyên song tử, Ráng xế treo ngang khung cửa tím,

Mật thụ đê thùy tiếp phố thanh. Cây vườn che rợp luống rau xanh.

Dã tính thiên đồng viên lộc tĩnh, Tánh gần mộc mạc hươu nai dại,

Thanh tâm mỗi tiễn đạo lương hinh. Lòng thích thơm tho nếp tẻ thanh.

Hành nhân nhược vấn trú hà xứ, Ai đó hỏi thăm nơi chốn ở,

Ngưu bối nhất thanh xuy địch đình. Lưng trâu tiếng sáo lặng làm thinh.

10. LƯ KHÊ NGƯ BẠC THUYỀN CÂU ĐẬU RẠCH VƯỢC

(LƯ KHÊ NHÀN ĐIẾU)

Viễn viễn thương lang hàm tịch chiếu, Bóng chiều nắng ngã dòng xanh thẳm,

Lư Khê yên lý xuất ngư đăng. Rạch Vược đèn ngư khói chập chừng.

Hoành ba yểm ánh bạc cô đính, Bến cũ nhấp nhô thuyền đổ sóng,

Lạc nguyệt sâm si phù tráo tằng. Bờ xa san sát lưới phơi trăng.

Nhất lãng thoa y sương khí bách, Cánh tơi áo thấm sương pha buốt,

Kỷ thanh trúc trạo thủy quang ngưng. Mái trúc hèo khua nước sáng trưng.

Phiêu linh tự tiếu uông dương ngoại, Lồng lộng vời trông cười thử hỏi,
Dục phụ ngư long khước vị năng. Cá rồng vùng vẫy chốn này chăng ?

(Hà Tiên thập cảnh tổng vịnh và Hà Tiên thập vịnh, bản dịch của Đông Hồ Lâm Tấn Phát.
Theo Gia Định thành thông chí/Lý Việt Dũng dịch và chú giải, phần phụ lục,NXB. Tổng hợp
Đồng Nai, 2006, tr. 254, 257)
Phụ lục 6 :

HỌ MẠC VÀ CHÚA NGUYỄN TẠI HÀ TIÊN


Diễn văn đọc tại trụ sở Hội VN nghiên cứu liên lạc văn hóa
Á Châu, ngày 7/9/1958

TRẦN KINH HÒA (Chen – Chinh – Ho)

Trong lịch sử hơn hai nghìn năm giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc, không biết có
bao nhiêu người Trung Quốc di cư sang Việt Nam, chúng ta có thể nhận thấy trong thời kỳ
Bắc thuộc, người Trung Quốc sang Việt Nam phần đông là quan lại, quân lính, thương gia,
tăng lữ, đạo sĩ, thợ thuyền, tội phạm, quan lại bị truất, các ngư phủ và cả đến nô lệ. Nhưng từ
thời kỳ tự chủ bắt đầu, nhiều văn nhân, tăng lữ, đạo sĩ và các thợ công nghệ được triều đình
và xã hội thượng lưu hậu đãi và trọng dụng. Các thương gia miền duyên hải Trung Quốc
cũng lục đục kéo sang những hải cảng trọng yếu của Việt Nam như Vân Đồn, Hiến Nam,
Nghệ An, và Faifo (Hội An).v.v. làm cho việc thương mại của những hải khẩu ấy được phát
triển mau chóng. Họ lại xây dựng “phố khách”, sinh hoạt một cách yên ổn dưới sự bảo hộ
của các vua Việt Nam. Còn có nhiều thợ Trung Quốc sang miền thượng du Bắc Kỳ khai thác
các mỏ than và đồng, cũng có nhiều ngư gia sang miền duyên hải Việt Nam định cư để tham
dự việc mở mang tài nguyên của Việt Nam.

Ngoài thứ di dân kể trên, ta còn nhận ra một thứ di dân riêng : tức là những người lưu
vong chính trị và nạn nhân do chính biến và loạn lạc bên Trung Quốc tạo ra. Thứ di dân này,
từ hồi Tứ Quang làm Thái thú Giao Chỉ (51. BC) đã có. Thí dụ, tổ tiên của Sĩ Nhiếp thì chạy
loạn sang Giao Châu vào thời kỳ Vương Mãng cướp ngôi (922.AĐ). Ngay trong thời đại tự
lập Sĩ Nhiếp (187 – 226 AĐ), cũng có nhiều danh sĩ Trung Quốc như Trần Quốc, Viên Huy,
Hứa Tịnh trốn tránh chiến loạn bản quốc di cư sang Giao Châu. Chúng ta có thể nhận xét
thời đại càng gần đây, số di dân loại này càng đông đúc nhiều.

