You are on page 1of 220

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
---*---

NGUYỄN THANH PHÚC

THƠ NÔM ĐƢỜNG LUẬT


(TỪ HỒ XUÂN HƢƠNG ĐẾN TRẦN TẾ XƢƠNG)

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM


Mã số: 50433

LUẬN ÁN PHÓ TIẾN SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học :


Giáo sư: LÊ TRÍ VIỄN

TP. Hồ Chí Minh - 1996


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu
trong Luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Ký tên

Nguyễn Thanh Phúc


1

MỤC LỤC
MỤC LỤC ..................................................................................................................... 1

PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................ 3

1. Tính cấp thiết của đề tài ..................................................................................... 3

2. Lịch sử vấn đề : .................................................................................................. 4

2.2. Nghiên cứu thơ Nôm Đƣờng luật nhƣ là bộ phận trong mối liên quan với
tổng thể là tác phẩm , tác giả.......................................................................................... 6

3. Mục đích nghiên cứu : ....................................................................................... 9

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu : ................................................................... 9

5. Phƣơng pháp nghiên cứu : ............................................................................... 13

6. Những đóng góp mới của luận án .................................................................... 14

7. Bố cục của luận án : ......................................................................................... 15

CHƢƠNG MỘT: KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN THƠ NÔM ĐƢỜNG
LUẬT ................................................................................................................................... 17

CHƢƠNG HAI: HỆ THỐNG ĐỀ TÀI, CHỦ ĐỀ THƠ NÔM ĐƢỜNG LUẬT THẾ
KỶ XIX ................................................................................................................................ 39

2.1.Đề tài, chủ đề thiên nhiên .......................................................................... 40

2.2. Đề tài, chủ đề vịnh sử, vịnh truyện, triết lý nhân sinh khẳng định đạo lý và
khí tiết nhà Nho............................................................................................................ 47

2.3. Đề tài tự vịnh, tự thuật, tự trào và chủ đề tâm sự, khát vọng cá nhân. ..... 55

2.4. Đề tài cuộc sống xã hội, đất nƣớc, con ngƣời và chủ đề yêu nƣớc........... 67
2

CHƢƠNG BA HỆ THỐNG HÌNH TƢỢNG KHÔNG GIAN - THỜI GIAN ........ 75

3.1. Hình tƣợng không gian ............................................................................. 75

3.2. Hình tƣợng thời gian ................................................................................. 90

CHƢƠNG BỐN: CẤU TRÚC BÀI THƠ VÀ NHỊP ĐIỆU CÂU THƠ .............. 102

4.1 Cấu trúc bài thơ Nôm Đƣờng luật thất ngôn bát cú ................................. 102

4.2. Nhịp điệu câu thơ Nôm Đƣờng Luật ...................................................... 133

CHƢƠNG NĂM: HỆ THỐNG NGÔN NGỮ THƠ NÔM ĐƢỜNG LUẬT THẾ
KỶ XIX .............................................................................................................................. 146

5.1. Hệ thống ngôn ngữ gần với Đƣờng thi ................................................... 146

5.2. Hệ thống ngôn ngữ dân tộc ..................................................................... 159

5.2.1. Bộ phận từ thuần Việt: ..................................................................... 160

5.2.2. Ngôn ngữ văn học dân gian : ........................................................... 167

5.2.3 Ngôn ngữ đời thƣờng . ............................................................. 170

PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................... 190

1. Thế giới nghệ thuật thơ Nôm Đƣờng luật ( thế kỷ XIX) ............................... 190

2. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong thơ Nôm Đƣờng luật (thế kỷ XIX)
........................................................................................................................................ 193

3. Kết luận chung ............................................................................................... 195

THƢ MỤC THAM KHẢO........................................................................................ 201

PHẦN PHỤ LỤC ....................................................................................................... 210


3

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Trong hơn 1200 năm nay, Đƣờng Thi vẫn đƣợc coi là tiêu biểu cho đỉnh cao của
thơ ca cổ điển Trung Quốc. Nó "để lại cõi đời cùng sáng với vầng trăng". Ảnh hƣởng của nó
rộng khắp các nền văn hóa Châu Á, nhất là Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam... Có thể nói,tinh
hoa Đƣờng Thi đã thấm sâu vào mạch nguồn thơ ca dân tộc Việt Nam, trở thành vốn văn hóa.
1.2. Qua thi cử thời xƣa, mọi nhà Nho đều có thể làm thơ Đƣờng luật. Từ đó, cũng có
ngƣời ngộ nhận rằng ngƣời Việt bắt chƣớc làm thơ Đƣờng giống y nhƣ ngƣời Trung Hoa đã
làm. Thật ra, khi tiếp nhận, nhà thơ Việt Nam đã chuyển hóa nó thành của riêng mình, nghĩa
là tiếp nhận với tinh thần độc lập, sáng tạo, làm cho thơ Đƣờng luật Việt Nam thấm đƣợm
tinh thần Việt Nam, phù hợp với nền văn hóa dân tộc.
1.3. Do vậy, nghiên cứu thơ nôm Đƣờng luật, trong hoàn cảnh hiện nay, khi mà việc
bảo tồn, chấn hƣng, phát huy bản sắc văn hóa dân lộc là hết sức cấp thiết, lại trở thành quan
trọng. Hơn nữa, thực tế sự đổi mới chƣơng trình văn học trong nhà trƣờng Đại học và Trung
học cũng đòi hỏi những công trình nghiên cứu về thơ cổ điển Việt Nam, mà trong đó, thơ
Nôm Đƣờng luật có một vị trí quan trọng.
1.4. Tính cấp thiết của đề tài còn chính vì lầm quan trọng của thể loại. Ngƣời viết lời
giới thiệu cuốn “Théorie des genres” (Lý thuyết về thể loại - Nhiều tác giả - Editions du
Seuil - 1986) cho đây là một vấn đề "trong nhiều thế kỷ từ Aristote đến Hégel đã là đối tượng
trung tâm của thi pháp học" (dẫn theo [81 : 3]) M. Bakhtin cũng từng nhấn mạnh rằng "
4

" Mỗi một thể loại, nhất là thể loại lớn, thể hiện một thái độ thẩm mỹ đối với hiện thực, một
cách cảm thụ, nhìn nhận, giải minh thế giới và con người. Thể loại là cái trí nhớ siêu cá nhân
của nghệ thuật, nơi tích lũy, đúc kết những kinh nghiệm nhận thức thẩm mỹ thế giới. Mỗi thời
đại thể loại cố hệ thống thể loại của mình, trong đó những thể loại chính thể hiện sự tập
trung nhất, nổi bật nhất tâm thức, tầm nhìn, những mối quan tâm, những quan niệm và chuẩn
mực giá trị của con người trong thời đại đó." [2:7]M. Bakhtin nhận định rằng "Đằng sau cái
mặt ngoài sặc sỡ và đầy tạp âm ồn ào cửa tiến trình văn học, người ta không nhìn thấy vận
mệnh to lớn và cơ bản của văn học và ngôn ngữ, mà những nhân vật chính nơi đây trước hết
là các thể loại, còn trào lưu, trường phái chỉ là những nhân vật hạng nhì và hạng ba" [2:28]
Thế mà thơ Nôm Đƣờng luật, một trong ba thể loại lớn viết bằng thứ văn tự riêng của dân tộc
thời trung đại, đến nay vẫn chƣa đƣợc nghiên cứu một cách hệ thống.
Đó là mấy lý do cấp thiết khiến chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu, thơ Nôm Đƣờng
luật, khám phá những đặc điểm thể loại, chứng tỏ nó không phải là sự lập lại bài học từ văn
chƣơng Trung Quốc. Để giới hạn đề tài, luận án tập trung vào giai đoạn thế kỷ XIX, từ Hồ
Xuân Hƣơng đến Trần Tế Xƣơng.

2. Lịch sử vấn đề :
Theo dõi lịch sử của việc nghiên cứu ít nhiều liên quan đến thơ Nôm Đƣờng luật, thấy
có ba hƣớng chính :
- Nghiên cứu thơ Nôm Đƣờng luật trong quá trình nghiên cứu chung về nền văn
chƣơng chữ Nôm.
5

- Nghiên cứu thơ Nôm Đƣờng luật nhƣ là bộ phận trong mối liên quan với tổng thể là

tác phẩm, tác giả.

- Nghiên cứu thơ Nôm Đƣờng luật trong sự giao lƣu với văn học Trung Quốc.
2.1. Nghiên cứu thơ Nôm Đƣờng luật trong quá trình nghiên cứu chung về nền văn
chƣơng chữ Nôm.
Vào đầu thế kỷ XX, có cuốn "Quốc văn tùng ký", Nguyễn Văn San tự Hải Châu Tử
biên soạn bằng chữ Nôm, đã tập hợp và phân loại thơ văn, trong đó có thơ Nôm Đƣờng luật.
Khi nói về các sáng tác Nôm, ông có nhận xét "Ấy là lối văn chương nước ta, non sông tinh
tú vẽ ra biết bao nhiêu nhân tài chứ không đâu được thế vậy" [98: ] Vào những năm cuối
thập kỷ thứ hai, Đông Chu Nguyễn Hữu Tiến (1875 - 1941) biên soạn "Cổ xúy nguyên âm",
quyển 1 năm 1916 và quyển 2 năm 1918. Trong lời Tựa, ông viết "lối văn chương Nôm nước
mình(...) thể cách cũng chẳng khác chi văn Tàu mà lại có lối đặc biệt riêng của ta vậy "(dẫn
theo [81:13]). Cũng năm 1918, Phan Kế Bính (1875 - 1921) viết Việt Hán văn khảo . Đây là
"công trình nghiên cứu , biên khảo và dịch thuật có giá trị về nghệ thuật văn chương(...) gồm
8 tiết, trong đó dành 5 tiết để nghiên cứu nguồn gốc, nguyên lý văn chương, các thể loại văn
học và(...) " [85:II:199]. Năm 1943, cuốn Việt Nam văn học sử yếu của Dƣơng Quảng Hàm
xuất hiện lần đầu. Trong công trình này, tác giả có đề cập đến các thể văn. Ông nhận định về
thơ Đƣờng luật nhƣ sau: "Thơ Nôm ta làm theo phép tắc thơ tàu, mà âm thanh tiếng ta cũng
tương tự tiếng Tầu (cũng là thứ tiếng đan âm và cũng chia làm tiếng bằng tiếng trắc) nên thi
pháp của ta tức là thi pháp của Tàu và các niêm luật của thơ
6

ta cũng phỏng theo thơ Tàu cả" [29:122] Rõ ràng cách nhìn của tác giả là có hạn chế. Tuy
nhiên, từ sự phân tích, tác giả cũng đã rút đƣợc một số kết luận quan trọng, chẳng hạn " Văn
Nôm của ta về thế kỷ thứ XIX, so với trước, thật có tiến bộ nhiều (...) các thể thơ, hát nói,
song thất, lục bát đều có phần khởi sắc và các văn sĩ ta đã nhiều khi thoát ly cái ảnh hưởng
của thơ văn Tàu mà diễn đạt tư tưởng, tính tình một cách thành thực để sáng tạo một nền văn
đặc biệt của dân tộc ta"[29:399] Năm 1953, Thanh Lãng viết Văn chƣơng chữ Nôm. Chúng
tôi lƣu ý 2 điểm. Một là, tuy cách gọi tên mỗi thời kỳ có chỗ chƣa ổn, nhƣng ông đã chia quá
trình phát triển của văn chƣơng chữ Nôm ra làm ba thời kỳ là tái hợp lý : phôi thai thời đại(
1225 - 1430), phát đạt thời đại( 1430 - 1750)và toàn thịnh thời đại( 1750 - 1900). Hai là,
trong cái nhìn của tác giả, dƣờng nhƣ chƣa nhìn thấy vị trí xứng đáng của thơ Nôm bên cạnh
truyện Nôm. Nhìn chung những công trình trên chỉ vận dụng thi luật học Trung Quốc để tìm
hiểu thơ Nôm Đƣờng luật. Dù đây đó còn hạn chế về tƣ tƣởng, học thuật, nó cũng đã có gợi ý
bƣớc đầu.
2.2. Nghiên cứu thơ Nôm Đường luật như là bộ phận trong mối liên quan với tổng
thể là tác phẩm , tác giả.
Hƣớng nghiên cứu này góp phần khám phá về thơ Nôm và cả thơ Hán luật Đƣờng
nhƣ chuyên khảo Thi hào Nguyễn Khuyến, đời và thơ do Gs Nguyễn Huệ Chi chủ biên. Tiêu
biểu là bài viết "Sáng tạo trong thơ Đường luật" của Gs Lê Chí Dũng. Nhìn chung chuyên
khảo đã nhất trí và khẳng định "Bút pháp Nguyễn Khuyến đã như một dấu hiệu quan trọng
của sự vận động của văn học Việt Nam trên đường hiện đại hóa" [15:28]. Trong chuyên đề
sau đại học Thơ Hồ Xuân Hương, Gs Lê Trí Viễn đã chỉ ra
7

phong cách Xuân Hƣơng trong phong cách thể loại xét từ cấp độ xây dựng hình tƣợng với cả
một hệ thống ngôn ngữ tƣơng ứng và từ phƣơng diện cấu trúc của thể thơ. Gs Đặng Thanh Lê
cũng đã đặt những bài thơ Hồ Xuân Hƣơng trong sự phát triển của dòng thơ Nôm Đƣờng
luật, phác họa một số nét cơ bản trong sự vận động của thể loại, đồng thời nêu bật những
đóng góp của Hồ Xuân Hƣơng về cảm hứng và bút pháp nghệ thuật. Dựa vào quan điểm thi
pháp học của Jakobson, Gs Đỗ Đức Hiểu đã tìm hiểu ý nghĩa thơ Nôm Đƣờng luật của Hồ
Xuân Hƣơng từ cấu trúc biểu đạt trong bài Thế giới thơ Nôm Hồ Xuân Hương và ông kết luận
"Hồ Xuân Hương sáng tạo một phong cách thơ Đường luật mới" (31 : 87) Nhìn chung những
công trình này có nhiều gợi ý đáng kể cho luận án của chúng tôi.
2.3 Nghiên cứu thơ Nôm Đƣờng luật trong sự giao lƣu với văn học Trung Quốc.
Hƣớng nghiên cứu này thƣờng sử dụng thao tác so sánh với Đƣờng thi hoặc văn học,
văn hóa Trung Quốc để tìm ra những nét đặc thù dân tộc. Bài viết sớm nhất có lẽ là bài Mối
quan hệ mật thiết giữa văn học Việt Nam và văn học Trung quốc của Gs Đặng Thai Mai. Ông
cho rằng "Ngay trong lúc họ vận dụng thể văn và văn tự Trung Quốc để hiểu hiện tình cảm
và tư tưởng của họ, nhiều nhà thơ chúng ta vẫn luôn luôn cố gắng bảo vệ đặc sắc của dân tộc
và cá tính của con người sáng tác" [54: ] Tuy nhiên, ông đã không chỉ ra chỗ đặc sắc, nét
riêng ấy, lại cho rằng; "Trong các thể loại vay mượn của Trung Quốc thì thơ ca(...) thơ
Đường luật thất ngôn, ngũ ngôn(...) trong lối thơ ca trữ tình, thi sĩ cổ điển ta vẫn khai thác
bấy nhiêu long mạch: tình yêu thiên nhiên, tình yêu
8

người yêu bè bạn vợ con và nhất là tình yêu nước" [64 : 11]. Năm 1973, Gs Trƣơng Chính có
bài viết "Cha ông ta đã vận dụng các thể loại văn học Trung quốc như thế nào vào thơ
Nôm?" Ông viết: "Cha ông chúng ta khi chuyển sang sáng tác bằng chữ Nôm, đồng thời
muốn cởi xiềng xích ra, bắt đầu từ Hàn Thuyên" [14:3] Khi đối chiếu hiện tƣợng thất ngôn
xen lục ngôn ở thơ Nôm Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm với thể Đƣờng
thi ở Trung Quốc, ông cho biết Trung Quốc "Không có thể câu bảy từ xen câu sáu từ hoặc
câu sáu từ xen câu bảy từ" và theo ông thì hiện tƣợng này của thơ Việt Nam " chắc đó là một
thể loại mới do cha ông chúng ta tạo ra trên cơ sở câu thất ngôn, trong lúc niêm luật, đối,
gieo vần theo luật Đường" (14:4) Mãi cho đến năm 1991, tại Hội thảo khoa học Nghiên cứu
văn học cổ trung đại Việt Nam trong mối quan hệ khu vực, Gs Nguyễn Huệ Chi đã nhấn
mạnh vấn đề "cố gắng tìm ra những nét nghĩa khu biệt giữa thơ Đường luật dân tộc với thơ
Đường" và khẳng định vai trò quan trọng của những công trình nghiên cứu này "nếu có thể
cùng nhau góp sức tìm ra một lời giải đáp chung: như thế nào là mã thơ Đường Việt Nam
(...) thì mọi sự mắc míu về thi pháp thể loại thơ cổ chắc sẽ khai thông dễ dàng" (2:22) Tại hội
thảo, Gs Bùi Duy Tân có bài Mối quan hệ về thể loại giữa văn học Trung Quốc và văn học
Việt Nam thời trung đại: tiếp nhận - cách tân - sáng tạo và cho rằng "Những thể loại ngoại
nhập mà được viết bằng chữ Nôm thì sự Việt hóa dễ được tăng trưởng" Năm 1993, trong luận
án PTS Thơ Nôm Đƣờng luật từ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi đến thơ Hồ Xuân
Hƣơng , Lã Nhâm Thìn đã bƣớc đầu tìm hiểu thơ Nôm Đƣờng luật giai đoạn này và kết luận
" Có thể thấy bội số chung nhỏ nhất của các yếu tố cấu thành
9

thơ Nôm Đường luật là tính chất đời thường, sự giản dị, tinh thần tự do và xu hướng tâm
trạng hóa. Nói một cách khái quát và ngắn gọn, mã của thơ Nôm Đường luật được xác định
bởi tính chất Nôm của thể loại" [81:142-143] Nhƣ vậy, nhìn chung tuy có những đóng góp
quí báu, nhất là hai hƣớng nghiên cứu sau, nhƣng khảo sát thơ Nôm Đƣờng luật một cách hệ
thống, nhất là ở giai đoạn phát triển từ Hồ Xuân Hƣơng đến Trần Tế Xƣơng đang còn là
khoảng trống dành cho ngƣời nghiên cứu.

3. Mục đích nghiên cứu :


Nằm trong hƣớng nghiên cứu thƣ Nôm Đƣờng luật từ góc độ thể loại văn học , luận
án tập trung nghiên cứu thể loại này trong giai đoạn từ Hồ Xuân Hƣơng đến Trần Tế Xƣơng,
coi nhƣ thuộc thế kỷ XIX, là giai đoạn phát triển đến đỉnh cao của thể loại, mà điểm trọng
yếu là tìm hiểu, xác định những đặc trƣng của nó về mặt nội dung và về mặt hình thức nghệ
thuật. Để tiến tới mục đích ấy, luận án cũng phác họa quá trình phát triển, sơ bộ tái hiện diện
mạo thơ Nôm Đƣờng luật trong văn học Việt Nam.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu :


4.1. Đối tƣợng nghiên cứu chính của luận án là 450 bài thơ thất ngôn bát cú và tứ
tuyệt chữ nôm từ Hồ Xuân Hƣơng đến Tú Xƣơng. Đây là những bài thơ Nôm Đƣờng luật liêu
biểu cho thế kỷ XIX. Sở dĩ chúng tôi chọn thơ Hồ Xuân Hƣơng làm mốc đầu vì thơ Nôm
truyền tụng của bà thật sự mở ra bƣớc ngoặt vĩ đại trong lịch sử phát triển thơ Nôm Đƣờng
luật lại xuất hiện khoảng đầu thế kỷ XIX. Chọn thơ Trần Tế Xƣơng làm mốc cuối không chỉ
vì nhà thơ đã qua đời vào đầu thế kỷ XX (1907) mà còn vì thơ ông thật sự khép lại thơ
Đƣờng luật chữ Nôm. Thơ Nôm Đƣờng
10

luật trƣớc Hồ Xuân Hƣơng chỉ đƣợc đề cập đến ở chƣơng , khi tìm hiểu một cách khái quát
về thể loại này từ góc độ phát triển lịch sử và khi cần thiết để so sánh lịch đại. Thơ chữ Quốc
ngữ và chữ Hán luật Đƣờng xuất hiện ở thế kỷ XX cũng là đối tƣợng để so sánh. Truyện thơ
gồm nhiều bài thơ Đƣờng luật thất ngôn bát cú ghép lại và "bài luật" đều không phải là đối
tƣợng nghiên cứu của luận án . Chúng tôi rất chú ý đến việc chọn lựa văn bản đáng tin cậy để
tiến hành thống kê nhằm rút ra những kết luận có khả năng thuyết phục nhiều nhất. Luận án
chủ yếu dựa vào Hợp tuyển thơ văn Việt Nam và các Thi tập. Riêng văn bản về Hồ Xuân
Hƣơng là lấy trong Thơ Hồ Xuân Hƣơng (thƣ mục 91) của Gs Lê Trí Viễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Trƣớc khi xác định phạm vi nghiên cứu của luận án, chúng tôi thấy cần giới thuyết
một vài khái niệm: Một là về khái niệm thể loại. Dựa vào ý kiến của D.X.Likhasev cho thể
loại văn học "là một phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất hiện vào một giai đoạn phát triển nhất định
của văn học và sau đó biến đổi và được thay thế" (86 : 204) và của Từ điển thuật ngữ văn học
"thể loại văn học là sự thống nhất giữa một loại nội dung và một dạng hình thức văn bản và
phương thức chiếm lĩnh đời sống" (86 : 204), chúng tôi nghĩ đến sự cần thiết nên phân biệt
giữa thể và thể loại nhƣ sau:
11

THỂ THỂ LOẠI


- thiên về hình thức - thống nhất nội dung-
hình thức
- có tính ổn định, bền vững - vừa ổn định vừa biến đổi,
vừa cũ vừa mới
- thí dụ : - thí dụ :
thể Đƣờng luật Thơ Nôm Đƣờng luật...
thể lục bát Truyện thơ Nôm
thể song thất lục bất Ngâm khúc

Nhƣ vậy, theo chúng tôi, thể Đƣờng luật và thể loại thơ Nôm Đƣờng luật sẽ có 6 hình
thức thể: thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bài luật, ngũ ngôn bát cú, ngũ ngôn tứ
tuyệt, ngũ ngôn bài luật. Chúng tôi cũng sử sụng thuật ngữ thể tài khi muốn đề cập, nhấn
mạnh ở góc độ đề tài, chủ đề, nghĩa là thiên về mặt nội dung thể loại, chẳng hạn khi nói đến
thể tài trữ tình thế sự, trữ tình đời tƣ, thể tài trào phúng, hoặc hẹp hơn: thơ thiên nhiên, thơ
điền viên, thơ biên tái, thơ vịnh sử, vịnh truyện, vịnh vật, thở khẩu khí, thở cảm hoài, thơ tự
trào, thơ đi sứ, thơ bút chiến... Hai là về khái niệm thơ Nôm Đƣờng luật. Đây là thuật ngữ để
chỉ thơ viết bằng chữ Nôm của dân tộc Việt Nam (đúng hơn là của dân tộc Kinh) theo thể
Đƣờng luật. Luận án chỉ tập trung khảo sát hai hình thức thể cơ bản là thất ngôn bát cú và
thất ngôn tứ tuyệt bởi vì nó chiếm số lƣợng áp đảo và có những đặc trƣng tiêu biểu cho thể
loại. Số bài thơ đƣợc khảo sát cụ thể là:
12

STT Tác giả tiêu biểu Bát cú Tứ tuyệt Cộng

1 Hồ Xuân Hƣơng 25 13 38
2 Phạm Thái 3 0 3

3 Trịnh Hoài Đức 6 0 6

4 Nguyễn Công Trứ 40 0 40

5 Nguyễn Thị Hinh 6 0 6

6 Phan Thanh Giản 6 4 10

7 Bùi Hữu Nghĩa 13 0 13

8 Huỳnh Mẫn Đạt 11 0 11

9 Nguyễn Hữu Huân 4 0 4

10 Nguyễn Đình Chiểu 32 0 32

11 Tôn Thọ Tƣờng 14 0 14


12 Phan Văn Trị 32 0 32

13 Lê Quang Chiểu 15 0 15

14 Nguyễn Khuyến 64 4 68

15 Nguyễn Văn Lạc 7 2 9

16 Chu Mạnh Trinh 21 0 21

17 Nguyễn Thiện Kế 5 0 5
18 Trần Tế Xƣơng 74 33 107
19 Khuyết danh( và mấy bài thơ lẻ) 13 3 16

TỔNG CỘNG 391 59 450


13

Để tiếp cận thơ Nôm Đƣờng luật nhƣ một hiện tƣợng văn học, chúng tôi có quan tâm
đến quá trình phát sinh và phát triển nhƣng chủ yếu vẫn là đi vào chính cấu trúc của nó.
Những lĩnh vực chúng tôi quan tâm là:
- Thơ Nôm Đƣờng luật về mặt lịch sử, tức là tình hình phát triển địa thể loại và sơ bộ
phác họa đặc điểm có tính qui luật về sự phát triển ấy.
- Cấu trúc thơ Nôm Đƣờng luật trong tính tổng thể của nó với các mặt hình thức - nội
dung. Nhằm tiếp cận nội dung thể loại, phạm vi luận án nghiên cứu là hệ thống đề tài, chủ đề.
Còn những yếu tố hình thức nghệ thuật tiêu biểu đƣợc khảo sát là : nhịp (hay tiết tấu) của câu
thơ, cấu trúc của bài thơ bát cú, hệ thống ngôn ngữ và hệ thống hình tƣợng không gian - thời
gian.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu :


5.1. Phƣơng pháp luận nghiên cứu:
Chúng tôi sử dụng thuật ngữ phƣơng pháp luận (méthodologie) với ý nghĩa phổ biến
là lý luận, bàn về các con đƣờng nghiên cứu, cách tiếp cận văn chƣơng. Chúng tôi lƣu ý hai
điểm sau đây về mặt phƣơng pháp luận:
- Thơ Nôm Đƣờng luật là một thể loại ngoại nhập chứ không phải nội sinh nên chúng
tôi coi nó nhƣ một hiện tƣợng giao lƣu văn học, giao lƣu văn hóa nói chung.
- Thơ Nôm Đƣờng luật, trong thực tế, ngày càng xa dần cội nguồn của nó là Đƣờng
thi Trung Quốc, lại hấp thụ tƣ tƣởng dân tộc, chịu ảnh hƣởng sâu đậm của folklore, thực sự
xác định chỗ đứng của mình trong nền văn học dân tộc nên chúng tôi nhìn nhận nó nhƣ một
thể loại văn học dân tộc, tuy có sự mô phỏng nhƣng chủ yếu lại là sự cách tân, sáng tạo.
14

5.2 Những phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể:

Trƣớc hết, từ các văn bản, chúng tôi sƣu tầm dữ kiện chính xác và khách quan theo

từng yếu tố và hệ thống đƣợc khảo sát, sau đó, sắp đặt chúng một cách hệ thống. Chúng tôi

phân tích, tổng hợp, tìm ra những đặc trị thống kê và thử lý giải, tìm ra những yếu tố nào về

xã hội, tâm lý nhà thơ...đã ảnh hƣởng đến các dữ kiện. Nhƣ vậy, thống kê là thao tác không

thể thiếu trong bất cứ công trình khoa học nào. Trong luận án chúng tôi vận dụng kết hợp 5

phƣơng pháp nghiên cứu sau:

- Phƣơng pháp biến sinh lịch sử: Không chỉ đƣợc dùng để tìm hiểu sự vận động của

thể loại qua ba giai đoạn mà còn đƣợc dùng trong khi khảo sát từng yếu tố, hệ thống trong sự

vận động có tính lịch sử của nó.

- Phƣơng pháp hệ thống và phƣơng pháp cấu trúc: Là hai phƣơng pháp đƣợc vận

dụng để nghiên cứu, phân tích hệ thống đề tài - chủ đề, ngôn ngữ, nhịp thơ và bố cục một bài

thơ.

- Phƣơng pháp so sánh: Là một phƣơng pháp hết sức quan trọng và cần thiết đối với

luận án. Sử dụng phƣơng pháp này, chúng tôi mới có thể tìm ra những đặc trƣng của thơ Nôm

Đƣờng luật thế kỷ XIX.

- Phƣơng pháp liên ngành: đặc biệt là liên ngành ngôn ngữ và văn học đƣợc dùng để

khảo sát chƣơng cuối.

6. Những đóng góp mới của luận án


- Về nghiên cứu văn học: Hƣớng về một thể loại tiêu biểu cho văn học Trung đại

Việt Nam, luận án góp phần khái quát hóa, bổ sung và đính chính một số đặc điểm cơ bản

của thể loại này. Nó cũng góp phần tái hiện rõ nét diện mạo thể loại qua những tác giả, tác

phẩm nổi bật ở thế kỷ XIX, một thế kỷ văn học đầy tự hào của dân tộc. Nói cách khác,
15

bằng cách tiếp cận từ mặt nội dung (đề tài, chủ đề) và về mặt thi pháp thể loại, luận án cố
gắng phát hiện và tổng kết, nêu lên một số đặc điểm về nhịp, cấu trúc bên ngoài và bên trong
của thể loại thơ Nôm Đƣờng luật. Ngoài ra, những bản thống kê cụ thể, chi tiết của luận án về
đề tài, chủ đề, ngôn ngữ của những tác giả, tác phẩm tiêu biểu chắc chắn góp phần hữu hiệu
cho việc nghiên cứu văn học.
- Về thức tiễn: Luận án có thể góp phần bổ sung chuyên đề giảng dạy, gợi ý cho giáo
viên trong quá trình giảng dạy những tác giả thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX.

7. Bố cục của luận án :


Luận án có 200 trang viết, 9 trang thƣ mục và 8 trang phần phụ lục (trong đó có 2
bảng biểu). Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận án có 5 chƣơng
- Phần mở đầu: 16 trang. Trước hết, chúng tôi nêu lên tính cấp thiết của đề tài. Thứ
hai, là lịch sử của vấn đề, chúng tôi tóm tắt nội dung ở các tƣ liệu căn bản nằm trong những
công trình nghiên cứu đi trƣớc ít nhiều có liên quan đến đề tài, nhấn mạnh chỗ đóng góp,
đồng thời mạnh dạn chỉ ra những chỗ thiếu sót, thậm chí sai lầm trong khi nhận xét, đánh giá
về thơ Nôm Đƣờng luật. Từ đó, luận án nêu ra những vấn đề chƣa đƣợc nói đến hay đã nói
đến nhƣng chƣa đầy đủ, chƣa chính xác lắm. Thứ ba, chúng tôi nêu lên mục đích nghiên cứu
của mình, chỉ ra đối tƣợng, phạm vi, phƣơng pháp nghiên cứu và bố cục của luận án.
- Chƣơng một: 22 trang. Luận án sẽ lƣợc khảo khái quát quá trình phát triển thơ Nôm
Đƣờng luật.
16

- Chƣơng hai: 36 trang. Chúng tôi đi vào khảo sát, phân tích hệ thống đề tài, chủ đề
thở Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX nhằm tiếp cận nội dung thể loại.
- Chƣơng ba: 27 trang. Hệ thống hình tƣợng không gian - thời gian.
- Chƣơng bốn : 44 trang. Cấu trúc bài thơ và nhịp điệu câu thơ.
- Chƣơng năm: 44 trang. Hệ thống ngôn ngữ .
- Phần kết luận: 11 trang. Tổng hợp từ những yếu tố đƣợc khảo sát, chúng tôi thử
phác họa thế giới nghệ thuật thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX và nêu lên quan niệm nghệ
thuật về con ngƣời của nhà thơ.
17

CHƢƠNG MỘT: KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN THƠ NÔM
ĐƢỜNG LUẬT
N.G.Tsenushevsky từng nói rằng nếu không có lịch sử của đối tƣợng thì cũng sẽ
không có lý luận về nó.D.X.Likhasev cũng nhận thấy tầm quan trọng của lịch sử thể loại,
khẳng định thể loại văn học "là một phạm trù lịch sử. Nó chỉ xuất hiện vào một giai đoạn
phát triển nhất định của văn học và sau đó biến đổi và được thay thế" (dẫn theo [86 : 204]).
Từ điển thuật ngữ văn học cũng gợi ý: "Vì vậy khi tiếp cận các thể loại văn học, cần tính đến
thời đại lịch sử của văn học và những biến đổi, thay thế của chúng" [86 : 204]. Nhìn tổng
quát về những biến đổi trên những chặng đƣờng phát triển của thơ Nôm Đƣờng luật, chúng
tôi thấy nó từng bƣớc đƣợc hoàn thiện cùng với nền văn chƣơng chữ Nôm nói chung, cụ thể
là trải qua ba giai đoạn : giai đoạn hình thành (thế kỷ XII đến Quốc âm thi tập vào đầu thế kỷ
XV), giai đoạn phát triển (từ Quốc âm thi tập đến hết thế kỷ XVIII) và giai đoạn phát triển ở
đỉnh cao (thế kỷ XIX) với sự mở đầu của thơ Hồ Xuân Hƣơng và kết thúc với thơ Trần Tế
Xƣơng.
1.1. GIAI ĐOẠN HÌNH THÀNH
Thơ Nôm Đƣờng luật có lẽ ra đời vào cuối thế kỷ XIII, song về mặt văn bản, cho đến
nay, vẫn chƣa sƣu tầm đƣợc. Đại Việt sử ký toàn thư có chép: " Nhâm ngọ (Thiên Bảo), năm
thứ tư (1282) mùa thu, tháng tám,...Bấy giờ có cá sấu đến sông Lô, vua Trần Nhân Tông sai
Thượng thư Hình bộ là Nguyễn Thuyên làm văn ném xuống sông, con cá sấu tự đi
18

mất (...) Thuyên lại giỏi làm thơ phú quốc âm. Nước ta thơ phú dùng nhiều quốc âm, thực bắt
đầu từ đây.) [43,48]. Sáng tác đầu tiên lƣu lại đƣợc là vào đầu thế kỷ XIV, bài thơ tƣơng
truyền là của nàng Điểm Bích trong câu chuyện với sƣ Huyền Quang. Để có thể khẳng định
rằng có một giai đoạn hình thành, tất nhiên phải có cơ sở lý luận: Xét từ gốc độ ngôn ngữ,
đến thế kỷ XIII, chữ Nôm có đầy đủ khả năng để trở thành thứ văn tự dùng trong sáng tác văn
học. Còn xét từ góc độ văn học, sự xuất hiện của Quốc âm thi tập vào nửa đầu thế kỷ XV tuy
có vẻ là một sự kiện đột biến song phải là một tập đại thành, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị từ
trƣớc về mặt thể loại. Và lại đây cũng là giai đoạn mở đầu cho nền văn chƣơng chữ Nôm. Tác
giả cuốn Văn chương chữ Nôm gọi đây là phôi thai thời đại (1225 - 1430), trong đó Nguyễn
Sĩ Cố với Quốc âm thi phú, "có tài làm thơ quốc âm và khéo khôi hài", Chu Văn An (? -
1370) với Quốc ngữ thi tập , Hồ Quí Ly làm phú bằng quốc âm...
1.2. GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN
Giai đoạn phát triển thơ Nôm Đƣờng luật là từ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi (đầu
thế kỷ XV) đến thơ Hồ Xuân Hương cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX). Nói một cách khái
quát, trải qua bốn thế kỷ, thể loại này đã từ chỗ thể nghiệm đi đến ổn định, từng bƣớc và về
nhiều mặt, trong đó có vấn đề cấu trúc bài thơ, số lƣợng âm tiết (chữ) trên mỗi dòng thơ. Nếu
Nguyễn Trãi là ngƣời mở đầu con đƣờng Việt hóa thì Hồ Xuân Hƣơng, chính bà Chúa thơ
Nôm ấy đã tạo nên bƣớc ngoặt lớn đƣa thơ Nôm Đƣờng luật vào con đƣờng Việt hóa hoàn
toàn ở thế kỷ XIX. Đi
19

vào cụ thể, chúng tôi nhận định về quá trình phát triển giai đoạn này thông qua các tập thơ
tiêu biểu :
Một là, với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã tô đậm xu hƣớng dân tộc hóa ở hình
thức nghệ thuật lẫn nội dung thể loại, đúng nhƣ Gs Đặng Thai Mai đã khẳng định Nguyễn
Trãi là ngƣời đầu tiên có công lớn: một cố gắng để xây dựng một lối thơ Việt Nam. Gs Đinh
Gia Khánh cũng nhận xét thấy: "Nguyễn Trãi là nhà thơ rất có ý thức" trên con đường tìm tòi
một thể thơ dân tộc ít nhiều thoát ly Đường luật trong khi vẫn giữ phong cách chung của thơ
Đường luật [35, ]. Biểu hiện nổi bật của xu hƣớng dân tộc hóa là ở hai điểm sau đây:
- Về mặt nội dung, "Nhìn bao quát thì 254 bài thơ trong Quốc âm thi tập trước hết là
thơ về chủ đề thiên nhiên. Nguyễn Trãi ca ngợi cảnh vật đất nước với tấm lòng tin yêu, rộng
mở... "[85 : II : 258]
- Về mặt hình thức, Nguyễn Trãi có rất nhiều sáng tạo. "Về thể loại, trong thơ quốc
âm Nguyễn Trãi có một số bài làm theo luật Đường; nhưng rất nhiều bài không phải luật
Đường. Đó là thơ Việt đang trên xu hướng, định hình , có sự tiếp thu cả thơ Đường lẫn thơ
ca dân gian dân tộc (...) câu 6 chữ xen vào những câu 7 chữ (...) Có những câu tuy là 7 chữ,
nhưng cách ngắt nhịp 3/4 cho phép ta hiểu đó không phải là câu 7 chữ của thơ Trung Quốc
(vốn ngắt nhịp 4/3 là chính) Nguyễn Trãi đã sử dụng một vốn từ tiếng Việt phong phú bậc
nhất vào thời ấy để sáng tác thơ (...) Nguyễn Trãi cũng rất thích dùng thành ngữ, tục ngữ của
quần chúng... "[85 : II : 258 - 259]. Gs Lê Trí Viễn cũng nhận thấy: " Thể thơ lục ngôn, nói
đúng hơn là thể thất ngôn bát cú có chen vào những câu lục ngôn, đó là
20

một sự thay đổi có thể là một thí nghiệm tìm tòi một âm điệu mới ra ngoài khuôn phép luật
Đường " [94:54]
Hai là Hồng Đức quốc âm thi tập vào nửa sau thế kỷ XV một mặt kế thừa nội dung
dân tộc ở Quốc âm thi tập , mặt khác cũng có những tìm tòi mở hƣớng về phía xã hội hóa.
Tất nhiên là tập thơ có nhiều hạn chế; lại là cái chính: đề tài thông tục nhƣng lại mang khẩu
khí cao sang. Thi tập có vẻ nặng nề tính chất cung đình. Tuy vậy, "...nhiều thành ngữ, tục
ngữ, từ lấp láy được sử dụng (...) Tính ước lệ tượng trưng là phổ biến trong tác phẩm nhưng
cũng có xu hướng tả thực với những chi tiết cụ thể, sinh động "(85 : I : 323). Về nhịp 3/4, có
nhà nghiên cứu cho rằng: "Một vài câu có cắt nhịp 3/4 hoặc có vần bằng ở giữa câu, thì có
thể là do ngẫu nhiên chứ không phải dụng ý của nhà thơ" [79:79]. Chúng tôi không nghĩ nhƣ
vậy mà cho rằng nhịp 3/4 là một hiện tƣợng độc đáo rất Việt Nam, rất có ý nghĩa. Ngoài ra,
tập thể đã có những thể nghiệm trong việc vận dụng thơ Đƣờng luật để tự sự và để trào
phúng, tuy sự tìm tòi chƣa đƣợc rõ nét nhƣng cũng gây đƣợc ấn tƣợng. Nó đã giúp đỡ các nhà
thơ sau đó rút ra bài học không thành công khi dùng Đƣờng luật để tự sự và bài học thành
công khi dùng Đƣờng luật để trào phúng.
Ba là Bạch Vân thi tập (thƣờng đƣợc gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi) của Nguyễn
Bỉnh Khiêm (1491 - 15850) "Một cây đại thụ rợp bóng suốt thế kỷ XVI". Nếu trong thơ chữ
Hán, các thể tài đề vịnh, thù tạc, trữ tình đều đƣợc bảo lƣu rất đậm thì ngƣợc lại dƣờng nhƣ
trong thơ chữ Nôm chủ yếu là thơ ngôn chí. Gần gũi với Nguyễn Trãi về nội dung tƣ tƣởng
nhƣng nếu nhƣ thơ Nguyễn Trãi thiên về cái tinh tế trong khi miêu tả sự diễn biến, những
rung động thầm kín của trái tim thì thơ Tuyết Giang phu
21

tử thiên về cái uyên thâm trầm lắng những nghĩ suy về thế sự. Gs Đinh Gia Khánh khi nhận
xét về thơ Đƣờng luật của hai thế kỷ XVI và XVII có lẽ dựa trên thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm:
"Sang các thế kỷ XVI và XVII thì (...) thơ Đường luật vốn rất phù hợp với yêu cầu trữ tình lại
đã được nhiều tác giả sử dụng để viết về triết học, về đạo lý, tức là thể hiện những suy tư về
thế giới, về xã hội,...". Cùng với chân dung một con ngƣời luôn tự chủ, bình tĩnh, ung dung,
thƣ thái, thƣờng lạc quan, yêu thích thiên nhiên, hòa mình vào thiên nhiên, là âm vang của
những dòng thơ tiếng Việt giản dị, trong sáng, vừa có cái cụ thể sinh động khi tiếp cận cuộc
sống, vừa nâng lên tầm khái quát, cô đúc nhƣ những chân lý. Quả thật tập thơ đã có những
đóng góp mới cho xu hƣớng Việt hóa và quá trình dân chủ hóa thể loại này. Gs Bùi Duy Tân
viết: "Thơ Nôm Đường luật của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được Việt hóa thêm một bước, nhất
là về mặt ngôn ngữ, rất gần với thơ Nôm Nguyễn Công Trứ, thậm chí Nguyễn Khuyến thời
sau, trong những bài thơ đó, không tự giác mà nhà thơ đã phá vỡ truyền thống khuôn sáo,
cầu kỳ , ước lệ trong phong cách thơ Nôm thời Lê Thánh Tông (...) xét về phong cách ngôn
ngữ thì thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng phản ảnh rất rõ tác động ngày càng mạnh của thơ
ca dân gian vào dòng văn học viết của trí thức phong kiến." [79 : 155 - 156]. Nhà nghiên cứu
Mai Quốc Liên nhận xét: "Nguyễn Bỉnh Khiêm đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng
thơ tiếng Việt (...) ông tiếp tục cái quá trình sử dụng và không chế chất liệu ngôn ngữ thuần
Việt. Đặc biệt là đã đưa vào thơ những chất liệu thường ngày, những câu chữ xuất từ ca dao,
tục ngữ, từ tiếng nói bình dân. Đó là quá trình dân chủ hóa nền
22

văn học dân tộc, một quá trình vĩ đại. Những câu thơ của (...) Nguyễn Bỉnh Khiêm;
Thèm nỡ phụ canh cua rốc
Lạnh đà quen đắp ổ rơm
chúa dựng bên trong nó một sự chuyển biến vĩ đại, một sự từ bỏ một nền mỹ học quan
phương cung đình có phần nào rập khuôn thơ Trung Hoa, đến việc kiến tạo một nền mỹ học
dân tộc. Nó cũng là biểu hiện của mỹ học của cái thường ngày, bình dị..." [96 : 107 - 108].
GS Lê Trí Viễn, trong bài viết Tài thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm còn khẳng định "Thơ Nguyễn
Bỉnh Khiêm là thơ hay với đầy đủ phẩm chất thơ. Cách dùng từ thoải mái, thêm chút tự do và
có lúc có thể nói ngang tàng (...) sử dụng hư từ lạ và tài:
Cá tôm tối chác bên kia bến
Củi đuốc ngày mua mé nọ đèo
(...) "Ngâm biếm nguyệt "và"chén vầy thu" thì sức cô đúc nhượng gì thơ chữ Hán:
Song bắc kìa ai ngâm biếm nguyệt
Lầu nam nọ khách chén vầy thu
(...) âm điệu thì khỏi nói. Nào chen lục ngôn hoặc toàn lục ngôn. Nào ngắt nhịp bất chấp
nhạc điệu thơ luật mà chỉ nghe theo nhạc điệu của hồn thơ, chẳng chút e dè" [96: 157]. Đỗ
Kim Thịnh, trên tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật số 6/1991 có bài Quan niệm đạo đức
và thẩm mỹ của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong đó ông chỉ ra bản sắc văn hóa, tâm hồn Việt Nam
ở thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm "Sự gắn bó với các ngạn ngữ dân ca Việt được ông thể hiện
trong các bài thơ Nôm - thứ quốc ngữ đầu
23

tiên của dân tộc càng chứng tỏ sức sống của văn hóa cội nguồn, nối mạch thơ văn ông truyền
đạt cho đời sau. Ngôn ngữ trong thơ ông trong sáng ghi lại được phong vị, bản sắc của đời
sống rất Việt Nam:
Bếp trà hâm đã sôi măng trúc
Nƣớng cỏ cày thôi, vãi hạt bông.
Cửa vắng ngựa xe thôi quýt ríu,
Cơm no tôm cá kẻo thèm thuồng"[ 82,80]
Chặng đường từ sau Nguyễn Bỉnh Khiêm đến trước Hồ Xuân Hương là chặng đƣờng giảm
sút chất giá trị không chỉ riêng thể loại thơ Nôm Đƣờng luật mà nói chung, dƣờng nhƣ mọi
sáng tác văn chƣơng bấy giờ, mặc dù số lƣợng tác phẩm rất nhiều và thơ Đƣờng luật cũng rất
đƣợc ƣa chuộng (Chẳng hạn riêng Trịnh Doanh đã có 241 bài thơ Nôm trong Càn nguyên
ngự chế thi tập). Tuy nhiên, sự xuất hiện của ba truyện thơ Nôm khuyết danh (cho đến nay
vẫn không biết chắc thời điểm xuất hiện) trong đó tác giả "kết" những bài thơ Đƣờng luật lại
để tự sự là một thể nghiệm cần thiết. Truyện Vương Tường gồm 39 bài thơ thất ngôn bát cú
và 10 bài thất ngôn tứ tuyệt. Tô công phụng sứ gồm 24 bài thất ngôn bát cú. Lâm tuyền kỳ
ngộ (còn gọi là Bạch Viên Tôn Các) gồm 146 bài thất ngôn bát cú, 1 bài thất ngôn tuyệt cú ở
cuối truyện ( ngoài ra còn có bài Thạch tuyền ca khúc phỏng theo thể hát nói)
Qua thể nghiệm, có thể thấy rất rõ là: nếu sử dụng thơ Đƣờng luật thất ngôn bát cú
hay tuyệt cú để tự sự thì sẽ không thành công. Để tự sự các sự kiện, tình tiết cần móc xích,
đan xen lẫn nhau, nghĩa là cần có tính liên tục; trong khi đó, Đƣờng luật lại có kết cấu chặt
chẽ trong từng bài, tức sự hoàn chỉnh, khép kín, không chấp nhận sự co giãn, uyển chuyển.
24

Nói cách khác, có sự mâu thuẫn không thể giải quyết giữa hình thức thế loại với yêu cầu của
tự sự .
Nhìn lại cả giai đoạn phát triển từ Quốc âm thi tập đến trước Hồ Xuân Hương, thì xu
hƣớng chung của thơ Nôm Đƣờng luật là dân tộc hóa và xã hội hóa. Bên cạnh những đóng
góp lớn, những thành tựu nghệ thuật là những thể nghiệm, tìm tòi nhƣng không thành công.
Tất nhiên, vấn đề cải biến thơ bảy chữ ra xen sáu chữ không phải là nhạc điệu luôn thất bại
mà ngƣợc lại dƣờng nhƣ có một nhạc điệu khác có ý nghĩa và thẩm mỹ.
1.3. GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN Ở ĐỈNH CAO
1.3.1 Tổng quan:
Nhiều nhà nghiên cứu đã thống nhất nhận định Thơ Nôm Đƣờng luật từ Hồ Xuân
Hƣơng đến Trần Tế Xƣơng là giai đoạn phát triển ở đỉnh cao của thể loại này. PGs Hoàng
Hữu Yên viết: "...nhất là từ nửa thế kỷ thứ XVIII về sau, thơ Nôm nói chung đều viết theo thể
luật Đường hoàn chỉnh. Với những thành tựu rực rỡ của thơ Bà huyện Thanh Quan, nhất là
thơ Hồ Xuân Hương thì thể thơ Nôm Đường luật ổn định, đạt đến đỉnh cao nghệ thuật" [39 :
123]. Tất nhiên, để đạt đƣợc đến đỉnh cao nghệ thuật, sự thành tựu rực rỡ ấy, có thể có nhiều
yếu tố, chẳng hạn, những chặng đƣờng trƣớc đó nhƣ những thể nghiệm và đặc biệt là mấy
chục năm cuối thế kỷ XVIII nhƣ một chặng chuyển tiếp: "Riêng về phương diện văn chương,
có thể nói rằng sự thịnh vượng của ba bốn chục năm về cuối thế kỷ XVIII là cái buồng đợi
(salle d'attente) để đưa người ta vào thế kỷ XIX." [18,33]. Trong chặng đƣờng chuyển tiếp
vắt qua hai thế kỷ ấy,
25

cũng là mở đầu cho thế kỷ XIX, có Phạm Thái (1777 - 1813) và Trịnh Hoài Đức (1765 -
1825), một trong Gia Định tam gia thi.
Đây là một bài thơ tiêu biểu, bài Tự trào của Phạm Thái:
Năm bảy năm nay những loạn ly,
Cũng thì duyên phận cũng thì thì.
Ba mƣơi tuổi lẻ là bao nả,
Năm sáu đời vua khéo chóng ghê!
Một tập thơ dày ngâm sảng sảng,
Vài nai rƣợu kếch ních tì tì.
Chết về tiên bụt cho xong kiếp,
Đù ỏa trần gian sống mãi chi?
Bên cạnh qui luật phát triển của bản thân thể loại, chúng tôi còn nghĩ đến sự tác động
mạnh mẽ, sự xâm nhập và thấm sâu của văn hóa dân gian vào thơ Nôm Đƣờng luật, hay nói
đúng hớn là sự chuyển hóa, có tác dụng hỗ tƣơng từ cả hai phía. Thực ra, trong dân gian, từ
cuối thế kỷ thứ XIV, trong câu chuyện Hà Ô Lôi (Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp)
đã có ba bài tứ tuyệt (chữ Nôm) ghi lại nhƣ sau:
Bài thứ nhất: Chỉn đà náu đến nguyện làm tôi,
Hai chữ Thiên- Tiên để cha Lôi.
Bài thứ hai: Sƣơng kế đầu sƣơng vẹn đƣợc mƣời,
Những nơi quyền quí thiếu chi ngƣời.
Bởi vì thanh sắc nên say đắm,
Khá tiếc cho mà lại khá cƣời!
Bài thứ ba : Sinh tử là trời sá quản bao,
Nam nhi miễn đƣợc tiếng anh hào.
26

Chết vì thanh sắc cam là chết,


Chết đáng là nên cơm cháo nào.
Văn học dân gian thế kỷ XVIII cũng có nhiều bài làm theo thể Đƣờng luật, nhƣ một
số bài thơ cho là của Trạng Quỳnh. Tuy nhiên, hiện tƣợng phổ cập hóa, dân gian hóa của thơ
Nôm Đƣờng luật vào thế kỷ XIX dƣờng nhƣ đã trở nên một nét đặc trƣng của đời sống văn
hóa dân tộc.
Có thể nói thêm rằng đây chính là giai đoạn vàng son của thể loại thơ Nôm Đƣờng
luật. Gs Trần Thanh Đạm nhận định: "Riêng thể thơ luật, tính từ Hồ Xuân Hương, Bà huyện
Thanh quan cho đến các bài thơ trường thiên liên hoàn của Nguyễn Đình Chiểu (Điếu
Trương Định, Điếu Phan Tòng) , các bài xướng họa giữa Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị
đến các tác phẩm của Nguyễn Khuyến, Tú Xương về sau, chúng ta cũng chứng kiến một sự
nở rộ, đa dạng về nghệ thuật..." [23 : 13]
Để đạt đến đỉnh cao của sự phát triển, thơ Nôm Đƣờng luật đã kiên trì tiếp tục xu
hƣớng dân tộc hóa của nhiều thế kỷ trƣớc, đồng thời, chuyển nhanh trên con đƣờng dân chủ
hóa cả nội dung lẫn hình thức thể loại.
Một cách khái quát, có thể nói thêm về hình thức câu thơ Nôm Đƣờng luật giai đoạn
này: hầu nhƣ đã xóa bỏ hình thức câu thất ngôn xen kẽ lục ngôn, nhƣ Gs Đinh Gia Khánh
nhận xét và lý giải: "Thơ Đường luật có pha lục ngôn sẽ ít thấy từ thế kỷ XVIII trở đi, có lẽ vì
khi ấy những thể thơ yêu vận như song thất lục bát và thơ lục bát đã đủ thành thục để đáp
ứng một cách thích hợp hơn với cảm quan về âm điệu của người Việt cũng như yêu cầu phản
ánh của thơ ca Việt" [35 : ]
27

