You are on page 1of 252

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ HỒNG MINH

NGÔN NGỮ NHÂN VẬT


TRONG TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

TP. HỒ CHÍ MINH – 2002


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong
luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận án:

LÊ THỊ HỒNG MINH

3
LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn PGS. Nguyễn Lộc và PGS.TSKH. Bùi Mạnh Nhị đã hướng
dẫn tôi thực hiện đề tài này. Xin cảm ơn quý thầy cô giáo, các cấp lãnh đạo, gia đình, bạn
bè, đồng nghiệp và các sinh viên đã hỗ trợ, động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành luận án.

Tác giả luận án:

LÊ THỊ HỒNG MINH

4
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 3
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 4
MỤC LỤC .................................................................................................................... 5
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................ 8
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 9

1.MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI.............................................................................9

2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ......................................................................................................... 11

3.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ...............................................................14

4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................................................16

5.NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN ...............................................................17

6.CẤU TRÚC LUẬN ÁN ..................................................................................................17

CHƯƠNG 1: XÁC ĐỊNH NGÔN NGỮ ĐỐI THOẠI VÀ ĐỘC THOẠI CỦA
NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC ...................................... 17

1.1.KHÁI NIỆM ĐỐI THOẠI VÀ ĐỘC THOẠI ............................................................18

1.2.VẤN ĐỀ CHỌN VĂN BẢN ........................................................................................24

1.2.1.Vấn đề chọn văn bản đối với Truyện Kiều ...........................................................24

1.2.2.Vấn đề chọn văn bản ở các tác phẩm khác ...........................................................29

1.3.XÁC ĐỊNH NGÔN NGỮ ĐỐI THOẠI, ĐỘC THOẠI CỦA NHÂN VẬT TRONG
TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC .....................................................................................34

1.3.1. HIỆU ĐÍNH MỘT SỐ CÂU ĐỐI THOẠI, ĐỘC THOẠI TRÊN CƠ SỞ CÁC
VĂN BẢN ĐÃ CÓ ........................................................................................................39

1.3.1.1.Xác định lại: đối thoại hay độc thoại? ..........................................................39

1.3.1.2.Điều chỉnh lại lời đối thoại, độc thoại ..........................................................40

1.3.2.XÁC ĐỊNH BỔ SUNG NHỮNG CÂU ĐỐI THOẠI, ĐỘC THOẠI MỚI .........46

TIỂU KẾT .........................................................................................................................49

5
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRUYỆN THƠ NÔM
BÁC HỌC................................................................................................................... 50

2.1.TÍNH TRANG NHÃ, UYÊN BÁC TRONG NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRUYỆN
THƠ NÔM BÁC HỌC ......................................................................................................50

2.1.1.NGÔN NGỮ ƯỚC LỆ, TƯỢNG TRƯNG TẠO NÊN TÍNH TRANG NHÃ,
UYÊN BÁC LÀ MỘT ĐẶC ĐIỂM CỦA THI PHÁP VĂN HỌC TRUNG ĐẠI ........50

2.1.2.NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA NGÔN NGỮ ƯỚC LỆ, TƯỢNG TRƯNG TRONG
NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC .....................................54

2.1.3.CÁCH THỨC TẠO NGÔN NGỮ ƯỚC LỆ, TƯỢNG TRƯNG CHO NHÂN
VẬT CỦA TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC ..............................................................66

2.2.TÍNH BÌNH DÂN CỦA NGÔN NGỮ SINH HOẠT ĐỜI THƯỜNG, NGÔN NGỮ
DÂN GIAN TRONG NGÔN NGỮ NHÂN VẬT .............................................................70

2.2.1.NGÔN NGỮ SINH HOẠT ĐỜI THƯỜNG ........................................................72

2.2.2.NGÔN NGỮ VĂN HỌC DÂN GIAN .................................................................83

2.2.2.1.Sự có mặt của thành ngữ, tục ngữ trong lời nói: ..........................................83

2.2.2.2.Ca dao dân ca trong ngôn ngữ nhân vật.......................................................93

TIỂU KẾT .......................................................................................................................100

CHƯƠNG 3: VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN
THƠ NÔM BÁC HỌC ............................................................................................ 102

3.1.VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM TỰ SỰ VÀ KỊCH
..........................................................................................................................................102

3.2.VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN THƠ NÔM BÁC
HỌC .................................................................................................................................106

3.2.1.CÁC HÌNH THỨC NGÔN NGỮ NHÂN VẬT .................................................108

3.2.2.VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN THƠ NÔM BÁC
HỌC ............................................................................................................................. 112

3.2.3.MỘT SỐ TÍNH CÁCH ĐẶC SẮC THỂ HIỆN RÕ VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ
NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM ............................................................................125

6
3.2.3.1.Nhược Hà: ...................................................................................................125

3.2.3.2.Thể Vân: ......................................................................................................131

3.2.3.3.Thúy Kiều: ...................................................................................................138

3.2.3.4.Hoạn Thư: ...................................................................................................153

3.2.3.5.Thúc Sinh: ...................................................................................................164

3.3.MỘT SỐ ĐIỂM HẠN CHẾ: ....................................................................................170

TIỂU KẾT: ......................................................................................................................171

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 173


DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ...................................................... 177
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 178
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 188

BẢNG 1.1a: .....................................................................................................................188

BẢNG 1.1b: .....................................................................................................................190

BẢNG 1.3: .......................................................................................................................193

BẢNG 2. la: .....................................................................................................................194

BẢNG 2.2: .......................................................................................................................198

BẢNG 3.2: .......................................................................................................................207

BẢNG 3.3: .......................................................................................................................210

BẢNG 4.1a: .....................................................................................................................212

BẢNG 4. 2: ......................................................................................................................219

BẢNG 5.1a: .....................................................................................................................225

BẢNG 5.3: .......................................................................................................................233

BẢNG 6.1b: .....................................................................................................................246

BẢNG 6.2: .......................................................................................................................247

BẢNG 6.3: .......................................................................................................................251

7
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
(Xếp theo ký tự đầu của chữ viết tắt)

-BK-TTK - Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim

-ĐDA - Đào Duy Anh

-Gs. - Giáo sư

- HT - Truyện Hoa tiên

- HXH - Hoàng Xuân Hãn

-HHY - Hoàng Hữu Yên

- LVT - Truyện Lục vân Tiên

- LT - Lửa Thiêng

-NỌT - Nguyễn Quảng Tuân

- NTG - Nguyễn Thạch Giang

- NTTX - Nguyễn Thị Thanh Xuân

- Nxb. - Nhà xuất bản

- NĐM - Truyện Nhị độ mai

-PGs. - Phó giáo sư

-Sđd - Sách đã dẫn

-ST - Truyện Song Tinh

-SKTT - Sơ kính tân trang

-TCVH - Tạp chí văn học

-TV. - Tân Việt

-TSKH - Tiến sĩ khoa học

-Tr. - Trang

- TK. - Truyện Kiều

8
PHẦN MỞ ĐẦU
1.MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI

Truyện thơ Nôm bác học là một thành tựu lớn của văn học Việt Nam, một thách thức
đối với thời gian, đối với lịch sử văn học nước Việt. Với những kiệt tác như Truyện Kiều, Sơ
kính tân trang, Truyện Hoa tiên... truyện thơ Nôm bác học thế kỷ XVIII _ XIX đã góp phần
đưa giai đoạn văn học này lên vị trí đỉnh cao của văn học dân tộc.