Năm 1247, đời Thánh Tôn nhà Trần, có nhiều người Tống miền Giang Nam, không
chịu những kham khổ do sự xâm lược của người Mông Cổ, mang vợ con và tài vật đi 30
chiếc tuyền tới Lò Cát Nguyên. Số nạn dân này được phép cư trú tại phòng Cát Bi ở kinh đô
Thăng Long và buôn bán các thứ gấm và thuốc men của Trung Quốc. Đến năm 1279, nhà
Tống bị diệt, có nhiều di thần nhà Tống, như Trương Thế Kiệt, Lưu Nghĩa, Trần Trọng Vi,
Triều Mạnh Tín, Diệp Lang Tường, Trần Văn Tôn.v.v. cùng bộ thuộc và vợ con xin quy
thuận nhà Trần, được Trần Nhân Tôn và Chiêu Văn Vương (là chú của Nhân Tôn) săn sóc,
hậu đãi. Một trong những nạn nhân quân sự là Triệu Trung. Sau đó là gia trưởng cho Chiêu
Văn Vương. Đến lúc Tuân Do Tướng quân nhà Nguyên mang 50 vạn quân sáng đánh Việt
Nam, các người Tống trong quân đội của Chiêu Văn Vương đều mặc quần áo người Tống,
mang cung tên, dưới quyền chỉ huy của Triệu Trung cùng quân đội nhà Trần kháng cự quân
xâm lăng một cách oanh liệt, kết quả đại thắng tại Hàm tử quan. Đó là vài thí dụ trên lịch sử
trường kỳ của Việt Nam, nhưng nói tóm lại, phần nhiều di dân và nạn nhân Trung Quốc có
thể mang văn hóa, tập quán, phong tục và hình thức sinh hoạt của Trung Quốc truyền vào
Việt Nam, cùng người Việt thật sự “hòa bình sống chung” mà cùng nhau kiến lập một xã hội
tư văn và nho nhã.

Đến thời kỳ cuối đời Minh và đầu nhà Thanh, lại có nhiều người Minh di cư sang Việt
Nam. Một số nạn dân tiến vào Bắc Kỳ, nhưng tại chính sách của chúa Trịnh đối với Hoa
Kiều nghiêm khắc quá, cho nên, ngoài thương nghiệp ra, công nghiệp của họ không phát
triển mấy. Trái lại, một số đông di cư sang địa hạt của chúa Nguyễn, nhờ sự khuyến khích và
bảo hộ của nhà Nguyễn, đã thu được nhiều kết quả khả quan. Một trong những công lao của
di dân nhà Minh là sự mở mang khai thác Nam Kỳ.

Ngày nay, chúng tôi được chứng kiến thành phố đông đúc và kiến thiết lớn lao của Thủ
đô Việt Nam Cộng hòa, càng nhớ đến những sự hợp tác thành thực giữa chúa Nguyễn và
Hoa Kiều ngày xưa.

Tôi tin chắc quý vị đã biết rõ, vào khoảng tháng tư năm thứ 32, năm 1679, đời chúa
Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687) mấy người tướng nhà Minh là Dương Ngạn
Địch, Hoàng Tiến, Trần Thượng Xuyên và Trần An Bình đứng đầu 3000 người đáp 60 chiếc
tàu đi tới cảng Tourane (Đà Nẵng) xin Hiền Vương thu dụng và hứa vui lòng để chúa
Nguyễn sai khiến. Trong lúc đó, Hiền Vương nghĩ đến miền Đông Phố (tên cũ của Gia Định)
còn nhiều đất hoang, mà chúa Nguyễn chưa đủ năng lực để mở mang, bèn bán quân chức
cho Dương Ngạn Địch và các vị tướng lĩnh, rồi sai đi kinh doanh Mỹ Tho và Biên Hòa. Đó
là cuộc di cư đại quy mô lần thứ nhất của người Trung Quốc tới Nam Kỳ.
Họ khai thác hoang địa, xây dựng phố xá, chẳng bao lâu tàu buôn của Trung Quốc,
Xiêm La, Java đưa nhau tới đây buôn bán, dân số lại thêm đông đúc. Gia Định thành thông
chí chép rằng : Mỹ Tho là do Dương Ngạn Địch và Hoàng Tiến đóng giữ, đến đời Minh
Vương thì lập phủ trị thuộc dinh Phiên Trấn. Phía nam trụ sở Phù Trị là Mỹ Tho Đại Phố tàu
thuyền đi lại như mắc cửi, tấp nập vô cùng. Còn Nông Nại Đại Phố trên Đại Phố Châu ở
Biên Hòa thi do Trần Thượng Xuyên tích cực kiến thiết. Nhà ngói san sát kéo dài đến 5 dặm,
chia làm phố, đường phố lát đá, thương lữ các xứ tụ họp thành một trung tâm thương nghiệp
ở miền Nam Kỳ. Vì muốn cho sự cai trị được thích hợp với sự mở mang phát triển mau
chóng ấy, năm 1698, Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725) đặt Gia Định phủ để coi
Trấn Biên (Biên Hòa), Phiên Biên (Gia Định) và dinh Đông Hồ, đồng thời lập xã Thanh Hà
(ở Trấn Biên) và xã Minh Hương (ở Phiên Biên) để thu những thương gia và cư dân người
Trung Quốc. Đến đây, toàn thể địa phận phía đông Tiền Giang quy thuận chúa Nguyễn.
Ngoài bộ đội Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên ở miền đông Nam Kỳ, ta còn thấy
một tập đoàn di dân khác dưới sự lãnh đạo của Mạc Cửu đi xa nữa, vào miền duyên hải vịnh
Xiêm La để kiến thiết tỉnh Hà Tiên. Hôm nay, tôi xin đưa mấy điều thiển kiến về sự tích họ
Mạc để trình các bạn, mà kính xin các bạn chỉ giáo.

