You are on page 1of 145

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Đoàn Thị Hồng Sương

BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT


TRONG THƠ XUÂN DIỆU

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Đoàn Thị Hồng Sương

BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT


TRONG THƠ XUÂN DIỆU
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. NGUYỄN THỊ THANH XUÂN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình khoa học nghiên cứu của riêng tôi, có sự hỗ trợ từ
Giảng viên hướng dẫn là PGS. TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân. Các nội dung nghiên cứu và
kết quả của đề tài này là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình
nghiên cứu nào trước đây.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian dối nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội
đồng, cũng như kết quả luận văn của mình.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 02 năm 2014
Tác giả

1
LỜI CẢM ƠN
Để quá trình nghiên cứu và hoàn tất luận văn được suông sẻ và thành công, tôi đã
nhận được sự giúp đỡ từ rất nhiều phía.
Trước tiên, tôi xin gởi lời cảm ơn chân thành đến PGS. TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân.
Xin cảm ơn cô về những hướng dẫn và động viên của cô đối với tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu luận văn tốt nghiệp.
Tôi cũng xin gởi lời cảm ơn đến các thầy cô trường Đại học Sư phạm đã giảng dạy
nhiệt tình và mang đến nhiều kiến thức bổ ích cho tôi trong suốt khóa học.
Tôi xin gởi lời cảm ơn đến phòng sau đại học đã tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt
chương trình học.
Cuối cùng, tôi xin gởi lời cảm ơn đến người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm,
giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học và công việc nghiên cứu của mình.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 02 năm 2014
Tác giả

2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 5
2. Mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu và phạm vi đề tài ................................. 6
3. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................. 6
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 9
5. Những đóng góp dự kiến .............................................................................................. 11
6. Cấu trúc của luận văn: ................................................................................................. 11
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .............................................................. 12
1.1. Khái niệm biểu tượng ................................................................................................ 12
1.1.1. Biểu tượng .............................................................................................................12
1.1.2. Biểu tượng văn hóa ...............................................................................................16
1.1.3. Biểu tượng văn học ...............................................................................................17
1.2. Biểu tượng nghệ thuật trong thơ .............................................................................. 21
1.3. Hành trình sáng tác và những đóng góp về thơ của Xuân Diệu trong nền thơ ca
dân tộc ................................................................................................................................ 32
1.3.1. Hành trình sáng tác của Xuân Diệu .......................................................................32
1.3.2. Những đóng góp về thơ của Xuân Diệu trong nền thơ ca dân tộc ........................35
CHƯƠNG 2: NHỮNG BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU TRONG
THƠ XUÂN DIỆU..................................................................................................... 37
2.1. Biểu tượng Mùa xuân ................................................................................................ 37
2.1.1. Mùa xuân trong thơ ...............................................................................................37
2.1.2. Mùa xuân trong thơ Xuân Diệu .............................................................................39
2.2. Biểu tượng Hoa .......................................................................................................... 50
2.2.1. Hoa trong thơ.........................................................................................................50
2.2.2. Hoa trong thơ Xuân Diệu ......................................................................................53
2.3. Biểu tượng trái tim .................................................................................................... 63
2.3.1. Trái tim trong thơ ..................................................................................................64
2.3.2. Trái tim trong thơ Xuân Diệu ................................................................................65
2.4. Biểu tượng trăng ........................................................................................................ 79
2.4.1. Trăng trong thơ ......................................................................................................79
2.4.2. Trăng trong thơ Xuân Diệu ...................................................................................81

3
CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG BIỂU TƯỢNG TRONG THƠ
XUÂN DIỆU............................................................................................................... 96
3.1. Tính hệ thống và sự vận động của biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu 96
3.1.1. Tính hệ thống của biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu............................96
3.1.2. Sự vận động của hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu ...............99
3.2. Những đặc trưng nổi bật về nghệ thuật xây dựng biểu tượng trong thơ Xuân
Diệu .................................................................................................................................. 101
3.2.1. Thủ pháp tạo nên sắc thái của biểu tượng ...........................................................101
3.2.2. Thủ pháp tạo nên độ vang của biểu tượng ..........................................................113
3.2.3. Thủ pháp tạo nên độ nén của biểu tượng ............................................................122
3.3. Sự giao hòa Đông và Tây trong biểu tượng thơ Xuân Diệu ................................ 126
3.3.1. Biểu tượng Mùa xuân ..........................................................................................126
3.3.2. Biểu tượng Hoa ...................................................................................................128
3.3.3. Biểu tượng Trăng ................................................................................................130
3.3.4. Biểu tượng Trái tim .............................................................................................132
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 136
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 139

4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Nghiên cứu biểu tượng ngày càng thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu
ở nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó nghiên cứu biểu tượng văn học chiếm một phần quan
trọng. Khi nghiên cứu thơ ca người ta không thể bỏ qua nghiên cứu về hệ thống biểu tượng
trong tác phẩm. Bởi các biểu tượng nghệ thuật ấy có vị trí to lớn trong việc giúp người
nghiên cứu dễ dàng tiếp cận với tác phẩm, dễ dàng nắm bắt thế giới nghệ thuật của nhà văn,
và tất nhiên cũng sẽ dễ dàng hiểu một cách hoàn chỉnh nhất về thông điệp mà tác giả muốn
gởi đến. Từ đó, người nghiên cứu còn hiểu thêm về phong cách của tác giả, về nét văn hóa
đặc trưng của đất nước, của dân tộc. Chính vì vậy, để nhìn nhận đúng đắn và có cơ sở khoa
học về giá trị của tác phẩm và vai trò của nhà văn trong nền văn học dân tộc rất cần sự khảo
sát, đánh giá, phân tích cấu trúc biểu tượng trong các tác phẩm thơ ca. Và trong những năm
gần đây, vấn đề biểu tượng nghệ thuật, cấu trúc biểu tượng trong tác phẩm văn chương đã
được nhiều nhà nghiên cứu, nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm. Với tư cách là một
tín hiệu của thời gian, biểu tượng nghệ thuật mang truyền thống văn hóa của dân tộc, nối kết
nhân loại và gắn liền với phong cách nhà văn. Trong văn học biểu tượng xuất hiện như một
tất yếu của tư duy sáng tạo, thủ pháp nghệ thuật và khơi gợi những ý nghĩa sâu xa. Tuy ở
Việt Nam công việc nghiên cứu biểu tượng trong thơ ca chỉ mới bắt đầu nhưng đã hứa hẹn
nhiều triển vọng.
Phong trào thơ Mới 1932 – 1945 đã gây tiếng vang và đánh dấu một bước chuyển
mình của to lớn của thơ ca dân tộc. Quả thật, văn học Việt Nam giai đoạn này đã mang đến
những thành tựu vô cùng đặc sắc. Nhất là về thơ với hàng loạt các tên tuổi để lại dấu ấn
không phai với thời gian như: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan
Viên, Nguyễn Bính,… Và nhà thơ Xuân Diệu góp một phần không nhỏ vào “Một thời đại
thi ca” đó với một phong cách thơ rất riêng. Đặc biệt ở mảng thơ ca, nhất là thơ tình yêu
dường như Xuân Diệu vẫn chiếm vị trí số một trong lòng người đọc. Và giai đoạn từ sau
Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu vẫn có những đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt
Nam hiện đại. Việc nghiên cứu tác phẩm thơ của Xuân Diệu cũng không phải là một vấn đề
mới mẻ. Thế nhưng việc nghiên cứu tác phẩm thơ Xuân Diệu một cách hoàn chỉnh cả giai
đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám theo hướng nghiên cứu biểu tượng nghệ thuật thì
hoàn toàn còn bỏ ngỏ. Trong khi đó, với tư cách là một thành tố trong thi pháp thơ ca, biểu

5
tượng có tác động, thậm chí là có sự chi phối lớn trong việc hình thành cấu trúc chung của
tác phẩm.
Chính vì lý do đó, chúng tôi lựa chọn đề tài “Biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân
Diệu” với mong muốn khảo sát, phân tích và bước đầu khái quát về hệ thống biểu tượng
trong thơ Xuân Diệu ở cả hai giai đoạn sáng tác. Từ đó, chúng tôi mong muốn góp một phần
để việc đánh giá, tiếp nhận tác phẩm thơ Xuân Diệu được ngày càng hoàn chỉnh.

2. Mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu và phạm vi đề tài

2.1. Mục đích nghiên cứu


Dựa trên những lý thuyết về đặc điểm thể loại, thi pháp học, lý thuyết phê bình mới,
lý thuyết về nghiên cứu biểu tượng, chúng tôi muốn tiếp tục nghiên cứu văn học dưới cái
nhìn của phê bình mới, của lí luận văn học. Qua đó, chúng tôi muốn góp thêm tiếng nói
nhằm khẳng định thêm về những thành công trong thơ Xuân Diệu nói riêng và dòng thơ ca
lãng mạn nói chung, đồng thời khắc họa phong cách thơ Xuân Diệu và vai trò của ông trong
phong trào Thơ mới 1932 – 1945 cũng như những đóp góp xứng đáng ở mảng thơ ca sau
Cách mạng tháng Tám.
Thực hiện đề tài này, chúng tôi cũng mong muốn được đóng góp hữu ích vào việc
nghiên cứu, phân tích, giảng dạy các tác phẩm thơ ca của Xuân Diệu ở nhà trường phổ
thông.
2.2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận án này là các biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân
Diệu. Để việc tiếp cận và khảo sát, cũng như nghiên cứu biểu tượng nghệ thuật trong thơ
Xuân Diệu được tiến hành thuận lợi, về mặt cơ sở lý luận chúng tôi xin khảo sát chủ yếu các
tài liệu liên quan đến lý thuyết về biểu tượng. Và trong phạm vi giới hạn của một luận văn
tốt nghiệp thạc sĩ, chúng tôi xin xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài để tránh đi lan man,
xa rời vấn đề. Phạm vi đề tài luận văn “Biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu” là các
tập thơ của Xuân Diệu: Thơ Thơ, Gửi hương cho gió, Ngọn quốc kỳ, Hội nghị non sông,
Dưới sao vàng, Sáng, Mẹ con, Ngôi sao, Riêng chung, Mũi Cà Mau – Cầm tay, Một khối
hồng, Hai đợt sóng, Tôi giàu đôi mắt, Hồn tôi đôi cánh, Thanh ca.

3. Lịch sử vấn đề

6
Để biên soạn mục này chúng tôi đã khảo sát các công trình và một số bài báo nghiên
cứu về biểu tượng trong thơ ca và trong tác phẩm thơ Xuân Diệu. Trong phần bày, chúng tôi
xin trình bày theo từng vấn đề và theo trình tự thời gian như sau:
3.1. Một trong số những tài liệu có giá trị khi đề cập đến vấn đề biểu tượng nghệ
thuật là các bài viết “Các biểu tượng trong nghệ thuật”, bài “Khám phá các biểu tượng
trong văn học” của tác giả Raymond Firth, Đinh Hồng Hải dịch. Các bài nghiên cứu này đã
mang đến phần nào cái nhìn rõ hơn về biểu tượng nghệ thuật. Ở Việt Nam, có rất nhiều các
nhà nghiên cứu chuyên nghiệp và không chuyên đề cập đến vấn đề biểu tượng nghệ thuật.
Vũ Ngọc Phan trong bộ sách Tục ngữ, ca dao, dân ca đã có đề cập đến vấn đề biểu tượng
trong ca dao. Ông cho rằng: “Một đặc điểm trong tư duy hình tượng của nhân dân Việt Nam
về cuộc đời: đời người với con cò và con bống”. Trong bài “Về việc nghiên cứu thi pháp
văn học dân gian” đăng trên tạp chí Văn học năm 1981, Chu Xuân Diên cho rằng: “Việc
nghiên cứu thi pháp văn học dân gian bao gồm từ việc khảo sát những yếu tố thi pháp riêng
lẻ như phép so sánh thơ ca, các biểu tượng và luật thơ…” [tr.22]. Ông đã đặt ra vấn đề
nghiên cứu thi pháp văn học dân gian nhiều góc độ trong đó có biểu tượng thơ ca.
Một số luận án triển khai liên quan đến biểu tượng nghệ thuật cũng đã khẳng định
được ý nghĩa thực tiễn của nó. Tiểu biểu là các công trình nghiên cứu của Trương Thị Nhàn.
Năm 1991, trên Tạp chí Văn hóa dân gian, Trương Thị Nhàn có bài viết về Giá trị biểu
trưng của một số vật thể nhân tạo trong ca dao. Tác giả đã tìm hiểu về ý nghĩa biểu trưng
của các vật thể như: khăn, áo, giường, chiếu, … và cho rằng khả năng biểu trưng văn hóa
nghệ thuật của các vật thể nhân tạo tạo nên nét đặc trưng rất cơ bản trong nghệ thuật của
ngôn ngữ ca dao. Tiếp đó, đến năm 1992, Trương Thị Nhàn công bố bài viết “Tìm hiểu
ngôn ngữ nghệ thuật ca dao qua một tín hiệu thẩm mĩ” đăng trên Tạp chí Văn hóa dân gian.
Ở bài viết này, tác giả chủ yếu nghiên cứu về biểu tượng sông và cho rằng biểu tượng này
tham gia vào hệ thống biểu hiện của ngôn ngữ nghệ thuật ca dao và có giá trị của một tín
hiệu thẩm mĩ. Đến năm 1995, luận án “Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các tín hiệu thẩm mĩ
không gian trong ca dao” nghiên cứu hàng loạt các biểu tượng như núi, sông, rừng, biển,
đình, chùa, cầu, thuyền, … đã góp phần đáng kể ở lĩnh vực lí thuyết và ứng dụng thực hành.
Mặc dù tác giả xem xét dưới góc độ ngôn ngữ học nhưng đã phân tích làm rõ các lớp ngữ
nghĩa tiềm ẩn trong mỗi biểu tượng đó.
Gần đây, một số biểu tượng được nghiên cứu dưới bình diện văn hóa cũng như văn
học đã đem lại nhiều hiểu biết thú vị, độc đáo. Đó là biểu tượng hoa hồng trong bài viết

7
“Hoa hồng trong ca dao” của Nguyễn Phương Châm đăng trên Tạp chí Nguồn sáng dân gian
năm 2001, biểu tượng chiếc áo trong bài viết “Biểu tượng chiếc áo trong đời sống tinh thần
người Việt qua thơ ca” của Nguyễn Thị Ngân Hoa đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ năm 2001.
3.2. Riêng về việc nghiên cứu thơ Xuân Diệu cũng khá phong phú. Nhiều nhà nghiên
cứu thơ Xuân Diệu dưới nhiều góc độ khác nhau như văn hóa, lí luận văn học, phê bình văn
học và cả ngôn ngữ học. Lê Tiến Dũng với luận án tiến sĩ “Những cách tân nghệ thuật trong
thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932 – 1945”, bài viết “Sáng tạo và đóng góp của thi sĩ Xuân Diệu
vào tiến trình thơ Việt Nam hiện đại” in trên tạp chí Trung học phổ thông đã đi sâu nghiên
cứu về thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu và chỉ ra những đóng góp to lớn của Xuân Diệu
trong nền thơ ca Việt Nam.
Trong cuốn sách “Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu thời kì trước 1945”, tác giả Lê
Quang Hưng đã trình bày rất kĩ về hình tượng cái tôi và hình tượng thế giới trong thơ Xuân
Diệu trước Cách mạng tháng Tám. Tác giả đã chú ý làm rõ các hình tượng tiêu biểu như
hình tượng Cái tôi cá nhân phân cực, hình tượng Thế giới du dương, Thế giới u sầu mù
mịt... để từ đó khẳng định vị trí cao của Xuân Diệu trong phong trào Thơ Mới ở thời kì cực
thịnh. Ông viết: “Hạt nhân của cấu trúc nghệ thuật thơ Xuân Diệu là hình tượng cái tôi cá
nhân với những quan điểm về cuộc đời, với tư thế trữ tình độc đáo…” [tr.225]. Năm 2007,
luận án “Tìm hiểu phương thức ẩn dụ trong tiếng Việt” (thể hiện qua ca cao trữ tình, thơ tình
Xuân Diệu và thơ tình Xuân Quỳnh) cũng có khảo sát một số hình ảnh làm cơ sở liên tưởng
theo phương thức ẩn dụ trong thơ tình Xuân Diệu như: hoa, tháng giêng, lá, cành, máu,…
Tác giả cũng đã chia các hình ảnh đó theo các nhóm khác nhau:

- “Các hiện tượng tự nhiên: mây, gió, trăng, sao, trời đất, nắng mưa, ngày, đêm, …
- Các đồ dùng như: thuyền, ghe, gương, chỉ, đàn, dây, …
- Các loại thực vật: hoa, cỏ, cây, lá, cành, …
- Các động vật: chim, cá, ong, bướm …
- Các bộ phận cơ thể người: răng, chân, tay, mặc, ngực, tim, lòng, …
- …” [tr.70].
Nhưng hướng đi của đề tài này chủ yếu là tìm hiểu phương thức cấu tạo trong mỗi
hình ảnh ẩn dụ đó chứ chưa đi vào nghiên cứu hệ thống biểu tượng thơ Xuân Diệu. Tuy vậy,
luận án cũng đã khái quát được nội dung ý nghĩa của các hình ảnh trong thơ Xuân Diệu.
Trong luận án này, tác giả còn chỉ ra tính biểu trưng của các hình ảnh đó nhưng chủ yếu là

8
nhằm làm rõ phương thức liên tưởng ẩn dụ trong thơ tình Xuân Diệu. Tác giả cho rằng
Trăng có tính biểu trưng cho người con gái còn trẻ, sự thủy chung, thời gian, một tháng,
nhân chứng cho tình yêu, vật thể nguyên vẹn, qui luật, …
Riêng việc nghiên cứu thơ Xuân Diệu từ lí thuyết biểu tượng nói chung, đặc biệt biểu
tượng nghệ thuật thơ Xuân Diệu ở cả hai giai đoạn đến nay vẫn chưa thấy một công trình
chuyên khảo cụ thể nào. Năm 2008 luận văn thạc sĩ của tác giả Đỗ Ngọc Thư với đề tài
“Khảo sát các tín hiệu thẩm mĩ Mùa xuân và Trái tim trong thơ Xuân Diệu” nghiên cứu từ
góc độ ngôn ngữ học cũng đã đề cập đến hai trong số các biểu tượng thơ Xuân Diệu. Công
trình nghiên cứu này đã khảo sát biểu tượng Mùa xuân và Trái tim và chỉ ra nội hàm của
chúng. Điều này đã góp một phần vào những bước tiếp cận hoàn chỉnh về thơ ca của Xuân
Diệu. Tuy nhiên, tác giả luận án cũng chỉ mới nêu ra hai tín hiệu thẩm mĩ và khái quát về ý
nghĩa tư tưởng của chúng theo góc độ ngôn ngữ học chứ chưa đi sâu vào ý nghĩa biểu
tượng, cũng như về tính tư tưởng và tính nghệ thuật của nó một cách cụ thể.
Nhìn chung, đây là đề tài đã và đang thu hút được sự chú ý của nhiều nhà khoa học
khi tìm hiểu về thi pháp thơ Xuân Diệu. Nhưng việc nghiên cứu biểu tượng một cách toàn
diện, hệ thống, nghiên cứu biểu tượng nhìn từ cảm hứng nghệ thuật và từ thủ pháp nghệ
thuật, chú ý đến tính chất động và tĩnh của biểu tượng, sự vận động của nó trong cấu trúc
bài thơ, … vẫn còn là một công việc cần bổ sung, hoàn chỉnh. Một số biểu tượng đã được
phân tích, tìm hiểu nhưng vẫn còn thiếu cái nhìn tổng quát, thật sự hệ thống về các biểu
tượng nghệ thuật thơ Xuân Diệu.
Với mục đích tiếp tục việc nghiên cứu nói trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Biểu tượng
nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu”. Bên cạnh một số thuận lợi có được từ việc tiếp thu thành
quả nghiên cứu của các công trình đi trước, chúng tôi cũng gặp khá nhiều khó khăn như: đối
tượng nghiên cứu phức tạp, khối lượng tư liệu phải xử lí khá lớn,…

4. Phương pháp nghiên cứu

Vấn đề là nghiên cứu biểu tượng thơ Xuân Diệu liên quan đến yếu tố đời sống thực
tiễn, lịch sử xã hội, quê hương tác giả. Chính vì vậy, chúng tôi nhận thấy ngoài việc sử dụng
phương pháp chuyên ngành như Thi pháp học, Phê bình mới, Phê bình cấu trúc, chúng tôi
cần sử dụng kết hợp với phương pháp liên ngành như Lịch sử, Văn hóa.
- Phương pháp Thi pháp học: ở chương 2 và chương 3, chúng tôi sử dụng phương
pháp Thi pháp học để khám phá nội dung ý nghĩa của từng biểu tượng cũng như

9
sự hình thành các biểu tượng trong tư duy thơ Xuân Diệu. Thi pháp học cũng là
một phương pháp nghiên cứu được sử dụng để thấy sự chi phối, tác động của các
biểu tượng nghệ thuật lên phong cách sáng tác của Xuân Diệu.
- Phương pháp Phê bình mới được sử dụng vào việc tìm hiểu tính tư tưởng và tính
nghệ thuật của các biểu tượng thơ Xuân Diệu chủ yếu ở khía cạnh nghiên cứu là
những biểu tượng nghệ thuật trong thơ ca.
- Phương pháp Phê bình cấu trúc được sử dụng trong quá trình luận văn khảo sát
cấu trúc nội tại của biểu tượng, mối quan hệ giữa các yếu tố bên trong làm nên ý
nghĩa của biểu tượng thơ Xuân Diệu.
- Phê bình liên ngành: Xuân Diệu là một tác giả lớn của thơ ca hiện đại Việt Nam,
nghiên cứu biểu tượng thơ Xuân Diệu đòi hỏi cách tiếp cận liên ngành (Lịch sử,
Văn hóa, …). Thơ Xuân Diệu phản ánh bộ mặt xã hội, thời đại và đời sống văn
hóa của con người Việt Nam từ những năm trước cách mạng tháng Tám cho đến
giai đoạn sau này. Đặc biệt bầu không khí giai đoạn 1932 – 1945 và sự kiện cách
mạng tháng Tám thành công đã mang đến nhiều suy tư cho giới văn nghệ sĩ nói
chung và Xuân Diệu nói riêng. Vì vậy, một cách tiếp cận liên ngành là cần thiết
cho quá trình nghiên cứu biểu tượng thơ Xuân Diệu.
Ngoài ra, chúng tôi cũng sử dụng một số phương pháp phổ thông như thống kê. Bên
cạnh đó, biểu tượng nghệ thuật là những tín hiệu thẩm mĩ tồn tại ở nhiều loại hình nghệ
thuật, nhiều bộ phận văn học, nhiều môi trường văn hóa, … Vì vậy, khi nghiên cứu chúng
tôi thấy cần thiết phải sử dụng thêm một số phương pháp khác như so sánh, phân tích, tổng
hợp.
- Phương pháp thống kê: là phương pháp đầu tiên khi đi vào khảo sát và tìm hiểu
biểu tượng thơ Xuân Diệu. Phương pháp này cho phép xác định những chi tiết,
hình ảnh xuất hiện với tần số dày đặc, giúp nhận ra những biểu tượng nào là tiêu
biểu thể hiện thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu.
- Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp: dựa trên kết quả đã khảo sát được
cùng với phương pháp này chúng tôi sẽ tiến hành phân tích, so sánh đối chiếu bản
thân biểu tượng với biểu tượng khác trong thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu và
biểu tượng thơ của tác giả khác. Mục đích là để tìm ra nét đặc trưng của biểu
tượng thơ Xuân Diệu bên cạnh việc xác định biểu tượng nào đóng vai trò chủ đạo,
cốt yếu làm nên phong cách thơ Xuân Diệu

10
5. Những đóng góp dự kiến

Bên cạnh việc tiếp thu thành quả của các công trình nghiên cứu đi trước, chúng tôi
mong muốn có những đóng góp mới với đề tài này nhằm góp phần làm rõ biểu tượng nghệ
thuật trong thơ Xuân Diệu:
- Thống kê và miêu tả các biểu tượng nghệ thuật thơ Xuân Diệu.
- Khảo sát biểu tượng ở nhiều mặt: nguồn gốc, chức năng, ý nghĩa, nghệ thuật xây
dựng biểu tượng.
- Xác định vai trò, vị trí của biểu tượng nghệ thuật trong việc hình thành phong
cách thơ Xuân Diệu.
- Vận dụng kết quả nghiên cứu vào việc giảng dạy tác phẩm Xuân Diệu trong nhà
trường phổ thông.

6. Cấu trúc của luận văn:

Luận văn “Biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu” gồm có 159 trang, trong đó
154 trang chính văn, ngoài phần Mở đầu (8 trang), Kết luận (3 trang), Tài liệu tham khảo
(94 đề mục), được chia thành các chương sau:
Chương 1: Những vấn đề chung ( 30 trang): chúng tôi dành để giới thuyết về khái
niệm biểu tượng và giới thiệu chung về nhà thơ Xuân Diệu.
Chương 2: Những biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu trong thơ Xuân Diệu (66 trang):
luận văn khảo sát và đi sâu vào phân tích bốn biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu trong thơ
Xuân Diệu ở cả hai giai đoạn sáng tác.
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng biểu tượng trong thơ Xuân Diệu (49 trang): luận văn
triển khai trên các phương diện: tính hệ thống, tính vận động, các thủ pháp nghệ thuật và sự
giao hòa Đông Tây trong việc xây dựng biểu tượng trong thơ Xuân Diệu.

11
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm biểu tượng

1.1.1. Biểu tượng

Biểu tượng là một phần quan trọng không thể thiếu trong đời sống tinh thần nhân
loại. Ngày nay, nghiên cứu biểu tượng đã và đang trở thành lĩnh vực được nhiều nhà khoa
học ở nhiều ngành khác nhau đặc biệt quan tâm. Thế giới biểu tượng nói chung góp phần
không nhỏ trong quá trình hình thành và phát triển của một cộng đồng, một dân tộc. Biểu
tượng mang lại những đặc sắc về văn hóa cho mỗi quốc gia. Mỗi một nền văn hóa trên thế
giới này đều là sự tổng hòa của các hệ thống biểu tượng. Jean Chevalier, tác giả của Từ điển
Biểu tượng văn hóa thế giới từng nhận xét rằng: “Nói chúng ta sống trong một thế giới
biểu tượng thì vẫn còn chưa đủ, phải nói một thế giới biểu tượng sống trong chúng ta”
[26,tr.XIV]. Như thế, vai trò của biểu tượng đã được đánh giá khá chính xác với những gì
chúng đóng góp trong đời sống của con người. Việc đi sâu vào thế giới biểu tượng và mối
quan hệ của biểu tượng với đời sống con người là một trong những phương thức giúp con
người nhận ra giá trị của chính mình trong vũ trụ. Thế giới biểu tượng vẫn còn là một thế
giới đầy kì ảo, mê hoặc và luôn có sức hấp dẫn đặc biệt. Tiếp cận và lý giải nó là mong
muốn của nhân loại trên con đường đi đến tương lai.
Trước hết, ta cần tìm hiểu: biểu tượng là gì?
Biểu tượng, theo tiếng Hán, biểu là bày ra, trình bày; tượng là hình ảnh, hình dạng.
Biểu tượng là một hình ảnh cụ thể được bày ra, được thể hiện để nhằm biểu thị một ý nghĩa
trừu tượng. Thuật ngữ chỉ biểu tượng trong tiếng Anh là symbol có nguồn gốc từ tiếng Hy
Lạp là symbollon (có nghĩa là kí hiệu, dấu hiệu để nhận ra nhau là một).
Biểu tượng (symbol) là một thuật ngữ được nhiều ngành khoa học sử dụng với những
nội hàm khác nhau. Từ xa xưa, biểu tượng đã được dùng để chỉ một vật được cắt, tách ra
làm đôi (thường là mảnh sứ, gỗ hoặc kim loại). Mỗi mảnh này được giữ bởi hai người (chủ -
tớ, người cho vay – người vay, tình nhân, chồng – vợ, …) Sau này, khi hai mảnh vỡ ấy có
cơ hội ráp lại với nhau thì họ sẽ nhận ra mối quan hệ cũ. Như vậy biểu tượng chia ra và kết
lại với nhau chứa đựng hai ý tưởng phân li và tái hợp. Điều này cũng đồng nghĩa rằng mọi
biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ: “Mọi biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị
đập vỡ: ý nghĩa của biểu tượng bộc lộ ra trong cái vừa là gãy vỡ, vừa là kết nối những phần
của nó đã bị vỡ ra” [26, tr.XXIII].

12
Sau này, khi khoa học về biểu tượng được hình thành và phát triển hơn thì có rất
nhiều quan điểm khác nhau được đưa ra nhằm lí giải về ý nghĩa của biểu tượng, mối quan
hệ và vai trò của biểu tượng trong đời sống của con người. Sau đây, xin dẫn một vài ý kiến,
nhận định của các nhà nghiên cứu:
Theo Từ điển Larousse cho rằng: “Biểu tượng là một dấu hiệu hình ảnh, bằng con
vật sống động hay bằng đồ vật, nó biểu hiện một điều trừu tượng, nó là hình ảnh cụ thể của
một sự vật hay một điều gì đó” [tr. 78]. Còn trong Dịch thuyết cương lĩnh của Chu Hy, nhà
triết học đời Tống thì giải thích về khái niệm biểu tượng như sau: “Tượng là lấy hình này để
tỏ nghĩa kia”, tức là dùng cái “có thể hiểu biết” để nói lên điều “khó có thể hiểu biết”, hay
dùng cái cụ thể để nói cái trừu tượng, dùng cái tĩnh để nói cái động, dùng cái hữu hình để
nói cái vô hình, …[68]
Theo phân tâm học Freud, biểu tượng diễn đạt một cách gián tiếp, bóng gió và ít
nhiều khó nhận ra, niềm ham muốn hay các xung đột. Biểu tượng là mối liên kết thống nhất
nội dung rõ rệt của một hành vi, một tư tưởng, một lời nói với ý nghĩa tiềm ẩn của chúng …
[26,tr. XXIV].
Tóm lại, các ý kiến trên ít nhiều đều có sự khác nhau, song về cơ bản, tất cả đều chỉ
ra rằng, biểu tượng là những cách thức dùng hình ảnh này để bày tỏ ý nghĩa nọ, dùng hình
ảnh cụ thể để thể hiện một ý nghĩa trừu tượng. Hay nói cách khác, biểu tượng là sự thống
nhất của hai mặt: cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Cái biểu đạt có thể là một sự vật, một
hiện tượng, một hình ảnh, … cụ thể trong hiện thực khách quan hoặc trong tưởng tượng của
con người. Cái biểu đạt nhằm mục đích thể hiện cái được biểu đạt, tức là thể hiện những suy
nghĩ, tâm tư, tình cảm của con người về cuộc sống, xã hội, thế giới (có thể đang xảy ra hoặc
đã xảy ra nhưng còn ăn sâu trong đời sống tâm hồn con người).
Con người tồn tại, trưởng thành từ những kinh nghiệm sống của thế hệ đi trước và tự
tạo ra kinh nghiệm sống cho chính mình. Những kinh nghiệm đó thường được con người
lưu giữ trong trí nhớ, đây chính là cơ sở tạo nên biểu tượng. Và biểu tượng chính là hình
ảnh cảm tính về hiện thực khách quan, thế nhưng giữa các sự vật, hiện tượng trong hiện
thực khách quan và những ý nghĩa mà nó hàm chứa (dưới góc độ biểu tượng) không phải là
sự đồng nhất mà là một sự tương ứng ở nhiều khía cạnh, cấp độ, quan hệ khác nhau. Chính
điều này làm nên tính đa nghĩa của biểu tượng.
Có thể xem biểu tượng như là một sự quy ước, hay nói đúng hơn, một trong những
đặc điểm của biểu tượng là tính quy ước. Đó có thể là quy ước của một cá nhân, một cộng

13
đồng hay một dân tộc. Khi một nhà văn, nhà thơ thường xuyên sử dụng một hình ảnh nào đó
trong các sáng tác của chính mình nhằm biểu hiện một thông điệp cá nhân về con người và
cuộc sống. Độc giả tiếp xúc và nhận ra các hình ảnh quen thuộc đó, đồng thời khám phá ra
các giá trị thẩm mĩ của những hình ảnh mà nhà văn, nhà thơ đã dụng công xây dựng. Điều
này làm cho tác phẩm, tác giả có sức sống với thời gian. Đó là biểu tượng của cá nhân,
mang tính quy ước của một tác giả nào đó. Rộng hơn là những biểu tượng là quy ước của
cộng đồng. Biểu tượng sẽ chỉ tồn tại khi nó được cộng đồng hiểu, chấp nhận. Ở đây, ta phải
nhắc đến ý nghĩa ổn định của biểu tượng trong một thời kì lịch sử nào đó, trong một bối
cảnh xã hội nhất định. Đã là biểu tượng, nó sẽ chết nếu đứng yên, bất biến. Thế nhưng nếu
một sự vật, hiện tượng luôn luôn thay đổi về ý nghĩa thì khó mà tạo nên giá trị biểu tượng
cho bản thân nó. Biểu tượng phải vừa ổn định, vừa không ổn định.
“Mỗi nhóm người, mỗi thời đại có những biểu tượng của mình: rung động trước cái
biểu tượng đó, tức là tham gia vào nhóm người và thời đại ấy” [26,tr. XXXIII]. Biểu tượng
mang tính cộng đồng. Bởi chỉ những sự vật, hiện tượng, hay hình ảnh được cộng đồng chấp
nhận, đồng tình rằng nó có chứa những ý nghĩa nào đó ở bên ngoài nó, thì nó mới trở thành
biểu tượng. Sau khi trải qua thời gian, biểu tượng được hình thành, phát triển ổn định, chắc
chắn trong tâm thức cộng đồng. Cũng chính vì biểu tượng mang tính cộng đồng, tính xã hội
mà trên thế giới có vô số các cộng đồng, dân tộc khác nhau, nên các sự vật, hiện tượng dù
giống nhau cũng không bao giờ chứa các ý nghĩa biểu tượng hoàn toàn giống nhau. Trong
Luận án tiến sĩ Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt, tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Điệp đưa ra một số ví dụ về tính đa dạng của biểu tượng trong đời sống
của các cộng đồng dân tộc khác nhau trên thế giới: “Chẳng hạn, đối với người Hindu, thấm
nhuần tư tưởng Vệ - Đà, con bò cái mang một ý nghĩa tinh thần khác hẳn đối với người nuôi
bò xứ Normandie. Đối với người dân lao động Nga, trong thi ca dân gian, chim thiên nga,
con tu hú mang những ý nghĩa tượng trưng sâu sắc mà ở các dân tộc khác không có”. Mặc
dù không toàn toàn trùng khớp về những lớp nghĩa biểu tượng trong những cộng đồng, dân
tộc khác nhau, thế nhưng giữa chúng có một mối liên hệ liên kết con người lại với nhau.
Điều này thể hiện cụ thể qua một số biểu tượng mang tầm vóc quốc tế bên cạnh những nét
riêng của dân tộc mình: chim bồ câu – biểu tượng của sự hòa bình, hoa – biểu tượng chỉ
người con gái, …
Đến đây, sau khi trình bày những ý kiến, kiến giải sâu sắc về khái niệm biểu tượng,
người viết xin đưa ra sơ đồ “siêu kí hiệu” của R. Barthes để làm lời kết về khái niệm phức

14
tạp này.
R. Barthess đã tiếp thu khái niệm Ký hiệu học biểu thị và Ký hiệu học hàm nghĩa của
Hjelmslev vào hệ thống Ký hiệu học của mình. Có thể tóm tắt sơ đồ "siêu ký hiệu" của R.
Barthes như sau :
Một là, hệ thống "Ký hiệu học biểu thị" [A] ( ký hiệu - thông thường )
Hai là hệ thống "Ký hiệu học hàm nghĩa" [B] (Biểu tượng – Siêu ký hiệu).
Hai hệ thống ký hiệu này lồng ghép với nhau tạo thành “hệ thống trong hệ thống” –
hệ thống biểu tượng. (Xem sơ đồ 1.1)

Sơ đồ 1.1.1. Sơ đồ cú pháp ký hiệu học hàm nghĩa của R. Barthes [19]


Sơ đồ trên đây đã thể hiện rõ là: trong hệ thống (B) ở bình diện "cái biểu đạt" (CBĐ)
- hình thức của hệ thống (B) đã là hệ thống ký hiệu học biểu thị (A). Còn ở bình diện "cái
được biểu đạt" (CĐBĐ) - nội dung của hệ thống (B) lại là một hệ thống ký hiệu nghĩa hàm
nghĩa (ẩn dụ).
Cả hai hệ thống (A) và (B) trở thành “hệ thống"kép" tạo thành thế giới "siêu ký hiệu"
- Thế giới biểu tượng (Symbols).
Để dễ dàng hiểu được sơ đồ cú pháp "Ký hiệu học hàm nghĩa" của R. Barthes trong
quá trình tiếp cận Ký hiệu học nghiên cứu biểu tượng, ta có thể chuyển đổi sơ đồ mẫu trên
đây trở thành sơ đồ giải thích. (Xem sơ đồ 1.1.2)

15
Sơ đồ 1.1.2. [19]
(A) Hệ thống Ký hiệu học biểu thị (ký hiệu biểu thị) bao gồm hai mặt: Hình ảnh,
hình tượng biểu thị và ý nghĩa biểu đạt chúng tạo thànhh một ký hiệu thông thường
(đơn nghĩa).
(B) Ký hiệu học hàm nghĩa (ký hiệu hàm nghĩa) bao hàm hai mặt: Ký hiệu biểu thị -
hiển ngôn, và ký hiệu ẩn dụ - mật ngôn. Chúng tạo nên thế giới của "siêu ký hiệu" - thế giới
biểu tượng (đa nghĩa). [19]

1.1.2. Biểu tượng văn hóa

Toàn thư quốc tế về phát triển văn hóa (International thesaurus on cultural
development) của UNESCO đã đưa ra lời nhận xét rằng: “Văn hóa là tập hợp các hệ thống
biểu tượng, nó, nó quy định thế ứng xử của con người và làm cho một số đông người có thể
giao tiếp với nhau, liên kết họ thành một cộng đồng riêng biệt”.
Còn C. Levy – Strauss cũng đã đưa ra một khái niệm tương tự như thế: “ Mọi nền
văn hóa đều có thể xem như một tập hợp các hệ thống biểu tượng, trong đó xếp hàng đầu là
ngữ ngôn, các quy tắc hôn nhân, các quan hệ kinh tế, nghệ thuật, khoa học, tôn giáo” [26, tr.
XXIII].
Khi tìm hiểu về biểu tượng văn hóa ta không thể không chú ý đến khái niệm văn hóa.
Văn hóa là tổng hòa các giá trị vật chất, tinh thần của con người được tạo nên do những tác
động của chính con người lên tự nhiên và xã hội. Văn hóa thể hiện quan niệm và cách ứng
xử của con người trước thế giới. Khi nghiên cứu về biểu tượng văn hóa cũng là đang chạm
vào các yếu tố văn hóa.
Biểu tượng, như đã nói ở phần trên, là một vật được chia ra làm hai nửa, khi ghép lại
sẽ thể hiện một mối quan hệ, liên kết nào đó. Biểu tượng được hình thành lâu dài và được

16
cộng đồng chấp nhận. Nét văn hóa, bản sắc mỗi dân tộc thể hiện khá rõ nét qua hệ thống
biểu tượng của dân tộc đó. Và biểu tượng văn hóa là những thực thể vật chất hoặc tinh thần
(sự vật, hành động, hiện tượng, ý niệm, …) có khả năng biểu hiện ý nghĩa rộng hơn chính
hình thức cảm tính của nó, tồn tại trong một hệ thống đặc trưng cho những nền văn hóa nhất
định: nghi lễ, tín ngưỡng, phong tục, thần linh, …
Trong văn hóa Việt Nam và phương Đông, người ta có thể dễ dàng bắt gặp một loạt các
biểu tượng văn hóa như: nước, lửa, mặt trời, con rùa, con trâu, hoa sen, …
Những biểu tượng là dạng nguyên thủy nhất có thể được xem là cổ mẫu, mẫu gốc của
một nền văn hóa. Đó là nguồn gốc phát sinh các biểu tượng mang tính truyền thống của các
ngành văn học, nghệ thuật. Có thể nói mẫu gốc, cổ mẫu là cấp độ đầu tiên của biểu tượng.
Khi đi vào đời sống văn hóa, trải qua sự biến đổi của thời gian và quá trình phát triển của
văn minh loài người, các mẫu gốc có khả năng sản sinh ra nhiều biểu tượng văn hóa khác
nhau. Từ đấy, chúng luân chuyển, biến đổi và được bồi đắp thêm những ý nghĩa mới thông
qua tư duy phong phú của con người. Nhưng về cơ bản, mối liên hệ giữa chúng với mẫu gốc
vẫn tồn tại và in hằn dấu vết bởi những truyền thuyết, huyền thoại, cổ tích, nghi lễ, phong
tục,…

1.1.3. Biểu tượng văn học

Biểu tượng văn học là một biến thể loại hình của biểu tượng văn hóa. Như đã nói, các
cổ mẫu, mẫu gốc chính là những dạng biểu tượng nguyên thủy, sau này được các tác giả văn
học sử dụng để xây dựng biểu tượng văn học trong sáng tác của mình. Từ những biểu tượng
văn hóa với những nét nghĩa đã được hình thành từ xưa, nhà văn, nhà thơ lựa chọn và sử
dụng trong tác phẩm văn học. Từ đó, biểu tượng ấy được bồi đắp thêm nhiều lớp ý nghĩa
mới, chuyển tải thêm nhiều cảm xúc, tình cảm của tác giả về đời sống của con người đương
đại. Những hình ảnh, sự kiện, … của thế giới xung quanh được nhà văn, nhà thơ chắp nối,
tái tạo theo một logic mới, trật tự mới để tạo ra những biểu tượng hoàn toàn mới mẻ dựa
trên cơ sở những mẫu gốc. Và biểu tượng văn học xuất hiện. Trong văn học, khi nói đến
biểu tượng là người ta thường đề cập đến hai dấu hiệu nhận biết. Biểu tượng là những hình
ảnh cảm tính về hiện thực khách quan, nhằm diễn đạt, truyền tải một thông điệp, nội dung
trừu tượng. Biểu tượng văn học được coi là kí hiệu thẩm mĩ đa nghĩa. Nó là sự mã hóa cảm
xúc, ý tưởng của nhà văn. Biểu tượng văn học chính là phương tiện diễn đạt cô đọng, hàm
súc, có sức khai mở rất lớn trong sự tiếp nhận của độc giả. Những tác phẩm sử dụng nhiều

17
biểu tượng chính là sự thể hiện cách từ chối của tác giả về cách bày tỏ tâm tư, tình cảm một
cách trực tiếp. Điều này ta thường thấy trong thơ ca.
Biểu tượng văn hóa, biểu tượng văn học (biểu tượng nghệ thuật) cũng có sự khác biệt
cơ bản. Như đã nói, biểu tượng văn học là một biến thể loại hình của biểu tượng văn hóa.
Ngoài ra, biểu tượng văn hóa có xu hướng được bổ sung ý nghĩa, và sau một thời gian,
dường như ý nghĩa đó trở nên cố định và nhiều lúc trở nên khó hiểu đối với con người ở thế
hệ sau. Còn biểu tượng văn học luôn có xu hướng tái sinh về mặt ý nghĩa, không chỉ trong
sáng tác mà trong cả tiếp nhận văn học. Một vài nét nghĩa có thể vẫn được giữ nguyên
nhưng sẽ có một vài nét nghĩa của nó được bổ sung. Và như thế, khi xuất hiện trong tác
phẩm với nét nghĩa mới nó vẫn giữ trong mình những ý nghĩa từng có trong lịch sử. Lý do
cơ bản của việc vì sao biểu tượng văn hóa đôi khi lại gây khó hiểu cho con người ở thế hệ
sau đó chính là do thời đại phát sinh đã không còn hiện hữu, trái lại biểu tượng văn học,
ngoài môi trường thời đại, xã hội thì nó còn một môi trường không bao giờ có thể mất đi, đó
là chỉnh thể tác phẩm. Do đó, cho dù thời đại phát sinh có lùi xa vào quá khứ thì việc cảm
nhận, lí giải, cắt nghĩa biểu tượng văn học cũng không mấy khó khăn.
Khi những biểu tượng văn học được nhiều người thừa nhận, đồng thời chính nó có
một đời sống rộng lớn trong lòng công chúng, chứa đựng toàn vẹn nỗi niềm của con người
thì nó trở thành biểu tượng văn hóa. Sự biến dổi này đôi lúc khiến chúng ta khó nhận ra
được là biểu tượng đi từ đời sống vào văn học hay ngược lại. Văn học là một bộ phận của
văn hóa. Có thể nói, được trở thành biểu tượng văn hóa là một thành công lớn lao của biểu
tượng văn học.
Đi vào biểu tượng văn học, ta cần phải phân biệt sự khác nhau giữa biểu tượng và
những khái niệm có nội hàm gần giữ như ẩn dụ và hình tượng.
1.1.3.1. Phân biệt biểu tượng và hình tượng
Về hình tượng, Từ điển Thuật ngữ văn học ghi rằng: “Hình tượng nghệ thuật vừa có
giá trị thể hiện những nét cụ thể, cá biệt không lặp lại, lại vừa có khả năng khái quát làm bộc
lộ được bản chất của một loại người hay một quá trình đời sống theo quan niệm của người
nghệ sĩ. Hình tượng nghệ thuật không phải phản ánh các khách thể thực tại tự nó, mà thể
hiện toàn bộ quan niệm và cảm thụ sống động của chủ thể đối với thực tại… Vì những lẽ
trên, cấu trúc của hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng là sự thống nhất cao độ giữa các mặt
đối lập: chủ quan và khách quan, lí trí và tình cảm, cá biệt và khái quát, hiện thực và lí
tưởng, tạo hình và biểu hiện, hữu hình và vô hình”.[17,tr.147]