Suốt ba thế kỷ qua, đặc biệt kể từ khi Truyện Kiều ra đời, truyện thơ Nôm bác học thu
hút hàng trăm ý kiến của các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu phê bình văn học lớn, nhỏ
trong nước và cả ngoài nước. Các ý kiến ấy có thể trái ngược hoặc bổ sung cho nhau khi
đánh giá về nhân vật này hay nhân vật kia, nhưng cùng đi đến một sự thống nhất chung:
truyện thơ Nôm bác học là sản phẩm tài hoa của các nhà thơ Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX.
Nhiều công trình đã nghiên cứu hết sức công phu về các mặt tư tưởng, nghệ thuật, ngôn
ngữ... của các tác phẩm truyện thơ Nôm giai đoạn này và đạt được những thành tựu xuất
sắc, góp cho sự đánh giá truyện thơ Nôm bác học thêm chính xác, giúp giá trị các truyện thơ
Nôm giai đoạn này thêm tỏa rộng, lan xa.

Truyện thơ Nôm bác học đặc sắc trên nhiều phương diện, trong đó phải kể đến thành
tựu rực rỡ của ngôn ngữ nhân vật, đặc biệt là ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều.

Ngôn ngữ nhân vật là yếu tố có tính chất quyết định đối với kịch và có vai trò đặc biệt
quan trọng đối với truyện, nhất là thể loại tiểu thuyết. Những thiên tài, những nhà văn lớn
khi xây dựtig hình tượng nhân vật, đều hết sức chú ý phương diện này. M.Bakhtin đã chứng
minh: qua ngôn ngữ nhân vật và chủ yếu bằng ngôn ngữ nhân vật, Đôxtôjêvxki đã sáng tạo
ra tiểu thuyết phức điệu, tạo nến sự cách tân vĩ đại cho văn học Nga và cho tiểu thuyết hiện
đại thế giới.

Thế nhưng, ở nước ta, ngôn ngữ nhân vật chưa được cả người sáng tác lẫn người
nghiên cứu quan tâm đúng mức. Trong văn học Việt Nam, các tác giả thực sự xây dựng
được ngôn ngữ nhân vật không nhiều. Theo Phan Ngọc thì cho đến cuối thế kỷ XX, mới chỉ
có ba tác giả làm được việc này: Nguyễn Du, Vũ Trọng Phụng và Nam Cao [98, tr.131].
Công trình nghiên cứu về ngôn ngữ nhân vật lại càng ít ỏi, mặc dù ngôn ngữ nhân vật chiếm
một phần không nhỏ trong tác phẩm. Các truyện thơ Nôm bác học tiêu biểu đều có tỉ lệ
ngôn ngữ nhân vật từ 1/3 đến 1/2 dung lượng số câu thơ. Có thể thấy rõ điều này qua:

9
Tỉ lệ ngôn ngữ nhân vật như vậy là rất lớn. Hơn nữa, ngôn ngữ nhân vật là một yếu tố
quan trọng để khu biệt thể truyện thơ với ngâm khúc, là một thành phần thi pháp, một phong
cách nghệ thuật có thể góp phần khu biệt truyện thơ nôm bác học với truyện thơ Nôm bình
dân, có vai trò không nhỏ trong việc phát triển tình tiết câu chuyện, xây dựng tính cách nhân
vật và thể hiện chủ đề của tác phẩm. Thế nhưng, có rất ít bài nghiên cứu về ngôn ngữ nhân
vật. Có thể đơn cử về tác phẩm của Nguyễn Du: cả một khối lượng đồ sộ hàng trăm đầu
sách và hàng mấy trăm bài viết về Truyện Kiều, trong đó, có nhiều công trình, bài viết lấy
dẫn chứng, ví dụ từ ngôn ngữ nhân vật để làm rõ những luận điểm văn học: tính cách nhân
vật, tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, vấn đề điển hình hoá v.v..., nhưng hầu hết các bài viết
ấy chỉ dùng ngôn ngữ nhân vật như một phương tiện phục vụ cho một hướng nghiên cứu
nào đó, chứ chưa xem nó thực sự là đối tượng nghiên cứu, mặc dù tác giả có những đoạn
phân tích về ngôn ngữ nhân vật rất đặc sắc.

Như vậy, theo chúng tôi, việc tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá về vai trò và những đóng
góp của ngôn ngữ đối thoại và độc thoại cho sự thành công của tác phẩm là một việc cần

10
thiết, không chỉ trên bình diện lý luận, phê bình mà còn có thể giúp ích cho những người
sáng tác.

2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Có lẽ bài viết Về ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Lộc đăng trên Tạp
chí Văn học (tháng 11/1965) - 14 trang - là công trình đầu tiên đề cập đến hướng khai thác
này. Hơn mười năm sau mới có một bài viết 13 trang tiếp nối đề tài trên, với cùng một tiêu
đề: Về ngôn ngữ nhân vật "Truyện Kiều" (TCVH số 3 - 1977). Sau đó, tác giả Đặng Thanh
Lê đã hoàn chỉnh bài viết thành một phần của chuyên luận Truyện Kiều và thể loại truyện
Nôm (1979). Về sau, trong công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều
(1985), tác giả Phan Ngọc cũng đã dành một phần ương chuyên luận để nói tới đối thoại và
độc thoại cửa nhân vật. Năm 1997, Đinh Thị Khang có bài "Ngôn ngữ nhân vật trong truyện
Hoa Tiên" [143].

Trong bài viết của mình, tác giả Nguyễn Lộc đề cập đến hai vấn đề chủ yếu của ngôn
ngữ nhân vật: đặc điểm ngôn ngữ nhân vật và chức năng biểu hiện tính cách của ngôn ngữ
nhân vật trong Truyện Kiều.