Vì sự tích của họ Mạc ở Hà Tiên, nhiều người đã rõ. Ở đây, tôi chỉ thuật lại những sự
tích quan hệ và niên đại để tiện khảo sát tính chất mà thôi, còn về chi tiết khảo cứu, tôi đã có
phát biểu ít thiển kiến ở học báo Đại học Đài Loan( 1). Xin để cơ hội khác sẽ thuật lại.
P F
5
2 P

Xứ sở của Mạc Cửu là Lê Quách thôn hoặc xã Lê Quách, huyện Hải Khăng, phủ Lôi
Châu, tỉnh Quảng Đông. Chữ Mạc nguyên là (chữ tiếng Hoa) chứ không phải là (chữ tiếng
hoa). Sỡ dĩ thư tịch Việt Nam ghi thêm (chữ Hoa) như ông Gaspardone và ông Fujihara đã
nói trước, là vì muốn tránh sự lầm lẫn với nhà Mạc cướp ngôi vua Lê.

Mạc Cửu là một người thuyền chủ thương thuyền, rất hoạt động, luôn luôn sang Phi
Luật Tân và Batavia buôn bán. Có lẽ với nhà Trịnh ở Đài Loan có quan hệ mật thiết và đã
từng giúp Trịnh Thành Công khuếch trương mậu dịch Đài Loan với hải ngoại.

Ta có thể nhận thấy mấy lí do khiến Mạc Cửu cư trú ở Chân Lạp. Một là nhà Thanh bắt
nhân dân phải dóc tóc bím đuôi sam, hai là không chịu được sự khuấy rối của nhà Thanh.

(1) : Notes on the “Hà Tiên Trấn hiệp Trấn Mạc thị gia phả”, Bulletin of the College of Arts, National Taiwan University, No 7,
avril 1956.
Còn về niên đại Mạc Cửu trốn sang Chân Lạp (Mạc thị gia phả cho là năm 1671, Gia Định
thành thông chí cho là năm 1680), theo thiển kiến có lẽ năm 1680 là tương đối hợp lí hơn.
Nếu đúng như Mạc thị gia phả chép : Mạc Cửu sinh 8 tháng 5 năm thứ 9 Ất vị Vĩnh Lịch
(tức là 11 tháng 6 dương lịch năm 1655), thì lúc ông sang Chân Lạp chỉ mới 25 tuổi thôi.

Chúng tôi không được rõ năm nào Mạc Cửu ra Hà Tiên kiến lập cơ nghiệp, nhưng mấy
việc rõ là : Chính cuộc bất an ở Chân Lạp bắt ông phải ra Sài Mạt Phủ, chiêu tập lương dân
thiết lập thành phố và đồn điền, tích cực khai thác. Nguyên nhân phú cường của họ Mạc, một
là do kinh doanh quán đánh bạc, hai là do đào được mỏ bạc. Tổng khảo những tài liệu đáng
tin cậy, sự mở mang của Hà Tiên có lẽ bắt đầu từ trước sau năm 1686. Chừng năm 1687
hoặc 1688, Hà Tiên bị quân đội Xiêm chiếm đóng, Mạc Cửu bắt buộc phải theo quân Xiêm
đi ở Vạn Tuế Sơn Hải Tân (tức là Muang Galapuri), một hải cảng ở địa hạt Xiêm La. Nhưng
chẳng bao lâu, Mạc Cửu đã trốn về Lũng Kỳ (Sre Umbell), rồi đến khoảng năm 1700 về tới
Hà Tiên.

Năm 1708, Mạc Cửu theo lời khuyên của một vị sĩ họ Tô, phái hai người thuộc hạ là
Trương Cầu và Lý Xá đến Huế xin Minh Vương cho quy thuộc về chúa Nguyễn. Minh
Vương chấp nhận thỉnh cầu của Mạc Cửu, thừa nhận Hà Tiên trấn là đất chư hầu của Quảng
Nam, phong tước Tổng Binh Cửu ngọc hầu cho Mạc Cửu. Năm sau (1711) Mạc Cửu thân
hành đến Huế yết kiến Minh Vương. Việc này biểu thị chủ quyền của Hà Tiên không phải
thuộc về Chân Lạp, chúa Nguyễn đã có quyền phát ngôn với Hà Tiên, nói một cách khác là
bắt đầu sự quan hệ giữa Hà Tiên với chúa Nguyễn.