1.3.2. Đi vào cụ thể, để làm nên di ện mạo của thơ Nôm Đƣờng luật giai
đoạn này, chúng tôi th ấy có những khuôn mặt tiêu bi ểu: Hồ Xuân Hƣơng, Bà
huyện Thanh Quan, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Đình Chi ểu, Nguyễn Khuyến
và Trần Tế Xƣơng.
1.3.2.1 Hồ Xuân Hƣơng:
Đặt qua một bên tập thơ Lưu Hương ký mà trong đó có thơ Nôm l ẫn thơ
Hán chỉ xét riêng m ảng thơ Nôm đƣợc truyền tụng là của Hồ Xuân Hƣơng, thì
Hồ Xuân Hƣơng đã x ứng đáng là bà chúa thơ Nôm, ngƣ ời tạo ra bƣớc ngoặt
vĩ đại cho quá trình phát tri ển thơ Nôm Đƣờng luật. Nhƣ vậy nếu không kể
đến tập Lưu Hương ký (phần thơ Nôm) thì tính chất dân dã nổi lên đậm nét ở thơ
Xuân Hƣơng, đúng nhƣ Gs Đ ặng Thanh Lê nhận xét: "Và với nhà thơ, thể thơ
Đường luật đã xa phong cách trữ tình trang nghiêm cao quí để đi thẳng vào cuộc sống đời
thường, góc cạnh, chua xót, kịch liệt - nhưng đó là cuộc sống đích thực, không chỉ là dân tộc
mà còn hết sức dân dã."[38 : 112]. Gs Lê Trí Vi ễn, trong chuyên đề Thơ Hồ Xuân
Hương, sau khi so sánh với Quốc âm thi tập và thơ Nôm th ời Hồng Đức, đã phân
tích tính chất dân chủ, trần tục ở mảng thơ Nôm truyền tụng là Hồ Xuân
Hƣơng: "Nói chi đến tính chất trang trọng, quí phái của thể Đường luật. Đường luật mà thơ
Nôm thì ít nhất cũng có từ Quốc âm thi lập, nhưng tính trang trọng chưa có gì đổi. Thơ Nôm
đời Hồng Đức khoác áo quan phương. Đến Xuân Hương, Đường luật mới có đầy đủ tính chất
dân chủ, trần tục và rất độc đáo, nó đã được Xuân Hương hóa. Dấu ấn của nữ sĩ trên thể thơ
ngoại lai này là không bao giờ phai" [91 : 36] Chúng tôi thấy rằng chính vì đi vào
khai thác cuộc sống mà thơ Xuân Hƣơng đã làm nên khuôn m ặt mới cho thơ
Nôm Đƣờng luật, ở đó
28

nội dung thơ ca gần gũi với cuộc sống hơn trƣớc nhiều. Gs Lê Trí Vi ễn chỉ ra
rằng: "Cũng là nhằm khai thác cuộc sống, nhưng đi vào thể loại thơ Đư ờng
luật trữ tình, thủ pháp "bi ểu hiện", "thuyết phục và cuốn hút" của Xuân
Hương lắm nét riêng bi ệt. Có nhiều cung bậc trong trữ tình (...) nhưng bao
giờ cũng nồng cháy bên trong một tấm lòng thiết tha vô hạn với cuộc sống."
[91 : 34 - 35]. Về tính chất dân tộc hóa và tính chất đời thƣờng của thơ Hồ
Xuân Hƣơng, Gs Nguyễn Lộc viết: "Dưới ngòi bút của Hồ Xuân Hương, thơ
Đường luật được vận dụng theo hư ớng dân tộc hóa tri ệt để trong khuôn khổ
mà thể tài cho phép (...). Bà đã đưa đư ợc vào một thể thơ vốn đài các, trang
trọng một nội dung thông t ục, hàng ngày." [48:11] Gs Lê Trí Vi ễn không chỉ
khẳng định tính chất dân tộc ở thơ Xuân Hƣơng mà còn ch ỉ ra rằng Xuân
Hƣơng đã dân chúng hóa th ể thơ Đƣờng luật: "Đường luật là một sản phẩm
quí tộc hóa ở nước ta. Thi cử nâng nó lên địa vị quyền thế của một qui tắc có
pháp luật trường thi bảo đảm. Nó phải thanh tân, tao nhã, l ại phải trịnh
trọng, nghiêm trang. Nó ph ải mang trong nội dung châu ngọc của văn chương
hay khuôn phép của đạo lý. Nó phải là lợi khí ở trong tay phéo tắc, khuôn
mực, nó ra vào của quyền quí hay ít ra cũng là môn đ ồ của Khổng Mạnh.
Xuân Hương làm ngư ợc tất cả. Bà đư ờng hoàng h ạ giá thể thơ cao quí ấy, lôi
nó ra khỏi vị trí sang trọng, bắt nó mang một nội dung vô cùng nhân dân, t ầm
thường và có khi thô l ậu nữa. Bà đã dân chúng hóa nó trên m ột qui mô sâu
rộng." [ 91:42]
Tóm lại, các nhà nghiên c ứu đã quan ni ệm thống nhất rằng mảng thơ
Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣởng là mang tính dân t ộc, tính dân chủ, hết
sức dân dã, thông t ục, trần tục, đời thƣờng. Chúng tôi muốn nói
29

thêm: những đặc điểm này ở Hồ Xuân Hƣơng đã đạt đến đỉnh cao chƣa t ừng
có trong lịch sử phát tri ển thể loại. Chỉ cần làm một so sánh:
- Về những chủ đề lý tƣởng "ái ưu", lý tưởng "trung hiếu" và phẩm
chất kẻ sĩ quân tử, theo thứ tự chiếm t ỷ lệ ở:
Quốc âm thi tập: : 6,3% 6,3% 14,6%
Hồng Đức quốc âm thi t ập : 1,5% 2,4% 7,3%
Bạch Vân (quốc ngữ) thi tập : 10,0 % 3,1% 7,4%
Trong khi ở thơ Hồ Xuân Hƣơng không có bài nào.
- Ngƣợc lại, về chủ đề cuộc sống xã hội, đất nƣớc, con ngƣời theo thứ
tự chiếm t ỷ lệ ở :
Quốc âm thi tập : 1,6% 0,4%
Hồng Đức quốc âm thi t ập : 6,4% 4,8%
Bạch Vân (quốc ngữ) thi tập : 3,1% 3,1 %
Trong khi ở thơ Hồ Xuân Hƣởng, t ỷ lệ ấy khá cao : 22,5% và 22,5%
- Trong khi từ thuần Việt chiếm t ỷ lệ ở Quốc âm thi t ập là 89,4%, Hồng
Đức quốc âm thi tập là 88,1%, Bạch Vân (quốc ngữ) thi tập là 92% thì ở Hồ
Xuân Hƣơng là 94,8%.
- Trong khi ở Quốc âm thi t ập, cứ 3,6 câu thơ có một từ Hán Việt, ở
Hồng Đức quốc âm thi tập là 4,4, ở Bạch Vân (quốc ngữ) thi tập là 4,1 thì ở
Xuân Hƣơng là 8,7.
- Điển cố và thi liệu Hán học ở Quốc âm thi tập là 15%, Hồng Đức
quốc âm thi t ập là 10,1%, ở Bạch Vân (quốc ngữ) thi tập là 7,3% thì ở thơ
Xuân Hƣơng chỉ có 2,2%.
1.3.2.2. Bà huy ện Thanh Quan (Nguyễn Thị Hinh)
30

Sánh vai với Xuân Hƣơng và hoàn toàn khác xa v ới Xuân Hƣơng trong
phong cách là Bà huyện Thanh Quan. Gs Nguyễn Lộc đánh giá cao thơ Nôm
Đƣờng luật của hai nhà thơ n ữ này: "Dung lượng của thể tài hạn chế và cách
luật của nó chặt chẽ. Tuy vậy các nhà thơ Nôm vi ết bằng thể thơ Đư ờng Luật
vẫn có những thành lựu rất đánh kể, như Hồ Xuân Hương, bà huy ện Thanh
Quan" [48: 11]. Riêng về bà Nguyễn Thị Hinh, Gs có nhận xét: "Còn thơ
Đường luật của Bà huyện Thanh Quan, xuất hiện dưới dạng cổ điển, niêm
luật chặt chẽ, nội dung trang nhã, đ ặc biệt về âm hưởng thì thơ bà h ết sức
dồi dào, hấp dẫn. Bà huyện Thanh Quan ch ỉ còn lại có mấy bài thơ Đư ờng
luật, về phương diện nghệ thuật, có thể nói là những viên ngọc được một
người thợ lành nghề mài dũa kỹ lưỡng nên nó lóng lánh trăm nghìn màu s ắc."
[48: 11]. Xét từ góc độ thể loại, sự có mặt của hai nhà thơ nữ này đã chứng
minh sự phong phú, đa dạng của phong cách th ể loại, đồng thời khẳng định
rằng dòng thơ Nôm Đƣờng luật đến đầu thế kỷ XIX đã có những bƣớc phát
triển vƣợt bậc, đã xuất hiện phong cách tác giả. Chúng tôi thấy rằng ở giai
đoạn trƣớc, dòng thơ Nôm Đƣờng luật chỉ xuất hiện phong cách thời đại và
phong cách thể loại. Đến bây giờ, đã có thể khẳng định có một phong cách
Xuân Hƣơng và một phong cách Nguyễn Thị Hinh. Nếu giai đoạn trƣớc rút ra
bài học không thành công v ề chức năng tự sự, thì giai đo ạn này với Hồ Xuân
Hƣơng (và nhiều tác giả khác về sau) đã kh ẳng định chức năng trào phúng
của thơ Nôm Đƣờng luật.
1.3.2.3. Đóng góp cũng r ất đáng kể vào quá trình dân chủ hóa là nhà
thơ Nguyễn Công Trứ. Nếu thể loại hát nói đƣợc ông vận dụng để diễn đạt
chí nam nhi và triết lý thưởng lạc của mình thì th ể loại thơ Nôm
31

Đƣờng luật là cho chủ đề cảnh nghèo và thế thái nhân tình trong thơ ông.
Tình cảnh những ngƣời lép vế trong xã hội, thực chất đạo đức của bọn giàu
có bọn bất tài mà hay h ại ngƣời, bọn tráo trở gian lận, cái tác h ại của đồng
tiền đã chà đạp cả nhân nghĩa, đã chi ph ối mọi tình cảm, mọi quan hệ xã hội,
làm rạn vỡ luân l ý đạo đức truyền thống đã đƣợc nhà thơ phơi bày, đ ả kích.
Lại có khi, vì b ế tắc, giận dữ, nhà thơ buột mồm chửi đổng. Gs Nguyễn Lộc
cho rằng: "Tiếng nói tố cáo đồng tiền của Nguyễn Công Trứ vừa có màu s ắc
phong kiến lại vừa có yếu tố nhân dân là vì vậy"[48: 227]. Nguyễn Công Trứ
không bị ảnh hƣởng gì bởi chính sách văn hóa của triều Nguyễn, có thể nói là
ngoài vòng cương tỏa. Do vậy ông sáng tác toàn thơ Nôm, ch ỉ có một bài chữ
Hán là bài Tự thọ. Nội dung thơ Nôm theo th ể Đƣờng luật của ông có th ể nói
gọn là thơ ký thác tâm s ự , hiện thực và triết l ý. Đọc thơ ông, có th ể thấy rõ
mồn một cuộc đời với những thăng trầm buồn vui của ông, những ý nghĩ chân
thành, những yêu ghét minh b ạch, những cảm xúc sâu s ắc, thấm thía. Gs
Trƣơng Chính nói v ề thơ triết l ý của ông là "không khô khan trừu tượng,
không nêu chung chung v ề xử thế tiếp vật, mà đó là những cảm nghĩ ông rút
ra từ cuộc sống. Không ph ải giáo đi ều mà là kinh nghi ệm của người từng
trả” [16:42] Về mặt nghệ thuật, thơ Nôm Đƣờng luật của ông có cách di ễn
đạt hết sức bình dân với cả một hệ thống ngôn ngữ thơ rất gần gũi với lời ăn
tiếng nói của quần chúng nhân dân. Nhi ều câu thơ, thậm chí có khi nguyên
bài thơ hầu nhƣ đƣợc cấu tạo bởi thành ngữ, tục ngữ và nhà thơ cũng tƣ duy
theo cách tƣ duy của thành ngữ, tục ngữ. Gs Trƣơng Chính nh ận xét: "Theo
chân Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguy ễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguy ễn
Công Trứ dùng rất nhiều tục ngữ, ca dao,
32

tiếng địa phương, khi cần, cả tiếng tục (...) cốt tìm một cách diễn đạt thông
thường giản dị, nhưng chính lại là sinh động, để đi sâu vào lòng ngư ời" [16:
40].
1.3.2.4 Mở đầu chặng đƣờng nửa sau thế kỷ XIX là Nguyễn Đình
Chiểu. Nhà thơ mù lòa này l ại có trái tim yêu nƣớc ngời sáng nhƣ m ột vì sao,
biểu hiện ngay khi có mâu thu ẫn với lòng trung quân, "ông đã sáng su ốt gạt
bỏ mẫu thuẫn bằng cách gạt bỏ sự ngu trung, đ ể rồi suy nghĩ và hành đ ộng
theo những mực thước của người chiến sĩ yêu nư ớc, yêu dân", " nếu (...) ông
bạn thân Phan Văn Tr ị đã " vừa đi vữa đái vẽ nên rồng" , thì ông, tuy mắt mù
nhưng ông nghe r ất rõ cái ti ếng "lão xao" của "xe ngựa" của đám vua quan
triều Nguyễn và ông nghĩ:
Biết ai thiên tử, biết ai thần?"[44: 81]
Trong bài viết Thế giới nghệ thuật của Nguyễn Đình Chi ểu, PTs Mai
Quốc Liên đã chỉ ra vị trí của Nguyễn Đình Chi ểu trong lịch sử văn học dân
tộc: "Nguyễn Đình Chiểu là một gạch nối lớn, có ý nghĩa chuyển tiếp (...) là
ngôi sao Hôm (...) và là ngôi sao Mai... " [46: 187]" Nguyễn Đình Chi ểu là
ngọn cờ đầu của trào lưu văn chương gi ải phóng mà đặc điểm nổi bật là tình
cảm yêu nư ớc mãnh liệt gắn bó với tính nhân dân sâu s ắc, tính dân ch ủ ngày
càng đư ợc quan tâm thông qua vi ệc miêu tả con ngư ời bình thường..." "Ngôn
ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ của đời sống hàng ngày, dấu hiệu của một thi
pháp nghệ thuật mới. Trong trào lưu dân chủ hóa văn chương, Nguy ễn Đình
Chiểu đã tiếp tục bư ớc tiến của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, ông đã tr ở về
đến mức nhập thân vào n ền văn hóa dân gian. " (46: 190). Nguyễn Đình Chi ểu
là một tấm gƣơng về lòng yêu nƣớc, về trách nhi ệm, sứ mệnh của ngƣời cầm
bút:
33

Chở bao nhiêu đạo, thuyền không khẳm,


Đâm mấy thằng gian, bút chẳng tà.
Trong thơ ca yêu nƣ ớc chống Pháp của ông có những lời thơ phỉ báng
lên án khi ph ải đối mặt với bọn ngƣời nhơ bẩn đƣợc tình thế rối ren đƣa lên
ngự vì:
Lổm xổm giƣờng cao thấy chó ngồi
Nhƣng chủ yếu là "những khúc bi tráng, ng ợi ca những con người
nghĩa dũng bu ổi đầu kháng Pháp (...) những ngư ời anh hùng ki ểu mới của
thời đại (...) những lãnh t ụ kháng Pháp giữ gìn đất nước, bảo vệ dân lành:
Anh hùng thà thác ch ẳng đầu Tây,
Một giấc sa trường phận cũng may." [61: 28]
Xuân Diệu đã từng thấy ở nhà thơ mù lòa này c ả lòng yêu nƣớc lẫn sự
căm thù và đặc biệt là " nước mắt đọng lại trong những câu thơ thất ngôn, mà
điển hình là mư ời bài thơ liên hoàn Đi ếu Trương Công Định như một dòng
châu không dứt." [20: II: 240] "Nguyễn Đình Chi ểu cột chặt nhân nghĩa với
nước nhà :
Mến nghĩa bao đành cam ph ận nước,
Có nhân nào nỡ phụ tình nhà." [25: 285]
1.3.2.5. Một khuôn mặt tiêu biểu khác của thơ Nôm Đƣờng luật nửa sau
thế kỷ XIX, một trong nh ững đại biểu lớp cuối của một kiểu nhà Nho - kiểu
nhà Nho nhân dân - là Nguyễn Khuyến. Đó là một nhân cách trong sáng, m ột
tâm hồn cao thƣợng, khí tiết. Cùng với Tú Xƣơng, ông đã làm nên di ện mạo
thơ Nôm Đƣờng luật những thập k ỷ cuối cùng của thế kỷ XIX. Đây là m ột
trong vài ba nhà thơ Nôm Đƣ ờng luật xuất sắc nhất. Nói nhƣ Phan Ngọc, đến
đây, thể loại này đã "biểu lộ năng lực diễn đạt
34

cao nhất [64: 71]. Công trình nghiên c ứu tập thể của Viện Văn học Thi hào
Nguyễn Khuyến, đời và thơ đã cho thấy Nguyễn Khuyến là "người mở đầu cho
một trường thơ không còn bị chi phối quá chặt chẽ trong các quan ni ệm công
thức, ước lệ của văn học cổ truyền" [12: 7]. Đúng nhƣ Gs Nguyễn Đình Chú,
trong bài viết Con đường tìm kiếm bản sắc thơ Yên Đổ đã lƣu ý là: "bút pháp
Nguyễn Khuyến đã như một dấu hiệu quan trọng của sự vận động của văn học
Việt Nam trên đường hiện đại hóa" [12: 28] Trong quá trình phát tri ển của
thơ Nôm Đƣờng luật, đến Nguyễn Khuyến, nói nhƣ Gs Nguyễn Huệ Chi, đã
có "dấu hiệu chuyển mình của tư duy thơ dân t ộc" [12: 44] Nhà thơ Nguyễn
Khuyến đã đóng góp cho thơ lu ật Đƣờng rất nhiều sáng tạo, vừa chứng tỏ
mình đã hấp thụ tinh hoa Đƣờng thi. Gs Lê Chí Dũng nh ận định: "Tài năng
của Nguyễn Khuyến là ở chỗ ông chiếm lĩnh đư ợc thơ Đường luật, chiếm lĩnh
được quan niệm " thi trung hữu họa " chiếm lĩnh được khả năng di ễn đạt đến
đỉnh cao trong khả năng gắn bó với quê hương đất nước" [12: 283] "nhà thơ
khai thác kho tàng ca dao, t ục ngữ, thành ngữ, cải tạo chúng lại trong cơ cấu
của thơ Đư ờng luật, đồng thời làm cho thơ Đư ờng luật mất cái vẻ đường bệ
trang trọng của mình. "[12: 281]
1.3.2.6. Khuôn mặt tiêu biểu cuối cùng, lại cũng là một nhà thơ xuất
sắc: Trần Tế Xƣơng. Trƣớc hết, điều nổi bật ở Tú Xƣơng xét từ góc độ thể
loại là tính dân tộc hóa, là tinh th ần dân tộc rất sâu sắc biểu hiện ở nhiều
mặt. Trong tƣ tƣởng, đó "là con ngư ời ưu thời mẫn thế, mang tâm tr ạng u uất
của kẻ mất nước (...) Tú Xương ấp ủ mãi vết thương mất nước ở trong tâm
hồn. Chửi cái nhố nhăng của cuộc đời tư sản hóa dư ới ách thực dân đế quốc,
than sự suy đồi, là muốn bảo vệ tinh thần dân tộc." [
35

20: II: 137 - 143] Trong bút pháp, nhà thơ thiên v ề nụ cƣời trào phúng rất
Việt Nam. Ông vừa nối tiếp truyền thống cƣời trong truyện dân gian, trong ca
dao vừa kế tục cái truyền thống đả kích, chán trách thế tục ở những nhà Nho
nhƣ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ. Xuân Diệu đã bình rất xác đáng
về thơ Tú xƣơng: "Khi trữ tình, Tú xương r ất thanh tao; khi đả kích, Tú
xương nhiều lúc chửi rất phàm; không phải tại tác giả, mà tại chúng nó b ẩn
thỉu quá đáng" [20: II: 167]. Hơn nữa, cũng xét t ừ góc độ thể loại, thơ Tú
Xƣơng đã đạt đến đỉnh cao về tính dân ch ủ hóa (democratization) b ởi bên
cạnh nỗi niềm thế sự nhân tình, nỗi u hoài về đất nƣớc, về một xã hội giao
thời, thơ Tú Xƣơng là thơ ký s ự về hình tƣợng con ngƣời thừa của chính
mình, chất chứa trong con ngƣ ời ấy biết bao những lo toan đ ời thƣờng. Thơ
Đƣờng luật lại có hiệu quả nghệ thuật ở thể tài trào phúng, nhờ cấu trúc đối
ngẫu và tạo bất ngờ ở câu kết. Nguyễn Phong Nam nh ận xét: "Tú Xương sử
dụng các thủ pháp gây cười rất tài tình. Phổ biến nhất là tạo thế hẫng hụt ở
cuối bài thơ, hoặc tạo nên những sự đối chọi hình thức. Chẳng hạn ông
thường cho câu kết bẻ quặt khỏi hướng phát tri ển thông thư ờng, nhấn mạnh
tính trái ngược giữa cái nghiêm trang và đùa t ếu, giữa cái đê hạ và cao
thượng..." [61: 54]
Tóm lại, giai đo ạn nửa sau thế k ỷ XIX, qua phân tích ở một số tác giả
tiêu biểu, xét từ góc độ thể loại văn học thì vừa khép lại nền văn chƣơng
trung đại, vừa bộc lộ dấu hiệu chuyển mình sang nền văn chƣơng c ận - hiện
đại. Phải chăng nhận định sau đây của Gs Nguyễn Đăng Mạnh mới chỉ thiên
về một mặt: " Năm 1858, thực dân mở đầu cuộc xâm lược nước ta. Đây là m ột
sự kiện chính trị, xã hội cực kỳ quan trọng đã có ảnh hưởng kín đến lịch sử
văn học. Nhưng sự ảnh hưởng này chỉ làm cho văn
36

học chuyển biến về đề tài, chủ đề chứ chưa khiến nó đổi thay về quan niệm mỹ học và về hệ
thống thi pháp (...). Như vậy văn học Việt Nam cho đến hết thế kỷ XIX về đại thể vẫn nằm
trong phạm trù của văn học cổ thời đại phong kiến. "[57: 6 - 7]. Đánh giá chặng đƣờng này,
Nguyễn Tƣờng Phƣợng và Bùi Hữu Sủng, tác giả cuốn Văn học sử Việt nam hậu bán thế kỷ
XIX đã rất sai lầm khi cho rằng thời kỳ 1862 đến 1910 là thời kỳ tan rã của văn chƣơng cổ
điển [72: ]. Thật ra, trƣớc những chuyển biến của lịch sử, những thay hình đổi dạng của xã
hội thì văn chƣơng cũng chuyển biến mạnh trên con đƣờng tiếp cận với hiện đại. Nó đang
chuyển mình chứ không phải tan rã, không phải quẫy chết, thậm chí nó còn bộc lộ hết phần
tinh hoa của nó. Nhận định sau đây của Gs Trần Thanh Đạm tuy nhìn chung về nền văn
chƣơng thế kỷ XIX trong đó có nhiều thể loại nhƣng chắc chắn có sự đóng góp đáng kể của
thể loại thơ Nôm Đƣờng luật. Ông viết: "Thế kỷ XIX trên toàn bộ là thế kỷ cuối cùng và cũng
là thế kỷ lớn nhất của văn chương cổ điển Việt Nam, dù rằng có sự biến đổi sắc thái giữa đầu
thế kỷ so với nửa sau thế kỷ. Trong nửa sau thế kỷ 19, kể từ sau sự kiện 1858, do tình hình đất
nước chuyển từ thời bình sang thời chiến, trước nguy cơ mất nước đang ngày một lớn dần
lên, văn chương Việt Nam đã có sự thay đổi mạnh mẽ trong nội dung tư tưởng và cảm hứng"
[23: 11] "Tuy chế độ phong kiến kết thúc trong tủi nhục, song văn chương cổ điển lại kết thúc
trong vẻ vang vì đó là bản hợp ca bi tráng của tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng
Việt Nam trong giai đoạn bi hùng của lịch sử dân tộc." [23:12].
1.3.3. Nhìn chung vào giai đoạn phát triển ở đỉnh cao của thể loại thơ Nôm Đƣờng
luật, nghĩa là vào thế kỷ XIX, có thể thấy một di sản văn
37

chƣơng quí giá mà nó để lại. Di sản này, cùng với các thể loại khác, đã góp phần cho cái bất
tử của một thế kỷ văn chƣơng , một tập đại thành của văn chƣơng Việt Nam. Trong di sản
văn chƣơng mà thế kỷ XIX chuyển giao cho thế kỷ XX có tiếng nói đòi quyền sống con
ngƣời, giải phóng cá nhân, quá trình dân chủ hóa cả nội dung lẫn hình thức văn học. Âm
hƣởng giải phóng cá nhân, đặc trƣng cốt tủy, tiêu chí đặc thù của văn học tƣ sản, văn học cận
- hiện đại, đã trở thành âm hƣởng chủ đạo của văn chƣơng nửa đầu thế kỷ XX, rõ nhất là từ
năm 1932, chắc chắn có sự chuẩn bị từ thế kỷ XIX. Trong bài viết Hiểu văn học trung đại
trong lịch sử văn học Việt Nam như thế nào cho phải ?, Gs Lê Trí Viễn đánh giá giai đoạn từ
giữa thế kỷ XVIII nhƣ sau "một tư trào nhân đạo chủ nghĩa mới xuất hiện, mà trung tâm là
sự phát hiện ra con người cá nhân đối lập với con người phong kiến Nho giáo, làm cho văn
học, rõ nhất là từ thế kỷ XVIII, từ tính chất vô ngã chuyển thành hữu ngã, từ chỗ chủ yếu là
"chí" là "tình "là "đạo "của tâm tư cá nhân trở thành văn học phản ánh và biểu hiện về
"những điều trông thấy mà đau đớn lòng" của cuộc sống." [92: 76]
KẾT LUẬN CHUNG VỀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
CỦA THƠ NÔM ĐƢỜNG LUẬT
Trong bài viết Suy nghĩ về thể loại thơ song thất lục bát, PGs Phan Ngọc đã có một ý
kiến nhƣ sau: "Một thể loại với tính cách một cấu trúc nghệ thuật, không thể ngay lập tức có
ngay được toàn bộ các yếu tố của nó từng yếu tố một phải hình thành dần dần trong lịch sử,
cho đến một giai đoạn nào đó, thường là do tài năng của một nhà thơ lớn, các yếu tố này tìm
được sự kết hợp trọn vẹn. Lúc đó, nó thành cấu trúc và lúc đó thể
38

thơ bước vào giai đoạn thực sự hình thành. Sau đó nó tiếp tục phát triển đến thời toàn thịnh
của nó, trong giai đoạn đó, nó vừa biểu lộ năng lực diễn đạt cao nhất, vừa có tác dụng phát
huy ưu thế của nó sang các thể loại khác. Đó là giai đoạn điểm đỉnh (...) Lúc này (...) có một
bước chuyển trong lịch sử của hình thức văn học. Sau đó sang giai đoạn mới, nó vẫn giữ
những đặc điểm cũ nhưng lại thêm một vài đặc điểm mới, phần nào khác trước, làm cho thể
loại càng thêm đa dạng. Cuối cùng, thể loại chuyển sang một thể loại khác, nhưng trước khi
chuyển, nó cố gắng lần cuối cùng để phát huy hết thế mạnh của nó, (...). Không phải chỉ có
lịch sử song thất lục bát là thế, mà lịch sử thơ bát cú Đường luật, phú, văn tế, văn học chữ
Hán ở Việt Nam cũng đều thế ." [64: 71 - 72]. Có thể nói toàn bộ quá trình phát triển thơ
Nôm Đƣờng luật mà chúng tôi vừa trình bày ở những trang vừa qua là có sự trùng khớp với
nhận định của Gs Phan Ngọc. Qua nhiều thế kỷ, thơ Nôm Đƣờng luật đã tồn tại với tƣ cách
một thể loại văn học dân tộc cùng với hai thể loại thuần túy dân tộc là lục bát và song thất lục
bát. Đƣờng luật Nôm có lẽ là thể loại duy nhất trong số các thể loại ngoại nhập có sinh mệnh
nghệ thuật riêng, thấy rõ nhất là ở thế kỷ XIX, khi nó đã hoàn toàn đƣợc Việt hóa. Thơ Nôm
Đƣờng luật đã mang một chức năng văn học mới, chức năng thẩm mỹ mới, khẳng định sự tồn
tại không thể thay thế của thể loại này trong lịch sử văn học Việt Nam. Nó góp phần khẳng
định văn chƣơng thế kỷ XIX tuy " quan niệm văn học, phương pháp văn học, ngôn ngữ văn
học, không khí và tập quán văn học có tính chất trung cổ truyền thống" [76: 70] nhƣng đang
chuyển hƣớng mạnh cả nội dung lẫn hình thức về một nền văn chƣơng cận - hiện đại.
39

CHƢƠNG HAI: HỆ THỐNG ĐỀ TÀI, CHỦ ĐỀ THƠ NÔM ĐƢỜNG LUẬT


THẾ KỶ XIX
Lý luận văn học đã chỉ ra rằng: "Thể loại văn học là sự thống nhất giữa một loại nội
dung và một dạng hình thức văn bản và phương thức chiếm lĩnh đời sống." [86: 204] Nhƣ
vậy, trƣớc khi khảo sát hình thức văn bản và phƣơng thức chiếm lĩnh đời sống của thể loại
thơ Nôm Đƣờng luật, chúng tôi sẽ tìm hiểu trƣớc hết là nội dung thể loại, đúng hơn là tiếp
cận nội dung thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX thông qua hệ thống đề tài, chủ đề. Qua khảo
sát 450 bài thơ Nôm Đƣờng luật từ Hồ Xuân Hƣơng đến Tú Xƣơng, dựa vào kết quả thống kê
phân loại, chúng tôi có mấy nhận xét khái quát nhƣ sau:
Một là hệ thống đề tài, chủ đề rất phong phú, đa dạng, đề cập đến mọi phƣơng diện
của đời sống con ngƣời. Từ những tâm trạng riêng tƣ thầm kín của ngƣời phụ nữ nhƣ ở thơ
Hồ Xuân Hƣơng đến những vấn đề lớn lao liên quan đến vận mệnh dân tộc, thời đại nhƣ thơ
các nhà Nho yêu nƣớc nửa sau thế kỷ XIX.
Hai là, nếu so sánh với Đƣờng thi, chúng tôi thấy hệ thống đề tài chủ đề có sự khác
nhau ở những nét cơ bản, ngay cả khi cùng xuất phát từ một đề tài giống nhau - nhƣ đề tài
thiên nhiên chẳng hạn - chúng vẫn mang những hình thức khác nhau trong vẻ đẹp và sự khác
biệt về chủ đề.
Ba là, có thể thấy khá rõ bốn hệ thống đề tài, chủ đề sau đây đã xuyên suốt thơ Nôm
Đƣờng luật thế kỷ XIX
- Đề tài, chủ đề thiên nhiên.
40

- Đề tài vịnh sử, vịnh truyện, chủ đề triết lý nhân sinh, kh ẳng định đạo
lý và khí tiết nhà Nho.
- Đề tài tự vịnh, tự thuật, tự trào và chủ đề tâm sự, khát vọng cá nhân.
- Đề tài cuộc sống xã hội, đất nƣớc, con ngƣời và chủ đề yêu nƣớc.
2.1.Đề tài, chủ đề thiên nhiên
Nói chung, ở đề tài - chủ đề này, thơ Nôm Đƣờng luật vừa có chỗ khá
gần gũi với Đƣờng thi, vừa có nét riêng của nó, cái nét riêng của thiên nhiên
đất nƣớc Việt Nam.
Một mặt, thơ Nôm Đƣờng luật có chỗ khá gần gũi với Đƣờng thi ở cái
nhìn, ở quan niệm, nhận thức thẩm m ỹ của con ngƣời về thiên nhiên, vũ trụ,
thế giới. Nhận thức thẩm m ỹ ấy mang tính ch ất qui phạm, và do v ậy, có thể
nói ở một bộ phận thơ Nôm Đƣ ờng luật còn mang thi pháp nguyên t ắc quí tộc
về đề tài thiên nhiên. Cũng nhƣ Đƣ ờng thi, sơn th ủy hữu tình bao giờ cũng là
nguồn cảm hứng vô tận của thơ ca. Sự hiện diện của thiên nhiên trong thơ
Nôm Đƣờng luật chứng tỏ thiên nhiên là m ột loại đề tài vĩnh cửu luôn phát
ngôn cho những tâm sự, nhất là những tâm sự u uẩn, có khả năng làm khuây
khỏa những nỗi buồn. Nó là cái đẹp, là cõi bình yên có th ể làm lắng dịu
những bão giông của cuộc đời con ngƣời, nhất là trong xã hội cũ. Cách x ử l ý
đề tài thiên nhiên ở đây thƣờng có một nét chung là chọn lọc để miêu tả một
số nét tiêu bi ểu gợi lên bản chất, cái thần của cảnh vật, đồng thời những cảnh
thiên nhiên ấy luôn thấp thoáng bóng dáng con ngƣ ời. Trong thơ Nguyễn Thị
Hinh, thiên nhiên có nh ững nét đẹp trang nhã u hoài r ất Đƣờng thi. Hãy đ ọc
và cảm nhận những dòng thơ đẹp nhƣ những bức tranh thủ y mặc :
41

Thánh thót tàu tiêu mấy giọt mƣa.


Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ.
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.(...)
(Tức cảnh chiều thu)
Nét bút tả cảnh ở đây là "thi trung hữu họa", nhẹ nhàng thoáng qua nhƣ nét cọ của
một họa sĩ tài hoa vừa đủ tóm thâu cái hồn của cảnh vật:
Bƣớc tới đèo Ngang bóng xế tà ,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa(...)
(Qua đèo Ngang)
Cũng nhƣ Đƣờng thi, đôi khi cảnh chỉ là ƣớc lệ nhƣng lại khêu gợi đƣợc tình cảm con
ngƣời :
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đƣa vẳng trống dồn.
Gác mái ngƣ ông về viễn phố,
Gõ sừng mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sƣớng sa khách bƣớc dồn (...)
(Chiều hôm nhớ nhà )
Nhƣ vậy là thiên nhiên trong mảng thơ này luôn thống nhất với con ngƣời. Thiên
nhiên và con ngƣời - hoặc là những gì mang tính chất con ngƣời - soi vào nhau, hòa vào
nhau, đồng hóa lẫn nhau. Con ngƣời trƣớc thiên nhiên thƣờng gán cho thiên nhiên cái tâm sự
của mình. Ngay trong thơ Hồ Xuân Hƣơng, trong bức tranh thiên nhiên có cái nét sinh động
kỳ lạ, táo tợn và nhiều màu sắc, vẫn có nét đặc trƣng này. Cảnh vật thiên
42

nhiên có khi bật dậy những nỗi bực dọc, bất bình, ngỗ ngƣợc...nhƣng bên trong lúc nào cũng
ẩn chứa những u tình thật phiền muộn :
Gió giật sƣờn non khua lắc cắc,
Sóng dồn mặt nƣớc vỗ long bong.
(Kẽm Trống)
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
(Tự tình, II)
Thiên nhiên trở thành bầu bạn, thành tri âm tri kỷ, gần gũi thân quen, mang linh hồn,
tƣ tƣởng nhƣ con ngƣời, "thậm chí có khi con người không những gởi gắm tình cảm nghĩ suy
của mình cho thiên nhiên, lấy thiên nhiên làm bầu bạn, mà còn tựu như biến mình vào thiên
nhiên, làm một mảnh vụ của thiên nhiên, tan hẳn vào thiên nhiên" [93: 4]. Đọc các bài Thu
điếu,Thu ẩm, Thu vịnh , hoặc những bài nhƣ Nhớ cảnh chùa Đọi của Nguyễn Khuyến, ngƣời
đọc thấy cái tôi trữ tình ở nhà thở thƣờng một mình đối diện với thiên nhiên, gởi gắm tâm
tình của mình trong ấy. Chẳng hạn :
(...) Dặm thế ngõ đâu tầng trúc ấy ,
Thuyền ai khách đợi bến dâu đây?
Chuông trƣa vẳng tiếng ngƣời không biết,
Trâu thả sƣờn non ngủ gốc cây.
(Nhớ cảnh chùa Đọi)
Mặt khác, lại là mặt chủ yếu, thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX có những nét đặc trƣng
không thấy ở Đƣờng thi.
43

Một là thiên nhiên ở đây mang vẻ đẹp kỳ thú và bình dị chứ không có cái vẻ hùng vĩ,
hoành tráng nhƣ ở Đƣờng thi. Nó vừa kế thừa vẻ đẹp nhƣ tranh cái vẻ đẹp mỹ lệ và kỳ thú
của thiên nhiên trong thơ ca truyền thống Việt Nam, vừa hấp thụ "những cái nét có tính chất
mới mang phong cách thời đại Tây Sơn là tính chất lạc quan, thắm tươi, trong sáng của sự
mô tả" [ 45: 183], nhất là trong thơ Hồ Xuân Hƣơng. Chẳng hạn, nói về màu sắc :
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép
(Cái giếng)
Một trái trăng thu chín mõm mòm
(Trăng)
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
(Đèo Ba Dội)
Nói về âm thanh :
Lắc lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sƣơng gieo.
(Đèo Ba Dội)
Làn gió thông reo vỗ phập phòm
(Hang Cắc Cớ)
Hai là, thiên nhiên ở đây không chỉ là nguồn cảm hứng trữ tình hiện lên với dáng vẻ
đáng yêu mà còn có thể là nguồn cảm hứng trào phúng, là những sự vật chứa đầy mâu thuẫn,
gợi nên những nét hài. Chẳng hạn, ở thơ Nguyễn Khuyến :
- Mảnh cây thƣa thớt đầu nhƣ trọc,
44

Ghềnh đá long lay ngấn chửa mòn.


(Vịnh núi An Lão)
- Le te nghìn xóm quanh ba mặt,
Lố nhố muôn ông lẫn một thầy.
Nghĩ lại bực cho dòng nƣớc chảy,
Đi đâu mà chảy cả đêm ngày ?
(Chơi núi Long Đội)
Hoặc ờ một số bài thơ của Hồ Xuân Hƣơng, dù nhà thơ có một thứ tình yêu thiên
nhiên chân thành, nồng đƣợm, có khi vẫn mƣợn cảnh vật thiên nhiên là phƣơng thức ẩn dụ để
từ đó hƣớng cảm nghĩ vào đối tƣợng khác.
Ba là, thiên nhiên ở đây là thiên nhiên - cụ thể chứ không hẳn chỉ là thiên nhiên -
quan hệ nhƣ ở Đƣờng thi, là thiên nhiên - khách thể chứ không chỉ là thiên nhiên - chủ thể.
Nhà thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX phần nào đã diễn tả thế giới theo sự quan sát trực tiếp
của cá nhân mình. Đặc biệt là thơ thiên nhiên trong cảm xúc của những nhà thơ Nam bộ có
cái gì nhƣ là một thứ hƣơng vị trữ tình tƣơi mát, mộc mạc, chân tình đến thật thà. Chẳng hạn
Huỳnh Mẫn Đạt là mấy nét về cảnh đèo Hải Vân:
(...) Lá dòm mặt nƣớc cây mong lội,
Biển bọc chân non sóng muôn trèo.
Mặt đất day ngang đƣờng khuất khúc,
Sƣờn non dựng ngƣợc đá cheo leo.(...)
(Lên đèo Hải Vân)
Chính đặc trƣng này góp phần đƣa thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX lên đỉnh cao trên
con đƣờng dân tộc hóa và bƣớc một bƣớc khá dài trên
45

con đƣờng cá thể hóa để chuẩn bị cho nền thơ hiện đại thế kỷ XX. Quả thật những cây cải
cây cà quá ƣ thân thuộc quá ƣ thân thiết trong thơ Nguyễn Khuyến chẳng phải là dự báo cho
thơ hiện đại đó sao?
Cải chửa ra hoa, cà chửa nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mƣớp đƣơng hoa.
(Bạn đến chơi nhà)
Đọc thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX, có thể bắt gặp hàng loạt những địa danh, thắng
cảnh của thiên nhiên đất nƣớc Việt Nam: đèo Ngang, thành Thăng Long, chùa Trấn Bắc, đài
Khán Xuân, chùa Trấn Vũ trong thơ Nguyễn Thị Hinh, núi Sập, vàm Nao, Hà Am trong thơ
Bùi Hữu Nghĩa, đèo Hải Vân, gánh Mỏm trong thơ Huỳnh Mẫn Đạt, Sài Gòn, Mỹ Tho,
Thuộc Nhiêu trong thơ Nguyễn Văn Lạc...
Bốn là, thiên nhiên ở đây không phải luôn luôn bất biến, đúng nhƣ Chế Lan Viên có
lần từng nói: "Dù tả một làn mây, cũng là mây thời đại" Thật vậy, trong nửa đầu thế kỷ XIX,
nhất là trong thơ Hồ Xuân Hƣơng và Nguyễn Thị Hinh, thiên nhiên dƣờng nhƣ thiên về tính
chất trữ tình - cá nhân và trữ tình - thế sự. Trữ tình - cá nhân chủ yếu trong thơ Hồ Xuân
Hƣơng với Chùa Hương, Hang Cắc Cớ, Quán Khánh, Đèo Ba Dội, Đá Ông Chồng Bà
Chồng. Trữ tình - thế sự chủ yếu trong thơ Nguyễn Thị Hinh với Qua đèo Ngang, Thăng
Long thành hoài cổ, Chùa Trấn Bắc. Trong nửa sau thế kỷ XIX, thiên nhiên dƣờng nhƣ lại có
sắc thái mới, vừa trữ tình - thế sự vừa thấm đƣợm hơn - tất nhiên là có chỗ đậm nhạt - tính
chất chất trữ tình - công dân. Chẳng hạn, ở ba bài thơ mùa thu của Nguyễn Khuyến, nhất là
Thu điếu, nhà thơ tuy vẫn ƣớc mơ hòa nhập làm một với vũ trụ đất trời mùa thu bằng thứ âm
thanh chƣa thành tiếng -
46

dƣờng nhƣ cả thiên nhiên và con ngƣời đang muốn lặng im, tất cả nhƣ là một đợi chờ thành
tiếng, chứ chƣa có tiếng, một đợi chờ có thể ngân lên thành tiếng nhạc cực kỳ thanh thoát của
cõi tâm hồn trƣớc thiên nhiên trữ tình đang mời gọi - nhƣng bên trong linh hồn của cảnh vật
đã thấm đƣợm linh hồn của đất nƣớc quê hƣơng. Nhà thơ đã phả vào cảnh thu cái tình thu của
một ngƣời công dân trong cảnh nƣớc nhà rơi vào tay giặc. Nếu ở giai đoạn trƣớc, nhà thơ
Bạch Vân khi muốn xa lánh chốn danh lợi phù hoa, còn có lúc tự mình đi hẳn vào thiên nhiên
không còn dùng dằng chi nữa, thì ở đây, Nguyễn Khuyến khi chìm trong giấc mơ tiếp giao
với thiên nhiên vũ trụ, cũng chính là lúc nhà thơ thiết tha với cuộc đời, với đất nƣớc quê
hƣơng với tất cả sắc màu của nó !
Có thể tóm tắt chung về đề tài, chủ đề thiên nhiên - chiếm tỷ lệ 10,7 % - trong thơ
Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX nhƣ sau:
- Là hệ thống xuyên suốt quá trình phát triển thể loại.
- Nó có tác dụng khu biệt thể loại. Dù có chỗ gần gũi với Đƣờng thi, Đƣờng luật Hán,
nhƣng chủ yếu là sự khác biệt, chứng tỏ sự khác biệt trong quan niệm nghệ thuật của các thể
loại cùng sử dụng một thể thơ. Nó có xu hƣớng thiên về vẻ đẹp kỳ thú và bình dị. Nó lại có
thể là nguồn cảm hứng trào phúng.
- Nó mang vẻ đẹp hài hòa giữa thiên nhiên - chủ thể, ở đó con ngƣời dƣờng nhƣ ẩn
đằng sau, nhƣ hội nhập làm một với thiên nhiên vũ trụ, và thiên nhiên - khách thể, ở đó cũng
có lúc con ngƣời xuất hiện với tƣ cách chủ thể, một dự báo cho thơ Đƣờng luật của Hồ Chí
Minh ở thế kỷ XX. Đồng thời, đó là thứ thiên nhiên - cụ thể chứ không hẳn chỉ là thiên nhiên
47

- quan hệ nhƣ ở Đƣờng thi. Nó không phải luôn bất biến mà sinh động, đa dạng, nhiều màu
sắc.
2.2. Đề tài, chủ đề vịnh sử, vịnh truyện, triết lý nhân sinh khẳng định đạo lý và khí
tiết nhà Nho
2.2.1. Đề tài vịnh sử, vịnh truyện
Cũng nhƣ những thể loại khác thuộc phạm trù văn chƣơng trung đại, thơ Nôm Đƣờng
luật thế kỷ XIX cũng có nhiều bài lấy cảm hứng từ đề tài văn chƣơng, lịch sử cổ xƣa, và do
vậy, cổ xu thế hƣớng về quá khứ, tôn trọng những giá trị cổ xƣa, coi đó là mẫu mực lý tƣởng,
thực hiện đúng câu nói khiêm tốn của Khổng Tử: "Thuật nhi bất tác”. Đúng nhƣ nhà nghiên
cứu A. Gurevich, trong công trình nổi tiếng "Những phạm trù của văn hóa trung cổ" đã chỉ
ra: "(...) thời Trung cổ, sự lặp lại ý kiến của những uy quyền cổ xưa được xem như là phẩm
giá, còn việc phát biểu những tư tưởng mới lại bị lên án, ăn cắp văn thì không sao cả nhưng
sáng tạo độc đáo thì bị coi là tà giáo." [26: 8] Mặc dù Gurevich nhận xét khái quát từ thực
tiễn văn hóa Châu Âu thời trung đại nhƣng quả thật ở đây đã có sự gặp gỡ với phƣơng Đông
mà qui luật phát triển của văn chƣơng trung đại Việt Nam là nằm trong quĩ đạo ấy. Trong
chuyên đề "Đặc trưng của văn học trung đại Việt Nam" Gs Lê Trí Viễn đã chỉ ra tập tục sùng
cổ là một biểu hiện của tính chất vô ngã, tính chất bao trùm của nền văn học trung đại: "(...)
Cũng theo mạch ấy mà đẻ ra tập tục sùng cổ: không coi trọng cá nhân mình, không coi trọng
hiện tại mình sống mà tôn làm mẫu mực tuyệt đối lời xưa, người xưa, những tiên thánh, tiên
vương. Đề tài do đó mà lấy đề tài cũ, sự tích cũ, thành điển tích , chữ nghĩa của sách sử xưa
thành điển cố, ai sử dụng giỏi nhất coi là người tài nhất, học
48

thức uyên thâm nhất. Cái cũ đã được sùng bái như vậy, cái mới tất nhiên không cần, không
đáng kể, thậm chí bị coi thường, khinh dẻ, cho là không giá trị." [93: 3]
Ở nửa đầu thế kỷ XIX, có thể xem bài Vịnh Di Tề sau đây của Nguyễn Công Trứ là
tiêu biểu cho thơ vịnh sử:
Danh chẳng ham mà lợi chẳng mê,
Ấy gan hay sắt hỡi Di Tề !
Gặp xe vua Võ, tay giằng lại,
Thấy thóc nhà Chu, mặt ngoảnh đi.
Cô Trúc hồn về, mây ngụt ngụt,
Thú Dƣơng danh để, đá tri tri.
Cầu nhân, ắt đƣợc nhân mà chớ,
Chẳng trách ai chi, chẳng oán chi.
Cũng nhƣ những bài thơ vịnh sử khác trong văn chƣơng trung đại Trung Quốc và Việt
Nam, lời thơ là lời ngợi ca phẩm chất đạo đức cao quí của những nhân vật trong lịch sử. Ở
đây là hai anh em Bá Di và Thúc Tề, con vua xứ Cô Trúc, em không chịu lên ngôi vua (theo
ý cha) mà nhƣờng ngôi cho anh, anh lại không nhận vì nhƣ thế là không trọng lời cha dặn, cả
hai cùng bỏ lên núi Thú Dƣơng ở ẩn. Những cấu trúc đối lập trong dòng thơ: danh chẳng ham
- lợi chẳng mê, gan - sắt, giữa hai dòng trong một liên thơ: tay giằng lại - mặt ngoảnh đi, mây
ngụt ngụt - đá tri tri... dứt khoát, vững chắc, vĩnh cửu nhƣ đất trời trong nhân cách của Di,
Tề. Đồng thời, đằng sau những lời ngợi ca, khi tác giả nhắc lại câu bình luận của Khổng Tử:
"Di, Tề cầu nhân mà được nhân, dầu chết cũng thỏa chí, chẳng còn oán thán gì" trong liên
thơ cuối, ngƣời đọc bỗng dƣng hiểu
49

đƣợc cái ƣớc vọng, cái "chí", mà cũng là nhân cách thật sự của Nguyễn Công Trứ.
Ở nửa sau thế kỷ XIX, đạo lý làm ngƣời luôn gắn bó với đạo lý dân tộc vận mệnh dân
tộc. Hoàng Cao Khải cũng làm nhiều thơ vịnh sử nhƣng là để che đậy cái dã tâm "chó má"
của y. Ngƣợc lại, các nhà Nho yêu nƣớc vịnh sử là để bộc lộ tấm lòng khí khái chung thủy
với quê hƣơng. Trong 11 bài thơ của Huỳnh Mẫn Đạt, có một bài vịnh sử nổi tiếng là Chiêu
quân qua ải. Trong 13 bài thơ của Bùi Hữu Nghĩa đã có 3 bài vịnh sử: Thân Bao Tư tống Ngũ
Tử Tư, Ngũ Tử Tư xuy tiêu, Quan Công thất thủ Hạ Bì. Bài thơ vịnh sử Ngựa Tiêu sương của
Nguyễn Đình Chiểu chính là thông điệp của một trái tim yêu nƣớc, gắn bó máu thịt với quê
hƣơng gởi cho ngƣời đọc :
Tiếng đồn ngàn dặm ngựa Tiêu sƣơng,
Lầm đứa gian mƣu nghĩ khá thƣờng.
Giậm vó chẳng màng ăn cỏ Tống
Quày đầu lại hí nhớ tàu Lƣơng.
Chẳng cho chủ khác ngồi lƣng cổ,
Thà chịu vua ta nắm khớp cƣơng.
Ngự nghĩa còn cƣu nhà nƣớc cũ,
Làm ngƣời bao nỡ phụ quê hƣơng.
Trong thơ vịnh về lịch sử dân tộc Việt Nam, có thể chọn bài Vịnh thành Cổ Loa của
Dƣơng Lâm làm dẫn chứng tiêu biểu :
Thành Óc sƣơng mờ, cỏ mọc rêu,
Bể tây trăng lặn, sóng dƣơng trào.
Hòa thân trót đã lầm hai chữ,
50

Ân oán gây nên đủ mọi điều.


Qui trảo dẫu rằng cơ tạo hóa,
Nga mao song cũng nặng tình gieo.
Ai ơi ! thời thời xem cho kỹ,
Thành tín bao nhiêu, dối bấy nhiêu !
Nhƣ vậy, qua khảo sát mấy bài thế tiêu biểu, chúng tôi thấy nó tuy cũng thuộc loại đề
tài phổ biến nhƣ trong sáng tác văn chƣơng thế kỷ trƣớc nhƣng đã khác trƣớc về nguyên tắc,
bởi nó không còn chỉ là hình thức ngụ ý của những bài học về đạo đức mà còn nói lên cảm
xúc của nhà thơ trƣớc vấn đề con ngƣời trong lịch sử, đồng thời qua đó thể hiện nhận thức về
những vấn đề đặt ra trong cuộc sống trƣớc mắt nhà thơ, những vấn đề nhà thơ từng suy nghĩ,
day dứt.
Còn trong loại đề tài vịnh truyện, phổ biến nhất là vịnh những nhân vật trong truyện
Tam Quốc và vịnh Kiều . Loại đề tài thứ nhất đã gây cuộc bút chiến sôi nổi ở nửa sau thế kỷ
XIX giữa các nhà Nho yêu nƣớc với Tôn Thọ Tƣờng. Sử dụng tích xƣa, nhất là tích trong
Tam Quốc để tự bào chữa hành động bắt tay với Pháp là một trong những thủ đoạn nổi bật
của Tôn Thọ Tƣờng. Tôn Thọ Tƣờng âm mƣu đồng nghĩa cuộc hỗn chiến đầy phi nghĩa giữa
các tập đoàn phong kiến cát cứ thời Tam Quốc với cuộc chiến đấu hoàn toàn chính nghĩa của
dân tộc ta chống Pháp. Chỉ riêng tích Từ Thứ quy Tào, đã có mƣời mấy bài họa lại theo vần
của bài Từ Thứ quy Tào của Tôn Thọ Tƣờng, sau quen gọi là "vần Từ Thứ" . Nếu bài thơ Từ
Thứ quy Tào nhƣ là để bày tỏ tâm sự thì Tôn phu nhân quy Thục chính là tuyên ngôn của Tôn
Thọ Tƣờng về lập trƣờng chính trị của mình. Loại đề tài thứ hai là vịnh Kiều lại xuyên suốt
thế kỷ XIX, mà
51

bài thơ mở đầu có lẽ là bài Tổng vịnh tuyện Kiều của Phạm Quý Thích (1760 - 1825), một bài
thơ Nôm dịch thoát từ bài thơ chữ Hán "Đoạn trường tân thanh đề từ" thƣờng đƣợc in ở đầu
các bản Kiều ngày trƣớc:
Giọt nƣớc Tiền Đƣờng chẳng rửa oan,
Phong ba chƣa trắng nợ hồng nhan.
Lòng tơ còn vƣớng chàng Kim Trọng,
Mặt ngọc khôn đành chốn thủy quan.
Nửa giấc đoạn trƣờng tan gối điệp,
Một dây bạc mệnh dứt cầm loan.
Cho hay những kẻ tài tình lắm,
Trời bắt làm gƣơng để thế gian!
Nguyễn Khuyến cũng có một chùm thơ bốn bài vịnh Kiều:
- Viếng Đạm Tiên, gặp Kim Trọng.
- Kiều bán mình.
- Hoạn Thƣ ghen.
- Tổng vịnh Kiều.
Qua chùm thơ này, một mặt nhà thơ biểu lộ sự đồng tình với tƣ tƣởng tài mệnh tương
đố của ngƣời xƣa:
Trong khuôn tài sắc trời hay ghét,
Trăng gió xƣa nay chẳng một mình.
(Viếng Đạm Tiên, gặp Kim Trọng)
Số kiếp bởi đâu mà lận đận ?
Sắc tài cho lắm cũng lôi thôi !
(Tổng vịnh Kiều)
52

mặt khác tƣớc bỏ mọi màu sắc cảm xúc mà văn chƣơng truyền thống, nhất là trong Đoạn
trường tân thanh của Nguyễn Du đã phủ trùm lên nhân vật, để bằng ngòi bút đã mang yếu tố
hiện thực của mình, phản ánh những quan hệ vật chất rất ƣ là đời thƣờng trong xã hội xƣa và
nay:
Muốn êm phải biện ba trăm lạng,
Khéo xếp nên liều một chiếc thoa(...)
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ?
Đời trƣớc làm quan cũng thế a ?
(Kiều bán mình)
Con ở ngẩn ngơ nhìn mặt chủ,
Nhà thầy tƣng hửng mất đồ chơi.
(Hoạn Thư ghen)
Tuy nhiên, có lẽ chƣa có nhà thơ nào vịnh Kiều nhƣ Chu Mạnh Trinh với 20 bài vịnh
20 hồi trong Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và một bài Tổng vịnh. Không
chỉ là vấn đề số lƣợng phong phú mà chính là có một sự đồng tình, một mối tri âm tri kỷ của
nhà thơ đa tình, tài hoa với nhân vật chính Thúy Kiều. Chùm thơ đầy xúc cảm vì nó chính là
tiếng đàn tri âm cộng hƣởng những trái tim của nhân vật, tác giả và độc giả. Đặc biệt là bài
Tổng vịnh, trong đó câu phá là một câu thơ rất tinh tế và câu thừa đầy chua xót:
Cuốn ngỏ rèm xuân trải mấy sƣơng,
Sắc tài chi lắm để làm gƣơng.
2.2.2. Đề tài, chủ đề triết lý nhân sinh, khẳng định đạo lý và khí tiết nhà Nho
53

Triết lý về nhân sinh là một đề tài muôn thuở của thơ ca. Nhà thơ vẫn thƣờng băn
khoăn suy nghĩ về cuộc sống đời ngƣời, sự sống và cái chết, cái vô cùng và cái hữu hạn, cái
bất biến và cái biến...nhƣng mỗi nền thơ đều có cách nói khác nhau, thậm chí mỗi thể loại
đều bộc lộ thi pháp đề tài không giống nhau. Cái hay của bài thơ Nôm Đƣờng luật mang tính
triết lý là không nêu những phƣơng châm chung chung về xử thế tiếp vật, không khô khan
trừu tƣợng mà thƣờng là những cảm nghĩ rút ra từ cuộc sống bản thân và tất nhiên là nhà thơ
thƣờng chịu ảnh hƣởng sâu đậm của tƣ tƣởng Lão - Trang, lấy cái triết lý "sống gửi, thác về"
( Sinh ký, tử quy) để an ủi. Tiêu biểu là nhà thơ Nguyễn Công Trứ với hàng loạt bài thơ: Thế
tình đen bạc (Vận chuyển cơ trời cũng vẫn mau...), Thế tình đen bạc (Đ. mẹ nhân tình đã biết
rồi...), Vịnh nhân tình thế thái, Cách ở đời, Khuyên người đời, Truyện đời, Trò đời, Phường
danh lợi... Nhìn chung ở thở Nguyễn Công Trứ, tính triết lý gần với cách nói trong dân gian,
cách nói kiểu dồn nén, cô đúc kinh nghiệm của phƣờng ngôn, tục ngữ. Chính lối diễn đạt này
khiến lời thơ trở thành gần gũi với cuộc sống thực tế, dễ thấm sâu trong lòng ngƣời đọc.
Không chỉ riêng Nguyễn Công Trứ mới triết lý nhân sinh nhƣ vậy mà ngay cả ở ngôi hoàng
đế nhƣ nhà thơ Dực Tông (1829 - 1883), bao nhiêu công danh phú quí cũng thật sự chỉ là hƣ
ảo, hoàn toàn vô nghĩa. Bài thơ Ngẫu cảm có cái giọng điệu triết lý nghe buồn nản:
Sự đời ngẫm nghĩ, nghĩ mà ghê !
Sống gửi, rồi ra lại thác về.
Khôn dại cùng chung ba thƣớc đất,
Giàu sang chƣa chín một nồi kê.
54

Tranh giành trƣớc mắt mây tan tác,


Đày đọa sau thân núi nặng nề.
Muốn để hỏi tiên, tiên chẳng bảo,
Gƣợng làm chút nữa để mà nghe.
Trong khi đề tài, chủ đề triết lý nhân sinh có cả hai mặt tích cực và tiêu cực của nó, thì
chủ đề khẳng định đạo lý và khí tiết nhà Nho lại có tác dụng tích cực trong bối cảnh xã hội
Việt Nam bấy giờ, nhất là vào nửa sau thế kỷ XIX. Tiêu biểu là trong thơ Nguyễn Công Trứ,
Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Hữu Huân, Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Lê
Quang Chiểu...Đó là những nhà Nho chính thống thấm nhuần sâu sắc tƣ tƣởng ái nhân, tƣ
tƣởng cơ bản của đạo lý làm ngƣời, không chỉ theo triết lý Khổng - Mạnh mà còn phù hợp
với truyền thống dân tộc Việt Nam. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy thơ Nôm
Đƣờng luật cũng thể hiện cái yêu và cái ghét, đúng nhƣ Khổng Tử từng nói: "Duy có bực
nhân từ mới biết thương người và ghét người một cách chính đáng mà thôi" (Tử viết: Duy
nhân giả năng háo nhân năng ố nhân) [50: chƣơng thứ tƣ: tr 50] Đó là những bài Thơ điếu
Trương Định (12 bài), Thơ điếu Phan Tòng (10 bài) của Nguyễn Đình Chiểu, một số bài
Cảm hoài, Tự thuật của Phan Văn Trị...Ngay trong Dương Từ Hà Mậu của Nguyễn Đình
Chiểu, bài có ghi "Thơ rằng..." của nhân vật vị Tôn sƣ phải chăng cũng là lời dặn dò của Đồ
Chiểu với học trò của mình và là lòng dặn lòng của một nhà Nho khí tiết:
Trên là quan trƣởng, dƣới là dân,
Hƣ tấm lòng rồi, cực tấm thân.
Đi học phải toan tầm cội gốc,
55

Đặng thời chớ khá dứt nguồn ân...