18
Như vậy, có thể thấy, biểu tượng và hình tượng đều có giá trị nhận thức cảm tính và
chủ quan trong việc phản ánh thực tại, có phương tiện biểu đạt là ngôn ngữ nhưng lại khác
nhau ở điểm: Sự tồn tại của hình tượng nghệ thuật không bao giờ vượt quá giới hạn của hình
thức biểu đạt cụ thể. Tức là luôn luôn có phương tiện biểu hiện trọn vẹn nghĩa của hình
tượng. Còn sự tồn tại của biểu tượng thì lại vượt quá giới hạn của một sự biểu đạt, tức là
không có một phương tiện nào có thể biểu hiện trọn vẹn ý nghĩa của biểu tượng.
Hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng tách riêng hoặc có xu hướng tách riêng ra khỏi
một hệ thống nào đó để đảm bảo các yêu cầu của một hình tượng là: tự do, hoàn thiện, độc
đáo và khác biệt. Hình tượng nghệ thuật chứa đựng cái mới, cái bất ngờ. Nó có khả năng
phá hủy, làm biến đổi quan niệm cố định về thực tại, và đôi khi sự xuất hiện của một hình
tượng mới khó làm người đọc chấp nhận ngay lập tức. Ví dụ như hình tượng nhân vật Chí
Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao. Dường như sự xuất hiện của hình
tượng Chí Phèo đã làm thay đổi hẳn quan niệm về người nông dân Việt Nam trước Cách
mạng tháng Tám. Ban đầu, người đọc khó có thể chấp nhận Chí Phèo, khó nhận ra được
thông điệp của nhà văn, nhưng về sau, người đọc đã khám phá ra những giá trị độc đáo,
riêng biệt của nhân vật và chất nhân văn trong tư tưởng của nhà văn. Ngược lại, mặc dù
luôn có xu hướng mở rộng về nghĩa, nhưng biểu tượng bao giờ cũng hướng về tính cố định
của nghĩa. Bất cứ biểu tượng nghệ thuật nào, cho dù có phong phú về nghĩa bao nhiêu thì
cũng thường có một nghĩa cố định nào đó, ít nhất là trong một giai đoạn nhất định. Và mặc
dù, biểu tượng luôn được luân chuyển, bồi dắp những nét nghĩa mới nhưng không bao giờ
nó phủ nhận hoặc tự phá hủy những nét nghĩa cũ. Chính những nét nghĩa được xây dựng từ
xưa là cơ sở cho việc tiếp nhận những nét nghĩa mới trong một biểu tượng nghệ thuật. Và vì
vậy mà biểu tượng luôn luôn sống động, phong phú và tồn tại mãi mãi theo thời gian.
1.1.3.2. Phân biệt biểu tượng và ẩn dụ
Việc xác định sự khác nhau giữa biểu tượng và ẩn dụ là một vấn đề mang tính tương
đối, khó có thể xác định rạch ròi. Trong bài viết Kết cấu nghệ thuật thơ ca trữ tình dân
gian Nga, đăng trên Tạp chí Văn học số 4, năm 1999, Nhà văn Nga V. I. Eramina cho rằng:
“Ẩn dụ thơ ca được sinh ra nhất thời và mất đi rất nhanh. Biểu tượng được hình thành trong
quá trình dài và sau đó trong hàng trăm năm, ẩn dụ là yếu tố biển đổi, biểu tượng thì không
đổi, bền vững. Ẩn dụ là phạm trù thẩm mĩ và phần lớn tự do tách khỏi phong cách ước lệ.
Biểu tượng thì ngược lại, giới hạn nghiêm túc bởi hệ thống thi ca xác định”. Như vậy, ẩn dụ
và biểu tượng phân biệt nhau bởi tính biến đổi và bền vững, tự do và ước lệ. Phạm Thu Yến

19
thì cho rằng: “Có thể nói rõ thêm, biểu tượng mang tính kí hiệu, quy ước, nghĩa là chỉ cần
nêu hình ảnh biểu tượng là người đọc đã hiểu được cái mà nó biểu trưng, không cần yếu tố
giả mà vì nó đã in sâu vào tư tưởng thẩm mĩ dân gian. Còn ẩn dụ tự do hơn, không chỉ được
tạo bằng một, hai hình ảnh mà bằng vài ba hình ảnh. Vì thế các yếu tố cần dựa vào nhau để
giải mã ẩn dụ, ẩn dụ linh hoạt, trường liên tưởng rộng rãi hơn biểu tượng, số lượng nhiều
hơn nhưng không bền vững bằng […] Biểu tượng là hình ảnh ẩn dụ được sử dụng ở mật độ
cao mang tính quy ước”.
Còn Từ điển Thuật ngữ văn học nói về sự giống và khác nhau giữa ẩn dụ và biểu
tượng như sau: sự giống nhau là chúng đều được “hình thành trên cơ sở đối chiếu, so sánh
các hiện tượng, đối tượng có những phương diện, khía cạnh, những đặc điểm gần gũi, tương
đồng, nhằm làm nổi bật bản chất, tạo ra một ý nghĩa cụ thể sáng tỏ về hiện tượng hay đối
tượng đó” [17,tr. 24]. Sự khác nhau giữa chúng là: “ẩn dụ và hoán dụ đều mang ít hay nhiều
ý nghĩa biểu tượng, nhưng biểu tượng không phải bao giờ cũng là những hoán dụ, ẩn dụ
(…) ; biểu tượng không loại bỏ ý nghĩa cụ thể, cảm tính của vật tượng trưng (…) trong khi
đó, ẩn dụ và hoán dụ nhiều khi có khuynh hướng làm mờ ý nghĩa biểu vật, trực quan của lời
nói; nếu như ý nghĩa của ẩn dụ, hoán dụ trong ngữ cảnh cụ thể của từng văn bản, thì ý nghĩa
của biểu tượng tồn tại cả ngoài văn bản” [tr. 24, 25].
Đó là những ý kiến sâu sắc về sự khác nhau giữa ẩn dụ và biểu tượng. Như vậy biểu
tượng có xu hướng ổn định về nghĩa và ý nghĩa của nó luôn được số đông cộng đồng thừa
nhận, ý nghĩa của biểu tượng còn là sự phức tạp, đa nghĩa. Trong khi đó ẩn dụ thì có xu
hướng nghiêng về một ý nghĩa cụ thể riêng biệt, không ổn định. Nghĩa của biểu tượng
không chỉ được tạo nên từ văn bản tác phẩm mà còn từ sự cảm nhận, tiếp nhận của độc giả.
Nó phải thể hiện quan niệm về cuộc đời, xã hội, về thế giới, về con người qua từng giai
đoạn phát triển của lịch sử văn minh. Còn ẩn dụ chủ yếu được tạo nên từ văn bản tác phẩm,
trong nhiều tác phẩm của nhà văn hay nhiều nhà văn.
Trong Từ điển Biểu tượng văn hóa thế giới, các tác giả còn đưa ra sự giống và khác
nhau giữa biểu tượng với: biểu hiệu, vật hiệu, phúng dụ, tỉ dụ, loại suy, … Tất cả chúng đều
không vượt qua mức độ của sự biểu nghĩa: “Biểu tượng cơ bản khác với dấu hiệu, ở chỗ dấu
hiệu là một quy ước tùy tiện trong đó cái biểu đạt và cái được biểu đạt vẫn xa lạ với nhau,
trong khi biểu tượng giả định có sự đồng chất giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt theo
nghĩa một lực năng động tổ chức” [26,tr. XIX]. Nói chung, sự khác nhau giữa biểu tượng và
các khái niệm gần gũi với nó chủ yếu là ở sự phức tạp trong việc lĩnh hội ý nghĩa mà biểu

20
tượng gợi ra. Không phải lúc nào nghĩa của biểu tượng cũng rõ ràng, cụ thể và dễ nhận ra,
vì có lúc nó ẩn sâu bên trong đòi hỏi người cảm nhận phải có một bề dày kiến thức đời sống
xã hội, một năng lực cảm thụ văn chương và một sự nhiệt tình lớn lao để khám phá, tìm tòi
ý nghĩa biểu tượng.

1.2. Biểu tượng nghệ thuật trong thơ

Biểu tượng trong thơ là một loại biểu tượng nghệ thuật. Nó là dạng biểu tượng được
xây dựng bằng ngôn từ, bao gồm cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, được chấp nhận và qui
ước bởi một cộng đồng. Chính vì vậy mà nó vừa mang những đặc điểm chung của biểu
tượng nói chung vừa mang những nét riêng, đặc thù của ngôn từ và thơ ca qui định. Biểu
tượng xuất hiện trong văn học dân gian như những hình ảnh ẩn dụ đã được ý thức cộng
đồng chấp nhận, sử dụng rộng rãi, phổ biến mà mang đặc điểm văn hóa truyền thống của
cộng đồng. Đến văn học viết, biểu tượng trở thành một phương tiện nghệ thuật để các nhà
thơ, nhà văn trung đại, hiện đại sử dụng trong tác phẩm của mình để nhằm chuyển tải những
quan niệm, những tư tưởng, tình cảm về cuộc sống, con người, xã hội. Biểu tượng nghệ
thuật trong thơ ở đây có thể được tạo nên chỉ bằng một từ, một cụm từ, một câu, hoặc cả văn
bản. Căn cứ vào nghĩa của từ ngữ, người tiếp nhận sẽ khám phá ra các nét nghĩa khác của
biểu tượng thông qua tính hàm súc, đa nghĩa của ngôn ngữ văn chương.
Biểu tượng trong văn học nói chung, không chỉ riêng trong thơ, là loại biểu tượng đa
nghĩa và được xây dựng bằng ngôn từ nghệ thuật. Theo C.G.Jung: “Biểu tượng là một từ
ngữ, một danh từ hay một hình ảnh ngay cả khi chúng là quen thuộc trong đời sống hàng
ngày vẫn chứa đựng mối quan hệ liên can, cộng thêm vào đó cái ý nghĩa quy ước và hiển
nhiên của chúng. Trong biểu tượng có bao hàm một điều gì đó mơ hồ, chưa biết hay bị che
dấu đối với chúng ta” [26,tr. XXIX]. Trong lí luận văn học, mĩ học và ngôn ngữ học, biểu
tượng là một thuật ngữ đa nghĩa, có nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, ta có thể
xem tác phẩm văn học như là một biểu tượng, một chỉnh thể thẩm mỹ chứa nhiều thông điệp
của chính tác giả sáng tác. Việc giải mã biểu tượng góp phần giúp cho độc giả hiểu được
những giá trị riêng biệt, độc đáo của tác phẩm. Từ đó mà nắm bắt được tư tưởng tác giả.
Theo nghĩa hẹp, biểu tượng là một phương thức chuyển nghĩa của lời nói, là một loại hình
tượng nghệ thuật đặc biệt có sức biểu hiện lớn được tác giả sử dụng nhiều lần trong tác
phẩm của mình. Đó là một thủ pháp đặc biệt để tác giả thể hiện ý đồ sáng tạo. Biểu tượng
trong thơ cũng không nằm ngoài qui luật đó.

21
Biểu tượng trong thơ đa dạng phong phú bởi mỗi nhà thơ đều muốn khẳng định cái
tôi cá nhân và sáng tạo theo cá tính riêng, độc đáo của mình. Trong thơ ca dân gian, những
biểu tượng được xây dựng trên cơ sở những hình ảnh khách quan từ thiên nhiên, cuộc sống
lao động sinh hoạt hằng ngày của người lao động. Nó được tập thể người lao động tham gia
sáng tạo, bổ sung, cải biến. Nó là sản phẩm của tập thể nên thiếu hẳn yếu tố cá nhân, phong
cách riêng của con người cá thể. Ví dụ như câu ca dao sau:
Anh về cuốc đất trồng cau
Cho em trồng ké dây trầu một bên.
Mai sau trầu nọ lớn lên,
Cau kia ra trái lập nên cửa nhà. [13]
So sánh biểu tượng trầu – cau trong câu ca dao này với biểu tượng trầu - cau trong
thơ Nguyễn Bính, ta sẽ thấy rõ sự khác biệt bởi dấu ấn cá nhân trong sáng tác. Trong ca dao,
trầu cau không còn được hiểu như chính nó trong thực tại, là một loại quả, lá ăn chung với
nhau làm đẹp môi, mà nó đã trở hình thức biểu đạt chứa đựng nội dung se duyên, kết tình
của nam nữ. Nó đề cập đến tình yêu, tình duyên đôi lứa. Nó nói đến việc kết tóc se tơ của
nam nữ yêu nhau. Và biểu tượng trầu – cau trong ca dao dường như chỉ dừng lại ở đó.
Trong thơ Nguyễn Bính, biểu tượng trầu – cau cũng có cơ sở ý nghĩa như trong ca dao
nhưng bên cạnh đó nó còn mang nhiều nét nghĩa khác mà chỉ có tư duy, quan niệm sống của
chính Nguyễn Bính mới tạo ra được. Trong thơ ca dân gian, ta dễ dàng bắt gặp những biểu
tượng quen thuộc thể hiện cho tình cảm, tình yêu lứa đôi như: trầu – cau, trúc – mai, mận –
đào, thuyền – bến, sen – hồ, liễu – đào, …
Sen xa hồ, sen khô hồ cạn
Lựu xa đào, lựu ngả đào nghiêng

Gặp đây mận mới hỏi đào


Vườn hồng đã có ai vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào

Thuyền ơi có nhớ bến chăng


Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
(Ca dao)

22
Trong thơ bác học, hình ảnh trúc – mai không còn là biểu tượng của tình cảm trai gái,
tình yêu lứa đôi nữa mà trở thành một qui ước mang tính tượng trưng cho phẩm chất của
người quân tử, tình bạn thắm thiết, tri kỉ của nhà nho:
Trúc mai bạn cũ hợp nhau quen
(Thuật hứng, Bài I, Nguyễn Trãi)
Trúc mai làm bạn hứng thơ nồng.
(Thơ Nôm, Bài 33, Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Khi nghiên cứu về biểu tượng trong thơ không thể bỏ qua yếu tố truyền thống. Chính
nó mang lại sức sống, giá trị độc đáo cho biểu tượng. Bởi chính yếu tố truyền thống sẽ mang
đến giá trị lịch sử, giá trị nghệ thuật cùng với chiều sâu trong quan niệm về thế giới của con
người thời đại đó. Nó là cơ sở để tiếp nhận biểu tượng nghệ thuật. Tuy nhiên, bên cạnh
những gì kế thừa từ truyền thống, sức sống của biểu tượng trong thơ ca hiện đại phải luôn
luôn cách tân, đổi mới, bổ sung thêm cho những ý nghĩa cũ hoặc là phải biết sáng tạo cái
hoàn toàn mới. Như ở trên đã nói, trong thơ ca dân gian, biểu tượng thuyền – bến/ biển được
sử dụng với mục đích thể hiện tình cảm nam nữ, tình yêu lứa đôi. Trong đó, thuyền thường
là biểu tượng của người con trai, biển là biểu tượng của cô gái. Nhưng đến thơ Xuân Quỳnh,
thuyền lại gắn với hình ảnh người con gái:
Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió
Nếu phải cách xa em
Anh chỉ còn bão tố
(Xuân Quỳnh)
Bên cạnh việc sáng tạo ra những biểu tượng hoàn toàn mới mẻ còn có hiện tượng bổ
sung ý nghĩa cho những biểu tượng quen thuộc. Như trong các tác phẩm thuộc phong trào
Thơ mới, Con Tàu thường biểu tượng cho sự ra đi cô độc, sự chia lìa tan tác, thì trong thơ
cách mạng, Con Tàu lại là biểu tượng của sự ra đi mang tính chất khai phá, mở đường, ra đi
trong lời ca tiếng hát, ra đi trong niềm vui, niềm hạnh phúc.
Những ngày nghỉ học tôi hay tới
Đón chuyến tàu đi tới những ga
Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt
Lòng buồn đau xót nỗi chia xa
(Những ngày nghỉ học, Tế Hanh)

23
Hình ảnh Con Tàu trong thơ Tế Hanh vốn là biểu tưởng của nỗi đau chia xa. Con tàu mang
nặng nỗi đau của con người và của cả một dân tộc trong những năm tháng nô lệ, mất nước.
Nhưng Con tàu trong thơ Chế Lan Viên lại là con tàu mang những niềm vui, niềm hi vọng
mới. Con tàu là biểu tượng của một niềm hứng khởi, tin tưởng vào tương lai cách mạng:
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi đất nước bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu
(Tiếng hát con tàu)
Biểu tượng trong thơ ca được tạo nên bởi sự kết hợp giữa yếu tố truyền thống và yếu
tố cách tân, đổi mới. Chính vì vậy, biểu tượng sẽ có giá trị hơn khi vừa đánh thức những
quan niệm, cảm xúc truyền thống từ ngàn đời của dân tộc trong lòng độc giả vừa khơi gợi
về những điều mới mẻ, hấp dẫn. Tuy nhiên, nhiều lúc dấu ấn cá nhân quá mạnh mẽ, quá
đậm khiến cho biểu tượng trở nên khó hiểu, khó khám phá.
Thơ là sản phẩm của xã hội được cá thể hóa cao độ. Mỗi nhà thơ là một thế giới nghệ
thuật khác nhau. Cách nhìn nhận, quan sát, tiếp thu, đánh giá thế giới của mỗi nhà thơ khác
nhau chi phối cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh để làm biểu tượng cũng khác nhau. Và khi đó
biểu tượng cũng mang những nét nghĩa không giống nhau. Trong thơ Puskin, hoa hồng là
tượng trưng cho tình yêu nồng thắm nhưng chóng phôi pha. Còn hoa hồng trong thơ Aragon
là biểu tượng của tinh thần chiến đấu của những chiến sĩ đã hi sinh cho dân tộc Pháp chiến
thắng (Những đóa hoa hồng Noel).
Biểu tượng trong thơ thông thường có thể được xây dựng theo hai cách. Nhà văn, nhà
thơ lựa chọn một chi tiết, hình ảnh và sắp xếp sao cho chi tiết, hình ảnh đó chi phối, quán
xuyến, ảnh hưởng đến các chi tiết khác và toàn bộ tác phẩm. Chi tiết, hình ảnh được lựa
chọn trở thành trung tâm của những mối quan hệ. Khám phá, lí giải chi tiết, hình ảnh trung
tâm đó sẽ nắm bắt được ý nghĩa biểu tượng của chính nó. Ngoài ra, sự lặp đi, lặp lại của một
hình ảnh, hình tượng đa nghĩa trong nhiều tác phẩm của một tác giả cũng là một cách tạo
thành biểu tượng nghệ thuật. Chẳng hạn, trong tập thơ Về Kinh Bắc của nhà thơ Hoàng
Cầm, hình tượng Đêm xuất hiện nhiều lần trong các bài Đêm Hỏa, Đêm Thủy, Đêm Thổ,
Đêm Mộc, Đêm Kim, … cùng nhiều tính chất mơ hồ của Đêm như: tàn đêm, đêm tiền sử,
đêm đồng lõa, đêm dài, đêm xanh, … Với dụng ý nghệ thuật như thế, Đêm trong tập thơ của

24
Hoàng Cầm trở thành biểu tượng nghệ thuật đầy sức ám gợi, phong phú với nhiều nét nghĩa
khác nhau.
Biểu tượng trong thơ hiện đại Việt Nam không còn là một vấn đề mới mẻ nữa. Bởi
việc sử dụng biểu tượng nghệ thuật trong tác phẩm để chuyển tải thông điệp tư tưởng nhà
văn từ lâu đã trở nên quen thuộc. Từ ca dao dân ca truyền thống đến thơ bác học của thời
trung đại, phong trào Thơ mới hay thơ cách mạng, nhìn đâu trong tác phẩm của hàng loạt
các tác giả lớn, người đọc cũng dễ dàng nhận ra gương mặt của họ bởi dấu ấn cá nhân in
đậm trong sáng tác. Trong đó tìm kiếm và khám phá giá trị của các biểu tượng nghệ thuật
trong tác phẩm là một cách hữu hiệu để nhận ra phong cách độc đáo của từng cá nhân nhà
thơ.
Trong phong trào Thơ mới, biểu tượng nghệ thuật cũng được các tác giả xây dựng
lung linh, biến hóa trong các tác phẩm của mình: Hàn Mặc Tử với biểu tượng hồn, máu và
trăng, Huy Cận với biểu tượng vũ trụ, Nguyễn Bính với biểu tượng vườn, giấc mơ, bướm,
trầu cau, … Hiểu được biểu tượng của nhà thơ thì có thể nói đã hiểu gần như tận cùng nhà
thơ ấy. Họ sống, trải nghiệm, vui, buồn, ước mơ, hi vọng, khao khát, … tất cả đều dồn nén,
cô đọng trong những biểu tượng. Trong số những tác giả này, khá ấn tượng là thơ Hàn Mặc
Tử. Biểu tượng hồn, máu, trăng thường xuyên xuất hiện trong thơ ông và trở thành những
biểu tượng đầy sức ám gợi. Đọc thơ của ông, người đọc dường như lạc vào thế giới của một
tâm hồn đang quằn quại vì bệnh tật nhưng luôn khao khát sống, khao khát níu kéo cuộc đời.
Biểu tượng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử mang đến cho người đọc những trường liên tưởng
kì diệu, ngỡ ngàng: lúc sợ sệt, lúc kinh ngạc và choáng ngợp mê man trước những hình ảnh
dị thường. “Trăng ở đây cũng chính là hồn và máu của thi nhân. Hàn Mặc Tử sống với
những cơn đau triền miên, khủng khiếp “sượng sần tê điếng”, “Tôi đau vì rùng rợn đến vô
biên”, không ai chia sẻ một nỗi đau bệnh hoạn và cô độc kể cả Thượng đế. Nhiều lúc nhà
thơ muốn: “Tôi dìm hồn tôi xuống một vũng trăng êm/ Cho trăng ngập dần lên tới ngực”
(Hồn là ai). Thơ ông là những dòng đầy máu lệ, đầy tiếng thác gào của một cơn thác nước
mắt trong suốt tuôn vào gió bụi. Bệnh tật đã khiến cơ thể ông hao mòn suy nhược nhưng
ngược lại nó cũng khơi ngòi cho ông một nguồn cảm hứng sáng tạo vô biên. Ở ông, đau
thương đồng nghĩa với sáng tạo. Ông dùng nó làm một phương tiện cứu rỗi, ông đưa nó lên
cung bậc cao nhất của nghệ thuật:
Cứ để ta ngất ngư trên vũng tuyết
Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh

25
Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết
Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh.
(Rướm máu)” [41]
Có thể nói khi các nhà thơ khác làm người dẫn đường hay khởi đầu cho những sáng
tác lãng mạn thời kì đầu của phong trào Thơ mới thì Hàn Mặc Tử với những sáng tác của
mình đã đặt chân lên địa hạt siêu thực. Như nhận xét của nhiều nhà nghiên cứu, nếu như
Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất thì Hàn Mặc Tử là nhà thơ đi xa nhất. Chính những biểu
tượng đặc sắc mà đầy mê hoặc chứa đựng cả những yếu tố tâm linh, phi hiện thực, … đã
đưa thơ Hàn Mặc Tử lên đến đỉnh cao của nghệ thuật biểu hiện. Như Chế Lan Viên từng
nhận định rằng: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi
xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”[41]. Có lẽ để có được
những thành công ấy, thì không thể phủ nhận vai trò đóng góp to lớn của hệ thống biểu
tượng nghệ thuật trong thơ của ông.
Không mơ hồ, không siêu thực như thơ Hàn Mặc Tử, với giọng điệu nhẹ nhàng, chân
quê, thơ Nguyễn Bính đã mang lại cho người đọc những nét đa dạng trong cuộc sống của
con người thôn quê miền đồng bằng Bắc Bộ. Tình quê, duyên quê với những mối tình tươi
thắm và cả những mối tình duyên lỡ làng được Nguyễn Bính khắc họa qua biểu tượng vườn
trong thơ mình. Vườn còn là biểu tượng của những giá trị truyền thống, những giá trị chân
quê tốt đẹp mà tác giả đang cố níu kéo, gìn giữ . Biểu tượng vườn còn thể hiện nỗi niềm đau
đáu và cả tình cảm trìu mến yêu thương của Nguyễn Bính với con người và cuộc sống vùng
làng quê Bắc bộ nói riêng, làng quê Việt Nam nói chung:
Cành dâu cao lá dâu cao
Lênh đênh bóng bướm trôi vào mắt em
Anh đi đèn sách mười niên
Biết rằng bóng bướm có lên kinh thành
(Bóng bướm)
Hay
Nhà tôi có một vườn dâu
Có giàn đỗ ván, có ao cấy cần
Hoa đỗ ván nở mùa xuân
Lứa dâu tháng tháng, lứa cần năm năm.
(Nhà tôi)

26
Vườn trong thơ Nguyễn Bính có thể là vườn dâu, giậu mồng tơi, vườn hoa cam, …
gắn với những hình ảnh mộc mạc, giản dị của quê hương, xứ sở. Những ngôi vườn ấy lúc
nào cũng thấp thoáng bóng dáng của một thi sĩ đa cảm và tình yêu đất nước. Khu vườn
trong thơ Nguyễn Bính có lúc còn là một kỉ niệm ngọt ngào để níu giữ quá khứ hạnh phúc,
níu giữ những tình cảm đơn sơ mà thắm thiết của những con người quê. Bên cạnh biểu
tượng vườn, đáng lưu ý trong thơ Nguyễn Bính nữa là biểu tượng giấc mộng, giấc mơ. Xã
hội giai đoạn 1930 – 1945 là xã hội của ý thức cá nhân và nhu cầu tự khẳng định mình của
cá nhân. Đặc biệt là những trí thức như Nguyễn Bính. Cũng như các nhà thơ mới lãng mạn
khác, ông là một trong những cá nhân cô đơn, luôn thấy mình lạc lõng trước cuộc đời. Vì
thế, ông khao khát kiếm tìm tình yêu. Chỉ có tình yêu với những khao khát khám phá tâm
tưởng, suy nghĩ của người yêu, khám phá ra chính mình mới giúp thi nhân thấy cuộc đời
còn niềm vui, còn nhiều hạnh phúc. Thế nhưng thực tế thì ngược lại. Những điều nhà thơ ao
ước, hi vọng, đặt niềm tin quá nên thơ, quá bình lặng, yên ả chính vì thế nó ẩn chứa cả sự
mong manh, bất ổn, rạn nứt… bởi những bể dâu, những ngang trái của cuộc đời. Vì lẽ đó
mà giấc mơ thường xuyên xuất hiện trong thơ Nguyễn Bính. Cuộc đời quá phũ phàng, tàn
nhẫn. Những ước mơ tình yêu tan vỡ. Những nỗi buồn cứ day dứt khôn nguôi. Với Nguyễn
Bính, giấc mơ được sử dụng như một biểu tượng cứu cánh, giúp tác giả tạm chia tay với
thực tế không hài lòng để bước vào thế giới của tâm tưởng, tưởng tượng. Giấc mơ hóa
bướm của Nguyễn Bính trong thơ ca chính là những cảm xúc, suy tư về cuộc đời, nhân tình
thế thái, về kiếp nghệ sĩ của chính mình. Trong thơ ông biểu tượng bướm xuất hiện khá dày
đặc. Đặc biệt ở bài Người hàng xóm, bướm xuất hiện như một ám ảnh khiến câu chuyện
dườg như trở nên mờ ảo hơn: “Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng / Có con bướm trắng thường
sang bên này / Bướm ơi bướm hãy vào đây / … Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi /… /
Con bươm bướm trắng hôm nào cũng sang /… / Tơ không hong nữa, bướm lười không
sang/… / Nhớ con bướm trắng về bên ấy rồi/… / Hỡi ơi bướm trắng tơ vàng /… / Nhập về
bướm trắng mà sang bên này”.
Đi sâu vào thơ sau 1945, người đọc sẽ thấy rõ vai trò quan trọng của biểu tượng trong
việc hình thành phong cách sáng tác của nhà thơ. Nó không còn giới hạn một cách hạn hẹp
trong phạm vi giữa tác phẩm và nhà thơ, mà rộng hơn là cả xã hội.
Không chỉ xuất hiện như một phương tiện đắc lực trong sáng tác của các nhà thơ
mới, biểu tượng còn xuất hiện khá dày đặc trong sáng tác của các tác giả khác như Tố Hữu,
Chế Lan Viên, Nguyễn Khoa Điềm, Tế Hanh, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Quang Thiều…

27
Nhắc đến Tố Hữu, người ta nghĩ ngay đến những biểu tượng tiêu biểu trong các sáng
tác của ông như người mẹ, con đường, dòng sông, ngọn cờ, con thuyền, … Tìm hiểu những
biểu tượng tiêu biểu của nhà thơ Tố Hữu giúp cho người đọc nhận ra tính nhất quán trong tư
tưởng của Tố Hữu về con đường cách mạng và con đường thơ. Đất nước chiến tranh, biểu
tượng thơ ca đi vào phản ánh hoàn cảnh cụ thể của xã hội. Nó là cầu nối giữa cá nhân nhà
thơ và cộng đồng, giữa hiện thực và ước mơ, giữa chiêm nghiệm và cuộc sống. Trong thế
giới nghệ thuật của thơ Tố Hữu, không thể bỏ qua một biểu tượng quan trọng là biểu tượng
con đường:
Đường xa vô hạn, đích vô cùng
Chân trời lui mãi lan lan rộng
Hy vọng tràn lên đồng mênh mông
(Dưới trưa)
Sống bồi thêm bãi, thuyền thêm bến
Gió lộng đường khơi, rộng đất trời!
(Mẹ Tơm)
Đường của ta đi, đến mọi người
(Đường của ta đi)
Giữa cái tăm tối của thời đại, giữa cái ngõ cụt của lí tưởng, cách mạng đến mở ra một
không gian rộng lớn. Cá nhân được giải thoát khỏi cái tôi chật hẹp để đến chân trời rộng mở
hơn. Thế nhưng để tìm đến được nơi thì có lẽ mỗi cá nhân phải tự chọn cho mình một con
đường riêng. Và những con đường mà nhà thơ Tố Hữu lựa chọn cho chính mình, hình như
con đường nào, dẫu xuất phát ở nơi đâu, dẫu là thực tế hay trong tưởng tượng thì con đường
ấy cũng giúp nhà thơ tìm về cách mạng, về với dân tộc, với nhân dân. Biểu tượng con
đường trong thơ Tố Hữu là những con đường chông gai, con đường đầy máu lửa, thử thách
và tù đày. Đó còn là con đường ra trận, con đường “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà
lòng phơi phới dậy tương lai”(Theo chân Bác - Tố Hữu) [70].
Trong những biểu tượng tiêu biểu mà những nhà nghiên cứu đã tìm hiểu, biểu tượng
người mẹ trong thơ Tố Hữu cũng là một biểu tượng nổi trội. Hình ảnh người mẹ được tác
giả lựa chọn vừa mang đầy đủ những yêu cầu thẩm mĩ, sinh động của cuộc đời vừa có tác
động lớn vào tình cảm, ý nghĩ, nhận thức của người đọc. Từ hình ảnh những bà má Hậu
Giang đến mẹ Tơm, mẹ Suốt,… người mẹ trong thơ Tố Hữu đã trở thành biểu tượng của
non sông đất nước. Người mẹ là biểu tượng cho những bà mẹ Việt Nam với những phẩm

28
chất đặc trưng cho phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam.
Nước non muôn quý ngàn yêu
Còn in bóng má sớm chiều Hậu Giang
(Bà má Hậu Giang)
Bóng mẹ ngồi trông vọng nước non
(Mẹ Tơm)
Ngẩng đầu mái tóc mẹ rung
Gió lay như sóng biển tung, trắng bờ.
(Mẹ Suốt)
Cùng viết về người mẹ, nhưng biểu tượng người mẹ trong thơ Nguyễn Duy lại có
những nét nghĩa khác với trong thơ Tố Hữu. Nếu như người mẹ trong thơ Tố Hữu là biểu
tượng của non sông đất nước, của người phụ nữ Việt Nam trung dũng, kiên cường thì người
mẹ trong thơ Nguyễn Duy mang dáng dấp người mẹ Việt Nam vất vả, lam lũ với vẻ đẹp đời
thường, giản dị:
Bần thần hương huệ thơm đêm
Khói nhang vẽ nẻo đường lên Niết bàn
Chân nhang lấm láp tro tàn
Xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)
Cùng là dùng hình ảnh người mẹ để làm biểu tượng chuyển tải thông điệp, tư tưởng
thế nhưng, biểu tượng người mẹ trong thơ Tố Hữu và biểu tượng người mẹ trong thơ
Nguyễn Duy lại không giống nhau. Bởi nó xuất phát từ những chất liệu, chi tiết, cảm quan
và ý đồ nghệ thuật khác nhau.
Trong thơ hiện đại Việt Nam, các biểu tượng gắn với cuộc sống, tính cách của từng
tác giả, thể hiện phong cách cá nhân độc đáo. Môi trường sống, kinh nghiệm sống, quê
hương, gia đình, thời đại mà tác giả sống, trưởng thành có ý nghĩa tác động rất lớn đến sự
hình thành biểu tượng trong sáng tác văn chương. Những ấn tượng của cuộc sống tác động
và được lưu giữ trong trí nhớ của nhà thơ trải qua thời gian sẽ hội tụ lại và tỏa sáng trên tác
phẩm qua các biểu tượng. Biểu tượng sông nước cứ trở đi trở lại trong thơ Tế Hanh. Hình
ảnh người bà trở thành biểu tượng đầy sức ám gợi trong thơ Bằng Việt. Từ những kí ức
mạnh liệt về người bà yêu quí của mình từ thuở còn nhỏ đến lúc di xa mấy mươi năm, hình
ảnh người bà vẫn hiện lên mạnh mẽ qua “Bếp lửa” thiêng liêng.

29
Ý nghĩa biểu tượng lửa trong thơ lại được mở rộng trong thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Lửa mang một giá trị thẩm mĩ phong phú, tượng trưng cho ánh sáng, cho sự sống và ý chí
của con người:
Bếp lửa quây quần suốt mấy anh em
Không ai nhìn ai chúng tôi nhìn lửa
Ở đó cháy lên ý nghĩ
Và tỏa hồng trên mỗi trán say mê
(Bếp lửa rừng)
Lửa trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sức ấm nóng của tình đồng đội, đồng chí và lí
tưởng cao cả. Lửa còn là biểu tượng của lòng căm thù, của khí thế đấu tranh, lòng nhiệt
huyết của tuổi trẻ.
Ngọn lửa, từ bao đời nay luôn là biểu tượng thiêng liêng của sự sống. Nó đem lại ánh
sáng, sự ấm áp và cả văn minh cho con người. Đi vào thơ kháng chiến, ngọn lửa trở thành
biểu tượng của sức mạnh ý chí và nghị lực, là biểu tượng rực cháy của niềm tin và hi vọng
chiến thắng cái ác, chiến thắng kẻ thù,… Nhiều nhà thơ đã rất thành công khi lấy cảm hứng
sáng tác từ ngọn đèn, ánh lửa. Ngoài Nguyễn Khoa Điềm còn có Phạm Tiến Duật với “Lửa
đèn”, Chính Hữu với “Ngọn đèn đứng gác”, … Cũng như các nhà thơ khác, Lưu Quang
Vũ đã xây dựng được một nguồn cảm hứng dạt dào trong thơ ca của mình thông qua biểu
tượng lửa. Hình ảnh này xuất hiện rất nhiều lần (khoảng 60 lần) trong 121 bài thơ của ông
với những trạng thái biểu hiện đa dạng: ngọn lửa, ánh lửa, đám lửa, bếp lửa, đống lửa, đốm
lửa, lửa cháy, lửa, … [70]: “Hãy cho tôi chút lửa…/ Lửa hãy cho em gương mặt sáng…/
Nhân dân có gì giống ngọn lửa phải không anh …/ Cho ta làm ngọn lửa” (Mấy đoạn thơ về
lửa). Lửa trong thơ Lưu Quang Vũ là biểu tượng của tình yêu gia đình, tình yêu cuộc sống,
quê hương của một con người luôn day dứt, trăn trở trước những vấn đề của đất nước, của
thời cuộc.
Là nhà thơ sáng tác vào thời hậu chiến, Nguyễn Quang Thiều cũng bắt được cảm
hứng với lửa và thể hiện nó trong các sáng tác thuộc tập thơ “Sự mất ngủ của lửa”. Lửa
trong thơ Nguyễn Quang Thiều chính là vầng mặt trời mang ý nghĩa bắt nguồn sự sống. Lửa
là biểu tượng của nền văn minh, là hiện thân của văn hóa cổ truyền đang bị đe dọa, giày xéo
bởi quá trình đô thị hóa. Nó như là một giá trị truyền thống văn hóa ngày một bị tàn lụi
trong thời đại khoa học kĩ thuật đang phát triển như vũ bão. Dùng lửa làm biểu tượng,
Nguyễn Quang Thiều dường như đang phát đi một thông điệp kêu cứu cho những giá trị

30
truyền thống bị mai một, là sự hồi cố và tìm kiếm những bóng dáng của quá khứ. Điều đó
xuất phát từ trái tim nóng bỏng nhiệt huyết của chính tác giả khi đang thao thức, trăn trở
trước cuộc sống hôm nay [90].
Ngoài biểu tượng lửa, thơ hiện đại còn sử dụng hình ảnh đối lập với lửa để xây dựng
thành biểu tượng. Đó là nước. Biểu tượng nước cũng là một biểu tượng nghệ thuật đầy dụng
ý. Biểu tượng nước thể hiện một giá trị biểu đạt tình cảm của con người trong thơ Lò Ngân
Sủn. Đến thơ Dương Thuấn, nước còn là biểu tượng cho số phận con người, đặc biệt là số
phận người phụ nữ trước sự chảy trôi của thời gian.
Từ ý nghĩa đã ổn định trong biểu tượng nước, nhà thơ Dương Thuấn còn sáng tạo ra
những mạch nghĩa mới cho biểu tượng nước. Nhà thơ đã lấy nước làm hình tượng chủ đạo
xuyên suốt cho bài thơ Theo nước đi của mình:
Người làm đồng ăn theo nước
… Mới thành người của muôn nơi
Ở đây, nước với ý nghĩa mới là biểu tượng của cội nguồn. Con người sinh ra, lớn lên,
trưởng thành đều phải gắn bó với dòng nước bản làng, quê hương. Xuất phát từ nguồn gốc
của văn minh dân tộc Việt Nam là văn minh lúa nước, nhà thơ đã khái quát nước thành biểu
tượng của nguồn gốc, của cội nguồn con người: thành “con của mẹ”, thành “người của
làng”, thành “người của muôn nơi” [68].
Chỉ bấy nhiêu thôi ta cũng đã thấy được sự phong phú của hệ thống biểu tượng trong
thơ ca của một số tác giả Việt Nam. Ngoài ra, ta có thể bắt gặp rất nhiều biểu tượng khác
như ngôi sao, vầng trăng, gió, mưa, núi, hoa, … trong sáng tác của Chế Lan Viên, Phạm
Tiến Duật, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Thanh Thảo, Xuân Quỳnh,…
Xuân Diệu cũng không nằm ngoài xu hướng này. Là một trong những tác giả thành
danh tiêu biểu của phong trào Thơ mới, Xuân Diệu nhanh chóng mang đến cho công chúng
yêu thơ những vần thơ dịu dàng, đắm say, vừa yêu đời say mê, vừa vội vàng lo sợ. Bởi hơn
ai hết, Xuân Diệu luôn mang trong mình một nỗi ám ảnh về sự tàn phai của tuổi trẻ, sự chảy
trôi của thời gian, sự hữu hạn của đời người. Những suy tư, ám ảnh về thời cuộc, về con
người đều được nhà thơ ghi dấu vào thơ ca của mình thông qua hệ thống biểu tượng nghệ
thuật. Xuân Diệu đã dụng công xây dựng khá nhiều biểu tượng trong sáng tác thơ của mình
từ khi mới bắt đầu sáng tác cho đến những năm cuối đời. Kế thừa những giá trị truyền thống
và sáng tạo, cách tân để mang lại những nét nghĩa mới cho biểu tượng đã giúp thơ Xuân
Diệu sống mãi với thời gian. Nghiên cứu, khám phá những nét nghĩa ấy của biểu tượng thơ

31
Xuân Diệu sẽ giúp cho người đọc nhìn thấy sự nhất quán trong phong cách nghệ thuật thơ
Xuân Diệu cả giai đoạn trước và sau cách mạng tháng Tám. Bên cạnh đó, nghiên cứu biểu
tượng còn là một bước đi giúp thế hệ chúng ta đánh giá đúng vai trò, đóng góp của Xuân
Diệu trong nền văn học dân tộc đặc biệt là về mảng thơ ca. Bởi vì biểu tượng là bộ mặt tâm
hồn, tình cảm, ước mơ, khát vọng của cá nhân người nghệ sĩ.