Lý do nội thuộc của Mạc Cửu cũng là kết quả của sự biến hóa tình hình quốc tế tại
Chân Lạp và Nam Kỳ. Như ở trên đã nói, từ năm 1698, chúa Nguyễn thiết lập Gia Định phủ,
địa vị chúa Nguyễn tại Nam Kỳ đã vững trãi, vả lại thế lực một ngày một phát triển. Trái lại
nội loạn ở Chân Lạp vẫn tiếp tục, chính phủ Xiêm luôn luôn can thiệp, quân đội Xiêm chờ cơ
hội xâm lược Chân Lạp. Mạc Cửu vì muốn duy trì địa vị, không thể không nhờ cậy chúa
Nguyễn. Quả nhiên năm 1715, quân Xiêm lại qua Hà Tiên tiến vào Chân Lạp, Hà Tiên bị tàn
phá, Mạc Cửu phải trốn đi Sre Umbell (Lũng Kỳ). Chuyến này Mạc Cửu ở Sre Umbell
chừng 2,3 năm, đến năm 1718, quân Xiêm rút đi, mới trở về Hà Tiên và bắt đầu kiến thiết Hà
Tiên. Từ đó, chúng ta chỉ biết Hà Tiên ngày một thịnh vượng, nhân dân dưới thiện chính của
Mạc Cửu được an cư lạc nghiệp, còn về tình hình sinh hoạt trong dân gian hồi ấy chúng ta
không được rõ mấy. Theo ý tôi trong những sự tích của Mạc Cửu vào thời kỳ này chỉ có 3
việc sau đây là đáng kể : thứ nhất là mẹ đẻ của Mạc Cửu là Thái Thị đã từ Lôi Châu tới Hà
Tiên; Mạc Cửu giữ mẹ ở lại và ngày đêm phụng sự rất hiếu thảo. Việc này có thể chứng
minh rằng không như phần đông chúng ta tưởng tượng, hồi thế kỷ 18, đàn bà Trung Quốc
cũng có người đi ra hải ngoại.

Thứ hai là thương mại với Nhật Bản. Năm 1728 và 1729, Mạc Cửu phái Lưu Vệ Quân
và Huỳnh Tập Quan mang 2 thương thuyền sang Nhật Bản, được Mạc Phủ Đức Xuyên cấp
giấy thương mại, rồi năm 1731 và 1732 lại phái thuyền sang Nhật, nhưng vì giờ bất thuận,
hai thuyền ấy chỉ tới Quảng Đông không tới đất Nhật được.

Thứ ba là việc thương mại giữa Trung Quốc và Cảng khẩu (tức Hà Tiên) cũng bắt đầu
từ năm 1729. Từ đó, những thổ sản Hà Tiên như hải sâm, cá khô, tôm khô.v.v. lục tục xuất
cảng sang Trung Quốc.

Năm 1735, Mạc Cửu mất, thì Mạc Thiên Tứ (Mạc Tôn) kế nghiệp, năm sau 1736, chúa
Nguyễn thừa nhận và phong Mạc Thiên Tứ làm Khâm sai Đô Đốc. Chúng ta ai cũng biết
Thiên Tứ là một vị nho học, giỏi về thơ văn và có nhiều tài năng, đồng thời chúng ta cũng
nhận thấy dưới sự lãnh đạo của Thiên Tứ, sự phát triển của Hà Tiên ngày một rõ rệt, và địa
vị của Hà Tiên cũng được vững chắc. Năm 1744, Đức Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát chính
thức lên ngôi vua, lãnh thổ của Quảng Nam gồm có 12 Dinh, tức là Chính Dinh, Cửu Dinh,
Quảng Bình, Lưu Đồn, Bố Chính, Quảng Nam, Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận, Trấn
Biên, Phiên Trấn và Long Hồ, hai phủ Quảng Nghĩa và Quy Nhơn thì thuộc dinh Quảng
Nam. Ngoài những dinh, phủ ấy còn một trấn tức Hà Tiên. Các dinh có Trấn thủ, Cai Bạ và
Ký lục để trị dân, nhưng chỉ Hà Tiên trấn thì do Đô Đốc họ Mạc toàn quyền cai trị. Ở đây,
chúng ta được thấy một sự đổi chiều thật hay. Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên
suốt đời bằng lòng làm Tổng binh và Đô đốc của chúa Nguyễn, không bao giờ lập một chính
quyền tự chủ, trái lại họ Mạc Hà Tiên lúc nào cũng giữ được thực quyền của một tiểu bang,
tuy rằng tiểu bang này phụ thuộc của chúa Nguyễn, nhưng các chúa Nguyễn chưa bao giờ
can thiệp vào nội chính Hà Tiên cả. Không những không can thiệp vào nội chính, lại thừa
nhận nhiều đặc quyền của họ Mạc.