Đó là "Thú câu" của Bùi Hữu Nghĩa:
Danh lợi màng bao chốn cửa hầu,
Thanh nhàn quen thú một nghề câu...
Đó là những vần thở "Đi đày", "Mang gông" , "Khi được thả về" của Nguyễn Hữu
Huân mà hai chữ "cang thƣờng" vẫn đè năng trên vai "đấng mày râu" ấy:
Cƣơng thƣờng bởi biết mang nên nặng,
Hồ đứng làm trai chác nợ đời.
(Đi đày)
Hai bên thiên hạ thấy hay không?
Một gánh cang thƣờng há phải gông!
(Mang gông)
Tòng cúc tuy mừng hãy đặng còn,
Râu mày thêm thẹn với sông non.
(Khi được thả về)
Tóm lại, chủ đề này đã góp phần khẳng định quan niệm của nhà thơ Nôm Đƣờng luật
thế kỷ XIX trƣớc hết vẫn thuộc về quan niệm "Thi dĩ ngôn chí" nhƣ trong thơ ca cổ điển Việt
Nam và Trung Quốc nói chung. Tất nhiên "chí" trong ngôn ngữ cổ đại không phải chỉ bao
gồm lý trí thuần túy, hoặc ngược lại, trữ tình phải được hiểu, không phải chỉ là qua tâm
trạng, mà còn suy cảm" [53: 203]. Đây cũng là một chủ đề quan trọng bởi nó chiếm tỷ lệ
27,2% trong thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX.
2.3. Đề tài tự vịnh, tự thuật, tự trào và chủ đề tâm sự, khát vọng cá nhân.
56

Thật ra ở những thế kỷ trƣớc, trong những bài thơ tự thuật, cảm hoài ngôn hoài, thuật
hoài..., nhà thơ nói về tâm sự của mình nhƣng dƣờng nhƣ chủ yếu vẫn là những nét rất chung,
nặng về đạo lý, cho nên có thể nói có tâm sự, tâm trạng nhƣng không phải là tâm trạng riêng
tƣ, nhân vật trữ tình chƣa phải là cái tôi trữ tình. Đến cuối thế kỷ XVIII, nhà thơ Nguyễn Gia
Thiều (1741 - 1798) có những dòng thơ tức khẩu về một mối tình riêng hết sức tự nhiên, bình
dị:
(...) Khạc chẳng ra nhƣng nuốt chẳng vào,
Miếng tình nghẹn mãi biết làm sao?
Muốn kêu một tiếng cho to lắm,
Rằng ối ai ơi, nó thế nào...
(Khối tình)
Vào cuối thế kỷ XVIII và nhất là đầu thế kỷ XIX nhƣ là có sự bùng nổ về đề tài số
phận cá nhân, đặc biệt là số phận ngƣời phụ nữ, những con ngƣời tài hoa và những khát vọng
chân chính nhƣ khát vọng tự do bình đẳng, khát vọng tình yêu, hạnh phúc,...trong chủ đề thơ
ca. Sự phát hiện ra con ngƣời cá nhân đối lập với con ngƣời của quan hệ phong kiến Nho
giáo, vấn đề giải phóng cá nhân, những đòi hỏi hƣởng thụ cá nhân trở thành chủ đề nổi bật
của thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX, chƣa từng có trong Đƣờng thi, Đƣờng luật chữ Hán ở
Việt Nam và cả Đƣờng luật chữ Nôm những thế kỷ trƣớc.
Tất nhiên, ngƣời đại diện xuất sắc ở đây không ai khác hơn là Hồ Xuân Hƣơng, một
trong những "nhân cách nổi loạn". Trong khi chế độ phong kiến đi vào chặng đƣờng cuối với
tất cả vẻ mục ruỗng của nó đồng thời hết sức phản động thì Hồ Xuân Hƣơng dũng cảm đứng
ở cái thế đối
57

nghịch với trật tự xã hội chính thống ấy. Gs Lê Trí Viễn, trong chuyên đề "Thơ Hồ Xuân
Hương" nhận định: "Ý thức về con người cá nhân với cốt lõi là sự nồng nhiệt cháy bỏng đối
với sự sống, ý thức làm cơ sở nhất quán cho thế giới quan Xuân Hương (...) đi vào nội dung
thơ Nôm quen biết, sẽ thấy có những biểu hiện cụ thể. Đó là một sức sống mãnh liệt và một
lòng yêu cuộc sống không sao thiết tha hơn." [91: 16]
Đây là cái nhìn, dáng đứng, giọng điệu của ngƣời phụ nữ đòi giải phóng :
Ghé mắt trông sang thấy bảng treo.
(Đề đền Sầm Nghi Đống)
Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo.
(Quán Khánh)
Lại đây cho chị dạy làm thơ.
(Mắng kẻ chơi trèo)
Hồ Xuân Hƣơng đúng là ngƣời "coi sự sống là niềm vui, là bài ca bất tuyệt của đất
trời, không chấp nhận bất cứ cái gì đối lập với sự sống, cái úa tàn, cái im lìm, cái chết chóc,
cái phản tự nhiên... "[91: 21] Do vậy, từ bình diện sự sống với sự bình đẳng nam nữ, Xuân
Hƣơng tiến lên đứng về phía phụ nữ làm "người trạng sư bênh vực cho thân phận lẻ mọn,
cho gái - có - con (la fille - mère)" (Hữu Ngọc và Françoise Corrèze, Ho Xuan Huong ou le
voile déchiré, Fleuve Rouge, Éditions en Langues étrangères, Hanoi, 1984, p. 27) nhƣ trong
bài "Lấy chồng chung ", "Dở dang". Ở đây, tƣ tƣởng cốt lõi là nhân đạo. Sức chịu đựng trong
"Lấy chồng chung" chủ yếu là để đƣợc sống cuộc sống vợ chồng trên cơ sở sự công bằng, cở
sở tình yêu. Ở bài "Dở dang", Xuân Hƣơng táo bạo nói
58

dùm cho ngƣời con gái sự quyết tâm gìn giữ cái thai nhƣ là thực hiện chức năng duy trì sự
sống cho nhân loại: "Mảnh tình một khối thiếp xin mang.”Quả thật Xuân Hƣơng là " người
đàn bà đi trước thời đại" (Une femme en avance sur son temps) [Sđd, p.21], không chỉ vì sự
nghiệp đấu tranh giải phóng phụ nữ mà còn vì dám lên tiếng nói thẳng, nói thật những đòi hỏi
của một con ngƣời, con ngƣời toàn vẹn với tất cả những đặc điểm tâm lý, sinh lý, bản năng,
trí tuệ...chẳng hạn đòi "quyền của phụ nữ về tình yêu xác thịt" (le droit de la femme à l' amour
charnel) [Sđd, p.31) đậm nhạt qua những bài thơ: Thiếu nữ ngủ ngày, Đèo Ba Dội, Hang Cắc
Cớ, Đá Ông Chồng Bà Chồng, Đánh đu, Vịnh cái quạt, Bánh trôi... Đúng nhƣ nhà thơ Pháp
Jean Tistat, trong lời tựa thứ hai cho "Tuyển tập Hồ Xuân Hương" xuất bản tại Paris, nhận
xét: "Trong cuộc đấu tranh của phụ nữ suốt nhiều thế kỷ, sự nghiệp của Hồ Xuân Hương là
ngọn hải đăng (...) Hồ Xuân Hương là người cùng thời với chúng ta. Bà hết sức hiện đại."
(dẫn theo báo Thông tin văn hóa số 2 năm 1988) Chính Hồ Xuân Hƣơng chứ không phải ai
khác là ngƣời mở đầu cho một giai đoạn văn học mới, ở đó in đậm dấu ấn cá thể. Có thể nói
"Bà Chúa thơ Nôm" đã đƣa trình độ cá thể hóa lên tầm mức cao nhất trƣớc đó chƣa từng có.
Với thơ Hồ Xuân Hƣơng, chức năng trữ tình cá thể hóa của thơ Đƣờng luật đã có một bƣớc
tiến dài đáng kể. Thơ Đƣờng luật đã từng dần dần vƣợt qua đoạn đƣờng phát ngôn cho các
nhà thơ đồng thời, đồng thế hệ, đồng khuynh hƣớng, nay tiến đến một cái tôi cụ thể xác định
của một nhân vật trữ tình.
Bên cạnh Xuân Hƣơng, Nguyễn Công Trứ cũng có hàng loạt bài tự vịnh, tự thuật, ký
thác tâm sự, khát vọng cá nhân. Đó là những bài; Vịnh
59

cảnh nghèo, Tết nhà nghèo, Vui cảnh nghèo, Trách tình nhân, Cầm kỳ thi tửu I, Tự thuật (4
bài), Muộn thành đạt, Đi thi tự vịnh, Cảnh xa nhà, Tƣơng tƣ, Bỡn cô đào già, Bỏ vợ lẻ cảm
tác, Tình cảnh làm quan, Uống rƣợu tự vịnh, Lúc về già...Đúng nhƣ Gs Trƣơng Chính đã
nhận xét:" ...không có những bài không đau mà rên, không có thơ thù tạc. Thơ ông gắn liền
với cuộc đời ông, bất cứ nỗi vui buồn nào cũng được phản ánh vào thơ, không dấu diếm,
không tô vẽ, nghĩ như thế nào viết thế ấy, mộc mạc, nôm na, nhưng ý nghĩ chân thành, cảm
xúc sâu sắc, yêu ghét rõ ràng, đọc càng thấm thìa." [16: 41] Tiêu biểu cho đề tài, chủ đề này
là bài thơ "Cầm, kỳ, thi, tửu, I":
Trời đất cho ta một cái tài,
Giắt lƣng dành để tháng ngày chơi.
Dở duyên với rƣợu khôn từ chén,
Trót nợ cùng thơ phải chuốt lời.
Cờ sẵn bàn son, xe ngựa đó,
Đàn còn phím trúc, tính tình đây.
Ai say, ai tỉnh, ai thua đƣợc,
Ta mặc ta mà ai mặc ai.
Ở bài "Vịnh mùa đông", đề tài là thiên nhiên nhƣng chủ đề lại là chuyện khác. Sáu
câu thơ trên là thơ tức cảnh, dù có chút triết lý ở hai câu đề:
Nghĩ lại thì trời vốn cũng sòng,
Chẳng vì rét mƣớt bỏ mùa đông.
Mây về ngàn Hống đen nhƣ mực,
Gió lọt rèm thƣa lạnh tựa đồng.
60

Cảo mực hơi may ngòi bút rít,


Phím loan cƣời nhuốm sợi tơ chùng.
Nhƣng đọc đến hai câu kết, mới thấy bài thơ chủ yếu không phải là thơ tức cảnh mà là
thơ ký thác tâm sự, ý chí, bản lĩnh con ngƣời, ngụ ý mình có gặp nhiều nỗi hiểm nghèo mới
tỏ rõ đƣợc mình cứng rắn hơn ngƣời thƣờng:
Bốn mùa ví những xuân đi cả,
Gốc núi ai hay sức lão tùng ?
Tâm sự, khát vọng cá nhân ở thơ Nguyễn Đình Chiểu lại là một dạng khác nữa. Bài
thơ "Vịnh thu liên" trích trong "Dương Từ - Hà Mậu" là một thí dụ điển hình. Thông qua các
nhân vật và suy nghĩ của họ; "Gẫm hoa sen nọ giống người tài hoa" và "Vịnh hoa sen muộn
ngu suy việc mình", ngƣời đọc cũng có thể hiểu đƣợc khí tiết "chẳng hèn", “bất phàm" và cái
tâm sự buồn cho cảnh ngộ lỡ vận, sinh bất phùng thời của nhà thơ Đồ Chiểu:
Sen hỡi là sen, tiếng chẳng hèn.
Thấy sen lỡ vận, tiếc cho sen.
Ngậm cƣời trƣớc hạ, hèn cùng thƣởng,
Đua nở mùa thu, tốt mấy khen.
Gƣơng mặt bất phàm đâu biết đăng,
Bèo tai vô dụng gọi rằng quen.
Phải mà sanh gặp nơi tiên cảnh,
Lá rộng cao che khắp các bèn.
Đến thơ Nguyễn Khuyến, nếu so với các bài thơ lấy đề tài thời sự xã hội thì số lƣợng
những bài tự thuật, gởi bạn, dặn con...chiếm ƣu thế.
61

Ở đây Tam Nguyên Yên Đổ thƣờng đi vào những vấn đề hết sức bình thƣờng giản dị
của cuộc sống hàng ngày nhƣ cất nhà, lên lão, câu cá, chơi thuyền…Đọc những vần thơ
Nguyễn Khuyến, ngƣời đọc cảm nhận đƣợc những vẻ đẹp của một bức tranh tự họa về cuộc
sống và nội tâm của một ông già vừa hóm hỉnh vừa sâu sắc. Đó là những bài: về hay ở Về
nghỉ nhà, Nghe hát đêm khuya, Tự thuật, Ngày xuân dặn các con, Lên lão, Mừng con dựng
được nhà , Dựng nhà tế đường, Ngày xuân gởi cho bạn (2 bài), Than nợ, Bản đến chơi nhà,
Mừng anh vợ, Đến chơi nhà bác Đặng, Nói chuyên với bạn, Gởi bác Châu Cầu, Lụt hỏi thăm
bạn, Tặng người làng ra làm quan, Mừng ông lão hàng thịt, Cảnh trong nhà, Than già, Cảm
hứng, Cáo quan về ở nhà, Đại lão. Tổng cộng là 24 bài/ 68 bài, chiếm tỷ lệ 35%.
Đến thơ Trần Tế Xƣơng thì ngƣời đọc có thể tƣởng tƣợng ra trƣớc mắt mình một con
ngƣời Nghèo, Thương vợ, Tự đắc. Con ngƣời ấy hiểu rõ tấm lòng thủy chung của bà Tú mỗi
khi nhà thơ mắc bệnh, đêm đêm thắp "Một nén tâm hương". Con ngƣời "Đi thi nói ngông",
luôn "Than nghèo , lại "Đi thi" rồi "Gần tết than việc nhà", có khi mừng nhƣ đứa trẻ "Bất
được đồng tiền" lúc lại triền miên trong nỗi buồn "Dạ hoài" bực mình quá đỗi khi "Đau mắt",
thậm chí tự nguyền rủa mình lúc quá phẫn uất, đau buồn về việc đời trong "Cảm hoài".
Ngƣời đọc có thể hiểu đƣợc cái nghèo của Tú Xƣơng qua "Sắm tết”,” Thề với người ăn xin"
"Mùa nực mặc áo bông", chuyện học hành thi cử với "Hỏng thi ", “Buồn thi hỏng", "Mai mà
tớ hỏng", những cảm xúc cá nhân khi nhà thơ "xấp xỉ ba mươi mấy tuổi đầu" ( Cảm hứng),
những băn khoăn tự đay nghiến
62

mình "Trải mấy mươi năm vẫn thế ru ?" (Hỏi mình), "lại than thẫn chưa đạt" nguyền rủa
mình là "Vô tích", rồi "Hỏi đùa mình":
Ông có đi thi ký lục không?
Nghe ông quốc ngữ học chƣa thông.
Ví dù nhà nƣớc cho ông đỗ,
Mỗi tháng lƣơng ông đƣợc mấy đồng?
Tự trào xuất hiện nhƣ một thể tài đặc biệt trong thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX.
Thật ra, ở giai đoạn trƣớc, phần nào ta đã bắt gặp nụ cƣời chế diễu nhẹ nhàng mà thâm thúy
của nhà Nho ở thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhƣng nụ cƣời tự trào, tự phủ nhận dƣờng nhƣ
là "đặc sản" của thơ thế kỷ XIX.
Thử khảo sát bài thơ Tự trào của Phạm Thái (1777 - 1813)
Năm bảy năm nay những loạn ly,
Cũng thì duyên phận cũng thì thì.
Ba mƣơi tuổi lẻ là bao nả,
Năm sáu đời vua khéo chóng ghê !
Một tập thơ dày ngâm sảng sảng,
Vài chai rƣợu kếch ních tì tì.
Chết về tiên bụt cho xong kiếp,
Đù ỏa trần gian sống mãi chi ?
Thấy rõ ngay đây là một đặc trƣng thể loại, khu biệt rõ ràng với Đƣờng thi và Đƣờng
luật Hán. Con đƣờng đi từ bài thơ tự trào đến với ngƣời tiếp nhận là con đƣờng có lẽ ngắn
nhất, con đƣờng đi thẳng. Nhà thơ không cần dựa vài một cái "cớ" nào khác. Bài thơ mang
tính chất tự họa, đúng hơn là tự hoạt họa với những con số, sự kiện cụ thể nhƣ trong
63

văn xuôi hiện đại: "Năm sáu năm nay", " Ba mƣơi tuổi lẻ", " Năm sáu đời vua"...Giọng điệu
của thơ tự trào nhờ vậy có tính chất thân mật, dƣờng nhƣ là muốn tìm sự tri âm tri kỷ. Đọc
một bài thơ tự trào, ngƣời đọc có thể thấy hiện ra trƣớc mắt mình những nét đặc biệt về tính
tình, tâm trạng, cảnh ngộ của nhà thơ mặc dù đôi khi nhà thơ có sử dụng biện pháp cƣờng
điệu, hình ảnh con ngƣời và cuộc sống có bị nói quá đi, thậm chí bị bóp méo.
Đặc biệt ở nửa sau thếkỷ XIX, Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xƣơng có rất nhiều thơ tự
trào. Chẳng hạn, ở Nguyễn Khuyến, là: Tự trào, Than nghèo, Than nợ, Tự giễu mình, Giễu
mình chưa đỗ. Tiêu biểu là bài Tự trào:
Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang,
Chẳng gầy, chẳng béo, chỉ làng nhàng.
Cờ đƣơng dở cuộc không còn nƣớc,
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.
Mở miệng nói ra gàn bát sách,
Mềm môi chén mãi tít cung thang.
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ,
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng.
Cảm hứng này bắt nguồn từ sự cảm nhận về cái bất lực ở một con ngƣời luôn ý thức.
Giận mình sao quá ƣ kém cỏi, tầm thƣờng, chẳng làm gì đƣợc trƣớc cảnh nƣớc mất nhà tan,
huống hồ mình cũng từng ra vào nơi cửa Khổng sân Trình, một con ngƣời khoa giáp! Ngay ở
những bài Vịnh tiến sĩ giấy I, II, đối tƣợng trào phúng chủ yếu không phải là chính nhà
thơ,nhƣng xét đến cùng ông cũng phủ nhận cả bản thân mình ngay trong
64

hình ảnh ông tiến sĩ giấy. Chính ông dã đúc kết một cách chua chát trong lời tự trào mà nghe
nhƣ trộn lẫn nƣớc mắt: "Nghĩ mình lại gớm cho mình..."
Tất nhiên, ở thơ tự trào, đối tƣợng cảm xúc là chính bản thân nhà thơ. Có khi hoàn
toàn là tự cƣời mình, tự dè bỉu và bài thơ có cái giọng nhƣ là "ngây ngô khờ khạo", có cái vẻ
gàn, có lẫn chút ngông. Nhƣng thƣờng là tự trào trộn lẫn với tự thán:
- Nhập nhèm bốn mắt tranh mờ tỏ
(Than già - Nguyễn Khuyến )
- Năm nay tớ đã bảy mƣơi tƣ,
Rằng lão, rằng quan tớ cũng ừ.
(Đại lão - Nguyễn Khuyến)
Ở Tri Xƣơng, số lƣợng bài thơ tự trào chiếm tỷ lệ rất cao: 23,4%. Tú Xƣơng vừa trào
phúng vừa than thân, than nghèo, than ốm...Bởi bên trong thấm thía trữ tình nên bên ngoài
tuy là trào lộng nhƣng là cái giọng trào lộng chua chát đắng cay:
Ta phải trang xong cái nợ ta,
Lẽ đâu chịu nợ mãi ru mà ?
Đƣờng con bu nó một năm một,
Tính tuổi nhà thầy ba lẻ ba !...
(Than thân chưa đạt)
Từ chỗ trào lộng về bản thân mình, may mà đỗ chút tú lài để khỏi bị gọi là "cha cu",
là bố cu, dù cơm áo vẫn còn phải nhờ vả vào vợ:
"No ấm chƣa qua vành mẹ đĩ,
Đỗ đành may khỏi tiếng cha cu."
65

nhà thơ thƣờng đi đến chỗ chán ngán dù vẫn giữ cái trào lộng tỉnh bơ, nghe nhƣ chơi chơi
vậy :
Thằng bé con con đã chán cù
(Hỏi mình)
Cái việc Tú xƣơng mặc áo bông giữa mùa nóng nực xảy ra chỉ một lần hay khá nhiều
lần khó ai biết đƣợc, nhƣng ai đọc đến hai câu thơ tự trào:
"Một tuồng rách rƣới con nhƣ bố,
Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng"
mà khổng ứa nƣớc mắt thƣơng xót cho gia cảnh của ông ? Bài thơ tự hào Quan tại gia lại có
cái giọng khác, là cái giọng nói đùa cho vui, tuy nhiên, chính cái sự tƣởng tƣợng, đúng hơn là
bịa chuyện ở đây tự nó rất đáng buồn, đáng thƣơng, có cái gì luẩn quẩn đầy bi kịch !
Từ những khảo sát và phân tích trên, chúng tôi kết luận rằng: Tự trào như một đặc
trưng của thơ Nôm Đường luật thế kỷ XIX, có quan hệ chặt chẽ với đặc điểm thời đại. Đối
tƣợng cảm xúc của thơ tự trào thƣờng vƣợt ngoài phạm vi bản thân nhà thơ. Nó vừa hƣớng về
bản thân vừa hƣớng về cuộc sống xã hội, vừa hƣớng nội mà vừa hƣớng ngoại . Nó là sự trộn
hòa giữa cá nhân và thế hệ, thời đại. Đây là lối khôi hài nhằm kìm bật lên tiếng cƣời, mà đằng
sau và bên trong nụ cƣời là nƣớc mắt, là nỗi xót xa, ngậm ngùi, chua chát...Cũng do vậy, khi
nhà thơ muốn dùng chén rƣợu để tự trào, vừa say vừa tự trào, thì không chỉ là muốn tìm chút
tri âm trong chén rƣợu, uống rƣợu để say, để quên đi nỗi buồn nào đó của riêng mình, mà là
say, là buồn cho đời, cho vận nƣớc, là qua chén rƣợu, cái
66

chếnh choáng hơi men, nhà thơ tìm gặp những ƣớc mơ, những khát vọng.
Phải chăng vì vậy mà :
Chén rƣợu say rồi nói chủa say
(Tự thuật - Nguyễn Khuyến)
Những lúc say sƣa cũng muốn chừa
Muốn chừa nhƣng tính lại hay ƣa,
Hay ƣa nên nỗi không chừa đƣợc,
Chừa đƣợc nhƣng mà cũng chẳng chừa.
(Chừa rượu - Nguyễn Khuyến)
Tóm lại, nếu đề tài, chủ đề thiên nhiên tuy có diễn biến theo từng thời đại, từng nhà
thơ (Phạm Thái: yêu cái đẹp vĩnh cửu, Nguyễn Thị Hinh: mang nỗi buồn hoài cổ, cô đơn,
Nguyễn Khuyến: gắn với tình quê hƣơng đất nƣớc xóm làng...) nhƣng vẫn là một đề tài vĩnh
cửu; đề tài vịnh sử, vịnh truyện, chủ đề triết lý nhân sinh, khẳng định đạo lý và khí tiết nhà
Nho chứng tỏ sự gần gũi với văn chƣơng trung đại thì đề tài tự vịnh, tự thuật, tự trào và chủ
đề tâm sự, khát vọng cá nhân chủ yếu tạo đƣợc nét khu biệt của thể loại thơ Nôm Đƣờng luật,
nhất là ở thế kỷ XIX. Tuy nó vẫn thấp thoáng Đƣờng thi khi nói về tình yêu, thân phận phụ
nữ, tuổi xuân, tình bằng hữu... nhƣng mặt cơ bản của nó có vé gần gũi với các nhóm đề tài,
chủ đề trong tục ngữ, ca dao nhƣ cuộc sống cá nhân với nợ nần, vay mƣợn, nghèo giàu, sang
hèn, nhƣ tình cảm vợ chồng, bè bạn, anh em...Với tỷ lệ đáng kể là 41,3% , đề tài chủ đề này
mang giá trị nhân bản sâu sắc, góp phần khẳng định rằng văn chƣơng Việt Nam thế kỷ XIX
là thuộc phạm trù văn chƣơng hậu trung đại (hạ trung đại), dự báo cho thế kỷ XX đi vào văn
chƣơng hiện đại.
67

2.4. Đề tài cuộc sống xã hội, đất nước, con người và chủ đề yêu nước
Nếu chủ đề nổi bật của thơ Nôm Đƣờng luật nửa đầu thế kỷ XIX là vận mệnh nhân
dân, vận mệnh con ngƣời, sự phát hiện ra con người - cá nhân đối lập với con ngƣời của quan
hệ phong kiến Nho giáo, thấm nhuần ở đây là tƣ tƣởng nhân bản, nhân đạo, nhân văn thì ở
nửa sau thế kỷ, nó đã chủ yếu tập trung bộc lộ chủ đề vận mệnh dân tộc và tƣ tƣởng cốt lõi
của nó là tƣ tƣởng yêu nƣớc.
2.4.1. Trƣớc hết, chúng tôi nhận thấy rằng chủ đề yêu nƣớc đƣợc thể hiện qua đề tài
con người trung nghĩa, con người nghĩa khí, đặc biệt xuất hiện vào nửa sau thế kỷ XIX. Tất
nhiên, do hạn chế của tƣ tƣởng con ngƣời thời phong kiến, nhất là ở tầng lớp sĩ phu, chữ
trung ở đây cũng còn có nghĩa là trung với vua ở một vài tác giả, tiêu biểu là Phan Thanh
Giản:
- Thƣớng vua mến chúa phải ra đi...
Bịn rịn làm chi thói nữ nhi ?
Muôn dặm trƣờng an mau trở lại,
Vào chầu bệ ngọc hả lòng ni.
(Từ biệt)
Lăm trả ơn vua, đền nợ nƣớc,
Đành cam gánh nặng, ruổi đƣờng xa.
(Tuyệt cốc)
Chín tầng lồng lộng giữa trời thinh,
Phụng chỉ ra đi buổi sứ trình.
(Đi sứ nước Pháp)
68

Hay Bùi Hữu Nghĩa gởi gắm tâm sự qua mấy bài thơ vịnh sử:
- Nửa phận thƣơng vua, phần mến bạn,
Chia lòng vấn vít giống đƣa thoi.
(Thân Bao Tư tống Ngũ Tử Tư)
- Chín ơn tơ tóc so dày mỏng,
Ngàn dặm non sông cảm ít nhiều
(Ngũ Tứ Tư xuy tiêu)
- Chén rƣợu anh em keo gắn chặt,
Tấm son tôi chúa đuốc chong cao.
(Quan Công thất thủ Hạ Bì)
Và cả Nguyễn Đình Chiểu khi “Từ biệt cố nhân”:
Ngƣời dễ muốn chi nƣơng đất khách,
Trời đà khiến vậy mến vua xa.
hay khi gởi gắm nỗi lòng ở nhân vật Đƣờng Nhập Môn (Ngư Tiều y thuật vấn đáp):
Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông (...)
Chừng nào Thánh đế ân soi thấu,
Một trận mƣa nhuần rửa núi sông.
Nhƣ vậy ở đây có sự gặp gỡ với thể loại Tuồng về kiểu đề tài nhƣng vẫn có sự khác
biệt vì con người trung nghĩa ở thơ Nôm Đƣờng luật là con người cụ thể - lịch sử. Đề tài này
đƣợc nhiều tác giả ở Nam Bộ ƣa thích và nó chủ yếu phát triển mạnh ở Nam Bộ, nơi cuộc
chiến đấu chống thực dân Pháp diễn ra sớm nhất. Nhà thơ tâm đắc nhất với kiểu đề tài này có
lẽ là Đồ Chiểu. Có khi nhà thơ tự thuật:
Đành bày trung nghĩa theo tro bụi,
69

Hoài của giang sơn trút biển đông.


(Tự thuật, II)
Có khi gởi gắm trong lời thơ vịnh sử :
Ngựa nghĩa còn cƣu nhà nƣớc cũ,
Làm ngƣời bao nỡ phụ quê hƣơng.
(Ngựa Tiêu sương)
Đặc biệt là nhà thơ có cả mộy chùm 12 bài "Thơ điếu Trương Định" và một chùm 10
bài "Thơ điếu Phan Tòng", tổng cộng là 24/32 bài thuộc đề tài - chủ đề này, chiếm tỷ lệ 75%.
Huỳnh Mẫn Đạt có mấy bài thơ: Vịnh lão ngưu, Chó già, Cây dừa giúp ngƣời đọc
hiểu đƣợc ông cũng là con ngƣời trung nghĩa, một nhà Nho có sĩ khí và dƣờng nhƣ có nhiều
cảm tình với các sĩ phu yêu nƣớc chống Pháp:
Xót ngƣời mệnh bạc trong trầm nhạn.
Ngó mõng, trông mƣa, biết bấy nhiêu.
(Cảnh trời chiều)
Nhìn chung, qua những bài thơ thể hiện hoặc đề cao khí tiết những con ngƣời trung
nghĩa:
"Làm ngƣời trung nghĩa đáng bia son
Đứng giữa càn khôn tiếng chẳng mòn"
có thể thấy rõ thêm sức mạnh của thể thơ Đƣờng luật và góp phần khẳng định giá trị thể loại:
Thơ Nôm Đƣờng luật không chỉ phản ánh hiện tƣợng lịch sử - xã hội mà còn khẳng định sự
bất biến của đạo lý làm ngƣời trƣớc những biến đổi của đời, những nhố nhăng của thực tại xã
hội. Qua âm vang của một thời đại, ngƣời đọc cảm nhận đƣợc những vấn đề muôn
70

thuở chứ không chỉ là cách ứng xử một thời của con ngƣời nho sĩ. Do vậy, trong thơ văn yêu
nƣớc chống Pháp ở Nam Bộ, có những bài thơ khuyết danh ai điếu cho những con ngƣời
trung can vì nƣớc quên mình nhƣ Điếu Thống Linh, Điếu Đốc binh Kiều lại sống mãi trong
lòng nhân dân. Đáng chú ý là những bài này thƣờng quan niệm chữ trung là trung với nước:
-Lịch sử đáng nêu cụ Thống Linh,
Trung can vì nƣớc đã quên mình...
(Điếu Thống Linh)
Vì nƣớc quên mình bởi chữ trung
(Điếu Đốc binh Kiều)
Phải chăng đây là một bƣớc thay đổi đáng kể về tính chất qui phạm ở kiểu đề tài con
ngƣời trung nghĩa ? Đậm nhạt ở nhiều bài thơ đã có tƣ tƣởng chống lại mệnh lệnh của vua, đã
có cái giọng phê phán, phỉ báng triều đình. Chẳng hạn ở thơ Huỳnh Mẫn Đạt, qua một bài
vịnh sử :
Ngƣời trên nhà Hán đi đâu lẫn,
Xui trận ôn nhu tới dẹp loàn.
(Chiêu Quân qua ải)
Hay ở thơ Nguyễn Đình Chiểu :
Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này ?
(Chạy giặc)
Một biểu hiện khác của tấm lòng những con ngƣời yêu nƣớc và nghĩa khí là sự căm
ghét bọn Việt gian bán nƣớc, bọn quan lại sâu dân mọt nƣớc, có khi bằng con đƣờng đả kích
trực tiếp, bằng bút chiến, có khi bằng thơ trào phúng. Từ những lời phê phán nhẹ nhàng mà
thấm thía nhƣ
71

ở bài Mắng đứa dụ hàng (khuyết danh) đến những lời nguyền rủa, chửi mắng không thƣơng
tiếc nhƣ ở bài Con tôm:
Loài ở lộn bùn cũng mộ râu,
Ngo ngoe nỏ biết mốc gì đâu.
(Khuyết danh)
hoặc một "Con tôm" khác:
Chẳng biết mình va cứt lộn đầu
(Nguyễn Văn Lạc)
Nhà thơ Học Lạc này đã thẳng thừng gọi chúng là lũ chó chết trôi:
Sống thì bắt thỏ, thỏ kêu rêu,
Thác thả dòng sông, xác nổi phều...
(Chó chết trôi)
Có thể nói hình tƣợng "chó", " chó chết trôi" chính là sự sáng tạo đắc ý nhất của nhà
thơ Nôm Đƣờng luật nửa sau thế kỷ XIX chỉ bọn Việt gian :
Nhuốm, vện, khoang, vằn, vô số chó,
Ra tuồng đắc ý chạy nhôn nhao.
(Hà thành hiểu vọng - Khuyết danh)
Quả thật đây là phản ứng của những nhà thơ, là nho sĩ mà cũng là bậc trƣợng phu,
trung nghĩa, anh hùng trƣớc cái đáng ghét, đáng phỉ nhổ. Rất dễ hiểu, "Bởi chưng hay ghét
cũng là hay thương" !
Phan Văn Trị, trong cuộc bút chiến với Tôn Thọ Tƣờng lại là một tấm gƣơng tiêu biểu
cho quan niệm "Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, đâm mấy thằng gian bút chẳng tà"
(Đồ Chiểu). Kiêng từ góc độ thể loại, thơ bút chiến của nhóm sĩ phu yêu nƣớc và thơ Tôn
Thọ Tƣờng
72

đã chứng tỏ rằng thơ Nôm Đƣờng luật có khả năng nghị luận, một đặc trƣng
đáng chú ý. Về điểm này, nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên đã chỉ ra rằng: "Cái
mới của Phan Văn Trị, cái "thế giới riêng kín đáo " của nhà thơ như Biélinski
gọi, là ở chỗ, dường như là lần đầu tiên trong văn chương Vi ệt Nam, ông đã
dùng thơ luật Đường - một thể loại thơ qui phạm và cung đình - vào một cuộc
bút chiến chính trị mà vẫn giữ nguyên vẹn, đúng hơn, đã nh ờ thế mà nâng cao
chất thơ của nó" [46: 233] "Cuộc bút chi ến chính trị bằng thơ đã tăng cư ờng
chết chính luận cho thơ: thơ đã bi ến thành thơ thời sự, thơ luận điểm... mang
đầy đủ ý nghĩa." [46: 234]
2.4.2. Thật ra, chủ đề yêu nƣớc đƣợc thể hiện một cách đa dạng, có thể
xoay quanh đề tài quê hƣơng đ ất nƣớc hay hiện thực cuộc sống xã hội. Khi là
nỗi đau buồn của con ngƣời trƣớc cảnh đất nƣớc sa vào tay gi ặc, và con
ngƣời trơ trọi, lẻ loi ngay chính trên quê hƣơng mình. Cu ốc kêu cảm hứng
của Nguyễn Khuyến, Lạc đƣờng của Trần Tế Xƣơng là vậy. Lại có khi lòng
yêu nƣớc đƣợc gởi gắm kín đáo trong ƣớc mơ thi ết tha về tƣơng lai của dận
tộc:
(...) Cũng mu ốn sống thêm dăm tuổi nữa,
Thử xem trời mãi thế này ƣ ?
(Đại lão - Nguyễn Khuyến)
Nhà thơ thƣờng là con ngƣ ời ƣu thời mẫn thế, mang tâm trạng u uất của
ngƣời dân mất nƣớc, trằn trọc, băn khoăn trăn trở; và thời gian của đêm tối
trời nhƣ vô t ận:
- Chợt tỉnh trông ra ngỡ sáng lòa,
Đêm sao đâu mãi th ế ru mà ?
73

(Đêm dài- Tú Xƣơng)


Nằm nghe tiếng trống: trống canh ba,
Vừa giấc chiêm bao chợt tỉnh ra.
yêu nƣớc còn gắn với thƣơng dân, có khi gián tiếp qua thơ vịnh sử:
Thấy dân đói rét nghĩ mà thƣơng,
Ngồi ở trên khung sửa mối giƣờng.
(Dệt gấm - Phan Thanh Giản)
nhƣng thƣờng là trực tiếp:
Một góc cảm thƣơng dân nƣớc lửa,
Đền Nam trụ cả há lung lay.
(Thời cuộc - Bùi Hữu Nghĩa)
Nguyễn Hữu Huân vịnh "Cây bắp" phải chăng cũng là muốn tỏ chút lòng yêu nƣớc
thƣơng dân:
Luống chịu ba trăng trấn cõi bờ,
Hiềm vì thƣơng chút chúng dân thơ.
Tóm lại, với tỷ lệ cao nhất: 55,3%, đề tài chủ đề này góp phần tạo nên nét khu biệt thể
loại về mặt nội dung trong so sánh với Đƣờng thi (thơ cách luật), gắn bó chặt chẽ với lịch sử
đất nƣớc, vận mệnh dân tộc, bộc lộ quan niệm nghệ thuật về con ngƣời vừa có nét truyền
thông vừa có nét cụ thể - lịch sử, là con ngƣời trung nghĩa, nghĩa khí nhƣ một phẩm chất bất
biến của đạo lý làm ngƣời và trung với nƣớc, thƣơng dân, căm ghét Việt gian, bọn xu thời
hãnh tiến...mà đậm nét nhất là thơ bút chiến - nghị luận và trào phúng.
74

KẾT LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG ĐỀ TÀI, CHỦ ĐỀ


Hệ thống đề tài thơ Nôm Đƣ ờng luật thế kỷ XIX rất phong phú, đa
dạng, mang tính lịch sử. Nếu so sánh với giai đoạn trƣớc Hồ Xuân Hƣơng, có
thể thấy rõ "thơ ngôn chí" qua đ ề tài vịnh Sử, vịnh Truyện, triết l ý nhân sinh,
khẳng định đạo l ý và khí ti ết nhà Nho ở thế kỷ XIX đã gi ảm nhiều. Ngƣợc
lại, thơ trào phúng, thơ có đ ề tài về số phận cá nhân và đ ất nƣớc ngày càng
nhiều. Đó là thơ t ự vịnh, tự thuật, rự trào. Đó là thơ có ch ủ đề về số phận phụ
nữ, con ngƣời tài hoa, những tâm sự và nhu cầu hƣởng thụ cá nhân, nh ững
khát vọng chân chính của con ngƣời, bộc lộ rõ vào đầu thế k ỷ XIX. Nhƣ v ậy,
có thể nói, thơ Nôm Đƣờng luật lúc này vừa tiếp tục khuynh hƣớng hƣớng
nội, đi tìm cái tôi, cái b ản ngã, vừa triển khai khuynh hƣớng hƣớng ngoại,
phản ánh thời đại, lịch sử dân tộc.
75

CHƢƠNG BA HỆ THỐNG HÌNH TƢỢNG KHÔNG GIAN - THỜI GIAN


Trong giáo trình Thi pháp học(*), Trần Đình Sử viết: "Tác phẩm nghệ thuật là một thế
giới - thế giới nghệ thuật. Đã là thế giới thì có con người tồn tại và vận động trong không
gian và thời gian." (tr. 38). Nhƣ vậy, theo chúng tôi hiểu, nếu quan niệm hình tƣợng nghệ
thuật là "Sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh, thể hiện và cải tạo hiện thực theo quy luật
của nghệ thuật." [86: 98] thì khi nói về hình tƣợng - tức hình tƣợng nghệ thuật - là nói về
hình tƣợng tác giả, hình tƣợng nhân vật (hay hình tƣợng con ngƣời), hình tƣợng không gian
và hình tƣợng thời gian. Trong yêu cầu của một luận án, nhất là xét từ ý nghĩa thi pháp thể
loại, chúng tôi giới hạn việc khảo sát ở hình tƣợng không gian - thời gian.
3.1. Hình tượng không gian
Là hình tƣợng bên trong của hình tƣợng nghệ thuật, hình tượng không gian hay không
gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian, nên mang tính chủ quan. Nó là yếu tố quan
trọng góp phần xác lập thế giới nghệ thuật của thể loại, và tất nhiên, "các yếu tố của hình
tượng chỉ có ý nghĩa trong thể giới nghệ thuật của nó." [86: 202] "Sự miêu tả, trần thuật
trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, điển ra trong trường nhìn nhất

(*)
Giáo trình Thi pháp học, PGS, PTS Trần Đình sử biên soạn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm TP. Hồ Chí
Minh xuất bản, 1993.
76

định, qua đó thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính, bộc lộ toàn bộ quảng tính của nó: cái này
bên cạnh cái kia, liên tục, cách quãng, tiếp nối, cao, thấp, xa, gần. rộng, dài, tạo thành viễn
cảnh nghệ thuật." [86: 109]. Nghiên cứu hình tƣợng không gian của thơ Nôm Đƣờng luật thế
kỷ XIX, có thể tìm thấy quan niệm về thể giới, chiều sâu cảm thụ của nhà thơ đồng thời của
một giai đoạn văn học hậu trung đại. Nó cũng sẽ góp phần cho thấy tính độc đáo, đặc trƣng
nghệ thuật của thể loại thơ Nôm Đƣờng luật. Và cũng nhƣ ở nhiều thể loại khác, ngoài không
gian vật thể, còn có không gian tâm tưởng: không gian của cảm xúc, của hồi tƣởng, của ƣớc
vọng... Ở đây cũng có nhiều lớp không gian. Có không gian vụ trụ, không gian lữ thứ nhƣ ở
Đƣờng thi và Đƣờng luật Hán, không gian thiên nhiên vừa gần gũi vừa khác biệt với Đƣờng
thi. Đặc biệt là sự xuất hiện của không gian đời thường: Không gian cá nhân, không gian sinh
hoạt con ngƣời, không gian xã hội nông thôn, không gian xã hội đô thị..., thứ không gian
dƣờng nhƣ thƣa vắng trong bát cú và tứ tuyệt của Đƣờng thi.
3.1.1 Không gian vũ trụ
Chịu ảnh hƣởng sâu nặng của triết học phƣơng Đông, đặc biệt là của Đạo, các nhà thờ
Đƣờng luật thƣờng xuất phát từ một điểm nhìn giống nhau và có tƣơng tự một trường nhìn:
hoặc là từ mặt đất nhìn lên trời cao, nhìn mây, nhìn trăng, nhìn các vì sao..., hoặc là từ trên
đèo cao, đỉnh núi, phóng tầm mắt nhìn xa, nhìn xuống... Do vậy, không gian trong thơ Nôm
Đƣờng luật trƣớc hết cũng là không gian vũ trụ, thứ không gian cao và xa. Bởi vì nhà thơ
quan niệm rằng vẻ đẹp thâm thúy nhất là sự sống của vạn vật trong trời đất, cảm thức không
gian của nhà thơ Đƣờng luật là cái không gian hướng
77

ngoại ấy. Bao giờ nhà thơ cũng khát khao hòa nhập, giao tiếp với vụ trụ, có khát vọng chiếm
lĩnh không gian. Nói cách khác, không gian nghệ thuật trong thơ Nôm Đƣờng luật vẫn mang
tính chất mở, có xu hƣơng giãn nở đề đƣa tâm hồn con ngƣời vƣợt không gian chật chội của
đời thƣờng. Với mục đích chiếm lĩnh không gian vũ trụ, con ngƣời thƣờng thích lên cao và đi
xa, tạo nên trong thơ không gian cao - viễn nhƣ trong Đƣòng thi. Diều này một lần nữa chứng
tỏ thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX vẫn thuộc về nền văn chƣơng trung đại Việt Nam. Tiêu
biểu nhất là không gian nghệ thuật thơ bà Huyện Thanh Quan, với bài Qua đèo Ngang:
Lom khom dƣới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Đúng nhƣ Gs.Lê Trí Viễn đã chỉ ra thứ không gian thẩm mỹ trong văn chƣơng trung
đại: "Không gian thẩm mỹ cũng là không gian bao quát, trời đất là vô cùng, cánh bằng chín
vạn dặm, phải dứng lên cao mà thu vào mắt mình vũ trụ, là "đăng cao", "đăng lâu", nhìn xa
bốn mặt...." [93: 4] Có thể nói chiều cao là ƣu thế nổi bật trong thơ Đƣờng luật, là chiều cao
có giá trị nhất. Nhà thơ từ sự cảm nhận về cái hữu hạn của đòi ngƣời, bao giờ cũng khát khao
về một cái vô hạn. Khao khát đƣợc "lên cao" vì càng lên cao càng bao quát, càng chiếm lĩnh
đƣợc không gian rộng lớn, để hòa điệu cùng vũ trụ.
Trong không gian vũ trụ, con ngƣời ở vị trí trung tâm, là tâm đối xứng của một không
gian vũ trụ mang tính chất đối xứng. Nhà thơ có thể nhìn lên trời cao để thấy:
- Một trái trăng thu chín mõm mòm,
Nảy vừng quế đỏ, đỏ lòm lom.
78

(Vịnh trăng - Hồ Xuân Hƣơng)


- Trời thu xanh ngắt mấy từng cao.
(Thu vịnh - Nguyễn Khuyến)
- Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt.
(Thu điếu - Nguyễn Khuyến)
- Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt.
(Thu ẩm - Nguyễn Khuyến)
Nhà thơ có thể dõi trông bốn phƣơng trời :
Mây giăng ải bắc trông tin nhạn,
Ngày xế non Nam bặt tiếng hồng.
(Ngư Tiều Y Thuật vấn đáp - Nguyễn Đình Chiểu)
Và phải chăng cũng vì con ngƣời ở vị trí trung tâm của một không gian mênh mông
vô hạn nên con ngƣời càng cảm nhận cái thân phận bé nhỏ, cô độc của mình ?
Qua khảo sát, chúng tôi thấy: để thể hiện một không gian vũ trụ vô hạn vô cùng, nhà
thơ còn có nhiều biện pháp:
- Một là nhờ sự tổ chức ngôn từ đối nhau trong liên 2 và liên 3: dƣới núi - bên sông,
viễn phố - cô thôn, trƣớc giận - trên không... có khi kết hợp đối trong một dòng thơ và đối
trong cùng liên thơ:
Cây biếc dƣới trên che tán rợp,
Mây vàng cao thấp thắng bành ngồi.
(Núi Con Voi - Phạm Thái)
79

Nhƣng chủ yếu là tận dụng yếu tố đối lập ở liên 2 (cặp thực) để tạo nên một không gian vũ
trụ. Chẳng hạn:
Trăng lòa ải bắc nhàn chinh bóng,
Thụ quạnh trời Nam quạ đút mồi.
(Từ giã mẹ đi sứ - Trịnh Hoài Đức)
Hai là tạo ra trong bài thơ thứ âm thanh từ xa xa vang vọng lại nên bao giờ cũng nghe
văng vẳng:
- Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn.
(Tự tình, II- Hồ Xuân Hƣơng)
- Văng vẳng tai nghe tiếng chích chòe.
(Về hay ở - Nguyễn Khuyến)
- Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì.
(Bỡn bà lang khóc chồng - Hồ Xuân Hƣơng)
- Văng vắng bên tai tiếng khóc chồng.
(Dỗ người đàn bà chồng chết - Hồ Xuân Hƣơng)
- Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom.
(Tự tình, I - Hồ Xuân Hƣơng)
- Tiếng ốc xa đƣa vẳng trống dồn.
(Chiền hôm nhớ nhà - Nguyễn Thị Hinh)
Nhƣ vậy là, từ góc độ không gian, nhà thơ Nôm Đƣờng luật cũng tạo đƣợc "khoảng
cách của tâm lý" (Psychical Distance) để đƣa đến cho ngƣời đọc cái mỹ cảm. "Nghệ thuật
ngoài việc cắt xén chọn lọc ra, thời gian và không gian cũng là yếu tố để tạo nên khoảng
cách, những đối tượng hay sự việc càng xưa
80

xa càng dễ đưa đến mỹ cảm, cũng giống người lữ hành khi mới đến một địa phương xa lạ dễ
có nhiều mỹ cảm." [83: 51]
* Không gian lữ thứ: nhƣ là phái sinh của không gian vũ trụ, do vậy, cũng là một thứ
không gian nghệ thuật trong thơ Nôm Đƣờng luật. Tất nhiên, không gian này gắn liền với
những bƣớc chân lƣu lạc của nhà thơ, con ngƣời đang làm thân lữ thứ. Cùng với những cuộc
viễn trình của nhà thơ, xuất hiện một cảm quan nghệ thuật, khác với cảm quan nghệ thuật
trong ca dao truyền thống, ở ca dao truyền thống, mặc dù mỗi một bƣớc đƣờng lƣu lạc là một
bƣớc đi trong nỗi nhớ, nỗi buồn:
- Anh đi anh nhớ quê nhà...
- Ai đi muôn dặm non sông,
Để ai chất chứa sầu đong vơi đầy.
Nhƣng con ngƣời vẫn chƣa cảm thấy thật sự cô đơn. Ở thơ Nôm Đƣờng luật, cũng
nhƣ ở Đƣờng thi, con ngƣời một mặt rất ngại xa quê cũ nhƣng mặt khác lại thích viễn du,
thích làm thân lữ khách, nhƣ là một hƣớng đi tự do của những tâm hồn phiêu lãng tìm kiếm
sự đồng điệu giữa ngƣời với thiên nhiên tạo vật mặc dù ở nơi xứ lạ quê ngƣời, cảnh lữ thứ tha
hƣơng bao giờ cũng làm lòng ngƣời quặn thắt:
- Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sƣơng sa khách bƣớc dồn.
Kẻ chốn Chƣơng - đài ngƣời lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.
(Chiều hâm nhớ nhà - Nguyễn Thị Hinh)
- Dừng chân đứng lại: trời, non, nƣớc,
81

Một mảnh tình riêng ta với ta.