Về đặc điểm, Nguyễn Lộc đã chỉ ra: ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều một mặt có "yếu
tố hiện thực chủ nghĩa", mặt khác, "có khá nhiều yếu tố có tính ước lệ" [88, tr.62] - một đặc
điểm phổ biến của ngôn ngữ văn học thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX. Giáo sư lý giải
các yếu tố hình thành tính chất ước lệ của ngôn ngữ nhân vật - một đặc điểm loại hình có
tính chất loại biệt trong nghệ thuật biểu hiện của văn học phong kiến. Đó là sự cách điệu của
thơ lục bát, sự cố định hóa đối tượng so sánh của thể tỷ trong ca dao, nhưng, chủ yếu vẫn là
phương thức diễn đạt qua những công thức biểu hiện của ngôn ngữ văn học đương thời. Từ
thực tiễn tác phẩm, Nguyễn Lộc rút ra nhận xét: nhân vật chính diện thiên về tính chất lý
tưởng hóa, thuộc phạm trù cao cả, nên thường sử dụng ngôn ngữ ước lệ. Nhân vật phản diện
khi ra vẻ chính diện cũng dùng nó. Đối với thành phần ngôn ngữ có tính chất hiện thực chủ
nghĩa, ông chủ yếu phân tích về đặc điểm sử dụng: nó phần lớn được dùng cho nhân vật
phản diện. Nhân vật chính diện lúc rơi vào những mâu thuẫn gay gắt, những biến cố phức
tạp của cuộc đời, ngôn ngữ cũng tăng cường yếu tố này - khi mà những phương tiện nghệ
thuật mang tính ước lệ không đủ sức dung nạp, biểu hiện. Tuy nhiên, giáo sư chưa chú trọng
đi sâu vào những nhân tố làm nên tính chất hiện thực này.

11
Nói về vai trò chính của ngôn ngữ nhân vật, qua sự phân tích các đối tượng: Thuý
Kiều, Tú Bà, Hoạn Thư, Thúc Sinh... Nguyễn Lộc đã chứng minh: ngôn ngữ nhân vật là
một phương tiện vô cùng quan trọng để bộc lộ tính cách, góp phần cá thể hoa nhân vật, thể
hiện đặc sắc hình tượng tác phẩm. Ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều vừa kế thừa và phát huy
truyền thống của thể loại truyện thơ Nôm, vừa là một bước phát triển cao so với truyện Nôm
đương thời.

Về hạn chế, Nguyễn Lộc cho rằng: ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều còn hạn chế về
phương diện cá thể hóa nhân vật; vai trò thuyết minh của tác giả khá lớn, có khi đã xâm
nhập vào ngôn ngữ nhân vật.

Ở công trình Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, khi đề cập đến "nghệ thuật xây dựng
Truyện Kiều", Đặng Thanh Lê đã giành hai mục nhỏ để nói về ngôn ngữ đối thoại và độc
thoại. Đặt ngôn ngữ đối thoại của Truyện Kiều trong cái nền ngôn ngữ đối thoại của truyện
Nôm nói chung, tác giả khẳng định: nó đóng vai trò quan trọng trong "biểu hiện cảm nghĩ
và quyết định hành động của nhân vật đứng trước một tình huống, một mâu thuẫn", và trong
"trình bày bước phát triển của sự kiện, tình tiết" [81, tr.232].

Theo Đặng Thanh Lê, ngôn ngữ đối thoại Truyện Kiều có hai đặc điểm lớn. Sự thống
nhất cao giữa nội dung tư duy cảm xúc với hình thức ngôn ngữ là đặc điểm chi phối chủ thể
sử dụng ngôn ngữ (nhân vật chính diện hay phản diện) và tính chất ngôn ngữ hội thoại
(ngôn ngữ quý tộc hay ngôn ngữ nhân dân, ngôn ngữ công thức ước lệ hay ngôn ngữ có
màu sắc hiện thực chủ nghĩa). Đặc điểm thứ hai là tính nhân dân ương ngôn ngữ nhân vật.
Tính chất này được hình thành từ ngôn ngữ hàng ngày và ngôn ngữ văn học dân gian. Nó có
mặt trong lời nói của hầu hết các nhân vật Truyện Kiều.

Về ngôn ngữ độc thoại miêu tả nội tâm nhân vật, Đặng Thanh Lê xem đây là một yếu
tố quan trọng để xây dựng tính cách, là nguyên nhân sự phát triển hành động của nhân vật,
phát triển tình tiết diễn biến cốt truyện. Nó thường được Nguyễn Du sử dụng "ở nhữĩig
chặng đường có ý nghĩa bước ngoặt đối với vận mệnh nhân vật, ở những trường hợp kịch
tính cao của tình huống, của sự bộc lộ tính cách" [81, tr.251].

Công trình của Đặng Thanh Lê là một bổ sung quan trọng, thú vị đối với bài báo của
Nguyễn Lộc.

Ở chuyên luận Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Phan Ngọc xem
Truyện Kiều là một tiểu thuyết tâm lý, thể hiện qua ba yếu tố: ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ

12
nhân vật và ngôn ngữ thiên nhiên. Phan Ngọc cho rằng trước Nguyễn Du chỉ có lời nói mà
chưa có ngôn ngữ nhân vật - với tính cách là một phạm trù mỹ học. Ngay cả tuồng cũng chỉ
mới xây dựhg được ngôn ngữ tính cách.

Ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều ít dùng để làm những việc giao tiếp hàng ngày
như chào hỏi, kể chuyện... Nó là ngôn ngữ tâm trạng biểu lộ thái độ của nhân vật. Nó xuất
hiện như một kiểu lựa chọn, có cấu trúc nghệ thuật, lớp từ vựhg và kiểu cú pháp riêng,
ngoài sự giao tiếp thực tiễn còn là phương tiện bộc lộ tính cách.

Sự thể hiện quá trình diễn biến chủ quan của nội tâm nhân vật là một thành tựu xuất
sắc của Truyện Kiều. Theo Phan Ngọc, Nguyễn Du đã dùng "lối phân tích tàn nhẫn" - học ở
Phật giáo - để đi sâu phân tích đời sống tâm lý của họ. Kết quả là các nhân vật của ông
"không nằm gọn trong bất kỳ khung đạo lý nào có sẩn" [98, tr.139], trở thành nơi tập trung
mọi mâu thuẫn, khiến cho mọi ý kiến bàn cãi trái ngược nhau về họ mãi không có điểm
dừng.

Tuy nhiên, có chỗ, theo chúng tôi, Phan Ngọc dường như đã nhầm giữa ngôn ngữ nhân
vật và ngôn ngữ tác giả. Chẳng hạn ông phân tích rất hay về tâm trạng nhân vật Mã Giám
Sinh lúc tính toán việc "nước trước bẻ hoa", nhưng lại không xem đó là ý nghĩ của nhân vật
họ Mã mà là "sự phân tích nội tâm do ngôn ngữ tác giả đảm nhiệm" [98, tr.113].

Dù có đôi điều cần lưu ý thêm như đã nêu, có thể nói, công trình của các giáo sư
Nguyễn Lộc, Đặng Thanh Lê, Phan Ngọc đều có nhữlig khái quát và những phân tích, kiến
giải sâu sắc đối với ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều, đặt cơ sở nền móng cho những
người nghiên cứu đi sau tiếp tục khai thác về ngôn ngữ đối thoại, độc thoại.