1.3. Hành trình sáng tác và những đóng góp về thơ của Xuân Diệu trong nền
thơ ca dân tộc

1.3.1. Hành trình sáng tác của Xuân Diệu

Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, sinh năm 1916, quê cha ở Hà Tĩnh, quê mẹ ở
Bình Định. Sinh ra và lớn lên ở quê ngoại, những ngọn sóng biển ngàn năm vỗ vào bãi biển
Qui Nhơn cùng những ngọn gió nồm tươi mát đã trở thành những nguồn khích lệ cho sự nảy
nở một tâm hồn yêu đời dạt dào trong thơ của Xuân Diệu.
Cha ông tên là Ngô Xuân Thọ, một tú tài kép Hán học, vào làm thầy dạy học ở Bình
Định rồi kết duyên cùng Nguyễn Thị Hiệp. Xuân Diệu ra đời, mang trong mình dòng máu
của hai miền quê tươi thắm: Hà Tĩnh cần cù chịu khó và Bình Định nồng nàn tình cảm:
Quê cha Hà Tĩnh đất hẹp khô rang,
Đói bao thuở, cơm chia phần từng bát.
Quê mẹ gió nồm thổi lên tươi mát,
Bình Định lúa xanh ôm bóng Tháp Chàm.
(Cha đàng ngoài mẹ ở đàng trong)
Cả hai miền quê đã bồi dưỡng, nuôi lớn tâm hồn thơ Xuân Diệu. Xuân Diệu đã kế
thừa từ người cha giỏi Hán học của mình một vốn phong phú thơ ca dân tộc. Điệu hát câu
hò dân gian xứ Nghệ đã ăn sâu vào lời ăn tiếng nói. Ngoài việc học chữ Nho, ông còn được
học chữ quốc ngữ và tiếng Pháp với cha. Chính điều đó đã hình thành nên hồn thơ vừa đậm
chất Á Đông vừa chịu ảnh hưởng sâu bởi văn hóa phương Tây trong thơ ca Xuân Diệu. Từ
thuở còn đi học ở Qui Nhơn, Xuân Diệu đã tập làm thơ và lúc bấy giờ ông rất mến phục Tản
Đà. Và Xuân Diệu đã bén duyên với con đường thơ ca như thế.
Từ năm 1935 đến 1937, Xuân Diệu học tú tài ở Hà Nội, Huế rồi kết nghĩa tâm giao
với Huy Cận. Năm 1938, ông viết và cho ra đời tập Thơ Thơ, ghi dấu tên tuổi của mình
trong phong trào Thơ mới. Xuân Diệu trở thành thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn từ
1938 đến 1940. Bên cạnh việc làm thơ, Xuân Diệu còn tham gia viết báo cho tờ Ngày nay

32
và Tiên phong. Không giống như Huy Cận, ngay từ lúc bước vào làng thơ đã có được một
vị trí tốt đẹp, khi gia nhập văn đàn cho đến nhiều năm sau đó Xuân Diệu vẫn không ngớt lời
khen chê. Và cho đến những sáng tác thuộc giai đoạn sau 1945, thơ ca Xuân Diệu vẫn nhận
lấy nhiều bình phẩm trái ngược mặc cho những nỗ lực hết mình của nhà thơ. Năm 1939,
Xuân Diệu tiếp tục cho ra đời tập truyện Phấn thông vàng. Vừa làm thơ vừa đi dạy trường
tư, cuộc sống của Xuân Diệu vẫn rất khốn khó. Chính vì vậy năm 1940 ông thi Tham tá Nha
Thương Chính và vào làm việc ở Mỹ Tho, Tiền Giang được bốn năm rồi trở về Hà Nội sống
cùng Huy Cận. Thời gian này ông vừa tích lũy cho mình vốn kiến thức về con người và văn
hóa Nam Bộ vừa tiếp tục sáng tác thơ văn. Năm 1945, ông tiếp tục cống hiến cho phong
trào Thơ mới nói riêng và văn học dân tộc nói chung những thi phẩm xuất sắc của mình: tập
thơ văn xuôi Trường ca và tập thơ Gửi hương cho gió. Từ Thơ Thơ đến Gửi hương cho gió,
Xuân Diệu đã đi trọn con đường đổi mới thơ ca đang diễn ra lúc bấy giờ. Gửi hương cho gió
như một sự khẳng định chắc chắn tài năng Xuân Diệu về mảng thơ tình. Ông được giới
nghiên cứu văn học và độc giả yêu thơ xem là “Ông hoàng của thơ tình”. Trong thơ ông,
người ta bắt gặp một tâm hồn say đắm cuộc sống, khao khát gắn bó với cuộc đời và con
người. Niềm say mê tình yêu, say mê mùa xuân và nỗi ám ảnh thời gian trong thơ Xuân
Diệu trước 1945 đã thể hiện phần nào con người và phong cách thi sĩ Xuân Diệu. Lòng yêu
đời, lòng ham sống đã được Xuân Diệu bày tỏ trong từng trang thơ của mình. Xuân Diệu ca
ngợi tình yêu đôi lứa, ca ngợi cuộc đời trần thế, ca ngợi vẻ đẹp của mùa Xuân trong nỗi ám
ảnh về sự chảy trôi thời gian, sự tàn phai của tuổi trẻ và sự hữu hạn của đời người.
Năm 1944, Xuân Diệu cùng với Huy Cận đã tham gia phong trào Việt Minh bí mật.
Đến năm 1945, khi cách mạng tháng Tám thành công, xã hội và con người Việt Nam có sự
biến đổi lớn lao. Thơ ca Xuân Diệu cũng có nhiều thay đổi. Nếu như trước 1945, Xuân Diệu
ca ngợi vẻ đẹp của mùa xuân, của tình yêu lứa đôi thì sau 1945, ông ca ngợi quê hương, đất
nước, ca ngợi cách mạng với một niềm hân hoan sung sướng. Xuân Diệu như là một thi sĩ
đã tìm thấy đường đi tới tương lai. Dưới ánh sáng cách mạng, thơ Xuân Diệu không còn là
những trang thơ chứa đầy nỗi cô đơn, lẻ loi, bơ vơ, mà trái lại, thơ ông là những trang hùng
văn về khí thế chiến đấu của quần chúng nhân nhân, là sự hi sinh anh hùng của thế hệ thanh
niên yêu Tổ quốc… Mùa xuân trong thơ Xuân Diệu không còn ẩn chứa nỗi tàn phai, chia
lìa. Và mùa thu trong thơ Xuân Diệu không còn mang nỗi buồn kín đáo. Mùa trong thơ
Xuân Diệu sau 1945 chỉ có một. Đó là mùa vui, mùa xuân dân tộc. Xuân Diệu cho xuất bản
anh hùng ca Ngọn quốc kỳ ca ngợi lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc và cho ra đời tráng khúc

33
Hội nghị non sông mở màn cho phần sáng tác thơ giai đoạn sau 1945. Lúc bấy giờ, Xuân
Diệu trở thành đại biểu Quốc hội khóa 1 và là đại biểu các nhà báo Việt Nam đi thăm hữu
nghị nước Pháp, làm ủy viên ban chấp hành Hội văn nghệ Việt Nam kháng chiến… Sau
1949, Xuân Diệu tiếp tục viết về đất nước, về cải cách ruộng đất, về quần chúng nhân dân
“tay lấm chân bùn” và tiếp tục nói chuyện thơ trong quần chúng. Những chuyến đi ngắn
ngày, dài ngày ấy đã mang về nhiều điều hữu ích cho Xuân Diệu. Gần gũi, sống chung với
đồng bào, với quần chúng cần lao, Xuân Diệu càng thấy con đường ông lựa chọn là đúng
đắn. Và ông càng thấm thía ý nghĩa của cuộc sống vốn đã từng yêu say đắm. Lòng ham
sống ở giai đoạn trước tiếp tục chảy tràn trong thơ ca Xuân Diệu sau cách mạng như một
mạch ngầm thống nhất trong tư tưởng và con người nhà thơ. Lúc này nổi lên vụ Nhân văn –
Giai phẩm, việc Xuân Diệu sống và sáng tác theo lí tưởng cộng sản, theo ngọn cờ của Đảng
trở thành đối tượng bình phẩm, chê bai và thậm chí là xuyên tạc. Đáp lại, Xuân Diệu đã viết
một loại bài ứng chiến nhằm khẳng định lập trường bản thân. Những bài này, Xuân Diệu in
thành tập Những bước đường tư tưởng của tôi (1958).
Từ sau 1958, Xuân Diệu vẫn tiếp tục mày mò sáng tác và nghiên cứu, viết phê bình
về các nhà thơ lớn của dân tộc. Đất nước bị chia cắt, Xuân Diệu bước vào một cuộc chiến
mới. Đề tài của thơ ca Xuân Diệu là cuộc đấu tranh chống Mỹ, thống nhất đất nước. Tập
Mũi Cà Mau ra đời (1962).
Bên cạnh đó, Xuân Diệu luôn tìm tòi, học hỏi cái mới thông qua việc đọc và dịch các
tác phẩm văn học thế giới. Mặc cho cuộc đời chảy trôi. Mặc cho người đời khen chê. Cũng
như Nguyễn Công Trứ từng nói “Được mất dương dương người thái thượng / Khen chê
phơi phới ngọn đông phong”, Xuân Diệu vẫn sống, vẫn đi và vẫn viết. Và nỗi ám ảnh thời
gian trong thơ Xuân Diệu bây giờ là những năm tháng sống trọn vẹn với thơ văn với cuộc
đời. Còn một sức lực, còn chút tài trí Xuân Diệu đều đem ra phơi trải trên những trang thơ,
trang văn của mình. Cho dù viết về đề tài nào, có lẽ Xuân Diệu vẫn xứng với biệt danh mà
độc giả yêu thơ dành tặng cho ông ở mảng thơ viết tình yêu đôi lứa. Trước hay sau cách
mạng tháng Tám, lúc còn trẻ hay khi đã nhiều tuổi, Xuân Diệu vẫn dành một niềm ưu ái
mãnh liệt cho thơ tình. Đến những năm tháng cuối của cuộc đời, Xuân Diệu vẫn cặm cụi,
miệt mài trong lao động nghệ thuật. Những tập thơ sau ngày đất nước thống nhất là minh
chứng cho điều đó.
Bản thân Xuân Diệu vẫn rất ý thức về mối tương quan giữa hai giai đoạn sáng tác
của mình. Ông thường nói trong các bài viết tiểu luận về thơ. Và có lúc, Xuân Diệu đã phát

34
ngôn trực tiếp: “Tôi muốn nói rằng tôi là cũ và tôi là hiện đại, và cả hai phương pháp sáng
tác, hai “hồn thơ”, hai giai đoạn lịch sử của nước tôi hòa lẫn trong tôi … Tôi không chút
nào từ bỏ các sáng tác về trước mình … Tôi tìm thấy một hạnh phúc giàu có hơn, trọn vẹn
hơn, sáng tạo hơn khi ở với cha tôi là Nhân dân và mẹ tôi là Tổ quốc” [45,12].
Người xưa có câu “Nhân vô thập toàn”. Không ai là hoàn hảo cả. Trong văn chương
càng như thế. Người làm nghệ thuật cũng có sở trường, sở đoản. Cùng một đề tài, cùng một
đối tượng nhưng người kia viết rất xuất sắc nhưng người khác lại viết vô cùng bình thường.
Thiết nghĩ, với những cống hiến lớn lao mà Xuân Diệu mang đến cho thơ ca hiện đại của
dân tộc, cũng đủ chứng minh tài năng, làm nên tên tuổi một nhà thơ Xuân Diệu.

1.3.2. Những đóng góp về thơ của Xuân Diệu trong nền thơ ca dân tộc

Ngoài những sáng tác chưa được in thì Xuân Diệu đã đóng góp cho kho tàng thơ ca
dân tộc những tác phẩm chính (thơ) sau:
• Thơ Thơ (1938)
• Gửi hương cho gió (1945)
• Ngọn quốc kỳ
• Hội nghị non sông
• Dưới sao vàng (1949)
• Sáng (1953)
• Mẹ con (1954)
• Ngôi sao (1954)
• Riêng chung (1960)
• Mũi Cà Mau - Cầm Tay (1962)
• Một khối hồng (1964)
• Hai đợt sóng (1967)
• Tôi giàu đôi mắt (1970)
• Hồn tôi đôi cánh (1976)
• Thanh ca (1982)
Ngoài sáng tác thơ, Xuân Diệu còn viết truyện ngắn, bút ký, tiểu luận, khảo luận, phê
bình, dịch thơ,… Năm 1983, Xuân Diệu được bầu làm Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm
Nghệ thuật Cộng hòa dân chủ Đức. Năm 1985, ông được nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng nhất. Ngày 18 tháng 12 năm 1985,
35
Xuân Diệu từ trần, kết thúc con đường thơ ca đầy giá trị của mình. Và như một sự ghi dấu
của thơ ca dân tộc trước những cống hiến của Xuân Diệu, Xuân Diệu được tặng giải thưởng
Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (đợt 1) năm 1996.

Tiểu kết chương 1


Biểu tượng là một phần quan trọng của cuộc sống con người. Biểu tượng thể hiện đời
sống tinh thần, văn hóa, văn minh của dân tộc, nhân loại. Con người khám phá biểu tượng là
đi tìm lại chính mình.
Nhà thơ Hàn Mặc Tử từng nói với Quách Tấn rằng: “Nếu Chúa ban phước cho tôi
lành mạnh, tôi sẽ đốt tập Thơ Điên […] Không nên để cho người đời thấy những bí ẩn của
lòng mình” [80]. Biểu tượng có sức mạnh phô bày tất cả những gì nằm sâu trong những ngõ
ngách của tâm hồn con người. Dù muốn dù không khi nhà thơ làm thơ tức là đang tự nói về
những ám ảnh và những khao khát của lòng mình. Biểu tượng có hai mặt cái biểu đạt và cái
được biểu đạt. Bao giờ cái được biểu đạt cũng tràn ra, vượt ra khỏi cái biểu đạt. Nó luôn vận
động biến đổi nhưng cũng ổn định ở một mức nào đó. Chính điều này làm nên sức sống của
biểu tượng nói chung, biểu tượng nghệ thuật nói riêng. Để tạo nên một biểu tượng nghệ
thuật đúng nghĩa, nó đòi hỏi một sự sáng tạo nghiêm túc.
“Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là bất lương rồi. Sự cẩu thả trong văn chương
thì thật là đê tiện” (Đời thừa – Nam Cao). Nghệ thuật đòi hỏi sự chân thật nhưng không
cứng nhắc, khuôn sáo. Nghệ thuật yêu cầu tái hiện thế giới khách quan theo cảm xúc của
chủ quan người nghệ sĩ sao cho chân thành và sinh động nhất. Tất cả những rung động,
những cung bậc tình cảm của con người nghệ thuật đều phải mô tả được. Không chỉ mô tả
mà còn làm cho nó có sinh khí, sống động như thật. Văn chương nói chung, thơ ca nói
riêng, là người ghi chép lịch sử văn minh của loài người một cách trung thành nhất. Biểu
tượng chính là một người giúp việc không biết nói dối.
Nhà thơ dù có đưa ra nhiều lý giải hay phát biểu nhiều quan điểm, nhưng chỉ có thơ
ca mới là tiếng nói chân thành nhất. Trường hợp Xuân Diệu cũng như thế. Và việc đi vào
khám phá biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu sẽ góp một phần để giúp chúng tôi cái
nhìn tổng thể về những giá trị thơ Xuân Diệu.

36
CHƯƠNG 2: NHỮNG BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU
TRONG THƠ XUÂN DIỆU
Thơ Xuân Diệu có nhiều biểu tượng độc đáo, do giới hạn của luận văn, chúng tôi chỉ
khảo sát và đi sâu vào phân tích giá trị của bốn biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu trong thơ
Xuân Diệu ở cả hai giai đoạn sáng tác. Bốn biểu tượng tiêu biểu này thể hiện tâm hồn thơ
Xuân Diệu: Mùa xuân, Hoa, Trăng, Trái tim.

2.1. Biểu tượng Mùa xuân

2.1.1. Mùa xuân trong thơ

Nếu thơ ca phương Tây xem thời gian là dòng chảy tuyến tính, một đi không trở lại
thì thơ ca phương Đông xem thời gian tuần hoàn theo chu kì. Với người Việt thì vòng tuần
hoàn đó có bốn mùa: xuân – hạ – thu – đông. Mỗi một mùa đều có những đặc trưng khác
nhau, và được con người cảm nhận khác nhau. Trong đó mùa xuân luôn là cảm hứng muôn
đời của thi nhân.
Mùa xuân là mùa của sự sống, của sự sinh sôi và nảy nở. Nó đã đi vào thơ ca của các
thi sĩ từ cổ chí kim với những sắc thái khác nhau.
Mùa xuân từng đi vào thơ ca của Trần Nhân Tông, một vị vua anh minh, một nhà
văn, một nhà văn hóa lớn đời Trần. Mùa xuân xuất hiện khá nhiều trong khoảng 15 tác
phẩm của tác giả này. Xuân Cảnh là một ví dụ tiêu biểu:
Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì,
Hoa đường thiềm ảnh, mộ vân phi.
Khách lai bất vấn nhân gian sự,
Cộng ỷ lan can khán thúy vi.
( Dịch: Chim nhẩn nha kêu, liễu trỗ dày,
Thềm hoa chiều rợp, bóng mây bay.
Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân thế,
Cùng tựa lan can ngắm núi mây.) [68]
Bài thơ của Trần Nhân Tông tả cảnh mùa xuân với hoa dương liễu nở, tiếng chim
kêu chậm rãi trong không gian có áng mây chiều đang nhẹ nhàng lướt qua. Bức tranh mùa
xuân yên tĩnh. Cảnh và người hòa hợp. Mùa xuân như là tác nhân giúp con người hòa hợp
với thiên nhiên. Có thể nói, mùa xuân trong thơ Trần Nhân Tông như là biểu tượng nghệ

37
thuật được tác giả xây dựng nhằm thể hiện triết lí về sự chảy trôi của thời gian. Thì đến
Nguyễn Trãi, mùa xuân cũng không thôi làm nức lòng ông, vị anh hùng dân tộc. Trại xuân
đầu độ là bài thơ tả cảnh bến đò thôn quê chìm trong mưa xuân. Qua đó, tác giả muốn gửi
gắm niềm tâm sự thầm kín của mình về quê hương, đất nước:
Độ đầu xuân thảo lục như yên
Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên
Dã kính hoang lương hành khách thiểu
Cô châu trấn nhật các sa miên
(Dịch:
Đầu bến cỏ xuân xanh lục như khói
Lại thêm trời mưa xuân nước vỗ ngang trời
Đường ngoài nội vắng teo ít người qua lại
Con thuyền đơn độc suốt ngày gối đầu lên bãi cát mà ngủ) [68]
Nhà thơ ngắm nhìn mưa xuân nơi đồng nội vắng lặng với một phong thái ung dung,
nhàn tản nhưng chứa đầy “tấc lòng ưu ái cũ” của chính tác giả.
Đến thơ hiện đại, mùa xuân cũng giữ một vị trí hết sức quan trọng trong tác phẩm
của các nhà thơ mới. Xuân về, Mùa xuân xanh, Thơ xuân, ... của Nguyễn Bính; Xuân,
Xuân ý, ... của Huy Cận, ... Hàn Mặc Tử cũng không thể bỏ qua một Mùa xuân chín thơ
mộng:
Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí bóng xuân sang
(Mùa xuân chín)
Còn Nguyễn Bính lại có một mùa xuân với những cảm xúc riêng biệt:
Đã thấy xuân về với gió đông
Với trên màu áo gái chưa chồng
Biên hiên hàng xóm, cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn trời, đôi mắt trong
(Xuân về)

38
2.1.2. Mùa xuân trong thơ Xuân Diệu

Nói đến mùa xuân trong thơ thì không thể không nhắc đến Xuân Diệu. Phải nói rằng
ít ai say mê, dành tình cảm nồng nhiệt cho mùa xuân như Xuân Diệu. Xuân Diệu đã sống
vội vàng, cuống quýt, say đắm với mùa xuân. Và vì vậy, mùa xuân trong thơ Xuân Diệu
không đơn thuần chỉ là một mùa trong năm để thi sĩ bộc lộ tâm trạng mà đã được nhà thơ
dụng công xây dựng thành biểu tượng nghệ thuật để chuyên chở những quan niệm nhân sinh
của mình.
Đi vào khảo sát các tập thơ của Xuân Diệu, người viết phát hiện ra biểu tượng mùa
xuân được xuất hiện với tần số cao cùng nhiều cách gọi khác nhau như: mùa xuân, xuân, gió
xuân, tết, tháng giêng, nguyên đán, giao thừa,... Nhưng trong giới hạn của luận văn, chúng
tôi chỉ xin đi sâu vào phân tích đặc điểm biểu tượng mùa xuân/ xuân với sự xuất hiện
khoảng 174 lần.
Trong Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, Mùa xuân có các nghĩa như sau:
Thứ nhất: Mùa xuân là mùa chuyển tiếp từ đông sang hạ, thời tiết ấm dần lên, thường
được coi là mở đầu của năm.
Thứ hai: Mùa xuân là năm, dùng để tính thời gian đã trôi qua hay tuổi con người.
Thứ ba: Mùa xuân là thuộc về tuổi trẻ, coi là tươi đẹp, tràn đầy sức sống.
Thứ tư: Mùa xuân là thuộc về tình yêu trai gái, coi là đẹp đẽ.
2.1.2.1. Mùa xuân – Mùa tình
Trong thơ Xuân Diệu, mùa xuân trước hết là mùa tình. Xuân Diệu có một quan niệm
đặc biệt, mùa xuân đối với ông trước hết là mùa tình. Mùa xuân vốn là mùa của sự sống,
mùa của sự sinh sôi nảy nở. Trước hình ảnh thiên nhiên vào mùa xuân xinh đẹp, có ai mà
cưỡng lại được:
Giữa vườn ánh ỏi tiếng chim vui
Thiếu nữ nhìn sương chói mặt trời
Sao buổi đầu xuân êm ái thế!
Cánh hồng kết những nụ cười tươi
(Nụ cười xuân)
Và một thiên đường trần thế đang bày sẵn ra trước mắt thi nhân:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
39
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
(Vội vàng)
Mùa xuân không còn là khoảng thời gian chuyển giao giữa đông và hạ nữa mà mùa xuân
chính là một bữa tiệc trên trần gian, là một thiên đường trên mặt đất, là một khu vườn tình ái mời
gọi mọi người. Mùa xuân với tác giả như một người tình, và vườn xuân trở thành vườn tình ái với
những gì ngọt ngào, tươi thắm nhất: tuần tháng mật, hoa đồng nội, lá cành tơ, khúc yến anh, cặp
môi gần,... Chỉ có một tình yêu chan chứa với cuộc sống với thiên nhiên thì Xuân Diệu mới có thể
viết nên những dòng thơ cháy bỏng lửa tình như vậy. Có lẽ, trước Xuân Diệu, trong thơ ca Việt
Nam, chẳng có ai mang đến cách so sánh đầy gợi cảm như “Tháng giêng ngon như một cặp môi
gần”. Nói mùa xuân là một cặp môi gần thì quả là chỉ có Xuân Diệu, bởi với ông mùa xuân là mùa
tình ái.
Đối với Xuân Diệu, mùa xuân của đất trời của vạn vật không nằm bó buộc trong mùa xuân
của vòng tuần hoàn mà:
Xuân ở giữa mùa đông khi nắng hé,
Giữa mùa hè khi trời biếc sau mưa.
Giữa mùa thu khi gió sáng bay vừa,
Lùa thanh sắc ngẫu nhiên trong áo rộng.
(Xuân không mùa)
Mùa đông hay mùa hạ hay mùa thu, tất cả sẽ trở thành mùa xuân trong lòng nhà thơ bởi vì:
Xuân của đất trời nay mới đến,
Trong tôi: xuân đã đến lâu rồi.
Từ lúc yêu nhau, hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi.
(Nguyên đán)
Mùa tình trong thơ Xuân Diệu có thể là tình yêu với thiên nhiên, cảnh sắc. Lúc nào
tình yêu ấy cũng đắm say, lúc nào cũng rạo rực và hiện hữu, ngay cả lúc Đi dạo:
Gió chải trong đầu không biết lược,
Mây vờn qua mắt chứa xa khơi
Của cành trĩu trĩu, lá âm âm

40
Tôi hiểu chờ riêng với muốn thầm.
Tiếng nhỏ vừa lan trong kẻ biếc,
Ấy là vạn vật nức xuân tâm…
(Đi dạo)
Chỉ cần gió chải, mây vờn, cành trĩu, tiếng nhỏ, … là đủ để tác giả “nức xuân tâm”.
Mùa xuân còn là khoảng thời gian khi mặt trời khuất bóng, màn đêm buông xuống,
một không gian yên tĩnh. Đó là lúc tác giả lắng lòng mình sau những bộn bề của cuộc sống
để mà nghe đất trời giao hòa:
Bóng đêm biếc thở đều hơi gió mát,
Chung quanh ta im lặng đã buông rèm.
Gió xa quá, trời xuân êm bát ngát;
(Bóng đêm biếc)
Tình yêu cuộc đời, khát khao giao cảm với cuộc sống khiến cho Xuân Diệu luôn
nhạy cảm trước mọi sự vật, hiện tượng đang xảy ra. Yêu đời, yêu cuộc sống đến mức, chỉ
một bông hoa nở, chỉ một tiếng chim ca, lộc biếc đâm chồi,…
Mùa xuân về trong tiếng chim ca
Trên nước xanh sông, trong liễu rèm
(Thơ tình mùa xuân)
Từ trong ruộng đất, đợi chút mùa xuân,
Lại đâm chồi tung tóe một màu xanh.
(Con sáo sang sông)
hay chỉ là ít nắng, ít sương,…
Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm,
Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu.
Thế là Xuân. Tôi không hỏi chi nhiều,
Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng.
(Xuân không mùa)
nhà thơ cũng cảm thấy xuân đã về trong lòng mình.
Mùa xuân trong thơ Xuân Diệu là mùa tình. Đó là mùa của tình yêu lứa đôi. Mùa
xuân vốn là mùa đầu tiên và là khoảng thời gian đầu tiên của một năm, nên mùa xuân đã
được nhà thơ sáng tạo nét nghĩa mới, đó là những rung động cảm xúc của mối tình đầu tiên:
Hoa thứ nhất có một màu trinh bạch

41
Xuân đầu mùa trong sạch vẻ ban sơ
(Tình thứ nhất)
Mùa xuân đến cho hoa lá đâm chồi nảy lộc, cho con người xích lại gần nhau, cho đôi
lứa yêu đương gắn kết tơ hồng:
Em là hoa thắm lá xanh
Anh như đất ủ muốn thành mùa xuân
(Quả trứng và lòng đỏ)
Tình yêu muôn thuở luôn sôi nổi, nồng nhiệt. Người yêu muôn thuở luôn cuốn hút
lẫn nhau. Mùa xuân muôn thuở là mùa của tình yêu. Mùa xuân đến, không gian đầy tình ý,
vậy thì không thể thiếu vắng người thương. Cho nên:
Mùa xuân đã về, hương đẫm ướt
Em đi chưa về, anh ngẩn ngơ…
… Tất cả mùa xuân đẹp lắm rồi
Về cho anh gặp với em
(Xuân bên Hồ Tây)
Tất cả mùa xuân đẹp lắm rồi nhưng thật sự mùa xuân có đẹp, có ngọt ngào được đâu
khi mà người yêu chưa trở về. Ngưởi yêu bỗng chốc trở thành mùa xuân, tác giả chờ đón
người yêu như cây chờ mùa xuân để ra lộc biếc:
Anh như cây cối chờ xuân biếc
Hôm sớm trong mong ngọn gió lành
(Thơ bát cú)
Xuân Diệu say đắm mùa xuân và say đắm tình yêu. Với tác giả, yêu và phải yêu, yêu
một cách cuồng nhiệt, yêu mãnh liệt, yêu bằng tất cả cảm xúc, giác quan… Mùa xuân là tình
nhân. Chính tình nhân đã mang mùa xuân đến:
Là hoa là nụ hay là cành,
Là cả mùa xuân em tặng anh
(Vui)

Phải nói yêu trăm bận đến nghìn lần,
Phải mặn nồng cho mãi mãi đem xuân,
Đem chim bướm thả trong vườn tình ái.
(Phải nói)

42
Với Xuân Diệu thì “Tình không tuổi, và Xuân không ngày tháng” (Xuân không
mùa).
2.1.2.2. Mùa xuân – Tuổi trẻ
Tươi trẻ, căng tràn sức sống, luôn rạo rực, cháy bỏng là những nét nổi bật trong hồn
thơ Xuân Diệu. Chính vì vậy, mùa xuân trong thơ ông còn là biểu tượng của tuổi trẻ, tuổi
thanh xuân.
Thanh niên ơi, ngươi đang ở cùng ta

Ở trong máu thắm vì xuân trộn ánh
Ôi Thanh Niên! ngươi mang hết xuân thì,
Hình ngực nở, nụ cười tươi, màu tóc láng.
(Thanh niên)
Xuân Diệu quan niệm thời gian là một đi không trở lại. Con người rồi cũng trải qua
sinh – lão – bệnh – tử, không một ai có thể tránh khỏi. Dù có yêu quí mùa xuân đến đâu thì
mùa xuân cũng qua đi và mang theo thời tuổi trẻ của con người để lại sự già nua và nỗi
buồn tẻ. Không có tuổi trẻ thì cũng chẳng có mùa xuân:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
(Vội vàng)
Hay là
Cảm ơn tuổi trẻ bay về lại
Cho tôi lại thấy mặt ngày xuân
(Hiểu)
Mùa xuân còn được dùng để chỉ năm, tuổi trong thơ Xuân Diệu:
Xuân mười tám, tuổi trẻ nguyện hi sinh,
Cho trẻ muôn đời dòng nước biếc.
Tuổi xuân em mới quá trăng tròn.
(Nguyễn Thị Non)

Tuổi xuân như đóa trăng rằm
(Chị Dung)
Hây hây mười chín xuân hồng

43
Ước ao hạnh phúc mơ mòng lứa đôi
(Đánh lên đầu giặc Mĩ)
Mùa xuân được Xuân Diệu xây dựng thành biểu tượng của sức trẻ, sự bất tử của tuổi
trẻ yêu nước trong cuộc kháng chiến chống giặc bảo vệ Tổ quốc:
Những cánh chim xuân vỗ khắp trời
Miền Nam một lứa trẻ băng khơi!
Anh theo ông trước, như ba má,
Chỉ một con đường cứu nước thôi.
(Anh lính trẻ mới vào quân giải phóng)
Đất nước có chiến tranh, nhiều thế hệ thanh niên phải lên đường cứu nước. Họ đã hi
sinh tuổi trẻ, hi sinh tình yêu, thậm chí là hi sinh cuộc sống của mình để mang về mùa xuân
tự do, mùa xuân thống nhất cho nhân dân, cho dân tộc. Đối với họ, lý tưởng của cuộc sống
này chỉ có “một con đường cứu nước thôi”. Trước những hi sinh không thể nào so sánh
được của những anh hùng ấy, tác giả chỉ có thể nghiêng mình trân trọng. Ông gọi họ là
những cánh chim mùa xuân trên bầu trời bao la mang tin tin thắng trận về góp nên mùa
xuân đất nước.
Hỡi người thợ điện thắm thiết đời xuân,
Anh hô vang Hồ chủ tịch ba lần,
Anh giật xé miếng vải đen trước mắt.
Sống là sáng, anh chết còn sáng quắc!
(Nguyễn Văn Trôi)
“Đời xuân” là mùa xuân bất tử của tuổi trẻ anh hùng, của tuổi xuân bất tử. Và những chú bé
con mắt tròn mắt dẹt khi nhìn thấy cỗ pháo của bộ đội, mai này sẽ là những con người anh
hùng sẵn sàng đứng lên chống giặc cứu nước:
Những chú em chạy theo bộ đội
Mắt sáng, sờ cỗ pháo hoan hô
Lứa xuân ấy là quân hậu bị
Nhất định chôn giặc Mĩ xuống mồ
(Em nhỏ Hương Khê)
2.1.2.3. Mùa xuân – Hòa bình, độc lập và chủ nghĩa xã hội
Là người luôn muốn gắn bó với cuộc đời, luôn thiết tha yêu cuộc sống, thế nhưng
trước cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu luôn cảm thấy lạc lõng, sầu muộn. Tác giả cảm

44
thấy mình giống như “con nai bị chiều đánh lưới,/ Không biết đi đâu, đứng sầu bóng tối.”
Mùa xuân trong thơ Xuân Diệu trước cách mạng rất đẹp, rất tươi vui thậm chí là rộn rã tưng
bừng, nhưng đâu đó ta vẫn bắt gặp nỗi buồn của một thế hệ chưa tìm được lối đi. Từ khi có
ánh sáng của Đảng, của cách mạng soi rọi vào trang thơ, dẫn đường cho tác giả thoát ra khỏi
bóng tối thời đại, thì mùa xuân trong thơ của ông hòa vào mùa xuân của đất nước, mùa xuân
dân tộc. Từ đó biểu tượng mùa xuân được thêm nét nghĩa mới, làm cho chính nó trở nên
tròn vẹn và đầy đủ giá trị.
Dựa trên nét nghĩa gốc của mùa xuân là sự sinh sôi nảy nở của vạn vật, mang đến
mầm sống cho cuộc đời, Xuân Diệu đã xây dựng thêm nét nghĩa mới cho biểu tượng mùa
xuân của thơ mình. Đó được xem là sự sáng tạo độc đáo của Xuân Diệu khi dùng mùa xuân
như là biểu tượng của hòa bình, của độc lập và chủ nghĩa xã hội.
Trong tráng ca Ngọn quốc kỳ, tác giả viết:
Phố Kinh đô nhiều bữa ngó thê lương
Lạc hồn nước, cảnh như người: chán ngán
Bỗng chót cây xanh, một vầng chói sáng
Như đem xuân lại, như kéo mai về
Cách mạng tháng Tám thành công, ánh sáng của Đảng như mùa xuân rực rỡ, chói lòa
xóa tan sự thê lương của kinh đô ngàn năm văn hiến, mang lại niềm vui cho những con
người vô tội đã bao phen sống tủi nhục, nô lệ vì mất nước. Những con người đã từng chán
ngán, đau khổ vì “lạc hồn nước” nay được tự do, độc lập. Ngọn quốc kỳ như ngọn gió của
mùa xuân thổi bay bụi nô lệ, thổi tan những sầu thương. Và mùa thu tháng Tám lúc ấy đã
trở thành mùa xuân, mùa vui, mùa của độc lập, tự do:
Thu Việt Nam có nghĩa một mùa xuân
(Nhớ mùa thu tháng Tám)

Bỗng non sông lên một tiếng reo hò
Bươm bướm trắng nở mùa xuân đất nước
(Hội nghị non sông)
“Mùa xuân đất nước” là mùa vui hòa bình, vui độc lập. Tương lai tươi sáng mà Đảng
mang đến chính là mùa xuân đẹp nhất. Để ca ngợi điều ấy, chỉ một vài dòng thơ là không đủ,
Xuân Diệu đã viết cả một bài thơ để bày tỏ niềm vui, niềm phấn khởi của một công dân mừng
mùa xuân mới của đất nước, của dân tộc:

45
Xuân tháng Tám đặc nghìn xuân bất tận
Xuân trời đất…
Xuân muôn năm…
Xuân đất trời …
(Xuân Việt Nam)
Một đất nước ngập tràn mùa xuân. Đâu đâu cũng thấy mùa xuân, đâu đâu cũng thấy tiếng
reo hò, tiếng hát mừng vui. Xuân như nước triều lên, ngập tràn, dày đặc, bất tận… Đọc bài thơ
này, chúng ta có thể hiểu được cảm xúc của nhà thơ đã hòa vào cảm xúc của nhân dân, đã sung
sướng vô cùng khi nhân dân được tự do, khi đất nước được độc lập. Từ đây, đất nước sẽ sang một
kỉ nguyên mới, và mang về những mùa xuân mới.
Dân tộc Việt Nam trải qua hơn ngàn năm bị phương Bắc đô hộ, hơn tám mươi năm khổ
cực dưới sự cai trị của thực dân pháp. Nếm trải biết bao cay đắng, hi sinh biết bao mồ hôi, nước
mắt và xương máu. Giờ đây dân tộc Việt Nam mới có được độc lập, tự do, mới có được quyền
sống, quyền hạnh phúc. Hiểu được điều này thì sẽ thêm quý trọng giây phút nghe Bác Hồ đọc bản
Tuyên ngôn Độc lập và thêm quý trọng mùa xuân mà Đảng mang lại:
Một trăm năm mới đem được xuân về
Mùa xuân này quý giá biết bao nhiêu cho nên “dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” [37,41]. Xuân
Diệu hiểu rõ điều này:
Giữ xuân nay, muôn chiến sĩ say mê
Lấy máu tủy đổ ra đời bát ngát
Ngừng tay lại, thấy sắc xuân còn nhạt
Rót máu thêm, cho đến lúc toàn hồng!
(Xuân Việt Nam)
Mùa xuân trong thơ Xuân Diệu sau cách mạng tháng Tám không còn giới hạn trong
cảm xúc của cá nhân mà đã mở rộng, hòa vào thời đại. Đó là mùa xuân của nhân loại, màu
xuân của chủ nghĩa xã hội. Cuộc sống mới mở ra, bao cuộc đời thay đổi, đất nước ngày một
tươi đẹp hơn, và mùa xuân có ở khắp nơi:
Hôm nay nắng đẹp trời ưa
Sang xuân hoa cải gió đưa rập rờn
(Một mảnh đất)
Gió xuân – lá lúa như reo múa

46
Như ngón tay dài của đất thanh
… Thấy xuân thêm sức muồn bừng lên
… Gió xuân thổi tới tận miền Nam
(Lá lúa xuân)
Đất nước hết chiến tranh, giang sơn nối liền một dãy, nhân dân được ấm no, hạnh
phúc và đang hăng hái xây dựng đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội. Niềm vui ấy
cũng được tác giả ghi nhận:
Chào mùa xuân năm nay
Tôi mừng trời, mừng đất
Lũng Cú tới Cà Mau
Một vườn hoa Thống Nhất!
Như những người yêu dấu
Xa lâu được trùng phùng
Hoa cũng hòa hơi thở
Thành bát ngát hương xuân…
(Mừng hoa)
2.1.2.4. Mùa xuân – Sự ám ảnh về thời gian
Sinh thời, Xuân Diệu đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng bè bạn và độc giả yêu thơ.
Nhưng ấn tượng nhất với mọi người là lòng yêu đời và ham sống của tác giả. Sớm ảnh
hưởng văn hóa phương Tây, Xuân Diệu nhìn đời, nhìn cuộc sống như cái gì đó dễ trôi chảy,
mình không nắm bắt ngay thì sẽ tan biến. Thấy từng biểu hiện nhỏ bé nào của cuộc sống
ông cũng góp nhặt, chắt chiu, ấp ủ trong những trang thơ của mình. Điều đó được thể hiện
rõ hơn khi ông xây dựng mùa xuân như là biểu tượng của sự chảy trôi thời gian.
Trong thực tế, mùa xuân không tồn tại mãi mãi dù cho mùa xuân có đi theo vòng
tuần hoàn của tạo hóa xuân – hạ – thu – đông. Thời gian theo mùa xuân đi biệt. Không phải
đến Xuân Diệu mới cảm nhận được điều đó. Chẳng phải Trần Nhân Tông cảm nhận mùa
xuân đến để rồi rút ra triết lí về sự tồn tại ngắn ngủi của đời người đó sao. Thời gian bất
tuần hoàn, thời gian một đi không trở lại đã từng được người xưa nhận thức rõ. Thế nhưng
thời gian chỉ thật sự trở thành nỗi ám ảnh với riêng Xuân Diệu. Xuân Diệu say đắm cảnh
trời, sống nhiệt thành với mùa xuân bao nhiêu thì càng vội vàng, cuống quýt, muốn níu kéo
thời gian, tiếc nuối mùa xuân bấy nhiêu.
Vừa mới cảm thấy sung sướng, say mê bên bữa tiệc trần gian, tác giả bỗng vội vàng:

47
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ để hoài xuân
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
(Vội vàng)
Cái tâm trạng “một nửa” ấy quả thật là khó chịu khi mà ta đang đắm say bỗng vội
vàng khi sắp rời xa tất cả. Mọi điều “nghĩa là” nghe chừng đơn giản như một giải thích
quen thuộc nhưng chứa đựng cả một niềm cay đắng. Đang gần bỗng xa, đang vui bỗng sầu
héo, đang hạnh phúc bỗng đau khổ, đang thấy mình trẻ bỗng nhận ra mình sắp già,… chính
là cảm xúc của Xuân Diệu lúc bấy giờ. Cho nên dù là lúc bận rộn với cuộc sống hay giây
phút nghỉ ngơi tác giả đều cảm nhận được sự chảy trôi của thời gian:
Thong thả chiều vàng, thong thả lại
Rồi đi… đêm xám tới dần dần…
Cứ thế mà bay cho đến hết
Những ngày những tháng, những mùa xuân
(Giờ tàn)
Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô hạn của thời gian, đời người trở nên quá
ngắn ngủi. Nghĩ về tính hữu hạn của đời người, Xuân Diệu muốn cất giữ, lưu lại chút ít cho
mình:
Nắng cũ phai rồi, lòng tôi vẫn cất
Một chiều ong vàng đẹp sắc năm mây.
Xuân vội bước, nhưng mà hương chẳng mất:
Tôi với tay giam giữ ở trong nầy
(Lời thơ vào tập Gửi hương)
Nhà thơ cho rằng:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
(Vội vàng)
Xuân Diệu dùng tuổi trẻ để đo đếm thời gian và nhà thơ bác bỏ sự tuần hoàn của mùa
xuân khi mà tuổi trẻ là một đi không trở lại. Tất cả những gì trên cuộc đời này chỉ còn lại
nỗi tàn phai mà thôi. Đối với Xuân Diệu, một giây phút trôi qua là một khoảnh khắc tiễn

48
biệt, là sự ra đi mãi mãi. Chia tay với thời gian, chia tay với tuổi trẻ, chia tay với đời người.
Thế là mùa xuân vẫn ngay đó mà vẫn đang ẩn chứa một cuộc chia tay vĩnh viễn.
Xuân hỡi! Trời ơi, xuân sắc ơi!
Say mê ta vẫn níu chân người.
Sao mà vội vã đi nhanh quá!
- Họa có ta còn quyết trẻ trai.
(Trò chuyện với Thơ Thơ)
Thời gian trong thơ Xuân Diệu không phải là bốn mùa xuân – hạ – thu – đông mà chỉ
còn lại một mùa xuân quí giá. Nhưng đến lúc này thì không còn mùa xuân nữa, tạo vật thiên
nhiên chỉ còn lại mùa tàn phai.
Sợ chia lìa, sợ tàn phai, tác giả luôn bị ám ảnh bởi những ngày tháng già nua, héo
hắt:
Sắc tàn, hương nhạt, mùa xuân rụng!
(Xuân rụng)
Chỉ còn lại của mùa xuân quá vãng
Một chút hương vương vấn bụi hồng tàn,.
(Hè)
Vĩnh viễn già nua, xuân ngắn ngủi,
Mái xanh hương đượm chốc sương đầy.
(Kẻ đi đày)
“Xuân rụng, xuân quá vãng, xuân ngắn ngủi” đều là những biểu hiện của thời gian
trôi. Mới lúc nào tác giả từng khẳng định rằng “xuân không mùa” thế mà giờ đây nhìn đâu
đâu cũng chỉ thấy toàn những rụng rơi, tàn tạ, héo úa của mùa xuân. Đó là hai trạng thái
tưởng chừng như đối nghịch nhau trong tâm hồn thơ Xuân Diệu. Nhưng thực ra chúng là hai
mặt của một lòng yêu đời thống nhất. Yêu mùa xuân, say mê mùa xuân nên bao giờ cũng sợ
mùa xuân nhanh phai màu, thời gian chóng tàn.
Có thể nói trong thơ Xuân Diệu, mùa xuân không chỉ là biểu tượng của tình yêu, của
tuổi trẻ mà còn ẩn chứa sự chia li, tàn phai. Những trạng thái đối lập luôn tồn tại trong một
tâm hồn quá nhạy cảm trước cuộc đời, với từng bước đi của thời gian và luôn khao khát tận
hưởng cuộc sống. Đã có lúc nhà thơ muốn níu giữ, muốn “tắt nắng, buộc gió” với mong
muốn giữ lại mùa xuân, giữ lại thời gian. Nhưng không thể “tắt nắng” hay “buộc gió” được.

49
Chỉ còn một cách cuối cùng nhưng hiệu quả nhất, đó là chạy đua với thời gian, sống nhiệt
thành, sống hết mình để tranh thủ từng giờ, từng phút mà tận hưởng cuộc sống.
Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm,
… Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
(Vội vàng)
Người ta chỉ ham sống khi họ thấy cuộc sống thật có ý nghĩa. Xuân Diệu càng ham
sống bao nhiêu thì càng nuối tiếc thời gian bấy nhiêu. Và ngược lại, càng nuối tiếc thời gian
bao nhiêu thì thi sĩ càng yêu, càng đắm say với cuộc đời. Có thể nói chưa có một nhà thơ
nào lại luyến tiếc thời gian đến xót xa như nhà thơ Xuân Diệu. Vì vậy mà trong tình yêu và
trước cuộc đời, thông qua biểu tượng mùa xuân, sự hiện hữu của thời gian luôn khiến nhà
thơ chưa bao giờ bình thản. Xuân Diệu luôn bị sự chảy trôi của thời gian, sự ngắn ngủi của
kiếp người ám ảnh mình. Không phải chỉ ngồi than thở, sầu thương cho kiếp người nhỏ bé,
ngăn ngủi, mong manh, mà Xuân Diệu muốn mình thật vội vã để tận hưởng cuộc sống. Tác
giả Lý Hoài Thu đã có nhận xét xác đáng về Xuân Diệu, đại ý: xuyên xuốt hai tập Thơ Thơ
và Gửi hương cho gió, thời gian là người đếm nhịp, là chất xúc tác kì dịu tạo nên độ nồng
nàn đắm đuối riêng mà chỉ người thật sự lưu luyến, nuối tiếc từng giọt thời gian như Xuân
Diệu mới có được. Với một quan niệm nhân sinh tích cực như thế, Xuân Diệu luôn sôi nổi,
mãnh liệt và hết mình vì cuộc sống. Không chỉ tận hưởng mà còn tận hiến bằng một sự
nghiệp văn học đồ sộ của mình.

2.2. Biểu tượng Hoa

2.2.1. Hoa trong thơ

Trong Từ điển Biểu tượng văn hóa thế giới, các tác giả có nhận xét về biểu tượng
hoa như sau:
“Nếu như mỗi loài hoa có một biểu trưng riêng ít ra là thứ phát, thì bông hoa nói
chung, cũng không kém là biểu tượng của bản thể thụ động.
Thánh Jean de la Croix coi hoa là hình ảnh của những đức tính của tâm hồn và bó
hoa - tập hợp của những bông hoa - là hình ảnh của sự toàn hảo tinh thần.
Với Novalis hoa là biểu tượng của tình yêu và sự hài hòa đặc trưng cho bản chất
nguyên khởi. Bản chất này đồng nhất với biểu tượng của thời thơ ấu và, theo một cách nào
đó, với trạng thái thiên đường trên trái đất.

50
Hoa thực tế được coi là hình mẫu phát triển của sự sống của nghệ thuật tự nhiên, phi
nhân tạo tuy nhiên tuyệt vời; nó cũng biểu trưng cho chu kì thực vật, hình ảnh giản yếu của
chu trình sự sống với đặc tính ngắn ngủi của nó.
Ở đây, bông hoa hình như là biểu tượng của tính không bền vững, không phải là tính
hay đổi ý vốn dĩ là thuộc tính của phụ nữ mà là một sự không bền vững thuộc về bản chất
của con người được tạo ra để tiến hóa liên tục, và cũng là biểu tượng một cách hết sức đặc
biệt cho đặc tính thoáng qua của sắc đẹp.
Bông hoa còn hiện ra như một khuôn mặt – hình mẫu gốc của tâm hồn, một trung
tâm tinh thần. Ý nghĩa của nó được xác định tùy theo màu sắc, nó làm lộ rõ sự định hướng
của những xu hướng tâm lý: màu vàng mang biểu tượng mặt trời, màu đỏ biểu tượng máu,
màu xanh biểu tượng điều không thực tế, mộng mơ. Nhưng các sắc thái tâm lý biến đổi đa
dạng vô cùng.” [26,427-428]
Hoa là biểu tượng thuộc về thiên nhiên. Cũng giống như mùa xuân, hoa là đối tượng
để nhiều nhà văn, nhà thơ gửi gắm tâm tư, tình cảm, chiêm nghiệm về cuộc sống và con
người. Trong ca dao dân ca Việt Nam, hoa được sử dụng như là một nhóm biểu tượng để
chuyển tải những ước mơ và tâm hồn của nhân dân lao động thời bấy giờ. Đặc biệt, các tác
giả dân gian thường dùng hoa như là biểu tượng cho người phụ nữ với những phẩm chất,
tính cách trong tình yêu và cuộc sống:
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay
(Ca dao)
Thơ ca trung đại cũng có khá nhiều bài thơ viết về hoa, khá nhiều tác giả sử dụng hoa
như biểu tượng để chuyển tải ý đồ nghệ thuật của chính mình. Bài Cáo tật thị chúng của
Thiền Sư Mãn Giác là một viên ngọc quý của thơ ca Phật giáo vừa là áng văn tuyệt mĩ của
thơ ca trung đại:
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tòng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,

51
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
(Dịch nghĩa
Xuân đi, trăm hoa rụng
Xuân đến, trăm hoa cười.
Việc đời ruổi qua trước mắt,
Tuổi già hiện đến từ trên mái đầu.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, một cành mai trước sân.) [36,140]
Thông qua biểu tượng hoa rụng, hoa nở, Thiền sư Mãn Giác nói đến quy luật của
cuộc đời sinh diệt với một tinh thần lạc quan phi thường. Cành hoa mai nở rực rỡ giữa
không gian tàn tạ đã thể hiện sự hài hòa giữa đạo và đời.
Hoa cũng luôn được Nguyễn Trãi, vị anh hùng dân tộc, nhà quân sự, nhà văn, nhà
thơ, nhà văn hóa lớn dành một vị trí xứng đáng trong sự nghiệp thơ ca của mình. Đọc thơ
Nguyễn Trãi, ta dễ dàng bắt gặp hoa cúc, mai, lan, hoa xoan …
Khắc khoải cuốc kêu xuân đã muộn
Hoa xoan mưa nhẹ nở đầy sân
(Cuối xuân tức sự)
Hoa trong thơ Nguyễn Trãi vừa là đối tượng để nhà thơ chiêm ngưỡng, trân trọng
vừa là bạn tri âm tri kỉ của tác giả.
Đến thơ ca hiện đại, hoa cũng trở thành biểu tượng nghệ thuật trong sáng tác của
nhiều tác giả như Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, … Trong thơ Lưu Quang Vũ, biểu
tượng hoa cúc vàng có khi là nỗi nhớ:
Hoa cúc vàng
Nỗi nhớ của hoàng hôn
(Lá thu)
có khi là biểu tượng của sự bình yên:
Nơi ấy em về mưa sẽ tạnh
Hoa cúc vàng nở trên cánh tay
(Không đề)
Nhưng cũng có khi là biểu tượng cho nỗi mong chờ hạnh phúc:
Biết ơn em, em từ miền gió cát
Về với anh bông cúc nhỏ hoa vàng

52
(… Và anh tồn tại)
Và thi sĩ Lê Hân xem hoa trong thơ ca như là mối liên hệ tất yếu giữa nghệ thuật và cuộc
đời:
Hoa từ đâu
Hoa ở đâu
Từ yêu hoa nở
Từ sầu hoa phai
… Yêu hoa
không thể ngắm chơi
Cùng thơ, thở giữa đất trời với hoa
(Vườn của tôi)
Hoa đã vì con người mà nở. Hoa là linh hồn của thiên nhiên, là tâm điểm của vạn vật.
Hoa tô điểm cho nhân gian bằng màu sắc lẫn hương thơm. Người ta yêu hoa, quý hoa chính
là yêu cái đẹp, quý cái chân thiện mỹ. Người nghệ sĩ yêu hoa, trọng hoa để biết yêu và quý
trọng cuộc sống này. Có lẽ vì thế mà một người say đắm cuộc sống, say đắm cái đẹp như
Xuân Diệu đã chọn hoa như là biểu tượng nghệ thuật trong sự nghiệp thơ ca của mình.