(Qua đèo Ngang - Nguyễn Thị Hinh)
- Một thuyền cầm hạc một mình ta,
Đƣờng hiểm gian nan khắp trải qua.
(Đi thuyền qua Thoại Sơn - Bùi Hữu Nghĩa)
Tuy nhiên, có thể thấy khá rõ không gian lữ thứ trong thơ Nôm Đƣờng luật có khi vẫn
khác Đƣờng thi vì nó có sự gần gũi với cuộc sống. Lữ khách ra đi muôn dặm vì nhiệm vụ
phải đi hơn là cái ƣớc mơ phiêu lãng, nhƣ ở thơ Phan Thanh Giản:
- Đƣờng mây cƣời tớ ham rong ruối,
Trƣớng liễu thƣơng ai chịu lạnh lùng.
(Gởi vợ)
- Nghìn trùng biển cả sang Tây địa,
Muôn dặm đƣờng xa thẳng đế kinh.
(Đi sứ nước Pháp)
- Muôn dặm đƣờng xa mỏi tới kinh,
Bao nhiêu non nƣớc bấy nhiêu tình.
(Qua rừng vắng)
* Nếu không gian vũ trụ rất gần với Đƣờng thi, không gian lữ thứ chủ yểu vẫn âm
vang Đƣờng thi thì không gian thiên nhiên nhƣ là một hình tƣợng độc đáo, mang đặc trƣng
của thơ Nôm Dƣờng luật thế kỷ XIX. Ở đây vừa có thứ không gian thiên nhiên của thơ
Đƣờng lại vừa có thứ không gian thiên nhiên của ca dao, dân ca. Nó vừa vô hạn vừa hữu hạn,
vừa có chiều sâu
82

tƣ duy vừa có sự gần gũi thân quen, bình dị. Có thể đây là không gian vật lý mang tầm vóc vũ
trụ nhƣ ở thơ Hồ Xuân Hƣơng:
- Từng trên tuyết điểm phơ đầu bạc,
Thớt dƣới sƣơng pha đƣợm má hồng.
Gan nghĩa giãi ra cùng nhật nguyệt,
Khói tình cọ mãi với non sông.
(Đá Ông Chồng Bà Chồng)
Hay nhƣ không gian thiên nhiên ở các bài : Đèo Bà Dội, Hang Cắc Cớ, Chùa Hƣơng,
Kẽm Trống, Hang Thánh Hóa... Có thể đây là không gian vật lý cụ thể, bình dị nhƣ ở làng
quê trong thơ Nguyễn Khuyến, với qui mô vừa phải. Nhƣng dù đƣợc xây dựng với những
quy mô khác nhau, nó cũng thƣờng là mấy nét chấm phá đơn sơ nhƣ một bức tranh thủy mặc,
gây đƣợc ấn tƣợng và gợi liên tƣởng ở ngƣời đọc. Cũng có thể ở đây còn là thứ không gian
phiếm chỉ, tƣơng ứng với những tâm trạng, tình cảm chung rất phổ quát của con ngƣời, đồng
thời tính cá thế hóa trong sự miêu tả dƣờng nhƣ chỉ thấp thoáng. Do vậy ngƣời đọc có thể
thay những địa danh này bằng những địa danh khác mà nội dung tình cảm trong bài thơ vẫn
không thay đổi. Chẳng hạn:
Bƣớc tới đèo Ngang bóng xế tà.
(Qua đèo Ngang - Nguyễn Thị Hinh)
Mặt khác, không gian thiên nhiên lại cũng có thể là thứ không gian xác định, rất cụ
thể như thiên nhiên nông thôn vùng đồng chiêm trũng trong thơ Nguyễn Khuyến . Ở đây, tính
cá thể hóa trong sự miêu tả khá rõ nét:
Ao thu lạnh lẽo nƣớc trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. (Thu điếu )
83

- Lƣng giậu phất phơ màu khói nhạt,


Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
(Thu ẩm )
Cũng nhƣ vậy ở thơ Phạm Thái, dù vẫn còn lẫn lộn chút màu sắc ƣớc lệ:
Cây biếc dƣới trên che tán rợp,
Mây vàng cao thấp thắng bành ngồi.
(Núi Con Voi)
hoặc trộn hòa với điển cố, điển tích trong thơ Huỳnh Mẫn Đạt:
Rêu xanh lém bém râu Bành tổ,
Đá mọc do de mép Tử Nha.
(Gành Mỏm )
3.1.2.Không gian đời thƣờng.
Trong thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX, bên cạnh thứ không gian tĩnh nhƣ trong thơ
trữ tình bác học, lại có thứ không gian động nhƣ trong ca dao. Có thể là không gian tâm
trạng, không gian sinh hoạt, hay không gian xã hội (nông thôn, đô thị.)...
Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định là trong thơ cổ không có chỗ cho không gian cá
nhân, hay đúng hơn là không gian cá nhân đồng nhất, hòa tan trong không gian vũ trụ, bởi thế
giới trong thơ cổ trung đại là thế giới của sự hòa điệu. Ngay trong thơ Đƣờng luật chữ Hán
thời trung đại nhƣ của đại thi hào Nguyễn Du, vẫn chƣa thấy sự hiện hữu của một không gian
cá thể với đúng ý nghĩa của nó. Tuy nhiên, ở thơ Nôm Đƣờng luật thể kỷ XIX, có thể thấy
nhiều nhà thơ đã phác thảo đƣợc không gian cá nhân cá thể. Khác với Đƣờng thi, con ngƣời ở
đây, trƣớc cái cao rộng của vũ trụ, vẫn không bị mất
84

hút đi hay nhỏ bé lại với Hồ Xuân Hƣơng, Nguyễn Khuyến chẳng hạn, con ngƣời lại thấy
mình lớn lên với khả năng, sức mạnh thi gan cùng vũ trụ, nhƣ một thách đố với vũ trụ, chứng
tỏ sự hiện hữu của con ngƣời mới khiến cho vũ trụ có ý nghĩa:
- Trơ cái hồng nhan với nƣớc non.
(Tự tình, II - Hồ Xuân Hƣơng)
- Gan nghĩa giãi ra cùng nhật nguyệt,
Khối tình cọ mãi với non sông.
(Đá Ông Chồng Bà Chồng - Hồ Xuân Hƣơng)
- Dẫu già đã hẳn hơn ta chửa ?
Chống gậy lên cao bƣớc chửa chồn.
(Chơi núi An Lão - Nguyễn Khuyến)
Khi tạo dựng một không gian vũ trụ, nhà thơ cổ trung đại muốn đem không gian nội
tâm con ngƣời giao hòa, tƣơng thông cùng thế giới. Tuy nhiên, ở đây, trong thơ Nôm Đƣờng
luật thế kỷ XIX, trọng tâm của mối quan hệ đã chuyển. Một mặt, mỗi khi nhà thơ lên cao,
càng mang tâm trạng lẻ loi, cô độc giữa một thế giới nhiều thay đổi, mỗi cảnh vật giờ đây có
tâm sự riêng, cũng có sự bận bịu riêng của chúng:
Nghĩ lại bực cho dòng nƣớc chảy,
Đi đâu mà chảy cả đêm ngày ?
(Chơi núi Long Đội, I - Nguyễn Khuyến)
Mặt khác, lời thơ bao giờ cũng chứng tỏ sự quan tâm đến sức sống bắt diệt của con
ngƣời, biểu hiện trong ý thức chiến thắng thiên nhiên, đề cao khả
85

năng con ngƣời trƣớc vũ trụ, điều mà sang thế kỷ XX, nhà thơ Hồ Chí Minh sẽ tiếp tục phát
triển.
* Nổi bật hơn trong thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX là không gian sinh hoạt. Đây
chính là không gian tồn tại của ngƣời dân bình thƣờng trong cuộc sống. Nó có xu hƣớng thu
hẹp, dồn nén con ngƣời, tạo cảm giác bấp bênh về sự sống của con ngƣời. Đọc bài thơ
"Thương vợ" của Tú Xƣơng, ngƣời đọc tiếp cận không gian của "mom sông", "quãng vắng",
"đò đông"... và trong không gian này, con ngƣời phụ nữ mảnh mai phải "lặn lội thân cò",
phải "eo sèo mặt nước", phải chịu cảnh "năm nắng mười mưa". Trong không gian sinh hoạt
đời thƣờng, chi tiết, hình ảnh đƣợc miêu tả cụ thể và có khi tỉ mỉ. Nhà thơ có thể sử dụng bút
pháp tả thực hay tả chân, nhƣ ở thơ Hồ Xuân Hƣơng, trong Bài "Đánh đu" chẳng hạn, dù
hiểu theo nghĩa tƣờng minh hay nghĩa hàm ẩn (ở đây là nghĩa lấp lửng) vẫn tạo đƣợc một
không gian sinh hoạt:
...Ngƣời thì lên đánh, kẻ ngồi trông,
Trai du gối hạc, khom khom cật,
Gái uốn lƣng ong, ngửa ngửa lòng.
Đây cùng chính là không gian cuộc sống với những biến chuyển lịch sử của nó.
Chẳng hạn, ở thơ Nguyễn Đình Chiểu, là không gian chạy giặc mang dấu ấn lịch sử:
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất tổ bầy chim dáo dát bay,
Bến Nghé của tiền tan bọt nƣớc,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.
86

Trong không gian sinh hoạt đời thƣờng, ngƣời đọc thƣờng bắt gặp những địa danh cụ
thể:
- Núi Sập sấm rền vang tiếng muỗi,
Vàm Nao nƣớcc chảy đứt đuôi xà.
(Đi thuyền qua Thoại Sơn - Bùi Hữu Nghĩa)
- Quai Mễ Thanh Liêm đã lở rồi,
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi.
(Nước lụt Hà Nam - Nguyễn Khuyến)
Trong thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng, Gs.Ts. Ni-cu-Lin từng phát hiện cả
một thế giới đồ vật và cắt nghĩa đó là thế giới sinh hoạt dân gian. Thế giới đồ vật ấy không
chỉ là mang đậm sắc thái dân tộc mà còn hết sức dân dã. Những con ốc nhồi, bánh trôi nước,
cảnh đánh du, cái quạt, quả cau, miếng trầu, quả mít... có thể nói đã ùa vào thơ Nôm Xuân
Hƣơng và từ đó tỏa ra những ánh sáng chói lòa, gay gắt, rực rỡ, sinh động. Trong chuyên đề
"Thơ Hồ Xuân Hương", Gs Lê Trí Viễn đã chỉ ra rằng hệ thống đề tài, hình tƣợng không gian
trong thơ Hồ Xuân Hƣớng là thực tế cuộc sống Việt Nam, là bám sát thực tại, kể cả những sự
vật tầm thƣờng, thô lậu: "Từ vật nhỏ mọn không đâu, cái quạt, chiếc bánh trôi, miếng trầu
đến những phong cảnh to rộng của thiên nhiên, cảnh Hương Tích, cảnh chợ Trời..." [91: 41].
Nếu không gian nghệ thuật trong Đƣờng thi là thứ không gian rộng mở thì trong thơ Nôm
Đƣờng luật thế kỷ XIX, nhà thơ có xu hƣớng thu hẹp không gian, nhƣ ở Xuân Hƣơng chẳng
hạn. "Thiên nhiên trong thơ bà có những cảnh không thiếu cao rộng : cảnh núi đá chồng
chập, cảnh chợ Trời bao la, dường lên Kim Bảng xa xôi, đèo Ba Dội khúc khuỷu, hang chùa
Hương sâu
87

thắm... Bà cố ý thu hẹp tất cả thành những cảnh con con, (...) bắt phong cảnh thu hình theo
cái chủ quan nhỏ hẹp của bà (...) ở cảnh đá Chồng vĩ dại, nó chỉ thấy một sự cọ xát của hai
làn da. Cảnh chùa Hương mà Chu Mạnh Trinh nói ra đến vô biên của tôn giáo, Xuân Hương
chỉ thu lại trong cái cảm giác nồng ấm thầm kín của "giọt nước hữu tình " [91: 47]
Không chỉ ở thơ Hồ Xuân Hƣơng mà ở nhiều bài thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX,
"phong cảnh thiên nhiên biến thành phong cảnh nhân tạo (...) phong cảnh trở thành những
sự vật quen thuộc, hơn thế, thân mật..." [91: 48].
* Vào nửa sau thế kỷ XIX, xuất hiện rõ nét trong thơ Nôm Đƣờng luật hình tƣợng
không gian xã hội nông thôn, thành thị.
Tiêu biểu cho hình tƣợng không gian xã hội nông thôn là trong thơ Nguyễn Khuyến,
nhà thơ của làng quê Việt Nam. Có thể nói Nguyễn Khuyến ở góc độ này đã góp phần tích
cực và quan trọng cho sự chuyển hóa một bài thơ Đƣờng Trung Quốc thành một bài thơ
Đƣờng luật rất Việt Nam. Cái không gian vũ trụ cao siêu, nhàn dật, xa xôi, không gian thiên
nhiên với cúc, tùng, hoa, điểu... đã chuyển xuống dần và tiếp cận với không gian sinh hoạt
làng quê. Trong thơ Nôm Đƣờng luật thể kỷ XIX, không chỉ có một mình nhà thơ "độc
chƣớc", "độc tọa", "độc túy", "độc tỉnh",... nhƣ trong Đƣờng thi và Đƣờng luật Hán, mà còn
nhiều lớp ngƣời và mối quan hệ khác trong xã hội nông thôn nhƣ bạn bè, họ mạc, bà con xóm
giềng:
- Đã bấy lâu nay bác tới nhà,
(...) Bác đến chơi đây ta với ta.
(Bạn đến chơi nhà - Nguyễn Khuyến)
Anh em làng xóm xin mời cả,
88

Xôi bánh, trâu heo cũng gọi là.


Chú Đáo bên làng lên với tớ,
Ông Từ xóm chợ lại cùng ta.
(Lên lão - Nguyễn Khuyến)
Có thể nói cả một bức tranh xã hội nông thôn Việt Nam thế kỷ XIX qua thơ nôm
Đƣờng luật đã hiện ra rõ mồn một, mang đƣờng nét của những bức ký họa :
Phần thuế quan Tây , phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Sớm trƣa dƣa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
(Chốn quê - Nguyễn Khuyến)
Trong không gian này, ngay cả âm thanh cũng là thứ âm thanh cụ thể, gần gũi, là âm
thanh thật sự của cuộc sống chứ không còn là ƣớc lệ. Nhƣ tiếng trống làng trong thơ Nguyễn
Khuyến:
Ình ịch đêm qua trống các làng,
Ai ai mà chẳng rƣớc xuân sang.
(Khai bút)
Tiếng trống "ình ịch" là tiếng trống cụ thể của đêm giao thừa, phát ra từ mặt trống ẩm
khí xuân, dẫm hơi nƣớc của vùng đồng chiêm trũng, nghe trầm nặng, mơ hồ nhƣ phát lên từ
lòng đất. Không chỉ là tiếng trống, tiếng pháo và nhiều âm thanh cụ thể khác, mà hình ảnh,
màu sắc cũng rất cụ thể chứ không còn ƣớc lệ:
Ngoài lũy nhấp nhô cò cụ Tổng,
89

Cách ao lẹt đẹt pháo thầy Nhang.


(Khai bút -Nguyễn Khuyến)
Tiêu biểu cho hình tượng xã hội đô thị là trong thơ Tú Xƣơng với tất cả vẻ ồn ào phức
tạp, náo động, đủ thứ âm thanh, màu sắc, với đủ các hạng ngƣời. Đây là cái nhốn nháo của
trƣờng thi Nam Định với sĩ tử, quan trƣờng, quan Sứ, mụ đầm:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trƣờng miệng thét loa.
Lọng cắm rợp trời quan Sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
(Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu)
Không chỉ là bức tranh phó thị mà thực sự là bức tranh xã hội khi nhà thơ tóm bắt
đƣợc cái thần của nó:
- Cô hàng bán sách lim dim ngủ,
Thầy khóa tƣ lƣơng nhấp nhổm ngồi.
( Than đạo học )
- Sao bằng đi học làm thầy phán,
Tối rƣợu sâm banh sáng sữa bò.
(Chữ nho)
Bức tranh xã hội thật sâu sắc không chỉ vì nó phản ánh tỉnh trạng thị dân hóa một
cách chóng vánh của đời sống Việt Nam muôn thuở mà còn ghi nhận sự đảo lộn của đạo lý
làm ngƣời:
Ở phố hàng Song thật lắm quan !
Thành thì đen kịt, Đốc thì lang.
90

Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố,


Đậu lạy quan xin nọ chú Hàn.
(Phố hàng Song)
Nói tóm lại, trong cách tổ chức hình ảnh, hình tƣợng không gian thơ Nôm Đƣờng luật
thế kỷ XIX, nhà thơ có thể thiên về nét khái quát để tạo dựng không gian vũ trụ nhƣ ở Đƣờng
Thi, kết hợp biện pháp tổ chức ngôn từ đối nhau hay tạo thứ âm thanh từ xa vang vọng lại để
tạo nên mỹ cảm, tạo dựng không gian lữ thứ, không gian thiên nhiên âm vang Đƣờng thi mà
rất Việt Nam. Nhà thơ lại có thể thiên về nét cụ thể để tạo dựng không gian đời thƣờng:
không gian sinh hoạt xã hội hay vào sâu trong không gian tâm trạng cá nhân cá thể.
3.2. Hình tượng thời gian
Hình tượng thời gian hay thời gian nghệ thuật là hình thức nội tại của hình tƣợng
nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Từ điển Thuật ngữ Văn học cho biết: "Cũng như
không gian nghệ thuật, sự miêu tả, trần thuật trong văn học nghệ thuật bao giờ cũng xuất
phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian. Và cái được trần thuật bao giờ cũng diễn ra
trong thời gian, được biết qua thời gian trần thuật. Sự phối hợp của hai yếu tố thời gian này
tạo thành thời gian nghệ thuật, một hiện tượng ước lệ chỉ có trong thế giới nghệ thuật. " [86:
219] Nghiên cứu thời gian nghệ thuật trong thơ Nôm Đƣờng luật thế kỉ XIX, có thể nắm bắt
đƣợc sự cảm thụ thời gian của con ngƣời Việt Nam, ít nhất là tầng lớp nhà nho Việt Nam
trong thời kì lịch sử này: nửa thế kỷ trƣớc và sau khi thực dân Pháp xâm lƣợc. Tiếp cận đƣợc
kiểu thời gian
91

nghệ thuật riêng ở đây chính là hiểu đƣợc một nét đặc trƣng nghệ thuật của thể loại. Bởi vì
"Trong thế giới nghệ thuật, thời gian nghệ thuật xuất hiện nhƣ một hệ quy chiếu có tính tiêu
đề đƣợc giấu kín để miêu tả đời sống trong tác phẩm, cho thấy đặc điểm tƣ duy của tác giả.
Gắn với phƣơng thức, phƣơng tiện, mỗi thể loại văn học có kiểu thời gian nghệ thuật riêng.
"[86: 219 - 220]
Qua khảo sát thời gian nghệ thuật trong thơ Nôm Đƣờng luật thế kỉ XIX, chúng tôi
nhận thấy có thời gian vũ trụ tuần hoàn theo chu kỳ, lại có thứ thời gian của đời thƣờng: thời
gian tâm trạng, thời gian sinh hoạt, thời gian sự kiện lịch sử, xã hội .
3.2.1. Thời gian vũ trụ tuần hoàn theo chu kỳ.
Trong "Tư tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa", nhà nghiên cứu S.Lisevich đã chỉ ra
rằng: "Thế giới của người Trung Quốc cổ xưa là được hiểu như một thế giới thông với toàn
vũ trụ, và vì vậy các vòng tuần hoàn của thời gian lịch sử giao hỗ với nhau trong ý thức với
các vòng tuần hoàn của vũ trụ." [41: 290] Nhƣ vậy là chính sự tuần hoàn vũ trụ đã chi phối
cảm thức thời gian của ngƣời Trung Quốc cổ trong đó có những nhà thơ đời Đƣờng. "Việc
tồn tại nhiều chuỗi tuần hoàn trong mô hình thời gian của người Trung Quốc là điều không
còn nghi ngờ gì nữa." [41: 290] Nhƣng cảm thức thời gian nầy cũng không phải chỉ riêng ở
ngƣời Trung Quốc. I.S.Lisevich nhận định: "Sự cảm thụ thời gian như một chuỗi các vòng
tuần hoàn khép kín gắn liền với đặc trưng tồn tại của các tộc người lâm nông nghiệp thuộc
cac giai đoạn phát triển sơ khai có ở Đông và Tây." [41: 289] Đúng vậy, cuộc sống con
ngƣời nông nghiệp kéo dài hàng chục thế kỷ ở phƣơng Đông đã dẫn đến
92

cảm thức thời gian ấy. Công việc lao động nông nghiệp ngày xƣa buộc họ phải tuân thủ trời
đất mà trong đó mỗi sự vật, quá trình điều có tính chu kỳ, chẳng hạn thấy mặt trời, mặt trăng
đều mọc rồi lặn, lại mọc tròn rồi khuyết, lại tròn...Thời gian vũ trụ tuần hoàn theo chu kỳ, vì
vậy, là thứ thời gian thiên nhiên qui phạm hóa, mang tính ƣớc lệ rất cao. Chẳng hạn, mùa
xuân trong thơ Hồ Xuân Hƣơng vẫn là một biểu hiện cụ thể của thứ thời gian này:
- Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại.
(Tự lình, II)
- Chơi xuân có biết xuân chăng tá ?
(Đành du)
- Đá kia còn biết xuân già dặn .
(Đá Ông Chồng Bà Chồng)
Ở đây "xuân" không chỉ là mùa xuân của đất trời, có khi chỉ cho thời gian một năm,
mà còn là biểu tƣợng của tuổi xuân, tuổi trẻ. Trong thơ bà Huyện Thanh Quan,"tinh sương" là
để chỉ cho hình tƣợng thời gian tuần hoàn theo chu kỳ một năm, bởi ngƣời xƣa tin rằng mỗi
năm sao đi hết một vòng và sƣơng xuống một lần. Nhà thơ Nôm Đƣờng luật đã cảm nhận
thời gian với những đại lƣợng lớn mang tính vĩnh cửu. Thử khảo sát bài "Thăng long hoài
cổ":
... Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương,
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu dài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
93

Nƣớc còn cau mặt với tang thƣơng.


Nghìn năm gương cũ soi kim cổ,...
Những xưa, cũ, nay, nghìn năm, kim cổ... đều đƣợc đo bằng năm chứ không phải là
ngày, tháng nhƣ trong thơ hiện đại. Tinh sương, thu, tuế nguyệt cũng vậy, không còn mang
tính cụ thể mà ý nghĩa của nó là thể hiện thời gian vĩnh cửu dài dằng dặc. Tất nhiên là thời
gian này có quan hệ biện chứng với không gian. Ở bài thơ Thăng Long hoài cổ, nhà thơ đã
vận dụng sự cộng hƣởng giữa không gian "cuộc hí trường" với biết bao thay đổi chóng mặt
của lịch sử với thời gian "mấy tinh sương" thấm thoắt, giữa thời gian "tuế nguyệt" với không
gian dâu bể "tang thương"... Có thể nói xuyên suốt trong tám câu thơ, cứ đọng mãi và đầy ắp
cảm giác thời gian, sự thay đổi của không gian. Nhờ vậy mà cái ý vị hoài cổ, hoài niệm
dƣờng nhƣ càng thêm đậm đặc và tâm trạng nhà thơ càng thêm lạc lõng, cô đơn. Ở bài thơ
Thu vịnh, Nguyễn Khuyến cũng vận dụng sự cộng hƣởng của cảm giác thời gian với cảm
nhận không gian, tạo nên sự thống nhất thời không gian:
Mấy chùm trƣớc giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nƣớc nào.
Thời gian vũ trụ tuần hoàn theo chu kỳ luôn có sự liên hệ tƣơng thông với không gian
vũ trụ. Đây là chỗ khẳng định thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX vẫn thuộc về nền văn chƣơng
trung đại. Thời gian này đi theo đường thẳng có tính chất hướng tới với mũi tên thời gian chỉ
có một chiều, nhƣ một dòng chảy liên tục, không ngƣng nghỉ, tuần hoàn theo chu kỳ và con
ngƣời có cảm giác bị cuốn đi theo dòng trôi của nó. Chịu ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Phật giáo,
nhà thơ quan niệm thời gian của đời người chẳng qua chỉ là một khoảnh
94

khác (ksana) trong bánh xe luân hồi vô thỉ vô chung của dòng thời gian vĩnh cửu. Chịu ảnh
hƣỏng của tƣ tƣỏng Đạo giáo, nhà thơ quan niệm thời gian của "đời người cũng chỉ là một
mắt khâu trong dòng sinh hóa miên miên bất tận". (Trang Tử - dẫn theo 27: 134).
Chính vì luôn cảm nhận thời gian của đời ngƣời chỉ là một khoảnh khắc tạm bợ nên
nhà thơ luôn gởi gắm ƣớc mơ, khát vọng của mình vào thứ thời gian vĩnh cửu, trƣờng tồn:
Tháng ngày thấm thoắt tựa chim bay.
(Than già - Nguyễn Khuyến)
3.2.2.Thời gian tâm trạng và thờii gian sinh hoạt đòi thƣờng:
Bên cạnh thời gian tuần hoàn theo chu kỳ, trong thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX, có
một bộ phận thời gian mang rõ nét cá tính nhà thơ, thứ thời gian diễn ra theo cảm hứng của
chủ thể. Đây là thứ thời gian đựợc hiện thực hóa chứ không ƣớc lệ hóa, bởi nó đã kết tinh
đƣợc dáng nét, sắc màu, khí vị rất riêng, chỉ riêng nhà thơ nhìn thấy và cảm nhận. Ở những
hình tƣợng thời gian nầy, dù sao vẫn còn nét tƣợng trƣng nhƣng chủ yếu là mang nét cụ thể,
chính xác của tâm trạng nhà thơ.
Khảo sát thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX, chúng tôi thấy thời gian tâm trạng có mấy
đặc điểm sau:
Một là, thời gian đi với tốc độ chậm khi con ngƣời hồi tƣởng kỷ niệm, chìm sâu trong
ký ức về một thời xa xƣa, sống trong hoài niệm hay trong khắc khoải đợi chờ. Nhất là khi ký
ức, tâm trạng đƣợc thể hiện ở liên 2 và liên 3, nghĩa là những liên thơ có đối, thƣờng gợi sức
liên tƣởng cho ngƣời đọc.
95

Hai là, xuất hiện phổ biến thời gian quá khứ. Trong ý niệm, thậm chí ngay trong tiềm
thức của mọi nhà thơ, cái gì ngày xƣa cũng đẹp. Tất nhiên, đây cũng là tâm lý chung của con
ngƣời : cái gì đang cầm trong tay, cái hiện tại dƣờng nhƣ không quý, không có giá trị bằng
cái mình đã đánh mất, đã qua đi, cái quá khứ hay cái mình khao khát, ƣớc mơ mà chẳng bao
giờ đƣợc, cái lý tƣởng. Tuy nhiên, ở thế kỷ XIX, với tính chất chuyển mình của nó, cả một
vùng quá khứ dƣờng nhƣ có thêm cái sắc màu lung linh của cái đẹp. Đặc điểm này đậm nét
nhất có lẽ là trong thơ bà Huyện Thanh Quan:
- Nhớ nƣớc đau lòng con quốc quốc,
Thƣơng nhà mỏi miệng cái gia gia.
(Qua đèo Ngang)
Sự xuất hiện thời gian quá khứ thƣờng gắn bó chặt chẽ với một công thức, cái phƣơng
thức thể hiện, miêu tả thời gian là đem đối lập quá khứ với hiện tại. Nó thật sự không những
giúp cho việc thể hiện những hoài niệm, những suy tƣởng đạt hiệu quả cao mà còn giúp tạo
nên cảm giác về sự thay đổi, sự vận động của dòng thời gian, góp phần tạo nên cái dâu bể của
cuộc đời, một cảm thức rất phổ biến, rất đậm nét trong tâm lý nhà thơ cả ở nửa đầu và nửa
sau thế kỷ XIX.
Ba là, đã xuất hiện thứ thời gian tâm trạng riêng - chung, nghĩa là vừa có cái không
khí, cái hơi thở, cái cảnh sắc chung của thời đại, cuộc sống, của cả một thể hệ mà vừa mang
dấu ấn của một mảnh tâm tình rất riêng. Đọc bài thơ "Tự Trào" của Phạm Thái, ngƣời đọc
vừa cảm nhận cái chung: thời ly loạn, sự thay đổi nhanh chóng các đời vua, vừa cảm nhận cái
riêng: nỗi buồn
96

nản đến phẫn uất, đến phải chửi thề của một chàng trai còn quá trẻ mà đã long đong duyên
phận, đã vỡ tan cả một trời lý tƣởng :
Năm bảy năm nay những loạn ly,
Cũng thì duyên phận, cũng thì thì.
Ba mƣơi tuổi lẻ là bao nả,
Năm sáu đời vua khéo chóng ghê !
Một tập thơ dày ngâm sảng sảng,
Vài nai rƣợu kếch ních tì tì.
Chết về tiên bụt cho xong kiếp,
Đù ỏa trần gian sống mãi chi ? Đọc bài thơ "Than mùa hè" của Nguyễn Khuyến, một
mặt ngƣời đọc cảm nhận đƣợc cái không khí một đêm mùa hè oi bức ở đồng quê Bắc bộ
nhiều ngƣời từng nếm trải, không khí chung của một thời đại, những tháng ngày nhân dân
sóng trong cảnh ngột ngạt, luôn đợi chờ, mong ngóng, khao khát một trang sử mới của đất
nƣớc, mặt khác cảm nhận trong nỗi xót xa lời đồng vọng của một trái tim khắc khoải rắt riêng
ở nhà thờ Tam nguyên Yến Đổ:
... Tiếng dế kêu thiết tha,
Dàn muỗi bay tơi tả.
Nỗi ấy ngỏ cùng ai ?
Cảnh này buồn cả dạ.
* Bên cạnh lớp thời gian tâm trạng, có thời gian sinh hoại đời thường. Đây là thứ
thời gian đã mang dấu ấn rất riêng của từng cảnh ngộ cụ thể, gắn
97

với mỗi con ngƣời cụ thể, hay những con ngƣời cùng cảnh ngộ, xót xa một nỗi niềm chung
nhƣ trong thơ Hồ Xuân Hƣơng:
Năm thì mƣời họa hay chăng chớ,
Một tháng đôi lần có cũng không.
(Kiếp lấy chồng chung)
Bùi Hữu Nghĩa khóc vợ trong nỗi xót xa nuối tiếc:
Đã chẵn ba năm mới đặng thăm.
(Bài thơ đề nhà mồ vợ)
Hồ Xuân Hƣơng lại khóc chồng trong niềm tiếc thƣơng vô hạn, và lẫn trong đó là
những giọt nƣớc mắt khóc cho chính mình, cho số phận hẩm hiu, bắt hạnh; trong lời thơ nghe
chừng đầy hụt hẫng:
Hăm bảy tháng trời là mấy chóc,
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tƣờng ôi !
(Khóc ông phủ Vĩnh Tường)
Nguyễn Khuyến có nhiều câu thơ trong đó thời gian xuất hiện nhƣ trong nhật ký:
Nay đà năm mƣơi có lẻ ba.
Năm lăm ông cũng lão đây mà.
Ta chung tuổi, mới một trăm hai.
Năm nay tớ đã bảy mƣơi tƣ.
Tính tuổi xuân thu trăm lẻ chục, Nửa về phần bác, nửa phần tôi.
3.2.3. Thời gian sự kiện lịch sử, xã hội.
98

Nếu lớp thời gian tuần hoàn theo chu kỳ xuất hiện nhƣ một chứng cớ khẳng định thơ
Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX vẫn thuộc về nền văn chƣơng trung đại, là chiếc cầu nối kết với
tƣ duy nghệ thuật phƣơng Đông cổ - trung đại, thời gian tâm trạng nhƣ là lớp thời gian thứ
hai góp phần khắng định nó nằm gọn trong phạm trù hậu trung đại, rất đậm nét ở hai thế kỷ
XVIII và XIX, thì thời gian sự kiện lịch sử, xã hội chính là lớp thời gian thứ ba mang tính
chất cận đại hay là nền móng cho tính hiện đại, đậm nét vào nửa sau thế kỷ XIX. Thời gian ở
đây gần nhƣ trùng với thời gian trần thuật của bài thơ, nghĩa là kể về cái đang diễn ra ở thời
hiện tại, mang tính thời sự. Nó gắn liền với tình hình đất nƣớc Việt Nam, số phận ngƣời dân
thời thuộc Pháp, do vậy có tính chất cụ thể, xác định và giúp ngƣời đọc trực cảm vấn đề xã
hội. Chẳng hạn câu thơ quen thuộc mở đầu bài "Chạy giặc" (Nguyễn Đình Chiểu)
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây.
Quả vậy, nhà thơ mù lòa Đồ Chiểu, qua câu thơ thể hiện cụ thể thời gian sinh hoạt, sự
kiện này, nhƣ vẽ ra trƣớc mắt ngƣời đọc một cách sinh động, giúp ngƣời đọc trực cảm cảnh
sinh hoạt đang bình thƣởng bỗng trở nên bất thƣờng, bỗng tan tác, chia lìa của ngƣời dân Việt
Nam. Trong lớp thờii gian này, đặc biệt, gắn bó với hoàn cảnh đất nƣớc Việt Nam những năm
cuối thế kỷ XIX chúng tôi tìm thấy cái motif thời gian hoặc motif không - thời gian nhƣ "trời
chiểu", "đêm dài", "đêm trường", "đêm tối", "đêm hè", "đêm mùa hạ"... Bùi Hữu nghĩa (1807
- 1872), trong bài "Qua Hà Âm cảm tác" đã mở ra và khép lại bài thơ của mình:
Mịt mịt mây đen kéo tối sầm,
………………………………
99

Dắng dỏi đêm trƣờng tiếng dế ngâm.


Xét từ góc độ hình ảnh thì hai câu thơ trên mang hình ảnh ƣớc lệ, là những biểu trƣ
ng, nhƣng xét từ góc độ thờii gian thì đây là một một thời gian mang tính xã hội, thời đại.
Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã có những buổi chiều nhƣ giăng kín nỗi đau xót, ngậm ngùi,
trăn trở và mong ngóng:
Chiều chiều lại nhớ đến chiều chiều,
Cám cảnh giang sơn biết bấy nhiêu.
(Tự thuật, III)
Nhà thơ Huỳnh Mẫn Dạt (1807-1883) giữa "Cảnh trời chiều" ngỡ có thể "vui thú" với
vƣờn quê, nhƣng khi chợt ngắm:
Loi thoi bóng ác khẳm thuyền tiều
thì bất chợt cảm thấy:
Xót ngƣời mệnh bạc trong trầm nhạn,
Ngó mống trông mây biết bấy nhiêu.
Đó là những đêm hè Tú Xƣơng dẫu muốn "Ngủ quách sự dời thây kẻ thức" vẫn không
ngủ đƣợc bởi vì:
Trời không chớp bể chẳng mƣa nguồn,
Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn.
Đó là những "Đêm dài" mà ánh bình minh chỉ chập chờn trong giấc mộng, trong khát
khao:
Sực tỉnh trông ra ngỡ sáng lòa,
Đêm sao đêm mãi thế ru mà ?
Lạnh lùng bốn bể ba phần tuyết,
Xao xác năm canh một tiếng gà.
100

Đó là những đêm tối, tối mãi, những đêm thắm lạnh và lẻ loi đâu đây
"một tiếng gà" nghe chừng "xao xác" quá ! đó là nh ững đêm con ngƣời Việt
Nam nhƣ Tú Xuơng ng ồi thâu đêm cô đ ộc bên ngọn đèn leo lét nghe tr ống
điểm cầm canh từng tiếng một và không gi ấu đƣợc nỗi tƣơng tƣ; ch ắc hắn là
nhớ đến một "người bạn phương tr ời" ?:
Tƣơng tƣ l ọ phải là mƣa gió,
Một ngọn đèn xanh, trống điểm thùng.
(Nhớ bạn phương tr ời)
Đó là những đêm mà trong gi ấc ngủ chỉ toàn mộng mị, là giấc chiêm
bao để con ngƣời gửi trong đó nhi ều mơ ƣớc:
Bỗng thấy chiêm bao th ấy những ngƣời,
Thấy nguôi nói nói l ại cƣời cƣời.
Tỉnh ra lại tiếc ngƣời trong mộng,
Mộng thế thì bằng tỉnh mấy mƣơi.
(Chiêm bao - Tú Xƣơng)
Tất nhiên, trong b ối cảnh đặc biệt của xã hội Việt Nam thì cái motif
thời gian này có một ý nghĩa lịch sử nhất định của nó ở thời điểm nửa sau thế
k ỷ XIX : đất nƣớc từng mảnh rơi vào tay gi ặc và các phong trào yêu nƣ ớc,
khởi nghĩa, kháng chi ến nhìn chung đều thất bại.
KẾT LUẬN CHUNG
Một là, sự tồn tại của hình tư ợng không - thời gian vũ tr ụ góp phần
khẳng định thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX vẫn thuộc về phạm trù văn
chƣơng trung đại. Thể thơ có ƣu th ế trong vi ệc thể hiện không gian vũ tr ụ
101

nhờ việc tổ chức ngôn từ đối nhau trong liên 2 và liên 3, nh ất là ổ liên 2. Nhà
thơ cũng thƣờng sử dụng âm thanh vang vọng từ xa để tạo nên không gian vũ
trụ, phù hợp với "khoảng cách tâm lý", trong đó hình tƣ ợng không gian lữ thứ
nhƣ một phái sinh từ không gian vũ trụ.
Hai là, không - thời gian sinh ho ạt đời thƣờng, không - thời gian tâm
trạng cá nhân và không - thời gian gắn vói hi ện thực xã hội vừa thực sự đánh
dấu giai đoạn hạ trung đại (hoặc hậu trung đại) vừa là những yếu tố dự báo
cho nền văn chƣơng hiện đại.
102

CHƢƠNG BỐN: CẤU TRÚC BÀI THƠ VÀ NHỊP ĐIỆU CÂU THƠ

"Mỹ học Mác - Lê nin" từng chỉ ra rằng trong nghệ thuật nói chung,
"nội dung dần dần được hình thức hóa và trầm lắng thành những cấu trúc thể
loại." [71: 290] Xét từ bình diện thể loại, cũng có m ột sự thống nhất không
thể tách rời một cách tuyệt đối giữa nội dung và hình thức. Nội dung th ể loại
chỉ tồn tại bằng hình th ức thể loại và qua hình th ức thể loại. Những yếu tố
hình thức thể loại bao gi ờ cũng phụ thuộc lẫn nhau và ph ụ thuộc vào nội dung
thể loại, bởi xét cho cùng thì . "Thể loại là những quy tắc tổ chức hình thức
tác phẩm ứng với những loại hình nội dung ngh ệ thuật của nó". [86: 167] Do
vậy, về hình thức thể loại, chúng tôi nghĩ vấn đề khảo sát càng có tầm mức
quan trọng đáng kể. Trƣớc hết, ở chƣơng này, chúng tôi sẽ khảo sát cấu trúc
bài thơ Nôm Đƣờng luật.
4.1 Cấu trúc bài thơ Nôm Đường luật thất ngôn bát cú
Chúng tôi nghĩ r ằng khảo sát cấu trúc m ột bài thơ ở hình thức thể thất
ngôn bát cú có th ể hiểu đƣợc cấu trúc bài thơ Đƣờng luật.
4.1.1 Tổng quát
Bàn về cấu trúc trong k ết cấu văn bản thơ trữ tình, "Lý luận văn học"
có gợi ý: "Trong thơ trữ tình, mối quan hệ đầu kết đặc biệt quan trọng. Mở
đầu bao giờ cũng có tác d ụng đưa ngư ời đọc vào một không khí, m ột trạng
thái cảm xúc nhất định. Dù tả cảnh gợi tình, hoặc khoan thai kể chuyện, hoặc
103

bâng khuâng g ợi hứng, hoặc đột ngột bàng hoàng, m ở đầu của thơ thường có
tác dụng gây ấn tượng quan tr ọng. Phần kết thường gắn với quan niệm về sự
trọn vẹn, hoàn tất, vừa gợi lại phần thể hiện ở trên, vừa tạo dư âm trong lòng
người đọc. Người xưa thường cho rằng cái hay một bài thơ thư ờng đọng ở
câu kết. Hoặc thu lại, hoặc mở ra, tạo nên Ý mênh mang. Ở đây bố cục bài
thơ phải xử lý mối quan hệ giữa lời thơ hữu hạn và ý thơ, tình thơ vô cùng".
[74, II: 112 - 113]
Theo chúng tôi đây là mối quan hệ mở - kết hay phá - kết, là một đặc
điểm thi pháp thơ Đƣờng luật bát cú. Có thể là một hình ảnh, một chi ti ết hay
một sự kiện, . . . xuất hiện ở liên 1 đƣợc nhắc lại hoặc có một liên hệ nào đó
vói liên 4. Ch ắng hạn, ở bài "Tôn phu nhân qui Th ục" của Tôn Thọ Tường.
Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng,
…………………………………………….
Thà mắt lòng anh đ ặng bụng chồng,
Ở đây, "được bụng chồng" hô ứng với "vẹn chữ tòng".
Trong bài họa của Phan Văn Trị, cũng có được mối quan hệ mở - kết
hay phá - kết ấy:
Cài trâm sửa tráp vẹn câu tòng
…...………………………………….
Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng,
Ở bài thơ "Tạ người cho hoa trà", Nguyễn Khuyến mở:
Tết đến người cho một chậu trà
và "thúc kết" bằng hai dòng thơ có s ự hô ứng chặt chẽ với câu thơ trên,
làm thành bộ khung vững chắc của bài thơ:
104

Xem hoa ta chỉ xem bằng mũi,


Đếch thấy mùi hƣơng một tiếng khà.
Đây là những hô ứng trong thơ Hồ Xuân Hƣơng:
-Bốn cột khen ai khéo khéo trồng, (. . .)
Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không ! (Đánh đu)
-Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo ?(...)
Cảnh buồn thêm chán nợ tình đeo. (Chùa Quán Sứ)
-Một đèo, một đèo, l ại một đèo, (...)
Mỏi gói chồn chân vẫn muốn trèo. (Đèo Ba Dội)
Thậm chí, chúng tôi nghĩ r ằng sự lặp lại nguyên vẹn câu phá ở câu kết
cũng tạo nên sự hô ứng, chẳng hạn "Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi !"ở bài
"Khóc ông phủ Vĩnh Tường" (Hồ Xuân Hƣơng)
Nếu bài thơ bát cú nào không có đƣ ợc sự hô ứng nhƣ trên thì về mặt thi
luật, câu "phá" và câu " kết" vẫn "niêm" với nhau, tức vẫn có mối quan hệ mở
- kết, tạo nên sự hô ứng về mặt âm điệu. Nguyễn Thị Bích Hải trong "Thi
pháp thơ Đư ờng" nhận xét: "Bài thơ được dán (niêm) lại thành một vòng khép
kín như cái l ẽ "Chu nhi ph ục thủy" (đi vòng mà tr ở về điểm xuất phát) của
Dịch đạo. Đó cũng là một mô hình tiêu bi ểu của tư duy cầu tính Đông
phương". [27: 47]
Khi mở rộng phạm vi khảo sát đến tất cả 8 dòng thơ, chúng tôi th ấy:
Một là, không chỉ cặp câu 1 - 8 niêm nhau, mà các c ặp câu: 2-3, 4-5, 6-7
cũng niêm với nhau. Sự kết dính này góp phần tạo nên một khối rắn chắc, một
sự thống nhất, một cái bất biến. Phải chăng đó không th ể là một sự ngẫu
nhiên mà có ý nghĩa thi pháp th ể loại ?
105

Hai là, không chỉ cặp câu 1 - 8 lặp lại về luật phối thanh mà cứ cách ba
dòng thì có sự lặp lại ấy. Chúng tôi gọi đây là tính chất tuần hoàn hay chu
hoàn nhƣ trong triết Dịch. Ngoại lệ, chữ cuối của dòng 1 ph ải nhập vần nên
khác thanh với chữ cuối của dòng 5, còn nói chung thì dù bài thơ lu ật trắc
vần bằng hay luật bằng vần bằng, vẫn có sự lặp lại thanh đi ệu bằng trắc ở các
câu: 1-5, 2-6, 3-7, 4-8. Xin chứng minh qua m ột bài tiêu biểu: Qua đèo
Ngang (Bà Huyện Thanh Quan) có lu ật trắc vần bằng.

1 Bƣớc tới đèo Ngang bóng xế tà,.


T B T B

2 Cỏ cây chen đá, lá chen Hoa

B T B B

3 Lom khom dƣới núi tiều vài chú

B T B T

4 Lác đác bên sông rợ mấy nhà

T B T B

5 Nhớ nƣớc đau lòng con quốc quốc

T B T T

6 Thƣơng nhà mỏi miệng cái gia Gia

B T B B
7 Dừng chân đứng lại : trời, non, nƣớc,

B T B T

8 Một mảnh tình riêng ta với ta.

T B T B
106

Và một bài tiêu bi ểu khác: Chiều hôm nhớ nhà (Bà Huyện Thanh Quan) có
luật bằng vần bằng:
1 Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
B T B B

Tiếng ốc xa đƣa lẩn trống dồn.

T B T B
3 Gác mái ngƣ ông về viễn phố

T B T T

4 Gõ sừng mục tử lại cô thôn.

B T B B <

5 Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,

B T B T

6 Dặm liễu sƣơng sa khách bƣớc dồn.

B B T B

7 Kẻ chốn Chƣơng dài ngƣời lữ thứ,

T B T T

8 Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.

B T B B
Nhƣ vậy qua khảo sát, một cách tổng quát, thấy trƣớc hết cấu trúc bài thơ
Nôm Đƣòng luật thế k ỷ XIX vẫn bảo đảm cấu trúc chuẩn của bài Đƣờng thi:
"Bài thơ cũng là m ột cơ thể có sinh mệnh. Nó cũng, một cách tự nhiên, theo
lẽ đất trời - tức phải theo luật cân bằng âm dương của thiên địa, và những
quan niệm về những sự vận hành của nó theo lẽ dạo. Bài luật thi là một cấu
trúc chỉnh thế, một hệ thông tuần hoàn khép kín vói một "thái cực"
107

thường do "đề " đảm trách. Hệ thống đó được cấu trúc một cách có quy lu ật
với những quan hệ nội tại chặt chẽ đồng thời có mối quan hệ phong phú với
thế giới bên ngoài, tạo nên sự gợi ý sâu xa mà ta quen g ọi là "ý lại ngôn
ngoại". [27: 47]
Không chỉ có mối quan hệ phá - kết, có tính ch ắt chu hoàn, cấu trúc bài thơ
Nôm Đƣờng luật thế k ỷ XIX vẫn đảm bảo một chuẩn mực khác của thể Đƣờng
thi là tính đối ngẫu ở 4 dòng giữa bài thơ bát cú. Những hình thức khác
nhau của phép đối ngẫu đều có mặt: Công đối, lân đối, khoan đối, tá đối, ảo
đối, ... và t ự đối (tiểu đối).
Tuy nhiên, có th ể thấy rõ là tá đối và ảo đối, có thể coi nhƣ là khoan đối xuất
hiện khá phổ biến cùng với hình thức tự đối trong cùng một câu thơ.
Lý giải vì sao liên 2 và liên 3 c ần phải có đối, Lệ thần Trần Trọng Kim trong
"Việt Thi" cho rằng: "Những câu khái hay mạo và hợp hay kết đều cốt ở dùng
ý, mà dùng ý thì nói cho rõ, cho nên nh ững câu ấy đi lẻ không đối, những câu
thừa hay thực (tình) và câu chuy ển hay luận (cảnh) đều cốt dùng từ, mà dùng
từ thì cần lời nói cho dẹp cho nên những câu ấy phải đối ngẫu" [tr. 40]. Đồng
thời khi bàn về ý nghĩa thơ lu ật, ông nhận xét: "Thơ luật lấy tình và cảnh làm
tư liệu, lấy ý và từ làm sự vận dụng. Tình nhi ều, cảnh rõ, ý cao, tử đẹp là thơ
hay" [tr. 39]. Nhƣ vậy có thể nói phép đối ngẫu ở cặp thực và luận là một đặc
trƣng nghệ thuật bài bát cú. Chính nó đã góp ph ần cho vẻ đẹp đầy những liên
tƣởng bất ngờ, thật lung linh của thể thơ này. Hơn n ữa, chính ở dòng thơ có
đối, nhà thơ nhƣ là đang đ ứng trƣớc một thách đố của sự sáng tạo, thực hiện
chức năng thi ca nhƣ Jakobson t ừng chỉ ra rằng trong thổ "chức năng thi ca
chiếu nguyên tắc tương đương của trục tuyển lựa lên trục
108

của sự kết hợp" [34: 12]. Trong thơ, nguyên t ắc tƣơng đồng sẽ quyết định

nguyên tắc tiếp cận, việc lựa chọn các từ để tổ hợp lại phải dựa trên nguyên

tắc song hành, sóng đôi, âm ti ết đi với âm tiết, từ đi với từ, dài đi v ới dài,

ngắn đi với ngắn, ngắt đi với ngắt, ... để trong thơ chúng có th ể đối xứng với

nhau hoặc đối lập với nhau từng cặp. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong thơ

Đƣờng luật và nhất là trong th ất ngôn bát cú. Ở hai liên gi ữa bài thơ này, các

từ giữ tính cách tự trị khá quan trọng của chúng, nghĩa là có nh ững vị thế

đƣợc xác định và có những vai trò riêng. B ốn dòng gi ữa bài thơ ấy tạo nên

hai cặp cân đối cực kỳ nghiêm túc, bị bao quanh bởi hai dòng đ ầu và hai dòng

cuối, mà hai cặp này lại không có đ ối, có vẻ buông lỏng hơn về thi luật. Cấu

trúc tổng quát này không th ể là ngẫu nhiên, là vô cớ. Nó gợi chúng tôi nghĩ

đến một khối rắn chắc, một cái bất biến, một sự thống nhất giữa các m ặt đối

lập.

Trên kia, trong cái nhìn t ổng quát, chúng tôi đã tìm th ấy sự gần gũi gi ữa thơ

Nôm Đƣờng luật với Đƣờng thi và Đƣờng luật Hán ở bình diện cấu trúc bài

thơ. Ngoài ra, chúng tôi th ấy rằng thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX cũng có

nhiều sáng tạo, linh hoạt, có thể phá vỡ cách bố cục thông thƣờng ở bài bát

cú (Đề, thực, luận, kết). Hiện tƣợng tiêu biểu là sự chuyển hóa chức năng

của hai câu thực (liên 2) với hai câu luận (liên3) nhƣ Lu ận án sẽ khảo sát cụ

thể khi nghiên cứu đặc điểm của từng liên thơ một. Một hiện tƣợng tiêu bi ểu

khác là sự mở rộng phạm vi chức năng của cặp thực. Nhƣ Nguyễn Khuyến

qua bài thơ "Bạn đến chơi nhà" chẩng hạn. Nhà nghiên c ứu Nguyên An, trong

bài viết "Cái độc đáo trong cấu trúc nghệ thuật của bài Bạn đến chơi nhà "

nhận xét: " Tuy nhiên, nhìn vào cấu trúc ngh ệ thuật của toàn tác
109

phẩm (. . .) bài thơ có nhi ều nét rất mới. Sự đổi mới - sáng tạo mạnh dạn này

của cụ Tam Nguyên Yên Đổ được tập trung thể hiện ở chỗ: Cụ đã dồn ép và

mỏ rộng cấu trúc muôn thu ở của thơ Đường thất ngôn bát cú (. . . ) sáu câu ở

giữa bài thơ đều làm nhiệm vụ của hai câu thực, nghĩa là nêu rõ hoàn c ảnh

của bài thơ khi b ạn đến chơi nhà (...). T ừ sự dồn nén, tô dậm trên, câu k ết

duy nhất, câu cuối cùng của bài thơ được lung ra nh ỉ một bước nhảy nhẹ mà

ngụ ý sâu xa: "Bác đến chơi đây ta v ới ta" [I: 11].

4.1.2 Đặc điểm của liên 1 (cặp phá thừa)


Nhìn chung, nhà thơ thƣờng nêu ra một cái nhìn, một cảm tưởng tổng quát. Tuy
nhiên, tùy theo đề tài, chủ đề, cấu trúc của liên thơ này có thể có nhiều dạng.
* Nếu bài thơ có đề tài, chủ đề thiên nhiên: Qua khảo sát, chúng tôi có m ấy

nhận xét khái quát nhƣ sau :

Một là, mặc dù nêu tổng quát về cảnh vật thiên nhiên nhƣng dƣờng nhƣ câu thơ đã
thấp thoáng, đã hé mở tâm tình tác giả, thứ tâm tình gửi rất kín đáo, rất xa xôi trong cảnh.
Chẳng hạn, đó là cái nhuốm buồn, cái lãng đãng mà chập chùng nỗi nhớ trong bóng hoàng
hôn bảng lảng ở bài "Chiều hôm nhớ nhà":
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đƣa văng tr ống dồn.

(Bà Huyện Thanh Quan)


Hai là, nếu dùng phƣơng pháp so sánh tƣ ớng hỗ thì giữa câu "phá" (dòng 1)

và câu "thừa" (dòng 2) có liên quan v ới nhau nhƣng v ẫn khác nhau.


110

Có khi câu "phá" nêu khái quát trƣớc về không gian, th ời gian (thƣờng là cả
hai) và câu "thừa" đi vào cụ thể hơn, chi tiết hơn. Chẳng hạn:
- Bƣớc tới đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
(Qua đèo Ngang -Bà Huyện Thanh Quan)
- Ao thu lạnh lẽo nƣớc trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé t ẻo teo.
(Thu điếu - Nguyễn Khuyến)
- Cảnh tiên rực rỡ bỗng duyên đâu,
Biển lặng trời thanh mấy chiếc câu.
(Dạ nguyệt phiếm chu - Huỳnh Mẫn Đạt)
Ba là, có khi cả liên 1 (cặp đề) đều biểu hiện một cái nhìn tổng quan,
một cảm tƣởng bao quát. Ch ẳng hạn:
- Một trái trăng thu chín mõm mòm,
Nảy vừng quế đỏ, đỏ lòm lom.
(Vịnh trăng - Hồ Xuân Hƣơng)
- Đồi liễu ngàn mai cảnh quạnh hiu,
Chia hai Thu ận, Quảng một con đèo.
(Lên đèo Hải Vân - Huỳnh Mẫn Đạt)
- Mặt nƣớc mênh mông nổi một hòn,
Tiếng già nhƣng núi vẫn là non.
(Chơi núi An Lão - Nguyễn Khuyến)
Bốn là, có khi nhà thơ tìm ra m ột vài chi tiết đặc sắc trong cảnh thiên nhiên
để khởi hứng, đồng thời có một câu bày t ỏ thái độ, tâm trạng rất thoáng
111

qua và rất khái quát của mình trƣớc cảnh thiên nhiên. Ví d ụ:

- Tạo hóa khen thay khéo vẽ vời,

Dạm nên một răng núi Con Voi.

(Núi Con Voi - Phạm Thái)

- Một đèo, một đèo, l ại một đèo,

Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo !.

(Đèo Ba Dội - Hồ Xuân Hƣơng)

- Thánh thót tàu tiêu m ấy hạt mƣa,

Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ !

(Tức cảnh chiều thu - Nguyễn Thị Hinh)

Riêng cái mô - típ diễn đạt "khen thay", "khen ai", "khéo", "khéo khéo", ...

rất phổ biến.

- Khéo khéo bày trò tạo hóa công. . .

(Đá ông Chồng Bà Chồng - Hồ Xuân Hƣơng)

- Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm (...)

(Chùa Hương - Hồ Xuân Hƣơng)

- Khen thay con tạo khéo khôn phàm (...)

(Hang Thánh Hóa - Hồ Xuân Hƣơng)

* Nêu bài thơ có đề tài, chủ đề về cuộc sống xã hội, về con người

Qua khảo sát, chúng tôi có mấy nhận xét sau đây. Một là, nếu có câu thơ nào tả cảnh

thì nó chỉ có thể xuất hiện ở dòng mở đầu. Chẳng hạn:

- Mùa hè hây h ẩy gió nồm đông,

Thiếu nữ nằm chơi quá gi ấc nồng.