Ngoài ra, trong chuyên luận, trong bài viết của các tác giả nêu trên và của nhiều nhà
nghiên cứu, phê bình, nhiều nhà vãn, nhà thơ có tên tuổi khác như Hoài Thanh, Lê Trí Viễn,
Xuân Diệu, v.v... có nhiều đoạn phân tích rất thành công về ngôn ngữ nhân vật để làm sáng
tỏ những giá trị khác của tác phẩm. Đáng chú ý có công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa
hiện thực của Lê Đình Kỵ (1992). ở mục "Nhân vật và tính cách", Lê Đình Kỵ coi độc thoại
nội tâm của Truyện Kiều không phải dùng để giải thích hay báo trước sự diễn biến của câu
chuyện mà là "sự lên tiếng của tâm tình", là "tâm hồn tự soi bóng" [74, tr. 228], "làm cho sự
thể hiện thấm nhuần cảm xúc", "qua đó vấn đề xã hội đặt ra trở thành sinh động và ám ảnh"
[74, tr. 231]. Bên cạnh đó, giáo sư đã có những đoạn phân tích hết sức đặc sắc lời nói nhân
vật khi làm rõ "con người của Truyện Kiều".

13
Đối với Truyện Kiều, một tác phẩm được nói đến nhiều, mà số bài viết về ngôn ngữ
nhân vật mới chỉ có chừng ấy thì đối với các tác phẩm khác của giai đoạn này, sự nghiên
cứu về ngôn ngữ nhân vật lại càng ít ỏi hơn. Chúng tôi chỉ gặp một bài của Đinh Thị Khang
viết về ''Ngôn ngữ nhân vật trong truyện Hoa Tiên". Một số nhận xét về chức năng của đối
thoại trong Hoa Tiên có phần trùng hợp với ý kiến của Đặng Thanh Lê đối với Truyện Kiều
nên chúng tôi không nhắc lại ỏ đây. Song, Đinh Thị Khang cũng đã có những phát hiện khá
thú vị: yếu tố quyết định tính chất và hình thức biểu đạt của ngôn ngữ đối thoại là nội dung
đối thoại và chức năng của nhân vật đối thoại. Bên cạnh đó, Đinh Thị Khang đã chú ý tới sự
phân bổ của ngôn ngữ đối thoại và chỉ ra: "ngôn ngữ đối thoại chỉ thực sự xuất hiện tập
trung vào cuộc gặp gỡ và cuộc tình" của hai nhân vật chính. Tác giả bài viết cũng đã đề cập
đến ngôn ngữ nhân vật đã góp phần cá thể hoa nhân vật như thế nào: Phương Châu chủ
động đến với tình yêu nên dùng những từ mang sắc thái chủ động; Dao Tiên thường nói
những điều hợp với đạo đức, lễ giáo... Tuy nhiên, ý kiến này theo chúng tôi là chưa thoả
đáng. Không phải vì Đinh Thị Khang nhận xét không tinh mà là vì đây là đặc điểm chung
của hầu hết các nhân vật chính diện trung tâm của truyện thơ Nôm bác học chứ không riêng
gì của Hoa Tiên. Và thực sự là, các nhân vật Truyện Hoa Tiên hầu như ngôn ngữ không thể
hiện rõ màu sắc cá tính. Vì vậy, theo chúng tôi, đây là ngôn ngữ của loại nhân vật hơn là
ngôn ngữ "cá thể hoá" nhân vật.

Như vậy, vấn đề ngôn ngữ đối thoại và độc thoại của nhân vật trong truyện thơ Nôm
bác học thế kỷ XVIII - XIX không phải là một "điểm trắng trong khoa học" mà là một vấn
đề mới được xem xét một cách tản mạn, cần được tìm hiểu sâu hơn, đầy đủ và có hệ thống
hơn. Thực hiện đề tài "Ngôn ngữ nhân vật trong truyện thơ Nôm bác học", chúng tôi cũng
nhằm mục đích ấy.

3.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Một vấn đề khá hóc búa đặt ra đối với chúng tôi là: dùng tiêu chí nào để phân biệt giữa
truyện thơ Nôm bác học và truyện thơ Nôm bình dân! Đã có rất nhiều ý kiến xung quanh
vấn đề này [61, tr.23-49]. Có thể xem truyện thơ Nôm bác học là loại truyện thơ có cốt
truyện lấy từ truyện hoặc tiểu thuyết Trung Quốc, có tên tác giả, ngôn ngữ có tính chất uyên
bác, được gọt giũa, trau chuốt hơn, còn truyện thơ Nôm bình dân có cốt truyện phần lớn lấy
từ truyện cổ tích, truyện dân gian Việt Nam, không có tên tác giả, ngôn ngữ mộc mạc, có
tính chất kể chuyện..? Nếu dựa vào những tiêu chí đó thì sẽ lý giải như thế nào đây về

14
những truyện thơ Nôm có tính chất tự truyện như Sơ kính tân trang, Lục Vân Tiên hay về
Phan Trần, Nhị độ mai - những truyện Nôm khuyết danh mà cốt truyện dựa theo truyện
Tàu, văn phong vừa có chất bác học, vừa đậm chất dân dã? Cũng thật khó phân loại Quan
Âm Thị Kính lấy đề tài từ tích Phật hay Bích câu kỳ ngộ lấy tích truyện dân gian với những
chi tiết dã sử nhưhg nhiều câu thơ rất mực cao sang. Và chắc chắn một điều là người sáng
tác ban đầu của các truyện thơ Nôm khuyết danh phải là các nhà nho, thậm chí là những nhà
nho hay chữ. Không có trình độ học vấn, không thể kiến thiết nên những tòa lâu đài bằng
văn chương như thế được. Như vậy, sự khoanh vùng văn chương bác học nói chung, truyện
thơ Nôm bác học nói liêng, ở đây, chỉ có tính chất tương đối.