Thí dụ, Minh Vương bằng lòng để Mạc Thiên Tứ duy trì 3 chiếc long bài thuyền để
thông thương với hải ngoại, cho phép đúc tiền riêng, cho phép khuếch trương thành phố và
xây đắp thành trì. Nhờ sự bảo hộ của chúa Nguyễn và tài kinh doanh mở mang của Thiên Tứ,
mậu dịch với ngoại quốc và hoạt động văn hóa của Hà Tiên càng thêm phát triển. Năm 1737,
biên tập và ấn hành cuốn Hà Tiên thập vịnh, năm 1740 và 1742 Thiên Tứ hai lần phái 2
thuyền chủ Ngô Chiêu Viên và Lâm Thiên Trường cùng thuyền buôn sang Nagasaki để súc
tiến việc mậu dịch với Nhật Bản, đều có thể chứng minh cách làm việc hăng hái của Thiên
Tứ.

Lẽ dĩ nhiên, quan hệ giữa Hà Tiên và chúa Nguyễn càng ngày càng mật thiết thì quan
hệ giữa Hà Tiên và Chân Lạp càng ngày càng xa xôi. Miên Vương Thonino Reachea (Nặc
Bôn) (1738 – 1747), từ lâu phàn nàn Thiên Tứ thôn tính đất Chân Lạp, năm 1739 bèn đem
quân đến đánh Hà Tiên, song qua một cuộc chiến đấu kịch liệt ở Banteay Meas, quân đội
Thiên Tứ được toàn thắng. Cuộc chiến tranh này không những duy trì nền tự chủ của Hà
Tiên còn tăng thêm uy danh của Mạc Thiên Tứ tại Chân Lạp. Từ đó, Thiên Tứ tự xưng “Trấn
quốc đại tổng chế Chân Lạp Kim tháp thủy lục Đẳng xứ địa phương Chư vụ Nak Samdec
Prah Sotat Vua Mạc”, đủ biết Thiên Tứ đã hoàn toàn cắt đứt giây liên lạc với Chân Lạp rồi.

Thiên Tứ giữ chức Đô Đốc Hà Tiên 45 năm, chỉ đến vãn niên thì không may gặp nhiều
cảnh gian khổ : trước hết là cuộc xâm lược của quân đội của Phya Tak Sin (tức là Trịnh
Quốc Anh ) văn năm 1771, rồi bị loạn Tây Sơn đuổi khỏi Hà Tiên, bất đắc dĩ trốn sang Xiêm
(năm 1773), nhờ cậy Phya Tak Sin, sau bị kế ly gián của Tây Sơn toàn gia bị giết oan ở ngục
Xiêm (1780).

Tôi cảm thấy có thú vị về những quan hệ giữa Phya Tak Sin và Mạc Thiên Tứ. Hai ông
này đều là Hoa Kiều, thoạt đầu hai ông hình như thân thiện lắm, sau vì nhiều việc phức tạp
xảy ra ở Xiêm và Chân Lạp, hai ông biến thành kẻ địch với nhau, rốt cuộc hai ông đều chết
một cách thảm hại. Tôi thiết tưởng các chi tiết và lịch sử này là một đề tài cho chúng ta khảo
cứu.