(Ngủ quên - Hồ Xuân Hƣơng)


112

Lý do rất đơn giản: Câu "thừa" (dòng 2) phải nói về một sự kiện để chuyển ý
xuống liên 2 (cặp thực) là phải trình bày về cuộc sống xã hội hay con ngƣời. Tƣơng
tự nhƣ vậy ở nhiều cặp "phá thừa" khác:
- Hƣơng tiêu gác vắng nhặt ca oanh,
Bận mối sầu khêu gƣợng khúc tranh.
(Đề tranh m ỹ nữ - Phạm Thái)
- Chín tầng lồng lộng giữa trời thinh,
Phụng chỉ ra đi buổi sứ trình.
(Đi sứ nước Pháp - Phan Thanh Giản)
- Lầu xanh thánh thót tiếng chuông chiền,
Tỉnh giấc Cao đƣờng lúc ngửa nghiêng.
( D ĩ d i tu - Huỳnh Mần Dạt)
- Mịt mịt mây đen kéo tói sầm,
Đau lòng thuở nọ chốn Hà Âm.
(Qua Hà Âm cảm tác - Bùi Hữu Nghĩa)
Hai là, nêu liên 1 nêu lên một sự kiện, một tình trạng thì:
- Hoặc là dòng 2 (câu "thừa") sẽ diễn tả cái cảm tƣỏng về sự kiện, tình trạng ấy.
Chẳng hạn:
- Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung !.
(Kiếp lấy chồng chung -Hồ Xuân Hƣơng)
- Cô Ký sao mà đã chết ngay ?
Ô hay, giời chẳng nể ông Tây !
(Mồng hai Tối viếng cô Ký - Tú Xƣớng)
113

(Mồng hai Tết viếng cô KÝ -Tú Xƣơng)


- Hoặc là dòng 2 (câu "thừa") sẽ nêu lên cụ thể hơn về sự kiện, tình trạng ấy. Chẳng
hạn:
Bần tiện song le tính vốn lành,
Gặp sao hay vậy dám đành hanh.
(Vui cảnh nghèo - Nguyễn Công Trứ)
Khen thay phủ Quảng khéo ranh ngầm,
Phò nịnh anh Tây, cõng mẹ đầm.
(Vịnh tri phủ Quảng Oai - Nguyễn Thiện Kế)
Cái học nhà nho đã hỏng rồi,
Mƣời ngƣời đi học, chín ngƣời thôi.
(Than đạo học - Tú Xƣơng)
Ba là, nếu giữa hai câu có quan hệ "nhân quả" thì thƣờng câu "phá" là "nhân" và câu
"thừa" là "quả". Chẳng hạn:
- Mƣời hai bà mụ ghét chi nhau,
Đem cái xuân tình vứt bỏ đâu ?
(Quan thị - Hồ Xuân Hƣơng)
- Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
(Thương vợ - Tú Xƣơng)
Bốn là, nếu có dạng câu nghi vấn thì nó thƣờng xuất hiện ở câu thừa trong cấu trúc
câu bình thƣờng. Chẳng hạn:
Cả nể cho nên sự dở dang,
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng ?
114

(Dở dang - Hồ Xuân Hƣớng)


Nhƣng nó sẽ xuất hiện ở câu "phá" trong c ấu trúc câu đ ặc biệt vì đó là một
câu hỏi tu từ hoặc cần phải có cái gi ọng đột ngột. Chẳng hạn:
- Tạo hóa gây chi cu ộc hí trƣờng ?
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sƣơng.
(Thăng Long hoài cổ-Nguyễn Thị Hinh)
- Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình ?
Chị cũng xinh mà em cũng xinh.
(Tranh t ố nữ - Hồ Xuân Hƣơng)
- Có đất nào nhƣ đ ất ấy không ?
Phố phƣờng tiếp giáp với bờ sông.
(Đất Vị Hoàng - Tú Xƣơng)
Về cặp câu phá th ừa, nhà nghiên c ứu Nguyễn Sĩ Cẩn có nhận xét: "Hai
câu đề, câu thứ nhất gọi là câu phá đ ề, câu thứ hai gọi là câu thừa đề đều là
mở bài nhưng mỗi câu lại có nhiệm vụ riêng. Câu phá đ ề, như tên g ọi của nó,
phải hé mở cho ngư ời đọc ý bài ngay từ phút đầu. Câu thừa để làm nhi ệm vụ
nối tiếp câu phá, tri ển khai thêm ý đầu bài để hoàn chỉnh chức năng nhập đề.
Theo phép làm thơ Đư ờng luật, phần nhập đề phải làm cho người dọc cảm
thấy được "cái thần" của hài thơ và từ trong nhập đề đã hàm ý của phần sau
đó" [6: 40-41]. Ông cũng đã ch ứng minh nhận định của mình qua bài Chạy
Tây của Nguyễn Đình Chi ểu ở phần chú thích:
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay !.
"Câu phá đề báo hiệu tình thế xóm làng đang sống yên ổn trong cảnh
115

thanh bình bỗng bị giặc tràn đến. Câu thừa dể liếp ý câu phá chỉ rõ thêm là
tình thế nghiêm trọng, đất nước bị giặc xâm chiêm (M ột bàn cờ thế phút sa
tay !). Hai câu đ ề đã làm rõ đư ợc dầu đề: chạy Tây và gợi mở cảnh tàn phá
tang tóc do bọn giặc gây ra mà hai câu th ực tiếp theo sẽ nói đến " [6: 42].
Nhƣ vậy qua sự khảo sát của chúng tôi ở trên, thì ý ki ến của nhà nghiên cứu
Nguyễn S ỹ Cẩn đúng nhƣng không bao quát hết mọi bài thơ Đƣơng lu ật. "Câu
thừa nối tiếp câu phá, tri ển khai thêm. . ." chỉ là một trong khá nhi ều dạng
rất sinh động của liên I. Hơn n ữa, "cái thần" của bài thơ không phải lúc nào
cùng cảm nhận đƣợc từ hai câu phá thừa.
Trên đây là mấy nhận xét của chúng tôi v ề đặc điểm của liên I. Thật ra,
những nhận xét này cũng không đ ủ để làm hệ quy chiếu cho tất cả các câu thơ
phá thừa trong thơ Nôm Đƣờng Luật thế kỉ XIX. Vả lại, sự phân bi ệt các dạng
câu có khi cũng khá mơ h ồ. Rất có thể, căn cứ vào đặc điểm này để hiểu thì
câu thơ nào đó nghe rất hợp l ý, rất thuận, nhƣng n ếu thiên về một đặc điểm
khác để hiểu thì nó lại trở nên nghịch, bất hớp l ý. Chẳng hạn, ở liên 1 bài
"Than đạo học" của Tú Xƣơng:
Cái học nhà Nho đã hỏng rồi ,
Mƣời ngƣời đi học, chín ngƣời thôi.
Nếu căn cứ vào đặc điểm "nhân " đ ặt trƣớc "quả " thì "phá thừa" nhƣ
vậy là thuận, nhƣng nếu dựa vào đặc điểm "tình trạng đặt trƣớc cảm tƣởng"
thì phá thừa nhƣ vậy là nghịch. Điều này khiến chúng tôi nghĩ đ ến sự linh
hoạt trong cấu trúc bài thơ Nôm Đƣờng luật, nhắt là ở chặng đƣờng cuối cùng
cũng là chặng đƣờng phát tri ển đến đỉnh cao trên con đƣờng Việt hóa: th ế k ỷ
XIX.
116

4. 1. 3. Đặc điểm của liên 2 và liên 3:


4. I. 3. I. Đặc điểm của Liên 2 (cặp " thực")
* Lạc Nam, trong cuốn "Tìm hiểu các thể thơ" cho rằng: "Hai câu 3 và 4 gọi là thích
thực, gọi tắt là hai câu thực, còn gọi là hai câu trạng có nhiệm vụ giải thích cho đề tài rõ hơn
về ý, về cảnh, về tình, về sự vật, về tính chất, cốt làm nổi bật đề tài lên. Vì vậy hai câu này
phải gắn chặt với đề tài " [59: 109] GS Dƣơng Quảng Hàm, trong "Văn học Việt Nam", cũng
từng chỉ ra rằng: "Thực hoặc trạng (câu 3 - 4) là giải thích đầu bài cho rõ ràng. Nếu là câu
thơ tả cảnh thì chọn các cảnh sắc xinh đẹp đặc biệt mà mô tả ra, nếu là thơ tả tình thì đem
các tình tự mà giải bày ra, nếu là thơ vịnh sử thì lấy công trạng, đức hạnh của người mình
muốn vịnh mà kể ra." [30: 23] Nhƣ vậy, có thể dễ dàng xác định nhiệm vụ của liên 2 là giải
thích cho thật rõ tinh thần, nội dung của bài thơ (thƣờng nằm ngay trong nhan đề bài thơ).
Nhiều nhà thơ có khuynh hƣớng miêu tả cụ thể những nét tiêu biểu, chọn lọc. Tất nhiên,
trƣớc hết, đây cùng là cái cụ thể trong cảnh thực của thiên nhiên, sự vật, hiện tƣợng. Chẳng
hạn:
- Tới chầu điện thắm quì khom gối,
Nằm ngắm doành thanh vắt vẻo vòi.
( Niíi Con Voi - Phạm Thái)
- Núi Sập sấm rền vang tiếng muồi,
Vàm Nao nƣớc chảy đứt đuôi xà.
(Đi thuyền qua Thoại Sơn - Bùi Hữu Nghĩa)
- Trong bụng trống trớn, mang cổ giữa ,
Trên đầu trọc lóc, bịt khăn ngang.
117

(Ông làng hát bội - Nguyễn Văn Lạc )


- Anh hầu thuở nọ tay ôm tráp,
Cụ lớn ngày nay ngực gắn sao.
(Vịnh khâm sai Lê Hoan - Nguyễn Thiện Kế )
Tuy nhiên, cái cụ thể ở đây hoàn toàn không h ẳn là cái cụ thể - khách
quan mà bao già cũng máng màu s ắc chủ quan, nghĩa là đƣợc lọc qua lăng
kính riêng của thế giới tâm hồn nhà thơ. Do vậy, nếu là thơ thiên nhiên, thì
cảnh ở đây cũng chính là c ủa sổ tâm hồn tác giả. Chẳng hạn, mùa thu nh ẹ
nhàng, trong sáng chính là d ấu ấn của cõi tâm h ồn bình thản, trầm lặng của
Tam nguyên Yên Đỗ:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trƣớc gió sẽ đƣa vèo.
(Thu điếu - Nguyễn Khuyến )
Mùa thu làm thơ cũng không gi ống mùa thu câu cá, mùa thu u ống rượu. Gs
Lê Trí Viễn đã cảm nhận sâu sắc tâm tƣ của tác giả, linh hồn của mùa thu ở
liên 2 bài Thu vịnh:
Nƣớc biếc trông nhƣ tầng khói phủ,
Song thƣa để mặc bóng trăng vào.
(...) Đó là một dáng thu ở mặt đất sau dáng thu ở nền trời bên trên.
Nhưng cũng đ ều lặng yên, sâu l ắng, dồn chứa bên trong (. . . ) tất cả đều lặng
lẽ, và bên trong cái im lìm l ại là cái gì đang chờ đợi, đang sắp sửa(. . .) gợi
lên một trạng thái lặng yên, sâu lắng, nhiều chan hòa, cảm thống, và chất
chứa, ẩn giấu vào bên trong." [89: 197 - 198 - 199]
118

* Một đặc điểm khác của liên 2 bài bát cú là c ảnh vật thiên nhiên ở đây mang
tính chất tổng hợp, nghĩa là cảnh vật có thể không cùng đƣợc miêu t ả trong
một thời điểm, một không gian. Lý do rất dễ hiểu: tả cảnh là để ngụ tình. Gs.
Lê Trí Viễn cho biết: "Phương pháp sáng tác truy ền thông cho phép t ả cảnh
có khi đề tả cảnh, nhưng thư ờng là để ngụ tình, nói cảnh nhưng là nói tình.
Cho nên lắm lúc nhiều cảnh trí được vẽ ra liên tục nhưng chẳng cùng một
thời điểm, một không gian. Có đi ều mối dây liên kết tất cả lại là tâm tình
thống nhất của tác giả. Cái nhất trí là ở tâm tình ấy, không ở thời gian,
không gian." [89: 198] Chúng tôi thấy rằng nhà thơ thƣờng dùng vài nét chấm
phá để bao quát cảnh, mỗi câu là m ột cảnh nhỏ đƣợc thu gọn, ƣớc đƣợc.
Những đƣờng nét đều chọn lọc, tiết độ, là những nét đặc sắc, độc đáo. Đây
chính là chỗ gần gũi với nghệ thuật Đƣờng thi và n ền nghệ thuật cổ phƣơng
Đông nói chung. Nó đ ối lập hắn với cái nhìn phân tích và t ả chân trong thơ
thiên nhiên ở phƣơng Tây. Chỉ cần dừng lại ở mấy bài thơ mùa thu của
Nguyễn Khuyến, đã thấy khá rõ đặc điểm nầy. Gs Lê Trí Viễn bình về tính
chất tổng hợp thời gian của bài Thu vịnh nhƣ sau: "Nhìn thấy trời xanh, nư ớc
biếc, chú ý rõ được cái đong đưa rất khẽ của cần trúc, thì ph ải có trời sáng,
sương mù đã buông, ít nh ất cũng vào hoàng hôn, còn bóng trăng vào c ửa sổ
thì sớm nhất cũng đã vào đêm. " [89: 198] Còn ở bài Thu ẩm, dồn hẳn vào cặp
"thực" là màu chi ều và bóng trăng đêm thu:
Lƣng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
* Đặc điểm thứ ba: Xuất hiện ở liên 2 bài thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX
vẫn còn thứ không gian ước lệ, tƣợng trƣng (conventionnel: theo qui
119

ƣớc). Chẳng hạn:


- Mây giăng ải bắc trông tin nh ạn,
Ngày xế non Nam bặt tiếng hồng.
(Ngư Tiều Y thuật vấn đáp - Nguyễn Đình Chi ểu)
- Dƣơng tuyết bốn mùa hoa s ạch sẽ,
Gió đông đòi tr ận sắc tiu hiu.
(Vịnh cây mai ở chùa Cây Mai - Lê Quang Chi ểu)
Lạnh lùng bốn bể ba phần tuyết,
Xao xác năm canh m ột tiếng gà.
(Đêm dài - Tú Xƣơng)
Diều này góp phần chứng tỏ thơ Nôm Dƣỡng luật thế kỷ XIX vẫn thuộc phạm trù văn
chƣơng trung đại. Tuy nhiên, qua số lƣợng thống kê những bài thơ có liên 2 không xuất hiện
không gian - thời gian ƣớc lệ mà đƣợc miêu tá cụ thể khách quan lại vừa mang màu sắc chủ
quan của nhà thơ, có thể rút ra kết luận: đây mới là nét độc đáo của thơ Nôm Đƣờng luật thế
kỷ XIX, đặc biệt là vào nửa sau thế kỷ, nhƣ là những dự báo cho nền thơ hiện đại thế kỷ XX.
4. 1. 3. 2. Đặc điểm của liên 3 (cặp"luận")
* "Luận nghĩa là hàn bạc, hình luận mở rộng thêm ý bài thơ" [6: 43], "Như tả
cảnh thì nói cảnh ấy xinh đẹp thế nào, cảm xúc ngư ời ta thế nào, vịnh sử thì
hoặc khen hoặc chê, hoặc so sánh ngư ời ấy, việc ấy với người khác, vi ệc
khác." [30: 23] Nhƣ vậy, nếu liên 1 có nhiệm vụ "nhập", liên 2 có nhi ệm vụ
"diễn" thì liên 3 có nhi ệm vụ bàn rộng thêm cái ý đã "diễn" ấy. Do đó liên 3
có quan hệ thật gắn bó với liên 2. Nó bàn rộng trên cơ sở liên 2 đã
120

miêu tả đầy đủ đầu bài, đầy đủ về phƣơng di ện giải nghĩa. Gs. Lê Trí Vi ễn
cho rằng: "Trong bài bát cú, câu lu ận chiếm một địa vị quan trọng. Đi sâu,
mở rộng, suy luận là đây. Chi ều sâu, tầm cao của bài thơ hay cũng ở đây."
[89: 199] Trong m ảng thơ thiên nhiên, chính vì liên 3 có ch ức năng ấy nên
cảnh ít đi mà tình nhi ều hơn, thậm chí cảnh chỉ là cái cớ để bộc lộ tình. Liên
3 dƣờng nhƣ bao giờ cũng khoác thêm sắc màu chủ quan, cảm xúc, tâm tr ạng,
những nghĩ suy của tác gi ả. Nếu liên 2 thiên v ề tả cảnh, tất nhiên là cảnh
nhịp nhàng với tâm tƣ thì ở liên 3 của bài thơ, tình đã th ấm đẫm trong cảnh,
chủ quan trùm lên khách quan. Tuy còn là mƣ ợn cảnh, cũng còn có thể nói tả
cảnh, nhƣng chủ yếu là đã bi ểu hiện tâm trạng nhà thơ. Con ngƣời và cảnh
vật sẽ hài hòa, cảm thông với nhau. Cảnh vật thể hiện tâm tƣ con ngu ời và
con ngƣời thể hiện trong cảnh vật. Nhà thơ không chỉ có con mắt nhìn mà chủ
yếu là trái tim rung cảm. Liên 3 không còn ph ảng phất tình, hé mở tình, mà
thật sự "hàm" tình. Nếu bài thơ có ý vị triết học thì "đất dụng võ" của nó
chính là ỏ cặp luận này. Ch ẳng hạn, khảo sát cặp "luận" bài Thu vịnh của
Nguyễn Khuyến, chúng tôi c ảm nhận ổ đây màu s ắc của Đạo và Thiền học. Có
thể nói đây là kho ảnh khắc nhà thơ tập trung t ất cả năng lực tinh th ần vào
một trạng thái ý thức không phân hóa: s ự "nhất tâm " cả thời gian l ẫn không
gian:
Mấy chùm trƣớc giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nƣớc nào.
Cả màu sắc, âm thanh cũng ở trong trạng thái "tâm bất nhị" ấy của cái hiện tại vĩnh
cửu (Eternel présent). Có thể nói đây là khoảnh khắc mà ở Nguyễn Khuyến, tâm và vật nhập
làm một. Không còn giỏi hạn, không phải hai thế
121

giỏi cách biệt bất khả xâm phạm, không là "Subjet" và "Objet". Ngƣợc lại, bên trong mối

quan hệ tất nhiên chủ - khách, ngã - vật, nội - ngoại ấy có cái gì nhƣ là trạng thái hồn thuần

của ý thức, ngƣời thớ quên mình, nhập vào vật, nhƣ Trang tử đã nói trong Tề vật luận [Tập 1,

Nội thiên]:

Thiên địa dữ ngã tịnh sinh, vạn vật dữ ngã vi nhất

(Trời đất (ngoại giới) cùng hiện ra khi ta ý thức có ta (nội giới), muôn vật với ta là

một, có quan hệ mật thiết nhƣ là một hệ thống hiện tƣợng sai biệt vậy).

Đây cũng chính là khoảnh khắc của "thiên địa chi lâm" mà kinh Dịch đã đề cập đến ở

quẻ Phục tả cái trạng thái thuần túy kinh nghiệm ở Tâm.

* Đặc điểm thứ hai của liên 3 là nó không sát đề mà "lơi" đề hơn, đồng thời, tính hiện

thực giảm đi mà sức liên tƣởng, tƣởng tƣợng, cách diễn đạt bóng bẩy thƣờng đƣợc sử dụng

hơn, rõ nét hơn. Do vậy, nếu liên 2 thiên về hiện thực hơn thì liên 3 thiên về lý tƣởng hơn.

Những nét tác giả phác họa ở đây vị tất đã có thực ở cuộc sống ngoài đời. Có thể là tâm trạng,

lại có thể là những suy tƣ triết lý có sắc màu đạo đức, thời thế, lịch sử:

- Sóng lớp phế hƣng coi đã rộn,

Chuông hồi kim cổ lắng càng mau.

(Chùa Trấn Bắc - Nguyễn Thị Hĩnh)

- Trâu già gốc bụi phì hơi nắng,

Chó nhỏ bên ao cắn tiếng ngƣời.

(Đến chơi nhả bác Đặng - Nguyễn Khuyến)


122

* Đặc điểm thứ ba của cặp luận, trong so sánh với cặp thực, xét ở bình diện từ loại, là
có khuynh hƣớng thƣờng dùng những hư từ hơn. Những phụ từ, (phó từ, trạng từ) quan hệ từ
(từ nói), trợ từ và thán từ ở đây có nhiệm vụ đƣa đẩy câu thơ và biểu thị ý nghĩa tình thái, một
nội dung cần thiết ở liên 3 bài bát cú. Tất nhiên, đây cũng là một đặc trƣng nổi bật trong cấu
trúc câu thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX nhƣ sẽ khảo sát ở chƣơng 5 (Hệ thống ngôn ngữ).
Đây là vài dẫn chứng tiêu biểu:
- Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ ,
Cái giá khoa danh ấy mới hời.
(Ông nghè tháng tám - Nguyễn Khuyến)
- Một duyên hai n ợ âu đành phận,
Năm nắng mƣời mƣa dám quản công.
(Thương vợ - Tú Xƣơng)
* Đặc điểm thứ tư của liên 3, cũng trong so sánh v ới liên 2, thƣờng
nhắc đến điển cổ, có thể trực tiếp, có thể xa xôi, gián ti ếp. Lý do cũng d ễ
hiểu: Cần phải bàn rộng ý của đầu đề bài thơ. Ch ẳng hạn, ở bài "Thiếu nữ của
Hồ Xuân Hƣơng:
Đôi gò Bồng Đảo sƣơng còn ngậm,
Một lạch Đào Nguyên su ối chửa thông.
Hay ở bài: "Nghe hát đêm khuya" của Nguyễn Khuyến:
Bẻ liễu thành Đài thôi cũng x ếp
Trồng lan ngõ t ối ngát nào hay.
Câu trên dẫn điển Hán Hoành đời Đƣờng lấy một danh kỹ là Liễu thị ở phố Chƣơng
Đài, Trƣờng An, sau khi đi làm quan xa, để Liễu thị ở lại đó 3
123

năm, không đón đi đƣợc, nên làm bài "Chương Dài li ễu" để thăm nàng. Câu
dƣới viết thoát ý từ thành ngữ "Lan sinh u cốc": hoa lan mà l ại sinh trong
hang tối thì dẫu có thơm tho cũng ch ẳng ai biết.
4.1.3.3. Đặc điểm cả liên 2 và liên 3.
* Trong "Mấy vấn dề phương pháp dạy thơ văn cố Việt Nam", nhà
nghiên cứu Nguyễn Sĩ cẩn từng lƣu ý rằng: "Trong quá trình phân tích hai
phần thực và luận của thơ Dương lu ật, không nên rập khuôn, bái vì trong
thực tế không phải bài thơ nào cũng đ ảm bảo phân minh thực và luận. Có khi
hai câu tuy ở vị trí luận nhưng nội dung vẫn là thực, và có khi hai câu th ực
nhưng đã hàm ý luận." [6: 44] Qua khảo sát, chúng tôi th ấy nhiều nhà thơ
Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX đã rất linh hoạt, xáo trộn nhiệm vụ của liên 2 và
liên 3 hoặc cố tình không phân bi ệt thực và luận. ở bài "Cuốc kêu cảm hứng"
của Nguyễn Khuyến chẳng hạn, liên 2 đã hàm ý luận và cả liên 2 lẫn liên 3
đều hàm tình, nhƣ "tứ hư cách" trong thể Đƣờng thi Trung Qu ốc:
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nƣớc vẫn nằm mơ.
Tú Xƣơng là nhà thơ có khuynh hƣ ớng "phá luật" khá tiêu bi ểu, thƣờng
sử dụng một cấu trúc linh ho ạt, tự do thoải mái, nhƣ trong một bài t ả cảnh
lụt:
Bát gạo Đồng Nai kinh chuyện cũ,
Con sào Quý T ỵ nhớ năm xƣa.
Trâu bò buộc cẳng coi buồn nhỉ,
124

Tôm tép khoe mình đã sƣ ớng chƣa ?.


Hay trong bài "Đại hạn" :
Ngày trƣớc biết gì ăn vói ngủ,
Bây giờ lo cả nƣớc cùng nôi.
Trâu mừng ruộng nẻ cày không đƣợc,
Cá sợ ao khô vƣợt cả rồi.
Ở hai dẫn chứng trên, đúng là có xáo tr ộn thực và luận, nhƣng xét đến
cùng, liên 3 v ẫn có ý "luận" bởi đều có ý xa xôi cả : Những "trâu bò", lũ
"tôm tép" trong xã hội và thời đại bấy giờ !.
* Trong trƣờng hợp liên 2 chƣa miêu t ả đầy đủ đầu đề bài thơ thì liên 3
có thể nói lời theo tiếp tục miêu tả. Lúc đó bài thơ thơ bát cú có c ấu trúc 2-4-
2. Tất nhiên, theo s ự phát triển của mạch thơ nhất khí, liên 2 vẫn gắn bó với
ý ở liên 1 (hai câu đề) và liên 3 gắn bó với ý ở liên 4 (hai câu kết). Nhi ều bài
thơ của Hồ Xuân Hƣơng nhƣ Ngủ quên (Thiếu nữ), Quán Khánh, Đánh đu, Sư
hổ mang, Đèo Ba D ội, Hang Cắc cớ, Chùa Hương, Gi ếng nước, Kẽm Trống . .
. , của Phạm Thái nhƣ núi Con Voi, Tự trào, của Hu ỳnh Mẫn Đạt nhƣ Cảnh
trời chiều, Gành Mỏm, Lên đèo Hải Vân, . . ., của Nguyễn Khuyến nhƣ Hội
Tây, Chợ Đồng, Bạn đến chơi nhà, Chốn quê, . . . , của Tú Xƣơng nhƣ Quan
tại gia, L ễ xướng danh khoa Đinh d ậu, Đất Vị Hoàng, Đêm dài, Nh ớ bạn
phương trời, . . . đều có đặc điểm cấu trúc này. Nhà nghiên c ứu Nguyễn Sĩ
Cẩn đã phân tích 4 câu gi ữa bài "Chạy giặc" của Nguyễn Đình Chiểu : "Trong
bốn câu này hai câu trên là hai câu đúng v ị trí của nó nhưng hai câu dư ới
nội dung cũng là "thực" chứ không phải "luận" : Từ cái thực trạng của đất
nước, vạch rõ thêm t ội ác của bọn xâm lư ợc, diễn tả sâu sắc
125

hơn nỗi lòng đau xót của mình. Bài thơ không có lu ận (hay nhi ều nhất là có
hàm ý luận) nhưng với bốn câu trên bài thơ đã d ựng lên đư ợc bức tranh hi ện
thực của đất nước bị giặc tàn phá một cách đầy xúc động". [6:44]
* Đặc trƣng nổi bật của liên 2 và liên 3 là mỗi liên gồm 2 câu thơ đ ối
nhau, hô ứng với nhau, cộng hưỏng về ý tứ và nhạc điệu, tạo nên một chỉnh
thể dộc lập trong bài thơ, một "vũ trụ" tự nó ổn định. Từng cặp biểu hiện
những ý đối lập hoặc bổ sung cho nhau mà không c ần có một sự nói tiếp nào
giữa chúng vói nhau, không c ần quan hệ từ. Đặc biệt là ở những bài đậm sắc
thái Đƣờng thi, nhƣ ở thơ Bà Huyện Thanh Quan ch ẳng hạn. Thử khảo sát
một dẫn chứng tiêu biểu: bốn câu giữa bài Thăng Long hoài cổ:
Lối xƣa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đai bóng t ịch dƣơng.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nƣớc còn can m ặt với tang thƣơng.
Ở đây, "xe ngựa" chuyển động hô ứng với "lâu dài" bất dộng, "Hồn thu
thảo" trừu tƣợng cộng hƣởng vói "Bóng tịch dương" cụ thể, thấy đƣợc. Những
hình ảnh ấy đồng hiện, vẽ ra một bức tranh của cuộc sống con ngƣời, xã hội
Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX : những đổi thay chóng m ặt của
các triều đại, biết bao cái bi ến chuyển nhƣ cảnh "Thương hải biến vi tang
điền" của lịch sử. Cảm nghĩ mang cảm hứng lịch sử này chính là ở chiều sâu
lòng tác giả. Đồng thời, đặt cái lẽ thịnh suy của việc đời đầy vơi, của lịch sử
thăng trầm bên quang c ảnh thiên nhiên trƣờng cửu, bên cái vẻ lạnh lùng, vô
tình của đất trời, sông núi - mà ngoại giỏi ấy cũng hô ứng, cộng hƣởng với
nhau - 4 câu thơ càng làm n ổi bật vẻ bi thiết của kiếp ngƣời, càng âm vang
tiếng kêu
126

bi thƣơng của con ngƣời bé nhỏ, phù du bên bờ vĩnh cửu, vô cùng của tạo vật
trong trái tim nhà thơ.
Nhƣ vậy là hai cặp câu thơ có đối ở giữa bài thơ bát cú tƣ ởng nhƣ là
không có quan h ệ gì, tƣởng nhƣ là chia tách nhau, nhƣng th ực ra lại là có sự
thống nhất. "Bài vì đặc trưng của thơ Đư ờng là thể hiện hằng quan h ệ, đối là
một hình thức tiêu biểu của quan hệ. Và dù "chính đ ối" (ý nghĩa hai câu thơ
tương hợp) hay "phản đối" (ý nghĩa hai câu thơ tương ph ản) thì mục đích và
hiệu quả thẩm mỹ của chúng vẫn thông nhất và đều phục vụ đắc lực cho việc
thể hiện sự tương giao giữa ngoại cảnh với nội tâm, chúng là những nhịp nối
khai đề với kết đề, nối cảnh vời tâm." [48:47]
Cấu trúc đăng đ ối (hay kiến trúc đối xứng) ở bốn câu thơ này bu ộc
ngƣời ngâm thơ, đọc thơ phải lƣu ý : Vì cần phải nắm bắt ý nghĩa của cả hai
câu trong cùng một liên thơ đ ồng thời với nhau mới cảm nhận đƣợc nên nhịp
thơ bắt buộc phải chậm lại. Bởi vậy, bốn câu giữa bài thơ mang s ắc thái trang
trọng khác hẳn mấy câu thơ khác.
* Xét về mặt ngữ pháp thì cấu trúc ngữ pháp của những câu thơ này
cũng có quan h ệ với cấu trúc đối xứng trong từng liên thơ. Có thể nói, có sự
xuất hiện khá phổ biến những dị thường về cú pháp, nghĩa là có sự xáo trộn,
biến đổi cấu trúc ngữ pháp thông thƣ ờng, mà phổ biến nhất là kiến trúc đảo
ngược cú pháp. Nhà thơ thƣờng sử dụng đảo từ, đảo ngữ. Chẳng hạn :
Gác mái ngƣ ông về viễn phố,
Gõ sừng mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sƣơng sa khách bƣ ớc dồn.
127

(Chiều hôm nhà nhà - Nguyễn Thị Hĩnh)


Ngoài ra, sự dị thƣờng về cú pháp còn ở chỗ nhà thơ có thể và thƣờng
là lược bỏ từ, nhƣ sự lƣợc bỏ từ ở Đƣờng thi, Đƣờng luật Hán. Tuy nhiên,
những câu thớ có cấu trúc thuộc dạng này tƣớng đối ít:
Máy chùm trƣớc giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nƣớc nào.
(Thu Vịnh - Nguyễn Khuyến)
4.1.4 Đặc điểm của liên 4 (cặp thúc kết)
* Nếu sức nặng của bài thơ tuyệt cú thƣờng dồn xuống câu "hợp" thì có
thể nói linh hồn của bài bát cú thƣ ờng đọng lại ở liên 4, đặc biệt là ở câu kết
(dòng 8). Nhà nghiên c ứu Nguyễn Sĩ cẩn khắng định : "Trong kinh nghi ệm
nghiên cứu và giảng dạy thơ Đường luật, chúng tôi thấy câu kết thường là
câu bộc lộ rõ chủ đề bài thơ' '.[6:46] Kh ảo sát các bài thơ Chiều hôm nhớ nhà,
Qua đèo Ngang, Thăng Long hoài c ổ, . . . của Bà Huyện Thanh Quan, Vịnh
Kiều bán mình của Nguyễn Khuyến, Vịnh khoa thi hương của Tú Xƣơng, . . .
đều thấy chủ đề tƣ tƣỏng đọng lại ở câu kết.
Nhƣng trƣớc khi kết thì phải thúc. Ở khá nhiều bài, dòng thơ thứ 7 coi
nhƣ là câu chuyển. Nó có nhiệm vụ chuyển ý từ 6 câu trên xuống câu thơ cuối
cùng. Nó là câu bản lề khép mở ý thơ. Do đó, tuy nó đƣ ợc buông lỏng về mặt
văn từ (không gieo vần) nhƣng về mặt tứ thơ, nhi ệm vụ của nó thật là quan
trọng : nhờ nó mà ý câu k ết (dòng 8) đƣợc khắc sâu, nổi bật. Khảo sát bài
"Nhớ bạn phương tr ời", chúng tôi thấy từ câu 1 đến câu 6 có th ể làm ngƣời
đọc hiểu lầm rằng đây là một bài thơ tình :
Ta nhớ ngƣời xa cách núi sông,
128

Ngƣời xa, xa l ắm nhớ ta không ?


Sao đang vui v ẻ ra buồn bã,
Vừa mới quen nhau đã lạ lùng.
Lúc nhớ nhớ cùng trong m ộng tƣởng,
Khi riêng riêng c ả đến tình chung . . .
Câu thơ thứ bảy, thật bất ngờ, là một lời thanh minh th ật đúng lúc, nhờ
nó mà giá trị của tình bạn trong câu thơ l ại càng tăng thêm ý nghĩa :
Tƣơng tự lọ phải là trai gái,
Một ngọn đèn xanh, trống điểm thùng.
* Cũng nhƣ câu hợp trong thơ tuyệt cú, câu kết nói riêng, cặp thúc kết
nói chung, vừa có nhiệm vụ khép lại bài thơ - còn gọi là sự hồi cố, nghĩa là
trở lại vấn đề đã nêu ở hai câu đề - vừa phải làm sao cho ngƣ ời đọc cảm nhận
đƣợc cái dƣ vị khi đọc hay ngâm h ết bài thơ. Vì th ế cặp thúc kết thƣờng hàm
tình. Những bài thơ có kết hay luôn có chiều hƣớng gợi ra những ý mới làm
cho dƣ âm bài thơ đ ọng mãi trong tâm trí ngƣ ời đọc, tƣỏng nhƣ một thứ nhạc
điệu bên trong cộng hƣởng với lời thơ giàu nh ạc tính. Tình ý nhờ vậy vừa gọn
gàng vừa bay bổng làm trội cả bài thơ. Nhà nghiên cứu Nguyễn Sĩ Cẩn nhận
xét: "Câu kết phải viết thế nào cho khái quát, vừa níu lại được ý đầu đề, vừa
nâng dư ợc ý bài thơ cao hơn, gây dư ợc âm vang và liên tư ởng cho người đọc.
Bài thơ có câu k ết hay là bài thơ đã khép l ại mà tứ thơ vẫn còn ngân vang,
man mác làm cho người đọc bồi hồi xúc dộng, tiếp tục suy tư" [6:45].
Một trong những yếu tố khiến cho câu kết giàu nhạc tính là thủ pháp
dồn nén cảm xúc ở những câu thơ trên (t ừ dòng 1 đến dòng 6), đ ồng thời làm
nổi bật thanh ở chữ gieo vần dòng cuối (âm ti ết sau củng của dòng 8) t ạo sự
129

vang vọng của âm thanh và cảm xúc. Tình cảm ở đây không lộ liễu mà kín
đáo, không chân chất thật thà mà thƣờng gợi cảm, thậm chí có khi không ph ải
đọc là hiểu ngay mà phải cảm. Dƣờng nhƣ trong n ền thơ hiện đại và ỏ những
thể loại khác, có rất ít bài thơ có k ết thúc nhƣ v ậy. Đây có lẽ là nét gần gũi
của thơ Nôm Đƣờng luật với Đƣờng thi, nh ất là tuyệt cú của Trung Quốc và
hài cú của Nhật Bản. ở những bài thơ này, cảm xúc đƣợc nén lại thật chặt từ
những dòng trên, đ ể đến dây nổ bùng ra thành nh ững dƣ âm day d ứt khôn
nguôi trong lòng ngƣời đọc. Trong bài thơ, dƣơng nhƣ có nh ững viên chất nổ
ở câu thơ "kết". Tất nhiên, cũng là thơ Nôm Dƣ ờng luật, nhƣng không ph ải
bài thơ nào cũng k ết thúc nhƣ vậy. So sánh bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà
Huyện Thanh Quan vói bài thơ cùng tên c ủa Lê Thánh Tông, chúng tôi th ấy :
Tuy Lê Thánh Tông có kh ả năng quan sát tài tình, trong bài thơ có nh ững câu
thơ hay, có hình tƣợng đẹp, thể hiện cái nhìn trìu m ến đối với thiên nhiên :
Thà là cúi xuống cây đòi sụt
Xô xát trông lên sóng mu ốn trèo.
Lảnh chảnh đầu mầm chim vững tổ,
Lanh đanh cu ối vụng cá ngong tri ều,
nhƣng đọc xong câu kết, bài thơ cũng chắm dứt, không có âm vang:
Cuộc cờ kim cổ chừng bao nả,
Non nƣớc trông qua vẫn bấy nhiêu.
Ngƣợc lại, bài thơ của bà Huyện Thanh Quan, liên 1 và liên 2 ch ỉ là cảnh, lại
là cảnh khá mờ nhạt. Liên 3 bắt đầu nhói lên m ột chút cảm xúc ngậm ngùi
nhƣng còn có vẻ chung chung, cảm xúc thật sự nén lại ở liên 4 . Đọc những
dòng thơ nầy, tự dƣng chúng ta c ảm thấy thƣơng cho cái cô đơn c ủa nhà thơ.
130

Bởi vì, tất cả những gì thuộc về thiên nhiên đều gắn bó, hòa hợp với
nhau, tạo thành một khung cảnh thiên nhiên ít nhi ều ấm cúng để đẩy nhà thơ
vào tận cùng của sự lẻ loi. "Tình riêng" của bà Nguyền Thị Hinh là tình gì
vậy ? Có lẽ là khó xác định một cách tuyệt đối chắc chắn. Vậy mà cái lời thơ
nhè nhẹ nhƣ tiếng thở dài của câu thơ cuối cứ âm vang mãi trong tâm h ồn,
khiến tâm hồn con ngƣời bâng khuâng khôn d ứt:
Một mảnh tình riêng ta với ta.
* Nhiều nhà thơ mu ốn gây đƣợc cái dƣ vị cho bài thơ của mình, đem
tình ý gởi vào cảnh vật trong câu "kết" (dòng thơ cuối cùng). Đây là m ột thủ
pháp rất tài hoa của những cây bút Đƣờng luật xuất sắc. Ở bài Chợ Đồng của
Nguyễn Khuyên, sau câu thúc (dòng 1) "Dăm ba ngày nữa tin xuân đ ến", ta
chờ đợi và có thê nghĩ đến những ngày xuân . . . nhƣng không, tác gi ả chỉ
viết:
Pháo trúc nhà ai m ột tiếng đùng.
Phạm Thái trong bài thơ "Đề tranh mỹ nữ", thúc bằng hình ảnh cô gái "Trang
điểm ngại chăm đừng trục gấm" và kết bằng cảnh:
Phòng tiêu l ạnh lẽo khóa xuân xanh.
Hu ỳnh Mẫn Đạt trong bài "Dạ nguyệt phiếm chu", thúc bằng hình ảnh nhà
thơ: "Thi gặp thú mầu, ngâm mấy đoạn" và kết bằng cảnh:
Lƣợc trăng lờ rạng gác qua đ ầu.
Tƣơng tự nhƣ vậy ở rắt nhiều bài thơ khác, chẳng hạn bài "Đánh đu"
của Hồ Xuân Hƣơng:
Chơi xuân đã bi ết xuân chăng tá ?
Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không.
131

hay ở bài "Quán Khánh":


Thú vui quên cả niềm lo cũ,
Kìa cái di ều ai nó lộn lèo.
(Hồ Xuân Hƣơng)
hay ở bài thơ " Ngóng gió đông" (Xúc cảnh - trích Ngư Tiều Y thuật vấn đáp)
của Nguyễn Đình Chiểu:
Chừng nào thánh đ ế ấn soi thấu,
Một trận mƣa nhuần rửa núi sông.
hoặc ở bài Thu diếu của Nguyễn Khuyến:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng đƣợc,
Cá đâu đớp động đuổi chân bèo.
Ở bài thơ : "Nhớ bạn phương trơi", Tú Xƣơng kết bằng một câucó b ề ngoài
dƣờng nhƣ tả sự vật:
Một ngọn đèn xanh, trống điểm thùng.
Trong câu thơ, Tú xƣớng không dùng những tính t ừ tả tâm trạng, chỉ dùng
những hình ảnh, âm thanh của sự vật: cái đóm sáng l ờ mò, hiu hắt, cái tiếng
trống nghe lẻ loi, cô độc. Những hình ảnh, âm thanh ấy hòa quyện vào nhau,
cộng hƣởng với nhau, gọi cảm vô cùng nỗi nhớ vì con ngƣời ở đây trăn trở
không yên, trằn trọc không sao ngủ đƣợc. Đó là cái thao th ức của một trái tim
khao khát tri âm.
* Ở thể tài trào phúng trong thơ Nôm Dƣờng luật thế kỷ XIX, khi muốn
tạo yếu tố bất ngờ" để gây cƣời, các nhà thơ cũng thƣ ờng đƣa vào câu kết của
bài thơ bát cú (và trong tứ tuyệt là câu hợp). Sự châm biếm, chất hài ở đây có
nhiều màu sắc khác nhau, thƣ ờng bộc lộ khá rõ phong cách tác gi ả.
132

Với cách kết cấu dành tiếng cƣời cho câu k ết, bài thơ đƣợc coi là một
tấn hài kịch mà các câu thơ trên là "thắt nút", đến kết mới "gỡ nút" hay "cởi
nút". Hay nhƣ ngƣời ra một bài thai đố mà chỉ đến cuối cùng mới nói câu
giải, khiến cho ngƣời khác th ấy cái buồn cƣời.
Ở thơ Nguyễn Khuyến, câu kết thƣờng có sự châm biếm nhẹ nhàng mà
thấm thía:
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ,
Đời trƣớc làm quan cũng th ế a ?
(Kiều bán mình)
Ở thơ trào phúng của Tú Xƣớng, sự châm biếm lại thƣờng thấy rõ hơn,
khá cay độc. Chẳng hạn:
Ngớ ngẩn đi xía may vớ đựơc,
Chuyến này ắt hắn kiếm ăn to.
(Ông cò)
Ngay cả khi Tú Xƣơng tự trào, câu kết bất ngờ tự tạo, câu kết bất ngờ
thƣờng tạo đƣợc chất hài đầy thú vị: Chẳng hạn, ở bài Quan tại gia, sau sáu
câu khiến ngƣời đọc có thể tƣởng ông quan th ật thì hai câu k ết thật bất ngờ :
Hỏi ra quan ấy ăn lƣơng vợ,
Đem chuyện trăm năm giở lại bàn.
Cái lối kết bất ngờ nhƣ vậy rõ ràng gây đƣợc dƣ vị độc đáo cho bài thơ
ngay cả trong thơ trào phúng. Đây là s ự sáng tạo của nhà thơ trào phúng Vi ệt
Nam khi làm thơ Nôm Đƣ ờng luật trên cái n ền của k ỹ thuật làm thơ Đƣờng
luật. Nói cách khác, chính ở hai câu kết, một lần nữa, chứng tỏ tinh thần hấp
thụ cái tinh hoa Đƣờng thi và đồng thời chứng tỏ sự sáng tạo nghệ
133

thuật. Nhà thơ đã th ấm nhuần đƣợc tinh hoa Đƣ ờng thi khi tạo đƣợc thứ quan
hệ tuyến tính giữa liên 1 (cặp phá thừa) và liên 4 (c ặp thúc kết), đây là mối
liên hệ về thời gian: ở liên 1 nhƣ là thời điểm ra đi và ở liên 4 nhƣ là th ời
điểm trở về . Nhƣng, nói chƣ Franqois Cheng "Chính ở thời điểm trở về này,
nhà thơ dường như lại cho thấy một "thời gian đã r ạn vỡ", vì vậy mà nó dự
báo những "biến đổi" khác. [9: ]
4.2. Nhịp điệu câu thơ Nôm Đường Luật
Từ điển Thuật ngữ Văn học quan ni ệm nhịp điệu là : "sự lập lại cách
quãng đều đặn và có thay đổi của các hiện tượng ngôn ngữ, hình ảnh, mô típ
... nhằm thế hiện sự cảm nhận thấm mỹ về thế giới, lạo ra cảm giác vận động
của sự sống, chống lại sự đơn điệu, đơn nhất của văn bản nghệ thuật" [86:
165]. Vì vậy, có nhịp điệu của thể thơ và nhịp điệu của luật thơ. "Ở cấp độ tổ
chức văn bản, đơn vị cơ bản của sự lặp lại trong thơ là dòng thơ v ới đô dài
của nó gồm sổ tiếng và vần như là đi ểm ngắt của nó . Vì vậy, moi thể thơ có
một nhịp điệu riêng. Dòng thơ l ại có kiểu ngắt nhịp của luật thơ, có đ ộ dài
ngắn cân đồi hoặc không cân đôi khác nhau. Nh ịp điệu của thể thơ và luật
thơ tạo thành cái nền nhịp diệu ..." [86:165]. ở cấp độ thứ nhất - cấp độ tổ
chức văn bản - nhịp điệu tổng quát trong c ả bài thơ t ạo nên sự khắng khít,
điều hòa của bài thơ đƣờng nhƣ không có gì khác so v ới một bài thổ Đƣờng
thi hay Đƣờng luật chữ Hán. Tuy nhiên, ở cấp độ thứ hai, nhịp diệu trong
từng dòng thơ thì vừa giống mà vừa khác. Đây là nhịp điệu của luật thơ và
134

mang ý nghĩa thi pháp r ất rõ, góp ph ần cho thấy cái "mã" của thể loại thơ
Nôm Đƣờng luật.
Nói một cách hình ảnh thì nhịp thơ (có ngƣời gọi cách khác là nhịp
ngắt hay tiết tấu, tƣơng đƣơng với "Rhythm" trong ti ếng Anh và "rythme"
trong tiếng Pháp) là cái dáng đi, cái chuy ển động của dòng thơ khi mau, khi
chậm , lúc nghỉ, lúc dứt. Ở thơ Anh, thơ Đức, yếu tố nhịp điệu rất rõ. Nó gây
nên bởi sự trở lại đều đặn của những âm thanh cần phải đọc mạnh vào
(stress). Ở thơ Pháp yếu tố "rythme" ấy chỉ hơi rõ. Còn trong thơ Vi ệt Nam,
bởi tiếng Việt không có "stress" nên khi ngâm thơ ngƣ ời ta ngân dài giọng ở
chữ trƣớc chỗ ngắt và ở chữ mang vần, hay tùy thu ộc tình ý trong câu thơ mà
đọc mạnh, cao gi ọng vào một vài chữ, nhờ đó gây ra trạng thái đều đặn về âm
hƣởng. Lý đo chúng tôi không kh ảo sát nhịp điệu của thể thơ là vì ở thơ Nôm
Đƣờng luật thế k ỷ XIX mỗi dòng thơ đã ổn định số âm tiết, chỉ lẫn lộn một số
ít câu lục ngôn không đáng k ể:
- Đó có Hằng Nga ghé dòm.
(Vịnh trăng - Hồ Xuân Hƣơng)
- Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta.
(Sư hổ mang - Hồ Xuân Hƣơng)
- Chàng Cóc ôi ! Chàng Cóc ôi !
(Khóc T ổng Cóc - Hồ Xuân Hƣơng)
- Anh đồ tỉnh, anh đồ say,
(Trách Chiêu Hổ, I - Hồ Xuân Hƣơng)
- Vành mâm xôi đ ề : "Thằng Lạc"
(Tạ hương đảng - Nguyễn Văn Lạc)
135

- Quá An Nam, l ứ khách trú.