2.2.2. Hoa trong thơ Xuân Diệu

Đi vào khảo sát các tập thơ của Xuân Diệu, chúng tôi nhận thấy hoa là một biểu
tượng xuất hiện với tần số rất cao. Khoảng 400 lần dưới nhiều góc độ: hoa trong mối quan
hệ với các bộ phận của cây, hoa trong mối quan hệ với chim, bướm; hoa trong quá trình sinh
trưởng và phát triển của chính nó, hoa trong các loài hoa,… Dù trong mối quan hệ nào, biểu
tượng hoa cũng bộc lộ sự phong phú về ý nghĩa của nó. Ở đây, chúng tôi chỉ xin đi sâu vào
tìm hiểu đặc điểm ý nghĩa của biểu tượng hoa nói chung trong thơ Xuân Diệu.

2.2.2.1. Hoa – Thiên nhiên tươi đẹp


Xuân Diệu là một người khao khát được sống, ham sống, sống vội vàng cuống quýt,
sống mãnh liệt. Là một con người đa tình với cuộc đời, say mê tuổi trẻ, đắm duối với tình
yêu và đặc biệt, Xuân Diệu luôn yêu chuộng cái đẹp. Thơ ông là một thế giới tự nhiên đầy
hoa cỏ, tươi sáng, đầy màu sắc:
Tóc liễu buông xanh quá mĩ miều,
Bên màu hoa mới thắm như kêu;

53
Nỗi gì âu yếm qua không khí,
Như thoảng đưa mùi hương mến yêu…
(Nụ cười xuân)
Hay là
Gió thơm phơi phất bay vô ý
Đem đụng cành mai sát nhánh đào.
(Nụ cười xuân)
Một sự vô ý mà hữu tình. Nhà thơ hòa mình với thiên nhiên là điều dễ hiểu. Còn
thiên nhiên thì sao? Trước một thi sĩ đa tình, thiên nhiên trở nên tình tứ hơn. Làn “gió thơm”
vô tình gắn kết mai với đào như chính thiên nhiên vô tình se mối lương duyên giữa tác giả
và cuộc đời.
Tiếp thu văn hóa phương Tây từ rất sớm, Xuân Diệu đã chịu ảnh hưởng nhiều từ thơ
ca phương Tây mà chủ yếu là thơ ca Pháp. Tuy vậy, trong quá trình sáng tác, Xuân Diệu đã
tiếp thu có chọn lọc và luôn kết hợp với thơ ca truyền thống của dân tộc, nên đọc những
dòng thơ của Xuân Diệu ta vừa ngạc nhiên, ngỡ ngàng vì xa lạ vừa thấy thân quen, gần gũi:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
(Đây mùa thu tới)
Trước Cách mạng tháng Tám, phải nói rằng thơ ca Xuân Diệu chưa gắn nhiều với
thời cuộc nhưng thơ Xuân Diệu lúc nào cũng ca ngợi sự sống, ca ngợi cái đẹp. Thơ ông là
cả một mùa hoa khoe sắc, góp nhặt hương thơm cho đời. Ông sống thực với lòng mình,
không vụ lợi, hướng lòng mình vào thiên nhiên, đất trời. Xuân Diệu đã làm bừng dậy vẻ đẹp
mà tạo hóa ban tặng cho loài người. Trần gian có hoa thơm, cỏ lạ mới thật sự là một thiên
đường trên mặt đất. Thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu có khi là cả một vườn hoa với đủ các
loài hoa khoe sắc:
Hoa cúc dường như thôi ẩn dật,
Hoa hồng có vẻ bận soi gương.

Vàng tươi, thược dược cánh hơi xòa;


Ửng rạng, phù dung nghiêng mặt hoa;

54
Nhánh vút làm cho lan chớm ngợp,
Lòng trinh giữ lại nửa bông trà.
(Lạc quan)
Hoa trong thơ Xuân Diệu rất phong phú, đa dạng. Đó có thể là loại hoa quý phái,
sang trọng như hoa hồng, phù dung, lan, đào, mai … cũng có những loài hoa giản dị, đằm
thắm như cúc, thược dược, bông trà, hoa phượng, hoa lựu, … đến những loài hoa quê mùa,
mộc mạc như sen, hoa mua, hoa dại, hoa mắc cỡ, hoa lý, hoa sim, hoa lau, … Hoa trong thơ
Xuân Diệu là những loài hoa có thật ngoài đời, nhưng đôi khi đó cũng là thứ hoa chỉ có
trong sự tưởng tượng của tác giả.
Đó là những đóa hoa đồng nội mang trong mình vẻ đẹp của nàng xuân đang độ tươi
thắm:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
(Vội vàng)
Mùa xuân sẽ chẳng có hương thơm quyến rũ, sẽ chẳng có màu sắc rực rỡ nếu thiếu
những bông hoa. Bữa tiệc trần gian sẽ nhạt tẻ nếu vắng những đóa hoa. Hoa là một phần của
cuộc sống, của mùa xuân, của cái đẹp. Thiên nhiên trong mắt Xuân Diệu lúc nào cũng như
ngày hội hoa:
Này là bông cúc với bông mai,
Với lại bông lan lá nhọn dài,
Với lại bông hồng da mởn mởn,
Này thêm bông lý với bông lài

Thêm đóa tường vi chấm lệ trinh.


Nhành thì gai sắc, lá thì xinh.
Thơm sao thanh thoát hoa sen trắng!
Hoa cải hoa dưa vàng thái bình.
(Hoa)
Tình yêu thiên nhiên là điểm xuất phát của tình yêu quê hương đất nước. Sau cách
mạng tháng Tám, Xuân Diệu đi nhiều nơi và mỗi nơi thường để lại dấu ấn trong lòng ông.
Hoa mơ nở trắng núi rừng khiến tác giả ngỡ ngàng:

55
Mà vẫn bàng hoàng như nửa mộng
Mơ hay là thực, hỡi hoa mơ?
Mơ trong thung lũng, mơ trên núi
Hoa bạch như sương một áng mờ…
(Thăm cảnh chùa Hương)
Cả một thung lũng đầy hoa mơ khiến thi nhân tưởng như mình đang rơi vào cõi
mộng. Hoa mơ trắng tinh khôi, trinh bạch ngút ngàn tầm mắt mở ra một không gian xinh
tươi để tác giả phải thốt lên:
Ôi núi Hương Sơn…
Ôi thuyền Bến Đục …
Đã ngàn năm trước, muôn năm nữa,
Kiêu hãnh Non Sông đẹp với tình.
(Thăm cảnh chùa Hương)
Nếu hoa mơ biểu tượng cho vẻ đẹp của vùng núi rừng thì hoa trứng cá, hoa điệp
vàng, bông trang, … lại gợi nhớ về vùng đất miền Tây Nam Bộ trù phú:
Những cây trứng cá hoa sao trắng
…Cây bằng lăng trắng hoa đang nở
Làm nhớ bằng lăng nước - tím hoa.
… Điệp đỏ vừa qua lại điệp vàng
Nhà ai trước cửa nở bông trang
… Mắt còn bỡ ngỡ chưa thu hết
Biếc Hậu Giang liền xanh An Giang…
(Cần Thơ xe chạy tới Long Xuyên)
Nếu như trước cách mạng tháng Tám, thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu là những
nàng xuân rực rỡ với những bông hoa kiêu sa, đài các, thì sau cách mạng tháng Tám thiên
nhiên là những vùng quê, những làng mạc, những cánh đồng. Nơi đó, không có hoa hồng,
hoa lan, tường vi, … mà chỉ có dâm bụt, hoa cau, hoa lau, hoa cà, hoa bắp,… Nhưng vẫn
khiến tác giả rạo rực lòng:
Vừa tới cao nguyên rạo rực lòng
Lại say hoa bắp nắng vàng ong.
Một mùa bắp mới xưa chưa thấy
Làm má non sông cũng ửng hồng…
(Hương bắp ở Tuyên Đức)
56
Mỗi hàng rào bông bụt của miền Nam ta
… Tôi ở giữa trâm bầu, đi trong bóng nhãn,
Hương cau hương mận cứ quấn ngang đầu…
… Sang xuân hoa cải lại nở vàng tươi
Gió thổi chập chờn bướm mơn không khí…
Ơi cái đất miền Nam đất mầm đất nhụy
(Tôi muốn đi thăm khắp cả miền Nam)
Có loài hoa nhắc nhớ tác giả về những kỉ niệm:
Hoa dại không tên khuất một cành
Mùi rừng trổi đắng giữa đồng xanh
Người qua sững bước bên hương núi
Nhớ thuở non sâu thắm thiết tình
(Hương chiến khu)
Cũng có loài hoa gắn với cuộc sống đồng quê, mùa màng trở đi trở lại trong thơ
Xuân Diệu như là biểu tượng của nơi chôn nhau cắt rốn, như là biểu tượng của tuổi thơ
trong sáng:
Chạy bắt hoa gạo đỏ
… Hoa gạo của quê tôi
Là mặt trời đọng tóe
(Các em nhỏ với hoa gạo)
2.2.2.2. Hoa – Tình yêu lứa đôi
Xuân Diệu từng được mệnh danh là nhà thơ của tình yêu, dù ở giai đoạn trước hay
sao cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu vẫn dành riêng một mảnh đất thơ cho những sáng tác
về tình yêu lứa đôi. Người tình luôn là nàng thơ kiều diễm, là nguồn cảm hứng trong các tác
phẩm của nhà thơ. Không còn gì đẹp hơn khi ví tình nhân của mình là bông hoa đang thắm
sắc:
Em là hoa thắm lá xanh
(Quả trứng và lòng đỏ)
Hoa đẹp là hoa nhìn với mắt em…
(Hoa đẹp là hoa nhìn với mắt em)
Hoa cau, hoa cam, … như là biểu tượng gợi về bóng dáng của người yêu thương:
Em là chùm hoa cam

57
(Sao em lại như thế)
Áo em thoang thoảng hoa cau
Áo em say đắm một màu trầm hương
(Áo em)
Ví người yêu là hoa là cách nói quen thuộc của thơ tình. Ở đây ta thấy Xuân Diệu ví
người yêu như hoa cam, hoa cau, … những bông hoa bình dị, dân dã. Người yêu của thi sĩ
cũng vì thế mà dịu dàng, mộc mạc. Nhiều lúc với những thứ quá đỗi quen thuộc người ta
thấy sự tồn tại của nó như là một điều tất yếu và dễ lãng quên. Nhưng rồi có đôi lúc bất chợt
nhìn thấy hoa cam, hoa cau nở thoang thoảng lại thấy thân thương biết bao nhiêu. Tình yêu
chân thành nảy sinh từ những điều đơn giản như thế lại có sức sống bền bỉ.
Yêu nhau, ai cũng muốn tặng cho nhau những đóa hoa tươi thắm nhất, xinh đẹp nhất.
Nhưng Xuân Diệu lại muốn được người yêu tặng hoa cải cúc. Đó là hoa cải cúc giản dị,
chân thành biểu tượng cho vẻ đẹp của tình yêu tự nhiên, giản dị mà chân thành:
Em về nhớ tặng anh
Mấy cành hoa cải cúc
… Giống lòng em như đúc…
(Hoa cải cúc)
Đã phải lòng nhau, đã yêu thương và gắn bó thì khi xa cách, chỉ một tác động nhỏ bé
cũng đã thấy nhớ nhau da diết. Người yêu xa cách nhưng nỗi nhớ thương thì không xa bao
giờ:
Hoa lau phơ phất nhớ ai
… Ngàn lau thương nhớ ai hay
Đối với Xuân Diệu, nhà thơ tình yêu, người yêu trong mắt ông bao giờ cũng như là
hương là hoa. Người yêu bao giờ cũng đẹp một cách diễm ảo. Mỗi bước người thương đi
đều có hoa, có hương đi cùng:
Mỗi bước em vào rải cánh hoa
… Mãi mãi em là ngọc với hương
(Em về)
Khi đã yêu thương, người ta luôn muốn dành những điều tốt đẹp nhất cho người
mình yêu. Thậm chí người ta sẵn sàng hi sinh vì người ấy. Tình yêu trong thơ Xuân Diệu
tuy rất mãnh liệt nhưng không hô hào theo kiểu “đao to búa lớn”. Chỉ là những hành động,

58
suy nghĩ đơn giản nhỏ nhặt thôi cũng thể hiện một tình yêu nồng nàn. Khi vô tình ngắm một
đóa hoa thơm, nhà thơ cũng nghĩ đến việc mang tặng cho người yêu thương:
Hái một đóa hoa cười chúm chím
… Để tặng em mà em có hay?
(Xuân bên Hồ Tây)
Xuân Diệu quan niệm “tình không tuổi” nên dù ở độ tuổi nào tác giả cũng dành một
tình cảm nồng nhiệt nhất, cháy bỏng nhất cho tình yêu. Thi nhân muôn đời luôn đa tình. Bất
cứ ai, bất cứ điều gì cũng có thể trở thành nàng thơ, trở thành người trong mộng. Có khi chỉ
là một cái nhìn, một vài phút gặp gỡ. Có khi là những năm tháng gắn bó cùng nhau. Cũng
có khi đó chỉ là tình yêu từ một phía. Vậy mà tất cả đều được lưu giữ trong trí nhớ. Khi có
tác động, những cảm xúc ngày xưa lại ùa về, vẫn mãnh liệt, vẫn nồng nàn. Hoa phượng nở
nhắc nhớ thời gian trôi, những năm tháng tươi đẹp đã qua, chỉ còn lại là niềm luyến tiếc:
Mười năm phượng, phượng huy hoàng vẫn phượng,
Áo trắng trong ngày tháng phất phơ soi.
Ta cùng mình như cành cây riết quấn,
Vương lòng nhau ràng rịt biết bao đời.

Phượng mười năm … hiu hắt gió mười năm…


Yêu mười năm … nhớ muôn thuở … mười năm …
(Phượng mười năm)
Xuân Diệu còn có cả một bài thơ chỉ viết về một loài hoa duy nhất. Loài hoa ấy có
tên là Hoa Ngọc Trâm. Hoa biểu tượng cho tuổi trẻ, cho tình yêu duy nhất:
Anh tặng cho em hoa ngọc trâm
Hoa như ánh sáng ngọc như mầm.
(Hoa ngọc trâm)
“Hoa ngọc trâm (hoa Anh Thảo) có tên tiếng Anh là Primrose (hoa hồng đầu tiên).
Là loài hoa nở vào mùa xuân. Hoa ngọc trâm là biểu tượng sự duyên dáng và sắc đẹp của
tuổi trẻ, lứa tuổi giữa trẻ con và thiếu nữ. Hoa ngọc trâm nở muộn (Everning Primrose) chỉ
nở khi đêm xuống. Nó không bao giờ hé mở các búp hoa của mình cho đến khi trăng lên.
Hoa hướng về phía trăng bạc. Khi đêm xuống, không gian hoàn toàn yên tĩnh, các cánh hoa
phát ra một thứ ánh sáng lân tinh dịu dịu. Nó tượng trưng cho một tình yêu thầm lặng”[80].
Xuân Diệu sáng tác bài thơ này vào tháng 6 năm 1962, tức sau cách mạng tháng Tám. Xuân

59
Diệu vẫn nồng nhiệt và say đắm với tình yêu dù lúc này tuổi đã gần năm mươi. Bài thơ như
là một lời bày tỏ chân thành về mối tình thầm lặng của tác giả với người mình yêu thương.
Xuân Diệu từng nói rằng “Hãy nhìn đời bằng đôi mắt xanh non/… Hãy nghe tuổi trẻ ca
ngợi tình yêu”. Vậy là Xuân Diệu vẫn trẻ, vẫn say đắm tình yêu như “thuở ban đầu lưu
luyến ấy”, và vẫn gieo vào những trang thơ của mình những bông hoa tình ái đầy hương
sắc.
Trước hay sau cách mạng tháng Tám, tấm lòng trần gian của Xuân Diệu vẫn như thế.
Phần thơ tình yêu lứa đôi sau 1945 đã không còn vồ vập, chứa đầy cảm xúc nhục thể nữa
mà lúc này tình yêu trong thơ ông đã trở nên “chín” hơn. Ngoài những yếu tố tình cảm ra,
tình yêu trong thơ Xuân Diệu còn có sự kết hợp với lý trí và chiều sâu chiêm nghiệm về
cuộc đời. Nhưng nói chung, hoa trong thơ Xuân Diệu vẫn là biểu tượng của tình yêu lứa đôi.
Hoa trong thơ Xuân Diệu là “hoa tình ái”.
2.2.2.3. Hoa - Sự tàn phai
Đây là một điểm rất đặc biệt trong thơ Xuân Diệu. Hoa trong thơ Xuân Diệu rất
phong phú. Có hoa thật ngoài đời và cả hoa chỉ có trong tâm tưởng nhà thơ. Có điều dù là
lấy ý tưởng từ thiên nhiên hay từ mộng tưởng, hoa trong thơ Xuân Diệu vẫn chứa một nỗi
ám ảnh không cưỡng lại được. Nỗi ám ảnh thời gian trôi. Nỗi ám ảnh về sự tàn phai. Hoa
rụng (hoa tàn) là biểu tượng cho nỗi ám ảnh về thời gian một đi không trở lại, về sự ngắn
ngủi của tuổi trẻ, về sự hữu hạn của đời người.
Ngay cả trong khung cảnh mùa xuân rực rỡ đầy hương sắc, tác giả cũng không cho
chép mình quên đi dòng chảy của thời gian. Các nhà nho ngày xưa thường lấy việc “ngắm
hoa nở, chờ trăng lên” làm thú vui tao nhã. Nhưng Xuân Diệu thì khác, ông cho rằng:
Hoa nở để mà tàn
Trăng tròn để mà khuyết
… Hoa thu không nắng cũng phai màu;
(Hoa nở để mà tàn)
Xuân Diệu là một người ham sống, khao khát sống. “Thơ Xuân Diệu là một nguồn
sống rạt rào chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say
đắm cảnh trời, sống vội vàng cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình.
Khi vui vũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết.” (Thi nhân Việt Nam – Hoài
Thanh). Niềm vui sống trên cõi đời này của nhà thơ chính là mỗi sáng sớm được thấy bình
minh của ngày, thấy ánh sáng rực rỡ, thấy những khung cảnh tươi đẹp của vạn vật. Đối với

60
Xuân Diệu trời đất chỉ có một mùa duy nhất. Đó là mùa xuân. Lúc nào không gian này đối
với Xuân Diệu cũng là mùa xuân tươi thắm: “Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng/ Xuân
không chỉ ở mùa xuân ba tháng” (Xuân không mùa). Thi sĩ là kẻ yêu bất kể thời gian, bất
kể tuổi tác. Nhưng thực tế thì, ngay cả trong lúc yêu, thời gian vẫn là nỗi ám ảnh:
Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới;
Nhưng đôi ngày tình mới đã thành xưa.
Nắng mọc chưa tin, hoa rụng không ngờ
(Giục giã)
Hoa tàn, hoa rơi trong thơ Xuân Diệu gợi về sự phôi phai, chảy trôi của thời gian.
Không giống với cái nhìn của thi sỹ Hoàng Phủ Ngọc Tường: một bông hoa tàn rụi trong
bóng tối, như sự kết thúc lặng lẽ của một mối tình:
Có buổi chiều nào như chiều nay
Căn phòng anh bóng tối dâng đầy
Anh lặng thầm như là chiếc bóng
Hoa tàn một mình em không hay
(Dạ khúc)
Hoa rụng, hoa tàn luôn luôn thường trực trong tâm trí của Xuân Diệu như thể nếu
nhà thơ sáng tác thì đó là tác phẩm nói về hoa tàn úa:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;
(Đây mùa thu tới)
Thời gian trôi từng giây, từng phút theo từng sắc lá trong vườn, theo từng đóa hoa
trên cành. Cách nói “hơn một” độc đáo, mới lạ và đầy gợi cảm. Hình ảnh màu đỏ đang dần
lấn chiếm màu xanh của lá cây gợi về nhịp chảy hối hả của thời gian.
Hay trong Ý thu, nhà thơ viết:
Những chút hồn buồn trong lá rụng
Bị nhàu ai tưởng dưới trăm chân.
Bông hoa rứt cánh, rơi không tiếng;
Chẳng hái mà hoa cũng hết dần.
Vũ trụ vẫn chuyển động, thời gian vẫn cứ trôi, cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn. “Khi mai
giậy sớm, trời êm ái/… Nhưng ngày cứ thoát đi từng chút;/… Thong thả chiều vàng thong
thả lại…” (Giờ tàn) Mới sớm đó, giờ đã chiều. Thời gian thắm thoát như thoi đưa:

61
Vừa mới khi mai tôi cảm thấy
Trong tay ôm một bó hoa cười.
Ngọn gió thời gian không ngớt thổi:
Giờ tàn như những cánh hoa rơi…
(Giờ tàn)
Mới khi nào khu vườn ấy còn là khu vườn mùa xuân rực rỡ với “ong bướm tuần tháng
mật”, với “hoa của đồng nội xanh rì”, với “lá của cành tơ phơ phất” và rộn rã âm thanh “khúc
tình si”. Thì giờ đây, cũng khu vườn ấy, nhưng chỉ thấy:
Gió qua rồi còn lưu lại tiếng ngân:
Cây bên đường trụi lá đứng tần ngần,
Khắp xương nhánh chuyển một luồng tê tái;
Và giữa vườn im, hoa run sợ hãi
Bao nỗi phôi pha, khô héo rụng rời
(Tiếng gió)
Dẫu Xuân Diệu cho rằng “Xuân không mùa” thì vẫn “Xuân rụng”. Nhà thơ dùng hết
các giác quan của mình để cảm nhận cuộc sống. Ông muốn dùng tay mà “tắt nắng, buộc
gió” để chôn chặt thời gian ngay ở phút giây này:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
(Vội vàng)
Phép điệp “Này đây … này đây … này đây …” vừa để nhấn mạnh vừa để liệt kê với
mọi người rằng cuộc đời tươi đẹp biết dường bao, mùa xuân rực rỡ vô cùng. Nhưng sự cảm
nhận tinh tế của Xuân Diệu cũng không thể nào chiến thắng được thời gian:
Sắc tàn, hương nhạt, mùa xuân rụng!
… Đỡ lấy đài xiêu, nưng lấy nhị,
… Duyên mỏng bay theo đỡ sắc buồn
Cho mình hoa rụng cứ xinh luôn.
Phút giây hóa bướm lìa cây dạo,
Đến đất không nghe một tiếng hờn.
(Xuân rụng)

62
Bao trùm lấy không gian chỉ là tiếng thời gian đi khe khẽ mà vội vã. Im lặng để sống
trọn từng giây từng phút. Nhưng lặng im lại nghe rõ thời gian hơn, nghe rõ sự tàn phai nhiều
hơn:
Lặng im của bóng đêm sâu;
Lặng im vĩnh viễn của mầu thời gian;
Ba canh sao lặng lẽ tàn,
Hang rừng lặng lẽ bông lan rụng mình
(Im lặng)
Hoa tàn, hoa rụng không phải là đề tài mới mẻ, hay chỉ có ở mỗi thơ Xuân Diệu. Lưu
Trọng Lư cũng thể hiện sự não nề trước thời khắc hoa tàn:
Giờ đây hoa hoang dại
Bên sông rụng tơi bời
Đã qua rồi cơn mộng
Đừng vỗ nữa, tình ơi!
(Còn chi nữa)
Nữ sĩ Lâm Thị Mỹ Dạ cũng bày tỏ niềm cảm thông và xót xa trước sự tàn úa nhanh
đến đau lòng của hoa quỳnh:
Hoa nở trong lặng lẽ
…Từng cánh khép lại rồi
Hoa lả mềm giấc ngủ
Viết về hoa tàn, hoa rơi và bộc lộ nỗi đau xót không chỉ trong thơ Xuân Diệu mới có.
Nhưng có lẽ sự tàn phai, phôi pha của cuộc đời, sự trôi chảy của thời gian chỉ trở thành nỗi
ám ảnh đến day dứt, cào xé trong thơ Xuân Diệu mà thôi.

2.3. Biểu tượng trái tim

Về biểu tượng tim, trong Từ điển Biểu tượng văn hóa thế giới, các tác giả có nhận
định như sau:
“Nếu phương Tây biến trái tim thành nơi chứa đựng tình cảm, thì tất cả các nền văn
minh cổ truyền , ngược lại, đều coi đây là nơi trú ngụ của trí thông minh và năng lực trực
giác…
Trong tôn giáo Ai Cập, tim đóng một vai trò rất quan trọng:… nó là trung tâm của sự
sống, của ý chí, của trí khôn.

63
Trong thế giới Hy – La cổ đại, có một huyền thoại duy nhất mà ở đó trái tim đóng
một vai trò nhất định: đó là vai trò bản nguyên của sự sống và của tư cách cá nhân.
Trong truyền thống Kinh Thánh, trái tim biểu trưng cho con người bên trong; đời
sống tình cảm của nó, trí thông minh và anh minh của nó.
Trong thế giới hiện đại, trái tim trở thành biểu tượng của tình yêu thế tục, của lòng
nhân từ, … của tình bạn và lẽ phải.” [26,920]

2.3.1. Trái tim trong thơ

Trái tim là biểu tượng thuộc về con người. Trong nếp nghĩ quen thuộc của mọi người
thì trái tim là biểu tượng của tình yêu ở mọi cung bậc và sắc thái của nó. Trái tim đã xuất
hiện như biểu tượng nghệ thuật đầy ám gợi trong văn học thế giới và văn học Việt Nam.
Tagore, nhà văn, nhà văn hóa lớn của Ấn Độ đã viết: “Nếu trái tim anh chỉ là một
phút giây lạc thú / Nó sẽ nở ra thành một nụ cười nhẹ nhõm / Và em thấu suốt rất nhanh. /
Nếu trái tim anh chỉ là khổ đau / Nó sẽ tan thành lệ trong / Và lặng im phản chiếu nỗi niềm
u ẩn. / Nhưng em ơi, trái tim anh lại là tình yêu / Nỗi vui sướng, khổ đau của nó là vô biên”
(Bài thơ số 28) [36,61]. Tình yêu là cả cuộc đời. Yêu tức là sống. Chỉ có yêu chân thành
mới có thể hiểu đầy đủ và sâu sắc về tình yêu. Đó là những thông điệp mà tác giả của Người
làm vườn muốn nói với chúng ta.
Cùng sử dụng trái tim làm biểu tượng nghệ thuật, nhưng trong thơ Hoàng Lộc, ta bắt
gặp một ý nghĩa khác: “Muốn hỏi em lời buồn không hỏi được / Nên buổi chiều chiến thắng
cũng sầu bi / Anh bé nhỏ như một loài ngựa lạc,/ Trái tim khô se sắt buổi quay về (Lần
hành quân trở về)[94]. Đó là tâm sự của một con tim mệt mỏi, đau khổ sau những gì đã xảy
ra. Trước chiến thắng ảo não, nhà thơ cảm thấy mệt mỏi, ngơ ngác, và thấy mình lạc lõng
ngay trong ngày trở về. Còn trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, trái tim như là biểu tượng cho một
cuộc đời, một số phận éo le, không bình yên: “Ôi trái tim / Sao em lại mang dáng lưỡi cày /
Để suốt đời không bao giờ yên ổn / Để suốt đời cày lên / Đớn đau và hạnh phúc” (Nói với
trái tim). Lời thơ như là lời dự báo về một cuộc đời đa đoan của nhà thơ. “Trái tim” ấy của
nữ sĩ luôn đập lên những nhịp đập vì con người và cuộc sống. Hay trong thơ Xuân Quỳnh,
ta cũng dễ dàng nhận ra hình ảnh trái tim được nhà thơ sử dụng như một biểu tượng ám ảnh
người đọc:
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời, thường ai chẳng có
Cũng ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi

64
(Tự hát)
Xuân Diệu không phải là nhà thơ đầu tiên cũng không phải duy nhất đưa hình ảnh
trái tim vào thơ ca. Xuân Diệu cũng giống những nhà thơ khác, chịu ảnh hưởng của văn học
nước nhà và văn học thế giới. Xuân Diệu sử dụng trái tim như là biểu tượng nghệ thuật tiêu
biểu (cùng với mùa xuân, hoa, trăng) để thể hiện quan niệm sống và sáng tác của chính
mình, thể hiện cái nhìn cá nhân về thời đại và đất nước.

2.3.2. Trái tim trong thơ Xuân Diệu

Đi vào khảo sát các tập thơ của Xuân Diệu, chúng tôi nhận thấy, trái tim/ tim xuất
hiện khoảng 122 lần trong toàn bộ các sáng tác từ trước, sau cách mạng tháng Tám cho đến
những năm cuối đời. Trái tim xuất hiện, mặc dù không nhiều lần như biểu tượng hoa, nhưng
có thể nói, đó là một trong những biểu tượng tiêu biểu góp phần làm nên giá trị thơ Xuân
Diệu. Một Xuân Diệu ham sống, khao khát tình yêu. Một Xuân Diệu luôn hoài nghi, cô đơn.
Và cả một Xuân Diệu nặng tình với non sông đất nước.
2.3.2.1. Trái tim - Lòng ham sống
Xuân Diệu là người ham sống, khao khát gắn bó với cuộc đời. Điều này không còn
mới. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của nhiều nhà phê bình chuyên nghiệp và cả
không chuyên về lòng ham sống ấy. Trong Thi nhân Việt Nam, nhà phê bình Hoài Thanh
đã viết: “Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non
lặng lẽ này”. Xuân Diệu có một trái tim giàu cảm xúc. Trái tim đó luôn muốn tỏ bày tình
yêu của mình với đời. Trong thơ Xuân Diệu, biểu tượng trái tim được xây dựng dựa trên
nền tảng của một tấm lòng trần thế, của một tình yêu cuộc sống. Hãy nghe nhà thơ nói về
trái tim mình:
Tay ấp ngực dò xem triều máu lệ,
Nghìn trái tim mang trong một trái tim
(Cảm xúc)
Đó là lời bộc bạch của chính nhà thơ về quan niệm sáng tác của mình lúc mới bước
vào làng thơ. Vai trò của người thi sĩ là cảm nhận cuộc sống với mọi sắc thái và chuyển tải
tất cả chúng vào thơ ca của mình bằng tất cả tâm huyết. Mọi rung động tinh vi của trần gian
đều phải được nhà văn ghi nhận bằng cả trái tim mình, bằng tất cả lòng chân thành của một
người nghệ sĩ. “Nghìn trái tim mang trong một trái tim” là cách nói chính xác và đầy đủ
nhất về nhiệm vụ thiêng liêng mà cuộc sống giao phó cho nhà thơ. Và Xuân Diệu đã thực

65
hiện nhiệm vụ ấy một cách tự nguyện. Hơn cả thế. Cuộc sống khi đi vào trong thơ Xuân
Diệu dường như sống động hơn, xinh tươi hơn, đáng yêu hơn. Bởi cuộc sống được nhìn qua
“cặp mắt xanh non” đầy háo hức của tác giả.
Có lẽ khi Xuân Diệu tự ví mình “Tôi chỉ là một cây kim bé nhó / Mà vạn vật là muôn
đá nam châm;” Xuân Diệu đã biết mình vốn là người đa tình. Đa tình với cuộc đời. Cuộc
đời biến chuyển, Xuân Diệu cũng rạo rực ngay:
Rồi khi khúc nhạc đã ngừng im
Hãy vẫn ngừng nghe hơi trái tim
Còn cứ run hoài như chiếc lá
Sau khi trận gió đã im lìm.
(Huyền Diệu)
Lắng nghe tiếng nhạc, tác giả như bị chìm say, bị tiếng nhạc dìu vào thế giới Du
Dương. Chỉ có tiếng nhạc mà tác giả đã nhìn thấy hoa, ngửi cả mùi hương. Với Xuân Diệu,
đó là hoa, là hương của nhạc, cũng là hoa là hương của đời. Nhà thơ đang lắng nghe bằng cả
con tim. Nhạc đã hết từ lâu mà Xuân Diệu vẫn còn lặng người để lắng nghe con tim thổn
thức. Con tim cứ “run rẩy” như thể luôn sẵn sàng đón nhận mọi lời mời gọi của cuộc đời.
Trái tim của người nghệ sĩ đa tình luôn như thế. Tất cả mọi thứ trong cuộc đời này đều
“Huyền Diệu”.
Xuân Diệu từng xem cuộc đời của mình chỉ có một mục đích duy nhất là phụng sự
tình yêu. Trong đó, tình yêu cuộc sống là thiêng liêng nhất. Có lẽ chẳng bao giờ đủ với một
trái tim to lớn “mang nghìn trái tim”. Cho nên, lúc nào nhà thơ Xuân Diệu cũng thấy thiếu,
thấy trống vắng. Càng thiếu, càng trống vắng thì càng tìm kiếm, đòi hỏi. Tất cả những gì
diễn ra trước mắt nhà thơ đều không bỏ qua. Sợ sự chảy trôi của thời gian, sợ sự phôi pha
của cái đẹp, sợ sự hữu hạn của đời người, nên cứ nắm lấy, thu lại, giữ chặt trong lòng mình:
Giơ tay muốn ôm cả trái đất,
Ghì trước trái tim, ghì trước ngực,
(Bài thơ tuổi nhỏ)
“Ghì” trong Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên được giải thích như sau:
“Ghì (động từ): dùng sức giữ thật chặt, làm cho không thể di động được”[40,380]. Ở đây
Xuân Diệu muốn giữ thật chặt trái đất trước trái tim mình như một hành động muốn níu giữ
thế giới. Về hành động này, nhà thơ Phạm Huy Thông cũng từng viết:
Muốn có đôi cánh tay vô ngần to rộng

66
Để ôm ghì cả vũ trụ vào lòng tôi!
Cùng là một hành động “ghì” nhưng ở Xuân Diệu là sự ước muốn níu giữ cuộc đời trần thế,
còn ở Phạm Huy Thông dường như là sự khao khát vượt lên trên những điều bình thường
của trần thế để vươn tới sự vĩnh hằng.
Thông thường, khi yêu quý điều gì đó chúng ta hay giữ trong lòng, giữ trong tim. Bởi
trái tim chính là nơi quý báu của con người. Đó là trung tâm của sự sống, là đích đến của
tình yêu và là ngọn nguồn của cảm xúc. Vì sao đấng sáng tạo lại dùng một trong những
chiếc xương sườn ở lồng ngực của chàng Adam để tạo nên nàng Eva? Phải chăng vì nơi ấy
gần trái tim nhất. Nó là nơi an toàn để cất giấu, gìn giữ và nâng niu những điều tốt đẹp nhất.
Đó cũng là nơi tình yêu bắt đầu.
Trong Lời thơ vào tập Gửi hương, Xuân Diệu đã nói rằng:
Tiếng hát tôi chẳng làm ai tươi nở,
Nhưng sách này, tôi để cả trái tim;
Có thể lời “tôi” nói chẳng ai nghe, tiếng thơ “tôi” chẳng làm ai hạnh phúc. Nhưng đó
là cả trái tim của “tôi”. Cuộc sống, linh hồn, tình yêu, … tất cả “tôi” đều gửi trong những
vần thơ ấy. Hẳn là Xuân Diệu muốn nói vậy khi viết hai dòng thơ trên. Nếu đó có là sự thật
thì với tất cả tấm chân tình của mình, nhà thơ muốn người đời “Giở cho khéo, kẻo lòng tôi
động vỡ; / Hồn người tình mỏng lắm, xếp cho êm!” Tuy nhiên, có vẻ, mong ước của Xuân
Diệu không trở thành hiện thực. Bởi cho đến ngày nay, hơn nửa thế kỉ trôi qua mà những
vần thơ của ông vẫn làm say đắm người đọc, mang đến biết bao nguồn vui cho tuổi trẻ. Bao
thế hệ độc giả không những không làm “động vỡ” lòng tác giả mà còn trân trọng, yêu quí
những bông hoa thơ nở ra từ trái tim mang tên Xuân Diệu.
Xuân Diệu luôn mong muốn sống được gắn bó mãi mãi với cuộc đời. Nhưng ông
biết rằng vũ trụ là vô cùng vô tận, còn con người thì hữu hạn. Đó là quy luật của tạo hóa,
không thể thay đổi. Nhưng Xuân Diệu vẫn muốn níu kéo thời gian, muốn giữ mãi “nụ cười
tươi, màu tóc láng”. Và cách Xuân Diệu dùng để thay đổi tạo hóa đó là phải sống thật vội
vàng, chạy đua với thời gian, sống trọn từng giây từng phút. Sự nỗ lực ấy của Xuân Diệu thể
hiện qua:
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất,
Hay tay chín móng bám vào đời.
(Hư vô)
Cả trái tim đựng tràn trề nhựa đất

67
(Một buổi chiều)
Trái tim trong thơ Xuân Diệu dường như là vô cùng. Bởi lúc nào ông cũng muốn thu
gom tất cả, nhặt nhạnh mọi thứ, ôm cả trái đất, đựng cả máu đất, nhựa đất… Cảm giác mà
biểu tượng trái tim trong hai câu thơ này gợi cho chúng ta là một sự tràn đầy, lan tỏa khắp
và tràn ra khỏi bến bờ của trái tim Xuân Diệu. Đây chính là một nét mới của biểu tượng
trong thơ Xuân Diệu. Trái tim là biểu tượng cho một tình yêu cuộc sống mãnh liệt với một
nhu cầu bày tỏ cũng mãnh liệt không kém. Đó là biểu tượng của một lòng ham sống không
giới hạn.
Và Xuân Diệu chủ trương:
Sống toàn tim! toàn trí! sống toàn hồn!
Sống toàn thân! và thức nhọn giác quan,
(Thanh niên)
Lúc nào cũng cảm thấy thiếu thốn, lúc nào cũng khao khát, vậy mà trái tim ấy lại là
một trái tim hào phóng:
Trái tim tôi: một cái túi tràn trề
Hột lúa hột mè hột bông hột cải.
Lòng tôi chứa, mà hồn tôi thì vãi
(Tôi muốn đi thăm khắp cả miền Nam)
Trước hay sau cách mạng, trái tim trong thơ Xuân Diệu vẫn là biểu tượng cho lòng
ham sống, sự khao khát sống. Có điều, ở những tác phẩm sáng tác trong giai đoạn sau cách
mạng tháng Tám, trái tim là biểu tượng cho lòng ham sống theo một phương diện khác,
rộng hơn, và đầy đủ ý nghĩa hơn. Lòng ham sống trong thơ sau cách mạng tháng Tám của
Xuân Diệu cũng chính là tấm lòng nặng tình với non sông đất nước. (phần này sẽ được làm
cụ thể ở phần sau)
2.3.2.2. Trái tim - Say đắm tình yêu

Bên cạnh là biểu tượng cho lòng ham sống mãnh liệt, trái tim trong thơ Xuân Diệu
còn là biểu tượng cho sự say đắm tình yêu. Xuân Diệu là một con người sống để yêu, yêu để
sống và chết cũng sẽ yêu. Không phải ngẫu nhiên mà ông được mệnh danh là “Ông hoàng
thơ tình”. Một nhà thơ khác từng đổ lỗi cho tình yêu:
Ai bảo em là giai nhân,

Cho đời anh đau khổ.

68
Ai bảo em ngồi bên cửa sổ,

Cho vướng víu nợ thi nhân.

Xuân Diệu không đổ lỗi cho ai, có chăng, là do chính ông là thi sĩ đa tình. Tình yêu
lứa đôi là nguồn sống, là mạch máu chảy trong trái tim nhà thơ:
Ai có biết mùa xuân lên nặng lắm

Trên cành hồng và trong những trái tim?

(Mời yêu)

Một cành hồng khoe sắc, một làn gió đưa gọi mùa xuân đến. Mùa xuân trong thơ
Xuân Diệu là mùa tình. Mùa của tình nhân. Mùa của những đôi lứa yêu nhau. Nhà thơ băn
khoăn, rạo rực trước mùa xuân khi mà con tim đang khao khát yêu và được yêu. Nhưng
ngay lúc đang sung sướng giữa mùa xuân rực rỡ, Xuân Diệu chợt nhớ rằng mùa xuân sắp
tàn, con người không trẻ mãi. Cho nên:
Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi,

Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi.

(Giục giã)

“Trái tim nhỏ” là tình nhân, hay là chính bản thân tác giả thì lời thúc giục cũng
không dư thừa. Con người không trẻ mãi thì tình yêu rồi cũng theo tuổi trẻ mà đi mất. Nỗi
ám ảnh về thời gian một đi không trở lại khiến nhà thơ luôn mong muốn yêu thật nồng
nhiệt, yêu mãnh liệt. Chỉ khi chìm đắm với tình yêu thì thời gian mới như ngừng lại:
Không cần nói. Trái tim dường mở hé,

Hoa muôn năm nghe nở tiếng thần tiên

Trái tim ngừng trong một lúc vô biên:

Thời gian hết; đất trời không có nữa…

(Kỷ niệm)

Nhưng rồi, sự thật, dù có phũ phàng, vẫn là sự thật. Thời gian là dòng chảy liên tục
từ quá khứ đến tương lai. Xuân Diệu rất sợ sự tàn phai. Nhất là sự tàn phai trong tình ái.
Tưởng chừng thời gian ngưng đọng, chỉ có tình yêu tồn tại, thì ngay thời khắc đó, tác giả
nhận ra “thời gian hết, đất trời không có nữa”. Tình yêu luôn mang lại đam mê. Và những

69
người yêu nhau thì luôn cảm thấy khi bên nhau thời gian trôi rất nhanh. Huống chi đối với
một người luôn bị thời gian “rượt đuổi” như Xuân Diệu, thời gian càng trở nên quý giá.
Trái tim trong thơ Xuân Diệu dường như là một trái tim luôn đòi hỏi yêu đương, luôn
khát khao có được tình yêu tuyệt đích. Bởi thế khi yêu, được yêu mà tác giả vẫn như đang
tìm kiếm tình yêu:
Anh là người thuyền chài Trương Chi

Trong trái tim mang em đọng lại.

Mang em ngày thắm và đêm biếc

Trong trái tim – nhưng vẫn còn tìm.

(Bá Nha, Trương Chi)

Người yêu tồn tại trong trí nhớ, trong suy nghĩ và trong cả trái tim, vậy mà tác giả
vẫn nhớ, vẫn mong, vẫn tìm kiếm, vẫn khao khát. Bởi đó là nỗi nhớ mong muôn đời của
tình yêu. Và khi thật sự chia xa thì đó quả là một niềm đau khôn tả:
Cứ nhìn nhau rồi lại nhìn nhau

Hạnh phúc ngừng giữa đôi trái tim đau.