Tổng quan những sự tích họ Mạc ở Hà Tiên, chúng ta có thể nhận xét hai điều đặc sắc :
thứ nhất là tính cách tinh thần và văn hóa. Theo Đại Nam liệt truyện tiền biên chép : khi nhà
Minh diệt vong, người Thanh bắt nhân dân phải dóc tóc, Mạc Cửu không chịu, nhất định giữ
tóc và chạy sang Chân Lạp. Về nguyên do quy thuận chúa Nguyễn của Dương Ngạn Địch và
Trần Thượng Xuyên, Đại Nam thục lục tiền biên chép rằng : “Xã tắc nhà Minh mất, không
chịu làm thần hạ nhà Thanh, sang Quảng Nam đầu thành xin làm tôi”. Còn về tổ tiên của
Trịnh Hoài Đức, Chính biên liệt truyện sơ tập cũng chép rằng : “Đầu đời Thanh, Trịnh Hội
(Ông của Hoài Đức, người huyện Trưởng Lạc, Phúc Châu, cùng một xứ sở của nhà vua
Trần) để tóc dài và sang Nông Nại Đại phố cư trú. Do mấy đoạn sử này, ta biết Mạc Cửu
cũng như Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên và Trịnh Hội, vì muốn duy trì truyền
thống văn hóa và phong tục, bỏ hết quê hương, nhà cửa mà sang Việt Nam. Chúng ta có lẽ
không hiểu những nhân vật này vì muốn giữ tóc mà chạy ra hải ngoại, nhưng thực ra ở thế kỷ
16 hoặc thứ 17, quan niệm của người Trung Quốc đối với tóc là trọng yếu hơn hết. Thí dụ,
năm 1695, W. Dampier sang viếng Bắc Kỳ, thấy người Trung Quốc hay đánh bạc lắm; theo
ông này nói, người Trung Hoa nếu đánh bạc thua hết tài sản thì bán vợ đợ con, nếu thua nữa
mới cắt tóc để giả nợ bạc, đủ biết người Trung Quốc quý tóc là nhường nào. Cho nên sau khi
tới đất Việt Nam, họ Mạc đặc biệt chú ý tới lễ giáo và văn học. Theo Hoàng Thanh Văn Hiến
Thông Khảo (quyển 299) chép : “Cung thất ở Cảng Khẩu không khác gì ở Trung Quốc, từ
vương cung trở xuống đều dùng gạch và ngói lợp nhà. Phong tục và chế độ phang phác
giống với nhà Minh. Nhà vua để tóc và đội khăn, mặc long bào, dân chúng mặc áo thụng tay,
lúc để tang mặc áo trắng. Phong tục chú trọng văn học và giỏi làm thơ văn. Trong nước có
Văn Miếu, vua và nhân dân đều tôn kính. Trong nước thiết lập nhà nghĩa học, thu nạp những
từ đệ ưu tú trong nước và những học sinh nghèo. Nếu người Hán di cư sang đây mà có thể
hiểu văn nghĩa thì mời làm giáo sư cho nghĩa học ấy. Cho nên, tất cả từ đệ đều có lễ độ lắm”.

Vì Hoàng Thanh Văn Hiến thông khảo chép xong vào năm 1747, mấy điều kể trên mô
tả trạng thái đất Hà Tiên vào tiền bán thế kỷ 18, đồng thời ta có thể tưởng kiến một xã hội
văn nhã đã xuất hiện ở miền duyên hải vịnh Xiêm La, ấy là sự thực hiện một xã hội theo
đúng lý tưởng của Nho giáo, cũng là một thắng lợi lớn lao của tinh thần bảo vệ văn hóa và
truyền thống.

Nếu chúng ta theo quan điểm chính trị mà xét, ta có thể thấy một thứ đặc sắc nữa. Như
đã nói ở trên, từ năm 1739, sau cuộc xung đột giữa Hà Tiên và Xiêm La, địa vị của Thiên Tứ
ngày một tăng tiến. Nhờ danh tiếng ấy, Hà Tiên đóng vai trò như “nước hoan xưng” giữa 3
cường quốc, tức Quảng Nam, Xiêm và Chân Lạp. Thí dụ, năm 1750, Miên Vương Angk
Snguôn (Nặc Nguyên) đến cướp người Côn man (là người Chăm) ở Nam Kỳ; năm 1754, Võ
Vương muốn báo phục bạo hành của Chân Lạp, phái quân sĩ ngũ dinh dưới quyền chỉ huy
của Thiện Chính và Nguyễn Cư Trinh đi chiếm 4 tỉnh : Lôi Lạp, Thâm Bôn, Cầu Nam và
Nam Vịnh. Năm sau 1755, Trương Phúc Do lại dốc quân đánh Cao Miên. Miên Vương
Angk Snguôn biết rằng không thể kháng cự được chúa Nguyễn, bèn chạy đi Hà Tiên xin
Thiên Tứ bảo hộ. Trong thời gian chiến sự giữa Chân Lạp và Quảng Nam, chính phủ Hà
Tiên hình như giữ một thái độ trung lập nghiêm chỉnh, và đã từng cứu tế nhiều nạn dân chạy
vào đất Hà Tiên. Nhưng một việc quan hệ hơn nữa là hành động của Thiên Tứ sau sự trốn
tránh của Angk Snguôn, theo sử chép : Thiên Tứ vì muốn khôi phục địa vị của Miên Vương,
liền tự động làm người trung gian giữa Quảng Nam và Chân Lạp, phái người đi Thuận Hóa,
nhấn mạnh rằng chiến tranh thực ra do âm mưu của tướng quân Chân Lạp (là Chiên Trung
Ích) mà xảy ra, xin chúa tha thứ tội lỗi Angk Snguôn, và đưa ra điều kiện : Miên Vương sẽ
nhường 2 tỉnh Lôi Lạp và Thâm Bôn cho Quảng Nam và sẽ bổ thục những cống vật đã đình
chỉ từ 3 năm trước. Thoạt tiên, Võ Vương không nghe, còn đưa mấy điều kiện khó khăn,
nhưng lại nhờ Nguyễn Cư Trinh, thi hữu của Thiên Tứ nói hộ, Võ Vương mới nhận điều
kiện của Thiên Tứ và bằng lòng khôi phục địa vị cho Angk Snguôn. Hai năm sau (1757),
Angk Snguôn mất, nội chiến của Chân Lạp lại tiếp tục, người chú của nhà vua là Angk Tông
(Nặc Nhuận) nắm được thực quyền, định xin chúa Nguyễn thừa nhận, thì bất thình lình bị
con rể là Ngọc Hinh ám sát, con trai Angk Tông là Angk Tân (Nặc Tôn)) sợ bị hại, chạy vào
Hà Tiên cầu Thiên Tứ bảo hộ. Một mặt nhân cơ hội này, quân đội Quảng Nam tiến vào
Oudong, Ngọc Hinh bỏ chạy, sau bị bộ hạ giết. Chờ đến khi tình hình yên ổn, Thiên Tứ lại
xin Võ Vương sắc phong Angk Tân làm Miên Vương. Võ Vương cho phép và hạ lệnh Thiên
Tứ và quân lính ngũ dinh đưa Angk Tân về Oudong. Muốn báo đáp Võ Vương, Angk Tân
hiến tỉnh Thâm Phong Long (An Giang) cho chúa Nguyễn. Chúa liền theo lời kiến nghị của
Nguyễn Cư Trinh dồn dinh Long Hồ đi Tham Phong Xứ (Vĩnh Long), lại ở xứ Sa Đéc lập
Đạo Đông Khẩu, ở xứ Tiền Giang, lập Đạo Tân Châu và ở xứ Hậu Giang lập Đạo Châu Đốc.
Như thế, toàn khu vực đồng bằng của sông Mê Công quy thuộc nhà Nguyễn. Một mặt, Angk
Tân cũng biếu Thiên Tứ một miếng đất khá rộng từ Compong Krasen đến Pointe Samite, tức
Hương Ao hoặc Vững Thơm (tức là Kompong Sum), Cần Bột (Kampot), Chân Sam (nam bộ
tỉnh Trang), Sài Mat (Banteay Meas) và Linh Quỳnh (bờ sông Prek Potasuy).