(Ngồi trăng - Nguyễn Văn Lạc)
- Trên Sài Gòn, dƣ ới M ỹ Tho,
(Mỹ Tho tức cảnh - Học Lạc)
- Chợ Lấp Vò, chợ Lấp Vò .
(Chợ Lấp Vò - Khuyết danh)
Sự thể nghiệm ở các thế kỷ trƣớc, kể từ Quốc âm thi tập thƣờng đƣợc các nhà
nghiên cứu cho là mang tính ch ất độc đáo của nhịp điệu trongthơ Vi ệt Nam.
Có ngƣời căn cứ vào nhịp ngắt của thơ lục bát để l ý giải nhịp ngắt của câu
lục ngôn. Đó là Nguyễn Văn Xung trong bài vi ết "Những cố gắng nhằm ly
khai thơ Việt Nam ra khỏi thơ Tàu" đăng trên tạp chí Tư Tưởng (Sài Gòn) số
1 năm 1973. Ông vi ết :"Vậy thì thơ lục ngôn xuất hiện vào thượng kỳ đời hậu
Lê đã bắt đầu ly khai với nhịp điệu thất ngôn của Tàu và nhận chịu ảnh
hưởng của thể lục bát trong văn chương dân gian Vi ệt Nam dể thể hiện cá
tính dân t ộc của nó trong nhịp diệu và nhạc tính." [tr. 142]. Để l ý giải sự
vắng mặt của hiện tƣợng này trong thơ Nôm Đƣ ờng luật thế kỷ XVIII và XIX,
ông cho rằng : "Lý do có l ẽ là vì thể lục ngôn nầv nhịp diệu tuy có sinh động
nhưng âm đi ệu lại có tính chát khô khan và thô c ộc, chưa phù h ợp với tâm
hồn Việt Nam, cho nên dã bị đào thải..." [tr.143]. T ất nhiên, theo chúng tôi,
đây là một khát khao xây dựng một lối thơ Việt Nam để bộc lộ cá tính dân
tộc, muốn tự khắng định mình bằng cách làm khác v ới Đƣờng thi Trung qu ốc.
Ngay cả học giả Trung Quốc cũng thừa nhận điều nẩy. Thi Duy Quốc, trong
công trình "Tự Nôm yên Việt Nam Văn hóa", khi nói về sáng tác của Nguyễn
Trãi cho rằng: "Giá trị văn học của Quốc âm thi t ập là ở chỗ nó ra
136

đời trong bối cảnh Hán ngữ độc bá trên văn đàn nên sáng tác nó th ật không
dễ, sau nữa sự xuất hiện thơ lục ngôn lộ rõ tác giả đang nổ lực thoát khỏi
ảnh hưởng của Đường thi " [104:57]. Nhƣng khi s ử dụng câu thơ lục
ngôn,theo chúng tôi, nhà thơ đã phá v ỡ sự hài hòa âm dƣơng trong dòng thơ
và sự tƣơng hợp giữa nội dung và hình thức thơ Đƣờng luật. Bởi chỉ có câu
thất ngôn hay ngũ ngôn m ới có số âm tiết lẻ trên mỗi dòng thơ, để có nhịp
chẵn - lẻ (4-3, 2-2-3 hay-2-5) hoặc lẻ - chẵn (3-4) tạo nên sự đối lập âm
dương, thể hiện nhịp của vũ trụ, tức nhịp đƣợc tạo bởi sự thống nhất của các
cặp đối lập mà bao trùm có l ẽ là sự thống nhất, hài hòa của cặp đối lập âm
dƣơng, Vả lại, đến thế k ỷ XVIII, XIX, hai th ể thơ lục bát và song thất lục bát
cùng sự hình thành, phát tri ển của hai thể loại truyện Nôm và khúc ngâm đã
đáp ứng đƣợc nhu cầu khẳng định cá tính dân tộc, không cần sự tồn tại của
câu thơ lục ngôn nữa.
Ở cấp độ thứ 2, về nhịp diệu trong từng dòng thơ, nhà nghiên cứu
Nguyễn Thái Hoa cho r ằng :"Thể thất ngôn bát cú có nhịp lẻ, nếu tính từ
phần cuối 4/3 hoặc 2/2/3 . Ví dụ:
Bước tài đèo ngang / bóng xê tà,
Cỏ cây chen đá / lá chen hoa.
(Bà Huyện Thanh Quan)
Nhịp khá đơn điệu và chỉ dùng để ngâm, dường như tạo một chỗ ngừng
nhỏ để làm giàu âm hư ởng chứ không có vai trò quan tr ọng. [36:299]. Thật ra
nhịp điệu thơ Nôm Đƣờng luật theo chúng tôi là khá sinh động. Chỉ riêng
dạng thất ngôn, ngoài nh ịp 4-3, 2-2-3 còn có nhịp 2-5 và 3-4. . . và ở chỗ
ngừng giữa dòng thơ, không ch ỉ là làm giàu âm hƣ ởng mà còn tạo
137

liên tư ởng, gợi những mối liên hệ rất tinh tế giữa hai vế câu (hay ba vế) nhò
nhịp ngắt, có thể là mối liên hệ tương phản, cũng có thể là mối liên hệ thống
nhất, hòa hợp.
Ở những dòng thơ có nhịp ngắt 4-3, dừng lại ở nơi ngắt nhịp (chỗ
ngừng : pause), ngƣời đọc có thể cảm nhận những xúc dộng, những suy nghĩ
không nói nên lời, không th ể nói hết đƣợc của nhà thơ. T ất nhiên ở dây có
nhiều gần gũi vói thi pháp Đƣ ờng thi. Hãy th ử khảo sát một dẫn chứng tiêu
biểu về mối quan hệ tương phản :
Lối xƣa xe ngựa / hồn thu thảo,
Nền cũ lâu dài / bóng t ịch dƣơng.
(Thăng Long hoài cô - Nguyễn Thị Hình)
Lời thơ thể hiện cái không nói đƣợc của nữ sĩ khi bà ch ứng kiến một
cảnh tƣợng thay đổi đến không ngỏ. Cái rộn ràng xa mã đã tan bi ến để
nhƣờng chỗ cho cái hiu qu ạnh, cái trống không. Những công trình nhân t ạo
dẫu to lốn đến đâu vẫn không thể nào trƣờng cửu. Chỉ còn hồn cỏ thu, chỉ còn
bóng chiều tà, nghĩa là chỉ còn cái vĩnh cửu của trời đất ! Chính ở chỗ ngừng,
nhà thơ có thể diễn đạt những ý tuồng mà ngôn ngữ thơ trong khuôn kh ổ hạn
định của thể thơ cũng không nói đƣ ợc, là một trong những thủ pháp để bộc lộ
"ý tại ngôn ngoại", ở hai dòng thơ này là :
- Cái khắc nghiệt vô tình ghê gớm của thời gian.
- Cái biến đổi cũng gớm ghê của thế sự.
- Cái mong manh bé bỏng của kiếp ngƣời. . . .
Trong thơ Nôm Đƣờng luật thế k ỷ XIX, hiện tƣợng này khá phổ biến.
Hãy đọc thêm một ít thơ Hồ Xuân Hƣơng :
138

- Kẻ đắp chăn bông / k ẻ lạnh lùng


- Cổ đấm ăn xôi / xôi l ại hẩm
(Lấy chồng chung)
- Đi thì cũng d ở / ở không xong
(Ngủ quên)
Hay một ít thơ Tú Xƣớng :
- Cô hàng bán sách / lim dim ng ủ,
Thầy khóa tƣ lƣơng / nh ấp nhổm ngồi.
(Than đạo học)
- Chồng chung vợ chạ / kìa cô Bố,
Đậu lạy quan xin / n ọ chú Hàn.
(Phố hàng Song )
Từ những dẫn chứng thêm ở trên, có thể thấy rằng : nhà thơ Nôm
Đƣờng luật đã thật sáng t ạo khi làm thơ trào phúng : t ận dụng hiệu quả nghệ
thuật của những "chỗ ngừng" trong cú điệu để làm nổi bật sự mâu thuẫn, là
một yếu tố quan trọng để tạo chất hài.
Mặt khác, ở chỗ ngừng giữa dòng thơ, l ại có thể là mối liên hệ thống
nhất, hòa hợp rất tinh tế giữa hai vế, giữa những hình ảnh bề ngoài tƣởng nhƣ
đối lập hoặc độc lập, không có quan h ệ với nhau. Xin khảo sát một dẫn chứng
tiêu biểu :
- Ngàn mai gió cuốn / chim bay m ỏi,
Dặm liễu sƣơng sa / khách bƣ ớc dồn.
(Chiều hôm nhớ nhà - Nguyễn Thị Hinh)
139

Giũa "ngàn mai" với "cánh chim", giữa "dặm liễu" vói "lữ khách" tƣởng nhƣ
không có quan hệ gì, nhƣng thật ra, chính nhò chỗ ngừng, lời thơ gợi liên
tƣởng đến cái trở ngại cách ngăn, đến con đƣờng xa xăm vời vợi. Đằng sau
hình ảnh sƣớng sa đầy dăm liễu, chính nhà chỗ ngừng, ngƣời đọc bổng cảm
nhận đƣợc cái lạnh của sƣơng chiều, sƣơng đêm. Ngày đã tàn, đêm đã buông,
cái lạnh đã bắt đầu thấm vào ngƣời, mà con đƣ ờng thì còn quá xa xôi, l ẽ nào
lữ khách chẳng dồn chân bƣớc ?
Nhƣ vậy, đây chính là đ ặc điểm thể hiện âm vang Dƣờng thi trong thò
Nôm Đƣờng luật, một trong những biểu hiện xuất sắc tinh hoa thơ Đƣờng, từ
cội nguồn tƣ Mỏng của nó là chịu ảnh hƣỏng của tƣ tƣởng Lão Trang, có
nhiều cảm hứng về cái "vô". Lão tử viết: "Tịch hề, liêu hề, dộc lập như bất
cải, chu hành nhi bất đãi, khả dĩ vi thiên hạ mẫu"(Vừa trống không v ừa yên
lặng, đứng yên một mình không h ề biến đổi, trôi đi kh ắp nơi mà không thôi,
có thể là mẹ của thiên hạ). Đó chính là cái hƣ ảo, cái trống không: đi (nhìn
không thấy), hy (không nghe đƣợc), Vi (nắm không đƣợc). Cái "vô" luôn là
cái cần thiết. Lão Tử đã giảng về chữ' "vô" trong Đạo Đức Kinh nhƣ
sau:"Tam thập lục bức cộng nhất cốc, đường kỳ vô hữu khí chi dụng." (Ba
mƣơi sáu cái rẻ quạt góp lại thành một bánh xe, gi ữa khoảng trống của nó, có
công dụng của cái xe, n ặn đất sét để làm đồ đạc, giữa khoảng trống của nó có
công dụng của đồ đạc). Vậy thì, ửo những chỗ ngừng, nhà thơ đã khơi rộng
không gian của dòng thơ, của bài thơ, t ạo nên khoảng trống( le vide) dù cố ý
hay vô tình, nhà thơ đà thâm nh ập triết l ý thâm thúy của tƣ tƣởng Lão Trang,
cũng là một trong nhƣng tinh hoa tƣ tƣ ởng Đƣờng Thi.
Một trong những đặc điểm thể loại thơ Nôm Đƣờng luật, xét về nhịp
140

ngắt trong dòng thơ nh ất ngôn, chính là nhịp thơ 3-4, là nét độc đáo rất
riêng, rất Việt Nam, có th ể gọi là tính chất phản mã Đư ờng thi.
Trong công trình "Thơ ca Vi ệt Nam- Hình thức và thể loại", tác giả
nhận xét: "Cách Việt hóa đơn giản nhất là sự phối hợp nhịp điệu giữa thơ ta
và thơ Trung quốc, bằng cách xen hai câu th ất ngôn của ta vào trong một bài
thất ngôn bát cú Đường luật" [68: ]. Điều dễ thấy và dễ nhất trí là nhịp 3-4
đậm đà màu sắc dân tộc, nhƣng chúng tôi cho r ằng, ở thế kỷ XIX, không hẳn
phải có đủ hai câu nhƣ những thế kỷ trƣớc. Ở giai đoạn phát triển của thơ
Nôm Đƣòng luật, nghĩa là từ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi đến thơ Hồ
Xuân Hƣơng, đúng là thƣ ờng xuất hiện hai câu thơ th ất ngôn ngắt nhịp 3-4 đi
liền với nhau nhƣ trong câu song th ất của thể song thất lục bát. Ch ẳng hạn
nhƣ những câu thơ sau đây trong Quốc âm thi tập :
- Bạn cũ thiếu / ham đèn li ễn sách,
Tính quen chăng / ki ếm trúc cùng mai.
(Ngôn chí, bài XII)
- Liệu cửa nhà / xem b ằng quán khách,
Đem công danh / đ ổi lẩy cần câu.
(Mạn thuật, bài VIII)
Hay trong Hồng Đức quốc âm thi tập :
- Ngƣời nhớ vua / nhìn sa dũa ng ọc,
Kẻ trông chồng / ngẫm rủi mây xanh.
(Bài Ký)
- Thế Hán, Sở / xem đà mấy chốc,
Cuộc Tần, Tùy / đổi những bao giờ.
141

(Bài Ký)
Thơ Nôm Đƣòng lu ật thế kỷ XIX một mặt vẫn tiếp tục xu hƣớng trên,
đi liền nhau hai câu thơ, gieo v ần lƣng và thuồng xuất hiện ở liên 2 (cặp
thực) hoặc liên 3 (cặp luận) của bài bát cú, nh ững dòng thơ đã có ki ến trúc
đối xứng theo chiều dọc, (trên - dƣới, nhìn trong văn b ản phiên âm), không
cần đến kiến trúc đối xứng theo chi ều ngang . Ch ẳng hạn:
- Bờ cõi xƣa / đà chia đ ất khác,
Nắng sƣơng nay / há đ ội trời chung.
(Ngư Tiều Y thuật vấn đáp - Nguyễn Đình Chi ểu)
- Chồng nhớ vợ / lòng tò b ối rối,
Con thƣơng m ẹ / lụy ngọc tuôn dầm.
(Bài thơ đề nhà mồ vợ - Bùi Hữu Nghĩa).
- Kho phong nguyệt/ hãy chan chan đó,
Vƣờn cúc tòng / còn th ới thới đây.
(Ngọa bịnh ngâm thi - Bùi Hữu Nghĩa)
- Dân sờ khó , / ghé bên tai g ởi,
Quan gật đầu, / vơ ních tr áp vào.
(Vịnh tri huyện Lê Văn Ch ấn - Nguyễn Thiện Kế)
Nhƣng mặt khác, và là mặt chủ yếu, nhịp thơ 3-4 trong thơ Nôm Đƣờng
luật thế kỷ XIX lại có xu hƣớng xuất hiện ở một câu riêng và thƣờng có hư từ
ở vị trí âm tiết thứ tư. Chẳng hạn:
- Những giữ miệng / đà không muốn nói
(Than cảnh nghèo - Nguyễn Công Trứ)
- Vƣờn hoa kia / đ ể ai rong rả
142

(Trách tình nhân - Nguyễn Công Trứ)


- Chửa chán ru / mà quấy mãi đây
(Tự thuật, I - Nguyễn Công Trứ)
- Đã dễ rồi / còn mu ốn dễ dƣng
(Ích kỷ hại nhân - Nguyễn Công Trứ)
- Vì chữ "thời" / nên ph ải chịu luồn...
Phải giống sen / thời chẳng nhuốm bùn.
(Thói đời - Nguyễn Công Trứ)
- Uẩy đá kia / sao khéo b ất bình
(Núi đá chẹt - Nguyễn Quý Tân)
- Quyết mở đƣờng / cho thiên h ạ xem
(Mừng ông trùm - Trần Tế Xƣơng)
Có thể coi đây là dạng thứ 2 của câu thơ có nh ịp 3-4, vừa là sự chia
tách của cặp câu ở dạng thứ nhất, vừa lƣu ý sử dụng hƣ từ để đƣa đẩy ý thơ
giữa hai vế.
Nhƣng đặc trƣng cơ bản của câu thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX có
nhịp 3-4 là thƣờng tạo nên một kiến trúc đối xứng, tức là có một sự đối ngẫu
trong dòng thơ . Đây không chỉ là sự đối xứng lẻ - chẵn, dương - âm (lẻ
trƣớc, chẵn sau, dương trƣớc, âm sau) tạo ra âm đi ệu hài hoà nhƣ là m ột đặc
trƣng nghệ thuật của thơ ca phƣơng Đông, trong đó Đƣ ờng thi cũng có ki ến
trúc đối xứng, nhƣng là ch ẵn - lẻ, âm - dƣơng (chẵn trƣớc - lẻ sau, âm trƣớc-
dương sau) . Đây còn là s ự đối xứng nhƣ là kiến trúc đối xứng trong thành
ngữ, tục ngữ mà PGS Phan Ngọc đã chỉ ra trong bài vi ết "Câu đối, nội dung
của nó" : "Đi ển tích không có cái mã nào ch ỉ dành riêng cho nó, trái l ại
143

thành ngữ, và cùng với nó là tục ngữ chỉ chấp nhận một mã đối xứng"
[66:89], "Kiến trúc đối xứng làm cơ s ở cho tục ngữ và thành ngữ Việt Nam,
tự thân nó mang tính thành ng ữ, bởi vì tính thành ngữ không có gì khác hơn
là chỉ một quan hệ, có giá tr ị phổ biến của một chân lý vĩnh vi ễn và có muôn
vàn áp dụng, không phải chỉ bó hẹp vào câu nói cụ thể" [66:82].
Nói đúng hơn thì câu t hơ có nhịp 3-4 ở đây thiên về kiến trúc đối xứng,
tức không đối xứng hoàn toàn mà thƣ ờng có một chữ không có tính chất đối
xứng xen vào câu thơ. V ị trí của chữ nầy có thể rất linh động để tạo nên tiểu
đối trong những chữ còn lại. Chữ xen vào và không có tí nh chất đối xứng ấy
lại cũng thƣởng là một hư từ.
Nêu nó là âm ti ết thứ 5 trong câu thì tạo nên sự đối xứng giữa các âm
tiết thứ 1, 2, 3 với 4, 6, 7. Chẳng hạn:
Đó một thì / đây cũng một thì.
(Hậu trung thu vọng nguyệt - Nguyễn Quý Tân)
Nêu nó là âm tiết thứ 6 trong câu thì t ạo phép đối ngẫu giữa các âm tiết
thứ 1, 2, 3 vói 4, 5, 7. Ch ẳng hạn:
Bên văn sang / bên võ cũng sang
(Vịnh văn võ - Nguyễn CôngTrứ)
Nếu nó là âm ti ết thứ 7 trong câu thì t ạo phép đối ngẫu giữa các âm tiết
thứ 1, 2, 3 với 4, 5, 6. Ch ẳng hạn:
Đứng núi nầy / trông núi n ọ cao
(Trách tình nhân - Nguyễn Công Trứ )
Tuy nhiên, qua thống kê, có th ể thấy vị trí của chữ không có tính ch ất
đối xứng, thƣờng là hƣ t ừ, xuất hiện phổ biến ở âm tiết thứ 4, nghĩa là ngay
144

sau nhịp ngắt, đứng đầu vế thứ hai. Chúng tôi cho r ằng chính s ự xuất hiện
của hƣ từ nầy ở âm tiết thứ tƣ là mang ý nghĩa thi pháp vì nó có kh ả năng
tăng cƣờng hiệu quả nghệ thuật của kiến trúc đối xứng hơn ở đâu hết. Đặc
biệt là sự xuất hiện của quan hệ từ "mà" với một tần số khá cao :
Chị cũng xinh / mà em cũng xinh
(Tranh tố nữ - Hồ Xuân Hƣơng)
- Bạc quá vôi / mà m ỏng quá mây
(Vịnh nhân tình thế thái - Nguyễn Công Trứ)
- Danh chẳng ham/ mà l ợi chẳng mê
(Vịnh Di T ề - Nguyễn Công Trứ)
- Ta mặc ta / mà ai mặc ai
(Cầm kỳ thi tửu, I - Nguyễn Công Trứ)
- Cu ở đâu / mà cu đ ến đây ?
(Vịnh chim cu - Nguyễn Quý Tân)
- Cũng chẳng giàu/ mà cũng ch ắng sang
(Tự trào - Nguyễn Khuyến)
- Mã cũng chui / mà t ốt cũng chui
(Thành Pháo - Tú Xƣơng)
- Chẳng phải quan/ mà ch ắng phải dân
(Tự trào - Tú Xƣơng)
Chúng tôi coi t ắt cả các câu thơ có nhịp 3-4 thiên về kiến trúc đối xứng
là dạng thứ 3 và là dạng cơ bản thể hiện đặc trƣng về nhịp điệu câu thơ Nôm
Đƣòng luật. Đúng nhƣ PGS Phan Ng ọc đã quan ni ệm : "Cái kiến trúc đối
xứng có một ngữ nghĩa riêng về mặt thẩm mỹ rất hiển nhiên, nằm ngoài
145

các yếu tố tạo nên nó và chính cải ý nghĩa thẩm mỹ nàv đã cấp cho t ất cả các
ngôn ngữ lấy âm tiết làm đơn vị cơ bản một đặc điếm chung về nghệ thuật là
sự ham thích các ki ến trúc đối xứng" [63:60]. Cùng v ới rất nhiều biểu hiện
khác của sự đối ngẫu, câu thơ ở dạng này tạo ra âm đi ệu hài hòa nhƣ là m ột
vẻ đẹp của thơ Việt Nam nói riêng, thơ phƣơng Đông nói chung. Đúng nhƣ
GS Lê Trí Viễn trong chuyên đ ề Đặc trưng của Văn học Trung đ ại Việt Nam
nhận xét : "Vũ trụ có đêm ngày, mặt trăng mặt trời, loài vật hoa trái đ ều có
trống mái, đực cái, văn chương có đôi có đáp, có hô có ứng, có bằng có trắc,
có niêm có lu ật, đó là đối ngẫu tạo ra âm đi ệu hài hòa". [93:4]
Lý giải nhịp 3-4 nhƣ là một hiện tƣợng văn học độc đáo, nhà nghiên
cứu Hoài Thanh, trong khi lu ận về cá tính hai dân tộc Việt Nam và Trung Hoa
có nhận xét : "Hai câu thơ l ẻ của Tàu cũng như mái nhà b ốn góc cong vút của
họ hướng đến một vẻ phóng phiếm hoa mỹ của thảo mộc, còn nhịp thơ chẵn ở
cuối cùng cũng như l ối kiến trúc chắc nịch của ta hư ớng đến sự vững chãi
của bình yên của đất đá". Chúng tôi ch ấp nhận ý kiến của Hoài Thanh chỉ với
nhận thức rằng nhịp thơ 3-4 nhƣ là một phản mã Đƣờng thi nói riêng, phù h ợp
nhịp điệu tâm hồn dân tộc Việt Nam nói chung, m ột hiện tƣợng dân t ộc hóa.
Tuy nhiên, qua khảo sát cũng th ấy rằng nhà thơ Nôm Đƣờng luật rấtt ham
thích các kiến trúc đối xứng nhƣ là "một nội dung khách quan, n ội dung của
kiến trúc, nằm ngoài từng yếu tố và nằm ngoài cái câu đư ợc nói ra" [66:81-
82]. Phải chăng nhịp thơ 3-4 là một biểu hiện của sự giao lƣu giũa tri ết l ý hài
hòa trong ngh ệ thuật phƣơng Đông c ổ và tâm thức dân gian của dân t ộc Việt
Nam, đặc biệt qua các kiến trúc đối xứng của thành ngữ, tục ngữ ?
146

CHƢƠNG NĂM: HỆ THỐNG NGÔN NGỮ THƠ NÔM ĐƢỜNG LUẬT THẾ
KỶ XIX
Tiến trình vận động đặc thù của tƣ duy nghệ thuật ở mỗi thể loại đƣơng
nhiên dẫn đến việc khai thác, huy động những tiềm năng của ngôn từ, những
quan hệ liên kết các ngôn t ừ có những phƣơng diện khác nhau. Nghiên cứu về
ngôn ngữ là nghiên cứu các mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và phong cách, tu
từ. Đồng thời luận án là một công trình nghiên c ứu văn học, nên quan tâm
trƣớc hết đến giá trị biểu cảm hay sức truyền cảm, khả năng tạo dựng hình
ảnh, hình tƣợng và bộc lộ chủ đề, phản ánh cuộc sống của nó. Nêu ở chƣơng
trƣớc, chúng tôi đi sâu vào hình tƣ ợng là để tiếp cận đặc trƣng th ể loại về
phƣơng thức thể hiện thì ở chƣơng này, đi sâu vào ngôn ng ữ chính là tìm hiểu
đặc trƣng thể loại về chất liệu. Tất nhiên, gi ữa hai chƣơng có nhi ều liên quan
mật thiết vì một trong nh ững đặc điểm của ngôn ngữ văn học là có lín h hình
ảnh và đơn vị nhỏ nhất của hình tƣợng văn học là hình tƣợng ngôn ngữ.
Nói một cách t ổng quát, có th ể thây trong thơ Nôm Đƣờng luật thế k ỷ
XIX có hai hệ thống ngôn ngữ, một gần với Đƣờng thi và một lại xa Đƣờng
thi, lại gần với văn học dân gian, với đời thƣờng, rất Việt Nam.
5.1. Hệ thống ngôn ngữ gần với Đường thi
5.1.1. Ngôn ngữ có số lƣợng tiết kiệm, cấu trúc chặt chẽ và ý nghĩa
hàm súc, kết tinh
147

Dùng l ý thuyết Tin học, Umberto Eco gi ải thích rằng khi ý nghĩa
(meaning) của một thông đi ệp (message) càng rõ r ệt bao nhiêu thì số lƣợng
thông báo (in formation) càng ít đi b ấy nhiêu. Thơ Đƣờng luật, với hai hình
thức bát cú và tứ tuyệt (không kể hình thức bài luật) có số lƣợng chữ (âm
tiết) rất tiết kiệm. Trừ những bài thơ lục bát chỉ hai dòng (14 chữ), bài thơ tự
do 20 chữ trở xuống, bài thơ hài cú của Nhật thì bài ngũ ngôn tuyệt cú Đƣờng
luật với 20 âm tiết (chữ) là ngắn nhất. Tuy nó "nói"rất ít nhƣng lƣợng thông
báo của nó lại rất nhiều, bởi nó gợi vô cùng. Để có đƣợc sức gợi ấy, có rất
nhiều biện pháp, trong đó có vi ệc sử dụng những từ đa nghĩa, hay từ đa ngữ
nghĩa (pol ysemous word). Nhà nghiên c ứu A.Gurevich t ừng chỉ ra rằng :
"Năng lực cùng một văn bản mà giảng được nhiều nghĩa là một phẩm chất
nhất thiết phải có ở người trí thức trung cổ" [26:13]. Mặc dù ông đã khái
quát vấn đề từ văn học phƣơng Tây nhƣng nh ận định này là phù h ớp với sự
khảo sát của chúng tôi vê ngôn ng ữ thơ Nôm Đƣờng luật. Tát nhiên, s ự hàm
súc nói ở đây là ƣu thế của thể thơ , đƣợc thể hiện ở nhiều cấp độ : từ, ngữ,
câu thơ và cả bài thơ. Cả một hệ thống từ hàm súc tạo nên sự hàm súc trong
lừng liên thơ, nhờ đó bài thơ mới thể hiện đƣợc "tinh lý của sự vật". Song
biểu hiện đƣợc sự vật ở điểm bản chất nhất thật sự là một thách đố không
phái nhà thơ nào cũng vƣ ợt qua nổi. Trong thơ Hồ Xuân Hƣơng ch ẳng hạn,
những "ngọng xem chuông " "dê cỏn buồn sừng " "học nói nói không nên ", ...
là thứ ngôn ngữ thật hàm súc về cái dốt đến ngớ ngẩn buồn cƣời cùa bọn học
trò dốt lại khoe khoang ch ữ nghĩa, còn bày đ ặt làm thơ gh ẹo phụ nữ !.
148

Một biện pháp nữa góp phần tạo nên sức gợi ở thơ Nôm Đƣờng luật
khiến nó gần gũi với ngôn ngữ Đƣờng thi là s ử dụng ngôn ngữ mang tính khái
quát. Ở những bài thơ này, nhà thơ mu ốn thể hiện cái chung, cái vĩnh c ửu, do
đó luôn có khuynh hƣớng loại bỏ những gì là có v ẻ vụn vặt, chi tiết. Nhà
nghiên cứu Nhữ Thành đã có l ý gi ải : "Cái tứ ớ thơ Đư ờng không phải ở chỗ
chạy đuổi theo sự vật mà ớ chỗ thống nhất sự vật lại bằng tư duy. Một khi đã
đi theo con đường này thì bản thân các từ gần nghĩa với nhau phải thống
nhất lại." [62:64]. Có lẽ các nhà thơ mu ốn quy về ý nghĩa chung nh ất, "quy
kỳ căn", về cái "chân như" nhƣ ở m ỹ học Thiền ? Thử khảo sát thơ Bà Huyện
Thanh Quan với bài thơ liêu bi ểu Qua đèo Ngang. Có ph ải ở câu kết, nữ sĩ
viết:
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Dƣờng nhƣ "mảnh tình riêng" không phải chỉ là của bà Nguyễn Thị Hinh ở
ngay nơi đã từng chứng kiến cuộc phân tranh Nam B ắc triều và cuộc xung đột
Trịnh - Nguyễn gây chiên tranh liên miên hàng m ấy thế k ỷ ở vùng Nghệ An,
Hà Tĩnh, Quảng Bình. Chắc chắn mỗi một độc giả sẽ cảm nhận cái hay của
câu thơ trong từng hoàn cảnh riêng của mình. Bởi vì trên đời này có bi ết bao
ngƣời mang nỗi niềm sâu kín, chỉ biết chôn sâu tâm sự tận đáy lòng không
thể thổ lộ cùng ai. Nhƣ v ậy câu thơ đã mở ra những khả năng cảm thụ khác
nhau. Nó nhƣ m ột câu đố mà ngƣời đọc tự tìm lấy lời giải cho mình.
Để có đƣợc sức gợi, thơ Nôm Đƣờng Luật thế k ỷ XIX cũng chú ý sử
dụng những thực từ (Tất nhiên là có sự kết hợp với nhiều biện pháp khác). H ệ
thống những thực từ khiến cho ngôn ngữ gợi đƣợc ở ngƣời đọc những liên
tưởng, càng làm cho nó thêm mơ hồ, đa nghĩa, có cái gì hƣ hƣ
149

thực thực. Đây là những lời thơ đậm đà phong vị Đƣờng thi. Thử khảo sát
bài "Đề tranh mỹ nữ"của Phạm Thái:
Hƣơng tiêu gác v ắng nhặt ca oanh,
Bận mối sầu khêu gƣợng khúc tranh,
Sƣớng đỉnh trƣớng treo từng giục mộng,
Nguyệt bên rèm t ỏ dễ si tình.
Vàng thƣa thớt cúc tan hơi đạm,
Lục phát phơ sen đọ rạng thanh.
Trang điểm ngại chăm dừng trục gấm,
Phòng tiêu l ạnh lẽo khóa xuân xanh.
Có thể nói hầu hết bài thớ là thực từ, không chỉ khắc họa chân dung ngƣ ời
con gái đẹp trong tranh, nét đ ẹp rất thanh nhã cùng bi ết bao mộng đẹp ... thế
mà tất cả những cái đẹp ấy dƣờng nhƣ bị chôn vùi, nhốt kín giữa bốn bức
tƣờng của phòng tiêu lẽ ra ấm cúng mà lạnh lẽo vô cùng. Ngƣời đọc lại còn
có nhiều liên tƣởng giữa tuổi xuân xanh của ngƣời con gái với tiếng chim
oanh hót ca vang trời, giữa con ngƣời mở mộng đa tình v ới thiên nhiên xinh
đẹp. Là sƣơng, là nguyệt, hay con ngƣ ời nhìn sƣơng, nhìn nguyệt thì từng
giục mộng, dễ si tình, nào ai có bi ết ?
Một trong những yếu tô góp phần cho sự hàm súc và gợi liên tưởng của
thơ Nôm Đƣờng luật chẳng kém Đƣờng thi là bởi thể loại này cũng đã sử
dụng với tỷ lệ cao nhất những từ ngữ đối lập trong bài thơ. Chính hệ thống từ
ngữ đối lập này cũng tạo ra những không gian rộng lớn : Cây biếc dƣới trên -
Mây vàng cao th ấp (Núi Con Voi - Phạm Thái ), vi ễn phố - cô thôn, dƣ ới núi -
bên sông (Nguyễn Thị Hình ), Xiên ngang m ặt đất -Đâm toạc chân mây (H ồ
Xuân Hƣơng )... tạo ra thời gian tuần hoàn : xuân
150

đi, xuân l ại (Hồ Xuân Hƣơng), tuế nguyệt, kim cổ (Nguyễn Thị Hinh) ... t ạo
ra cả một bức tranh toàn di ện của cuộc sống : xe ngựa - lâu đài, năm n ắng -
mƣời mƣa .... Sự đối ngẫu trong thơ bát cú và t ứ tuyệt là một đặc trƣng rõ
nét, tạo ra một cấu trúc vững chắc ở ngôn ngữ thơ (từ, ngữ, và câu thơ) .Có
thể xem liên 2, liên 3 trong bát cú và nh ững câu "khai" (dòng 1), "thừa
"(dòng 2) trong tuyệt cú (với điều kiện 2 câu này có đối) là một tiểu vũ trụ,
trong đó luôn có sự chuyển hóa giữa hai mặt đối lập nhƣ âm tính và dƣơng
tính trong trời đất: cái tĩnh - cái động, quá kh ứ -hiện lại, cái thực - cái hƣ ...
bởi nó là nằm trong cấu trúc phong phú c ủa sự liên tƣởng
Ngôn ngữ thơ Nôm Đƣờng Luật còn gần gũi với ngôn ngữ Đƣờng Thi ở
tính chính xác và sự tinh tế, tao nhã. Tuân thủ nghiêm ngặt những qui luật về
âm, thanh, v ần, nhịp, niêm và đối, ngôn ngữ trong bài thơ nh ờ vậy vừa hàm
súc mà vừa chính xác. Có th ể nói mỗi chữ trong bài thơ nhƣ m ột hành tinh
trong thái dương hệ, không thể thay đổi vị trí hay xóa bỏ bất cứ một đơn vị
nhỏ nào dù là một câu, m ột về, thậm chí một chữ mà không tạo nên sự hụt
hẫng trong hệ thống. Sự tinh tế, tao nhã có th ể tìm thấy ở thơ Hồ Xuân
Hƣơng, Nguyễn Thị Hinh, Nguyễn Khuyến, Tú Xƣơng, Chu Mạnh Trinh ....
Có thể khảo sát bài "Tổng vịnh Truyện Kiều" 'của Chu Mạnh Trinh đ ể thấy rõ .
Nếu Nguyễn Du thật tinh tế, tao nhã trong câu Ki ều "Nhị đào thà b ẻ cho
người tình chung" thì ở Chu Mạnh Trinh, cũng tinh t ế, tao nhã không kém;
nhất là khi phác họa nét tổng quát về đời Kiều :
Cuốn ngỏ rèm xuân trải mấy sƣơng.
Câu thơ ti ếp theo tuy có chút gì t ỏ ý trách móc nhƣng vẫn giữ đƣợc sự
trang nhã của lời thơ và t ấm lòng nhân h ậu của tác giả :
151

Sắc tài chi lắm để làm gƣơng.


Ở những tác giả chịu ảnh hƣởng khá đậm của nền văn chƣơng cổ Trung
Quốc nhƣ Phan Thanh Gi ản, Bùi Hữu Nghĩa, Hu ỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Đình
Chiểu, Phan Văn Trị,..., vi ệc sử dụng điển cố, điển tích văn h ọc và cách "lấy
chữ" vẫn còn khá phổ biến. Nhà thơ có thể dùng thực điển - những điển cố có
thật - thƣờng lấy trong sách sử Trung Quốc, chẳng hạn :
Dâng gấm sân chầu danh cổ thuở,
Sách nhƣờng Tô Huệ bực văn chƣơng.
( Dệt gấm - Phan Thanh Gi ản)
Nhà thơ có th ể dùng hư điển - những điển tích không có trong th ực tế
mà là rút ra từ các truyện hoang đƣờng, truyện thần tiên, truyện cổ tích của
Trung Quốc, trong các cuốn Tản văn .... Chẳng hạn "tang bồng" trong :
Rắp mƣợn điền viên vui tuế nguyệt,
Dở đem thân th ế hẹn tang bồng.
( Đi thi tự vịnh - Nguyễn Công Trứ )
Ngoài ra, nhà thơ cũng thƣ ờng mƣợn một vài từ trong cổ văn, cổ thi để
diễn đạt tình ý của mình, chẳng hạn :
Các bạn tri âm chƣa gặp gỡ,
Thẹn cùng cúi ngửa biết bao nhiêu.
(Ngũ Tử Tư xuy tiêu - Bùi Hữu Nghĩa)
Nhìn chung, chúng tôi th ấy rằng nếu sử dụng đúng cho nh ững điển cố,
điển tích văn học và "l ấy chữ" khéo léo thì s ẽ có tác dụng thẩm m ỹ nhất định
vì:
- Dùng ít chữ mà nói đƣợc nhiều ý, câu thơ thêm hàm súc.
152

- Có khả năng gợi liên tƣởng và giúp lời thơ thêm trang nhã, thâm thúy.
Ngƣợc lại, nếu sử dụng thiếu sáng tạo, câu thơ s ẽ trở thành "sáo ngữ".
Thật ra, lối dùng điển cố (allusion) thƣ ờng cũng chỉ là những ẩn dụ
(métaphore) của nhà thơ xƣa, m ột bút thuật (figure de sl yle) dùng ít ch ữ để
ngƣời đọc hiểu ra nhiều nghĩa, do đó, hiệu quả nghệ thuật của nó tùy thuộc
vào trình độ bút thuật của nhà thơ.
Qua thống kê về số câu thơ có sử dụng điển cố và thi li ệu Hán học (sau
đây, xem bi ểu bảng số 2 trang 212 phần phụ lục) chúng tôi thây : tr ừ hai nhà
thơ sử dụng tƣơng đối nhiều là Hu ỳnh Mẫn Đạt (15 câu / 72 câu kh ảo sát, t ỷ
lệ 20,8%), Nguyễn Đình Chi ểu (41/256 câu kh ảo sát,t ỷ lệ 16,1%) thì h ầu hết
các nhà thơ còn l ại đều ít sử dụng điển cố (chỉ từ 10% trở xuống) nhất là khi
so với Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập là 15% và nhóm Tao Đàn nhị thập
bát tú trong Hồng Đức quốc âm thi t ập là 10,1 % (2 số liệu cuối lấy trong
[81:127]).
Việc sử dụng điển cố, thi liệu Hán học là một hiện tƣợng "tập cổ" rất
quen thuộc trong nền văn chƣơng trung đ ại Việt Nam. Sự giảm dần, nhạt dần
của hiện tƣợng này trong quá trình phát tri ển thơ Nôm Đƣờng luật có thể góp
phần xác định chặng đƣờng thế kỷ XIX là thuộc phạm trù văn học hậu trung
đại. Ngoài ra, n ếu ở các giai đoạn trƣớc, điển cố và thi li ệu Hán học thƣờng
tập trung thể hiện những chủ đề phẩm chất đạo đức và lý tưởng kẻ sĩ thì ở
đây lại chủ yếu thuộc về lĩnh vực tình cảm. Chẳng hạn trong 6 thi liệu Hán
học của Hồ Xuân Hƣơng thì có 3 thi liệu lấy từ Kinh Thi.
153

- Chiếc bách buồn về phận nổi nênh


(Tự tình, II)
- Xiêu mai chi dám tình trăng gió,
( Tranh tố nữ)
- Nghìn năm còn khỏi liếng nương dâu.
( Quan thị)
Một bộ phận không nhỏ trong ngôn ngữ thơ Nôm Đƣờng Lu ật thế k ỷ
XIX là ngôn ngữ ước lệ, chứng tỏ nó vẫn thuộc phạm trù văn chƣơng trung
đại. Đây là một trong những thủ pháp về ngôn từ, là một nhu cầu của thơ trữ
tình để bù đắp lại sự xóa mờ cái tôi cá th ể. Thế giới từ ngữ ở đây vẫn còn rơi
rớt quan niệm muốn vƣơn tới sự đồng hóa giữa cái tôi cá nhân cá thể với vũ
lại, với cộng đồng. Nói cách khác, tính ch ất ƣớc lệ của ngôn ngữ là một trong
những biểu hiện của tính vô ngã, đặc trƣng nổi bật của văn chƣơng trung đ ại.
vốn là những hình ảnh đã nằm trong lối mòn, đƣợc chấp nhận bởi cộng đồng
nên ngôn ngữ ƣớc lệ thực hiện nhu cầu xóa mờ đƣờng viền cá thể. Trong thơ
Hồ Xuân Hƣơng, đó là : hồng nhan, nư ớc non, chi ếc bách, gồ Bồng Đảo, lạch
Đào nguyên, con Ng ọc thỏ, chị Hằng nga, xi ếu mai, bồ liễu, tiếng nương dâu,
ba sinh, hồ thỉ.... Trong thơ Ph ạm Thái, đó là : hương tiêu, phòng tiêu, kh ốn
xuân xanh .... Trong thơ Nguyễn Công Trứ, đó là : ơn mưa móc, h ội gió mây,
tùng cúc, vòng cương t ỏa, cuộc yên hà, tuế nguyệt, tang bồng, tài lương đ ống
... Trong thơ Bùi Hữu Nghĩa, đó là : khói nước năm hồ, đống xương vô định,
tiếng sắt cầm ... Trong thơ Hu ỳnh Mần Đạt, đó là : đuôi phượng, mình r ồng,
phận hồng nhan, chín trùng, k ẻ Tràng An, tấm lồng quế ngọc, lầu xanh,
154

thuyền tình, bể ái sóng sắc, rừng thiền, đồng đào, chu ồng quế.... Và đây là
hai câu thơ chứa nhiều hình ảnh ƣớc lệ:
Ngả ngớn lƣ ng trâu, ngơ vọt mục,
Loi thoi bóng ác khẳm thuyền tiều.
Nhƣ vậy, nếu sử dụng đúng chỗ thì ngôn ngữ ƣớc lệ cũng tạo đƣợc hiệu
quả nghệ thuật, có thể nói ít gợi nhiều, làm cho hình ảnh đƣợc hư hóa, trừu
tượng hóa, tăng thêm ý nghĩa phổ quát, giảm đi tính cá bi ệt, cụ thể. Trong
bài : "Mấy điều nhớ lại trên đường tiếp xúc với văn học Trung Hoa "GS Đặng
Thai Mai nhận xét: "Đối với các bài th ất ngôn, ngũ ngôn, với thể văn biền
ngẫu của ta, cũng như của Trung Quốc, đọc lên lắm lúc cũng có cái c ảm giác
như là giữa cổ nhân với mình, khi đã sẵn có ít nhi ều ước lệ thì cứ đi tới là tự
nhiên sẽ có một địa điểm gặp nhau" [56:299]. Thử đọc hai câu thơ của Phạm
Thái:
Trang điểm ngại chăm dừng trục gấm,
Phòng tiêu l ạnh lẽo khóa xuân xanh.
( Đề tranh mỹ nữ)
Quả thực, những câu thơ đ ầy ƣớc lệ nhƣ vậy lại có khả năng khi ến cho
ngƣời đọc có thể soi bóng tâm hồn mình trong dòng sông thơ đ ầy tâm trạng,
và tùy theo m ỗi một tâm trạng cá nhân, ngƣời đọc lại tiếp tục quá trình c ụ thể
hóa nó qua tâm tr ạng của riêng mình. Cũng do v ậy, ƣớc lệ góp phần cho tính
hàm súc của ngôn ngữ. Mặt khác, dù ƣớc lệ, ở những nhà thơ có tài, nó v ẫn là
thứ ngôn ngữ của sự sáng tạo. Ngƣời nghệ sĩ luôn nhận thức rằng trong ngh ệ
thuật, không có gì đáng s ợ cho bằng sự đầu độc của cái đơn điệu, ở đó cái
đẹp bị vo tròn, bị uốn nắn theo sự qui ƣớc đã định sẵn. Nhiều nhà thơ Nôm
Đƣờng Luật thế k ỷ XIX tuy sử dụng
155

ngôn ngữ ƣớc lệ nhƣng vẫn có sáng t ạo. Chẳng hạn khi Hồ Xuân Hƣơng viết:
- Trơ cái hồng nhan với nƣớc non. (Tự tình, II)
- Cán cân tạo hóa rơi đâu m ất,
Miệng túi càn khôn khép l ại rồi.
(Khóc ông phủ Vĩnh Tường)
5.1.2. S ự tồn tại của hệ thống từ Hán Việt:
Khảo sát ngôn ngữ thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX, chúng tôi nhận
thấy sự tồn tại của hệ thống từ Hán - Việt cũng là một đặc trƣng có ý nghĩa
thi pháp thể loại. Nó khẳng định một lần nữa thể loại này thuộc phạm trù văn
chƣơng trung đại. Tất nhiên, về từ Hán - Việt, từ cổ Hán - Việt khá rắc rối,
phức tạp không thể đơn giản hóa đƣợc. Thí dụ :
Việt nay : Hán - Việt nay : Cổ Hán - Việt:
việc dịch việc
hạ hè
Do đó, để có cơ sở khoa học, tạm thời chúng tôi d ựa vào quan niệm của
Phan Ngọc trong "Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt":
Từ đơn tiết (Hình th ức) Từ thuần Việt (Nội dung)
Từ đa tiết (Hình thức) → Từ Hán - Việt (Nội dung)
Ngoại lệ có những từ đơn tiết nhƣng vẫn là từ Hán - Việt nhƣ "trì" (cái
ao), ấn, thần, mật, ... bởi cảm thức ngôn ngữ dân tộc Việt không th ể xem đây
là những từ thuần Việt. Với sự xác định nhƣ vậy về từ Hán -Việt, chúng tôi
nhận thấy :
Một là, từ Hán - Việt trong ngôn ngữ thơ Nôm Đƣờng luật đã góp phần
đem lại màu sắc trừu tượng, khái quát trong bài thơ, làm nên chi ếc
156

cầu nối giữa thơ Nôm Đƣ ờng luật với Đƣờng thi và Đƣờng luật Hán. Thử
khảo sát bài "Thăng Long hoài cổ" (Nguyễn Thị Hinh), đi ều thú vị là hai chữ
(hai âm tiêt)cu ối của cả 8 dòng thơ đ ều là những từ Hán - Việt : hí trư ờng,
tinh sương, thu th ảo, tịch dương, tuế nguyệt, tang thương, kim c ổ, đoạn
trường. Chính cái lung linh của từ Hán - Việt có sắc thái ý nghĩa khái quát,
trừu tƣợng, trang trọng của nó đã tạo cái vẻ mơ hồ, hƣ hƣ thực thực, cái bàng
bạc muôn thuở rất thích hợp cho một nỗi buồn hoài cổ. Qua thống kê (bảng
biểu số 2 trang 212 phần phụ lục), thơ Bà Huyện Thanh Quan có t ỷ lệ sử dụng
từ Hán - Việt cao nhất: chỉ 6 bài thơ, trong 48 câu thơ thì đã có 32 t ừ Hán
Việt, trung bình cứ 1,5 câu thơ thì có 1 t ừ Hán -Việt. Phải chăng đây là một
cơ sở khoa học để góp phần l ý giải, khẳng định thế giới nghệ thuật trong thơ
bà là thế giới của sự hoài ni ệm ?.
Hai là, trong khi sử dụng từ Hán - Việt, các nhà thơ Nôm Đƣ ờng luật
cũng quan tâm đến vấn đề đối tượng. Chẳng hạn, khi nhà thơ hƣớng ngòi bút
với tất cả tâm tƣ, cảm xúc của mình về những con người trung nghĩa, khí
khái,cao cả, nhất là khi h ọ đã hy sinh, bài thơ cần tính chất trang trọng,
thống thiết thì nhà thơ s ử dụng nhiều từ Hán - Việt hơn là những lúc khác.
Nhà nghiên cứu Hồng Dân có đƣa ra m ấy dẫn chứng cụ thể về thớ Nguyễn
Đình Chiểu : "Hai bài "Nước lụt "và "Chạy giặc"(đều là thơ 8 câu 7 ch ữ) chỉ
có 9 từ gốc Hán : 2 từ chỉ tên riêng là "Hạ Vũ "và "Tây", còn 7 từ kia là
giang sơn, b ất tái, vô dụng, dân, th ế, loạn, nạn. Trong lúc đó, hai kh ổ đầu
của bài thơ Điếu Trƣơng Công Đ ịnh (cũng đ ều là thơ 8 câu 7 ch ữ ) có đến 24
từ gốc Hán : 1 từ chỉ tên riêng là "Nam " còn 23 từ kia là trận, bạch quỷ, thể,
hoàng môn, ứng nghĩa, ấn, bình tây.
157

anh hùng, đi ếu, linh hồn, thần, linh, tướng quân, s ớ, mật, lãnh binh, bằng,
dân, nam tử, nghịch thần, tướng, tinh, gian truân" [19:10].
Ba là, qua số liệu thống kê, chúng tôi thấy nhà thơ có khuynh hướng
giảm dần từ Hán - Việt, ngày càng sử dụng từ thuần Việt nhiều hơn. Đến Tú
Xƣơng, dƣờng nhƣ chỉ còn rất ít từ Hán Việt, lại thƣờng chỉ là những từ Hán
Việt rất phổ biến, gần nhƣ là đƣợc Việt hóa hoàn toàn. Đây là vài d ẫn chứng
tiêu biểu :
- Hai đứa tranh nhau cái thủ khoa ,
Tuân khoe văn hoạt, Nghị văn già .
( Khan Canh Tý(1900))
Ở thơ Nguyên Thi ện Kê cũng v ậy , trong 4 bài th ất ngôn bát cú (32
câu) mà chỉ có 10 từ Hán - Việt, là những từ rất dễ hiểu : giao thi ệp , diễn
thuyết, văn minh, th ế lực...
Bốn là, vẫn còn hiện tƣợng nhà thơ dùng Hán ngữ trong khi đặt nhan
đề cho bài thơ. Chẳng hạn : Thăng Long hoài cổ (Nguyễn Thị Hinh), Thân
Bao Tƣ tống Ngũ Tử Tƣ, Ngũ Tử Tƣ xuy tiêu, Quan Công thất thủ Hạ Bì),
Ngọa bịnh ngâm thi (Bùi Hữu Nghĩa), Dạ nguyệt phiếm chu, Ngộ hữu (Hu ỳnh
Mẫn Đạt), Vịnh thu liên (Nguyễn Đình Chiểu) Từ Thứ qui Tào, Tôn Phu nhân
qui Thục (Tôn Thọ Tƣờng), Cảm hoài, Tuyệt cốc (Phan Thanh Giản) .... Điều
này, theo chúng tôi, cũng ch ỉ là do thói quen c ủa nhà thơ trung đại và cũng
chứng tỏ ảnh hƣởng sâu đậm của nền Hán học.
5.1.3. Câu thơ có cấu trúc độc đáo: lƣợc bổ chủ ngữ. (và hiện tƣợng vô
nhân xƣng)
158

Nhƣ trên có nói, xu hƣ ớng chung của ngôn ngữ văn chƣơng trung đại là
nhằm xóa mờ đƣờng viền cá thể, thể hiện tính vô ngã nên lời thơ hầu nhƣ
thƣa vắng đại từ làm chủ ngữ. Nói rộng ra, lời thơ mang tính ch ất vô nhân
xưng, nghĩa là không cần biết ai nói, nói về ai và nói với ai nữa. Thử khảo sát
bài thơ "Qua đèo Ngang"(Nguy ễn Thị Hinh)
- Bƣớc tới đèo Ngang, bóng xế tà,
- Dừng chân đứng lại : trời, non, nƣớc,
Ai bƣớc tới đèo Ngang ? Ai dừng chân đứng lại ? Bà Nguyễn Thị Hinh hay là
ai khác? Điều đó theo chúng tôi không quan tr ọng, bởi ở đây không phải là
một cá nhân cụ thể đang bước tới, đang dừng chân mà là một cảm thức vũ trụ
: cái bơ vơ lạc lõng của con ngƣời đang hoài ni ệm về quá khứ giữa cái bao la
rộng ngợp của đất trời vô hạn :
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Rõ ràng, "ta "không phải là "tôi" nhƣng "ta với ta "cũng chỉ là cách nói ám
chỉ một sự lẻ loi cô độc, một trạng thái cô đơn tột cùng. Sau này,trong thơ
Nguyễn Khuyến, ngay cả khi "Bạn đến chơi nhà", mặc dù "Đầu trò ti ếp khách
trầu không có " nhà thơ v ẫn tha thiết:
"Bác đến chơi đây ta với ta"
có lẽ cũng chính vì nỗi lẻ loi cô độc của con ngƣời. Ngay cả trong thơ Hồ
Xuân Hƣơng, là con ngƣ ời đi trƣớc thời đại, con ngƣời dồi dào cá tính ph ụ
nữ, luôn bừng dậy những khát vọng hạnh phúc cá nhân, tính ch ất "nhân
xưng" 'cũng chỉ xuất hiện 15 lần :
- Này của Xuân Hương mới quệt rồi
(Mời trầu)
159

- Thân em vừa trắng lại vừa tròn


(Bánh trôi)
Cái tôi trực diện , xuất hiện với cƣơng vị chủ thể của động thái nhƣ vậy rất
hiếm !
Nhƣng xét đến cùng, xu hƣớng lược bỏ chủ ngữ dường nhƣ cũng còn là một
thói quen trong cách di ễn đạt của ngƣời xƣa, kể cả nhân dân lao động. Có
nhiều nhà thơ Nôm Đƣờng Luật thế kỷ XIX đã sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật
có cấu trúc gần với thành ngữ, tục ngữ, châm ngôn. Ch ẳng hạn:
Rƣợu cúc, nhãn đem,hàng biếng quẩy,
Trà sen, ƣớm hỏi, giá còn kiêu.
( Tú Xƣơng )
Quả thật, khi lƣợc bỏ chủ ngữ, nhà thơ không muốn, không ƣa nói đ ến cái tôi
cá nhân cá thể. Nó nhƣ là một phong cách của ngƣời xƣa, có cái gốc từ trong
tƣ tƣởng, do đó, biểu hiện trong văn chương bác học đã đành mà cả trong văn
học dân gian, thậm chí trong ngôn ngữ hàng ngày của nhân dân Vi ệt Nam
thời trung đại.
5.2. Hệ thống ngôn ngữ dân tộc
Trong hệ thống ngôn ngữ thơ Nôm Đƣờng luật, bên cạnh thứ ngôn ngữ
gần với Đƣờng thi, chúng tôi đ ặc biệt lƣu ý đến bộ phận từ thuần Việt và từ
Việt hóa (trong Luận án này, xu ất phát từ mục đích nghiên c ứu, chúng tôi s ẽ
không phân bi ệt và gọi chung là từ thuần Việt), ngôn ngữ văn học dân gian
và đại bộ phận của ngôn ngữ đời sống (vì trong ngôn
160

ngữ đời sống có mội số ít là ngôn ngữ ngoại nhập, chủ yếu là tiếng Việt gốc
Pháp, Trung, Anh ...)
5.2.1. Bộ phận từ thuần Việt:
Khi khảo sát sự tồn tại của hệ thống từ Hán Việt, chúng tôi ít nhi ều
cũng đã xác định khái ni ệm từ thuần Việt. Tuy nhiên, chúng tôi th ấy cũng cần
xác định thêm rằng: một số từ gốc Hán ( Cổ / Tiền Hán Việt) và m ột số từ có
âm Hán Việt trùng v ới âm Cổ/Tiền Hán Việt đã vào tiếng Việt rất sớm, trải
qua quá trình phát tri ển lịch sử lâu dài đã có đ ầy đủ giá trị cho một tín hiệu
Việt ngữ nhƣ áo, quần, bát, bảng, bút, đầu, đường, kính, phân... có thể đƣợc
coi là từ thuần Việt. Nói cách khác, t ất cả những từ nào đã thành quá quen
thuộc, đã nhập vào kho tàng ti ếng Việt và không có từ tƣơng ứng thay th ế thì
dù từ ấy có nguồn gốc nào, trong cảm thức của ngƣời Việt, cũng dễ dàng
đƣợc chấp nhận là từ thuần Việt, chẳng hạn, từ "lúa" (gốc Mon Khmer), gạo
(gốc Tày), thóc (gốc Hán). Ngay cả đối với những từ đa tiết xuất hiện từ thê
k ỷ XIX (khi Châu Á bắt đầu chịu ảnh hƣởng của phƣơng Tây) nhƣ dân chủ,
cộng hòa, .... theo nhà n ghiên cứu Nguyễn Ngọc San, vì chúng không có t ừ
Việt tƣơng ứng, lại đƣợc dùng phổ biến, chúng có giá trị nhƣ một từ thuần
Việt [73:3]. Tuy nhiên, trong Luận án này, chúng tôi quan ni ệm nhƣ sự phân
biệt của Phan Ngọc đã nêu ở trên.
Trước hết, có thể thấy rằng các nhà thơ Nôm Đƣ ờng luật thế kỷ XIX đã
dành ưu tiên cho lớp từ thuần Việt. Chẳng hạn t ỷ lệ số từ thuần Việt ở thơ Hồ
Xuân Hƣơng là 94,8%, ở thơ Nguyễn Công Trứ là 92,5%, ỏ thơ Nguyễn Thị
Hinh là 80%, và con s ố cũng khá cao ở những nhà thơ
161

Đƣờng luật Nôm nửa sau thế kỷ XIX : Nguyễn Khuyến : 91,2% ; Nguyễn
Đình Chiểu : 92,4%; Phan Văn trịị : 87% ...
Nhà nghiên cứu Hồng Dân trong bài vi ết "Bước đầu tìm hi ểu về ngôn
ngữ của Nguyễn Đình Chi ểu" cho biết : "Trong thơ văn của mình, Nguyễn
Đình Chiểu đã dành ưu tiên cho l ớp từ thuần Việt và đã dùng nó với tất cả
những khả năng biểu hiện vốn có (...).
Mây giăng ải Bắc trông tin nhạn,
Ngày xế non Nam bặt cánh hồng.
Bờ cõi xưa đà chia đ ất khác,
Nắng sương nay há đ ội trời chung.
(Ngư Tiều Y thuật vấn đáp)
Những lời thơ (...) như th ế đã trong lại sáng. Nó giúp ta gi ữ vững lòng tin
vào năng lực tiềm tàng của tiếng Việt " [19:7-8].
Thứ hai, qua khảo sát và thống kê, chúng tôi th ấy rằng hầu hết những
nhãn tự, những từ đắt đều thuộc về lớp từ thuần Việt. Đó là những từ ngữ
đƣợc dùng rất chính xác, cụ thể, lại rất cô đúc, đ ồng thời lột tả đƣợc cái hồn
của sự vật. Ở bài "Thăng Long hoài c ổ "( Nguyễn Thị Hinh), đó là các t ừ
"hồn" (hồn thu thảo) "trơ"( trơ gan) "cau" (cau mặt). Tất nhiên, cái ha y của
những từ dắt, nhãn tự đòi hỏi ở nhà thơ sự xếp đặt chữ trong câu đ ể gây một
ấn tƣợng, gây hi ệu quả nghệ thuật, nhắm vào cảm xúc hay trí tƣởng tƣợng của
ngƣời đọc. Thử khảo sát sự kết hợp này ở một bài thơ khác của bà, bài "Trấn
Bắc hành cung hoài cổ "(hay "Chùa Tr ấn Bắc"), trong đó có hai câu:
Sóng lớp phế hƣng coi đã rộn,
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau.
162

"Lớp" và "hồi" là từ thuần Việt, là những từ đắt, nhờ đứng ở giữa, một bên là
hình ảnh cụ thể "sóng", âm thanh cụ thể "chuông", một bên là ý nghĩa tr ừu
tƣợng "phế hưng", "kim c ố". Đành là l ớp sóng, là hồi chuông, nhƣng đó cũng
là lớp phế hƣng, là l ớp sóng phế hƣng của các tri ều đại, là hồi chuông kim c ổ
hay chính là âm thanh th ời gian đang đ ổ hồi mau, vùn v ụt qua đi mà tƣ ởng
nhƣ nhà thơ nhìn th ấy đƣợc, lắng nghe đƣợc.
Trong thơ trữ tình nội tâm, những "nhãn tự" thật sự có sức chiếu sáng
diệu k ỳ. Tuy chỉ là những từ thuần Việt nhƣng lại lung linh vẻ đẹp của tƣ
tƣởng, tâm hồn tác giả. Chẳng hạn, bài "Thu vịnh" của Nguyễn Khuyến, nhãn
tự có lẻ là từ "thẹn", một từ thuần Việt. Tất cả những cảm xúc về mùa thu
theo từng dòng thơ cứ dâng cao, cao d ần đến mức:
Nhân hứng cũng vừa toan cầm bút,
để nén lại thật cô đọng trong một dòng thơ đầy ắp tâm trạng, ở đó "thẹn " nhƣ
là con mắt trăn trở khôn ngƣời của tâm lòng Tam Nguyên Yên Đ ổ: Nghĩ ra l ại
thẹn với ông Đào. Trong thơ trữ tình đã đành mà trong thơ trào phúng, cái
hay của câu thơ, cái sâu s ắc của bài thơ cũng thƣờng đọng lại ở những từ đắt.
Cách dùng chữ của nhiều nhà thơ Nôm Đƣờng Luật thế kỷ XIX quả thật tài
tình. Trần Tế Xƣơng là một trong những nhà thơ nhƣ v ậy. Chẳng hạn, ở
những dòng thơ sau đây:
- Ngớ ngẩn đi xia may vớ đƣợc,
Phen này ắt hẳn kiếm ăn to.
- Đậu lạy quan xin n ọ chú Hàn.
- Phen nầy ông quyết đi buôn lọng,
Vừa chửi vừa rao cũng đ ắt hàng.
163

Sử dụng toàn từ thuần Việt, nhiều câu thơ thật đắc địa, mới nghe qua thì nhƣ
khen, mà ngẫm lại thì là chê trách :
Nghị viên há phải việc con con,
Nƣớc cố quyền dân nƣớc mới còn.
Đã đặng mỏ mồm nên nhức óc,
Dù ai bóp bẹp cũng vê tròn.
Thứ ba, trong l ớp từ thuần Việt thì từ láy âm có một vai trò, vị trí đặc
biệt nổi bật, làm nên đặc trƣng của ngôn ngữ thơ Nôm Đƣờng Luật thế k ỷ
XIX. Trong m ột bài nghiên cứu về chữ Nôm, Nguyễn Nam cho biết : "Qua
khảo sát, với kết quả thống kê, chúng tôi thấy rằng các từ thuần Việt có nhiều
khả năng láy hơn các t ừ gốc Hán." [80:451 ]. Trong "Thi pháp thơ Đư ờng",
Nguyễn Thị Bích Hải cũng thấy rằng: "Cũng vì từ vựng chỉ còn lại tính châts
khái quát để thể hiện quan hệ nên trong thơ Đư ờng rất ít từ láy âm.
'[27:246]. Nếu đem đối chiếu với Đƣờng thi, Đƣờng luật chữ Hán thì đúng là
nhà thơ Nôm Đƣờng luật thƣờng xuyên sứ dụng nhiều lừ láy âm hơn. Nhƣ
vậy, cũng có thể coi từ láy âm là m ột biểu hiện của một thứ ngôn ngữ rất Việt
Nam, nằm trong hệ thống ngôn ngữ dân tộc, có giá trị tu từ, hỏi vì nó có "tính
chất hình lư ợng, miêu tả, gợi cảm, tính chất cân đối, nhịp nhàng..."
Về mặt này,chính nữ sĩ Xuân Hƣơng cũng là ngƣ ời có góp ph ần to lớn.
Trong chuyên đề "Thơ Hồ Xuân Hương", Giáo sƣ Lê Trí Vi ễn đã nhận xét
thấy : "Đặc biệt nhất là những điệp từ, từ lấp láy. Có loại thông thường:
cheo leo (...) lún phún, l ắt lẻo, đầm đìa ... Từ lấp láy là một đặc điểm của
tiếng Việt ."[91:46] Lớp từ láy và những từ mô phỏng âm vang láy đã giúp
nhiều nhà thơ Nôm Đƣờng luật tạo dựng những hình ảnh, hình
164

tƣợng có tính chất thị giác và những câu thơ có nh ạc điệu. Đối với những nhà
thơ có tài, h ọ không chỉ sử dụng những từ láy âm sẵn có mà còn sáng t ạo
những từ láy âm mới, có thể rất độc đáo. Ngoài nh ững dẫn chứng nêu trên
trong thơ Hồ Xuân Hƣơng, có thể thấy rõ điều nầy trong thơ của nhiều nhà
thơ khác . Ch ẳng hạn, thơ của Nguyễn Đình Chi ểu, có những từ láy âm thật
hay: lơ xơ, dáo dát (Ch ạy giặc), lâm râm, l ỏ dỏ, chống chỏi, chàng ràng,
xững vững (Điếu Trƣơng Định), ngùi ngùi ... Đây là những câu thơ sử dụng từ
láy âm rất độc đáo của Nguyễn Khuyến :
Quyên đã gọi hè quang quác quác,
Gà từng gáy sáng t ẻ tè le (...)
Đôi gót phong tr ần vẫn khỏe khoe.
(Về hay ở)
Theo thống kê của PGs Lê Chí Dũng thì : "Trong những bài thơ Nôm Đư ờng
luật của Nguyễn Khuyến, tỉ lệ bài thơ sử dụng từ láy rất lớn : 69 bài/87
bài"'[15:282]. Chỉ cần xem một bài "Cuốc kêu cảm hứng", chúng tôi đã thấy
4 lừ láy là khắc khoải, lửng lơ, ròng rã, ngẩn ngơ. Đọc thêm bài thơ "Xuôi đò
về. Tân Thuận w (truyền là của Trần Hữu Thƣờng, tức Tú Thƣờng sinh năm
1844), đã thấy hàng loạt lừ láy : xa xôi, mê man, mịt mù, lúp xúp, chớn chở,
lan chan, giục giã. Từ láy cũng đã trỏ thành thứ ngôn ngữ đƣợc nhà thơ trào
phúng ƣa thích. Đây là m ấy dẫn chứng tiêu bi ểu trong thơ Nguyễn Thiện Kế :
- Buổi buổi trống hầu, câu diễn thuyết,
Đêm đêm đèn phiện, chuyện văn minh.
( Vịnh Phạm Văn Thụ)
- Đôi vú áp vai, đầu nghén nghểu,
165

Hai tay ôm đít, mặt lầm lầm.