Thành tựu của truyện thơ Nôm bác học chủ yếu tập trung ở giai đoạn thế kỷ XVIII -
XIX nên chúng tôi cũng tập trung nghiên cứu ngôn ngữ đối thoại và độc thoại của các nhân
vật trong những tác phẩm của giai đoạn văn học này. Do hạn chế về trình độ, thời gian và tư
liệu, chúng tôi chỉ chọn một số tác phẩm tiêu biểu như: Truyện Song Tinh (ST), Truyện Kiều
(TK), Sơ kính tân trang (SKTT), Truyện Hoa tiên (HT), Truyện Nhị độ mai (NĐM). Nguyễn
Đình Chiểu có nhiều truyện thơ, nhưng chúng tôi chỉ chọn Truyện Lục Vân Tiên (LVT) để
khảo sát vì nó chẳng những là tác phẩm truyện thơ tiêu biểu nhất của nhà thơ đất Ba Tri mà
còn vì nó có đề tài phù hợp với cái mạch chung của các truyện thơ Nôm giai đoạn này.
Chúng tôi không phủ nhận tính chất bình dân của Lục Vân Tiên, nhưng theo chúng tôi quan
niệm thì đây là một truyện thơ Nôm bác học vì nó có tên tác giả (hai tiêu chí chủ yếu lâu
nay vẫn dùng để phân biệt truyện Nôm bác học với truyện Nôm bình dân là: tác giả và hình
thức nghệ thuật [61, tr.43]). linh chất dân gian của tác phẩm là tính chất dân gian của một
truyện thơ Nôm bác học. Dù được lưu truyền ương dân gian, được truyền tụng, hát xẩm, nói
thơ... nhưng không phải vì thế mà quyền sở hữu tác giả của Nguyễn Đình Chiểu cũng như
dấu ấn con người của Nguyễn Đình Chiểu bị mất đi. Ta có thể thấy dấu ấn ấy qua ngôn ngữ
đầy cá tính của các nhân vật Hớn Minh, thầy pháp... Bản thân nội dung nghệ thuật thi pháp
của Lục Vân Tiên cũng phản ánh được một số đặc điểm chung của thi pháp truyện thơ Nôm
bác học. Và, vì tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu là tác phẩm có tính chất bản lề, khép lại
một giai đoạn của truyện thơ Nôm trung đại, manh nha những yếu tố cận đại, mở đường cho
tiểu thuyết hiện đại ra đồi, nên chúng tôi xem đây là tác phẩm để tham khảo thêm, chứ
không coi là đối tượng khảo sát chính.

Do yêu cầu của tính chính xác, khoa học trong nghiến cứu, chúng tôi thấy trước hết
cần “Xác định ngôn ngữ đối thoại và độc thoại của nhân vật trong truyện thơ Nôm bác

15
học”. Hơn nữa, xác định ngôn ngữ nhân vật còn góp phần giúp chúng ta tìm hiểu về phong
cách, thi pháp của các nhà thơ. Vậy nên, chúng tôi có thêm một chương nói về vấn đề này.

Trong các truyện thơ Nom bác học được chọn khảo sát, Truyện Kiều là tác phẩm có
ngôn ngữ nhân vật thành công hơn cả, vì vậy, chúng tôi sẽ tập trung phân tích chủ yếu ngôn
ngữ đối thoại và độc thoại của tác phẩm này.

Ngồn ngữ nhân vật có ý nghĩa đối với nhiều phương diện của tác phẩm, nhưng nổi bật
nhất vẫn là vai trò quan trọng của nó trong việc xây dựng tính cách nhân vật. Do đó, khi nói
về vai trò của ngôn ngữ đối thoại và độc thoại, chúng tôi chủ yếu xem xét nó ở phương diện
nêu trên. Mục tiêu của chúng tôi không phải là phân tích tính cách nhân vật, mà qua một vài
gương mặt của Truyện Kiều và một số truyện thơ Nôm bác học tiêu biểu, tìm hiểu ngôn ngữ
nhân vật đã có đóng góp gì trong việc xây dựng tính cách, qua đó, làm rõ một số nét đặc
sắc, những đóng góp của đối thoại, độc thoại trong thành tựu chung của tác phẩm.

Một vài vấn đề khác, chẳng hạn: ngôn ngữ đối thoại và độc thoại tạo tình huống kịch,
chúng tôi có điểm qua trong luận án, nhưng không viết thành chương mục riêng, vì đặc
điểm này không phổ biến trong các tác phẩm.

4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Thực hiện luận án này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành văn
học và ngôn ngữ, chủ yếu là thống kê, phân tích và so sánh. Cụ thể như sau:

_ Dùng phương pháp phân tích cấu trúc câu kết hợp với phân tích nội dung và phân
tích một số nét tiêu biểu trong phong cách tác giả để xác định câu đối thoại, độc thoại trong
các tác phẩm truyện thơ Nôm bác học tiêu biểu trên cơ sỏ tham khảo những văn bản đã có.

_ Phân tích tính chất, vai trò, chức năng ngôn ngữ nhân vật dựa trên những dữ liệu
thống kê ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của từng tác phẩm.

_ Đối chiếu, so sánh ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của nhân vật Truyện Kiều với ngôn
ngữ nhân vật của Kim Vân Kiều truyện. Đối chiếu ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của các
truyện thơ Nôm bác học cùng thời để thấy được thành tựu, sự sáng tạo và những đóng góp
của các tác giả trên phương diện này.

16
5.NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN

Trong khả năng có hạn của mình, tác giả luận án cố gắng xác định lại đường biên một
số câu đối thoại và độc thoại của nhân vật truyện thơ Nôm bác học; bổ sung thêm một số
câu mới mà các nhà làm văn bản chưa xác định; định danh cho một số dạng thức đối thoại
và độc thoại của tác phẩm văn học mà các nhà ngôn ngữ chưa đề cập đến.

Trên cơ sở các bài nghiên cứu, phê bình của những người đi trước, chúng tôi hệ thống
lại các vấn đề cơ bản của đối thoại và độc thoại như vai trò, đặc điểm của ngôn ngữ nhân
vật; và phân tích tính cách nhân vật dưới góc độ ngôn ngữ đối thoại và độc thoại như một sự
minh họa về những đóng góp của ngôn ngữ nhân vật trong việc làm nên thành công của các
tác phẩm và của giai đoạn văn học.

6.CẤU TRÚC LUẬN ÁN

PHẦN MỞ ĐẦU NỘI DUNG CHÍNH

Chương 1: Xác định ngôn ngữ đối thoại và độc thoại của nhân vật trong truyện thơ
Nôm bác học.

Chương 2: Đặc điểm ngôn ngữ nhân vật truyện thơ Nôm bác học.

Chương 3: Vai trò của ngôn ngữ nhân vật trong truyện thơ Nôm bác học.

KẾT LUẬN

NỘI DUNG CHÍNH

CHƯƠNG 1: XÁC ĐỊNH NGÔN NGỮ ĐỐI THOẠI VÀ ĐỘC


THOẠI CỦA NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC
Lời văn của một tác phẩm văn học thường được cấu tạo bởi hai thành phần: ngôn ngữ
nhân vật và ngôn ngữ tác giả.

Ngôn ngữ nhân vật tồn tại dưới hai hình thức: đối thoại và độc thoại.

Với yếu cầu của đề tài: tìm hiểu về "Ngôn ngữ nhân vật trong Truyện thơ Nôm bác
học", việc đầu tiên chúng tôi quan tâm là: xác định trong văn bản Truyện thơ Nôm bác học,

17
đâu là ngôn ngữ độc thoại, đâu là ngôn ngữ đối thoại của nhân vật? Xác định đối tượng
nghiên cứu càng chính xác thì càng có cơ sở để tìm hiểu, đánh giá đối tượng một cách đúng
đắn, khoa học.

Công việc này không đơn giản. Bởi Truyện thơ Nôm bác học được các nhà thơ viết ra
bằng chữ Nôm. Sau đó, được các học giả sao chép, truyền tụng trước hết cũng bằng chữ
Nôm.