Theo Thực lục tiền biên chép, Thiên Tứ không giám nhận ngay miếng đất này, muốn
hiến cho Võ Vương, nhưng chúa Nguyễn, trái lại, hạ lệnh Thiên Tứ tiếp nhận 5 phủ này để
làm thuộc địa của Hà Tiên. Thiên Tứ tuân lệnh thu nhận 5 phủ ấy, lại ở Giá Khê (Rạch Giá)
lập đạo Kiên Giang và ở Cà Mau lập đạo Long Xuyên, chiêu tập lưu dân để di cư các nơi.
Như thế, diện tích của Hà Tiên đã khá rộng, sự thực gồm hết đất giữa Hậu Giang và vịnh
Xiêm La.

Do những điều kể trên, chúng ta thấy sự khuếch trương lãnh thổ Quảng Nam nhiều chỗ
nhờ sự giúp đỡ của Mạc Thiên Tứ, nhưng một việc có tính chất quan hệ hơn hết là lòng trung
thành của họ Mạc (đặc biệt là Thiên Tứ) đối với chúa Nguyễn và lòng thể niệm của chúa
Nguyễn đối với họ Mạc. Năm 1771, Trịnh Quốc Anh mang quân đến đánh Hà Tiên, lúc đó vì
tướng sĩ của 3 dinh, Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ đều nghi ngờ hành động của Mạc
Thiên Tứ cho nên không chịu tận tâm xuất binh viện trợ. Rút cuộc Thiên Tứ phải bỏ Hà Tiên
chạy về Trấn Giang (Cần Thơ).