( Vịnh tri phú Quảng Oai)
- Mƣời răng cƣời vẫn trơ trơ nhỉ,
Ho hắng theo lao cũng bõ lao.
( Vịnh tri phủ Lô Văn Chấn)
Thứ tư, khảo sát từ thuần Việt trong ngôn ngữ thơ Nôm Đƣờng luật thế
k ỷ XIX, chúng tôi thấy nhà thơ đã sử dụng chúng đ ể gọi lên những gì thuộc
về quê hƣơng đất nƣớc Việt Nam, từ cảnh thiên nhiên, địa danh, s ản vật, tên
ngƣời đến những sự vật, hiện tƣợng mà từ Hán Việt không thể đảm đƣơng
trách nhiệm. Tiêu biểu là dùng t ừ thuần Việt cho những tên riêng để chỉ
người và địa điểm. Chúng tôi xin lƣu ý rằng ở Đƣờng thi và Đƣờng luật Hán,
chủ yếu là hệ thống danh t ừ chung, mang tính ch ất khái quát, bởi nó cơ bản
thuộc dòng thơ trữ tình, gợi tƣ duy liên tƣởng. Ngƣợc lại, ở thơ Nôm Đƣờng
luật, xuất hiện hẳn hoi cả một hệ thống danh từ riêng mang tính cụ thể, cá
biệt bởi nó không ch ỉ trữ tình mà còn có ch ức năng phản ánh hiện thực cuộc
sống. Nếu danh từ riêng chỉ ngƣời và địa điểm rất hiếm ở Đƣờng thi thì lại
rất phổ biến ở Đƣờng luật Nôm. Nếu Đƣờng thi có sử dụng tên riêng thì
thƣờng đó là thứ ngôn ngữ ƣớc lệ chứ hiếm khi mang tính chân xác c ụ thể
nhƣ ở thơ Nôm Đƣờng luật. Chỉ cần khảo sát ngôn ngữ thơ Tú Xƣơng, đã th ấ y
một chuỗi dài từ thuần Việt là tên riêng chỉ địa điểm và tên riêng chỉ ngƣời.
- Chỉ địa điểm : Phố hàng Nâu, đình hàng S ắt (Qua đình hàng sắt đến
nhà ông), trƣờng Nam, trƣờng Hà, chợ Rồng, chợ Bến, xã Vị Xuyên, sông V ị
Hoàng, đất Vị Hoàng, ph ố Hàng Song, ph ố Giấy, sông
166

Thƣơng, tỉnh Hà, hàng Thao, núi Châu Phong, Nam Đ ịnh, An Sơn, Bồ Thủ y,
Đồng Nai....
- Chỉ người: cụ Xứ, tri phủ Xuân Trƣờng, ông ấm Điền, Thọ (Thọ kia
mày có biết hay chăng ?), cô Ký, quan Sứ, bác Cử Nhu (Sơ khảo khoa này
bác Cử Nhu), Tuân, Nghị, bác Lê Tuyên, quan đ ốc Tả Thanh Oai, quan
Thƣợng Cao, cô Cáy chợ Rồng, Cử Thăng, huấn M ỹ, tú Tây Hồ, Thành, Đốc,
cô Bố, chú Hàn, ông lang Sáu, chú Ích Sinh, ông b ạn Bát, chú Tri ều Châu
(kẹo chú Triều Châu), bà Hanh Tụ, cậu ấm K ỷ, con Đô M ỹ, đồ Xuân Dục, lão
ở Liêm, ông Đốc học, ông Đội, quan viên Hội, ông Huyện, ông Lang, ông
Hàn Lâm tu soạn, .... Tất nhiên, trong danh sách trên, có m ột số tên không
phải là tên riêng nhƣng th ực ra mọi ngƣời đều biết tác giả nói đến một ngƣời
cụ thể nào đó nhờ cái chức vụ hay cơ quan của họ. Chỉ cần khảo sát thêm một
tác giả nữa: Nguyễn Thiện Kế (đậu Cử nhân khoa Mậu Tý 1888) cũng có th ể
thấy rõ tính cụ thể ở tên ngƣời, không ch ỉ trong lời thơ mà ngay c ả ở nhan đề
bài thơ. Trong 5 bài thơ mà Hợp tuyển thơ văn Việt Nam trích từ 40 bài thơ
trào phúng của ông, đã có 4 bài nói rõ c ụ thể về con ngƣời : Vịnh Phạm Văn
Thụ, Vịnh tri phủ Quảng Oai, vịnh tri huyện Lê Văn Chấn, vịnh khâm sai Lê
Hoan, và bài thứ 5 nói cụ thể về một nhóm ngƣời : Vịnh ban Tu thư. Trong 5
bài thơ ấy, lại hàng loạt con ngƣời xuất hiện : Xừ Đạc (Darles), huyện Hòa,
(tri huyện Hiệp Hoà), Tâm, Đ ại, Thành, chú Tích, cu Tri ển, anh Dƣơng, th ằng
Hổ dốt, thằng Ngô dại, Hoàng Cao (Hoàng Cao Kh ải), Thƣợng Trần, Đề
Thám. Con số 18 tên riêng /4 bài thơ, t ức 4,5 tên riêng / 1 bài thơ là con s ố
đầy ý nghĩa, th ật sự là một phản mã Đƣờng thi, làm nên bƣ ớc ngoặt cho thơ
ca hiện đại.
167

5.2.2. Ngôn ngữ văn học dân gian :


Có nhà nghiên c ứu đã chỉ ra rằng : Xét về mặt chức năng văn học, bộ
phận văn học Nôm phong phú hơn b ộ phận vãn học chữ Hán, trong đó có chức
năng giải trí và chức năng trào phúng. Theo chúng tôi, có m ối quan hệ gần
gũi giữa thơ Nôm Đƣờng luật và văn học dân gian, mà trong đó tính chất lạc
quan và trào phúng là. chiếc cầu nối. Nhƣ vậy ngôn ngữ văn học dân gian có
mặt trong thơ Nôm - ngay cả trong thơ Nôm Đƣờng luật-nhƣ một quy luật
trong quan hệ tương hỗ. GS Trƣơng Chính đã t ừng khẳng định Nguyễn Trãi
có sáng kiên rút ngắn khoảng cách nhi ều khi khá xa giữa ngôn ngữ quần
chúng và ngôn ngữ của các nhà thơ Nôm bằng cách học tập tục ngữ, ca dao,
chẳng hạn ở bài "Ở bầu thì dáng ắt nên tròn ...". Đến thế k ỷ XIX nhà thơ vừa
kế thừa truyền thống văn học của cha ông, phát huy ph ần tinh hoa, vừa sáng
tạo những vần thơ giàu hình ảnh sinh động hơn của cuộc sống, vẫn giàu chất
trí tuệ, lại bình dị, đậm chất dân gian. Ngôn ngữ thơ Nôm Đƣờng luật thế k ỷ
XIX đậm đà tính dân tộc và tính đại chúng, trong đó bộ phận ngôn ngữ văn
học dân gian đã góp ph ần đáng kể, đặc biệt với chức năng trào phúng. Bởi vì
thật ra ở những thế k ỷ trƣớc, nhà thơ cũng đã s ử dụng ngôn ngữ đại chúng
nhƣng thiên về mặt trữ tình, diễn tả những nỗi buồn, niềm vui của chính
mình. Chỉ đến thế kỷ XIX, hàng lo ạt nhà thơ Nôm Đƣờng luật nhƣ Hồ Xuân
Hƣơng, Học Lạc, Từ Diễn Đồng, Nguyễn Thiện Kế, Tú Xƣơng, ... đã khai
thác mặt châm biếm mỉa mai, đùa cợt, thậm chí giận dữ, nguyền rủa, lột trần
sự thật, nhìn thẳng vào m ặt những con ngƣời xấu xa, tục tằn, trơ trẽn mà đả
kích nhƣ Phan Văn trị, Lê Quang Chi ểu (có đi ều thơ Phan Vãn Trị nặng tính
chiến đấu mà nhẹ chất trào phúng !) Qu ả thật các nhà thơ Nôm
168

Đƣờng luật thế k ỷ XIX, dù Cử nhân nhƣ Nguyễn Công Trứ hay Tam nguyên
nhƣ Nguyễn Khuyến đều phải tìm đến cái nguồn vô tận là ca dao, tục ngữ,
truyện cƣời, câu đố để làm giàu có hơn ngôn ng ữ thơ của mình.
Nữ sĩ Xuân Hương là một trong những nhà thơ xu ất sắc về việc vận
dụng ngôn ngữ văn học dân gian. Có th ể nói ở thơ Nôm Hồ Xuân Hƣơng tràn
ngập tục ngữ, thành ngữ, ca dao. Có l ẽ Xuân Hƣơng là nhà thơ Vi ệt Nam đầu
tiên dùng toàn "cái mình có" , không mƣợn của nƣớc ngoài, chỉ rải rác một ít
từ Hán - Việt nên có thể coi nhƣ là không có. T ất nhiên, là ngƣời có trình đ ộ
Hán học khá uyên thâm, H ồ Xuân Hƣơng không vay mƣ ợn "cái của người"
không có nghĩa là bà không thông th ạo mà bởi vì bà không muốn. Bằng tài
năng của mình, trên cơ sở sự phong phú của tiếng Việt bà bắt ngôn ngữ phải
phục tùng ý muốn của mình, nói lên đi ều cần nói, theo cách bà mu ốn nói.
Chẳng hạn :
- Năm thì mƣời họa.hay chăng chớ
(Lấy chồng chung)
- Không có nhƣng mà m ới có ngoan
(Dở dang)
- Rúc rích thây cha con chu ột nhắt,
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu.
(Quan thi)
- Trời đất sinh ra đá một chòm,
Nứt ra đôi m ảnh hỏm hòm hom.
(Hang Cắc Cớ)
- Quản bao miệng thề lời chênh lệch
(Dở dang)
169

Nguyễn Công Trứ cũng là nhà thơ r ất thiện nghệ dùng thành ngữ, tục
ngữ, ca dao. Có bài hầu nhƣ cả 8 câu là nh ững câu tục ngữ ghép lại, phát
triển thành thơ : bài Trò đ ời :
Một lƣng một vóc kém chi mô,
Cho biết chanh chua khế cũng chua.
Đã chắc bữa trƣa chừa bữa tối,
Mà than con gi ếc tiếc con rô.
Trăm điều đổ tội cho nhà o ản,
Nhiều sãi không ai đóng c ửa chùa.
Khó bó cái khôn còn n ổi khéo,
Dầu ai có quấy vấy bên hồ.
Có thể nói chính nhờ sử dụng ngôn ngữ văn học dân gian, th ứ ngôn ngữ thông
thƣờng, giản dị mà thơ Nôm Đƣờng luật từ Hồ Xuân Hƣơng, Nguyễn công
Trứ, ... đã đƣợc nâng lên một mức khá rõ so với giai đoạn trƣớc. Tiếp tục học
lập văn học dân gian nhƣ một truyền thống của thể loại, Nguyễn Khuyến cũng
có rất nhiều lần đƣa thành ngữ vào thơ. Đó là nh ững "thân già da cóc", "l ừa
nạc bỏ xương", "đắp tai cài trốc", "nước độc ma thiêng", "rừng xanh núi đ ỏ",
... Nhƣ ở bài "Mừng Đốc học Hà Nam", nhà thơ dồn cả hai thành ngữ vào cặp
luận :
Chuyện đời hãy đắp tai cài trốc,
Lộc thánh đừng lừa nạc bỏ xương.
Trong bài "Thầy đồ ve gái hóa", Nguyễn Khuyến viết:
Bắc cầu, câu cũ không hờ hững,
Cầm kính, tình xƣa v ẫn đắng cay.
và ngƣời đọc hiểu ngay rằng lời thơ mang âm vang ca dao :
170

- Muôn sang thì b ắc cầu kiều,


Muốn con hay ch ữ thì yêu l ấy thầy.
- Trách ngƣời quân t ử vô tình,
Có gƣơng mà đ ể bên mình không soi.
Với nhà thơ kết thúc nền thơ Nôm thế k ỷ XIX - Tú Xƣơng - lại có nhiều câu
thơ sáng t ạo từ sự kết hợp, vừa âm vang Kiều vừa vang vọng ca dao :
- Chim xanh không t ỏ lối ra vào.
(Muốn tới bồng lai)
- Yêu nhau xin nhớ lời nhau nhé,
Mƣời ƣớc sao cho v ẹn cả mƣời.
(Đi đò gặp bạn)
Với những nhà thơ nhƣ Hồ Xuân Hƣơng, Tú Xƣơng,..., chúng tôi còn
nghĩ rằng họ không chỉ chịu ảnh hƣởng của thành ngữ, tục ngữ, ca dao mà có
lẽ còn chịu ảnh hƣởng sâu s ắc của folklore của Việt Nam. Có ph ải câu thơ
sau đây có nụ cƣời rất nhân bản và dân dã:
- Chị em thủ thỉ đêm thanh v ắng;
"Chẳng sƣớng gì hơn lúc thƣợng đồng!"
(Ông sƣ và m ấy ả lên đồng)
Và đây là một nụ cƣời rất hóm hỉnh ở trong câu thơ :
- Tục rằng tháng Tám tiết chơi trăng ,
Có phải hay không h ỡi chị Hằng?
Có từ "chị Hằng" ở dƣới mà câu trên nói là "chơi trăng" thì thật là quá s ức
hóm hỉnh !
5.2.3 Ngôn ngữ đời thường .
171

Ngôn ngữ đời thƣờng là ngôn ngữ đƣợc sử dụng trong cuộc sống hàng
ngày, là lời nói thƣờng, sử dụng cả trong giao tế xã hội giữa ngƣời với ngƣời.
Khi đƣợc sử dụng trong sáng tác văn h ọc thì nó nhƣ là một thứ ngôn ngữ văn
học nói . Các nhà ngôn ng ữ học đã chỉ ra rằng thành ph ần ngôn ngữ đời sống
gồm các lớp từ : từ cảm thán, từ thân mật,từ hờn giận, từ chỉ sự kinh ngạc, từ
mỉa mai, từ để gọi , từ để hỏi, từ tục, từ chửi, từ nhại, từ nói lái, nh ững hƣ từ
không có ý nghĩa t ừ vựng nhƣng có ý nghĩa ng ữ pháp (Hư từ, tức syntactic
word trong tiếng Anh , mot-outil hay mot-vide trong tiếng Pháp) nhƣ "thì ",
"mà", là " "kia", "n ọ"... Do nhu cầu nghiên cứu của Luận án , chúng tôi ch ỉ
đi vào một số lớp từ cần thiết, trước hết là những lớp từ thuộc bộ phận khẩu
ngữ, hai là nói lái, chơi ch ữ, ba là hƣ từ, bốn là việc sử dụng đại từ nhân
xƣng và một số từ loại khác, năm là sự có mặt của từ tƣợng thanh ...
Nhƣ vậy, trong ngôn ngữ thơ Nôm Đƣờng Luật, thì vị trí của khẩu ngữ
coi nhƣ hàng đ ầu ? Thật ra, không ai ngộ nhận rằng thơ cổ dùng khẩu ngữ
mới là thơ hay. Ch ẳng phải thơ bà Huyện Thanh Quan là thứ ngôn ngữ nghệ
thuật mang đậm dấu vết đài các, quí phái, trang tr ọng, nhƣ Đƣờng thi đấy sao
? Bà rất ít sứ dụng ngôn ngữ đời thƣờng, hầu nhƣ không có khẩu ngữ, nhƣng
thơ bà tuyệt hay ! Vấn đề ở đây không phải là chuyện hay dở trong phong
cách tác giả mà là vấn đề phong cách th ể loại.
Nhìn chung, nhiều nhà thơ Nôm Đƣờng Luật đã phát huy tinh hoa giá
trị cổ điển của ngôn từ lại biết kết hợp sử dụng ngôn ngữ chân chất, mộc mạc,
thậm chí trần trụi của khẩu ngữ nói riêng, ngôn ngữ đời sống nói chung sẽ tạo
cho bài thơ của mình một vẻ đẹp nhƣ là cái đ ẹp thực sự tƣơi tắn, đầy sức
sống của cuộc đời tràn ngập vào thơ. Nhi ều nhà nghiên
172

cứu đã khẳng định nữ sĩ Xuân Hƣơng là nhà thơ m ổ đầu cho nền văn chƣơng
thế kỷ XIX trong vi ệc chọn lọc từ kho tàng ngôn ngữ phong phú, dân dã c ủa
đời sống, chắt lọc để nâng lên m ột tầm mức cao của ngôn ngữ nghệ thuật.
Tam Nguyên Yên Đ ổ khoa bảng là vậy mà trong thơ Nôm, câu thơ có khi
giống hệt câu nói trong đ ời thƣờng :
Tôi nghe kẻ cƣớp nó lèn ông.
Đã "kẻ cướp", lại "nổ', cả hai cùng đứng làm chủ ngữ cho "lèn". Tƣơng tự
nhƣ vậy:
Thằng tiểu Phù Lƣơng nó chửi mày.
(Chửi cậu âm - Tú Xƣơng )
Ngƣời đọc hẳn không quên đƣợc những khẩu ngữ trong thơ Nguyễn
Khuyến: rước tùng xòe, ngáy khò khò, gáy t ẻ tè te... Đây cũng là thứ ngôn
ngữ thông tục nhƣ trong thơ Hồ Xuân Hƣơng nhƣng vẫn có sắc thái riêng. Nó
vừa thông tục, vừa phảng phất vẻ đẹp thanh tao, trang nhã, t ạo đƣợc cảm xúc
dịu nhẹ, thấm vào lòng ngƣời đọc. Vẻ đẹp của khẩu ngữ ở mỗi nhà thơ có
những nét riêng nhƣ vậy khiến cho thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX mang
những nét độc đáo làm nên đặc trƣng thể loại. Nào là "mòn răng", "trặc họng
","nước đến trôn", "thấy máy ", " bôn chôn ", " chìu lòn "... trong thơ Phan
Văn Trị, nào là "có cóc công phu " "l ọt vành ", "ranh ngầm " " ôm đít ", "
chết bỏ bầm ", "rặt một phường ". . .' trong thơ Nguyễn Thiện Kế. Và đây là
câu thơ khuyết danh ở Bồng Tháp:
Loài ở lộn bùn cũng mộ râu,
Ngo ngoe nỏ biết mốc gì đâu.
(Con tôm)
173

Một khi ngôn ngữ đời thƣờng tràn ngập vào trong thơ, nó mang vào cho
thơ nội dung dân ch ủ. Nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên, trong khi nh ấn mạnh :
"chất dân chủ cũng được bao hàm trong thơ C ử Trị như một thuộc tính tất
yếu", "Ta vẫn nhớ Phan Văn Trị là ngư ời" Vừa đi vừa đái vẽ nên rồng", đã
chỉ ra ngôn ngữ đời thƣờng mang tính nghệ thuật, chứa đựng thi hứng trong
thơ Phan Văn Trị : "Những từ ngữ dân gian, những câu cửa miệng, những lời
bộc trực mà tâm huyết. . . đã làm cho thơ C ử Trị phân biệt với thơ của một số
sĩ phu miền Bắc còn nặng chất cung đình, từ chương tiêu tao...
Ở đây lời thơ thật đã mang một hệ ngôn ngữ khác hẳn:
- Đến thế còn khoe danh đạo nghĩa,
Như vầy, cũng gọi cửa trâm anh.
- Gặp lúc chẳng may nên ngậm miệng,
Chờ khi thấy máy phải ra tay...
Những câu thơ như thế có khác gì lời nói thường, nhưng chứa đựng biết bao
thi hứng [46:235]
Ngôn ngữ đời thƣờng cổ liên quan m ật thiết với văn chương trào
phúng nên trong bộ phận khẩu ngữ, sự có mặt của lớp từ mai mỉa khá phổ
biến là điều dễ hiểu. Trong thơ Tú Xƣớng chẳng hạn, một cậu ấm ngang tàng
phách lối có bà mẹ dan díu với chú tiểu chùa Phù Lƣơng, nhà thơ mai m ỉa :
- Thôi đừng điếu trắp vênh vang n ữa,
Thằng tiểu Phù Lƣơng nó ch ửi mày.
(Chửi cậu ấm)
174

Từ "chửi" nghe nhƣ có vẻ "tục" nhƣng nó còn "thanh" hơn bội phần cái việc
mà nó muốn nói, mà nó thay mặt! Lại có một đám thí sinh dốt, trong bụng chỉ
chứa toàn thứ làm tốt lúa mạ nên văn chƣơng của họ, nói theo ngôn ngữ Tú
Xƣơng," thúi như...":
Văn chƣơng ch ẳng thấy ai rằng tốt,
Chỉ tốt hai hàng lúa mạ thôi !
Dƣờng nhƣ đến Tú Xƣơng, lớp từ mai mèa nói riêng, ngôn ngữ đời thường
nói chung cùng tính ch ất nôm na của nó đã đến mức phá k ỷ lục trong lịch sử
thơ Đƣờng luật. Có khi chính những chi tiết ấy lại rất hay, đạt đƣợc một giá
trị cao, xứng đáng là ngôn ngữ nghệ thuật:
Cô Ký sao mà đã ch ết ngay?
Ô hay, giời chẳng nể ông Tây!
(Mồng hai Tết viếng cô Ký)
Trong bộ phận khẩu ngữ, lớp từ tục, từ chửi, từ cuộc sống đời thƣờng
cũng tràn ngập vào ngôn ngữ thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX không một chút
e dè, nhƣ không có b ất cứ trở ngại nào ngăn cản. Hoặc dùng từ thô tục, hoặc
nói lái thành thô tục trong nghệ thuật chơi chữ. Nó không ch ỉ chứng tỏ rằng
tiếng Việt rất giàu có, phong phú, đa d ạng mà còn rất trong sáng. N ếu nhà thơ
biết dùng đúng ch ỗ, nói đúng b ản chất sự vật thì những từ tục cũng hay, cũng
đẹp, cũng trở thành ngôn ngữ nghệ thuật. Rõ ràng ngôn ngữ thơ không nh ất
thiết phải mang tính ch ất quí lộc, đài các.Nữ sĩ Xuân Hƣơng ch ẳng hạn,
không bao giờ tìm cách tránh né nh ững tiếng chửi rủa:
- Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
(Lấy chồng chung)
175

- Rúc rích thây cha con chu ột nhắt,


Vo ve mặc mẹ cái ong bầu.
(Quan thị)
Phạm Thái lớn tiếng chửi thề trong thơ của mình nhƣ là muốn trút ra bi ết bao
phẫn uất:
Chết về tiên bụt cho xong ki ếp,
Đù ỏa trần gian sống mãi chi?
(Tự trào)
Nguyễn Công Trứ, con ngƣời "ngoài vòng cương t ỏa " thì có ngại gì
tiếng chửi thề đối với thế thái nhân tình:
Đ... mẹ nhân tình đã biết rồi !
Lạt nhƣ nƣớc ốc , bạc nhƣ vôi.
(Thế tình bạc bẽo)
Tiếng chửi của Tú Xƣởng dƣờng nhƣ càng h ằn học, hận đời hơn:
- Bá ngọ thằng ông biết chữ chi !
( Ông Huyện)
- Từ rày thây m ẹ ông viên hội.
(Giễu ông đội C...)
- Đù mẹ, đù cha , cái dát gƣờng.
(Chửi dát gư ờng)
- Đù cha, đù m ẹ đứa riêng ai.
(Đùa ông Hàn)
Ngay cả lãnh tụ nghĩa quân Thủ khoa Huân cũng dùng t ừ tục để trút lời
nguyền rủa, chửi bọn phản quốc đi theo gi ặc Pháp :
Thắng bại dinh hƣ trời khiến chịu,
176

Phản thần đèo ỏa đứa cƣời ông.


(Mang gông)
Một đặc trƣng rất độc đáo trong thơ Nôm Đƣ ờng luật thế kỷ XIX là
chơi chữ, trong đó có chơi ch ữ bằng cách nói lái và chiết tự nhƣ là một cách
chơi chữ dựa trên sự đồng dạng về chữ viết. "Bà chúa thơ Nôm" Hồ Xuân
Hƣơng là ngƣời sử dụng thủ pháp chơi chữ một cách tài tình. Đây là bài thơ
tiêu biểu cho lối sử dụng các từ thuộc cùng một trƣờng nghĩa, cùng trƣờng ý
niệm:
Chàng Cóc ôi ! Chàng Cóc ôi !
Thiếp bén duyên chàng có th ế thôi.
Nòng nọc đứt đuôi t ừ đây nhỉ,
Nghìn vàng khôn chu ộc dấu bôi vôi.
(Khóc T ổng Cóc)
Đó là bài thơ dùng th ủ pháp chơi chữ dựa vào hi ện tượng đồng nghĩa. Còn
đây là một dẫn chứng cho lối chơi chữ dựa vào hi ện tượng đồng âm, lại cả có
phần đồng nghĩa :
Nhớ nƣớc đau lòng con quốc quốc,
Thƣơng nhà m ỏi miệng cái gia gia.
(Qua đèo Ngang - Nguyễn Thị Hinh)
Chơi chữ ở đây khiến lời thơ giàu nhạc điệu đã đành, nhờ hiện tƣợng đồng
âm, mà còn âm vang ý nghĩa về nỗi lòng yêu nƣớc thƣơng nhà, về sự hoài
niệm, nhờ hiện tƣợng đồng nghĩa.
"Bà chúa thơ Nôm" cũng t hật tài hoa trong th ủ pháp chơi ch ữ bằng cách nói
lái... Bà dựa vào khả năng đảo lộn cả một ngữ bằng cách thay đổi vần, phụ
âm mà vẫn giữ lại thanh:
177

Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo ?


Hỏi thăm sƣ cụ đáo nơi neo ?
Chày kình, ti ểu để suông không đấm,
Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo.
(Chùa Quán Sứ)
Bằng thủ pháp chơi ch ữ - nói lái, lời thơ không dừng lại ở cảnh sinh ho ạt
buồn tẻ của chùa Quán Sứ mà lung linh v ẻ đẹp ở tầng nghĩa ngầm, nghĩa liên
hợp liên tƣởng, nghĩa xã hội - lâm l ý. Nhà thơ s ử dụng thủ pháp này thƣờng
để diễn tả một nội dung ngữ nghĩa không trực liếp nối ra đƣợc vì một nguyên
nhân nào đó, nhƣng ch ủ yếu là để tạo hiệu quả nghệ thuật. Với Hồ Xuân
Hƣơng không ph ải chỉ để châm biếm, đả kích nhà chùa mà chính vì "nhân
danh sự sống, coi sự sống là niềm vui, là bài ca bất tuyệt của đất trời, không
chấp nhận bất cứ cái gì đối lập với sự sống, cái úa tàn, cái im lìm, cái ph ản
tự nhiên .... " [19:21]
Ngƣời kết thúc là Tú Xƣơng, cũng là một bậc thầy về nghệ thuật chơi
chữ, rất tế nhị, chẳng hạn :
Học đã toi cơm nhưng chƣa chín,
Thi không ăn ớt thế mà cay !
(Mai mà t ớ hỏng)
- Chớ thấy câu kinh mà mặc kệ,
Ai ngờ chữ sắc hóa ra không.
(Cô Tây đi tu)
Tú Xƣơng sử dụng cả chơi chữ theo cách đố chữ. Ồng viết về ngƣời giữ chức
phòng thành tên là Pháo nhƣ sau :
Tƣợng tƣợng, xe xe, xé lẻ rồi;
178

Sĩ đen, sĩ đõ ch ẳng vào đôi.


Đố ai biết ngỏ quân nào k ết ?
Mã cũng chui mà tốt cũng chui.
(Thành Pháo)
Khi khảo sát về thơ Hồ Xuân Hƣơng, Nguyễn Khuyến, Tú Xƣơng, có nhà
nghiên cứu đã thống kê cho thấy :
Hồ Xuân Hƣơng Nguyễn Khuyến Tú Xƣơng
Kiểu chơi chữ: 8 12 11
Tần suất: 25 87 64
Nhƣ vậy, cũng có th ể thấy rằng, nếu chỉ tính riêng thơ Nôm Đƣ ờng luật thì
con số về kiểu chơi ch ữ và tần suất của nó ở ba nhà thơ này ch ắc chắn không
nhỏ. Đặc biệt, vào nửa sau thế kỷ XIX, trong thơ yêu nƣớc chống Pháp ở Nam
bộ, chơi chữ đã trở thành một hiện lƣợng phổ biến và cũng rất đa dạng. Đọc
thơ Hu ỳnh Mẫn Đạt, ngƣời đọc chú ý ngay đến bài "Chó già", trong đó có
những câu :
Tuy rằng muôn cẩu có ân ba,
Răng rụng lâu năm nó ph ải già
Bởi đuổi hƣơu Tần nên mỏi gối,
Vì lo khỉ Sở mới dùng da.
Không ai trấn bắc ngăn bầy cáo (...)
Bài thơ làm chúng tôi nh ớ đến bài thơ ứng tác của Lê Quí Đôn trƣớc mặt cha:
"Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà ..." Nhà thơ đã s ử dụng các từ thuộc cùng
một trƣờng nghĩa, cùng một trƣờng ý niệm : cẩu , hươu, khỉ, cáo và gối, da...
Chơi chữ nhƣ vậy đã phát huy đƣ ợc giá trị biểu cảm sâu sắc của
179

lời thơ : tấm lòng tận tụy hy sinh hết mình vì nƣớc của sĩ phu Gia Định, Nam
bộ bấy giờ ! Trong bài thơ "Chiêu Quân qua ải , nhà thơ lại chơi chữ :
Chín trùng ứa lụy rƣng đối mắt,
Ngàn dặm ôm t ỳ tím lá gan.
Mƣợn điển tích xƣa, nhà thơ không ch ỉ đả kích kẻ gieo tai họa "Tráo chác
khôn lường mũi bút gian "mà bằng nghệ thuật chơi chữ, nhà thơ còn xót đau
cho thân phận những con ngƣời chịu tai họa, lời thơ nhƣ thấm đẫm nƣớc mắt,
nhƣ đứt ruột đứt gan .... Trong bài thơ "Cây dừa" nhà thơ l ại dựa vào hiện
tƣợng đồng âm :
Giúp nước vui ngƣời buổi khát trưa.
"Nước "ở đây vừa là nƣớc dừa, vừa là nƣớc nhà, "khát " Và khát nƣớc mà
cũng là khao khát, mong ch ờ ! Thật là thú vị ! Cử Trị cũng là nhà thơ thích
chơi chữ nhƣ vậy :
Nuôi muông gi ết thỏ còn chờ thuở,
Bủa lƣới săn nai cũng có ngày.
Đừng mƣợn hơi hùm rung nhát k hỉ...
(Họa Mười bài Tự thuật của Tôn Thọ Tƣờng, bài I)
Nhƣ vậy phải chăng bối cảnh đặc thù của xã hội Việt Nam nửa sau thế k ỷ
XIX cũng là m ột trong nh ững tiền đề cho hiện tƣợng chơi chữ rất phổ biến
bấy giờ ?
* Đặc trưng thứ ba : Cũng do có khuynh hƣớng sử dụng thứ ngôn ngữ
đời sống nên trong thơ Nôm Đƣ ờng luật thế kỷ XIX xuất hiện rất phổ biến
những hƣ từ. GS Lê Trí Vi ễn đã từng chỉ ra cái lạ trong cách dùng t ừ
180

tài tình của Nguyễn Bỉnh Khiêm khi s ử dụng những hƣ từ "kia ", "nọ ": "Sử
dụng hư từ kiểu này lạ và tài lắm (...):
Cá tôm tối chác bên kia bến,
Củi đuốc ngày mua mé nọ đèo. " [96:157]
Đến thế k ỷ XIX, qua khảo sát và thống kê của chúng tôi, th ấy rằng việc sử
dụng hƣ từ càng rất phổ biến. Mặc dù cho đến nay, các nhà nghiên c ứu về
tiếng Việt vẫn chƣa thống nhất về cách xác định các loại hƣ từ, Luận án dựa
vào "Giáo trình ti ếng Viêt"(Bùi Tất Tƣơm chủ biên) và "Tiếng Việt hiện đại'
(Nguyễn Hữu Qu ỳnh) cho rằng phó từ (phụ từ, trạng từ), quan hệ từ, trợ từ là
những loại từ thuộc hƣ từ. Theo cách hi ểu khác thì hƣ từ gồm các loại từ: từ
cảm, từ đệm, từ kèm, từ nối. Bằng sự tài hoa của mình, t ận dụng sự phong
phú đa dạng của các từ loại, các nhà thơ Nôm Đƣờng luật thế k ỷ XIX đã có
những câu thơ hay nhờ giỏi sử dụng hƣ từ, tạo thành m ột hệ thống của thủ
pháp nghệ thuật. Đây là một biểu hiện cụ thể về tính chất phản mã Đƣờng thi
của thể loại. Trong khi Đƣờng thi hầu nhƣ chỉ sử dụng thực từ thì ngƣợc lại,
thơ Nôm Đƣờng luật sử dụng cả thực từ lẫn hƣ từ. Thử khảo sát m ột câu thơ
của Hồ Xuân Hƣơng:
Chị cũng xinh mà em cũng xinh.
(Tranh tố nữ)
Quả thật, hƣ từ "mà" ở đây rất đặc sắc, phát huy đƣợc cái hay của từ quan hệ,
đọc lên ngẫm đƣợc bao nhiêu lình t ứ, ỡm ờ, đùa bỡn, oái ăm, rái ý vị, rất đắt.
Những hƣ lừ "chi dám", "thôi đành" trong bài Ihd này cũng luyệi hay nhƣ
vậy. Đây là vài d ẫn chứng khác, chẳng hạn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan:
Ồ hay, cảnh cũng ƣa ngƣời nhỉ!
181

Thấy cảnh ai mà ch ẳng ngẩn nga


(Tức cảnh chiều thu)
Trong thơ Phạm Thái:
Năm bảy năm nay nh ững loạn l y,
Cũng thì duyên ph ận cũng thì thì.
(Tự trào)
Hay trong thơ Nguyễn Khuyến:
Đời trƣớc làm quan cũng th ế a?
(Kiều bán mình)
Nhƣ vậy nhận định của chúng tôi hoàn loàn tƣơng ph ản với ý kiến của ông
Lạc Nam. Trong chƣơng b ốn- "Thơ Đư ờng Luật" - cuốn "Tìm hiểu các thể thơ
ông viết:" Tóm lại,một bài thơ hay ph ải có lời hay ý đẹp mà sâu sắc(...) tránh
dùng những từ đệm hoặc bắc cầu hay đưa đẩy như : thì, mà, là, cũng,
đả...thường gọi là hư từ, làm mất nhiều ý và làm gi ảm giá trị của bài thơ."
[59: 110] Ngƣợc lại,có thể thây rỏ sự nhất trí của Luận án với ý kiến sau đây
của Gs Nguyển Kim Thản:" Hệ thống ngữ pháp Việt coi trật tự và việc sử
dụng các từ có tác dụng ngữ pháp (hư từ) là biện pháp quan trọng nhất"[80:
124]
* Đặc trưng thứ tư: Do gắn bó chặt chẽ với cuộc sống đời thƣờng nên thơ
Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX đả sứ dụng một số từ loại có phần khác bi ệt với
Đƣờng thi, mà trƣớc hết và nổi bật là đại từ nhân xƣng xuất hiện ngày càng
nhiều . Hiện tƣợng này theo chúng tôi là phù h ợp với xu thế chung của quá
trình giải phóng cá nhân. Một khi con ngƣời từ chỗ là con ngƣời vũ trụ, là
chủ thể trữ tình hòa mình làm m ột với thiên nhiên vũ trụ, chuyển đổi thành
con ngư ời cá nhẫn cá thể thì lất nhiên là tính vô ngã mờ
182

dần để nhƣờng chổ cho tính hữu ngã. Thử khảo sát ngôn ngữ thơ Nguyễn
Khuyến và Tú Xƣơng xem sao. Nguyễn Khuyến dùng những đại từ nhân xƣng
ngôi thứ nhất: tôi, tớ, mình, ta, ông, lão, em... Chẳng hạn:
Em cũng chẳng no mà ch ẳng đói,
Thung thăng chi ếc lá rƣợu lƣng bầu.
(Gửi bác Châu Cầu)
Thì Tú Xƣơng l ại dùng: tôi, tớ, mình, ta, ông, anh ... với số lƣợng thống kê
đáng lƣu ý : ta :17 lần, ông : 9 1ần, tôi: 7 lần, tớ : 5 lần, mình : 1 lần. Tổng
cộng là 40 l ần xuất hiện đại từ nhân xƣng ngôi th ứ nhất trong thơ Tú Xƣơng,
thƣờng nằm trong những bài thơ tự trào, tự thuật, tự vịnh ... Đại từ nhân xƣng
ngôi thứ 3 liên quan đến đối tƣợng phản ánh cũng chiếm tỉ lệ đáng kể với tần
số xuất hiện 37 lần, trong đố đại từ xác định "ông" và không xác định "ai"
chiếm ưu thế : ông: 7 lần, ai: 5 lần, chị: 4 lần, người ta : 2 lần, bác: 2 lần,
người : 2 lần, em: 2 lần và I lần ở mỗi từ sau đây : thằng ông, nó, chị ả, bu
nó, ngư ời kia, hắn, chúng nó, cô, cô mình, bà, c ậu. Còn đại từ nhân xƣng
ngôi thứ 2 xuất hiện củng khá phổ biến ở thơ Tú Xƣơng với số lƣợng 21 lần,
trong đó đại từ "ông" có lần số cao nhất là 7 lần, bác: 4lần, mày. 2 lần, chúng
mày: 2 lần, và 1 lần ở những từ sau đây : bay, em, chị em, mình, cô, anh. Nhƣ
vậy, có một điều rất thú vị thể hiện cái tài hoa c ủa Tú xƣơng là đại từ "ông"
(đại từ xác định) lại đƣợc dùng ở cả 3 ngôi tùy theo chu c ảnh.
Ngoài việc sử dụng đại từ nhân xƣng, theo chúng tôi, thơ Nôm Đƣờng
luật thế k ỷ XIX còn có ch ỗ khác với Đƣờng thi ở một vài từ loại khác. Nếu
Đƣờng thi có nhu cầu sử dụng nhiều danh từ và tính t ừ chỉ phẩm chất để thể
hiện trạng thái trầm tƣ, tĩnh lự của tâm tình thì thơ Nôm
183

Đƣờng luật thế kỷ XIX lại có nhu cầu sử dụng loại tính từ chỉ trạng thái,
động từ và phó từ nữa. Dƣờng nhƣ nhờ vậy mà thể loại này mới có thể phản
ánh biết bao nhiêu cái bi ến động của lịch sử, của cuộc sống giữa một thời đại
đầy bão táp, cả những gian truân, những lăn lóc của biết bao cuộc đời và thân
phận con ngƣời ở thế kỷ XIX. Bên cạnh những động từ chỉ hoạt động tâm
thức nhƣ ở Đƣờng thi, th ể loại này còn có c ả những động từ chỉ hoạt động cơ
năng khiến lời thơ cựa quậy nhƣ những bức tranh sinh động của cuộc sống
đang xảy ra trƣớc mắt:
Bỏ nhà, lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ bầy chim dáo dát bay.
(Chạy giặc - Nguyễn Đình Chiểu)
* Đặc trưng thứ năm : Nằm trong khuynh hƣớng tiếp cận ngôn ngữ
cuộc sông, thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX đã có h ẳn một lớp từ độc đáo : từ
tƣợng thanh, t ức mô phỏng một số âm thanh tự nhiên. Trong Đƣờng thi, nhà
thơ "loại bỏ những từ lượng hình, tư ợng thanh, chỉ còn lại ý nghĩa chung
nhất, chân như.... Đó là s ự lắng lọc của tư duy, đ ể đi dần về trạng thái tĩnh,
sự cân bằng." [27:247]. Trong khi ở đây - trong thể loại thơ Nôm Đƣờng luật
- không hiếm từ tượng hình, từ tượng thanh, vần và thanh, âm và thanh trong
các lớp từ này tạo nên sự hài hòa về ngữ âm và ngữ nghĩa, bộc lộ rất rõ tiếng
nói của dân lộc, của đời sống Việt Nam. Chẳng hạn:
- Đứng tréo trông theo c ảnh hắt heo,
Đƣờng đi thiên thẹo, quán cheo leo.
(Quán Khánh - Hồ Xuân Hƣơng)
Đây là một dẫn chứng khác v ề câu thơ có từ tƣợng thanh :
- Gió đập sƣờn non đua lắc cắc,
184

Sóng dồn mặt nƣớc vỗ long bong.


(Kẽm Trống - Hồ Xuân Hƣơng)
Vậy thì phải chăng có thể coi những từ tƣợng thanh, từ tƣợng hình trong ngôn
ngữ thơ Nôm Đƣờng luật nhƣ một phản mã Đƣờng thi ? Qua khảo sát và phân
tích, rõ ràng là không ch ỉ từ tƣợng hình, từ tƣợng thanh mà cả hệ thống ngôn
ngữ đời thƣờng, thậm chí cả ngôn ngữ văn học dân gian và b ộ phận từ thuần
Việt. Tất cả đều thuộc về hệ thống ngôn ngữ dân tộc, chứa trong nó một số
nội dung dân chủ. Nó liên quan mật thiết tới sự hiện hữu của nền văn chƣơng
trào phúng và góp ph ần khẳng định xu thế chung của quá trình giải phóng cá
nhân suốt hai thế kỷ XVIII và XIX, khẳng định nền thi văn hai thế kỷ này là
thuộc về giai đoạn hậu trung đại, dự báo một nền văn chƣơng hi ện đại ở thế
k ỷ XX.
5.3 Câu thơ Nôm Đƣ ờng luật
Trên đây là nh ững khảo sát thiên v ề mặt từ ngữ với hai nét lớn : vừa
gần với Đƣờng thi, vừa xa Đƣờng thi. Để tìm hiểu ngôn ngữ thể loại, Luận án
còn muốn tiếp cận nó từ một góc độ khác : về mặt câu thơ Nôm Đƣờng luật.
Trong công trình "Ngôn ngữ thơ", nhà nghiên cứu Nguyễn Phan C ảnh
đã chỉ ra hệ thống tổ chức ngôn ngữ trong thơ cổ điển là : "Cả hai hệ lựa
chọn và kết hợp đều được tập trung khai thác đ ồng thời. Những hình tượng cổ
điển, vì thế vừa có tính chất ẩn dụ, vừa có tính chất hoán dụ. Nói cách khác,
cổ điển vừa vặn từ vừa vặn câu"[5:23l] . Kh ảo sát hệ thống ngôn ngữ thơ
Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX, chúng tôi nhận thấy đúng là bên c ạnh hệ lựa
chọn, nhà thơ vẫn quan tâm đ ến hệ kết hợp. Nói
185

cách khác, h ọ thƣờng dày công tìm ki ếm những lối diễn tả đặc biệt nhằm gây
một hiệu quả nghệ thuật, nhắm vào cảm xúc hay tƣ ởng tƣợng của ngƣời đọc,
làm tăng giá trị câu thơ, thể hiện qua cách đặt câu. Đó là cú cách (figure de
construction), là cách x ếp đặt chữ trong câu để gây một ấn tƣợng. Qua sự
khảo sát, chúng tôi nh ận thấy nó có m ấy đặc trƣng sau đây: Một là, cũng nhƣ
trong thơ Đƣờng luật nói chung, các dòng thơ luôn luôn đ ộc lập với nhau về
mặt ngữ pháp, có nghĩ a là mỗi dòng thơ chính là một câu thơ. Đây là chỗ
khác biệt với thơ hiện đại thế k ỷ XX. Ở đây, các dòng t ự có một hình ảnh độc
lập, ít khi nối với nhau bởi các quan h ệ từ nhƣ và, cùng, hay, của, vì, tuy,
vì... nên, nếu ... thì, tuy ... nhưng, không nh ững... mà. Những câu thơ nhƣ sau
rất hiếm:
- Bởi đuổi hƣơu Tần nên mỏi gối,
Vì lo khỉ Sở mới dùng da.
(Chó già - Huỳnh Mẫn Đạt)
- Vì danh chửa đạt mới tai ngơ.
(Họa thơ Tôn Thọ Tường, II - Lê Quang Chiểu)
-Vì tòa liêm phóng ph ải vời anh.
( Vịnh Phạm Văn Thụ - Nguyễn Thiện Kế)
Riêng ở liên 2 và liên 3 bài bát cú, nh ờ tính chất đối trong t ừng cặp câu thơ,
lời thơ thƣờng tạo nên những tầng nghĩa mới, những "ý tại ngôn ngoại",
những sự cộng hƣởng ý cho nhau r ất thú vị không thấy ở bất cứ thể loại nào
khác mà Luận án đã khảo sát trong ph ần phân tích cấu trúc bài thơ.
Hai là, xét về mặt cú pháp, xuất hiện ở đây cả loại câu chỉ quan hệ lẫn
loại câu trần thuật.
186

- Loại câu chỉ quan hệ khá đa dạng với các kiểu quan hệ ngữ pháp.
Thƣờng thì mệnh đề chính đứng sau hỏi trọng tâm ý nghĩa bài thơ đƣ ờng nhƣ
thiên về các vế sau, nơi gieo v ần. Tuy nhiên, n ếu cấu trúc câu thơ có s ự biến
đổi khi nhà thơ sử dụng phép đảo trang (inversion ) thì có thể cái hay của câu
thơ lại dồn về những đảo ngữ đứng ở đầu câu thơ. Nhà thơ có khi cũng mạnh
dạn sử dụng loại câu cầu khiến, thể hiện đƣợc mối quan hệ gần gũi, s ự liên
hệ tƣơng hỗ giữa chủ thể và khách th ể những khi muốn bộc lộ tâm tình.
Chẳng hạn:
- Khéo khéo đi đâu lũ ng ẩn ngơ,
Lại đây cho ch ị dạy làm thơ.
( Mắng kẻ chơi trèo-Hồ Xuân Hƣơng )
- Văng vẳng tai nghe tiếng chích chòe,
Lặng đi kẻo động khách lòng quê.
( Về hay ở - Nguyễn Khuyến )
- Loại câu trần thuật hay câu kể cũng có m ặt trong thơ Nôm Đƣờng
luật thế k ỷ XIX, trong đó, phổ biến nhất là câu t ả mang nội dung miêu tả, tự
sự, phản ánh hiện thực cuộc sống của con ngƣời đời thƣờng một cách cụ thể
và khiến cho lời thơ nghe nhƣ lời nói thƣờng.Chẳng hạn:
- Tết đến ngƣời cho một chậu trà,
Đƣơng say ta ch ẳng biết rằng hoa.
(Tạ lại người cho hoa trà -Nguyễn Khuyến )
- Quanh năm buôn bán ở mom sông ,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
(Thương vợ- Tú xƣơng )
187

Ba là, trong cấu trúc câu thơ, thƣờng có sự trùng điệp (répéiiiion ) l ặp
lại từ hoặc ngữ một cách nghệ thuật , mang s ắc thái tu t ừ. Chúng tôi nhận
định rằng hiện tƣợng sử dụng điệp từ, điệp ngữ là một đặc trƣng th ể loại, khu
biệt nó với Đƣờng thi và Đƣ ờng luật Hán. Sự lặp lại từ ngữ ở đây thƣờng có
tác dụng nhấn mạnh. Chẳng hạn :
- Chẳng phải rằng ngây, ch ẳng phải đần.
( Vịnh cảnh nghèo - Nguyễn Công Trứ )
- Sanh có ngày, âu thác có ngày.
(Ngọa bịnh ngâm thi -Bùi Hữu Nghĩa )
- Đứa thì làm tƣớng, đứa làm yêu.
( Tức cảnh ban chi ều - Học Lạc )
Lời thơ nhấn mạnh, tác động, hằn sâu vào ngƣời nghe hay ngƣời đọc một cảm
giác, một ấn tƣợng khó phai mờ. Đây là một trong những biện pháp ngôn ngữ
khiến thơ Nôm Đƣờng luật gần gũi với sáng tác dân gian, v ới nhân dân, và
chắc chắn là đƣợc nhân dân ƣa chuộng.
KẾT LUẬN CHUNG VỀ NGỒN NGỮ THƠ NÔM ĐƢ ỜNG LUẬT
1. Cũng nhƣ ngôn ngữ Đƣờng thi, ngôn ngữ thơ Nôm Đƣờng luật thế k ỷ
XIX có đặc điểm : số lƣợng từ trong bài thơ rất tiết kiệm nhƣng l ại có cấu
trúc rất chặt chẽ và ý nghĩa hàm súc, kết tinh. Nó nói rất ít mà gợi vô cùng,
nhất là ở những từ đa ngữ nghĩa và những từ ngữ mang tính khái quát. Nhà
thơ sử dụng thành công và gây đƣ ợc hiệu quả nghệ thuật ở những thực từ.
Nhà thơ cũng s ử dụng những từ ngữ đối lập với t ỷ lệ cao nhất so với các thể
loại khác. Đó là th ứ ngôn ngữ chính xác, tinh t ế, tao nhã và mang tính ƣ ớc lệ.
Nhà thơ cũng thƣờng sử dụng cách "l ấy chữ ",
188