Cũng như các văn bản chữ Hán cổ, các văn bản chữ Nôm không có hệ thống dấu câu
(chấm, phẩy, hai chấm, ba chấm, ngoặc đơn, ngoặc kép, v.v...) như hệ thống ký hiệu chữ
viết hiện đại. Chỉ đến khi Truyện thơ Nôm bác học được phiên âm ra chữ quốc ngữ, những
người làm văn bản, tùy cách hiểu, cách cảm của mình, mà sử dụng dấu câu định ra các đoạn
dừng, ngắt khác nhau. Bởi vậy, cách sử dụng dấu câu để xác định phạm vi ranh giới lời độc
thoại, đối thoại của nhân vật trong Truyện thơ Nôm bác học cũng thiếu sự thống nhất:
dường như có bao nhiêu người nghiên cứu văn bản Truyện thơ Nôm bác học là có bấy nhiêu
cách xác định ngôn ngữ nhân vật.

Tuy nhiên, việc xác định lời đối thoại trong các văn bản, cơ bản vẫn là nhất trí. Sự
khác biệt chỉ tập trung ở khu vực xác định ngôn ngữ độc thoại. Hầu hết văn bản các truyện
thơ Nôm bác học cho đến nay đều chưa được chú ý thích đáng về vấn đề này. Đây là một
vấn đề khá phức tạp: trong Truyện thơ Nôm bác học, đặc biệt là Truyện Kiều có rất nhiều
đoạn sử dụng ngôn ngữ "pha" giữa lời độc thoại thể hiện ý thức của nhân vật với sự miêu tả,
phân tích thế giới bên trong nhân vật của tác giả.

Như vậy, việc xác định ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của nhân vật trong Truyện thơ
Nôm bác học liên quan chặt chẽ tới việc dùng dấu câu và phân đoạn tác phẩm. về mặt này,
các văn bản đều có nhữỉig điểm chưa hợp lý. Song, nó không thuộc phạm vi đề tài nên
chúng tôi chỉ đề cập đến chỗ nào liên quan đến câu độc thoại, đối thoại mà thôi.

Để xác định được chính xác ngôn ngữ nhân vật, chúng tôi dựa vào ý kiến của các nhà
ngôn ngữ để đưa ra những khái niệm về đối thoại và độc thoại, làm cơ sở cho việc xem xét.

1.1.KHÁI NIỆM ĐỐI THOẠI VÀ ĐỘC THOẠI

Xoay quanh ngôn ngữ nhân vật có khá nhiều tên gọi và khái niệm: đối thoại, hội thoại,
đàm thoại, bàng thoại, đối bạch, độc bạch, độc thoại, độc thoại nội tâm, tự thoại, lời trực
tiếp, lời nội tâm... Trong hội thoại, một số nhà ngôn ngữ lại chia nhỏ hơn: song thoại, tam

18
thoại, đa thoại... Nhưng, tất cả, quy lại, có thể gói trong hai khái niệm chính: đối thoại (hay
hội thoại) và độc thoại.

Đối thoại và độc thoại gần đây đã trở thành "điểm nóng", trở thành vấn đề trung tâm
của ngữ dụng học, tâm lý học, triết học về ngôn ngữ v.v...

Từ khi ngữ dụng học được các nhà ngôn ngữ Việt Nam quan tâm, vấn đề lý thuyết hội
thoại cũng dược họ lưu tâm tới nhiều hơn trước. Đáng chú ý có "Đại cương ngôn ngữ học",
tập 2 (1993) của Đỗ Hữu Châu và "Ngữ dụng học" tập I (1998) của Nguyễn Đức Dân.

Đỗ Hữu Châu có một chương nói về "Lý thuyết hội thoại" (chương IV). Ông xem "hội
thoại là hoạt động giao tiếp căn bản, thường xuyên, phổ biến của sự hành chức ngôn ngữ."
[14, tr.276]. Tuy không đưa ra một định nghĩa cụ thể về đối thoại và độc thoại, nhưng khi đề
cập đến "các vận động hội thoại", ông cho rằng "vận động giao tiếp thông thường bao gồm
ba vận động: sự trao lời, sự trao đáp và sự tương tác" [14, tr.277]. Giáo sư xem "sự trao lời
(allocutíon) là vận động người nói A nói ra và hướng lời nói của mình về phía người nhận
B. Bình thường, A khác người nhận B, trừ trường hợp độc thoại (monologique). Tuy vậy,
ngay cả trong trường hợp độc thoại, ở người nói cũng có sự phân đôi nhân cách: anh ta vừa
là A vừa là B, và khi hoạt động theo nhân cách A hay nhân cách B, điều này diễn ra đồng
thời, anh ta vẫn là hai nhân vật khác nhau, tuân theo hai loại quy tắc hoạt động khác nhau
(...). Tình thế giao tiếp trao lời ngầm ẩn rằng người nhận B tất yếu phải có mặt, "đi vào
trong diễn ngôn của A".

Ở phần "sự trao đáp" (échange), giáo SƯ Đỗ Hữu Châu khẳng định: "diễn ngôn sẽ trở
thành hội thoại khi người nghe B đáp lời", "sự đáp lời là một nhu cầu bức thiết của sự nói
năng" [14, tr.278]. Ông cho rằng "có những diễn ngôn loại trừ sự đáp lời như diễn ngôn viết
(nhưng không phải là hình thức thư tín) hoặc diễn ngôn miệng (tuyên án, truyền thanh,
truyền hình...). Nhiùig, như đã nói, đây là sự loại trừ sự đáp lời trực tiếp, tức thời. Trong
chiều sâu nhữiig diễn ngôn trên vẫn cần đến sự hồi đáp nào đó hoặc ở một, hoặc ở những
người nghe.

Nguyễn Đức Dân trong "Ngữ dụng học" cũng có một chương nói về hội thoại (chương
III), nhưng quan niệm về đối thoại và độc thoại của ông có phần khác với Đỗ Hữu Châu.
Ông cho rằng "trong giao tiếp có giao tiếp một chiều và giao tiếp hai chiều. Trong giao tiếp
một chiều, chỉ có một bên nói còn bên kia tiếp nhận. Hình thức này gặp trong những mệnh
lệnh quân sự, trong những diễn văn, trong lời của xướng ngôn viên truyền hình hoặc truyền

19
thanh... đó là độc thoại. Trong giao tiếp hai chiều, bên này nói bên kia nghe và phản hồi trở
lại. Lúc đó, vai trò của hai bên thay đổi: bên nghe lại trở thành bên nói và bên nói lại trở
thành bên nghe. Đó là hội thoại. Hoạt động giao tiếp phổ biến nhất, căn bản nhất của con
người là hội thoại." [21, tr.76].