(Biệt ly êm ái)

Nói về nỗi đau đớn trong tình yêu bằng biểu tượng trái tim, Thâm Tâm cũng từng
viết về câu chuyện tình yêu đầy đau khổ:
Màu máu tigôn đà biến sắc,
Tim người yêu cũ phủ màu tang…

Một cánh hoa xưa màu hi vọng,
Nay còn dư ảnh trái tim đau.
(Màu máu tigôn)
Thi ca phải ánh thời đại. Thời đại in bóng trong thi ca. Giai đoạn 1930 – 1945, văn
học bắt đầu đề cập đến vấn đề con người cá nhân. Như một cách để đánh đổ những bức
tường lễ giáo phong kiến xưa cũ, quan niệm mới về tình yêu, về hôn nhân bắt đầu xuất hiện
trong thơ ca của một số tác giả. Trong đó có Xuân Diệu. Xuân Diệu không hô hào đòi quyền
tự do trong tình yêu. Nhưng đọc và cảm nhận những tác phẩm thơ tình của Xuân Diệu,

70
người đọc dễ dàng nhận ra một quan niệm yêu đương hoàn toàn mới, mãnh liệt, tự do và
không còn rào cản lễ giáo. Xuân Diệu cũng đề cập thẳng vào vấn đề mà bấy lâu nay thơ ca
trung đại né tránh, thậm chí bị coi là tà dâm. Đó là tình yêu gắn liền với khát vọng ái ân.
Tình yêu chỉ trọn vẹn khi được thỏa mãn cả về tinh thần và thể xác. Chính vì vậy mà ngay
lúc Xuân Diệu vừa bước vào làng thơ cho đến lúc thành danh vẫn có biết bao lời khen chê.
Tấm lòng trần thế, sự say đắm tình yêu của Xuân Diệu không vì vậy mà giảm sút. Trái lại,
niềm khát kháo ấy càng nhiều hơn, da diết hơn, mãnh liệt hơn. Mãnh liệt đến mức nó trở
thành quan niệm sống, là mục đích cuộc đời của tác giả. Bởi lúc ấy, Xuân Diệu đã thấu rõ
hơn bao giờ cái hữu hạn, cái mong manh và phù du đến tàn nhẫn của đời người. Xuân Diệu
đã cảm nhận được sự bất lực của con người trước thời gian, trước vũ trụ. Còn gì quan trọng
hơn là phải sống cho xứng đáng với những năm tháng còn tồn tại. Và Xuân Diệu đã sống
trọn đến từng khoảnh khắc của trái tim mình. Say đắm cuộc đời, say đắm tình yêu: “Phải
nói yêu trăm bận đến ngàn lần” và “Trong hơi thở chót dâng trời đất / Vẫn cứ si tình đến
ngất ngư”. Chẳng phải ta đã thấy một Xuân Diệu yêu nồng nàn, vồ cập, cuồng nhiệt trước
cách mạng tháng Tám? Còn sau cách mạng tháng Tám? Xuân Diệu vẫn là chiếm giữ một vị
trí quan trọng trong thơ ca dân tộc. Tình yêu trong thơ Xuân Diệu sau này vẫn mãnh liệt,
sâu sắc. Đó là tình yêu lứa đôi gắn liền với tình yêu đất nước: “Những người yêu mến đâu
muốn xa nhau / Nhưng vẫn cứ đi, lên đường tiễn biệt… / Nhiệm vụ thiêng liêng nghiêng
chụm đôi đầu / Và đôi trái tim tìm nhau, mãnh liệt!” (Tiễn biệt). Cũng là chia xa, cách trở
đôi tim, nhưng tình yêu ấy không hề hoài nghi hay đau khổ như xưa. Xa cách trong tình yêu
lúc này như là một thử thách lòng chân thành. Thế nên hình ảnh trái tim trong thơ Xuân
Diệu còn là biểu tượng cho tình yêu son sắc dù cách trở:
Bóng hình còn giữa trái tim, vọng hoài
(Anh nhớ thương em)
Tình yêu trong thơ Xuân Diệu có lúc rất giản đơn. Một lời chân thành, một lần gặp
gỡ, một ánh mắt nhìn cũng đủ làm nên “thiên tình sử”. Bởi đó là chuyện của con tim:
Trái tim ta chuyện thầm thì cùng nhau
(Anh về Ấm Thượng)
Hay

Trái tim anh muốn ngàn đời yêu em

(Sa pa)

71

Trái tim anh nói bồi hồi,

Mà tim em cũng trao lời vấn vương

(Kỷ niệm)

Thời gian Xuân Diệu sáng tác những bài thơ tình yêu này với thời gian sáng tác
những bài thơ tình đầu tiên lúc còn trong phong trào Thơ mới là một khoảng cách khá xa.
Điều đáng quý là trái tim rực lửa tình của Xuân Diệu vẫn cháy một cách nồng nhiệt. Và thơ
tình của Xuân Diệu vẫn luôn tươi trẻ, thiết tha như thuở ban đầu. Có lẽ, những gì Xuân Diệu
tỏ bày cũng chưa thể nói hết được tình yêu của tuổi trẻ bây giờ. Nhưng Xuân Diệu đã biết
lấy tình yêu của cuộc đời để làm giàu cho tình yêu của trái tim mình.
2.3.2.3. Trái tim - Nỗi cô đơn

Có nhà nghiên cứu cho rằng, trong thơ Xuân Diệu “cái tôi” có sự phân cực. Đó là
một khách si tình và là một kẻ thất tình. Giống như trong thơ Xuân Diệu luôn tồn tại hai
trạng thái đối lập nhau: vừa say đắm cảnh trời, vừa say đắm tình yêu vừa vội vàng cuống
quýt. Biểu tượng trái tim cũng như thế. Nếu ở phần trên chúng tôi đã đi vào làm rõ biểu
tượng trái tim ở ý nghĩa biểu trưng cho lòng ham sống và say đắm tình ái, thì ở phần này,
chúng tôi sẽ tiếp tục đi vào tìm hiểu biểu tượng trái tim ở khía cạnh biểu tượng cho nỗi cô
đơn. Càng ham sống, càng say đắm tình ái, Xuân Diệu càng cảm thấy lạc lõng, bơ vơ, cô
đơn trước cuộc đời. Bởi những khao khát, những ước muốn ấy của nhà thơ chẳng bao giờ
được thỏa mãn. Càng khao khát càng rơi vào bế tắc, hụt hẫng:
Gió vừa chạy, vừa rên, vừa tắt thở,

Đem trái tim làm uất cả không gian,

Gợi bóng hình những thân thê cơ hàn,

Với môi tím, với cảnh nghèo vạc mặt.

(Tiếng gió)

Khao khát yêu nhưng không phải lúc nào niềm mong muốn của Xuân Diệu trở thành
hiện thực. Tình yêu trong thơ Xuân Diệu cho đi nhiều hơn nhận, thậm chí là:
Ngậm ngùi tặng trái tim lưu lạc

Anh chỉ xin về một chút hương,

72
(Muộn màng)

Niềm ước muốn của tác giả lúc bấy giờ không còn là những ham muốn vô biên.
Không còn những đam mê tuyệt đích, “trái tim” bỗng dưng thật tội nghiệp. Nó chỉ còn là
một sự cầu xin nhỏ nhoi “chỉ xin về một chút hương”. Có lúc ta thấy một Xuân Diệu yêu
cuồng nhiệt, luôn đòi hỏi và chẳng bao giờ thỏa mãn. Có lúc ta thấy một Xuân Diệu cô đơn
và nhỏ bé trước cuộc đời. Vừa nồng nàn sung sướng phút chốc trở nên lạc lõng, đơn côi. Có
lẽ từ trong sâu thẳm trái tim, Xuân Diệu vẫn mang nặng một nỗi buồn thế hệ. Nỗi buồn của
cái tôi cá nhân trước những biến động dữ dội của thời đại. Thời đại đã sinh ra nó. Thế
nhưng, thời đại lại không chỉ cho cái tôi cá nhân ấy con đường tìm thấy hạnh phúc, tìm thấy
sự bình yên cho tâm hồn. Mà chính thời đại đã trao quyền cho “cái tôi”. Nó sẽ tự tìm tòi, lựa
chọn con đường riêng cho trái tim mình. Và “chưa bao giờ ta thấy xuất hiện cùng một lúc
một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, trong sáng như Nguyễn
Nhược Pháp, ảo nảo như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên, …
và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” (Thi nhân Việt Nam – Hoài Thanh). Cái
tôi cá nhân của mỗi nhà thơ đã tìm một hướng đi riêng cho trái tim thơ của mình. Và nỗi cô
đơn hiện hữu trong thơ mỗi tác giả dưới những hình thái khác nhau. Dù không mang nỗi
“mang mang thiên cổ sầu” như Huy Cận, nhưng thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng
Tám vẫn chứa đầy hoài nghi và nặng ưu phiền:
Muốn rụng rơi, trái tim nặng ưu phiền,

- Trái tim giữa một cái kềm bằng sắt.

(Sắt)

“Trái tim giữa một cái kềm bằng sắt” gợi về hình ảnh con người bị kiềm nén, không
sao thoát ra được. Và trước những sóng gió của thời cuộc, không biết “cái tôi” trong thơ
Xuân Diệu có khi nào cảm thấy bế tắc hay không? Nhưng những “run rẩy” thì chắc hẳn là
luôn tồn tại đằng sau một con tim tưởng như rất sôi nổi, háo hức:
Chim hôm run rẩy trong tim nhỏ,

Thỏ sợ dơ tai hứng tiếng ồn.

(Núi xa)

Sau ngày cách mạng tháng Tám thành công, ánh sáng của Đảng rọi đường chỉ lối cho
nhà thơ, Xuân Diệu đã nhắc lại khoảng thời gian khủng hoảng của cái tôi cô đơn trước kia:

73
Trong đời cũ trái tim ngoài ngực,
Tôi thoi thót đêm ngày đau nhức,
(Đấu tranh)
Tim ngừng, trái tim buồn, trái tim hững hờ, vụn tim mòn, … là những sắc thái khác
nhau của một trái tim cô đơn, lạc lõng mà ta thường thấy trong thơ Xuân Diệu trước Cách
mạng tháng Tám:
Tim ngừng đập, để thu hồn nghe lắng,

Trái tim buồn như một bãi tha ma

Mà trái tim đã ghê dáng hững hờ
(Dối trá)
Những tim không mà tưởng tượng tràn đầy;
(Dại khờ)
Ta đã tìm thăm những nấm mồ
Vô tình chôn giữa trái tim thơ;
(Ngẩn ngơ)
Em, rắn êm, moi những vụn tim mòn,

(Sầu)

Cách mạng về tới từng nhà, đem tới niềm tin và tương lai mới cho mỗi con người. Lý
tưởng của Đảng đã mang lại nguồn vui mới cho thơ Xuân Diệu. Nhưng có lẽ, đôi lúc, tác
giả vẫn cảm thấy có chút gì hoài nghi về chính mình, về chính điều mà tác giả đã chọn lựa.
Lúc ấy, tác giả muốn đem trái tim hoài nghi ấy ra đổi lấy một trái tim “biết lựa những lời dễ
nghe bồng bế”:
Đổi trái tim có được không

Bạn trên đường xin anh đổi hộ

Đổi cho tôi một trái tim như thế!

(Cầu an)

Bởi vì:

Trái tim tôi nó thường đau khổ…

74

Trái tim tôi nhoi nhói một bên

Trái tim tôi trái chứng, cứng đầu

(Cầu an)

Nhưng đó chỉ là một thoáng qua trong những vần thơ sau cách mạng tháng Tám. Chủ
yếu, trái tim là biểu tượng cho nỗi cô đơn chỉ tồn tại trong thơ Xuân Diệu ở giai đoạn sáng
tác trước 1945 mà thôi. Về sau, trái tim cô đơn ấy đã tìm thấy niềm vui khi hòa nhịp đập của
mình vào nhịp đập của trái tim đất nước:
Kể từ khi có trái tim

Đôi tim gắn với dài lâu triệu người
(Tình yêu muốn hóa vô biên)

2.3.2.4. Trái tim – Nặng tình đất nước

Trái tim trong thơ Xuân Diệu còn là biểu tượng của tình yêu quê hương đất nước.
Ngay buổi đầu tham gia cách mạng, Xuân Diệu đã bộc lộ niềm nhiệt thành của mình khi
cho ra đời hai tập Ngọn quốc kì và Hội nghị non sông. Trong Ngọn quốc kỳ, tác giả đã bày
tỏ tình cảm của mình trước sự linh thiêng của lá cờ tổ quốc:
Thấy máu chảy, thấy tim ngừng, kính cẩn!

(Ngọn quốc kỳ)

Bởi lá cờ chính là biểu tượng cho dân tộc, cho nhân dân . Biết bao sự hi sinh mới đổi
được sự tươi thắm của lá cờ. Thế nên, khi đứng trước lá cờ Tổ quốc, Xuân Diệu như nhìn
thấy những đau thương mà dân tộc phải gánh chịu, nhìn thấy biết bao máu của đồng bào đã
đổ xuống tô thắm cho lá cờ. Tỏ bày tấm lòng của mình, Xuân Diệu chỉ có thể “tim ngừng,
kính cẩn!” Không còn một lời nào có thể giãi bày được điều tôn nghiêm ấy.
Trái tim ấy trước kia còn cô đơn, hoài nghi, thất vọng, nay đã tìm lấy lẽ sống cho
mình. Tiếng gọi của đất nước, của đồng bào, tiếng gọi của tự do và độc lập đã trở thành “cốt
lõi” của con tim Xuân Diệu:
Một tiếng gọi của biển người sâu cả,

75
Đã vào làm cốt lõi của tim tôi

(Đấu tranh)

Máu chảy vào tim, triều lên giữa giọng,

(Nguồn thơ mới)

Xuân Diệu đã từng ca ngợi mùa xuân, từng say đắm tình yêu, từng hối hả trước thời
gian, cũng bởi vì niềm ham sống, khao khát sống. Và hôm nay, tấm lòng khao khát sống ấy,
một lần nữa được thổ lộ qua những vần thơ ca ngợi nhân dân, ca ngợi Tổ quốc. Trước hết,
tình yêu đất nước thể hiện ở lòng căm thù giặc:
Máu này là máu lòng căm hận

Đỏ bởi tim gan giận tím chàm.

(Căm hờn)

Nhanh chư chớp, trái tim con đầy uất.


(Chặt cái bùi ngùi)
Mà ngún trong tim rực lửa đào
(Hiểu em Nhơn)
Đất nước chưa lành vết thương lại phải đương đầu với kẻ thù mới, nguy hiểm hơn.
Và đây là nỗi niềm của một người dân yêu nước khi hay tin một lần nữa kẻ thù lại đánh phá
quê hương:
Trái tim tôi như dầu sôi, lửa bốc
(Một lần nữa chúng tôi lại chống quân xâm lược)
Thơ Xuân Diệu cũng có sự thay đổi về nội dung thể hiện: từ sự căm thù tội ác của kẻ
thù với nhân dân với đất nước đến ca ngợi nhân dân anh hùng trong cuộc kháng chiến
trường kì. Nhà thơ ca ngợi sự dũng mãnh, sự ngang tàng của những con người áo vải chân
không, quyết lòng hi sinh để bảo vệ Tổ quốc, “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”:
Trái tim quăng như lựu đạn ném chi.

(Trận trường kỳ)

Ngăn sao máu đỏ vọt từ tim ta

(Đánh lên đầu Mỹ)

Đạn nhắm tim tôi bắn thẳng mà.

76
(Em Ứng)

Trái tim này có thể nổ vì đại nghĩa


(Nguyễn Thái Bình)
Trước những đau thương mà kẻ thù gây ra cho nhân dân, lòng căm thù chất chứa, trái
tim phút chốc trở thành vũ khí để tiêu diệt kẻ thù “Sao tôi chỉ có trái tim này /…/ Một quả
lựu đạn trái tim tôi” (Căm giận)
Tố Hữu đã từng bày tỏ lòng ngưỡng mộ trước sự can đảm của người con gái anh
hùng dù bị “Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung” vẫn một lòng trung thành với cách
mạng:
Ôi trái tim em, trái tim vĩ đại
Còn một giọt máu tươi còn đập mãi
(Người con gái Việt Nam)
Có lẽ khi viết về đề tài này, Xuân Diệu có thể coi mình là “đàn em” của nhà thơ Tố
Hữu. Bởi Tố Hữu đã vốn sớm giác ngộ cách mạng từ thuở Xuân Diệu còn lẩn quẩn trong
nỗi buồn cô đơn của cái tôi cá nhân. Nhưng điều đó không có nghĩa, những dòng thơ của
Xuân Diệu kém giá trị hơn. Ngược lại, Xuân Diệu đã thật sự xúc động trước sự hi sinh của
những anh hùng, liệt sĩ, và bày tỏ lòng kính trọng trước sự hi sinh của các anh hùng, liệt sĩ:
Bên mồ liệt sĩ, trái tim ta dừng.

Trái tim ta, cũng ngập ngừng,

(Mộ Bế Văn Đàn)

Trước tinh thần dũng cảm và anh hùng của thế hệ cha anh, tác giả cảm thấy tim mình như
ngừng đập bày tỏ sự kính trọng:
Hãy dừng lại đây, hỡi trái tim ta
… Hãy dừng lại ở phút này, hỡi trái tim ta!
(Cái ngày không quên ở Điện Biên Phủ)
Trái tim còn là biểu tượng cho sức chịu đựng dẻo dai, phẩm chất kiên cường của một
dân tộc anh hùng. Sau những trận tàn phá của kẻ thù, nhân dân Việt Nam vẫn mạnh mẽ nhìn
về phía trước và tin ở một ngày mai tươi sáng:
Khi mẹ trở lại thăm nhà, mẹ vẫn cứ mang trái tim vĩ đại

Trái tim con người vẫn làm chủ,


77

Trái tim chúng ta là một đá nam châm cực mạnh!

Trái tim đập giữa cuộc đời, như chiếu lên trời tỏa ánh!
Trái tim dũng mãnh, đập hộ cho cả thế gian.
(Sự sống chẳng bao giờ chán nản)
Trái tim trong thơ Xuân Diệu giai đoạn sáng tác sau cách mạng tháng Tám còn là
biểu tượng cho nỗi canh cánh về ước mơ một giang san thống nhất:
Một khối hồng đau đáu ở trong tim
(Một khối hồng)
Nay càng tha thiết với tim ta
… Cửu Long gầm dồn dã ở trong tim
(Hỡi hùng khí nước Việt Nam muôn thuở)

Chỉ là một trái tim muôn thuở
Miền Nam à, ta phải nối liền thôi
(Những chùm chiến thắng)
Có thể nói, tình yêu trong thơ Xuân Diệu là đề tài chủ đạo dù ở giai đoạn trước hay
sau cách mạng tháng Tám. Trước 1945, tình yêu trong thơ Xuân Diệu giới hạn ở tình yêu
lứa đôi, ở ước mơ thỏa mãn tình cảm cá nhân. Sau 1945, tình yêu ấy được mởi rộng thành
tình yêu đất nước. Dòng chảy của lòng ham sống, khao khát gắn bó với cuộc đời đã nối liền
hai giai đoạn sáng tác của nhà thơ. Trước 1945, Xuân Diệu say mê trước cảnh sắc của thiên
nhiên xinh đẹp. Và sau 1945, Xuân Diệu say mê trước nhân dân, dân tộc anh hùng:
Trái tim này tôi đã thấy mòn đâu
Trái tim nhân dân gởi vào ngực của tôi,
… Nhân dân đáng yêu, trái tim là cả bầu trời
Trái tim chúng ta hiến máu cho cả cuộc đời

Hai mươi bảy năm trong trái tim tôi mỗi mùa lại nở
(Nhân dân đáng yêu)
Khi nói về trái tim mình, Tố Hữu đã mạnh dạn lên tiếng rằng:
Mà nói vậy: “Trái tim anh đó
Rất chân thật, chia ba phần tươi đỏ:
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều

78
Phần cho thơ và phần để em yêu
(Bài ca xuân 1961)
Như vậy, Tố Hữu đã rạch ròi phân biệt tình cảm lứa đôi và tình yêu Tổ quốc, nhân
dân. Xuân Diệu không rạch ròi như Tố Hữu. Tình yêu lứa đôi và tình yêu đất nước trong thơ
Xuân Diệu luôn song hành, hòa hợp. Từ tình yêu lứa đôi đến tình yêu đất nước, nhân dân.
Tình yêu lứa đôi sẽ bền vững hơn khi gắn với tính yêu đất nước, nhân dân.
Nhìn chung, biểu tượng trái tim cùng với các biểu tượng khác đã thể hiện thông điệp
chân thành của nhà thơ về con người và xã hội. Như một mạch ngầm chảy trong cuộc đời,
tiếng thơ Xuân Diệu là lời ca ham sống, khao khát gắn bó với cuộc đời, với nhân dân, với
Tổ quốc Việt Nam. Có người từng nói rằng: ăn có thể ăn nửa bữa, ngủ có thể ngủ nửa giấc;
nhưng không thể đi nửa đường chân lý và yêu bằng nửa con tim. Xuân Diệu đã dành trọn
con tim của mình để ca ngợi tình yêu, ca ngợi nhân dân, ca ngợi cuộc sống. Và những gì
Xuân Diệu để lại cho bạn đọc bao thế hệ nay đã chứng tỏ điều đó.

2.4. Biểu tượng trăng

Theo Từ điển Biểu tượng văn hóa thế giới:


“Trăng là biểu tượng của thời gian trôi đi, thời gian sống động.
Trăng là một biểu tượng của tri thức gián tiếp, […] trăng là thiên thể của ban đêm,
trăng gợi lên theo ẩn dụ hình ảnh cái đẹp, và cả ánh sáng trong khoảng mênh mông tăm tối.
Trăng là biểu tượng của đêm, của trí tưởng tượng, tâm thần, mộng mơ, khả năng thụ
cảm.
Trăng là biểu tượng của chiêm mộng và của vô thức, là những giá trị ban đêm.”
[26,936-940]

2.4.1. Trăng trong thơ

Trương Tào, một thi nhân đời Đường đã từng nói rằng: “Vật cảm lòng người thì trên
trời không có gì bằng trăng”. Lâu nay, trăng luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca từ
cổ chí kim. Trong văn học Việt Nam hay văn học thế giới, chúng ta đều có thể ngắm mọi
sắc thái của vẻ đẹp mà ánh trăng mang lại. Trong văn học dân gian Việt Nam, đặc biệt ở
mảng ca dao dân ca, trăng cũng thường xuất hiện như biểu tượng của một không gian thiên
nhiên xinh đẹp cho đôi lứa yêu nhau tỏ bày tình cảm:
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng:
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
79
(Ca dao)
Đến thơ ca trung đại, vầng trăng trở thành người bạn tri âm tri kỉ của Nguyễn Trãi:
“Khách đến chim mừng hoa xảy động. / Chè tiên nước ghín nguyệt đeo về”. Câu thơ thể
hiện cái thần của sự vật. Tác giả đi gánh nước nấu chè thì trăng cùng theo về. Đẹp và thú vị
khi mà tác giả gánh nước và gánh cả ánh trăng. Thậm chí, đôi khi trăng còn được Nguyễn
Trãi xem là thứ tài sản vô giá mà mình có được:
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm dịch, vầng trăng
không êm đềm hay thi vị mà gợi về sự bất an, bão tố của thời đại:
Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt
Khói cam tuyền mờ mịt thước mây
Đại thi hào Nguyễn Du cũng đã miêu tả ánh trăng khi viết Truyện Kiều. Đó là ánh
trăng sáng vằng vặc trên trời cao khi Kiều và Kim Trọng thề nguyền với nhau hay khi Thúc
Sinh chia tay Kiều:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
Sinh thời Bác Hồ cũng rất yêu thiên nhiên. Thiên nhiên trong thơ Bác nhiều và đẹp.
Đặc biệt, thơ Bác viết nhiều về trăng. Ngay khi bị giam trong nhà tù, chịu nhiều vất vả, khó
nhọc, Bác vẫn tự tạo cho mình thú vui ngắm trăng tao nhã:
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ
Rồi hình ảnh trăng xuất hiện lộng lẫy nên thơ giữa rừng núi:
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Thậm chí sau một cuộc họp bàn việc quân, Bác ra về với một chiếc thuyền chở đầy
trăng:
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
Trăng còn là đối tượng sáng tác của các tác giả trong phong trào Thơ mới như Huy
Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, …. Hòa vào dòng chảy đó, Xuân Diệu cũng viết về trăng
và xây dựng thành biểu tượng tiêu biểu của thơ mình ở cả giai đoạn.

80
2.4.2. Trăng trong thơ Xuân Diệu

Sau khi tìm hiểu và khảo sát các tập thơ của Xuân Diệu, cả giai đoạn sáng tác trước
và sau 1945, chúng tôi phát hiện được hình ảnh trăng/ vầng trăng được sử dụng lặp lại
nhiều, khoảng 209 lần.
Ngoài những dòng thơ ghi lại những trạng thái khác nhau của trăng nằm rải rác trong
các tác phẩm thuộc các tập thơ, Xuân Diệu còn có hẳn một số bài thơ viết riêng về trăng với
một cảm xúc thẩm mĩ đặc biệt. Đó là Trăng, Ca tụng, Buồn trăng, Nguyệt Cầm, …ở giai
đoạn trước 1945. Sau 1945, Xuân Diệu có viết Đã tới mặt trăng, Lưng trăng, Trăng sáng,
Đêm trăng Đường láng, Xônata dưới trăng, Trăng Tây Nguyên.
Cũng giống như biểu tượng nghệ thuật khác trong thơ Xuân Diệu, biểu tượng trăng
góp phần thể hiện quan điểm nghệ thuật, phong cách sáng tác cũng như quan niệm nhân
sinh của tác giả.
2.4.2.1. Trăng – Thiên nhiên và nghệ thuật
Thơ xưa thường chuộng thiên nhiên đẹp
Mây gió trăng hoa, tuyết núi sông

(Cảm tưởng khi đọc thiên gia thi – Hồ Chí Minh)


Người xưa thường coi thiên nhiên là nơi trở về để thanh lọc, tu dưỡng tâm tánh hoặc
lấy đó làm nơi thể hiện tâm trạng “ưu thời mẫn thế” của mình. Thiên nhiên: người ta học ở
núi chí cao, học ở nước tâm thuận, học ở mai cốt cách, học ở tuyết tinh thần… Cũng giống
với các nhà thơ xưa, trăng trong thơ Xuân Diệu trước hết là thiên nhiên tươi đẹp mà tạo hóa
ban tặng cho con người. Những hình ảnh về một đêm trăng sáng trong khu vườn xinh đẹp
được ghi lại: “Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá / Ánh sáng tuôn đầy các lối đi / Tôi với
người yêu qua nhè nhẹ / Im lìm không dám nói năng chi” (Trăng). Thời gian như bị lãng
quên. Chỉ còn đôi lứa yêu nhau cùng sánh vai dưới ánh trăng vàng. Thiên nhiên đã giúp cho
khu vườn tình tự của đôi lứa yêu nhau trở nên xinh đẹp, thơ mộng hơn. Họ im lặng, không
lên tiếng cả có lẽ sợ “đường trăng tiếng dậy vang” và sợ “làm sai nhịp trăng đang”. Vừa có
thiên nhiên rực rỡ vừa có người trong mộng.
Trong một không gian lãng mạn, đầy xúc cảm, con người luôn khao khát được tỏ bày
tình yêu:
Nếu hương đêm say dậy với trăng rằm,
Sao lại trách người thơ tình lơi lả?
81
(Cảm xúc)
Một thiên nhiên xinh đẹp, một không gian quấn quýt tình tự luôn là nguồn thơ dạt
dào cho “người thơ tình”. Đặc biệt đối với một người luôn say đắm cảnh trời như Xuân
Diệu thì vẻ đẹp của trăng lại càng đáng được nhà thơ quan tâm và thưởng ngoạn. Trăng luôn
mang đến cho thi sĩ những không gian kì ảo và diễm lệ:
Trăng vừa đủ sáng để gây mơ,
Gió nhịp theo đêm, không vội vàng
Khí trời quanh tôi làm bằng tơ.
Khí trời quanh tôi làm bằng thơ.
(Nhị hồ)
Hình ảnh “trăng vừa đủ sáng để gây mơ” gợi một cảm xúc nhẹ nhàng, êm đềm. Mà ở
đó ánh vàng của trăng hòa vào khí trời ban đêm khiến khung cảnh chung quanh như là tơ, là
thơ. Trăng là mơ, là tơ, là thơ. Chắc hẳn, Xuân Diệu đã vương vấn “tơ lòng” chính mình với
thiên nhiên.
Trong phong trào Thơ mới, Hàn Mặc Tử cũng viết về trăng, nhiều hơn cả Xuân Diệu.
Nhưng đa phần ánh trăng trong thơ Hàn dường như là một trăng kì dị, lạ thường. Hiếm lắm
ta mới bắt gặp một ánh trăng như thế này:
Ta bay lên! Ta bay lên.
Gió tiễn đưa ta tới nguyệt thiềm
Ta ở cõi cao nhìn trở xuống
Lâng lâng mây khói quyện trăng đêm
(Lên chơi trăng)
Thơ Xuân Diệu là thơ ca lãng mạn. Thường, thơ ca lãng mạn rất coi trọng thiên
nhiên. Thiên nhiên là nơi nuôi dưỡng tâm hồn nhà thơ. Thiên nhiên là nơi ấp ủ những cảm
xúc trữ tình. Trong đó, sự vĩnh cửu và vẻ đẹp kì ảo của trăng cũng là một đối tượng để nghệ
thuật hướng tới. Trăng trong thơ Xuân Diệu là biểu tượng của thiên nhiên gắn liền với nghệ
thuật. Xuân Diệu có hẳn một bài thơ tả trăng như là biểu tượng cho nguồn cảm hứng bất tận
muôn đời của người nghệ sĩ:
Trăng, vú mộng đã muôn đời thi sĩ
… Trăng, hoa vàng lay lắt cạnh bờ mây;
Trăng, đĩa ngọc giữa mâm trời huyền bí;
… Trăng, nguồn sương làm ướt cả Gió hây,

82
Trăng, võng rượu khiến Đêm mờ chếnh choáng,
… Trăng thánh thót, họa đàn tơ lấp loáng,
Trăng nghiêng nghiêng, tư tưởng chuyện ưu phiền…
(Ca tụng)
Tác giả miêu tả trăng bằng những hình ảnh xinh đẹp như: vú mộng, hoa vàng, đĩa
ngọc, nguồn sương, võng rượu, … Tác giả ví trăng là nguồn mộng ước, là hoa, là ngọc ngà,
… Trăng là men rượu, trăng là đàn nhạc, trăng là tình duyên. Các từ láy tượng hình như lay
lắt, chếnh choáng, thánh thót, lấp loáng, nghiêng nghiêng, … gợi nên vẻ đẹp sống động của
trăng. Riêng từ láy “nghiêng nghiêng” gợi cảm giác đặc biệt. Nó làm ta nhớ về dáng nằm
“nghiêng nghiêng” của con sông Đuống trong thơ Hoàng Cầm:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
(Bên kia sông Đuống)
Dáng nằm “nghiêng nghiêng” đã biến con sông thành một sinh thể có hồn, có cảm
xúc. Từ láy “nghiêng nghiêng” trong câu thơ “Trăng nghiêng nghiêng, tư tưởng chuyện ưu
phiền” của Xuân Diệu đã khiến cho hình ảnh trăng trở nên đặc sắc hơn. Nó khiến ta liên
tưởng vầng trăng từ trên bầu trời cao vợi đã thấu hiểu tấm chân tình của người nghệ sĩ mà
xuống trần để làm bạn cùng nhà thơ, cùng với nhà thơ trăn trở chuyện đời, chuyện người.
Trăng không còn là một đối tượng để nhìn ngắm ngoài tầm với, mà đã trở thành nguồn thơ,
là bạn tâm giao của tác giả. Như chính Xuân Diệu từng bộc bạch:
Chỉ là trăng, nhưng tôi thấy thần tiên
Như tuyệt diệu bởi hồn tôi xanh quá.
(Chỉ ở lòng ta)
Xuân Diệu còn có nhiều câu thơ rất hay khi miêu tả trăng như biểu tượng nghệ thuật
độc đáo. Ở đây có sự giao hòa giữa thiên nhiên và nghệ thuật:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
(Nguyệt Cầm)
Xuân Diệu có hai câu thơ “thần tình” viết về một trạng thái của tâm hồn con người:
Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi…

83
(Nhị hồ)
Đã có nhiều tác giả bình luận về hai câu thơ rất tài này của Xuân Diệu. Chúng tôi đều
có đồng quan điểm với các tác giả khác khi nói về vẻ đẹp của hai câu thơ trên. Riêng ở đây
chúng tôi chỉ muốn nói về khía cạnh biểu tượng. Hai câu thơ miêu tả sự tác động của điệu
nhạc Mạnh Lệ Quân lên tâm hồn nhà thơ. Câu toàn vần bằng gợi lên cảm giác lửng lơ, …
một cảm xúc mà ngôn từ hằng ngày khó có thể diễn tả được. Đó là tình yêu trước nghệ
thuật. Không gian dường như biến mất chỉ còn lại tác giả với sự thăng hoa của tâm hồn.
Thiên nhiên luôn là thước đo của nghệ thuật, thước đo tình yêu cuộc sống của người
nghệ sĩ. Mục đích của con người hay của người nghệ sĩ nói riêng là chiếm lĩnh cái đẹp.
Thiên nhiên thể hiện vẻ đẹp trong từng trang thơ cũng là gián tiếp thể hiện vẻ đẹp tâm hồn
nhà thơ. Vì thơ là người phát ngôn trung thành và chân thật của người nghệ sĩ về cuộc sống,
về đất nước. Khi mà quần chúng vùng dậy làm cách mạng, thì nhà thơ đều một lòng theo
cách mạng. Từ đó Xuân Diệu càng gắn bó sâu nặng hơn với quần chúng nhân dân. Phần thơ
sau 1945 đã nói lên tình cảm chân thành đó của nhà thơ.
Trăng trong thơ giai đoạn sau 1945 của Xuân Diệu vẫn được xây dựng như biểu
tượng của thiên nhiên và nghệ thuật. Nhưng ở giai đoạn này, thiên nhiên và nghệ thuật qua
biểu tượng trăng không giống như giai đoạn trước đó. Có lúc ta tưởng như bắt gặp một
Xuân Diệu mới. Bình dị mà gần gũi thân thuộc biết bao. Và, ánh trăng, nó không còn xa vời
hay huyền ảo nữa:
Biết là trăng giữa cỏ
Rải những cộng rơm vàng.
Biết là trăng trên trời
Đang rắc hoa liền cánh.
(Trăng sáng)
Thiên nhiên trở nên gần gũi, thân thuộc với nhân dân, với thời đại. Thiên nhiên vừa
là người bạn đồng hành, soi sáng bước đường hành quân cứu nước:
Cũng có tuần trăng mới ánh trăng trong

Yêu với căm hai đợt sóng ào ào
Vỗ bên lòng, dội mãi tới trăng sao
(Những đêm hành quân)
2.4.2.2. Trăng – Nỗi buồn và Thời gian

84
Nỗi buồn dường như là một cảm xúc ám ảnh của các nhà thơ mới. Đó là nỗi buồn thế
hệ khi mà các văn nghệ sĩ không tìm được lối ra trong cuộc đời cũ. Nó muôn hình vạn trạng
và lần lượt thể hiện qua thơ Huy Cận: “Sóng gợn tràng gian buồn điệp điệp”. Qua thơ Bích
Khê: “Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng”. Riêng mình, Xuân Diệu tìm đến thiên nhiên cụ
thể là trăng để nói về nỗi buồn, nỗi bơ vơ và cả sự bất lực của một lớp người nhỏ bé tự tách
mình ra khỏi nhân dân.
Xuân Diệu có nhiều bài viết riêng về vầng trăng, cái đẹp vĩnh cửu của thiên nhiên.
Và thông thường kết thúc của một bài thơ về trăng là một cảm giác buồn lan tỏa, xâm chiếm
tâm hồn nhà thơ và cả người đọc. Bài thơ Trăng mở đầu là một khung cảnh thiên nhiên tươi
đẹp nhưng lại kết thúc với một nỗi buồn, một cảm xúc bâng khuâng khó nói:
Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá
Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ
Nỗi buồn, nỗi bơ vơ ấy dường như được tác giả cảm nhận bằng giác quan, nhìn thấy
được bằng mắt thường “trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá”. Nỗi buồn trở thành thứ có
thể đong đếm. Tâm hồn Xuân Diệu luôn tràn đầy cảm xúc, luôn “thức nhọn giác quan” nên
những rung động ấy thường xuất hiện trong thơ ông là điều dễ hiểu.
Trong bài Buồn trăng, buồn là cảm xúc chủ đạo, chi phối toàn bài thơ.
Thương ai không biết đứng buồn trăng
Huy hoàng trăng rộng, nguy nga gió

Sao vàng lẻ một, trăng riêng chiếc;
Đêm ngọc tê ngời men với tơ…
Ở đây, chúng tôi đồng ý với nhận xét của Hà Minh Đức: Xuân Diệu càng miêu tả
không gian càng ớn lạnh, một không gian như rợn ngợp, không bắt gặp những hình ảnh gần
gũi, ấm áp. Và cái ớn lạnh lên đến đỉnh cao với câu:
Trăng ngà lặng lẽ buông như tuyết
Trong suốt không gian, tĩnh mịch đời

Cổ nhân có câu:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

85
Trăng là biểu tượng thiên nhiên tươi đẹp. Nhưng khi con người có tâm trạng, trăng
cũng buồn và chứa nỗi u sầu:
Tiếng trúc từ đâu than tịch mịch!
Hồn nào ai bỏ giữa trăng không?
(Bài thứ năm)
Đôi khi, vầng trăng thơ mộng trở nên lạnh lẽo vì một tâm sự nào đó:
Trăng thu thường thấy trắng phau,
Ấy màu của tuyết ấy màu của băng.
Lạnh thay! là cảnh cô Hằng
Lạnh trong cung lạnh, trong trăng lạnh lùng.
(Bụi mưa mờ cũ)
Nỗi buồn ấy còn được Xuân Diệu gửi gắm trong lời van vỉ, thiết tha của người kỹ nữ:
Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo.
Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da.
… Trăng ngà lạnh buốt.
(Lời kỹ nữ)
Ánh trăng trở thành một nỗi ảm đạm thê lương. Nhìn trăng người kỹ nữ trong thơ
Xuân Diệu không hề thấy đẹp, thấy lãng mạn. Ngược lại, nàng nhìn trăng với một nỗi sợ
hãi đến thảng thốt “Em sợ lắm”. Lời thơ chứa cả một nỗi niềm xót xa, gợi cảm giác nhói
buốt trong tim người đọc.
Xuân Diệu từng viết rằng: “Xuân, người ta vì ấm mà cần tình. Thu, người ta vì lạnh
sắp đến mà rất cần đôi, cho nên không gian đầy những lời nhớ nhung, những linh hồn cô
đơn thả ra những tiếng thở dài để gọi nhau và lòng tôi nghe tất cả du dương của thứ vô
tuyến điện ấy”. Cho nên vầng trăng mùa thu cũng gợi một nỗi buồn “ngẩn ngơ” trong lòng
con người và cảnh vật:
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…
(Đây mùa thu tới)
Ngày xưa Lý Bạch từng nhìn trăng mà nghĩ đến thời gian, nghĩ về đời người hữu
hạn:
Kim nhân bất kiến cổ thời nguyệt
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân

86
(Dịch: Người nay nào thấy trăng xưa chiếu
Trăng này từng chiếu cõi người xưa)
(Lý Bạch – Đăng Lan dịch)
Ngày nay, trăng còn là biểu tượng của sự chảy trôi thời gian, của sự tàn phai, trong
thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám 1945. Đây là một ví dụ:
Trăng thu gió hè,
Đổi bờ thay đê,
Nước, thuyền xuống biển:
Thuyền không trở về…
(Thời gian)
Hay:
Sao em không nghe
Bao lời van vỉ
Của nguyệt đêm hè
Bao lời ủy mị
Của thời tươi xanh.
(Tiếng không lời)
Hình như, vì thời gian trở thành nỗi ám ảnh khủng khiếp với nhà thơ, nên ở biểu
tượng nghệ thuật nào trong thơ Xuân Diệu, ta cũng bắt gặp nhịp trôi gấp gáp của thời gian.
Nhìn vào đâu, tác giả cũng thấy bước đi của thời gian in hằn lên. Vầng trăng, thứ thiên
nhiên có thể xem là vĩnh cữu. Vậy mà, trong thơ Xuân Diệu, trăng cũng bị thời gian làm cho
hao mòn:
Bụi mưa mờ cũ gương trăng

Sông Ngân giòng bạc cũng hao bóng vàng
(Bụi mưa mờ cũ)
Chính vì ý thức thời gian, nuối tiếc thời gian ở hiện tại nên Xuân Diệu muốn trở về
quá khứ để Mơ xưa. Và vầng trăng được khắc họa theo thời gian:
Ai có nhớ những thời hương phảng phất,

Hạc theo trăng, tiên còn lẫn với người;

87
Trăng vàng xinh không bỏ giữa đêm khuya,

(Mơ xưa)

Nhưng rồi có lẽ, Mơ xưa cũng không làm tác giả cảm thấy yên lòng, không làm tác
giả thỏa mãn, nên đành quay về với thực tại. Lúc tác giả chợt thấy:
Gió theo trăng từ biển thổi qua non
Buồn theo gió lan xa từng thoáng rợn
(Lời kỹ nữ)
Vẫn là một nỗi ám ảnh về thời gian xen lẫn với nỗi buồn giữa một không gian trăng
đầy rợn ngợp. Có lẽ chỉ có những không gian trăng bao la mới chất chứa hết những sầu
muộn của những kiếp người đơn côi, bơ vơ như Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám
1945.
2.4.2.3. Trăng – Tình yêu lứa đôi

Trăng cũng là biểu tượng cho tình yêu đôi lứa. Trăng như người tình mà Xuân Diệu
luôn chào đón, mời gọi, đợi mong:
Lòng tôi bốn phía mở cho trăng;

Khách lại mười phương cũng đãi đằng:

Nước ngọt sẵn tuôn, vườn đợi hái,

Đường không ngăn cấm, cỏ chờ băng…


(Phơi trải)
Với Xuân Diệu, tình yêu luôn là thứ thi sĩ khao khát nhất. Vì vậy mà lúc nào lòng
cũng mở, tim cũng chờ. Các từ ngữ: “sẵn, đợi, không ngăn cấm, chờ” thể hiện nỗi đam mê
tình ái của nhà thơ.
Với Hàn Mặc Tử thì: “Mới lớn lên trăng đã thẹn thò, / Thơm như tình ái của ni cô”.
Trăng trong thơ Hàn không còn là trăng nữa mà được mã hóa thành hương tình ái của ni cô.
Có một chút gì đó mờ ảo. Bởi đó dường như là vẻ đẹp của người yêu mà tác giả Hàn Mặc
Tử tự tưởng tượng ra. Cũng là viết về vẻ đẹp của người trong mộng, nhưng sao trăng trong
thơ Hàn Mặc Tử còn gợi cho ta chút gì đó bất thường, bất an. Đối với Xuân Diệu, trăng gắn
với người tình một cách cụ thể hơn. Nụ cười của người tình đẹp tựa ánh trăng rằm:
Em vui đi, răng nở ánh trăng rằm,
Anh hút nhụy của mỗi giờ tình tự.
(Giục giã)
88
Niềm khao khát tình ái không bao giờ cạn, Xuân Diệu luôn cảm thấy bơ vơ, lạnh lẽo
như ánh trăng mùa thu:
Và đêm nay, lòng tôi lạnh lẽo…
Như sáng trăng trên mặt nước thu lờ
(Thở than)
Chờ mong, tương tư rồi đau khổ, biểu tượng trăng gần như đã đi hết các cung bậc
cảm xúc của tình yêu lứa đôi. Đó là những giờ phút sắp chia ly:
Chúng tôi ngồi, vây phủ bởi trăng thâu
Tay trong tay, đầu dựa sát bên đầu.
(Biệt ly êm ái)
Trăng giờ chỉ là hình ảnh trong những kỉ niệm tình yêu đã qua:
Thôi hết rồi! Còn chi nữa đâu em!
Thôi hết rồi, gió gác với trăng thềm,
(Tương tư chiều)
Với những ước mơ tìm kiếm chút yêu thương đã cũ càng:
Dưới ánh trăng cười, tôi kiếm mãi
Dấu bàn tay ấy ở trên tay.
(Với bàn tay ấy…)
Sau 1945, Xuân Diệu vẫn tiếp tục sử dụng trăng làm biểu tượng cho tình ái. Có lúc,
Xuân Diệu ví ánh trăng rằm như một tình yêu trọn vẹn, vĩnh cửu, trường tồn mãi mãi theo
thời gian:
Trời Aragông với trăng rằm Enxa

Đóa trăng rằm: vĩnh viễn hoa ái tình
(Aragông và Enxa)
Có lúc, Xuân Diệu thấy trăng giống như gương mặt quen thuộc và đầy yêu thương
của người tình. Chỉ có người đang chìm đắm trong yêu thương mới có thể tưởng tượng
gương mặt người yêu như ánh trăng vàng, như trăng nguyền:
Chiều hôm anh đọc ánh trăng vàng
(Mặt em)
Ôi khuôn mặt chỉ toan ôm lấy
Trong tay anh như một trăng nguyền

89
(Nhớ mãi như in)
Và chờ đợi người yêu thương về tổ ấm giữa ánh trăng êm đềm:
Trăng đã lên rồi, trăng sáng

Bỗng mảnh trăng thu sáng quắc
Anh đợi em về ăn cơm.
(Anh đợi em về ăn cơm…)
Ánh trăng sáng hay lòng “anh” sáng. Ánh trăng sáng như soi tỏ tình cảm của nhà thơ,
niềm vui khi chờ đợi người yêu thương. Nhà thơ háo hức chờ người yêu như trẻ con chờ
người lớn cho quà. Có lẽ tình yêu đã làm con người trở nên trẻ trung, đáng yêu. Mục đích
của việc tác giả chờ người yêu thương là “Anh đợi em về ăn cơm”. Một cảm giác đầm ấp lan
tỏa. Thuở nhỏ cuộc sống nhiều khổ cực. Lớn lên Xuân Diệu lại không hạnh phúc trong hôn
nhân. Điều khiến ta có cảm giác lời thơ như một niềm ước mơ về gia đình, tổ ấm thầm kín
của tác giả.
Có những lúc người ta tưởng chừng như Xuân Diệu không còn sáng tác thơ tình nữa.
Nhưng cuộc sống cần lắm tình yêu như chính mùa xuân cần có hương hoa. Và khi nào con
người còn đam mê tình yêu thì Xuân Diệu vẫn cứ viết thơ tình. Thời đại nào, thế cuộc ra sao
cũng không thể ngăn cản Xuân Diệu sáng tác thơ tình. Cũng như bom đạn của kẻ thù hay
cái chết đang chờ phía trước không ngăn được người ta yêu nhau. Vậy là thơ tình Xuân
Diệu vẫn cứ tiếp tục nồng nàn như xưa:
Ai làm cách trở đôi ta
Vì anh vụng ngượng, hay là vì em?
Trăng còn đợi gió chưa lên,
Hay là trăng đã tròn trên mái rồi?
(Hỏi)
Trăng được ví như người yêu, như tình yêu. Lời thơ mang âm hưởng ca dao, nghe
như lời ướm hỏi tình cảm của trai gái hát giao duyên ngày xưa. Vẫn là giọng điệu ấy, không
lẫn vào đâu, vẫn là giọng trìu mến mà khát cháy yêu đương của ông Hoàng thơ tình Xuân
Diệu.
Trước đây, tình yêu trong thơ Xuân Diệu là thứ tình yêu mong manh, xa vời, khó
năm bắt và luôn mang đến nỗi sầu khổ. Trăng tình yêu trong thơ Xuân Diệu giai đoạn sau