điển cổ, điển tích văn học. Lời thơ, câu thơ l ại có cấu trúc độc đáo là s ự lƣợc
bỏ chủ ngữ. Ngoài ra, sự tồn tại của hệ thống từ Hán - Việt đem lại màu sắc
trừu tƣợng khái quát cho tình đi ệu thẩm m ỹ của bài thơ. Tất cả góp phần
khẳng định thơ Nôm Đƣ ờng luật thế k ỷ XIX là thuộc phạm trù văn chƣơng
trung đại với đặc trƣng v ề tính vô ngã và tính qui ph ạm của nó.
2. Mặt khác, lại là mặt chủ yếu, ngôn ngữ thơ Nôm Đƣờng luật cơ bản
nằm trong hệ thống ngôn ngữ dân tộc, thể hiện tính dân tộc, tính nhân dân và
tính dân chủ trong cả nội dung lẫn hình thức của nó. Đúng nhƣ nhà nghiên
cứu Tạ Ngọc Liễn đã viết trong bài: " Về tính dân tộc trong thơ cổ, trung đại
Việt Nam "; "... cấu trúc ngôn ngữ có liên quan ch ặt chẽ tới những quá trình
tâm lý sâu xa . Ngôn ngữ Nôm là ngôn ngũ c ủa người nước Nam. Bởi vậy thơ
văn Nôm là tài liệu lịch sử thể hiện sâu sắc nhất nếp tâm lý dân tộc, tức tính
cách dân tộc ta." |47:22]. Và cũng đúng nhƣ GS Bùi Duy Tân đã nh ận xét:
"Sử dụng ngôn ngữ dân lộc, tức tiếng mẹ đẻ thì có thể phản ánh hiện thực
cuộc sống bình thư ờng của nhân dân một cách linh hoạt và cụ thể hơn, có thể
xây dựng những hình tượng văn học đậm đà màu sắc dân tộc hơn, và do đó d ễ
thấm sâu hơn vào cảm quan của công chúng. Cho nên n ếu như tính dân tộc,
tính nhân dân có thể thấy được ở cả hai bộ phận của văn học viết, thì lại có
thể dễ thấy hơn ở văn học Nôm. Hơn nữa, chính vì sứ dụng ngôn ngữ văn học
dân tộc nên văn học Nôm cổ những nét riêng, độc đáo, so với văn học chữ
Hán. "[78:15]. Lu ận án đã có th ể khẳng định rằng đặc trƣng nổi bật là vẻ đẹp
rất riêng ấy của ngôn ngữ thể loại : Nó đã đƣợc dân tộc hóa, Việt hóa, nhân
dân hóa và dân chủ hóa. Nó đã phá v ỡ một khoảng cách
189

dai dẳng lừ lâu nay vẫn ngự trị trong lịch sử thơ ca truyền thống là kho ảng
cách giữa thơ ca bác học và hiện thực trần trụi của cuộc sống đời thƣờng.
3. Từ hai nhận xét trên, chúng tôi có th ể rút ra một kết luận mới: Phải
chăng ngôn ngữ thơ Nôm Đƣờng luật là thứ ngôn ngữ phức hợp, chứa trong
nó cái "độ căng " thể loại ? Trong công trình "Giới thiệu về nghiên cứu văn
chương" (An introduction to the study o f Literaturc), các tác gi ả Danziger
Marlies K. và Johnson w. Slac y đã nhận thấy : "Bất cứ một tác phẩm văn
chương giá trị nào cũng là một phức hợp, nó bao gồm trong chính nó nh ững
xu hướng đa dạng, những sự khác nhau, những sự đối lập, ngay cả những sự
phủ định có thể thấy rõ. Chẳng hạn, nó có th ể biểu lộ độ căng giữa kỹ xảo
nghiêm ngặt cuả hình thức (vần thơ, dòng thơ, câu thơ trọn nghĩa) và sự tự
nhiên của ngôn ngữ . . . "(*)
Chúng tôi cho r ằng, ngôn ngữ thơ Nôm Đƣờng luật
là một trong vài thứ ngôn ngữ văn chƣơng có kh ả năng bộc lộ cái tính phức
hợp ấy, với sự xuất hiện khá nhiều độ căng. Nó v ừa gần Đƣờng thi vừa phản
mã Đƣờng thi, sử dụng thành công cả thực từ lẫn hƣ từ, vừa có tính khái quát
vừa có tính cụ thể với tên riêng chỉ ngƣời, chỉ địa điểm, vừa tinh t ế tao nhã
vừa có lớp từ tục, từ chửi của đời thƣờng, sử dụng cả từ Hán Việt lẫn từ
thuần Việt, vừa sử dụng điển tích văn học, điển cố, cách lấy chữ, vừa vận
dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao, câu thơ vừa lƣợc bỏ chủ ngữ (vô nhân xƣng)
vừa xuất hiện đại từ nhân xƣng, số lƣợng ngôn từ rất tiết kiệm mà vẫn thƣờng
sử dụng phép trùng điệp . . .
190

PHẦN KẾT LUẬN


1. Thế giới nghệ thuật thơ Nôm Đƣờng luật ( thế kỷ XIX)
Sau khi khảo sát hàng loạt các hệ thống, từ đề tài, chủ đề đến hình
tƣợng không - thời gian, cấu trúc, nhịp, ngôn ngữ, đến đây chúng tôi có th ể
tìm thấy cái gì là chung nh ất, là bao quát, là đ ậm nét. Luận án khẳng định
rằng: Thế giới nghệ thuật thơ Nôm Đường luật thế kỷ XIX là một thế giới của
hiện lượng giao thoa phức hợp giữa phạm trù cái cao cả , vĩnh hằng, trang
nghiêm, tĩnh t ại ... với cái bình thư ờng thông t ục, dân dã, sôi động, chứa
trong nó chất hài. Thế giới này là bức tranh thu nhỏ của hiện thực cuộc sống,
hòa tan trong thế giới tâm hồn rất đời thƣờng của con ngƣời, chứ không chỉ là
thế giới sâu lắng trầm tƣ của con ngƣời vũ trụ. Tất nhiên là, trong th ế giới
nghệ thuật của thơ Nôm Đƣờng luật, có vẻ đẹp của sự hài hòa giữa cái tĩnh
và cái động. Nhƣng có lẽ đây cũng là v ẻ đẹp trong thế giới nghệ thuật thơ
Đƣờng luật nói chung. T ừ bài thơ "Phong Ki ều dạ bạc" của Trƣơng Kế đến
bài thơ "Thu vịnh" của Nguyễn Khuyến đều có vẻ đẹp của sự hài hòa ấy.
Nhƣng nếu ở bài Đƣờng thi, nhà thơ tạo ra những mối quan hệ để gợi liên
tƣởng cho ngƣời đọc về những vẻ đẹp của thế giới, của tình ngƣời, thì ở bài
thơ Nôm Đƣờng luật, nhà thơ không lƣợc bỏ đi mà giữ lại rất nhiều những
đƣờng nét, màu s ắc, âm thanh của thiên nhiên, âm vang c ủa cuộc sống đời
thƣờng. Thế giới nghệ thuật này thực ra đã đƣợc chúng tôi hé mở qua việc
khảo sát từng yếu tố, từng hệ thống.
Ở hệ thống đề tài, chủ đề, đó là cái v ẻ đẹp k ỳ thú, bình dị của thiên
nhiên, thứ thiên nhiên cụ thể chứ không hắn chỉ là thiên nhiên quan h ệ, là
thiên nhiên khách th ể chứ không chỉ là thiên nhiên chủ thể. Đó là cái th ế giới
191

đƣợc diễn tả theo sự quan sát trực tiếp của nhà thơ, mang màu s ắc dân tộc và
ít nhiều đã xuất hiện nét cá th ể hóa, mang tính ch ất trữ tình thế sự, trữ tình cá
nhân và trữ tình công dân. Đó còn là th ế giới nội tâm, thế giới của tâm sự và
khát vọng cá nhân. Quê hƣơng, đ ất nƣớc, hiện thực cuộc sống cũng ùa ngập
vào những trang thơ Nôm Đƣòng lu ật, nhất là ở nửa sau thế kỷ XIX, thắp
sáng những trái tim yêu nƣớc của nhà thơ và của con ngƣời một thời "khổ
nhục mà vĩ đại". Trong thế giới nghệ thuật này, ngƣời đọc vẫn còn có th ể cảm
nhận về một không gian vũ trụ thiên nhiên, lữ thứ, nhƣng là thiên nhiên r ất
Việt Nam và nhiều hơn là không gian đòi thƣ ờng với tâm trạng cá nhân con
ngƣời, không gian si nh hoạt, xã hội, nghĩa là trong xu hƣ ớng thu hẹp không
gian của thơ Nôm Đƣờng luật. Ngƣời đọc cũng còn có th ể cảm nhận đƣợc thời
gian tuần hoàn theo chu k ỳ, thứ thời gian thiên nhiên quy ph ạm hóa, mang
tính ƣớc lệ rất cao, nhƣng ngƣời đọc sẽ nghe rõ hơn nhịp đập của thời gian
tâm trạng riêng - chung, thời gian quá khứ trôi rất chậm, hoặc rộn ràng hơn,
sôi nổi hơn, nhức nhối hơn, tiếng thời gian của sinh hoạt đời thƣờng, thứ thời
gian hiện tại, mang tính thời sự của sự kiện lịch sử, xã hội.
Trong thế giới nghệ thuật này, nhịp điệu thơ ca đƣợc xây dựng trên nền
tảng nhịp điệu truyền thống của thể Đƣờng thi là nhịp 4-3, nhƣng cũng uyển
chuyển và sinh động hơn trong nh ịp 3-4 rất độc đáo, rất Việt Nam. Xét t ừ
bình diện ngôn ngữ nhƣ những chất liệu cụ thể cho thế giới nghệ thuật, trong
khi bộ phận từ Hán - Việt phả vào đây sắc thái ý nghĩa tr ừu tƣợng, gắn liền
với tính chất tĩnh tại, không gợi hình, không mang tính ch ất miêu t ả sinh
động thì bộ phận từ thuần Việt - chiếm tỷ lệ áp đảo - đã rất tự nhiên, ung
dung bƣớc vào "lãnh thổ" có lẽ đã dành sẵn cho mình, lập
192

tức hóa giải tình thế, mang l ại cho bài thơ s ắc thái ý nghĩa cụ thể, gắn liền
với tính chất sinh động, gợi hình. Những từ láy âm, tên riêng chỉ ngƣời và địa
điểm, sự có mặt của folklore, khẩu ngữ, từ tục, từ chửi, chơi chữ, nói lái, đ ại
từ nhân xƣng, t ừ tƣợng thanh ...khiến ngƣời đọc không thể nhầm lẫn thế giới
nghệ thuật thơ Nôm Đƣờng luật với một thế giới nghệ thuật khác .
Để sáng tạo đƣợc thế giới nghệ thuật riêng này, rõ ràng nhà thơ đã ti ếp
nhận hoặc chịu sự tác động của các quy luật m ỹ học trung đại và m ỹ học dân
gian . Mặc dầu vẫn còn giữ đƣợc những đặc trƣng của nền văn học trung đại,
các nhà thơ Nôm Đƣờng luật đã từ nền thơ bác học trở về sát gần đến mức
nhập thân vào n ền văn hóa dân gian. T ừ thơ Hồ Xuân Hƣơng đến thơ Trần Tế
Xƣơng là một chặng đƣờng tốt đẹp của trào lƣu dân chủ hóa văn chƣơng, dân
gian hóa thơ Đƣờng luật. Và để thử l ý giải vì sao chƣa bao gi ờ văn học dân
gian lại có mặt trong văn chƣơng vi ết nhƣ một trong những nhân t ố chủ lực
nhƣ ở thế kỷ XIX, có thể nghĩ đến cơ sở thực tế xã hội Việt Nam bấy giờ :
thời k ỳ phát triển phong phú nh ất của nền văn hóa dân gian .
Có lẽ nhờ tiếp nhận cả hai nền m ỹ học mà thế giới nghệ thuật này có sự
phù hợp "Khoảng cách tâm lý" (Psychical distance). M ột mặt nó tạo đƣợc m ỹ
cảm, khoảng cách hơi xa ra, m ặt khác nó vẫn coi trọng hiện thực, lƣu tâm đến
tính chất cá biệt, cụ thể của sự vật, nhờ vậy độc giả tuổi trẻ ngày nay vẫn có
thể lĩnh hội. Nhờ có khoảng cách phù hợp, một khi bƣớc vào thế giới nghệ
193

thuật thơ Nôm Đƣòng lu ật, độc giả sẽ không đến nỗi đi nhầm từ thế giới m ỹ
cảm ấy vào thế giói hiện thực.
Thế giới nghệ thuật này xét đến cùng là có những chỗ tương đồng
nhưng chủ yếu là những nét dị biệt với thế giới nghệ thuật Đường thi và cả
với Đường luật Hán. Trong sự giao lƣu văn hoa ỏ đây, rõ ràng ảnh hƣởng của
Đƣòng thi không nh ất thiết để lại dấu vết trong thơ Nôm Đƣờng luật mà có
rất nhiều dấu hiệu của Đƣờng thi đã đƣợc hòa tan trong sức sáng t ạo cùa nhà
thơ Nôm Đƣòng lu ật với tƣ cách chủ thể tiếp nhận. Thể loại này do v ậy thực
sự xứng đáng tiêu biểu cho hiện tƣợng vượt gộp hay tiếp biến trong thi ca,
rộng hơn là sự vượt gộp hay tiếp biến văn hóa (acculturation) thƣờng dƣợc
nhắc đến trong văn hoa học.
Thơ Nôm Đƣờng luật - trên cơ sở thế giới nghệ thuật này - là một trong
những bộ phận chủ yếu của nền vãn học dân tộc, nơi "bắt đầu cho một thái độ
sống của tâm thức con ngư ời biết tư duy" [32:2]

2. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong thơ Nôm Đƣờng luật (thế kỷ
XIX)
Một mặt, thể loại thơ Nôm Đƣờng luật trong phạm vi thế kỷ XIX vẫn
còn bộc lộ quan niệm con người vũ trụ, con nguời vô ngã, con người tấm
lòng. Nhà thơ đã hình dung con ngƣ ời xã hội thông qua con ngƣời vũ trụ,
đúng nhƣ Trần Đình Sử nhận định : "Con người vũ trụ là mô hình cơ bản chi
phối sự mô tả con người trong thơ văn c ổ Việt Nam". Đồng thời, hầu hết các
nhà thơ thuộc kiểu con ngƣời nhà Nho, con ngƣời đứng trong trời đất, lấ y
tiêu chuẩn đạo l ý làm ngƣời để phân biệt, đành giá ngƣời làm theo chu ẩn mực
và ngƣời bất cập chuẩn mực. Họ là những con ngƣời "sách vở" nên tấm lòng
"ái
194

ưu" vẫn hằng canh cánh, ngay c ả khi lâm vào cảnh ngộ bi đát, họ vừa than
thở vừa giễu mình thi chƣa đ ỗ ...
Mặt khác, thể loại này ở thể k ỷ XIX cũng đã bộc lộ sự đổi mới quan
niệm con ngƣời. Bên cạnh con ngƣời tự nhiên (con ngƣơi vũ tr ụ), đã có thể
nói đến sự xuất hiện quan niệm về con người cá nhân, con ngư ời hữu ngã,
mà biểu hiện trƣớc hết là con người tự khẳng định, con người có cá tính,
với tất cả khát vọng tự do và lòng t ự tin, tự hào của nó. Tài hoa trong ngh ệ
thuật là biểu hiện tài năng con ngƣời, rất đƣợc đề cao, đƣợc quan ni ệm nhƣ là
một tiêu chuẩn đạo đức con ngƣời, nhất là vào n ửa đầu thế kỷ. Chẳng phải Hồ
Xuân Hƣơng đã từng tự hào là ngƣời trí thức của thời đại qua lời thơ : "Khéo
khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ. Lại dây cho chị dạy làm thơ " đấy sao ? và ch ẳng
phải " Chí làm trai" nhƣ một mục tiêu của con ngƣời kẻ sĩ trong cuộc sống
Nguyễn Công Trứ đấy sao ? Tất nhiên, khi đã có một quan ni ệm nhƣ vậy thì
cái nhìn truyền thống bắt đầu lung lay, thay đổi là điều dễ hiểu, bởi đã có sự
"chuyển hệ " tƣ tƣởng. Chẳng hạn, cái nhìn về "Ông trời" giờ đây đã khác hẳn
với hàng chục thế kỷ trƣớc. Còn đâu ý nghĩa thiêng liêng cao c ả trong hình
ảnh đấng tối cao nắm giữ then tạo hóa chứng giám cho con ngƣời và muôn
việc ở đời ! Nhà thơ quay v ề với cuộc sống đời thƣờng với biết bao ý nghĩa
nhân bản của nó.
Vào nửa sau thế kỷ XIX, sự thay hình đổi dạng của xã hội Việt Nam đã
làm thay đổi quan ni ệm về con ngƣời. Hoà trong b ức tranh chung của cái xã
hội nửa Ta nửa Tây nhố nhăng loạn xị là những con ngư ời-mà-chẳng-ra-
người. Con ngƣời nho sĩ truyền thống từng xứng đáng đƣợc tôn vinh là hi ện
thân của trí thức, văn hóa, đ ạo đức, giờ đây bỗng trở nên trống rỗng, nhẹ
195

tâng, kể cả khi leo lên đ ến đỉnh cao danh vọng (Vịnh tiến sĩ giấy của Nguyễn
Khuyến) Nói chi đến những ông Cử chẳng ra ông C ử và quan cũng ch ẳng ra
quan !.. Quả thật các nhà thơ đã tìm m ột định hƣớng dùng cho phƣơng th ức tƣ
duy nghệ thuật của mình, đi nhanh t ừ những gì là công thức ƣớc lệ đến với
hiện thực ngồn ngộn của cuộc sóng. Nêu cho rằng:"Quan ni ệm thẩm mỹ thời
phong kiên, nói chung lấy chuẩn mực của cái đẹp và chân lý ở quả khứ. Càng
cố xưa càng coi là lý tư ởng" [57:10-11] thì quan ni ệm thẩm mỹ (nghệ thuật)
ỏ đây có khác, đã có nhi ều biểu hiện phá vỡ hệ thống thi pháp c ổ ấy. Chuẩn
mực của cái Đẹp và chân l ý ngh ệ thuật ỏ đây là con ngƣời, là cuộc sống thực
tại, là vận mệnh nhân dân và dân t ộc.

3. Kết luận chung


Trên cơ sở sự khảo sát thể loại ở thế kỷ XIX, đến đây cũng có thể kết
luận đƣợc về cái mã của thơ Nôm Đƣờng luật. Đó là sự chuyển hóa, sự hỗn
dung, sự vượt gộp hay tiếp biến giữa cái mã Đư ờng thi và cái phản mã
Đường thi. Nhƣ vậy là:
• Một mặt, nhà thơ vẫn chấp nhận "có một chân lý vĩnh vi ễn tồn tại
xuyên qua những thay đ ổi bên ngoài" [ :72] Nhà thơ mu ốn thể hiện cái nội
dung "khẳng định một sự bất biến của chân l ý vạn vật nhất thể ...
•Mặt khác, nhà thơ lại có xu hƣớng phủ định hệ tƣ tƣỏng của Đƣờng
thi, muốn phá vỡ những quy này ph ạm nọ.
Có thể nói, sự hỗn dung trong quan ni ệm về lối sống là tiền đề cho sự
hỗn dung trong ki ểu tƣ duy nghệ thuật : giữa phong cách bác h ọc và phong
cách dân gian, trong đó, n ổi trội hơn chính là phong cách dân gian, không ch ỉ
ổ chỗ phong cách dân gian bi ểu hiện bằng nhiều mặt, đặc biệt là qua ngôn
196

ngữ, tồn tại trong đại đa số bài thơ, câu thơ, mà còn ở chỗ nó làm nên v ẻ đặc
sắc thể loại.
Từ thơ Nôm Đƣờng luật, có thể nghĩ đến những đặc trưng của nền văn
chương chữ Nôm. Nếu văn chƣơng chữ Hán, trong đó có thơ Đƣ ờng luật chữ
Hán, thiên v ề mặt bác học, chịu ảnh hƣởng của triết học phƣơng Đông, của ý
thức hệ phong kiến, thì văn chƣơng ch ữ Nôm lại thiên về mặt dân gian, ch ủ
yếu là tiếp nhận đƣợc từ nhân dân, từ nền văn hóa dân gian nh ững tƣ tƣởng,
nghệ thuật nói chung là ti ến bộ, lành mạnh.
Từ thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX, cũng có thể xác định xu hướng văn
chương thế kỷ XIX - là thế kỷ thức tỉnh của bản ngã - trong quá trình phát
triển lịch sử văn học Việt Nam nhƣ nhà nghiên c ứu Thái Hòa đã chỉ ra : "Có
thể nói lịch sử văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XX là quá trình
con người "tự nhận thức", "tự khẳng định cái tôi" của mình. Ở thời kỳ đầu,
cái "tôi" hòa nhập với cái "ta", mội thời kỳ văn chương vô ngã kéo dài, đ ến
thế kỷ XVIII (rõ nhất là thế kỷ XIX), văn chương là con ngư ời tự khẳng định
bản ngã của mình, để đến đầu thế kỷ thứ XX (nhất là từ 1930 - 1945) thì cái
"tôi" mới thực sự hiện ra một cách rõ nét và đi ển hình nhất" [32:4]
Từ thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX, có thể suy nghĩ về một quy luật
trong giao lưu văn h ọc. Nêu trong "Sổ tay văn hóa Việt Nam", mục "Văn học"
nhận định: "Rõ ràng dù vay mư ợn, ông cha ta vẫn không giữ y nguyên cải vay
mượn trong khuôn khổ đã quy định, mà lúc nào cũng có xu hư ớng phá vỡ ra,
phát triển thêm, cải tạo cho phù hợp với cách thẩm âm, thẩm mỹ của người
Việt Nam." [15:188] thì có th ể nói thơ Nôm Đƣờng luật xứng đáng làm tiêu
biểu cho mọi thể loại có hình thức là một thể thơ ngoại nhập, bởi nó
197

thể hiện tập trung nh ất, thành công nh ất quá trình Vi ệt hóa thể thơ ấy. Hơn ở
đâu hết, chính ở thể loại văn học dân tộc độc đáo này, có sự gặp gỡ, giao lƣu,
chuyển hóa giữa hai nền văn chƣơng : bác h ọc và dân gian.
Từ thơ Nôm Đƣòng luật thế kỷ XIX, chúng tôi không th ể không nghĩ
đến Boileau và Diderot. Có th ể nói, thể loại này, rõ nhất ở thế kỷ XIX, là thể
loại vừa "cao quý" vừa "thấp kém" bởi nó vừa có chất bi vừa có chất hài, vừa
có mảng thơ xƣng t ụng giọng anh hùng ca về những con ngƣời trung nghĩa
vừa có mảng thơ châm bi ếm trào phúng lũ ngƣời hèn hạ xấu xa. Trong quan
niệm của nhà thơ, có sự gắn bó toàn di ện, sâu sắc với hiện thực cuộc sống
nhân dân, nhƣ Diderot (Ì713 -1784) của nền văn học hiện thực Pháp "Những gì
thường gặp nhất trong tự nhiên đều đã từng làm mẫu mực đầu tiên cho nghệ
thuật". (Dẫn theo Phƣơng Lƣu, "Một quan niệm văn nghệ góp phần báo hiệu
cho Cách mạng Pháp", Tạp chí văn h ọc số năm 198 , (tr. 13-14).
Ở thể loại này không còn có s ự xa cách gi ữa đề tài "cao quý" và "th ấp
hèn" - một sự phân biệt thiếu dân chủ. Ngƣợc lại, thơ Nôm Đƣờng luật, nhất
là ở thế kỷ XIX, lại chứa đựng nội dung dân chủ và đậm đà tính nhân dân,
đúng nhƣ nhận định của GS Lê Trí Vi ễn : "Thơ Đư ờng cũng có phong cách
trang trọng như phú, nhưng vào Vi ệt nam, trong tay các thiên tài, nó s ẵn
sàng mở rộng lòng đón nh ận bất kỳ nội dung nhân dân nào. Nhi ều bài thất
ngôn bát cú của Hồ Xuân Hương, của Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương đã đậm
đà màu sắc quảng đại nhân dân" [90:145].
Tất nhiên là thơ Nôm Đƣờng luật không th ể không chịu ảnh hƣỏng của
tƣ duy nghệ thuật cổ trung đại phƣơng Đông, quan ni ệm nghệ thuật về thế
giới và về con ngƣời của nhà thơ Dƣờng Trung Qu ốc, có sự vay mƣợn chai
198

liệu nghệ thuật và cả k ỹ thuật làm thơ ... nhƣ là m ột quy luật, rất phổ biến
trong giao lƣu văn hóa, nhƣng dƣờng nhƣ chủ yếu là do mối quan hệ tƣơng
đồng về điều kiện lịch sử, xã hội, đặc điểm chung của tâm hồn con ngƣời Á
Đông, nhƣ Nguyễn Văn Dân, trong công trình "Những vấn đề lý luận của văn
học so sánh" đã khẳng định : "Người ta chỉ có thể vay mư ợn những gì đồng
điệu với quan điểm tư tưởng của mình" [tr 46-47]. Hơn nữa, quan trọng nhất,
đáng quí nhất là nhà thơ đã ti ếp nhận bằng con đƣờng Việt nam hóa, bi ết gạt
bỏ những gì xa l ạ với cảm thức của ngƣời Việt nam, nghĩa là sự tiếp nhận có
cách tân và đầy sáng tạo. Phải chăng chính nhờ vậy, mặc dù sinh mệnh nghệ
thuật của thể loại thơ Nôm Đƣờng luật đã chấm dứt vào đầu thế k ỷ XX nhƣng
tinh hoa của nó vẫn mãi mãi tồn tại. Bài thơ "Sông Lấp" của Tú Xƣơng ch ẳng
phải là một thực tế hùng hồn chứng tỏ thơ Đƣờng luật đã phát huy ƣu th ế của
nó sang thể lục bát trong thủ pháp dồn nén cảm xúc xuống dòng thơ cuối
cùng, tạo vẻ đẹp hàm súc, cô đ ọng - đó sao ? Trong nền văn chƣơng hi ện dại
Việt Nam, thể thơ Đƣờng luật tồn tại trong th ể loại thơ Quốc ngữ luật đƣờng
(hay thờ Đƣờng luật chữ quốc ngữ), nhất là trong thơ trào phúng. Nhƣ v ậy,
"cho đến ngày nay, thơ Nôm lu ật Đường không phải không còn có vị trí trong
nền thơ ca hi ện đại" (39:I 24).
Tóm lại, đối với thể loại thơ Nôm Đƣờng luật, khi khảo sát giai đoạn từ
Hồ Xuân Hƣơng đ ến Trần Tế Xƣơng, Lu ận án đã hệ thống hóa, so sánh, phân
tích và l ý gi ải : Thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX là một chỉnh thể nghệ thuật,
tạo nên đƣợc một thế giới nghệ thuật riêng, bộc lộ một quan niệm nghệ thuật
riêng về con ngƣời. Nhìn chung, có m ột sự thống nhất giữa các hệ thống, từ
đề tài - chủ đề, không - thời gian đến ngôn ngữ. Thiên nhiên trong thơ Nôm
199

Đƣờng luật là thiên nhiên khách th ể và cụ thể chứ không chỉ là thiên nhiên
chủ - thể, không phải là thiên nhiên quan h ệ. Không gian vũ trụ, thời gian vũ
trụ tuần hoàn theo chu k ỳ, ngôn ngữ có tính hàm súc, có s ức gọi, mang tính
khái quát, ƣớc lệ, bộ phận từ Hán - Việt, câu thơ mang tính ch ất vô nhân
xƣng, ... thƣờng gắn bó với đề tài vịnh sử, vịnh truyện, chủ đề triết l ý nhân
sinh, khắng định đạo l ý và khí ti ết nhà Nho, góp phần khẳng định chỗ gần gũi
với Đƣòng thi, Đƣòng lu ật Hán, chứng tỏ thể loại này thuộc phạm trù văn
chƣơng Trung đại. Không - thời gian sinh ho ạt đời thƣờng và tâm tr ạng cá
nhân, không gian xã hội nông thôn - đô thị, thời gian sự kiện lịch sử, ngôn
ngữ văn học dân gian, nhũng l ớp từ thuộc bộ phận khẩu ngữ, nói lái, chơi
chữ, sự xuất hiện ngày càng nhi ều đại từ nhân xƣng, hƣ t ừ, từ tƣợng thanh, từ
thuần Việt, trong đó có vai trò quan t rọng của từ láy âm, danh t ừ riêng chỉ
ngƣời và địa điểm, ... lại là những nét cơ bản làm nên đ ặc trƣng th ể loại,
thuồng là gắn với đề tài tự vịnh, tự thuật, tự trào, hoặc cuộc sống xã hội, đất
nƣớc, chủ đề tâm sự, khát vọng cá nhân, ... và ch ủ đề yêu nƣớc, đều nhấn
mạnh phạm vi hậu trung đại, và là nh ững yếu tố dự báo cho nền văn chƣơng
hiện đại. Về nhịp điệu câu thơ Nôm Đƣ ờng luật thế kỷ XIX, nhìn chung là
gần gũi với Đƣờng thi ở nhịp 4-3, hoặc 2-2-3, hoặc 2-5 (chẵn trƣớc, lẻ sau)
và rất Việt nam ở nhịp 3-4, nhƣ một phản mã Đƣờng thi, thiên v ề kiến trúc
đối xứng và thƣờng có một hƣ từ, đặc biệt là quan hệ từ "mà"ở vị trí âm tiết
thứ 4. Về ngôn ngữ, có thể nói đây là thứ ngôn ngữ phức hợp, chứa trong nó
cái độ căng (tension) th ể loại.
Từ việc khẳng định những kết quả nghiên cứu nhƣ ở trên đã nêu, Lu ận
án có những đóng góp mới trong lĩnh v ực chuyên ngành Văn học Việt nam.
200

Một là, về lịch sử văn học, Luận án góp ph ần cho việc nghiên cứu giai đoạn
văn học hạ trung đại (hoặc hậu trung đại) - mà vẫn có nhà nghiên cứu khẳng
định là giai đoạn văn học phục hƣng của Việt Nam thêm rõ nét h ầu có thể
nhanh chóng đi đ ến sự nhất trí giữa các nhà nghiên cứu. Hai là, về thi pháp
học, Luận án là một thể nghiệm về cách tiếp cận thi pháp th ể loại, góp phần
bổ sung, hoàn chỉnh, làm phong phú thêm, rõ nét hơn di ện mạo thể loại thơ
Nôm Đƣờng luật. Về ý nghĩa thực tiễn, Luận án có thể bổ sung chuyên đ ề
giảng dạy về thể thơ Đƣờng luật, về thể loại và thi pháp th ể loại, gợi ý cho
cán bộ giảng dạy và giáo viên trong gi ảng văn đối với những bài thơ từ Hồ
Xuân Hƣơng đ ến Tú Xƣơng đƣợc làm theo th ể Đƣờng luật. Ngoài ra, nên
chăng coi th ế kỷ XIX nhƣ m ột giai đoạn văn học trong khi phân k ỳ lịch sử
văn học?
201

THƢ MỤC THAM KHẢO


A. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1.Nguyên An - Cái độc đáo trong cấu trúc ngh ệ thuật của bài thpư Bạn đến

chơi nhà - Văn nghệ số 28 (14-7-1990)

2. M.Bakhtin - Lý luận và thi pháp ti ểu thuyết - Phạm Vĩnh Cƣ dịch, Trƣờng

viết văn Nguyễn Du xb, Hn, 1992

3. Hoa Bằng - Quốc văn đời Tây Sơn, Sg, Vĩnh Bảo xb, 1950

4. Phan Kế Bính - Vi ệt Hán văn khảo, Hn, Trung Bắc Tân Văn xb, 1930

5. Nguyễn Phan Cảnh - Ngôn ngữ thư- Hn, Nxb ĐH-GDCN, 1987

6. Nguyễn Sĩ Cẩn- Mấy vấn đề phương pháp d ạy thơ" văn cổ Việt Nam. Hn,

Nxb GD, 1984

7. Nguyễn Tài cẩn - Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đ ọc Hán Vi ệt -

Hn. Nxb, KHXH. 1979

8. Trần Duy Chân - Những bài giảng về thi pháp học cấu trúc - Chƣơng

trình BTKT cho NCS. ĐHSP. TPHCM, 1995

9. Francois Cheng- Bút pháp thơ ca Trung Qu ốc (Ecriture poétique

Chinoise) Nguyễn Khắc Phi dịch. Paris, 1997

10. Nguyễn Huệ Chi (cb) Nguyễn Bỉnh Khiêm danh nhân văn hóa - Hn, Bộ

VHTT-TT xb, 199]

11. Nguyễn Huệ Chi - Con đường giao tiếp của văn học cổ Trung đại Việt

Nam nhìn trong mối quan hệ khu vực - Văn học số 1 - 1992

12. Nguyễn Huệ Chi (cb) Thi hào Nguyễn Khuyến, đời và thơ - Hn, Nxb

KHXH, 1992
202

13. Trƣơng Chính - Cha ông ta đã ph ấn đấu như thế nào để ngôn ngữ văn học

dân tộc ngày càng trong sáng và phong phú - Ngôn ngữ số 2 -1972

14. Trƣơng Chính - Cha ông ta đã vận dụng các thể loại văn học Trung Quốc

như thế nào vào thơ Nôm? Văn học số 2 - 1973

15. Trƣơng Chính - (và...) Sổ tay văn hóa Vi ệt Nam - Hn, Nxb Văn hóa, 1978

16. Trƣơng Chính - Thơ văn Nguyễn Công Tr ứ Hn, Nxb Văn học, 1983

17. Hƣ Chu - Để hiểu thơ" Đường luật - Nxb Nguyễn Hiến Lê. Sài Gòn,

1958.

18. Phan Trần Chúc - Văn chương quốc âm về thế kỷ XIX - Sài Gòn, 1960.

19. Hồng Dân - Bước dầu tìm hiểu về ngôn ngữ của Nguyễn Đình Chi ểu.

Ngôn ngữ số 3 - 1972.

20. Xuân Diệu - Các nhà thơ cổ điển Việt Nam. Tập I : 1981, T ập II : 1987

(tái bản) Hn, Nxb Văn học.

21. Lê Tiến Dũng - Tìm hiểu tác phẩm văn học. Nxb Tổng hợp Sông Bé,

1991.

22. Nguyễn Sĩ Đại - Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời

Đường. Luận án PTS. Hà Nội, 1995.

23. Trần Thanh Đạm - Sự chuyển tiếp của văn chương Việt Nam chương

thời kỳ hiện đại. (chuyên đề) ĐH Sƣ ph ạm TP Hồ Chí Minh, 1995.

24. Nguyễn Kim Đính - Một số vấn đề về thi pháp của nghệ thuật ngôn từ -

Văn học số 5,6/1985.

25. Trần văn Giàu - Triết học và tư tưởng. Nxb TP. HCM., 1988.
203

26. A.Gurevich - Những phạm trù văn hóa trung cổ. (Hoàng Ngọc Hiến

dịch) Nxb Nghệ thuật M., 1972. (ĐHSP Hà N ội I quay ronéo).

27. Nguyễn Thị Bích Hải - Thi pháp thơ Đường. Nxb Thuận Hóa, Hu ế, 1995.

28. Nguyễn Thị Bích Hải - Thử đề xuất một hướng tiếp cận thơ Đư ờng luật.

Thông tin khoa h ọc ĐHSP. TP. HCM., số năm 198 .

29. Dƣơng Quảng Hàm - Việt Nam Văn học sử yếu. Bộ GD (Sài Gòn). Trung

tâm học liệu tái bản, 1968.

30. Dƣơng Quảng Hàm - Văn học Việt Nam. Bộ GD (Sài Gòn). Trung tâm

học liệu tái bản, 1968.

31. Đỗ Đức Hiểu - Đổi mới phê bình văn h ọc. Nxb KHXH - Nxb Mũi Cà

Mau, 1993.

32. Thái Hòa - Nỗi giật mình của Nguyễn Công Trứ - Bách khoa văn h ọc, số

8 - 1991.

33. Bùi Công Hùng - Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca , Nxb KHXH, Hà

Nội, 1983.

34. Roman Jakobson - Thi pháp học. Trần Duy Châu dịch. ĐHSP. TP. HCM,

1994.

35. Đinh Gia Khánh - Văn học cổ Việt Nam. Tập I. Hn. Nxb GD, 1964.

36. Đinh Trọng Lạc (chủ biên) - Phong cách ti ếng Việt. Hn. Nxb GD, 1993.

37. Thanh Lãng - Văn chương chữ Nôm. Phong trào Văn hóa xb, Sài Gòn,

1953
204

38. Đặng Thanh Lê - Hồ Xuân Hương và dòng thơ Nôm Đư ờng Luật. Tài liệu

bồi dƣỡng GV để dạy Văn 10 mới. ĐH Sƣ Ph ạm Hà Nội I, 1990.

39. Đặng Thanh Lê (và ...) - Văn học Việt Nam nữa cuối thế kỷ XVIII nửa

đầu thể kỷ XIX. Hn. Nxb GD, 1990.

40. Đặng Thanh Lê - Tiếp cận một số vấn đề tiếp nhận ngôn ngữ và tư tưởng

triết học Trung Quốc thời kỳ trung dại. Văn học số 2/1995.

41. I.S.Lisevich - Tư tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa. ĐHSP. TP. HCM.

xb, 1993.

42. D.X.Likhasev - Thi pháp văn h ọc Nga cổ xưa. L.1967. Phan Ngọc dịch.

ĐH Tổng Hợp Hà Nội, 1970.

43. Ngô Sĩ Liên - Đại Việt sử ký toàn thư. Tập II. Hn. Nxb KHXH tái b ản,

1967.

44. Mai Quốc Liên - Nhà thơ, cơn bão, và nh ững cánh hoa. Nxb TP. HCM.,

1979.

45. Mai Quốc Liên - Ngô Thì Nhậm trong văn học Tây Sơn. Sở VH và TT

Nghĩa Bình, 1985.

46. Mai Quốc Liên - Dưới gốc me vườn Nguyễn Huệ. Sở VH - TT Nghĩa

Bình, 1986.

47. Tạ Ngọc Liễn - Về tính dân tộc trong thơ cổ, trung đại Việt Nam. Văn

học số II/1994.

48. Nguyễn Lộc - Văn học Việt Nam giai đo ạn nửa cuối thế kỷ XVIII đến

nửa đầu thế kỷ XIX. (G.trình) TTĐTTX Đại Học Huế xb, 1995.

49. Phan Trọng Luận (và ...) - Môn Văn và Ti ếng Việt. Tập I. Hn. Bộ GD và

ĐT xb, 1995.
205

50. Luận Ngữ. Trí Đức tòng thơ xb, Sài Gòn. (D ịch giả: Đoàn Trung Còn).

51. Phƣơng Lựu - Tinh hoa lý lu ận văn học cổ điển Trung Quốc. Hn. Nxb

GD, 1989.

52. Phƣơng Lựu - Nhìn qua lý luận thơ cổ điển Việt Nam. Văn nghệ (HNV)

số 25 ngày 23-6-1990 .

53. (Phƣơng Lựu ) Bùi Văn Ba - Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn

học trung đại Việt Nam . Luận án Tiến sĩ . Hn, 1991 (Ký hi ệu LA 6603

Thƣ viện Khoa học Tổng hợp TP Hồ Chí Minh)

54. Đặng Thai Mai -Mối quan hệ lâu đời và mật thiết giữa văn học Việt Nam

và văn học Trung Quốc. Nghiên cứu văn học số 7/1961.

55. Đặng Thai Mai - Nguyễn Trãi. Văn h ọc số 6/1976.

56. Đặng Thai Mai - Xã hội sử Trung Qu ốc . Hn. Nxb KHXH, 1994.

57. Nguyễn Đăng Mạnh - Dạy văn ở trường phổ thông cấp 2. Vụ giáo viên,

Bộ GD và ĐT,Hn ,1993

58. Mạnh Tử (Thƣợng) - Trí Đức tòng thơ xb, Sài Gòn (D ịch giả : Đoàn

Trung Còn )

59. Lạc Nam - Tìm hiểu các th ể thơ, từ thơ cổ phong đến thơ luật. Hn. Nxb

Văn học, 1993 .

60. Nguyễn Nam - Bước đầu tìm hiếu phương thức thể hiện từ láy trên chữ

Nôm . Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ng ữ phương Đông.

Viện Ngôn ngữ học, Hà nội, 1986.

61. Nguyễn Phong Nam -Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX (Giáo

trình). TTĐTTX. Đ ại Học Huế, 1995.


206

62. Phan Ngọc ( Nhữ Thành) - Tìm hiểu tứ thơ của thơ Đư ờng - Văn học số

1/1982.

63. Phan Ngọc - Tìm hiểu sự đối xứng trong văn học. Văn học số I/1983.

64. Phan Ngọc - Suy nghĩ về thể loại thơ song thất lục bát. Sông Hương số

9/1984.

65. Phan Ngọc - Thơ là gì ? . Văn học số I/1991.

66. Phan Ngọc - Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học. Nxb Trẻ, TP.

HCM, 1995.

67. Phạm Thế Ngũ - Khảo luận về thơ cũ Trung Hoa. Phạm Thế xb, Sài Gòn,

1968.

68. Bùi Văn Nguyên (và ...) - Thơ ca Vi ệt Nam - Hình thức và thể loại. Hn.

Nxb KHXH, 1971.

69. Bùi Văn Nguyên ( và ...) - Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ

XVIII. Hn. Nxb GD, 1989.

70. Óoc-lốp - Nhịp điệu, thời gian , không gian - (Biên bản phiên họp của

Hội đồng nghiên cứu Tổng hợp về sự sáng tạo nghệ thuật Liên Xô-

Nedelia) - Nguyễn Văn Kiệm dịch. Thƣ viện Viện Văn học DL 1987.

71. M.F.Ốp-xi-a-nhi-cốp -(chủ biên )- Mỹ học Mác-Lê nin. Tập I. Phạm Văn

Bích dịch. Hn. Nxb Văn hoá, 1987.

72. Nguyễn Tƣờng Phƣợng ( và ...) - Văn học sử Việt Nam hậu bán thể kỷ

XIX. Sài Gòn, 1956.

73. Nguyễn Ngọc San - Từ Hán Việt và từ thuần Việt. Văn nghệ (HNV) số 38

ra ngày 17/9/1994.

74. Trần Đình S ử ( và ...) - Lý luận văn học (3 tập) - Hn. Nxb GD, 1987.
207

75. Trần Đình S ử - Những thế giới nghệ thuật thơ. Hn. Nxb GD, 1995.

76. Bùi Duy Tân - Vấn dề thể loại trong Văn h ọc Việt Nam thời cổ. Văn học

số 3 - 1976.

77. Bùi Duy Tân - Mối quan hệ về thể loại giữa văn học Trung Quốc và văn

học Việt Nam thời Trung đại: Tiếp nhận -cách tân -sáng tạo. Văn học

số I/1992.

78. Bùi Duy Tân - Văn học chữ Hán trong mối tương quan với văn học Nôm ở

Việt Nam. Văn học số 2/1995.

79. Bùi Duy Tân - Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến giữa thể kỷ XVII (Giáo

trình ). Đại Học Huế, 1995.

80. Nguyễn Kim Thản - Các ngôn ngữ, chữ viết ở Việt Nam. Việt Nam, đất

nước, lịch sử,văn hóa (Nhiều tác giả) Hn. Nxb Sự Thật, 1991 .

81. Lã Nhâm Thìn - Thơ Nôm Đường luật, từ Quốc âm thi t ập của. Nguyễn

Trãi đến thơ Hồ Xuân Hương. Luận án PTS. ĐHSP Hà Nội I, 1993.

82. Đồ Kim Thịnh - Quan ni ệm đạo đức và thẩm mỹ của Nguyễn Bỉnh Khiêm -

Nghiên cứu Văn hóa Ngh ệ thuật số 6 - 1991.

83. Chu Quang Ti ềm - Tâm lý Văn nghệ - Khổng Đức Đinh Tấn Dung dịch.

Nxb.TP. HCM, 1991.

84. Cù Đình Tú - Phong cách h ọc và đặc điểm tu từ tiếng Việt - Hn. Nxb

GD, 1994.

85. Từ điển Văn học (2 tập). Hn. Nxb KHXH. T ập I : 1983, T ập II : 1984

86. Từ điển Thuật ngữ Văn học. Hn. Nxb GD, 1992
208

87. Ủy ban khoa học xã hội - Lịch sử Việt Nam . TậpI, Hn. Nxb KHXH,

1971.

88. Lê Trí Viễn - Vài ý kiến về câu thơ l ục bát và câu thơ l ục bát của Nguyễn

Du. Tập San Đại học Sư phạm Hà Nội I năm 1974.

89. Lê Trí Viễn - Những bài giảng văn ở Đại học . Hn. Nxb GD, 1982

90. Lê Trí Viễn - Đặc điểm lịch sử văn học Việt Nam. Hn. Nxb ĐH và

THCN, 1987.

91. Lê Trí Viễn - Thơ Hồ Xuân Hương (chuyên đề sau Đại học) ĐH Sƣ Phạm

TP. HCM, 1989.

92. Lê Trí Viễn -Hiểu văn học trung đại trong văn học Việt Nam như th ế nào

cho phải ? Khoa học xã hội số 2/1989.

93. Lê Trí Viễn - Đặc trưng của văn học trung đại Việt Nam (chuyên đề

NCS) ĐH Sƣ Ph ạm TP. HCM, 1995.

94. Lê Trí Viễn - Giáo trình t ổng quan văn chương Việt Nam. TTDTTX Đại

Học Huế, 1995.

95. Lê Trí Viễn -Một đời với văn (2 tập) Nxb GD và ĐHSP TP. HCM. xb,

1989

97. Viện Khoa học xã hội - Sở Văn hoá thông tin TP. HCM - Nguyễn Bỉnh

Khiêm trong l ịch sử phát triển văn hóa dân tộc. TT Nghiên cứu Hán

Nôm, 1991.

98. Đông Chu (Nguyễn Hữu Tiến) - Cổ xúy nguyên âm. Cuốn thứ nhì. Hn.

Đông kinh ấn quán, 1918.

* CHỮ NÔM :
209

98. Nguyễn Văn San - Quốc văn tùng ký (Ký hiệu AB 383 Thƣ viện thông tin

KHXH).

B. TÀI LIỆU TIẾNG NƢỚC NGOÀI:

I. Tiếng Anh :

99. Đoàn Văn An - A brief history of Vielnamese lilerature. Asian Culture . -

Saigon, 1961, No 2.

100. Danziger Marlies K. Johnson W. Stacy - An introductitm to the study of

literature. D.C. Heath and Co., Boston, 1965.

II. Tiếng Pháp:

101. Nguyen Khac Vien et Huu Ngoc - Littérature Vietnamienne - Fleuve

rouge, Editions en Langues étrangères.,1979.

102. Huu Ngoc et Francois Corrèze - Ho Xuân Huong ou le voile dé chiré -

Fleuve rouge, 1984.

III. Tiếng Trung:

103

104

105
210

PHẦN PHỤ LỤC


BẢNG BIỂU SỐ 1: HỆ THỐNG HÓA VỀ ĐỀ TÀI, CHỦ ĐỀ

STT T á c gi ả t i ể u b i ể u 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
1 Hồ Xuân Hƣơng 38 12 4 13 8
2 P h ạ m Th á i 3 1 1 1
3 Tr ị n h H o à i Đ ứ c 6 5 1
4 N gu y ễ n C ô n g C h ứ 40 3 13 6 18
5 Nguyễn Thị Hinh 6 6
6 Phan Thanh Giản 10 3 1 5 2 6
7 Bùi Hữu Nghĩa 13 2 6 4 1 3 6
8 Huỳnh Mẫn Đạt 11 5 4 1 1 3
9 Nguyễn Hữu Huân 4 1 4 4
10 Nguyễn Đình Chiểu 32 3 1 1 4 1 29
11 Tôn Thọ Tƣờng 14 3 10 1
12 Phan Văn Trị 32 7 25 10 26
13 Lê Quang Chiểu 15 4 10 11
14 Nguyễn Khuyến 68 12 8 3 16 33 22 22
15 Nguyễn Văn Lạc 9 3 3 1 5 3
16 Chu Mạnh Trinh 21 21
17 Nguyễn Thiện Kế 5 5 5
18 Trần Tế Xƣơng 107 8 35 65 6
Khuyết danh và mấy
19 16 2 1 1 3 10 12
bài thơ lẻ
Tổ n g C ộ n g 450 48 67 56 62 64 122 118 131 93 125
Tỷ lệ % 10,7 14,8 12,4 13,8 14,2 27,1 26,2 29,1 20,7 27,7
211

Ghi chú :

1. Số bài thơ

2. Số bài thơ có đ ề tài, chủ đề thiên nhiên

3. Số bài thơ có đ ề tài, chủ đề vịnh sử, vịnh truyện, vịnh vật

4. Số bài thơ có đ ề tài, chủ đề triết l ý nhân sinh, kh ẳng định đạo l ý

5. Số trung bình của cột (3) và (4)

6. Số bài thơ có đ ề tài tự vịnh, tự thuật, tự trào ...

7. Số bài thơ có chủ đề tâm sự, khát vọng cá nhân.

8. Số bài thơ có đ ề tài cuộc sống xã hội, đất nƣớc, con ngƣời.

9. Số bài thơ có chủ đề yêu nƣớc.

10. Số trung bình của các cột (6), (7)

11. Số trung bình của các cột (8), (9)


212

BẢNG BIỂU SỐ 2 : HỆ THỐNG HÓA VỀ NGÔN NGỮ

THƠ NÔM ĐƢ ỜNG LUẬT

STT Tác giả tiêu bi ểu 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

1 Hồ Xuân Hƣơng 40 6 31 73 15 32 32 32 100 15

2 Phạm Thái 14 2 3 10 1 0 7 0 10 0
3 Trịnh Hoài Đức 27 6 10 15 2 0 2 0 10 2
4 Nguyễn Công Trứ 54 16 71 41 0 22 32 2 100 10

5 Nguyễn Thị Hinh 32 0 32 13 4 0 0 0 12 3


6 Phan Thanh Giản 5 8 8 11 4 1 5 0 22 2
7 Bùi Hữu Nghĩa 3 3 27 30 6 1 5 0 60 2
8 Hu ỳnh Mẫn Đạt 13 15 6 29 4 0 0 0 24 1
9 Nguyễn Hữu Huân 3 3 9 2 0 0 2 0 17 1
Nguyễn Đình
10 20 41 27 26 17 5 16 0 50 5
Chiểu
11 Tôn Thọ Tƣờng 4 11 4 2 2 4 13 0 39 5
12 Phan Văn Trị 6 20 106 37 9 1 16 0 40 5
13 Lê Quang Chiểu 24 4 18 32 2 1 6 0 54 2

14 Nguyễn Khuyến 51 21 180 70 19 10 16 4 361 134

15 Nguyễn Văn Lạc 0 0 10 26 8 0 2 0 27 2


16 Chu Mạnh Trinh 37 14 14 33 3 3 6 0 47 9

17 Nguyễn Thiện Kế 0 0 10 6 19 0 5 0 20 3

18 Trần Tế Xƣơng 32 5 93 123 54 14 16 10 109 98


Khuyết danh và
19 18 7 41 21 14 0 11 0 73 4
mấy bài thơ l ẻ

TỔNG CỘNG 383 182 807 600 183 94 190 48 1180 308
213

Ghi chú:

1. Tổng số từ mang tính ƣớc lệ

2. Tổng số điển cố, điển tích văn h ọc

3. Tổng số từ Hán - Việt

4. Tổng số từ láy âm

5. Tổng số danh từ riêng chỉ nguôi và địa điểm

6. Tổng số thuộc bộ phận ngôn ngữ văn học dân gian

7. Tổng số khẩu ngữ

8. Tổng số từ nói lái, chơi chữ

9. Tổng số hƣ từ

10. Tổng số đại từ nhân xƣng.

CÂU THƠ NGẮT NHỊP 3-4

1. Thơ Hồ Xuân Hương

- Chị cũng xinh / mà em cũng xinh

2. Thơ Trịnh Hoài Đức

- Trọn đạo con / là tr ọn đạo tôi

3. Thơ Nguyễn Công Trứ

- Những giữ miệng / đà không dám nói

- Vƣòn hoa kia / đ ể ai rong rả

- Chửa chán ru / mà qu ấy mãi dây

- Đà dễ rồi / còn muốn dễ dƣng

- Vì chữ "thòi" / nên ph ải chịu luồn

- Phải giống sen / thời chẳng nhuần hùm

- Bên văn sang / bên võ cũng sang


214

- Đứng núi nầy / trông núi nọ cao

- Bạc qua vôi / mà mỏng quá mây

- Danh chẳng ham / mà lợi chẳng mê

- Ta mặc ta / mà ai mặc ai

- Đem lạng vàng / mua lấy tiếng cƣời

- Tình tự này / ai có biết chăng?

4. Thơ Nguyễn Quy Tân

- Cu ở đâu / mà cu đến đây?

- Đó một thì / đây cũng một thì

- Uẩy đá kia / sao khéo bất bình

5. Thơ Bùi Hữu Nghĩa

- Chồng nhớ vợ / lòng tớ bối rối

- Con thƣơng m ẹ / lụy ngọc tuôn dầm

- Sanh có ngày / âu thác có ngày

- Kho phong nguyệt / hãy chan chan đó

- Vƣờn cúc tòng / còn thới thới đây !

6. Thơ Nguyễn Đình Chiểu

- Bờ cõi xƣa / đà chia đất khác

- Nắng sƣơng nay / há đội trời chung

7. Thơ Tôn Thọ Tường

- Trời đất chi / xui đến nỗi này

- Nghĩ việc đời / thêm hổ việc mình

8. Thơ Tú Quý

- Chẳng ở biển / sao lại lên nguồn


215

9. Thơ Nguyễn Khuyến

- Đã bấy lâu / nay bác tới nhà

- Cũng chẳng giàu / mà cũng chẳng sang

- Con có cha / nhƣ nhà có nóc

- "Bồ tiên thi" / lại lấy vần bồ

- Trời dẫu già / nhƣng núi vẫn non

- Lại có ngƣời / theo khoét của mày

- Ngƣời bảo rằng / thầy yêu cháu đây

- Tỉnh ra / hỏi / đã thái bình chƣa?

- Trời hẹn ngày, / cho ba vạn sáu

- Ta chung tu ổi / mới một trăm hai.

10. Thơ Nguyễn Văn Lạc

- Chẩng biết mình / va cứt lộn đầu

- Cảnh Thuộc Nhiêu/ nhiều khách ngợp trông

11. Thơ Chu Manh Trinh

-Hết nghĩ gần / thôi lại nghĩ xa

- Núi toát hớp / nhờ tay tạo hóa

- Bể trầm luân / thoát nợ phong trần

12. Thơ Nguyễn Thiện Kế

- Dân sờ khố / ghé bên tai gửi

Quan gật đầu , / vơ ních tráp vào

13. Thơ Trần Tế Xương

- Đệ nhất buồn / là cái hỏng thi

- Cơm hai bữa : / cá khô rau muống


216

Quà một chiều : / khoai lang lúa ngô

- Chẳng phải quan / mà chẳng phải dân

- Ngƣời có cô , / sao cháu không cô ? (2 lần )

- Ông tốt duyên / vì có nƣớc da

- Chẳng biết rằng / dơ dáng , d ại hình

- Ấm Kỷ này / đây tớ bảo rằng

- Tôi gớm gan / cho cái chị Hằng

- Không biết rằng / em bán thế nào ?

- Có phải rằng / ông chẳng học đâu ?

- Mã cũng chui / mà tốt cũng chui

- Hễ cắn ai / thì sét m ới tha

- Có đất nào / nhƣ đất ấy không ? ( 2 l ần )

- Thua bạc nhà / đi với mẹ nhà

- Chỉ trách ngƣời / sao chẳng trách mình ?

- Cha thằng nào / có tiếc không cho

- Nhân hậu thay / lòng quan thƣợng Cao !

- Ai xét soi / cho cảnh học trò

- Chẳng sang Tàu / cũng tếch sang Tây

- Huấn đạo nguyên/ ông huấn đạo già !

- Ai đẹp hơn / cô Cáy chợ Rồng

14. Thơ khuyết danh

- Giận ngƣời sống / mất / suy ra nh ục

- Thƣơng kẻ thác / còn / nghĩ lại vinh

- Trái phá Tây / chăm chực bắn vào


217

Số câu Số bài Số câu thơ Tỷ lệ bách


STT Tên nhà thơ
thơ thơ có nhịp 3-4 phân

1 Hồ Xuân Hƣơng 252 38 1 2,6

2 Trịnh Hoài Đức 48 6 1 16,7

3 Nguyễn Công Ch ứ 320 40 13 32,5

4 Nguyễn Quý Tân 24 4 3 75,0

5 Bùi Hữu Nghĩa 104 13 5 38,5

6 Nguyễn Đình Chi ểu 256 32 2 6,3

7 Tôn Thọ Tƣờng 112 14 2 14,3

8 Tú Qu ỳ 36 5 1 20,0

9 Nguyễn Khuyến 528 68 10 14,7

10 Nguyễn Văn Lạc 64 9 2 22,2

11 Chu Mạnh Trinh 168 21 3 14,3

12 Nguyễn Thiện Kế 40 5 2 40,0

13 Trần Tế Xƣơng 724 107 25 23,4

14 (Khuyết danh) 80 10 3 30,0

342 73 21,3%
Tổng Số
450 73 16,2%

You might also like