Như vậy, cả Đỗ Hữu Châu và Nguyễn Đức Dân đều rất xem trọng vai trò của hội
thoại. Tuy nhiên, cái mà Nguyễn Đức Dân gọi là "giao tiếp một chiều", ví dụ lời xướng
ngôn viên truyền hình, truyền thanh..., và ông quan niệm đó là độc thoại thì Đỗ Hữu Châu
lại xem đó là hội thoại "loại trừ sự đáp lời trực tiếp, tức thời" nhưng "trong chiều sâu những
diễn ngôn ữên vẫn cần đến sự hồi đáp nào đó" [14, tr.278].

Những quan niệm khác nhau về đối thoại và độc thoại như trên cũng được thể hiện
trong các từ điển.

Một số từ điển không có định nghĩa về độc thoại, chỉ có khái niệm về đối thoại - mặc
dù "độc thoại" là một từ được dùng khá phổ biến trong văn chương, nghệ thuật và cũng
không xa lạ đối với đời sống hàng ngày, như "Từ điển tiếng Việt" của Nhà xuất bản Khoa
học Xã hội (1997) do Văn Tân chủ biên, hoặc "Từ điển tiếng Việt - tường giải và liên tưởng
của Nguyễn Văn Đạm (1999).

Lại có những từ điển mà khái niệm độc thoại được đưa ra rất chung chung và có thể
gây nhiều tranh cãi: Độc thoại là "Nói một mình, trái với đối thoại" -như "Từ điển tiếng
Việt" của Viện Ngôn ngữ học (1998) do Hoàng Phê chủ biên [161, tr.326].

Có khái niệm rõ ràng hơn là cuốn "Đại từ điển tiếng Việt" của Bộ Giáo dục và đào tạo,
Trung tâm ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam (1999) do Nguyễn Như Ý chủ biên: Độc thoại là:
Nói một mình, tự mình nói với mình mà không có người đối thoại; Độc thoại nội tâm: Lời
nhân vật trong tác phẩm tự nói với mình về bản thân mình [10, tr.656]; Đối thoại: 1. Nói
chuyện qua lại với nhau. 2. Bàn bạc, thương lượng giữa hai hoặc các bên có vấn đề tranh
chấp [10, tr. 658].

Ngoài ra, "Từ điển Hán - Việt - Hán ngữ cổ đại và hiện đại" của Trần Văn Chánh
(1999) còn có những khái niệm cụ thể hơn, xem độc bạch là nói một mình trên sân khấu
[151, tr.1326], đối bạch là đối thoại giữa các vai ương tuồng, kịch và điện ảnh [151, tr.612].

Các khái niệm trên hoặc là khái quát cho ngôn ngữ hội thoại nói chung, hoặc là chuyên
biệt cho một dạng của ngôn ngữ hội thoại (sân khấu, điện ảnh).

20
Khái niệm ngôn ngữ đối thoại và độc thoại mà chúng tôi muốn nêu ra ở đây là khái
niệm ngôn ngữ đối thoại và độc thoại của nhân vật văn học.

Trong Lý luận văn học Tập 2 (1987), Trần Đình Sử đã nói khá sâu về "lời trực tiếp"
của nhân vật nhưng không đưa ra một khái niệm cụ thể nào..

"Từ điển thuật ngữ văn học" của Nhà xuất bản Giáo dục do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi chủ biên (1992) định nghĩa:

"Lời đối thoại (đối đáp) là lời trong cuộc giao tiếp song phương mà lời này xuất hiện
như là phản ứng đáp lại lời nói trước. Lời đối thoại bộc lộ thuận lợi nhất khi hai bên đối
thoại có sự tiếp xúc phi quan phương và không công khai, không bị câu thúc, trong không
khí bình đẳng về mặt đạo đức của người đối thoại. Lời đối thoại thường kèm theo các động
tác cử chỉ biểu cảm và tạo nên bởi phát ngôn của nhiều người.

Lời độc thoại không đòi hỏi sự đáp lại, độc lập với phản ứng của người tiếp nhận và
được thể hiện thoải mái cả trong hình thức nói lẫn viết. Bề ngoài, lời độc thoại không bị ai
ngắt quãng, nhưtig cũng có khi bị ngắt bởi "người đối thoại" tưởng tượng. Lời nói này
thường xuất hiện trong tình trạng con người cô đơn và bị biệt lập về mặt tâm lý, hoặc giao
tiếp với thần linh, người chết, mang tính ước lệ rõ rệt. Văn nhật kí, hồi lá, văn chính luận
đều có tính chất độc thoại. Hoạt động giao tiếp tưởng tượng này sẽ chuyển hoá thành độc
thoại nội tâm.

Trong tác phẩm văn học, hai dạng lời này có thể thâm nhập vào nhau như trong kịch.
Lời độc thoại trần thuật có thể bao hàm đối thoại.

Trong khoa học hiện đại, khi đối thoại được xem là bản chất bao trùm quan trọng nhất
của hoạt động lời nói thì cả đối thoại và độc thoại đều là các dạng thể hiện khác nhau của
đối thoại ỹ thức trong bối cảnh đời sống." [152, tr.128,129].

Một định nghĩa giải thích khá kỹ lưỡng với đầy thuật ngữ, đôi khi hơi khó hiểu, nhưng
nó phản ánh thêm được một vấn đề: đường biên giữa đối thoại và độc thoại hết sức nhạt
nhòa, mong manh. So với các định nghĩa đã nêu trên, một lần nữa nó cho thấy quan niệm về
đối thoại và độc thoại của các nhà ngôn ngữ cũng như các nhà nghiên cứu văn học chưa
phải đã thống nhất.

Cũng trong từ điển này, thuật ngữ "độc thoại nội tâm", một khái niệm khá đặc trưng
của văn học viết, đã được nêu ra một cách chi tiết:

21
Độc thoại nội tâm là "lời phát ngôn của nhân vật nói với chính mình, thể hiện trực tiếp
quá trình tâm lý nội tâm, mô phỏng hoạt động của cảm xúc, suy nghĩ của con người trong
dòng chảy trực tiếp của nó.

Hiện tượng đ.th.n.t. đã thấy xuất hiện trong kịch cổ đại và nhất là kịch sếcxpia. Trong
văn tự sự cận đại, đ.th.n.t. vẫn còn mang tính chất sân khấu, một sự "tự bộc lộ" "chân
thành", "khách quan". Bắt đầu từ sự sáng tác của L.Stớcnơ, đ.th.n.t. có chức năng mới:
truyền đạt hoạt động nội tâm. Trong tiểu thuyết sử thi của L.Tônxtôi, đ.th.n.t. được truyền
đạt gần như không có sự can thiệp của tác giả, phản ánh được cả ý thức lẫn vô thức của
nhân vật. Dòng ý thức là một sự biểu hiện đặc biệt, cực đoan của đ.th.n.t. trong tiểu thuyết
thế kỷ XX." [152, tr.87,88].

Trong "150 thuật ngữ văn học" do Lại Nguyên Ân biên soạn năm 1999, khái niệm
"độc thoại nội tâm" nhắc lại ý kiến trên nhưng được minh họa bằng các dẫn chứng cụ thể,
kỹ lưỡng hơn [3, tr.126 - 133].