90
1945 dường như vững bền hơn bởi tình yêu lứa đôi luôn đặt trong mối quan hệ với tình yêu
đất nước:
Tình như vằng vặc trăng thu
(Gần)
Niềm vui của tình duyên trọn vẹn, đong đầy không còn là những tiếc nuối khi xa
cách, hay sự hờn dỗi khi không hiểu hết những suy nghĩ của người yêu. Bởi lúc này, sự chờ
đợi, ngóng trông không còn là sự khổ đau mà thay vào đó là niềm tin yêu:
Hai mươi bốn trăng em chờ anh
Than đỏ bên ngoài vùi phủ trấu
(Em chờ anh)
Thiên nhiên đất nước hòa bình làm cho tình yêu đậm đà hương sắc và tình yêu cũng
làm cho thiên nhiên đất nước thêm phần xinh đẹp:
Tuyệt vời biếc núi xanh non
Hoa thêm tinh mới, trăng còn ngát thơm
(Sapa)
2.4.2.4. Trăng – Tình yêu đất nước
Cách mạng tháng Tám thành công, đất nước bước sang một trang mới. Cuộc đời của
nhân dân ngày một thay đổi. Niềm vui đến từng nhà. Đó là nguồn thơ mới cho văn chương
dân tộc. Với lớp nhà thơ đàn anh như Tố Hữu, niềm vui đó thể hiện rất nhiều và cụ thể trong
thơ ông:
Đây một mùa xuân tới tới gần
Đây mùa bất tuyệt của muôn xuân
(Xuân nhân loại)
Với lớp văn nghệ sĩ như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, … rồi cũng nhìn thấy
ánh sáng cách mạng, và đi theo tiếng gọi của Đảng, của nhân dân. Tất cả những thay đổi
như hồi sinh của đất nước đều được thơ ca của họ ghi lại. Và để thể hiện niềm vui chung
của dân tộc, mỗi nhà thơ có một cách thức thể hiện riêng. Bởi cảm xúc, tình cảm của mỗi cá
nhân nhà thơ không giống nhau. Chế Lan Viên sau bao năm khóc than trước Tháp Chàm đổ
nát, sau bao năm “phù du” nay đã “phù sa”. Huy Cận sau khoảng thời gian chìm trong nỗi
buồn “mang mang thiên cổ sầu”, nay đã tìm thấy ánh sáng của niềm tin. Và Xuân Diệu
cũng vậy. Niềm vui đất nước tự do, niềm tin vào cách mạng, vào Đảng, tình yêu với nhân
dân được Xuân Diệu bày tỏ trong thơ ca bằng một loạt các biểu tượng nghệ thuật. Trong đó,

91
ánh trăng/ vầng trăng là biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu. Biểu tượng trăng xuất hiện ngay từ
những ngày đầu Xuân Diệu bước vào làng thơ với một tình yêu mãnh liệt dành cho thiên
nhiên và nghệ thuật. Tình yêu đó vẫn luôn tồn tại dù biểu hiện dưới nhiều dạng thức khác
nhau, nhưng vẫn có thể coi đó là cơ sở của tình yêu quê hương đất nước.
Trăng trong thơ Xuân Diệu là biểu tượng cho tình yêu Tổ quốc. Đó là“Vầng trăng
sáng tỏ” (Hòa bình). Có lúc Xuân Diệu như người nghệ sĩ nhớ về ánh trăng như một niềm
ước mơ trên con đường nghệ thuật đầy gió bụi của mình. Khi ấy nhà thơ không cho phép
mình quên những gì đang xảy ra trước mắt. Vầng trăng trong thơ Xuân Diệu không còn mờ
ảo, xa xôi. Vầng trăng lúc ấy lặng lẽ soi thấu nỗi đau thể xác của các thương binh. Trăng
như bày tỏ sự chia sẻ, cảm thông và cả ngưỡng mộ trước những người anh hùng của đất
nước:
Có những đêm trăng lặng gieo trên tàu lá chuối
(Nhớ tay chân)
Khi đất nước có chiến tranh, biết bao người đã ngã. Khi đất nước được thanh bình thì
cũng có biết bao người vẫn ngày đêm cống hiến sức mình để giữ mãi sự thanh bình ấy, để
nhân dân được mãi ấm no. Đó là những người giáo viên tình nguyện đến các vùng sâu, vùng
xa của Tổ quốc. Họ mang đến con chữ, mang đến tương lai cho những người dân nghèo như
một cách để bày tỏ tình yêu đất nước:
Nghe thầy giáo Phụng bốn năm bản Mèo;

Biết anh như mảnh trăng đèo

Vừa ôm rừng núi, vừa theo xóm làng

(Chào thầy giáo Phụng)

Đó còn là những người lính ngày đêm canh giữ biển đảo:
Khắp trời và biển, bao la như một ánh trăng trong

(Những chiến sĩ công an vũ trang giữ biển)

Họ như những mảnh trăng đèo, trăng trong,… lặng lẽ mang ánh sáng của mình để
làm đẹp thêm cho đất nước. Những công việc thầm lặng nhưng đầy ý nghĩa và nồng đượm
tình yêu quê hương, xứ sở.
Trăng còn là hình ảnh của làng xóm, quê hương. Ánh trăng như là biểu tượng của sự
êm ấm, yên vui đang lan tràn khắp mọi vùng đất. Đó là ánh trăng của hòa bình, của hạnh
phúc:
92
Hoa thêm tinh mới, trăng còn ngát thơm
(Sapa)
Trăng sáng tỏa rạng ngời
… Trăng ngoài suối như ngà
(Trên đồi thông Bắc Cạn)
Trăng giải tấm chăn vàng
(Trên bãi biển Trà Cổ)
Lại cả rằm trăng mây giăng nhẹ khuất
… Trăng sáng lên dần ngọc thạch đêm
(Đêm ở Thái Bình)
Vầng nguyệt tỏ tròn gương
(Ngọc trai trong vịnh Cô Tô)
Tất cả đều là trăng. Vì đó là trăng của độc lập, tự do, cho nên là “trăng thơm, trăng
sáng, trăng ngà, trăng rằm”. Những câu thơ được viết với một tấm lòng nhẹ nhàng, thanh
thản vì tác giả đã tìm được nguồn vui sống đúng nghĩa. Nhìn trăng, Xuân Diệu không còn
thấy “tê tái, lạnh lẽo” hay “lạnh buốt” như trước 1945. Mà ánh trăng / vầng trăng trong thơ
Xuân Diệu sau 1945 là biểu tượng của vẻ đẹp hòa bình của đất nước, là biểu tượng của nhân
dân yên vui, ấm no. Cách mạng làm thay đổi bộ mặt đất nước. Cách mạng làm thay đổi tư
duy nghệ thuật của nhà thơ. Xuân Diệu đã viết những vần thơ chân thành về nhân dân, về
Tổ quốc. Như nhận xét của nhà thơ Pháp , Mirây Găngxen: “Xuân Diệu như một người hát
dạo của nhân dân thời kỳ hiện đại; Xuân Diệu là rễ cây và gió, là đất và nhạc. Cũng như
những nhà văn lớn của Việt Nam, Xuân Diệu là nhà thơ bắt rễ sâu trong nhân dân”[45].
Ở phong trào Thơ mới, ngoài Xuân Diệu ra, còn có Hàn Mặc Tử cũng viết nhiều về
trăng. Hàn Mặc Tử sống cùng thời với Xuân Diệu nhưng tuổi đời ngắn ngủi bởi căn bệnh
quái ác hành hạ. Trăng cũng trở thành đối tượng cho nhà thơ này gởi gắm tâm sự. Nhưng
biểu tượng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử lại có những ý nghĩa khác biệt so với Xuân Diệu.
Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử thường là: “Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu; ăn vận toàn
trăng; bóng trăng quỳ, cả miệng ta toàn là trăng, trăng tái mặt; trăng rơi lả tả trên
cành…”. Trăng của nhà thơ này thường mang sự bí ẩn, kì dị, siêu thực:
Say, say lảo đảo cả trời thơ
Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô

93
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra
(Say trăng)
Đọc trăng của Hàn Mặc Tử không khỏi có lúc ta thấy ớn lạnh, ghê rợn bởi cách miêu
tả, tưởng tượng kì lạ của nhà thơ. Có lẽ, đối với Hàn Mặc Tử, ánh trăng lại chứa một nỗi
niềm ẩn khuất khác trước cuộc đời và con người. Những nỗi đau đớn về tinh thần và cả thể
xác đã khiến trăng trong thơ Hàn Mặc Tử khó có thể mơ mộng, trong trẻo, tinh khôi như
trong thơ Xuân Diệu. Mặc dù, so với Xuân Diệu, như nhiều nhà nghiên cứu văn học đánh
giá, Hàn Mặc Tử có lẽ là người đi xa nhất trong phong trào Thơ mới.
Mỗi nhà thơ, mỗi cá tính. Mỗi nhà thơ đều có những sáng tạo riêng. Về Xuân Diệu,
bao nhiêu đó cũng đủ để thấy sự đóng góp to lớn của Xuân Diệu vào nền thơ ca dân tộc.
Những gì Xuân Diệu nhìn thấy, cảm nhận, suy nghĩ và viết thành thơ có thể chứng minh
được tình cảm nồng nàn mà Xuân Diệu dành cho cuộc sống, cho đất nước.Tác phẩm thơ
Xuân Diệu trải dài từ lúc còn là nhà thơ của phong trào Thơ mới đến lúc trở thành nhà thơ
cách mạng thể hiện một chặng đường phấn đấu miệt mài, không mỏi mệt của tác giả. Dù
cho ước mơ viết một từ điển thơ tình cho đôi lứa yêu nhau của ông chưa hoàn thành nhưng
những gì Xuân Diệu để lại cho đời vẫn còn nguyên giá trị. Đó là một lòng ham sống, khao
khát gắn bó với cuộc đời, một tình yêu quê hương đất nước không bao giờ nguôi. Như chính
Xuân Diệu đã tổng kết lại thành quả tinh thần của mình như một dự báo:
Cái quả cam này đã vắt hết
Hiến cho non nước, hiến đời thân

Trong hơi thở chót dâng trời đất
Cũng vẫn si tình đến ngất ngư.

Tiểu kết chương 2


Mùa xuân, Hoa, Trái tim, Trăng là những biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu trong thơ
Xuân Diệu. Mỗi biểu tượng đều mang những nét nghĩa mới, sáng tạo trên nền kế thừa từ
truyền thống. Biểu tượng Mùa xuân trong thơ Xuân Diệu là biểu tượng của mùa tình, tuổi
trẻ, nỗi ám ảnh thời gian, và hòa bình, độc lập và chủ nghĩa xã hội. Hoa trong thơ Xuân
Diệu là biểu tượng cho vẻ đẹp của thiên nhiên, tình yêu lứa đôi và sự tàn phai. Trái tim là
biểu tượng cho lòng ham sống, sự say đắm tình yêu, lúc nào cũng cô đơn nhưng vẫn nặng

94
lòng với đất nước. Trăng trong thơ Xuân Diệu là biểu tượng cho mối quan hệ giữa thiên
nhiên và nghệ thuật, biểu tượng của nỗi buồn và thời gian, tình yêu lứa đôi và tình yêu quê
hương đất nước. Như vậy, khi khảo sát và phân tích bốn biểu tượng tiêu biểu này, chúng tôi
nhận cả bốn biểu tượng đều tập trung phản ánh chân thật tâm hồn thơ Xuân Diệu. Xuân
Diệu càng say đắm mùa xuân, say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời thì càng sợ hãi trước sự
chảy trôi của thời gian. Thời gian trong thơ Xuân Diệu như một nỗi ám ảnh đến tột đỉnh, chi
phối mọi suy nghĩ, cảm xúc của tác giả. Thời gian như thần chết đang chực chờ vun lưỡi hái
tử thần xuống thiên đường mà Xuân Diệu đang khao khát gắn bó. Sợ đến ám ảnh. Vì ám
ảnh nên cứ cuống quýt sống, cuống quýt yêu, và cuống quýt tận hưởng niềm vui ở cõi trần.
Muốn níu kéo thời gian cũng hoài công vô ích. Thời gian không chờ đợi ai. Kiếp người hữu
hạn, mong manh. “Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” nên mùa xuân có đang reo vui, rực rỡ
cũng hàm chứa một sự tàn phai chia lìa. Cho nên, Xuân Diệu sống vội vàng và kêu gọi mọi
người sống sao cho xứng đáng với những năm tháng ngắn ngủi của cuộc đời. Đó là một
quan niệm nhân sinh mới mẻ và tích cực.

95
CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG BIỂU TƯỢNG TRONG
THƠ XUÂN DIỆU
Làm nên giá trị độc đáo cho biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu là cả một
quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc và đầy sáng tạo. Tìm hiểu về nghệ thuật xây dựng
biểu tượng là để có cái nhìn toàn diện về phong cách nghệ thuật thơ Xuân Diệu cũng như
những đóng góp của Xuân Diệu về thủ pháp xây dựng biểu tượng nghệ thuật trong thơ.
Ngoài tài năng và vốn sống từ kinh nghiệm thực tế, thì thời đại, quê hương, gia đình
cũng ảnh hưởng nhiều đến thế giới nghệ thuật của nhà thơ, ảnh hưởng đến lập trường tư
tưởng và quan điểm sáng tác của ông. Xuân Diệu xuất thân trong một gia đình có cha là tú
tài kép Hán học, đã có thể gọi là xuất thân trong một gia đình có truyền thống Hán học.
Thuở nhỏ ngoài việc học chữ Nho với cha ông còn được học chữ quốc ngữ và cả tiếng
Pháp. Rồi đến những năm tháng tuổi thơ chịu nhiều thiệt thòi, … Tất cả những điều này đều
tác động đến cách nhìn, cách cảm cuộc đời của nhà thơ. Từ đó nó chi phối phong cách sáng
tác, cách lựa chọn từ ngữ, hình ảnh, thủ pháp để nhà thơ xây dựng nên thế giới biểu tượng
đầy ám gợi.
Xuân Diệu là một trí thức Tây học được nhà nước Pháp ở Việt Nam đào tạo bài bản,
nhưng thơ Xuân Diệu vẫn làm say đắm cả một thế hệ thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ và
cho đến ngày nay. Vậy có hay không sự giao hòa giữa Đông và Tây trong thơ Xuân Diệu?
Kế thừa từ thơ ca dân tộc nhưng Xuân Diệu có gì riêng cho mình? Những đặc trưng trong
nghệ thuật xây dựng biểu tượng thơ Xuân Diệu là gì?... Ở chương 3 này, chúng tôi sẽ đi vào
làm rõ những vấn đề về nghệ thuật xây dựng biểu tượng thơ Xuân Diệu.

3.1. Tính hệ thống và sự vận động của biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân
Diệu

3.1.1. Tính hệ thống của biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu

Mối quan hệ giữa các biểu tượng


Biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu giai đoạn sáng tác trước và sau cách
mạng tháng Tám rất đa dạng. Trong luận văn này, chúng tôi khảo sát bốn biểu tượng nghệ
thuật tiêu biểu nhất trong thơ Xuân Diệu là Mùa xuân, Hoa, Trái tim và Trăng. Các biểu
tượng này lần lượt xuất hiện trong thơ Xuân Diệu với tần số khá lớn. Mùa xuân xuất hiện
khoảng 174 lần, Hoa khoảng 400 lần, Trăng 209 lần, Trái tim 122 lần. Như vậy, đó là một

96
sự lặp lại dày đặc trong thơ Xuân Diệu. Thông thường, số lần xuất hiện của một biểu tượng
nào đó thể hiện vai trò chủ đạo của nó trong thơ. Tuy nhiên, qua khảo sát và bước đầu phân
tích sắc thái ý nghĩa của bốn biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu trong thơ Xuân Diệu giai đoạn
sáng tác trước và sau cách mạng tháng Tám, chúng tôi nhận thấy: mỗi biểu tượng có một vai
trò vị trí riêng trong việc thể hiện quan điểm tư tưởng của nhà thơ. Mỗi biểu tượng thể hiện
một khía cạnh tâm hồn Xuân Diệu. Và giữa chúng có một mối quan hệ khăng khít. Chúng
bổ sung và đan cài vào nhau nhằm thể hiện đầy đủ và sinh động về thế giới nghệ thuật của
nhà thơ. Cả bốn biểu tượng nghệ thuật: Mùa xuân, Hoa, Trái tim và Trăng ở một mức độ
nào đó là sự thống nhất trong tư tưởng thơ Xuân Diệu suốt hai giai đoạn sáng tác.
Xuân Diệu là nhà thơ có thế mạnh về ngũ quan. Lúc nào nhà thơ cũng “thức nhọn
giác quan” để đón lấy tất cả những rung động tinh vi nhất của cuộc sống. Chính vì vậy mà
tất cả mọi sự việc, hiện tượng trên trần thế đều trở nên quan trọng với nhà thơ. Xuân Diệu
say mê cái đẹp. Cái đẹp của thiên nhiên, của nghệ thuật và của con người. Trong mùa xuân
có hoa thơm khoe sắc. Mùa xuân còn là mùa của tuổi trẻ. Mùa xuân gắn với tình yêu với trái
tim. Mùa xuân qua đi, hoa rụng rơi tàn phai, tuổi trẻ cũng “chẳng hai lần thắm lại” cho nên
con người rơi vào trạng thái cô đơn, bơ vơ như ánh trăng giữa vũ trụ bao la. Ánh trăng dù là
hình ảnh thiên nhiên vĩnh cửu cũng trở thành nạn nhân trước bước đi vùn vụt của thời gian.
Như vậy biểu tượng Mùa xuân, Hoa, Trăng, Trái tim luôn gắn bó song hành, tương tác và
bổ sung cho nhau để thể hiện quan niệm sống của Xuân Diệu: say mê cái đẹp, yêu đời, yêu
thiên nhiên, yêu cuộc sống đến mãnh liệt, cuồng nhiệt (Xem hình 3.1.). Thơ Xuân Diệu là
tiếng lòng của con người quá đỗi ham sống, quá đỗi khát khao gắn bó với cuộc đời trần thế.
Thơ Xuân Diệu còn là tiếng gọi sống vội vàng, hối hả, sống nhanh, sống tận hiến và tận
hưởng. Xuân Diệu muốn chạy đua với thời gian để níu kéo mùa xuân, níu kéo hương sắc
của cuộc đời. Để có thể diễn tả hết những hồ hởi, gấp gáp, vội vả ấy, thơ Xuân Diệu phải là
những lời thơ có sức lan tỏa mạnh. Lời thơ như những lời tâm huyết của tác giả chảy tràn ra
khắp mọi nơi.
Mỗi biểu tượng đều có một ý nghĩa biểu trưng khác nhau. Tuy nhiên vì cùng mục
đích phản ánh thế giới nghệ thuật của tác giả nên bao giờ giữa chúng cũng có một mối quan
hệ nhất định. Có thể nói các biểu tượng trong thơ Xuân Diệu là một chuỗi những biểu tượng
giàu ý nghĩa, đa dạng về sắc thái. Chúng đều có một mục tiêu duy nhất là thể hiện một cách
toàn vẹn, đầy đủ tâm hồn, tư tưởng, nhân cách của nhà thơ.

97
BT

Mùa
Tình yêu Thiên nhiên
xuân

BT Thời BT
gian
Trái tim Hoa

Nỗi cô đơn BT Nghệ thuật


Trăng

Hình 3.1.: Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu

(BT: viết tắt của Biểu tượng)

Ý nghĩa của chuỗi biểu tượng trong thơ Xuân Diệu


Biểu tượng thường gắn với thơ tượng trưng. Đặc trưng nổi bật của biểu tượng là giàu
sức gợi. Xuân Diệu vốn là nhà thơ lãng mạn nhưng trong thơ ông chúng ta vẫn tìm thấy một
loạt các biểu tượng nghệ thuật. Điều đó chứng tỏ, Xuân Diệu muốn tạo ra một thế giới nghệ
thuật đa dạng và phong phú. Phô bày nhưng cũng ẩn dấu đủ để kích thích sự khám phá của
người đọc.
Chuỗi biểu tượng nghệ thuật trước hết có vài trò nòng cốt trong việc hình thành ý đồ
nghệ thuật của thơ Xuân Diệu. Bởi tính chất gợi và nén của biểu tượng giúp cho nhà thơ gửi
gắm những thông điệp cảm nhận về thế giới khách quan, về những ước muốn khao khát của
nhà thơ.
Thứ hai, xây dựng chuỗi biểu tượng trong thơ mình, Xuân Diệu đã mang đến những
ấn tượng mạnh mẽ cho hình ảnh thơ. Nếu không có biểu tượng nghệ thuật, hình ảnh thơ sẽ
thiếu sức hút, nhạt nhòa, không để lại dấu ấn lâu dài cho tác phẩm.
Thứ ba, có nhiều cách để tỏ bày tâm tư tình cảm cũng như những triết lý về cuộc
sống, nhưng thể hiện qua biểu tượng là một cách làm mới thơ ca khỏi những cái nhàm chán
quen thuộc. Chỉ có những điều thật mới mẻ và ẩn chứa nhiều ý nghĩa mới mang lại sức sống
lâu bền cho tác phẩm. Giữa biết bao nhiêu vần thơ của biết bao nhiêu nhà thơ, làm thế nào
để thơ của mình in sâu vào lòng độc giả? Làm thế nào nhà thơ vừa nói cho chính mình vừa

98
nói thay cho tiếng lòng của người khác? Điều đó phụ thuộc vào phong cách nghệ thuật của
nhà thơ.
Biểu tượng vốn dĩ bắt nguồn từ vô thức tập thể. Biểu tượng phần nào phản ánh đời
sống tâm hồn của cá nhân nhà thơ. Tiếp cận với chuỗi biểu tượng của trong thơ Xuân Diệu,
người đọc sẽ khái quát được bộ mặt của xã hội và văn nghệ lúc bấy giờ. Khám phá biểu
tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu tức là khám phá đời sống tinh thần nhà thơ. Như là
một sứ giả nghệ thuật trung thành, không biết nói dối, chuỗi biểu tượng nghệ thuật phần nào
phản ánh một cách trung thực và khái quát về sự nghiệp thơ của Xuân Diệu. Sự nghiệp thơ
của Xuân Diệu trải dài từ 1938 đến 1982, từ tập thơ đầu tay Thơ Thơ cho đến tập thơ cuối
cùng của cuộc đời ông tập Thanh Ca. Một sự nghiệp thơ phong phú. Đi vào tìm hiểu chuỗi
biểu tượng nghệ thuật Mùa xuân – Hoa – Trái tim – Trăng giúp cho người đọc thấy được sự
thống nhất trong tư tưởng và phong cách nghệ thuật thơ Xuân Diệu ở giai đoạn trước và sau
cách mạng tháng Tám 1945. Và xa hơn là đánh giá thơ Xuân Diệu sao cho xứng đáng với
những gì mà Xuân Diệu đã để lại cho thơ ca dân tộc và cho cuộc đời.

3.1.2. Sự vận động của hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu

Nói về sự vận động của hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu là đề
cập đến quá trình sáng tác cả hai giai đoạn của nhà thơ: trước và sau cách mạng tháng Tám
1945. Các biểu tượng nghệ thuật Mùa xuân, Hoa, Trăng, Trái tim xuất hiện cả trong hai giai
đoạn sáng tác của Xuân Diệu. Chúng xuất hiện xuyên suốt trong sự nghiệp thơ của ông.
Nhưng ở mỗi giai đoạn chúng đều có những nét nghĩa riêng. Có những nét nghĩa mà ở giai
đoạn này có nhưng giai đoạn sau không có. Hoặc, có nét nghĩa xuất hiện ở giai đoạn trước
làm cơ sở vững chắc cho sự xuất hiện của một nét nghĩa khác ở giai đoạn sau.
Biểu tượng Mùa xuân ở giai đoạn trước cách mạng tháng Tám 1945 là biểu tượng
của sự ám ảnh thời gian nhưng đến giai đoạn sau, nét nghĩa đó không còn nữa. Nói là hoàn
toàn không còn nữa thì không chính xác. Bởi sự ám ảnh về thời gian chẳng qua là một biểu
hiện của lòng ham sống, của tình yêu đời. Mà lòng ham sống, tình yêu đời đến cuồng nhiệt
trong thơ Xuân Diệu trước 1945 chính là nền tảng cho những vần thơ ca ngợi đất nước, ca
ngợi nhân dân, ca ngợi chủ nghĩa xã hội. Mùa xuân trong thơ Xuân Diệu trước cách mạng
tháng Tám là thiên đường trần thế với:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,

99
Này đây lá của cành tơ phơ phất,
Của yến anh này đây khúc tình si,
(Vội vàng)
Sau cách mạng tháng Tám, mùa xuân trong thơ ông là mùa vui ấm no, bình yên của
nhân dân, đất nước:
Gió xuân – lá lúa như reo múa
Như ngón tay dài của đất thanh
… Thấy xuân thêm sức muồn bừng lên
… Gió xuân thổi tới tận miền Nam
(Lá lúa xuân)
Thơ Xuân Diệu vẫn là một giọng điệu hồ hởi, say mê trước mùa xuân. Nhưng có
khác chăng là mùa xuân trước kia là mùa xuân của riêng thi sĩ, mùa xuân với ong bướm rập
rờn; nay mùa xuân chỉ là hình ảnh những cánh đồng lúa xanh tươi. Mùa xuân không còn
kiêu sa, đài các mà trở nên giản dị, bình dân.
Ở biểu tượng hoa cũng vậy. Hoa trong thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám
thường là những bông hoa rực rỡ sắc màu như phù dung, hoa hồng, lan, huệ, … Sau cách
mạng hoa trong thơ Xuân Diệu là hoa sim, hoa cau, hoa cải cúc, hoa mận, hoa trứng cá,
bông trang, … Có một điều đáng lưu ý ở biểu tượng hoa trong thơ Xuân Diệu. Đó là trong
thơ mình Xuân Diệu không tập trung miêu tả hay xây dựng biểu tượng về một loài hoa cụ
thể nào. Xuân Diệu khác với Xuân Quỳnh. Trong thơ Xuân Quỳnh chúng ta thấy hoa cúc
vàng hay hoa dại là loài hoa ám ảnh nhất. Hoa trong thơ Xuân Diệu là cả một thế giới hoa.
Có cả hoa tâm tưởng và hoa thực thể: hoa hồng, cúc, lan, huệ, sen, hoa bìm, hoa sim tím,
hoa cau, hoa mận, tường vi, hoa hường, hoa tâm, … Nói đến hoa người ta thường nói đến
biểu tượng về người phụ nữ. Và trong thơ Xuân Diệu cũng vậy. Tuy nhiên, biểu tượng hoa
ấy không gắn với một loài hoa cụ thể nào. Hoa chỉ là cảm hứng. Xuân Diệu là nhà thơ say
mê, ngưỡng mộ cái đẹp. Hoa chính là biểu tượng của người đẹp trong thơ ông. Với Xuân
Diệu, mỗi loài hoa có một màu sắc, hương thơm khác nhau, như mỗi một con người có sức
hút, vẻ đẹp khác nhau. Hoa chỉ là hương sắc của cuộc đời mà Xuân Diệu như là con bướm
say hoa. Như Xuân Diệu đã từng ví mình “Tôi như con bướm đắm tình thương, / Bay vòng
hoa đẹp để tìm vây hương” (Phơi trải).
Hoa trong thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám 1945 nổi bật là biểu tượng hoa
tàn, hoa rụng. Đó là biểu tượng của sự tàn phai, sự chảy trôi của thời gian:

100
Hơn một loài hoa đã rụng cành
(Đây mùa thu tới)
Nắng mọc chưa tin, hoa rụng không ngờ
(Giục giã)
Hoa nở để mà tàn
(Hoa nở để mà tàn)
Nhưng đến giai đoạn sáng tác sau 1945, hoa trong thơ Xuân Diệu không còn là hoa
tàn nữa. Thời gian chảy trôi không còn là nỗi ám ảnh dữ dội trong thơ ông. Bởi thay vì tiếc
nuối, buồn đau vì thời gian một đi không trở lại, Xuân Diệu đã biết chấp nhận và sống thật
đáng sống như một cách để tồn tại mãi mãi cùng thời gian.
Ở biểu tượng Trăng và Trái tim cũng có sự thay đổi ý nghĩa giữa hai giai đoạn sáng
tác. Trăng trong thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám là biểu tượng của nỗi buồn cô
đơn. Đến giai đoạn sau cách mạng tháng Tám, nét nghĩa đó của biểu tượng trăng không còn
nữa. Thay vào đó, nét nghĩa về tình yêu Tổ quốc được bổ sung và phát triển từ nét nghĩa
tình yêu thiên thiên, nghệ thuật trước đó. Hay ở biểu tượng trái tim cũng tương tự như vậy.
Sở dĩ có sự thay đổi nét nghĩa của các biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu trong hai giai
đoạn sáng tác của Xuân Diệu là do sự thay đổi về tư duy nghệ thuật của chính Xuân Diệu.
Trước 1945, Xuân Diệu say mê cảnh trời, khao khát giao cảm với người, với đời nhưng nỗi
buồn thế hệ vẫn còn đeo đẳng. Cho nên những biểu tượng này ở giai đoạn trước đều mang
nét nghĩa về nỗi buồn, hay về sự tàn phai. Cách mạng tháng Tám thành công, mở ra một
trang tươi sáng cho lịch sử dân tộc, mang về niềm vui độc lập, tự do cho nhân dân. Cách
mạng tháng Tám cũng giúp cho Xuân Diệu vững vàng hơn trong quyết định chọn lối đi cho
cuộc đời và sự nghiệp thơ ca của mình. Ánh sáng của Đảng, của cách mạng đã mang đến
cho thơ ông nguồn cảm hứng mới. Khi con người tìm ra lí tưởng cho cuộc đời mình thì lúc
ấy họ mới thấy cuộc đời có ý nghĩa và thêm yêu cuộc sống. Lý do thứ hai làm nên thay đổi
trong sự vận động thơ Xuân Diệu chính là kinh nghiệm sống từ những va chạm. Sau 1945,
khi đã qua những năm tháng trẻ tuổi sôi nổi và có cả nông nỗi, lời thơ Xuân Diệu trở nên
chín chắn hơn. Giọng thơ Xuân Diệu sau 1945 nghiêng về tự sự, triết lý mà không kém
phần hấp dẫn.

3.2. Những đặc trưng nổi bật về nghệ thuật xây dựng biểu tượng trong thơ Xuân
Diệu

3.2.1. Thủ pháp tạo nên sắc thái của biểu tượng
101
Để tạo nên giá trị của biểu tượng nghệ thuật trong thơ mình, Xuân Diệu đã sử dụng
nhiều thủ pháp nghệ thuật. Trong đó, nhà thơ chú ý đặc tả sắc thái của những biểu tượng
nghệ thuật. Có nhiều cách thức tạo độ đậm độ nhạt, lung linh cho biểu tượng. Trong thơ
Xuân Diệu, chúng tôi nhận thấy mức độ sử dụng các động từ, tính từ, từ láy là rất cao.
Những động từ, tính từ, từ láy được nhà thơ sắp xếp vị trí phù hợp bên cạnh biểu tượng
nghệ thuật đã tạo nên bộ mặt đa dạng và sinh động của biểu tượng.
Động từ
Trong thơ ca Việt Nam nói chung và phong trào Thơ mới nói riêng, Xuân Diệu là
một hồn thơ luôn “thức nhọn giác quan” để sống, khám phá và tận hưởng cuộc sống. Thơ
Xuân Diệu luôn là dòng chảy ào ạt của lòng ham sống, khao khát gắn bó với cuộc đời và
con người. Thơ Xuân Diệu là tình yêu nồng nhiệt của nhà thơ dành cho trần gian. Với lòng
yêu đời mãnh liệt ấy, chỉ có những động từ mạnh, nhanh, gấp mới có thể diễn tả hết nỗi lòng
của Xuân Diệu. Xuân Diệu đã sử dụng rất nhiều lần và rất đạt các động từ thể hiện cảm xúc
của mình. Việc sử dụng động từ trong thơ Xuân Diệu không phải là một việc làm đơn giản,
nhất thời. Động từ trong thơ Xuân Diệu xuất hiện một cách có chủ ý và chúng tạo thành một
hệ thống. Chúng được nhà thơ dụng công lựa chọn, sắp đặt sao cho chúng biểu đạt chính
xác nhất, đầy đủ nhất ý nghĩa của các biểu tượng nghệ thuật cạnh nó. Nhờ có các động từ
này mà giá trị của biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu được tăng lên.
Giữa trăm nghìn câu thơ, ta vẫn nhận ra phong cách Xuân Diệu:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
… Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
… Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
(Vội vàng)
Để nói về thành công đặc sắc của việc sử dụng động từ “cắn” trong câu thơ này,
chúng tôi xin dẫn lời của nhà thơ Thanh Thảo trong bài Với Xuân Diệu, kì diệu nhất là đời:
“Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi! là một câu thơ mang thương hiệu Xuân Diệu. Có
lẽ trong rất nhiều động từ thể hiện cái cảm giác vồ vập, siết chặt, níu giữ hay sợ hãi một cái
gì trôi tuột, thì động từ “cắn” mà Xuân Diệu dùng cho câu thơ này là mạnh mẽ và chính
xác nhất. Xuân Diệu chỉ chơi một chữ “cắn” thế là xong béng tất cả những cảm giác,
những cảm xúc, những cảm thấy về những gì tuyệt ngon, tuyệt đẹp, tuyệt khoái cảm mà mùa
xuân mang lại cho con người”[67]. Với động từ “cắn” Xuân Diệu đã biến mùa xuân, mùa

102
của thiên nhiên thành một thực thể hữu hình, có thể sờ, chạm. Và rồi mùa xuân bỗng trở nên
sống động, có hồn hơn:
Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn
Làm dây da quấn quýt cả mình xuân
Đã nhiều lần Xuân Diệu sử dụng động từ “ôm” để thể hiện sự nồng nhiệt của mình với mùa
xuân. “Ôm” để chiếm lấy và “ôm bó” để giữ lại, níu chặt không cho cử động, di chuyển, rời
xa. Động từ “quấn quýt” gợi hình ảnh mùa xuân như tình nhân mà nhà thơ khao khát gần
gũi với niềm say mê nồng nàn. So với cách dùng động từ trong thơ Nguyễn Bính thì ta sẽ
thấy sự khác hẳn về phong cách hai tác giả.
Thôn đoài ngồi nhớ thôn đông
Một người chín nhớ mười mong một người
(Tương tư)
Trong thơ Nguyễn Bính, đó chỉ là sự tương tư, nhớ mong nhẹ nhàng trong tình ái. Trái hẳn
với cách thể hiện vồ vập, cuồng nhiệt của Xuân Diệu. Vì vậy mà biểu tượng thơ Xuân Diệu
mang sắc thái đặc trưng của riêng ông.
Thường, người ta nói lá rụng, hoa rụng… là những sự vật có hình dáng cụ thể.Vậy
mà Xuân Diệu viết:
Sắc tàn, hương nhạt, mùa xuân rụng!
(Xuân rụng)
Động từ “rụng” được đặt sau biểu tượng mùa xuân khiến cho câu thơ gợi liên tưởng
bất ngờ. Mùa xuân giống như một đóa hoa của tạo hóa ban tặng cho con người. Khi mùa
xuân qua đi cũng giống như đóa hoa đang tươi thắm bỗng chốc héo tàn, nhạt cả hương sắc.
Bên cạnh đó, động từ “rụng” còn gợi về cảm giác tê tái, đau đớn của nhà thơ trước sự phai
nhạt nhanh chóng của mùa xuân, trước sự trôi chảy mau lẹ của thời gian.
Thơ Xuân Diệu là thơ của một tâm hồn nhạy cảm. Xuân Diệu nhạy cảm với cuộc đời,
với tình yêu, với thời gian. Ý thức về sự hữu hạn của con người nên thơ ông tràn đầy những
trăn trở, tiếc nuối về những phút ngắn ngủi, về ‘‘tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại’’. Ông sợ
hãi trước những đổi thay của người đời “Sự thật hôm nay không thật đến ngày mai / Đời trôi
chảy lòng ta không vĩnh viễn”. Điều đó làm Xuân Diệu hốt hoảng, vội vàng, giục giã.
Nhưng càng tìm kiếm lại càng vô vọng bởi hơn ai hết Xuân Diệu hiểu rằng con người vốn
nhỏ bé giờ lại càng cô đơn, bất lực trước thời gian:
Giờ tàn như những cánh hoa rơi

103
(Giờ tàn)
Sắc hè bông phượng rớt từng đôi
(Nhớ mông lung)
Và giữa vườn im, hoa run sợ hãi
Bao nỗi phôi pha, khô héo, rụng rời.
(Tiếng gió)
“Run” trong Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê chỉ: “trạng thái rung động nhẹ chân
tay hoặc cơ thể do hàng loạt co giật khẽ của các cơ, gây ra bởi một nguyên nhân sinh lí hay
tâm lý”. Điều này có nghĩa “run” là động từ chỉ trạng thái, ý thức của con người (động vật).
Nay Xuân Diệu dùng để nói về “hoa run sợ hãi” trước “bao nỗi phôi pha, khô héo, rụng
rời”. Hoa run sợ trước những giờ khắc sắp tàn phai hương sắc của nó. Hay đó chính là nỗi
hoảng sợ, thảng thốt của nhà thơ trước sự bào mòn của thời gian lên cuộc sống. Động từ
“run” đã mang đến cái thần cho biểu tượng hoa.
Trước cách mạng tháng Tám 1945, biểu tượng hoa trong thơ Xuân Diệu chủ yếu là
hoa rơi, hoa rụng, hoa tàn, hoa muôn cánh rã, hoa rơi không tiếng, hoa nở để mà tàn, …
Hoa được Xuân Diệu xây dựng thành biểu tượng nghệ thuật đi kèm với các động từ nở, rơi,
tàn, úa, rụng, … Kiếp hoa “sớm nở tối tàn”. Kiếp người cũng như kiếp hoa. Các động từ
miêu tả trạng thái “hoa tàn” rất đa dạng tạo nên sắc thái phong phú cho biểu tượng nghệ
thuật hoa.
Đối với biểu tượng Trăng, hay biểu tượng Trái tim cũng vậy. Xuân Diệu vẫn cố tình
sắp đặt hệ thống động từ bên cạnh để bổ sung và làm tăng thêm sắc thái ý nghĩa cho biểu
tượng:
Ghì trước trái tim, ghì trước ngực,
(Bài thơ tuổi nhỏ)
Hành động “ghì” là hành động thể hiện sự mạnh mẽ, quyết liệt, dai dẳng của nhà thơ
khi muốn níu giữ cuộc sống, níu giữ thiên đường trên mặt đất. Nó xuất phát từ trái tim luôn
rộng mở để đón lấy ngọn gió cuộc đời, đón lấy những rung động của tình yêu thiên thiên,
yêu loài người:
Nghìn trái tim mang trong một trái tim
(Cảm xúc)
Không cần nói trái tim dường mở hé
(Kỉ niệm)

104
Đó là con tim khao khát yêu đương, khao khát tình ái:
Trái tim ta chuyện thầm thì cùng nhau
(Anh về Ấm Thượng)
Trái tim anh nói bồi hồi
Mà tim em cũng trao lời vấn vương
(Kỉ niệm)
Trong thơ sáng tác ở giai đoạn trước 1945, trái tim trong thơ Xuân Diệu ngoài việc là
biểu tượng cho lòng ham sống, trái tim con là biểu tượng của nỗi buồn cô đơn chưa tìm lấy
lối đi lí tưởng. Để diễn tả tâm trạng rối bời, bế tắc của cái tôi cá nhân lúc bấy giờ, Xuân
Diệu đã khắc họa trái tim với các động từ miêu tả trạng thái: đau, ngừng, than thở, lưu lạc,

Hạnh phúc ngừng giữa đôi trái tim đau
(Biệt li êm ái)
Trái tim chiều than thở giữa lau cao
(Tình mai sau)
Ý thức được tâm trạng ấy, sau này khi đã đi theo ánh sáng của cách mạng, theo
đường lối của Đảng, có đôi lúc cảm giác bơ vơ, lạc lõng khi xưa lại trở về. Nhưng đó chỉ là
nhất thời.
Sau 1945 Xuân Diệu đã làm mới cho biểu tượng trái tim trong thơ mình. Hình ảnh
trái tim trở nên mạnh mẽ khi kết hợp với các động từ mạnh như quăng, hiến, xé vỡ, … Đó là
biểu tượng cho lòng căm thù, ý chí của những con người anh hùng trong cuộc kháng chiến
chống kẻ thù xâm lược:
Trái tim quăng như lựu đạn ném chi
(Trận trường kì)
Và là biểu tượng của tình yêu quê hương, đất nước mãnh liệt:
Ta yêu mình đến nỗi trái tim ta xé vỡ…
(Lời thề)
Trái tim chúng ta hiến máu cho cả cuộc đời
(Nhân dân đáng yêu)
Động từ trong thơ Xuân Diệu rất đa dạng, lớp lang và có giá trị nghệ thuật. Nó mang
lại sắc thái phong phú cho các biểu tượng nghệ thuật trong thơ ông. Trên đây, chúng tôi chỉ
đưa ra một vài ví dụ tiêu biểu về cách dùng động từ trong việc xây dựng biểu tượng nghệ

105
thuật thơ Xuân Diệu. Nhờ những động từ này mà các biểu tượng nghệ thuật trở nên sống
động, gợi cảm và giàu ý nghĩa.
Tính từ

Cũng giống như động từ, những tính từ trong thơ Xuân Diệu cũng được lựa chọn, sắp
xếp thành một hệ thống có chọn lọc nhằm tăng giá trị, sắc thái ý nghĩa cho các biểu tượng.
Tính từ trong thơ Xuân Diệu có thể là tính từ chỉ màu sắc, trạng thái, tính chất của sự vật,
hiện tượng. Nó thường giữ vai trò làm vị ngữ hoặc làm định ngữ bổ nghĩa cho biểu tượng.
Hoặc các tình từ này chỉ miêu tả sự việc, hiện tượng như chính nó. Hoặc các tính từ góp
phần làm thay đổi, mang lại sắc màu mới, ý nghĩa mới, bộ mặt mới cho biểu tượng nghệ
thuật. Chẳng hạn như:
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
(Vội vàng)
Mùa xuân trong câu thơ này được miêu tả với hai trạng thái đối lập nhau “non ><
già”. Mùa xuân đi từ “non” đến “già”. Mùa xuân không có tuổi nhưng trong thơ Xuân
Diệu mùa xuân có “non” nên cũng có “già”. Mùa xuân đến là lúc mùa xuân còn tươi mới,
rực rỡ, non tơ. Và lúc ấy cũng có nghĩa rằng mùa xuân cũng sẽ nhanh chóng tàn phai. Hai
tính từ trái nghĩa “non, già” giúp gợi nên sự hao mòn của vạn vật trước sự khắc nghiệt của
thời gian. “Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già” gợi ta nhớ đến câu ca dao: “Trăng bao nhiêu
tuổi trăng già / Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non”. Phải chăng Xuân Diệu đã tiếp thu và
phát triển ý thơ ấy từ ca dao của dân tộc . Có lẽ vì vậy mà biểu tượng mùa xuân có thêm sắc
thái mới. Mùa xuân đầu còn được ví như tình yêu đầu tiên đầy ngây thơ, trong trắng:
Xuân đầu mùa trong sạch vẻ ban sơ

(Tình thứ nhất)

Xây dựng biểu tượng trăng trong thơ mình, Xuân Diệu thường dùng các tính từ như:
xa, rộng, đẹp, ngà, lạnh, ... Các tính từ này thường gợi về biểu tượng của vẻ đẹp thiên nhiên
vĩnh cửu, về ước mơ và khát vọng nghệ thuật của người nghệ sĩ. Bên cạnh đó, những tính từ
chỉ khoảng cách như xa, rộng, chỉ cảm giác như lạnh … còn giúp khơi nguồn một nỗi cô
đơn, lẻ loi của con người giữa vũ trụ bao la, vĩnh hằng.
Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá
(Trăng)
Người là trăng, hỡi trăng đẹp bình yên

106
Hỡi trăng đẹp, ngươi là trăng náo nức;
… Trăng của xa xôi, trăng của hão huyền
(Ca tụng)
Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da
… Xao xác tiếng gà. Trăng ngà lạnh buốt
(Lời kỹ nữ)
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
(Nguyệt Cầm)
Những tính từ chỉ trạng thái cảm xúc như thương, nhớ góp phần cho biểu tượng trăng
gợi về một nỗi buồn lan tỏa, một nỗi cô đơn mơ hồ của thiên thiên đang xâm chiếm lấy hồn
con người. Trăng vừa là chủ thể vừa là khách thể của nỗi buồn. Như lời Nguyễn Khánh Thư
trong bài viết Nguyệt Cầm – Một nốt nhạc buồn của Xuân Diệu: “Tạo vật đã được "nội
cảm hoá", nhà thơ biến cái vô hình trở nên hữu hình. Trăng […] trở thành sinh thể sống
bằng rung cảm và tâm tình của nhà thơ. Từ buồn, thương và nhớ ấy, cảm giác lạnh buốt tê
cứ chợt xâm chiếm cảm quan người đọc”[46].
Có lúc Xuân Diệu miêu tả trăng với một sắc màu rất đặc biệt:
Trăng thu thường thấy trắng phau
(Bụi mưa mờ cũ)
Vầng trăng mùa thu với gam màu “trắng phau” thường tạo cảm giác trống trải, vắng
vẻ và hơn cả là một nỗi buồn cô đơn. Màu “trắng” là gam màu lạnh. Tác giả dùng “trắng
phau” tức là trắng gấp nhiều lần. Trắng không một chút pha lẫn. Vầng trăng mùa thu với
màu “trắng phau” còn giúp người đọc liên tưởng đến hình ảnh thời gian trôi qua nhanh đến
mức lôi kéo bào mòn tất cả những gì chung quanh vầng trăng và làm hao mòn cả “bóng
vàng”. Tính từ chỉ màu sắc trong thơ Xuân Diệu rất đa dạng. Nó có thể là những gam màu
thực, gam màu hư. Cũng có thể là gam màu của cảm xúc, của tâm tưởng hay của tự nhiên,
của hiện thực. Nó góp phần tạo nên thế giới biểu tượng đa sắc trong thơ ông.
Đôi lúc tính từ được Xuân Diệu sử dụng còn góp phần thể hiện thủ pháp giao hòa
giữa các giác quan:
Lá hơi úa và mùi hoa hơi đắng
(Tặng thơ)