Thấy ngược cảnh của Thiên Tứ, chúa Nguyễn Phúc Thuần (1765 – 1777) bèn sai quân
mang chiến thư đến ủy lạo Thiên Tứ, lại hạ lệnh ngũ Dinh cấp dân đinh 3000 người và 3000
chiếc súng cho Thiên Tứ, để ông ấy chuẩn bị khôi phục Hà Tiên. Từ năm 1775, chúa Nguyễn
Phúc Thuần vì loạn Tây Sơn, chạy vào Nam Kỳ, thì Thiên Tứ hết sức nâng đỡ chúa Nguyễn,
đồng lòng mưu toan khôi phục vương quyền cho chúa Nguyễn. Năm 1777, Nguyễn Huệ tấn
công vào Nam Kỳ. Gia Định thất thủ, Thái thượng vương (tức Nguyễn Phúc Thuần) và Tân
Chính Vương đều bị hại, theo Mạc thị gia phả chép, Thiên Tứ được tin, hàng mấy ngày than
khóc kêu trời, và nói từ nay ta không còn mặt nào trông thấy vua Nam Thiên ở dưới suối
vàng. Cũng theo Mạc thị gia phả chép, Nguyễn Huệ đã từng phái quân lính mang thư đến
khuyên Thiên Tứ đầu hàng, nhưng Thiên Tứ trả lời rằng “Ta thờ nhà Nguyễn trãi 2 đời, tâm
như thiết thạch, ta thề không cùng bọn giặc làm nghịch ý trời”. Chúng ta ai cũng biết đến lúc
ấy, đại thế đã mất, không còn một chút hy vọng nào để khôi phục xã tắc chúa Nguyễn mà
tâm tính Thiên Tứ vẫn còn cương quyết như thế, đủ biết tinh thần trung nghĩa và quyết tâm
cùng sống chết trước một kẻ thù chung của Thiên Tứ. Kể đến đây, chúng ta có thể nhớ ra câu
nói bất hủ của Trần Thượng Xuyên là : Nguyễn vi Vương, Trần vi Tướng thế thế bất vong.
(một việc đáng chú ý là Trần Thượng Xuyên và Mạc Cửu là thông gia với nhau, Trần Đại
Định lấy con gái của Mạc Cửu). Ý nghĩa câu nói này thật là phong phú lắm. Trước hết là
biểu thị tấm lòng trung nghĩa không thể lay chuyển của di dân nhà Minh sang Nam Kỳ, thứ
hai là tỏ rõ quan niệm an phận của họ Trần, có thể coi như tinh thần của thời đại khai thác
Nam Kỳ.
Hiện nay, Việt Nam và Trung Quốc, hai nước đang đứng cùng một trận tuyến, đồng
thời mấy chục vạn Hoa Kiều sống ở đất Việt Nam đang cùng người Việt chung lưng góp sức
hoạt động về thương mại và văn hóa trong xã hội, những sự hợp tác về kinh tế và giao lưu
văn hóa đang được súc tiến một cách cụ thể và mau chóng. Tôi thiết tưởng, bây giờ chúng ta
không cần đi tìm tinh thần hợp tác nào khác giữa hai nước, sự thực, nếu mở cuốn lịch sử
Nam Kỳ, ta thấy cách đây không đến 200 năm đã có nhiều thực lệ của tinh thần hợp tác và sự
tích vĩ đại đáng làm kiểu mẫu cho chúng ta. Theo thiển kiến, việc cần nhất cho sự đoàn kết
giữa người Việt và người Hoa Kiều là khôi phục lại tinh thần thể niệm và lòng trung thành
như chúa Nguyễn và họ Mạc ở Hà Tiên ngày xưa. Vì đã có một bối cảnh đẹp đẽ như thế, tôi
tin rằng sự hợp tác và đoàn kết giữa Hoa – Việt về sau sẽ đầy hy vọng và có thể phát dương
quang minh vô cùng./.

(Tạp chí Văn hóa Á Châu, số 7, tháng 10/1958, tr. 30 - 38)


PHỤ LỤC 7 :

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ KIÊN GIANG VÀ HÀ TIÊN


Hình 2 : Bản đồ hành chính thị xã Hà Tiên ngày nay
Hình 4 : Đền thờ họ Mạc trên núi Bình San (Ảnh – TVN)

Ba chữ chính giữa là : MẠC CÔNG MIẾU

NHẤT THẤT
DIỆP Đôi liễn chữ Hán trước đền
MÔN
PHIÊN (đọc từ bên phải sang trái)
TRUNG
NGHĨA HÀN Nghĩa là :
GIA QUỐC
Một nhà trung nghĩa, danh thơm cả họ.
THINH LŨNG
Bảy lá dậu che, cả nước mến yêu.
TRONG VINH
Hình 5 : Bên trong đền thờ họ Mạc (Ảnh – TVN)

Hình 6 : Lối đi lên phần mộ họ Mạc (Ảnh – TVN)


Hình 7 : Phần mộ Mạc Cửu (Ảnh – TVN)

Hình 8 : Phần mộ Mạc Thiên Tứ (Ảnh – TVN)


Hình 9: Một góc Cảng Hà Tiên ngày nay (Ảnh – TVN)

Hình 10 : Cảng Hà Tiên và chợ Hà Tiên ngày nay (Ảnh – TVN)


Hình 11 : Cảng Hà Tiên và cửa biển Đông Hồ (Ảnh – TVN)

Hình 12 : Cầu Tô Châu nối liền hai bờ Đông Hồ (Ảnh – TVN)


Hình 13 : Bãi Mũi Nai – Hà Tiên (Nguồn: quehuong.org.vn)

Hì h 14 Biể Hà Tiê (N ồ htt // h d 24 )


Hình 15 : Hang Thạch Động (Ảnh - TVN)

Hình 16 : Tượng những nàng tiên đang tắm – sự tích tên gọi
Hà Tiê (Ả h TVN)

You might also like