107
“Mùi hoa”, tức là đang nói về khứu giác, nhưng “mùi hoa hơi đắng” thì đã chuyển
sang vị giác. Đây không đơn giản là sự chuyển đổi các giác quan mà xa hơn là sự giao hòa,
tương tác các giác quan (phép tương giao của chủ nghĩa tượng trưng).
Hay đôi lúc, những tính từ chỉ màu sắc được sử dụng như một công cụ đắc lực làm
tăng sự ám gợi cho biểu tượng. Ví như:
Héo tim xanh cho quá độ tài tình
(Lời thơ vào tập gửi hương)
Trái tim dũng mãnh, đập hộ cho cả thế gian
(Sự sống chẳng bao giờ chán nản)
“Tim xanh” là biểu tượng của trái tim trẻ trung, của tấm lòng nồng nhiệt, khao khát
cống hiến cho thơ, cho cuộc đời. Trong thơ Xuân Diệu, màu xanh là màu của lòng nhiệt
thành, của tấm chân tình. Trong thơ Xuân Quỳnh, sắc màu ấy lại mang một ý nghĩa khác.
Đó là màu của “chồi biếc”, của “trời biếc lúc nguyên sơ” hay đó là màu của niềm tin:
Và niềm tin cũng là ở đó
Tôi chẳng tìm mà đã có từ lâu
Như trời xanh sẵn có ở trên đầu
(Chúng tôi)
Hai phong cách khác nhau nên dụng ý sử dụng tính từ chỉ màu sắc cũng khác nhau.
Nhưng có lẽ, cả hai, Xuân Diệu và Xuân Quỳnh đều gặp gỡ nhau ở một khía cạnh. Đó là
tình yêu cuộc sống thắm thiết.
Và, có khi, những tính từ bên cạnh biểu tượng giúp gợi về khí thế hào hùng, âm vang
của những năm tháng chống giặc cứu nước:
Đỏ rừng rực máu trong tim chảy
(Người thợ rèn nghe chuyện miền Nam)
Ngăn sao máu đỏ vọt từ tim ta
(Đánh lên đầu Mỹ)
Từ láy
Từ láy là một lớp từ quan trọng trong tiếng Việt. Xung quanh vấn đề từ láy vẫn còn
rất nhiều quan điểm trái ngược nhau. Nhưng ở đây, chúng tôi thống nhất với quan điểm của
tác giả Đỗ Hữu Châu: từ láy được cấu tạo theo phương thức hòa phối ngữ âm, có từ 2, 3, 4
tiếng, giữa các tiếng trong một từ có quan hệ về ngữ âm, có tác dụng tạo nghĩa và tạo sắc
thái cho từ. Theo Đỗ Hữu Châu: “Láy là một phương thức cấu tạo từ đặc sắc của tiếng

108
Việt. Mỗi từ láy là một nốt nhạc về âm thanh, chứa đựng trong một “bức tranh” cụ thể của
giác quan: thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác, vị giác và kèm theo những ấn tượng về
sự cảm thụ chủ quan của những cách đánh giá, những thái độ của người nói trước sự vật,
hiện tượng, đủ sức thông qua các giác quan hướng ngoại và hướng nội của người nghe,
người đọc, mà tác động mạnh mẽ đến họ. Cho nên các từ láy là những công cụ tạo hình rất
đắc lực của nghệ thuật văn học, nhất là thơ ca”. [5,34]
Như vậy, với công cụ là từ láy, vốn là một lớp từ độc đáo có tính gợi hình, gợi cảm
rất cao, Xuân Diệu đã xây dựng các biểu tượng nghệ thuật của mình thêm đa sắc, đa diện.
Mỗi một từ láy là một sự ẩn chứa khả năng cảm nhận thế giới khách quan và bộc lộ
cảm xúc chủ quan của nhà thơ.
Mùa xuân là mùa của sự tươi đẹp với cuộc đời và với con người. Mùa xuân được các
thi nhân cảm nhận khác nhau, mỗi người mỗi hình mỗi vẻ. Nhà thơ Thanh Hải có “Mùa
xuân nho nhỏ”, Anh Thơ có “Chiều xuân” trong khung cảnh không âm thanh, im ắng của
xóm làng dưới màn mưa bụi bay:
Mưa bụi đổ êm êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng,
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Và trong thơ Hàn Mặc Tử cũng dùng từ láy để miêu tả Mùa xuân chín đầy âm thanh
của sự quyến luyến, bâng khuâng giữa người và cảnh:
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý nhị và thơ ngây
Mùa xuân cũng đến với thơ Xuân Diệu như một biểu tượng của sự sống, tình yêu:
Giữa vườn ánh ỏi tiếng chim vui
…Sao buổi đầu xuân êm ái thế
…Cây vàng rung nắng, lá xôn xao
Gió thơm phơi phất bay vô ý
…Tóc liễu buông xanh quá mỹ miều
(Nụ cười xuân)

109
Các từ láy ánh ỏi, êm ái, xôn xao, phơi phất, mỹ miều vừa gợi âm thanh vừa gợi hình
ảnh mùa xuân tươi đẹp. Mùa xuân đến cùng với tiếng chim vui ca, với nắng vàng, hoa lá
khoe màu. Chỉ cần từ láy “ánh ỏi, xôn xao” cũng cho ta thấy một mùa xuân của riêng Xuân
Diệu. Trong cái “ánh ỏi” và “xôn xao” ấy là cả một tâm hồn đang háo hức mong chờ nàng
xuân. “Ánh ỏi” vừa gợi màu sắc tươi sáng của khung cảnh vừa mang đến âm thanh của chim
chóc ríu rít. Riêng từ láy “xôn xao” là từ láy âm cách điệu. Nó vừa miêu tả sự rộn ràng của
thiên nhiên trước mùa xuân vừa diễn tả tâm trạng náo nức, hồ hởi của Xuân Diệu. Giữa tâm
trạng hồ hởi ấy là một chút gì “êm ái” trong cõi lòng của tác giả, tựa như tình nhân vừa mới
bén duyên với nàng xuân “mỹ miều”.
Thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám còn gợi nhiều nỗi buồn, nỗi cô đơn.
Tâm trạng ấy không chỉ là của riêng cá nhân tác giả. Nó còn là nỗi buồn cả thế hệ không tìm
được lối ra giữa những bế tắc thời đại. Giữa một không gian thơ mộng, huyền ảo của trăng,
tác giả lại cảm thấy bơ vơ:
Bâng khuâng tôi tiếc dậm lên vàng,
Tôi sự đường trăng tiếng dậy vang,
Ngơ ngác hoa duyên còn núp lá,
… Dịu dàng đàn những ánh tơ xanh
Cho gió du dương dịu múa cành
… Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ
(Trăng)
Bâng khuâng, du dương, bơ vơ là những từ láy âm cách điệu kết hợp với từ láy sắc
thái hóa ngơ ngác và dịu dàng tạo nên một không gian không có thời gian. Chỉ có một
không gian đầy trăng, đầy ánh sáng. Chỉ có một không gian của cảm xúc. Một cảm xúc dịu,
nhẹ nhưng chơ vơ và gợi sự tĩnh lặng đến trống vắng, mênh mông. Có lẽ vì vậy mà nhà thơ
không khỏi buồn vì “bơ vơ”.
Là một người luôn khao khát tình yêu, luôn muốn gắn bó với cuộc đời, Xuân Diệu
muốn thu nhặt tất cả những gì mà trần thế này đang có ở hiện tại. Và không chỉ thế, Xuân
Diệu còn muốn níu giữ quá khứ. Bởi với con người, quá khứ luôn là kỉ niệm đẹp. Điều đó
được Xuân Diệu gởi gắm trong biểu tượng hoa. Những bông hoa phượng nở gợi về những
cảm xúc đã qua:
Biển bướm đỏ rào rào trong gió mát
Lá non xanh như suối chảy trên trời

110
Phương, phượng hỡi! Cớ sao mà man mác,
Mỗi mùa hè run rẩy với triều môi
Xanh đã ngủ dưới trời yên tĩnh
Đỏ còn ngân trong tiếng nói dịu dàng
Ta mơ màng thấy gió đang sóng sánh
Trống sân trường văng vẳng đánh – mười năm
(Phượng mười năm)
Bông phượng nở đỏ như “biển bướm” bay “rào rào” trong gió ở hiện tại đã gợi nhớ
về những hồi ức xa xăm, về những năm tháng tuổi trẻ. Loài hoa phượng là biểu tượng của kỉ
niệm, của thuở còn cắp sách đến trường. Các từ láy “man mác, run rẩy, dịu dàng, mơ màng,
sóng sánh” nối tiếp nhau như vẽ ra một khoảng trời ngày xưa, vừa ẩn vừa hiện trong trí
nhớ của tác giả. Từ “man mác” diễn tả sự lan tỏa trong một không gian bao la, quạnh vắng;
còn từ “mơ màng” diễn tả sự thấy thoáng hiện ra, phảng phất một cách không rõ ràng. Các
từ láy kết hợp với nhau gợi về hình ảnh trong quá khứ với thoáng chút nỗi buồn tiếc nuối,
ngẩn ngơ của nhà thơ. Tiếng trống trường ở đâu “văng vẳng” đánh lên cũng là lúc nhà thơ
giật mình nhận ra sự thật ở hiện tại. “Văng vẳng” là từ láy gợi âm thanh, vừa gợi cảm giác
về sự thảng thốt. Tất cả chỉ còn là kỉ niệm. Hoa phượng vẫn nở đỏ rực nhưng ngày ấy và
bây giờ đã là một khoảng cách xa vời – “mười năm”. Dưới gót thời gian, tất cả đều không
còn rõ ràng nữa, chỉ còn lại chút hình ảnh “mơ màng, sóng sánh” và chút âm thanh “dịu
dàng”. Chỉ có tâm trạng tiếc nuối, tấm lòng hoài niệm với những gì đã qua là vẫn mãi “run
rẩy”.
Trạng thái “run rẩy” còn xuất hiện nhiều lần nữa trong thơ Xuân Diệu: “tất cả tôi
run rẩy tựa dây đàn”, “những luồng run rẩy rung rinh lá” và:
Chim hôm run rẩy trong tim nhỏ
(Núi xa)
Trái tim “run rẩy” là biểu tượng của một tâm hồn nhạy cảm với cuộc sống. Chính vì
quá nhạy cảm nên bao giờ trái tim ấy cũng luôn cảm thấy lạc lõng. Bao nhiêu ước muốn,
bao nhiêu khát khao chẳng bao giờ đạt được trọn vẹn. Thế là, mỗi lần trái tim “run rẩy”
trước những rung động của cuộc đời là mỗi lần:
Ngậm ngùi tặng trái tim lưu lạc
(Muộn màng)
Bởi sự phôi pha của tình ái đã khiến cho “trái tim đã ghê dáng hững hờ” (Dối trá).
Từ láy là lớp từ đặc biệt của tiếng Việt. Chính lớp từ này đã tạo nên sự đa dạng và
độc đáo của bản sắc tiếng nói dân tộc, tạo nên vẻ đẹp của nghệ thuật thơ ca. Nhờ vào sự
111
phối hòa phối ngữ âm mà từ láy mang giá trị tạo hình, gợi cảm rất cao. Xuân Diệu sử dụng
rất nhiều từ láy khi xây dựng biểu tượng trong thơ. Các biểu tượng nghệ thuật này vì vậy mà
thêm đa nghĩa, giàu sắc thái biểu cảm. Khi miêu tả trăng như là biểu tượng cho ước vọng
nghệ thuật của người nghệ sĩ, Xuân Diệu cũng sử dụng nhiều từ láy:
Trăng thánh thót, họa đàn tơ lấp loáng,
Trăng nghiêng nghiêng, tư tưởng chuyện ưu phiền,
… Trăng của xa xôi, trăng của hão huyền
(Ca tụng)
Ánh trăng muôn đời là biểu tượng thiên nhiên xinh đẹp trong thơ ca, là đối tượng
chiêm ngưỡng, mơ mộng của thi sĩ. Với Xuân Diệu, trăng được nhìn ở góc độ mới. Trăng
diễm ảo như âm thanh của tiếng đàn “thánh thót”, vừa khoác một chiếc áo tơ “lấp loáng”.
Trăng còn là biểu tượng của con người tri âm tri kỉ với nhà thơ bởi một dáng điệu “nghiêng
nghiêng, tư tưởng”.
Trong các sáng tác giai đoạn sau cách mạng tháng Tám 1945, Xuân Diệu vẫn tiếp tục
sử dụng từ láy như là một thủ pháp tạo sắc thái cho biểu tượng nghệ thuật trong thơ mình.
Và từ láy trong thơ Xuân Diệu tiếp tục thể hiện tác dụng nghệ thuật của nó trong việc góp
phần làm tăng giá trị cho biểu tượng.
Từ láy được lựa chọn và đặt đúng vị trí sẽ giúp biểu tượng trở nên biến hóa, đa dạng
hơn. Nếu trước cách mạng tháng Tám, biểu tượng trái tim trong thơ Xuân Diệu luôn gắn với
lưu lạc, hững hờ, nhoi nhói, … thì ở giai đoạn sáng tác sau 1945, cũng vẫn biểu tượng trái
tim ấy nhưng lại mang diện mạo mới:
Nay càng thêm tha thiết với tim ta
… Cửu Long gầm dồn dã ở trong tim
(Hỡi hùng khí nước Việt Nam muôn thuở)
Đó là trái tim dạt dào tình yêu quê hương đất nước. Nỗi niềm ấy tha thiết, dồn dã như
sóng nước Cửu Long. Đó còn là niềm ước mong về một ngày mai giang san Tố quốc nối
liền một dãy:
Một khối hồng đau đáu ở trong tim
(Một khối hồng)
Đến đây, chúng tôi xin dùng lời nhận xét của Thanh Thảo trong bài viết Với Xuân
Diệu, kì diệu nhất là đời để kết lại phần này: “Nhà thơ chỉ hơn người thường ở cách dùng
chữ, vẫn là chữ đó thôi, khỏi cần “sáng tạo” thêm những chữ mới chưa có trong đời sống

112
và trong ngôn ngữ, nhưng sử dụng chúng như thế nào, đặt chúng vào đâu trong văn cảnh,
trong trường ngữ nghĩa, trong mạch cảm xúc, điều đó quyết định đẳng cấp nhà thơ”[67].

3.2.2. Thủ pháp tạo nên độ vang của biểu tượng

Thanh điệu
“Thanh điệu là sự nâng cao hoặc hạ thấp giọng nói trong một âm tiết có tác dụng
cấu tạo và khu biệt vỏ âm thanh của từ hoặc hình vị” [6,109]. Không phải ngôn ngữ nào
cũng có thanh điệu. Tiếng Việt thuộc loại ngôn ngữ giàu thanh điệu, với 6 thanh: huyền,
sắc, hỏi, ngã, nặng và thanh ngang. Trong sáng tác văn chương, nhất là đối với thơ, thanh
điệu làm nên tính nhạc, mang lại hiệu quả cao về cảm xúc và nhận thức. Thơ xưa, vì qui
định nghiêm ngặt về luật thơ nên tính nhạc khó nhận thấy hoặc bị hạn chế. Đến thơ ca hiện
đại, tính nhạc thể hiện qua thanh điệu được chú trọng. Bởi các nhà thơ hiện đại coi trọng
cảm xúc cá nhân, coi trọng những rung động của con người trước cuộc đời. Đó là tiếng
lòng, do hơi thở, nhịp tình cảm đem lại. Trong Những thế giới nghệ thuật thơ, Trần Đình
Sử cho rằng nhạc trong văn học lãng mạn "là tiếng người, ngữ điệu người, giọng điệu
người". Xuân Diệu cũng là một nhà thơ lãng mạn. Và chính Xuân Diệu cũng tự nhận mình
chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng. Có thể nói thơ Xuân Diệu vừa lãng mạn (phần
nhiều) vừa tượng trưng (mới chớm). Vì vậy việc sắp đặt thanh điệu trong thơ Xuân Diệu là
không giống các nhà thơ khác cùng thời. Đặc biệt là khi xây dựng một loạt các biểu tượng
nghệ thuật trong thơ mình, chắc hẳn Xuân Diệu đã lựa chọn và sắp đặt thanh điệu để tạo
thêm độ vang cho biểu tượng.
Trong phần lớn thơ Xuân Diệu, các thanh bằng trắc được sử dụng với tỉ lệ thanh bằng
tương đối nhiều hơn thanh trắc. Bởi thanh bằng góp phần làm mềm đi lời thơ và giúp âm
thanh thơ dễ lan tỏa. Tâm hồn thơ Xuân Diệu là tâm hồn “nồng”. Khao khát bày tỏ là khao
khát thường trực. Xuân Diệu dùng thanh bằng nhiều hơn thanh trắc chính là để việc “phơi
trải” ấy được dễ dàng hơn. Thanh điệu ở thơ Xuân Diệu là phụ thuộc vào tiếng lòng yêu đời,
say mê tình ái, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt. Chính vì yêu cuộc sống, ham sống, ám ảnh
bởi sự chảy trôi của thời gian nên khi có lúc câu thơ nhiều thanh trắc như một sự vội vàng,
cuống quýt của tác giả.

113
Thanh trắc còn được dùng khi xây dựng biểu tượng trăng. Khi ấy, trăng như là biểu
tượng của cô đơn của con người trước vũ trụ. Câu thơ có nhiều thanh trắc gợi nên một
không gian vắng lặng chỉ có vầng trăng “trắng phau” đến lạnh lẽo buốt giá.
Trăng thu thường thấy trắng phau
Ấy màu của tuyết ấy màu của băng
(Bụi mưa mờ cũ)
Và đó còn là tâm trạng sầu đau trước sự tàn phai của cái đẹp bởi thời gian:
Bông hoa rứt cánh, rơi không tiếng;
Chẳng hái mà hoa cũng hết dần.
(Ý thu)
Xuân Diệu là nhà thơ của phong trào Thơ mới. Thơ Xuân Diệu được tạo nên từ
những thủ pháp nghệ thuật của thơ hiện đại. Tuy vậy, dấu ấn của nghệ thuật thơ ca trung đại
vẫn còn lưu lại giữa những trang thơ Xuân Diệu. Đó là những bài thơ làm theo thể thất
ngôn. Xét về tính nhạc trong thơ, thì thơ Đường thất ngôn bị ràng buộc về niêm luật nên sự
sắp xếp thanh điệu cũng phải tuân thủ theo qui luật “nhị – tứ – lục phân minh” của Đường
thi. Trong thơ Xuân Diệu ta cũng bắt gặp sự phối hài thanh điệu theo thơ Đường thất ngôn
như thế. Tiêu biểu là khi xây dựng biểu tượng trăng như là biểu tượng của vẻ đẹp trong
thiên nhiên và nghệ thuật:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
(Nguyệt Cầm)
Các từ thứ 2, 4, 6 trong mỗi câu đều có sự hài hòa giữa bằng trắc. Câu thứ nhất là
nhập (T), dây (B), nguyệt (T) thì câu thứ 2 là thương (B), nhớ (T), trăng (B). Cứ như vậy,
luân chuyển khắp cả bài thơ tạo nên tính nhạc cho lời thơ. Và những sự hài hòa thanh điệu
ấy cũng mang đến một độ vang nhất định cho biểu tượng trăng mà Xuân Diệu dụng công
xây dựng. Thanh bằng, trắc trong các từ thứ 2, 4, 6 suốt các câu thơ gợi một nhạc điệu trầm,
chậm. Vì vậy cái lạnh trong tiếng đàn lan tỏa cảm giác lạnh: lạnh đàn, lạnh trăng và lạnh cả
lòng người “linh lung bóng sáng bỗng rùng mình”. Rồi cả một nỗi niềm thương nhớ như
bủa vây, giăng mắc khắp mọi nơi khiến cho không gian thêm buồn, ảo não. Có lẽ vì thế mà
nhiều nhà nghiên cứu nhận xét Nguyệt Cầm là tuyệt đỉnh của nỗi buồn cô đơn trong thơ
Xuân Diệu.

114
Trong thơ ca dân tộc, nói đến thơ giàu tính nhạc thì thơ lục bát là thể thơ vừa giàu
tính nhạc vừa mang lại giọng điệu tâm tình ngọt ngào cho lời thơ. Xuân Diệu không những
đã tận dụng mà còn góp phần sáng tạo cho thể thơ lục bát ấy thêm phần sinh động. Với
những cách nói mới mẻ của một trí thức Tây học thể thơ của dân tộc bỗng nhiên có thêm
một sắc màu mới:
Một năm thêm mấy tháng rồi,
Thu đi, đông lại, bồi hồi sắp xuân
… Trăng còn đợi gió chưa lên,
Hay là trăng đã tròn trên mái rồi?
(Hỏi)
Nếu đem ra so sánh thì có lẽ, ta cũng khó nhận ra đâu là thơ Xuân Diệu đâu là ca
dao. Xuân Diệu làm mới cho ca dao truyền thống dân tộc? Hay chính ca dao lục bát đã
mang đến giá trị thẩm mĩ cho biểu tượng thơ Xuân Diệu? Có lẽ cả hai chăng? Xuân Diệu
dùng tháng, năm để nói đến thời gian chờ đợi luôn dài. Dùng mùa thu, đông để nói đến mùa
xuân. Dùng ánh trăng tròn để nói đến tình yêu đôi lứa. Cách nói vòng vo mà tế nhị quá quen
thuộc trong ca dao dân ca. Cùng với sự hài hòa mà thể thơ lục bát đem đến, thơ Xuân Diệu
mang dáng dấp như lời hát ướm hỏi chuyện tình yêu của nam nữ yêu nhau trong ca dao xưa.
Lục bát trong ca dao luôn mang đến âm hưởng tâm tình như những lời ca tiếng hát
của người lao động ngày xưa, của những trai gái hát giao duyên với nhau. Với luật bằng trắc
hài hòa của câu 6, câu 8 trong thể lục bát, người đọc như được tiếp xúc với những điệu hát
ngọt ngào, đầy tình cảm. Không phải chỉ riêng Xuân Diệu mới nhận ra được thế mạnh về
tạo nên tính nhạc của thể lục bát. Trong bài Ngậm ngùi Huy Cận cũng đã phát huy tính
nhạc cho thơ mình bằng thể thơ lục bát quen thuộc. Một ví dụ khác là thể thơ lục bát mang
lại nhạc điệu trữ tình cho thơ Tố Hữu. Với giọng điệu tâm tình ngọt ngào từ sự hài hòa bằng
trắc, Tố Hữu đã miêu tả sống động vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
(Việt Bắc)
Không chỉ kế thừa mà Xuân Diệu còn sáng tạo. Để mang đến độ vang cho biểu tượng
trong thơ mình, Xuân Diệu đã tạo ra những câu thơ rất nhiều thanh bằng hoặc toàn thanh
bằng:
Sương nương theo trăng ngừng lưng trời

115
Tương tư nâng hồn lên chơi vơi
(Nhị hồ)
Đây là hai câu thơ miêu tả trạng thái của nhà thơ khi nghe điệu Mạnh Lệ Quân. Hai
câu thơ toàn thanh bằng mang đến một cảm giác chơi vơi mơ màng lắng chìm theo điệu
nhạc. Một cảm giác êm êm, du dương, dìu dịu của cõi lòng. Một sự hòa hợp giữa nhà thơ và
nghệ thuật.
Một nhà thơ mới khác như Bích Khê cũng có nhiều câu, nhiều bài thơ làm toàn thanh
bằng:
Nàng ơi! Tay đêm đang giăng mềm
Trăng đan qua cành muôn tơ êm
Mây nhung pha màu thu lên trời
Sương lam phơi màu thu muôn nơi…
(Tì bà)
Cũng cùng một thủ pháp mang đến độ vang cho thơ, cho biểu tượng, nhưng mỗi nhà
thơ lại có một phong cách riêng. Bích Khê là nhà thơ tượng trưng. Thơ Bích Khê là thơ
tượng trưng. Việc Bích Khê sử dụng nhiều thanh bằng trong thơ cũng nhằm mục đích mang
lại tính nhạc cho thơ mình. Và trong lời thơ của Bích Khê ta nghe có điều gì đó nhạt nhòa,
không rõ. Trạng thái ấy cứ kéo dài, dai dẳng, không dứt khiến cho thơ Bích Khê như thiên
về bí ẩn, không dễ dàng mà thấu hết. Trăng tơ, mây nhung… trong thơ Bích Khê như đưa
người đọc vào mơ hồ, bất định của thế giới xa lạ.
Xuân Diệu cũng viết những câu thơ toàn thanh bằng như thế trong thơ của mình.
Nhưng những câu thơ ấy rất ít. Và thỉnh thoảng chen vào giữa một bài thơ mới có hai câu
toàn thanh bằng. Giữa những câu thơ phối thanh bình thường là những câu thơ bất thường.
Đó là một dụng ý nghệ thuật. Xuân Diệu yêu đời, yêu người với một khát khao gắn bó mãnh
liệt. Xuân Diệu sống vội, sống gấp. Xuân Diệu luôn nồng nhiệt, thậm chí ồn ào như một nhà
nghiên cứu từng nhận xét. Vì vậy mà ta có thể ví những câu thơ toàn thanh bằng ấy như một
nốt trầm giữa một bản đàn Xuân Diệu đầy những cung âm rộn rã, náo nhiệt. Đó là những
lúc bất chợt, giữa ồn ào, nhà thơ lắng lòng lại. Hoàn toàn tĩnh lặng để lắng nghe tiếng lòng
để rồi thêm hốt hoảng trước bước đi vùn vụt của thời gian mà thêm yêu đời hơn. Hay ta có
thể ví khoảnh khắc Xuân Diệu nhận ra “Sương nương theo trăng ngừng lưng trời / Tương
tư nâng lòng lên chơi vơi” chính là lúc tâm hồn thăng hoa cùng cuộc sống và nghệ thuật.
Vần điệu

116
Thơ lãng mạn là thơ của tiếng lòng con người. Thơ Xuân Diệu vốn dĩ đã có sẵn nhạc.
Đó là nhạc điệu của tình yêu cuộc sống đến cháy bỏng. Lời thơ Xuân Diệu là lời hát của con
tim nồng nàn cảm xúc yêu thương. Chính tình cảm ấy đã là một thủ pháp làm nên tính nhạc
trong thơ ông. Ngoài ra, để tạo cho thơ tính nhạc Xuân Diệu còn chú ý đến vần điệu và nhịp
điệu. Ở đây chúng tôi xin nói về vần điệu trong thơ Xuân Diệu. Cách hiệp vần trong thơ
Xuân Diệu cũng tạo nên tính nhạc cho thơ, và từ đó mang lại độ vang cho biểu tượng nghệ
thuật. Khi xây dựng biểu tượng trăng:
Trăng vừa đủ sáng để gây mơ
…Khí trời quanh tôi làm bằng tơ
Khí trời quanh tôi làm bằng thơ
(Nhị hồ)
Vần điệu chính là cách thức lặp lại khuôn âm giống nhau hoặc gần giống nhau giữa
các từ trong một câu thơ hay giữa các câu thơ với nhau. Ở đây Xuân Diệu tạo nên nhịp điệu
lan tỏa cho lời thơ bằng cách hiệp vần “ơ” cho các từ cuối các câu thơ. Vần “ơ” là vần mở,
gợi cảm giác lan tỏa, dịu nhẹ, vấn vít nhau. Trăng chiếu ánh sáng vàng như rải một dải tơ
mềm bao bọc lấy không gian khiến cho nhà thơ cảm giác như tơ, như mơ và như thơ. Một
không khí êm như tơ vây bủa vừa thơ và cũng vừa gợi sự quạnh vắng.
Nhà thơ Tố Hữu cũng hơn một lần dùng cách hiệp vần để tạo nhịp điệu cho thơ
mình: Em ơi, Ba Lan mùa tuyết tan / Đường bạch dương sương trắng nắng tràn (Em ơi …
Ba Lan …) Vần “an” được lặp lại tạo nên một sự tan chảy, lan tỏa của lời thơ.
Đây thêm một ví dụ về cách hiệp vần trong thơ Xuân Diệu:
Bao nhiêu đằm thắm tôi thấy dọc đường
Trái tim tôi chứa cả thành một đại dương
Thành một bông hường cánh trùm Nam Bắc
(Đi theo miền Nam từ Hà Nội vào tới Vĩnh Linh)
Vần trong thơ Xuân Diệu có thể là vần lưng hay vần chân. Trong câu thơ trên, bằng
cách lặp lại vầng “ương”, Xuân Diệu như muốn miêu tả trái tim như biểu tượng của một
“đại dương” tình yêu - tình quê hương đất nước. Hiệp vần “ương” đã tạo tăng thêm sắc thái
cho “trái tim”. Bên cạnh đó, vần “ương” còn mang lại âm điệu du dương cho lời thơ.
Như lời nhận xét của Lê Tiến Dũng trong Những cách tân nghệ thuật thơ Xuân
Diệu giai đoạn 1932 – 1945 thì thơ Xuân Diệu là thơ giàu nhạc điệu bởi câu thơ nào nhà
thơ cũng sử dụng vần. Ở đây chúng tôi còn nhận thấy không chỉ ở giai đoạn sáng tác trước
mà cả giai đoạn sau 1945, thơ Xuân Diệu vẫn giàu nhạc điệu.

117
Xuân Diệu là nhà thơ của tình ái. Dù lúc còn trẻ hay lúc đã nhiều tuổi, thơ Xuân Diệu
vẫn là những lời ca đầy hân hoan của những con tim yêu nhau. Đây là biểu tượng của tình
yêu trong thơ Xuân Diệu sau 1945, vẫn rộn ràng, náo nức:
Đường tình đã nở hoa xoan
Lao xao gió gợn, hân hoan lá chờ
Trên cao ngan ngát hương đưa
Em ơi, tim tím mơ mờ chùm hoa…
(Chớm sang vị hè)
Hiệp vần trong các từ hoa xoan – hân hoan – chùm hoa gợi về âm thanh vui tươi rộn
ràng như tiếng cười vui của tình yêu đã “chớm” nở. Các từ láy lao xao, tim tím, mơ mờ (một
dạng lặp vần) cũng góp vào bản nhạc “hân hoan” ái tình ấy. Biểu tượng hoa – ái tình cũng
vì vậy mà thêm giá trị.
Diễn tả sự rung động của cá nhân trước những thay đổi của cuộc đời, dường như chỉ
có Xuân Diệu mới diễn tả được cái thần của cảnh vật và của lòng người:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
(Đây mùa thu tới)
“Những luồng run rẩy rung rinh lá” là cách nói vô cùng độc đáo và mới mẻ. Hoa
rụng, màu đỏ lấn dần sắc xanh của lá. Đó là sự sợ hãi trước thời gian đến “run rẩy”. Âm “r”
bắt đầu từ “rụng” đến “rũa” rồi kết thúc với “run rẩy rung rinh” gợi về sự gia tăng cảm
giác sợ từ thấp đến một mức độ cao hơn hẳn trạng thái bình thường của cảnh vật. Cái run ấy
là do tự cảnh vật mà có hay tự nơi con người? Nỗi buồn trước hoa tàn, lá rụng bỗng trở nỗi
ám ánh về thời gian đến “run rẩy”. “Hoa tàn” nhờ vậy mà trở thành biểu tượng của sự phôi
pha. Như vậy, như các yếu tố khác, vần đã mang đến độ vang nhất định cho biểu tượng
nghệ thuật.
Nhịp điệu
Nhịp điệu cũng là một trong những yếu tố góp phần tạo nên tính nhạc trong thơ. Ở
đây, khi xét nhịp điệu trong thơ Xuân Diệu chúng tôi chủ yếu xét về cách ngắt nhịp và sự
trùng điệp mà thôi. Phần lớn thơ Xuân Diệu trước 1945 chủ yếu viết theo thể 7 chữ, 5 chữ

118
của thơ Đường, thơ 8 chữ và thơ lục bát của dân tộc. Sau 1945, ngoài các thể thơ đó ra, do
nhu cầu bộc lộ tràn trề nên thơ Xuân Diệu có những câu thơ dài hơn.
Ở thể thơ 5, 7 chữ, nhịp điệu câu thơ được tạo nên từ cách ngắt nhịp trong thơ
Đường:
Anh tặng cho em / hoa ngọc trâm
Hoa như ánh sáng/ ngọc như mầm
(Hoa ngọc trâm)
Cách ngắt nhịp 4/3 hoặc 2/2/3 là cách ngắt nhịp quen thuộc trong thơ thất ngôn. Ở
đây Xuân Diệu vẫn ngắt nhịp như vậy. Xuân Diệu kế thừa truyền thống. Bên cạnh đó, Xuân
Diệu không ngừng sáng tạo cái mới. Sáng tạo trong cách gieo vần và ngắt nhịp đã tạo nên
những nét mới cho thơ. Ở thơ Xuân Diệu, vẫn cách ngắt nhịp của thơ cũ nhưng đã tạo nên
âm vang mới. Đó là âm vang của tâm hồn, của tấm lòng nhà thơ với tình yêu và cuộc sống.
Xuân Diệu từng nói rằng: thơ hay là lời thơ chín đỏ trong cảm xúc. Cảm xúc là nhạc
lòng, nhạc chủ đạo của bài thơ. Cảm xúc thơ Xuân Diệu phong phú. Nhạc thơ trong thơ
Xuân Diệu đa dạng: lúc trầm, lúc bổng, lúc du dương… Khi diễn tả niềm vui độc lập, thống
nhất nước nhà, niềm vui sướng, phấn khởi như ồ ạt đến trong tim, nhịp điệu trong thơ Xuân
Diệu là nhịp ngắn của thể thơ 5 chữ:
Mùa xuân này mới đến
Hoa chưa kịp mừng tôi
Tôi đã mừng hoa đó,
(Mừng hoa)
Vốn là một con người nặng lòng với cuộc đời với quê hương, nên những gì thuộc về
quê hương đều không bao giờ xa lạ với Xuân Diệu. Cả một thời thơ ấu được cha dạy bảo,
những âm điệu của ca dao, dân ca, của lời ăn tiếng nói xứ sở đã ăn sâu vào tâm hồn Xuân
Diệu. Và giờ đây những âm điệu ấy đã làm nên những vần thơ đậm sắc màu dân tộc.
Tuyệt vời / biếc núi / xanh non
Hoa thêm / tinh mới,/ trăng còn / ngát thơm
(Sa Pa)
Nhịp 2/2/2 ở câu 6 và 2/2/2/2 ở câu 8 gợi cảm giác yên bình, tĩnh lặng của một vùng
quê. Cách ngắt nhịp chẵn này góp phần tạo nên sức lan tỏa trong biểu tượng hoa và trăng. Ở
dây, hoa và trăng gợi về niềm vui hòa bình, niềm vui độc lập của quê hương, đất nước.
Đôi lúc sự lệch chuẩn là một ý đồ nghệ thuật. Xuân Diệu sử dụng thể thơ dân tộc

119
nhưng cách ngắt nhịp có thay đổi. Điều đó tạo nên sự đa dạng cho nhịp điệu thơ. Đó là cách
ngắt nhịp của tiếng lòng, của tiếng nói tình yêu:
Trái tim anh / nói / bồi hồi
Mà/ trái tim em/ cũng / trao lời / vấn vương
(Kỷ niệm)
Có khi, trong cùng một bài thơ nhưng cách ngắt nhịp rất đa dạng bởi Xuân Diệu sử
dụng nhiều thể thơ xen lẫn với nhau. Khi xây dựng biểu tượng trái tim tượng trưng cho vẻ
đẹp thanh bình của một vùng quê mình từng gắn bó bao năm, nhà thơ sử dụng thể thơ lục
bát với nhịp điệu êm ả. Cách ngắt nhịp gợi những kỉ niệm ngày xưa đang ùa về mênh mang
trong tâm trí của nhà thơ.
Mỹ Tho / tim của ta ơi
Trái tim ta / của / cái thời tuổi xanh
(Về lại Mỹ Tho)
Đến khi xây dựng trái tim như là biểu tượng cho những cảm xúc rộn ràng, xúc động
trước những thay đổi to lớn của cảnh vật, nhà thơ dùng thể thơ thất ngôn để tỏ bày:
Cánh nâng chân bước,/ tim reo sóng
Mắt rộng chân trời,/ tai rộn nghe…
(Về lại Mỹ Tho)
Trái tim là biểu tượng cho lòng ham sống, khao khát gắn bó với cuộc đời. Niềm khao
khát ấy thể hiện ở thái độ sống gấp và hành động thu gom thế giới vào trong hồn mình của
Xuân Diệu. Trái tim Xuân Diệu tràn trề nhựa sống. Nó chỉ chảy lan tràn. Góp phần tạo nên
sự tràn trề là cách ngắt nhịp phù hợp:
Trái tim tôi: / một cái túi tràn trề
(Tôi muốn đi thăm khắp cả miền Nam)
Để mang lại độ vang cho biểu tượng, ngoài cách ngắt nhịp, Xuân Diệu còn chú ý sử
dụng thủ pháp trùng điệp:
Xônata dưới trăng
… Dưới trăng Xônata
… Xônata dưới trăng
(Xônata dưới trăng)
Với nhịp điệu đa dạng, biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu không còn cứng
nhắc, khô khan mà trở nên sinh động, đa diện. Charles Hartman từng khẳng định: “Nhịp
điệu đóng góp toàn bộ ý nghĩa của bài thơ và phép làm thơ là chuyển nó thành ý nghĩa”.
Nhịp điệu trong thơ Xuân Diệu tham gia vào quá trình tạo những thẩm mĩ đặc sắc ở biểu
120
tượng nghệ thuật. Biểu tượng nghệ thuật tác động đến người đọc thông qua độ âm vang của
nó.
Thông thường, người ta thích đọc thơ hơn văn xuôi. Bởi thơ có vần, có nhịp. Thơ dễ
thuộc, dễ nhớ. Đã nhớ, đã thuộc thì con đường đi tới thông điệp của tác phẩm chỉ còn lại
vấn đề thời gian. Nhịp điệu còn góp phần làm việc khám phá biểu tượng thơ thêm hứng thú.
Giọng điệu
Giọng điệu trong thơ Xuân Diệu đa dạng. Sự nghiệp thơ của Xuân Diệu chia ra nhiều
giai đoạn ứng với các thời kì lịch sử của đất nước. Đề tài, cảm hứng mới nên giọng điệu
cũng thay đổi.
Trước cách mạng tháng Tám 1945, giọng điệu trong thơ Xuân Diệu là giọng cuồng
nhiệt, trẻ trung:
Phải nói yêu trăm bận đến ngàn lần
Phải mặn nồng cho mãi mãi đem xuân
(Phải nói)
Giọng điệu hối hả, gấp gáp, vội vàng là giọng điệu đặc trưng của thơ Xuân Diệu. Đó
là giọng của con người bị thời gian rượt đuổi, bị thời gian làm cho ám ảnh:
Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
(Vội vàng)
Điệp cấu trúc “xuân … nghĩa là xuân …” gợi bước đi của thời gian. Mùa xuân dù
đẹp dù tươi tắn thì cũng qua đi. Thời gian sẽ xóa sạch mọi dấu vết. Chỉ còn lại là tàn phai,
héo úa:
Và giữa vườn im, hoa run sợ hãi
Bao nỗi phôi pha, khô héo, rụng rời
(Tiếng gió)
Đôi khi những khát khao ấy không được thỏa mãn, nhà thơ thấy chạnh lòng. Càng
khao khát nhiều thì càng thất vọng nhiều. Đôi lúc, giọng điệu trong thơ Xuân Diệu là giọng
run rẩy, sợ hãi tràn ngập:
Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo
Trời đầy trăng, lạnh lẽo suốt xương da
(Lời kỹ nữ)

121
Những hoài nghi, buồn chán, bơ vơ đã bị ánh sáng của lý tưởng cộng sản xua tan.
Cách mạng tháng Tám mang về cho thơ Xuân Diệu nguồn thơ mới. Cảm hứng mới, đề tài
mới và cách thể hiện cũng đầy mới mẽ. Giọng điệu trong thơ Xuân Diệu không còn u hoài,
đau khổ nữa. Giọng điệu trong thơ Xuân Diệu là giọng anh hùng ca. Cũng là mùa xuân,
nhưng với một cách nói mới:
Bỗng chót cây xanh, một vầng chói sáng
Như đem xuân lại, như kéo mai về
Dân Việt qua thấy đốt cả hồn quê
Thấy máu chảy, thấy tim ngừng kính cẩn
(Ngọn quốc kỳ)
Mùa xuân ở đây là mùa vui. Khí thế hào hùng của cuộc cách mạng tháng Tám thành
công đã mang đến mùa xuân trong thơ Xuân Diệu. Nhìn lá cờ Tổ quốc tung bay trước gió,
Xuân Diệu đã thấy cả một mùa xuân mới. Mùa xuân với những chiến công hào hùng của
dân tộc.
Giai đoạn sau 1945, ngòi bút của Xuân Diệu chủ yếu tập trung ca ngợi những thay
đổi của đất nước, ca ngợi nhân dân anh hùng trong cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc. Vì thế
ta hay bắt gặp giọng điệu chính luận, tự sự trong thơ Xuân Diệu sau cách mạng tháng Tám.
Lúc bấy giờ, Xuân Diệu ít viết thơ tình. Nhưng tỉnh thoảng ta vẫn bắt gặp những vần thơ
viết về tình yêu đôi lứa gắn với tình yêu quê hương đất nước:
Nhiệm vụ thiêng liêng nghiêng chụm đôi đầu
Và đôi trái tim tìm nhau, mãnh liệt!
(Tiễn biệt)
Con người ấy vẫn cứ yêu và khao khát tình yêu cho dù lúc này tuôi đã nhiều:
Gió xa quá, trời xuân êm bát ngát
Biết lời gì nói hết được yêu em
(Bóng đêm biếc)
Tình yêu muôn thuở không già. Điều đó càng rõ ràng hơn trong thơ Xuân Diệu. Nếu
trước kia, nói đến tình ái, giọng thơ Xuân Diệu luôn cuồng nhiệt, vồ vập thì giờ đây nó trở
nên thiết tha và đằm thắm hơn.

3.2.3. Thủ pháp tạo nên độ nén của biểu tượng

Lạ hóa

122
Xuân Diệu đã mang đến cho biểu tượng thơ mình những nét nghĩa mới mẻ bằng thủ
pháp lạ hóa. Lạ hóa ở đây được hiểu là cách sử dụng từ ngữ mới mẻ, tạo nhiều sức gợi. Nó
thể hiện ở cách dùng từ mới lạ, tạo nhiều ấn tượng về ý nghĩa.
Ngôn ngữ trong thơ mới là ngôn ngữ của cái đẹp, của sự biểu cảm và giàu sức ám
gợi. Trong hành trình đi tìm cái đẹp của tiếng Việt, những nhà thơ mới nói chung và Xuân
Diệu nói riêng luôn tạo cho ngôn ngữ thơ mình những thông tin mới, những nét nghĩa mới.
Xuân Diệu lại là nhà thơ yêu cái đẹp đến cuồng nhiệt. Điều đó thể hiện trong qua trình sáng
tác của nhà thơ. Ông luôn miệt mài sáng tạo và lao động nghệ thuật một cách nghiêm túc để
có những con chữ đẹp. Đôi lúc người ta cho rằng đó là cách nói “rất Tây”, rằng Xuân Diệu
“lai căn”, làm mất đi bản sắc dân tộc. Nhưng trên thực tế, đó vẫn là cách nói quen thuộc của
tiếng nói dân tộc nhưng đã được khoác một sắc thái mới mẻ.
Khi xây dựng biểu tượng nghệ thuật, chính thủ pháp lạ hóa này đã mang đến độ nén
cho biểu tượng thơ Xuân Diệu. Đó là hoa – biểu tượng của cái đẹp dễ phôi pha trước dòng
chảy miệt mài không dứt của thời gian:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
(Đây mùa thu tới)
Cách nói “hơn một”, “sắc đỏ rũa màu xanh” là cách nói đầy mới mẻ và không kém
phần hấp dẫn. Xuân Diệu vốn chịu ảnh hưởng nhiều từ văn học phương Tây. Điều đó cũng
là một trong những yếu tố giúp Xuân Diệu làm giàu cho ngôn ngữ dân tộc.
Đôi lúc việc sử dụng những động từ mạnh cũng là một cách tạo sức hút ấn tượng cho
lời thơ:
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
(Vội vàng)
Trăng – biểu tượng của thiên nhiên tuyệt mĩ. Trăng vốn là bạn muôn đời của thơ ca
nhạc họa. Nhưng chỉ có Xuân Diệu mới thấy:
Trăng, vú mộng muôn đời thi sĩ
Trăng, hoa vàng lay lắt cạnh bờ mây
Trăng, đĩa ngọc giữa mâm trời huyền bí
… Trăng nguồn sương làm ướt cả Gió hây
Trăng võng rượu khiến Đêm mờ chếnh choáng
(Ca tụng)

123
Với Xuân Diệu, trăng là “vú mộng, hoa vàng, đĩa ngọc, nguồn sương, võng rượu…”.
Cách ví von so sánh đầy ấn tượng, vừa quen vừa lạ. Người xưa thường ngắm trăng để ngẫm
nghĩ, trầm tư về cuộc đời. Trăng với họ là mơ, là thơ. Nhưng cách nói “vú mộng” có lẽ chỉ
có Xuân Diệu mới nghĩ ra được. Trăng không chỉ gợi về vẻ đẹp thiên nhiên vĩnh cửu. Trăng
trong thơ Xuân Diệu vừa thơ mộng, vừa gợi cảm, vừa quý phái. Trăng còn là thứ men rượu
làm say “chếnh choáng” lòng người.
Và cũng chỉ có Xuân Diệu nhìn trăng mới thấy “Khí trời quanh tôi làm bằng tơ / Khí
trời quanh tôi làm bằng thơ” (Nhị hồ). Ánh sáng trăng giăng mắc, vướng víu khắp mọi nẻo.
Ánh sáng trăng chiếu rọi khắp không gian bàng bạc một màu óng ả như tơ. Có lẽ chính lối
nói mới lạ này đã mang đến cho trăng một vẻ đẹp khác hẳn vẻ đẹp mà bao nhiêu năm nó
được thơ ca thể hiện. Cũng miêu tả về trăng, cũng dùng thủ pháp lạ hóa, nhưng trăng trong
thơ Hàn Mặc Tử lại mang một diện mạo khác:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
(Bẽn lẽn)
Thường thì người ta thấy trăng treo, trăng lấp ló, trăng nằm chênh chếch, … chứ
chưa ai nói “trăng nằm sóng soãi”. Quả thật đây là một sáng tạo của Hàn Mặc Tử. Với từ
“sóng soãi”, trăng trong thơ Hàn nghiêng về cảm xúc trần tục, xác thịt. Nó khác hoàn toàn
với ánh trăng thơ mộng như trong thơ Xuân Diệu.
Hoài Thanh từng cho rằng, Xuân Diệu làm thơ tựa hồ như người Tây đang tập nói
tiếng Việt. Tuy nhiên cách nói tưởng như ngây ngô ấy đã làm nên vẻ đẹp rất riêng của biểu
tượng thơ Xuân Diệu. Ai cũng biết rằng, trí nhớ của con người đều có giới hạn. Những gì
bình thường, nhàn nhạt dễ bị lãng quên. Với thơ ca cũng vậy. Muốn khắc sâu, gây ấn tượng,
tạo nên sức hút ám ảnh thì thơ ấy phải có gì đó khác thường, mới mẻ hoặc về nội dung hoặc
về hình thức. Xuân Diệu đã tạo ấn tượng cho biểu tượng nghệ thuật để nhằm khắc sâu vào
tâm trí người đọc khi khám phá thơ mình.
Nén, gợi
Khác với Huy Cận, Xuân Diệu là nhà thơ của nỗi khao khát tỏ bày. Thơ Xuân Diệu
là thơ phô diễn cảm xúc. Những gì đẹp, gây ấn tượng cho mình, nhà thơ đều ghi lấy, ca
ngợi. Những rung động tinh vi nào xảy ra trong tâm hồn mình cũng được nhà thơ phơi trải
qua thơ. Ngôn ngữ thơ Xuân Diệu là ngôn ngữ ít nén. Bởi nhu cầu giao cảm mãnh liệt của

124
nhà thơ với cuộc đời. Lúc nào Xuân Diệu cũng vồn vã, rộn ràng với nhu cầu được nói, được
giao tiếp. Với Xuân Diệu, yêu là phải nói, nói trăm bận đến ngàn lần vẫn chưa là đủ:
Phải nói yêu trăm bận đến ngàn lần;
Phải mặn nồng cho mãi mãi đem xuân.
(Phải nói)
Trong tình yêu, nhu cầu bày tỏ lại càng mãnh liệt. Với Xuân Diệu, chết là hết nên
“hãy tặng tình lúc sống”. Cuộc đời phải có mùa xuân mới có ý nghĩa. Tuổi trẻ phải gắn với
tình yêu. Thì sự tỏ bày phải nhu cầu cần thiết của tình ái.
Xuân Diệu quan niệm sống phải “toàn tâm, toàn trí, toàn hồn” nên lúc nào nhà thơ
cũng luôn mở rộng lòng mình để nghe, để thấy, để cảm nhận. Cho nên Hỏi nhiều cũng là
hợp lý:
Ai làm cách trở đôi ta
Vì anh vụng ngượng hay là vì em?
Trăng còn đợi gió chưa lên
Hay là trăng đã tròn trên mái rồi?
(Hỏi)
Biểu tượng trăng – tình yêu đôi lứa trở nên sống động hơn với lời ướm hỏi tinh tế.
Mượn chuyện trăng chờ gió để nói đến sự chờ đợi nhau trong tình yêu. Niềm khao khát
được biết, được hiểu ấy cũng xuất phát từ nỗi say đắm với tình yêu với cuộc đời của Xuân
Diệu.Vì say đắm tình yêu nên lúc nào tác giả cũng muốn đi đến tận cùng mọi cảm xúc,
muốn hiểu hết những tâm tư của người yêu.
Mặc dù thơ Xuân Diệu ít nén. Mọi suy nghĩ đều được nhà thơ phô ra trên lời thơ.
Nhưng điều đó không có nghĩa là thơ ông không giàu sức ám gợi. Những cảm xúc Xuân
Diệu bày tỏ trong thơ ông cũng đều là những cảm xúc mà bất cứ ai cũng phải trải qua. Xuân
Diệu yêu mùa xuân, khao khát tình ái, mơ trăng với một con tim nồng nhiệt, hay cả nỗi sợ
tàn phai, … đều mong muốn sẻ chia với mọi người. Khi nhà thơ đau buồn trước sự tàn úa
của hoa, nuối tiếc trước mùa xuân qua đi, hay khao khát được đi đến “vô biên” của tình yêu
thì cũng là lúc nhà thơ khiến cho chúng ta phải suy nghĩ nhiều về cuộc sống. Xuân Diệu còn
chứa đựng một lối sống đầy giá trị nhân văn. Một cách sống đúng nghĩa, lối sống tích cực.
Phải sống sao để không sống hoài, sống phí, sống hờ hững. Phải sống sao để trọn vẹn từng
phút giây của cuộc đời. Vì không nơi nào tươi đẹp hạnh phúc bằng trần gian. Vì không điều

125
gì quí giá bằng tuổi trẻ và tình yêu. Đó là những thông điệp mà nhà thơ gợi ra trong suy
nghĩ của độc giả yêu thơ ông.

3.3. Sự giao hòa Đông và Tây trong biểu tượng thơ Xuân Diệu

Xuân Diệu là một trí thức Tây học, nhưng xuất thân trong một gia đình có truyền
thống Hán học. Từ thuở nhỏ, người cha từng đỗ tú tài kép Hán học đã dạy chữ Hán cho ông.
Và có lẽ nền thơ ca truyền thống của dân tộc bắt đầu thấm sâu vào máu thịt của Xuân Diệu.
Để từ đó, những tinh hoa của thơ ca dân tộc đã kết hợp hài hòa với tinh hoa của thơ ca thế
giới, nhất là thơ ca phương Tây tạo nên sự thống nhất trong hồn thơ Xuân Diệu. Vì thế biểu
tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu là sự giao hòa Đông và Tây.
Trong thơ Xuân Diệu, ngoài những biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu mà chúng tôi
đang khảo sát, thì còn có rất nhiều biểu tượng khác như: ánh sáng, màu sắc, vườn, tiếng, con
đường, chim, bướm, … Và hầu hết những biểu tượng nghệ thuật đó đều có nguồn gốc từ thơ
ca dân tộc nói riêng, của thơ ca Á Đông nói chung.

3.3.1. Biểu tượng Mùa xuân

Mùa xuân xuất hiện rất nhiều trong thơ ca phương Đông từ cổ chí kim. Với thơ xưa,
mùa xuân là mùa của sự sinh sôi nảy nở. Thi nhân xưa ngắm cảnh mùa xuân để thể hiện sự
hòa hợp với thiên nhiên và bộc lộ những tâm sự thầm kín về đất nước, thế sự. Với họ mùa
xuân chỉ là đối tượng để cảm tác. Mùa xuân là một mùa trong vòng tuần hoàn xuân – hạ –
thu – đông. Xuân đến, xuân đi rồi xuân lại đến. Hồ Xuân Hương cũng từng thể hiện nỗi
chán ngán của nhà thơ trước cảnh mùa xuân đi mang theo tuổi xuân và tình duyên:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
(Tự tình II)
Nhưng ở thơ Hồ Xuân Hương mùa xuân chưa trở thành biểu tượng cho niềm ham
sống đến tột độ. Xuân đơn giản chỉ là một đối tượng khách quan để nhà thơ bộc bạch tâm sự
u uất về thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Còn với Xuân Diệu, mùa
xuân là biểu tượng của lòng ham sống mãnh liệt. Nên mùa xuân không còn là xuân của tuần
hoàn mà trở thành xuân của lòng người.
Xuân không chỉ ở mùa xuân ba tháng,
… Xuân ở giữa mùa đông khi nắng hé,
Giữa mùa hè khi trời biếc sau mưa.
Giữa mùa thu khi gió sáng bay vừa,

126
(Xuân không mùa)
Với Xuân Diệu, đó là mùa tươi đẹp nhất. Trong thơ Xuân Diệu chỉ là một mùa xuân
duy nhất. Xuân trong thơ Xuân Diệu không tuần hoàn. Xuân chính là thời gian. Thời gian
trôi, mùa xuân qua đi, con người cũng biến mất:
Nói làm cho rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
(Vội vàng)
Người xưa nhìn mùa xuân trôi qua với một phong thái ung dung, thanh thản. Họ chấp
nhận thời gian trôi như chấp nhận vòng sinh – lão – bệnh – tử và đôi lúc tin vào kiếp luân
hồi:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
(Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, một cành mai trước sân)
(Cáo tật thị chúng – Thiền sư Mãn Giác)
Xuân Diệu không thể có được sự thanh thản, ung dung đến phi thường trước cảnh
mùa xuân tàn như Thiền Sư Mãn Giác ngày trước. Trước cảnh xuân tàn, Xuân Diệu cảm
thấy đau xót, tê tái. Trong khi mùa xuân vẫn còn đó, thiên đường mặt đất với bữa tiệc mùa
xuân vẫn còn đang rộn ràng, thì Xuân Diệu trở nên vội vàng, cuống quýt. Không lặng lẽ
ngắm mùa xuân để nhìn thời gian trôi. Xuân Diệu muốn níu giữ thời gian, rượt đuổi thời
gian “Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa”. Vì thế mùa xuân trong thơ Xuân Diệu vừa
là biểu tượng của thiên nhiên xinh đẹp vừa là một ám ảnh thời gian trôi. Biểu tượng mùa
xuân vì vậy mà mới lạ. Cái dáng điệu sôi nổi, nồng nàn, cuống quýt ấy xuất phát từ những
vần thơ phương Tây mà Xuân Diệu chịu ảnh hưởng. Bởi, ở phương Tây người ta xem thời
gian là vòng chảy tuyến tính, một đi không trở lại. Một quan niệm khác hẳn phương Đông.
Từ sự học hỏi phương Tây ấy, Xuân Diệu đã mang đến một quan niệm nhân sinh mới mẻ
cho thơ ca dân tộc. Đó là lời kêu gọi sống vội vàng, sống tận hiến và tận hưởng. Với Xuân
Diệu thiên đường chính là ở mặt đất với khu vườn trần gian đầy xuân sắc. Đúng như lời
nhận xét của Hoài Thanh: Xuân Diệu đã đốt cảnh bồng lai, xua ai nấy về hạ giới. Xuân
Diệu giúp con người tỉnh mộng trước sự hữu hạn của kiếp người giữa vụ trụ vô cùng vô tận.
Một nét nghĩa mới nữa trong biểu tượng mùa xuân, mà ở đó thể hiện sự giao hòa
Đông Tây của thơ Xuân Diệu, đó là mùa xuân trong thơ ông là biểu tượng của mùa tình.

127
Mùa xuân gắn với tuổi trẻ. Mà tuổi trẻ không thể không có tình yêu. Thế nên mùa xuân là
mùa của tình ái. Tình yêu đôi lứa vốn dĩ là điều cấm kị trong thơ ca xưa, nhất là thơ ca trung
đại. Hơn nữa, thơ xưa ít ai ví mùa xuân là mùa của tình ái. Nhà thơ xưa nhìn mùa xuân như
là một cảm hứng để bộc lộ tâm sự thầm kín. Thơ Xuân Diệu thì khác. Mùa xuân là mùa sinh
sôi nảy nở. Mùa xuân mang lại sức sống cho vạn vật. Tình yêu cũng mang lại sức sống cho
con người. Tình yêu là ngọn nguồn của sự tồn tại của loài người. Kết hợp hai khía cạnh ấy,
xuân trong Xuân Diệu chính là tình ái.
Xuân của đất trời, nay mới đến;
Trong tôi, xuân đến đã lâu rồi:
Từ lúc yêu nhau, hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi.
(Nguyên Đán)

3.3.2. Biểu tượng Hoa

Hoa từng là biểu tượng của tín ngưỡng dân gian người Tày. Có lẽ vì hoa vốn biểu
trưng cho cái đẹp. Hoa liên quan đến cái đẹp trong cuộc sống của con người. Hoa là biểu
tượng cho những con người anh hùng, phẩm chất cao quý trong Sự tích Hai bà Trưng, sự
tích về hai anh em Uyên Mặc Đại Vương và Quang Dung Công Chúa. Trong ca dao dân
ca dân tộc, hoa cũng được tác giả dân gian dùng như là biểu tượng tiêu biểu cho vẻ đẹp
nhan sắc và phẩm chất của người phụ nữ. Hoa cũng biểu trưng cho tình yêu và hôn nhân:
Mưa xuân lác đác vườn đào
Công anh đắp đất ngăn rào trồng hoa
Ai làm gió táp mưa sa
Cho cây anh đổ cho hoa anh tàn
(Ca dao)
Từ biểu tượng hoa với những ý nghĩa đã có trong thơ ca dân tộc cùng với việc tiếp
thu tinh thoa thơ ca phương Tây Xuân Diệu đã làm mới biểu tượng hoa trong thơ của mình.
Hoa trong thơ ca dân tộc nói riêng và trong thơ phương Đông nói chung thường được miêu
tả với trạng thái tĩnh. Với Xuân Diệu, hoa như một thực thể sống động có tâm trạng, cảm
xúc:
Và giữa vườn hoa run sợ hãi
Bao nỗi phôi pha, khô héo rụng rời
(Tiếng gió)

128
Thời gian một đi không trở lại. Thời gian làm phai màu tất cả mùa xuân xinh đẹp,
làm héo úa tất cả những bông hoa xinh tươi nhất. Thời gian trôi mang đến những nỗi buồn
chia lìa tan tác. Hình tượng “hoa run sợ hãi” thực sự mới mẻ. Những bông hoa của sắc đẹp
biết cảm nhận sự chảy trôi của thời gian trong bản thân nó. Không chỉ thời gian là nỗi ám
ảnh cho nhà thơ. Nhà thơ còn truyền sự ám ảnh ấy cho mọi vật xung quanh mình. Cỏ cây,
hoa lá cũng là một phần của cuộc đời. Chúng cũng từng khoe sắc. Chúng cũng biết tiếc nuối
một thời tươi đẹp của mình. Chúng như một nhân chứng phũ phàng về dòng chảy vùn vụt
của thời gian. Tự bản thân chúng cảm thấy thời gian đang ăn mòn sắc hương của chúng. Để
từ đó, con người tự xem lại sự phí hoài thời gian quý báu của mình. Xuân Diệu viết “hoa
run sợ hãi” là đã mang đến trước hết là một cách nói đầy gợi cảm, sau đó là một triết lí.
Triết lí về thời gian bất tuần hoàn. Điều này không mới. Ngày xưa, Trần Nhân Tông đã cảm
xúc mùa xuân để rồi đúc kết một triết lý về thời gian. Chỉ có điều, thời gian trong thơ xưa
chưa trở thành nỗi ám ảnh như trong thơ Xuân Diệu. Người xưa cảm nhận thời gian theo
vòng tuần hoàn của tạo hóa. Vì vậy, họ có một tâm thế tĩnh lặng, “vô vi” trước thời gian.
Thêm vào đó, hoa trong thơ của các thi nhân xưa chủ yếu thể hiện vẻ đẹp của cảnh
sắc hoặc hoa là một tri kỉ, tri âm của nhà thơ. Con người phương Đông ngắm hoa như một
thú vui tao nhã. Xuân Diệu ngắm hoa nở lại chẳng thấy vui. Bởi trong cảm nhận của nhà thơ
sắc hương đang lan tỏa kia là một nỗi niềm sắp sửa tàn phai, phôi pha, héo úa. Hoa trong
thơ Xuân Diệu không phải là một bông hoa chỉ góp cho đời hương sắc mà hoa cũng chính là
cuộc đời. Hoa trong thơ Xuân Diệu không “tĩnh” như trong thơ ca phương Đông nói chung
mà chúng “run lên”, chúng biết “sợ hãi” trước ngọn gió thời gian. Phải chăng đây là một
nét ảnh hưởng từ thơ phương Tây?
Xuân Diệu yêu thơ ca dân tộc đồng thời ngưỡng mộ văn học phương Tây. Cả Đông
và Tây được kết hợp hài hòa làm nên biểu tượng nghệ thuật hoa vừa quen thuộc vừa mới lạ,
giàu ý nghĩa:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
(Đây mùa thu tới)
Cách nói “hơn một loài hoa” là cách nói có chút gì đó rất Tây. Trong khi đó, từ so
sánh “hơn”, từ chỉ số lượng “một” đã quá quen thuộc trong tiếng nói dân tộc. Vậy mà chỉ
một cách sắp xếp khác đã mang đến một hiệu quả nghệ thuật bất ngờ. Cho nên dù có chịu

129
ảnh hưởng từ thơ phương Tây, biểu tượng nghệ thuật thơ Xuân Diệu vẫn rất đậm đà tính
dân tộc.
Hoa trong thơ Xuân Diệu cũng còn là tình nhân. Xưa có câu: người ta là hoa đất. Thế
nhưng ví hoa là tình nhân thì chỉ đến thơ hiện đại, mà Xuân Diệu là một ví dụ:
Có lẽ người – hoa nay đã tươi
Nghe chiều âu yếm lấn vô người
(Gặp gỡ)
Âu yếm là hành động vút ve, mơn trớn nhằm bày tỏ tình cảm của những đôi lứa yêu
nhau. Nhưng cái giây phút nhìn hoa - nhìn người yêu mà xuất hiện cảm giác “nghe chiều âu
yếm lấn vô người” thì chỉ có trong thơ Xuân Diệu. Nhà thơ “nghe chiều âu yếm”. Đáng lẽ
phải nhìn thấy hành động ấy mới đúng. Nhưng ở đây lại là “nghe”. Hóa ra nỗi âu yếm ấy đã
thuộc về ngày xưa. Chỉ còn lại dư âm man mác như hoàng hôn buổi chiều len lỏi vào cõi
lòng của con người. Đây vừa là thủ pháp lạ hóa vừa là sự tương giao cảm giác mà Xuân
Diệu tiếp thu từ thơ ca tượng trưng của phương Tây.
Ở phần thơ Xuân Diệu sáng tác sau cách mạng tháng Tám 1945, ta vẫn bắt gặp nhiều
sáng tạo:
Thắm thiết tình anh gặp cách xa
Cuộn tròn đau khổ sóng tung hoa
Cuốn em đi đấy, em yêu hỡi!
(Thác)
Nhà thơ ví những đau khổ, nhớ thương trong tình yêu như những ngọn sóng. Đau
khổ, nhớ thương là trạng thái tâm lí tình cảm của con người. Con người “cuộn sóng” đã
khó, huống chi “cuộn tròn đau khổ”. Bởi trạng thái đau khổ vốn là một trong những thứ
không thể cầm, nắm được. “Cuộn tròn đau khổ sóng tung hoa” là một sự liên tưởng độc đáo
đầy thú vị của Xuân Diệu.

3.3.3. Biểu tượng Trăng

Biểu tượng Trăng trong thơ Xuân Diệu cũng vẫn có nguồn gốc từ thơ ca dân tộc, của
văn học phương Đông. Trăng trong thơ ca phương Đông trước hết là biểu tượng của sự định
đoạt hôn nhân, biểu tượng của định mệnh thông qua hình ảnh Nguyệt lão (Nguyệt lão trong
thơ ca Trung Quốc khi vào Việt Nam trở thành ông Tơ bà Nguyệt). Theo Tục u quái lục, Vi
Cố, người đời Đường, nhân một đêm trăng đi dạo gặp một cụ già ngồi đọc sách dưới trăng

130
(Nguyệt hạ lão nhân – Nguyệt lão), bên cạnh là một cái tói lớn đựng đầy những sợi dây nhỏ
màu đỏ (xích hằng). Vi Cố thấy lạ bèn hỏi chuyện, cụ già nói: “Cuốn sách này ghi việc hôn
nhân và những dây đỏ này dùng để buộc chân những đôi nam nữ sẽ thành vợ chồng. Dù hai
bên có oán thù hay ở xa nhau nhưng nếu đã lấy dây đỏ buộc chân thì thế nào cũng tất phải
lấy nhau”[68]. Từ đó, thơ ca bắt đầu lấy trăng / nguyệt để nói đến tình yêu.
Trong văn học dân gian Việt Nam, đặc biệt ở mảng ca dao dân ca, Trăng thường gắn
với không gian lãng mạn nơi trai gái yêu nhau hò hẹn, tỏ tình:
Đêm trăng thanh, anh mới hỏi nàng
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
(Ca dao)
Hay trăng là biểu tượng của người tình:
Ngày ngày em đứng em trông
Trông non non ngát, trông sông sông dài
Trông mây mây kéo ngang trời
Trông trăng trăng khuyết, trông người người xa
(Ca dao)
Như vậy, khi xây dựng biểu tượng trăng như là biểu tượng của thiên nhiên và nghệ
thuật, biểu tượng của tình yêu lứa đôi, tình yêu đất nước, Xuân Diệu đã có sự kế thừa truyền
thống. Riêng nét nghĩa trăng là biểu tượng cho nỗi buồn và thời gian là mới mẻ, được nhà
thơ sáng tạo ra dựa trên sự ảnh hưởng của thơ ca phương Tây. Với lòng yêu đời, khao khát
gắn bó, giao cảm với đời, Xuân Diệu nhìn đâu cũng bị ám ảnh bởi thời gian. Với trăng cũng
vậy. Trăng vốn dĩ là hình ảnh của thiên nhiên vĩnh cửu, bất biến. Vậy mà trong thơ Xuân
Diệu trăng cũng trở thành nạn nhân của sự phôi pha thời gian:
Đêm đêm trời nhạt vơi sao,
Sông Ngân dòng bạc cũng hao bóng vàng.
(Bụi mưa mờ cũ)
Bên cạnh việc tạo thêm nét nghĩa mới cho biểu tượng trăng thì các thủ pháp xây
dựng biểu tượng trong thơ Xuân Diệu cũng là sự giao hòa giữa thơ ca dân tộc, thơ phương
Đông với thơ ca phương Tây. Trong bài Ca tụng, Xuân Diệu viết:
Trăng, vú mộng đã muôn đời thi sĩ
Giơ hai tay mơn trớn vẻ tròn đầy,

131
Trăng vốn là hình ảnh thơ mộng của thiên nhiên được thơ xưa ca ngợi rất nhiều.
Nhưng ngoài ý nghĩa đó ra, với cách dùng từ “vú mộng” thì trăng không còn là trăng của
thiên nhiên nữa mà đã trở thành tình nhân. Trăng đã đẹp, đã thơ mộng giờ đây thêm gợi cảm
và đầy mê hoặc. “Trăng, vú mộng” ngọn nguồn của những cảm hứng thơ ca bất tận. Trăng
là dòng suối của cảm xúc nghệ thuật. Trong thơ Xuân Diệu trăng được ví như tình nhân mê
hoặc tình nhân.
Với một nhà thơ mà “sự sống chẳng bao giờ chán nản” trong ông, thì lúc nào cuộc
đời cũng đầy ý nghĩa:
Giàu đôi con mắt của ta
Nhìn trăng trăng nở, nhìn hoa hoa cười
(Tôi giàu đôi mắt)
Trăng không tĩnh mà “trăng nở”, trăng lung linh và như có sự sống. Hình ảnh “trăng
nở” là một hình ảnh động. Trăng như hoa, hoa như trăng. Trăng hay hoa đều là tấm gương
phản chiếu lòng yêu đời của Xuân Diệu. Người Á Đông vốn sống coi trọng tình cảm. Phải
chăng Xuân Diệu là một trong số những con người Á Đông nhất.

3.3.4. Biểu tượng Trái tim

Trong thơ ca phương Đông hầu như trái tim ít xuất hiện như là một biểu tượng của
tình yêu lứa đôi. Phương Tây thì ngược lại. Giáo sư Galdino Pranzarone thuộc trường đại
học Salem, Mỹ, đưa ra giả thuyết rằng biểu tượng trái tim có thể mô phỏng đường cong trên
vòng 3 hay vòng 1 của nữ thần tình yêu trong thần thoại Hy Lạp. Và có thể các nghệ sĩ thời
phục hưng yêu thích văn học và lịch sử cổ điển đã bị tác động bởi sở thích của người Hy
Lạp. Cho nên biểu tượng trái tim dành cho tình yêu phổ biến hơn vào thế kỉ XV ở châu Âu
khi xuất hiện trong các quân bài. Tuy nhiên có một số nhà nghiên cứu tuyên bố rằng biểu
tượng trái tim tình yêu có từ thời tiền sử và được nhìn thấy đầu tiên trong các bức họa thời
kì đồ đá ở Tây Ban Nha [92].
Nói chung, trong thơ ca dân tộc nói riêng và thơ ca phương Đông nói chung, mặc dù
không nói đến trái tim nhưng cũng có nhắc đến chữ tâm (lòng) . Tuy nhiên, chữ tâm thường
bao hàm những tình cảm chung chung: tình đất nước, lòng trung hiếu, tình cảm gia đình.
Trong Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, tâm có nghĩa: mặt tình cảm, ý chí của
con người nói chung. Có lẽ những lễ giáo phong kiến khắt khe đã hạn chế con người bộc lộ
tình cảm cá nhân, nhất là tình yêu đôi lứa. Cho nên trong thơ ca trung đại Việt Nam, tình

132
yêu quê hương đất nước, nỗi niềm của các nhà nho trước thời cuộc là cảm xúc chủ đạo. Đến
giai đoạn 1930 – 1945, xuất phát từ thực tế xã hội có nhiều thay đổi, quan niệm về con
người cá nhân, tình yêu đôi lứa cũng thay đổi. Sự giao lưu văn hóa mở rộng. Thơ ca phương
Tây ảnh hưởng mạnh mẽ đến thơ ca Việt Nam. Là một trí thức Tây học được đào tạo bài
bản nên sự ảnh hưởng thơ Tây đến thơ Xuân Diệu là điều dễ hiểu. Chỉ riêng trong phong
trào Thơ mới, tình yêu lứa đôi đã có đủ sắc thái, cung bậc. Là nhà thơ lãng mạn, Xuân Diệu
viết nhiều về thơ tình và được mệnh danh là “Ông hoàng thơ tình”. Tình yêu trong thơ Xuân
Diệu luôn nồng nhiệt, vồ vập cháy bỏng. Tình yêu đúng nghĩa luôn là sự hòa hợp giữa tâm
hồn và thể xác. Những ham muốn ái ân trong tình yêu đều được nhà thơ tỏ bày thành lời
thơ. Ấy vậy nên Xuân Diệu đã nhận biết bao lời khen chê. Người khen khen nhiều. Người
chê cũng không ít. Nhưng cả một thế hệ độc giả trẻ thời ấy hiếm ai mà không đọc và không
yêu thơ Xuân Diệu. Thơ tình Xuân Diệu là lời nói thay cho những tâm tư, những con tim
yêu của họ. Cho nên việc xây dựng biểu tượng trái tim – tình yêu lứa đôi đã tạo ra sự khác
biệt cho thơ Xuân Diệu.
Khi người ta yêu nhau thì chẳng cần lời nói, chỉ cần đôi trái tim hiểu nhau. Phút giây
gần gũi là những giờ phút thần tiên, êm ái. Đến cả trái tim cũng ngừng lại để cảm nhận niềm
hạnh phúc của tình yêu.
Không cần nói. Trái tim dường mở hé,
Hoa muôn năm nghe nở tiếng thần tiên
Trái tim ngừng trong một lúc vô biên
(Kỉ niệm)
Một nét nghĩa khác mà thơ ca phương Tây ảnh hưởng lên biểu tượng trái tim trong
thơ Xuân Diệu là trái tim – biểu tượng của nỗi cô đơn. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say
đắm cảnh trời, sống vội vàng sống cuống quýt để tận hưởng cuộc sống. Lời thơ Xuân Diệu
lời có của con tim ham sống, nhiệt thành. Chính vì lòng ham sống đến tuyệt đích, luôn
muốn yêu đến “vô biên” nên Xuân Diệu không tránh khỏi nỗi buồn cô đơn khi ước mơ
không thành hiện thực. Nỗi buồn cô đơn dường như còn là nỗi buồn cô đơn của cả một thế
hệ không tìm ra được lối đi:
Muốn rụng rơi, trái tim nặng ưu phiền,
- Trái tim giữa một cái kềm bằng sắt.
(Sắt)

133
Hình ảnh “trái tim giữa một cái kềm bằng sắt” gợi sự giam cầm, bó buộc không sao
thoát ra được của con người trong cuộc đời cũ. Trái tim trong thơ Xuân Diệu trước cách
mạng tháng Tám luôn là hình ảnh của nỗi đau đời, nỗi bơ vơ, cô đơn lạc loài: trái tim đau,
trái tim ghê dáng hững hờ, trái tim nhoi nhói, …
Nhìn chung, các biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu là sự giao hòa giữa thơ
ca dân tộc nói riêng, thơ ca phương Đông nói chung với thơ ca phương Tây. Các biểu tượng
trong thơ Xuân Diệu dù có mới có Tây đến đâu cũng vẫn là những khung cảnh, sắc trời,
chim muông của quê hương Việt Nam. Thiên nhiên xinh đẹp trong thơ Xuân Diệu là thiên
nhiên của thị thành Việt Nam những năm 1930. Tình yêu trong thơ Xuân Diệu vẫn là tình
yêu của những thế hệ thanh niên Việt Nam. Nỗi buồn nỗi cô đơn trong thơ Xuân Diệu chắc
chắn là sản phẩm của những biến động xã hội Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Dù Xuân
Diệu có chịu ảnh hưởng từ văn học phương Tây đến đâu thì mạch nguồn thơ dân tộc vẫn
chảy. Bởi “quê hương mỗi người chỉ một / Như là chỉ một mẹ thôi” (Quê hương – Đỗ
Trung Quân). Những tinh hoa trong thơ ca phương Tây mà Xuân Diệu học tập được chủ
yếu từ thơ lãng mạn và tượng trưng của thơ ca Pháp trở thành bước đệm để Xuân Diệu làm
mới ngôn ngữ tiếng Việt. Âu cũng là xuất phát từ tấm chân tình của một con người nặng
lòng với quê hương đất nước.

Tiểu kết chương 3


Biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu trong thơ Xuân Diệu có mối quan hệ tương tác lẫn
nhau. Chúng đều chiếm giữ một vai trò quan trọng trong việc thể hiện thế giới nghệ thuật
của tác giả. Mùa xuân, Hoa, Trăng và Trái tim là những biểu tượng nghệ thuật xuyên suốt
đời thơ của Xuân Diệu. Chúng kết hợp với nhau cùng với các biểu tượng khác tạo nên tính
thống nhất trong mạch cảm xúc và tư duy thơ Xuân Diệu. Chúng luôn vận động và được
làm mới trong thơ ông. Để tạo nên những biểu tượng tiêu biểu độc đáo này, Xuân Diệu đã
sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc trưng. Nhà thơ đã sử dụng một hệ thống động từ,
tính từ và từ láy để tạo nên sắc thái đa dạng cho biểu tượng. Bên cạnh đó, việc tăng cường
tính nhạc, tạo độ vang, độ nén cũng là những thủ pháp mang lại hiệu quả nghệ thuật cao.
Chúng giúp tăng giá trị cho biểu tượng nghệ thuật. Xuân Diệu là nhà thơ trí thức Tây học lại
xuất thân trong một gia đình có truyền thống nho học. Chính vì vậy mà biểu tượng nghệ
thuật trong thơ Xuân Diệu có sự giao hòa giữa Đông và Tây. Tinh hoa của thơ ca dân tộc

134
bao đời đã thấm sâu vào tâm hồn thơ Xuân Diệu và được thể hiện đầy đủ trong các biểu
tượng thơ ông. Thơ ca phương Tây được Xuân Diệu sử dụng như là một công cụ để làm
mới, làm phong phú thêm ngôn ngữ dân tộc. Tất cả những nghệ thuật trên đã được Xuân
Diệu kết hợp hài hòa và hiệu quả để tạo nên những biểu tượng nghệ thuật độc đáo và đầy
sức ám gợi.

135
KẾT LUẬN

1.“Văn chương phải biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng
tạo những gì chưa có” (Đời thừa - Nam Cao). Văn chương nói chung, thơ ca nói riêng luôn
đòi hỏi sự khám phá sáng tạo cả về hình thức lẫn nội dung. Thơ ca phản ánh đời sống tâm tư
tình cảm của cá nhân nhà thơ và của xã hội. Nó không cho phép sự mô phỏng vụng về, cứng
nhắc. Nó đòi hỏi phải có sự lao động nghiêm túc và tạo nên những hiệu quả nghệ thuật thật
sự. Biểu tượng được xem như là thủ pháp giúp cho nhà thơ thực hiện điều đó một cách lý
tưởng. Biểu tượng giúp nhà thơ kết nối những mảng rời rạc tạo thành một thế giới nghệ
thuật thống nhất. Biểu tượng có khả năng kết nối cả những gì thuộc về vô thức. Điều mà
những hình tượng, hình ảnh khó có thể làm được một cách trọn vẹn. Biểu tượng được xem
như kí hiệu thẩm mĩ đa nghĩa, gồm cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Vì vậy biểu tượng gây
nhiều ấn tượng hấp dẫn cho người đọc. Khám phá ra biểu tượng chính là một bước quan
trọng trong việc tiếp cận thế giới tâm hồn và nghệ thuật tác giả. Rộng hơn, biểu tượng còn
mang trong nó vô thức tập thể, bản sắc văn hóa của một cộng đồng, một dân tộc. Biểu tượng
càng đa dạng càng chứng tỏ bề dày văn hóa của dân tộc càng cao. Biểu tượng nghệ thuật
trong thơ cũng vậy. Biểu tượng nghệ thuật trong thơ càng đa diện, càng sinh động thì sức
sống của tác phẩm càng lớn.
2.Xuân Diệu có bề dày sáng tác thơ khá lớn. Sự nghiệp thơ trải dài qua hai giai đoạn
sáng tác trước và sau cách mạng tháng Tám. Những đóng góp của Xuân Diệu vào nền thơ
ca hiện đại là không nhỏ. Biết bao công trình nghiên cứu với nhiều qui mô lớn nhỏ khác
nhau về thơ Xuân Diệu đã được công bố. Tuy nhiên, bởi tính chất của lịch sử, hai mảng thơ
của ông vẫn còn là đề tài khen chê của các nhà phê bình và cả độc giả yêu thơ. Cho nên,
việc tìm ra sự nhất quán trong quan điểm sáng tác và sự liền mạch trong phong cách thơ
Xuân Diệu ở hai giai đoạn là cần thiết. Để làm điều này, chúng tôi đi theo hướng tiếp cận từ
góc nhìn biểu tượng. Biểu tượng như là một thủ pháp trong sáng tác. Biểu tượng nghệ thuật
là bước đệm để tìm vào thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu. Việc khảo sát và đi vào phân
tích biểu tượng nghệ thuật trong thơ ông là công việc tương đối khó khăn. Tuy nhiên, kết
quả ban đầu cho thấy: Biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu là phong phú, đa dạng. Ở
khả năng của mình, chúng tôi chỉ tập trung đi sâu vào khám phá bốn biểu tượng tiêu biểu
trong đời thơ Xuân Diệu. Đó là biểu tượng Mùa xuân, Hoa, Trăng và Trái tim. Chúng tôi

136
nhận thấy bốn biểu tượng này xuất hiện xuyên suốt đời thơ của Xuân Diệu. Trong đó, nhiều
nét nghĩa được làm mới hoàn toàn trên cơ sở nét nghĩa đã tồn tại từ trước. Cũng có biểu
tượng nghệ thuật có nét nghĩa này ở giai đoạn trước 1945 nhưng đến giai đoạn sau thì biến
mất. Cũng có trường hợp nét nghĩa tồn tại trong giai đoạn trước của làm cơ sở vững chắc
cho nét nghĩa mới phát triển ở giai đoạn sau. Cả bốn biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu ấy đều
có vai trò quan trọng trong việc dựng nên thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu. Chúng tương
tác, hỗ trợ nhau về ý nghĩa và mang đến sắc thái đa dạng cho hệ thống biểu tượng nghệ
thuật thơ Xuân Diệu. Biểu tượng nghệ thuật Mùa xuân, Hoa, Trăng, Trái tim với những ý
nghĩa khác nhau nhưng đều cùng thể hiện lòng ham sống, yêu người, yêu đời đến cuồng
nhiệt trong thơ Xuân Diệu. Thơ Xuân Diệu là tiếng nói của một tâm hồn nhạy cảm, dễ
yêu,và cũng dễ buồn đau trước những thay đổi của cuộc đời, lòng người. Sự ám ảnh về thời
gian trong thơ Xuân Diệu trước 1945 hay sự ca ngợi những đổi thay của quê hương, đất
nước sau 1945 cho đến những năm cuối đời đều đáng giá. Những biểu tượng nghệ thuật đặc
sắc trên đều được Xuân Diệu dụng công xây dựng. Bằng nhiều thủ pháp đặc trưng Xuân
Diệu đã mang đến sự đa dạng về sắc thái, sinh động về độ vang mà vẫn gợi, nén cho biểu
tượng nghệ thuật trong thơ mình.
3.Xuân Diệu và thế giới thơ Xuân Diệu từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu của
rất nhiều tác giả, cả chuyên nghiệp và không chuyên. Chọn đề tài này, chúng tôi cũng không
tránh khỏi sức ép về sáo mòn hay lặp lại những công trình đã có. Và cũng trong giới hạn
một luận văn, mọi điều chúng tôi khi khai thác cũng chưa hẳn đã đầy đủ, trọn vẹn. Kế thừa
từ những kết quả đã có của những công trình nghiên cứu trước đây cùng với sự mày mò,
khám phá thật sự, chúng tôi xin được kết lại những kết quả mà luận văn đã thu được khi
thực hiện đề tài “Biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu”:
- Xác định được sự vận động trong tư duy thơ Xuân Diệu thông qua sự vận động của
chuỗi biểu tượng nghệ thuật giai đoạn trước và sau cách mạng tháng Tám.
- Biểu tượng Mùa xuân, Hoa, Trăng, Trái tim là những biểu tượng nghệ thuật tiêu
biểu xuyên suốt đời thơ Xuân Diệu với sự đa dạng về ý nghĩa biểu trưng.
- Hồn thơ Xuân Diệu là một hồn thơ thống nhất ở cả hai giai đoạn: ham sống, say
đắm tình yêu, khao khát gắn bó với đời.
- Biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu sẽ giúp ít nhiều cho việc dạy tác phẩm
thơ Xuân Diệu trong nhà trường phổ thông. Mỗi bài thơ gắn với một biểu tượng cụ thể sẽ
giúp học sinh dễ dàng cảm được ý đồ nghệ thuật của nhà thơ. Dạy tác phẩm thơ Xuân Diệu

137
thông qua những biểu tượng như là một kĩ thuật giúp học sinh ghi nhớ nội dung và nghệ
thuật của bài thơ hiệu quả hơn.

138
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt
1. Nguyễn Bao (1986), Xuân Diệu toàn tập, Tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.
2. Nguyễn Phan Cảnh (2001), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
3. W.L.Chafe (1998), Ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Nguyễn Thị Phương Châm (2003), “Một vài nhận thức về biểu tượng thực vật trong ca
dao người Việt”, Văn học nghệ thuật, (4).
5. Đỗ Hữu Châu (1996), Từ vựng – Ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
6. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (2005), Cơ Sở ngôn ngữ học và
tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học xã
hội.
8. Ngô Viết Dinh (2000), Đến với thơ Xuân Diệu, Nxb Thanh niên.
9. Trương Đăng Dung (2004), “Tác phẩm văn học như là cấu trúc ngôn từ động”, Sông
Hương, (4), tr.62-74.
10. Lê Tiến Dũng (1998), Những cách tân nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932
– 1945, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
11. Phạm Đức Dương (2002), “Thế giới biểu tượng (tiếp cận từ góc độ văn hóa học)”, Tập
san KHXH, (2).
12. Phan Cự Đệ (1996), Phong trào Thơ Mới 1930 – 1945, Nxb. KHXH, Hà Nội.
13. Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2002), Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống
người Việt, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
14. Trịnh Bá Đĩnh (2011), Chủ nghĩa cấu trúc trong văn học, Nxb Hội Nhà văn.
15. Hà Minh Đức (1974), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb KHXH,
Hà Nội.
16. Ngân Hà, Thơ Xuân Quỳnh - Những lời bình - Tủ sách văn học trong nhà trường, Nxb
Văn hoá thông tin.
17. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển Thuật ngữ văn học, Nxb
Giáo dục.

139
18. Lê Thị Tuyết Hạnh (1990), Một số tín hiệu thẩm mĩ trong thơ Xuân Quỳnh, Luận văn
thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
19. Nguyễn Văn Hậu (2001), Về biểu tượng văn hóa trong lễ hội truyền thống dân tộc,
Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Viện nghiên cứu văn hóa nghệ thuật Việt Nam, Hà Nội.
20. Nguyễn Thị Ngân Hoa (2001), “Về sự phát triển ý nghĩa của một biểu tượng (qua ngữ
liệu trăng trong thơ Hàn Mặc Tử)”, Kỉ yếu hội thảo khoa học 2001, Viện ngôn ngữ.
21. Nguyễn Thị Ngân Hoa (2002), “Biểu tượng nhìn từ cấp độ văn hóa, ngôn ngữ”, Ngữ
học trẻ 2002, tr. 616-624.
22. Đỗ Thị Hòa (2002), “Vài nét về biểu tượng hoa trong ca dao người Việt”, Ngữ học trẻ
2002, tr.624-629.
23. Nguyễn Quang Huy (2012), Thử dẫn vào nghiên cứu văn học từ góc nhìn cổ mẫu
(Archétype), Tạp chí Sông Hương, số 281.
24. Lê Quang Hưng (2002), Thế giới nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu thời kì trước 1945,
Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội.
25. Hà Thị Quế Hương (2002), “Hàm ý biểu trưng của từ chỉ hoa và tên hoa trong ca dao”,
Ngữ học trẻ 2002, tr.632-636.
26. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb.
Đà Nẵng, Trường viết văn Nguyễn Du.
27. Nguyễn Thế Lịch (1998), “Về các tính chất của ngôn ngữ nghệ thuật”, Ngôn ngữ, (4),
tr. 22-23.
28. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2009), Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn
đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
29. Nguyễn Luận (2002), “Hình và ý trong tiếp cận hình tượng”, Tia sáng, (4), tr.41-59.
30. Phương Lựu (Chủ biên) (1998), Lý luận văn học, Tập 1 - Văn học, Nhà văn, Bạn đọc,
Nxb Giáo dục.
31. Phương Lựu (2001), Lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX, Nxb Văn học,
Hà Nội.
32. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
33. Trần Quang Minh, Đinh Thị Khang (2002), Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường:
Đoàn Thị Điểm – Nguyễn Gia Thiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

140
34. Trương Thị Nhàn (1995), Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các tín hiệu thẩm mĩ không gian
trong ca dao, Luận án Tiến sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
35. Nhiều tác giả (2008), Ngữ văn 10, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
36. Nhiều tác giả (2008), Ngữ văn 11, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
37. Nhiều tác giả (2010), Ngữ văn 12, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
38. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2005), Văn học dân gian Việt
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
39. Vũ Ngọc Phan (1998), Tục ngữ - Ca dao - Dân ca Việt Nam, In lần thứ 11, Nxb Khoa
học Xã hội.
40. Hoàng Phê (chủ biên) (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
41. Đặng Thị Ngọc Phượng (2005), Những biểu tượng nghệ thuật trong hành trình thơ
Hàn Mặc Tử, Khoa học, (26), ĐH Huế.
42. Saussure F. (2005), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
43. Đặng Đức Siêu (1998), Ngữ liệu văn học, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
44. Trần Đình Sử (1996), “Tính mơ hồ, đa nghĩa của văn học”, Tạp chí Văn học, (11),
tr.578-581.
45. Lưu Khánh Thơ (1998), Xuân Diệu về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
46. Lưu Khánh Thơ (2006), Thơ mới – Tác giả, tác phẩm, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
47. Nguyễn Thu Thủy (2002), “Một số biểu tượng trong thơ Lưu Quang Vũ”, Ngữ học trẻ
2002, tr. 578 – 581.
48. Đỗ Lai Thúy (1992), Con mắt thơ, Nxb Lao động, Hà Nội.
49. Lê Ngọc Trà (1991), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ.
50. Hoàng Tuệ (1977), “Tín hiệu và biểu trưng”, Văn nghệ, (11), tr.7.
51. Nguyễn Thanh Tùng (2003), Tiếp cận “Điêu tàn” từ góc độ các biểu tượng nghệ thuật
nổi bật, Niên luận, ĐhSp, Hà Nội.
52. Lê Trí Viễn (2003), Đến với thơ hay, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
53. Phạm Thu Yến (1998), Thế giới nghệ thuật ca dao, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Tiếng Anh
54. Cirlot J.E. (1971), A Dictionary of Symbols, Routledge, London.
55. Connor W. (1946), Symbolism and the Study of Poetry, College English, Vol 7, No.7.
56. May R. (1961), Symbolism in Religion and Literature, George Braziller, New York.

141
Trang web
57. http://antgct.cand.com.vn
58. http://art2all.net
59. http://bichkhe.org
60. http://bienkhoi.com
61. http://bienlang.blogtiengviet.net
62. http://cdsphue.edu.vn
63. http://chutluulai.net
64. http://dulichsaigonact.vn
65. http://dinhhatrieu.vnweblogs.com
66. http://hoanglanchi.com
67. http://huc.edu.vn
68. http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
69. http://lainguyenan.free.fr
70. http://luanvan.net.vn
71. http://nhavantphcm.com.vn
72. http://ngonngu.net
73. http://ngnnghc.wordpress.com
74. http://nguyetvien.net
75. http://phamngochien.com
76. http://phebinhvanhoc.com.vn
77. http://phongdiep.net
78. http://phununet.com
79. http://qttc.edu.vn
80. http://tapchisonghuong.com.vn
81. http://thivien.net
82. http://thuvienhaiphu.com.vn
83. http://thuvienhoasen.org
84. http://trandinhsu.wordpress.com
85. http://trieuxuan.info
86. http://vanhoahoc.edu.vn
87. http://vanhoanghean.vn

142
88. http://vannghequandoi.com.vn
89. http://vietvan.vn
90. http://vnca.cand.com.vn
91. http://vuongtrinhan.free.fr
92. http://yume.vn
93. http://xuantoan.vnweblogs.com
94. http://4phuong.net

143

You might also like