Độc thoại được nhiều người hiểu là nói một mình. Nhưng nói một mình, theo chúng
tôi, thực ra, có hai loại khác nhau: loại nói thành lời và loại tư duy thầm (nghĩ thầm). Khi
nói thành lời, lại cũng có hai dạng: một loại là nói với chính mình. Còn loại kia, cũng là nói
một mình, nhưng là để nói với người khác. Ở đây, người nghe không hồi đáp trực tiếp
(trong một số trường hợp của phát thanh viên đài truyền thanh, truyền hình, đọc diễn văn
mít-tinh...), hoặc người nghe không hiện hữu (trong trường hợp người nói cầu khấn Thần,
Phật, Đất, Trời...). Mà, ngôn ngữ mình nói với mình và ngôn ngữ mình nói với người khác
là hai ngôn ngữ có trường từ vựng, phong cách và mục đích khác nhau. Vì nói một mình và
nói với chính mình không phải lúc nào cũng là một nên theo thiển ý của chúng tôi thì độc
thoại là nói với chính mình.

Chúng tôi dựa vào quan niệm của Đỗ Hữu Châu [14] và của Trần Đình Sử [115, tr.143
- 150] khi nêu ra khái niệm này.

Đối thoại là hoạt động giao tiếp căn bản sử đụng hình thức nói năng giữa người này
với người khác. Nó thường gồm hai yếu tố đặc trưng: trao lời và đáp lời (trong một số
trường hợp, yếu tố đáp lời có thể vắng mặt, hoặc được thể hiện bằng một sự im lặng). Lời
nói có sự tương tác qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau, làm thay đổi suy nghĩ, nhận thức, tình cảm,
hành động, cách ứng xử của từng người qua quá trình hội thoại. Từ đó, có thể làm thay đổi
con người, thay đổi sự kiện...

22
Có sự tác động này là bởi giao tiếp luôn luôn có mục đích: để hình thành, củng cố hay
phá vỡ quan hệ giữa người này với người kia, để giải trí hoặc để đưa đến sự biến đổi về
nhận thức, tình cảm, hành động... Giao tiếp được xem là có hiệu quả khi đối thoại đạt được
mục đích.

Tùy năng lực sử dụng ngôn ngữ (ngữ năng) của mỗi người và điều kiện giao tiếp cụ
thể mà sự tương tác của ngôn ngữ đối thoại có cường độ mạnh-yếu và có phạm vi ảnh
hưởng về không gian (rộng-hẹp), thời gian (ngắn-dài), số lượng đối tượng (ít-nhiều)... khác
nhau. Nhiều khi, lời nói có tác động khôn lường.

Độc thoại là một dạng đặc biệt của ngôn ngữ nhân vật, là hình thức nói với chính
mình. Độc thoại có dạng nói thành lời gọi là nói một mình, nhưng phổ biến hơn là dạng ý
nghĩ - tư duy bằng ngôn ngữ thầm (còn gọi là độc thoại nội tâm).

Độc thoại nội tâm thể hiện trực tiếp quá tình tâm lý và những cảm xúc, suy nghĩ của
nhân vật. Ở đây, những biểu tượng âm thanh không được hiện thực họa, không trao đổi với
ai nhưng trong bộ óc con người vẫn diễn ra những quá trình giống như quá trình phát ngôn.
Trong trường hợp này, tuy không có người nghe, nhưng đối tượng nghe vẫn hiện hữu.

Ngôn ngữ thầm không bộc lộ ra nên người khác không thể biết hoặc khó lòng biết
được. Nhưng nó tác động tới chính bản thân chủ thể dòng độc thoại, nhiều khi trở thành
động lực có tính chất quyết định đối với cử chỉ, thái độ, lời nói, việc làm... biểu hiện ra bên
ngoài. Do đó, nó cổ một nội lực rất lớn, đồng thời cũng là một bí ẩn kỳ diệu của con người.

Đối thoại và độc thoại là những hoạt động thể hiện hai chức năng cơ bản của ngôn
ngữ: giao tiếp và tư duy. Cùng một chất liệu ngôn ngữ cấu tạo nên, cùng vận hành dưới sự
chỉ đạo của não bộ của cùng một chủ thể, đối thoại và độc thoại có mối quan hệ hết sức chặt
chẽ.

Mối quan hệ này thường biểu hiện ra dưới nhiều hình thức thiên hình, vạn trạng,
phong phú, đa dạng vô cùng do mối tương quan của lời nói ngoài và ý nghĩ thầm kín bên
trong tạo nên. Nó do nhiều yếu tố chi phối: tính cách người nói, hoàn cảnh xung quanh, tình
cảm và mối quan hệ đối với đối tượng người nghe, người được nói tới... Chẳng hạn, kẻ thâm
trầm khác người nông cạn, lúc nguy cấp khác lúc bình thường, nói với người thân tín khác
nói với kẻ thù...

23
Có khi, suy nghĩ và lời nối thống nhất làm một: nhân vật nghĩ sao nói vậy. Trong
trường hợp này, lời nói là sự phản ánh tâm tư, tình cảm, suy nghĩ, tính cách nhân vật. Nó
chuyển tải một lượng thông tin lớn về con người trong tác phẩm. Có lúc, suy nghĩ và lời nói
không phù hợp với nhau: nhân vật nghĩ nhiều nói ít, nghĩ ít nói nhiều, lời nói mâu thuẫn với
ý nghĩ, lời nói được dùng để che đậy ý nghĩ... Và như vậy, muốn hiểu được nhân vật, không
thể chỉ căn cứ vào ngôn ngữ bên ngoài mà còn phải đối chiếu với thái độ, hành động, phải
thám hiểm thế giới tinh thần bên ương, phải suy luận cả những vấn đề đằng sau ngôn ngữ.

Dựa vào khái niệm trên, chúng tôi tiến hành xác định lại ngôn ngữ đối thoại và độc
thoại của nhân vật trong một số truyện thơ Nôm bác học tiêu biểu.

1.2.VẤN ĐỀ CHỌN VĂN BẢN

Trong quá trình tìm hiểu ngôn ngữ nhân vật truyện thơ Nôm bác học, về mặt văn bản,
chúng tôi đã xem xét nhiều bản chữ quốc ngữ của các học giả xuất bản trong nhiều thời kỳ
khác nhau.

Có những tác phẩm, trong mấy trăm năm qua, văn bản được in đi, in lại không chỉ vài
chục mà tới gần cả trăm lần, như Truyện Kiều, một tác phẩm văn học cổ điển ưu tú, đặc sắc
được phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Nhà nghiên cứu Nguyễn Thạch Giang trong Nguyễn
Du - tác phẩm và lịch sử văn bản xuất bản năm 2000, cho biết: "đã sưu tầm được ngót 50
bản Kiều Nôm và chữ quốc ngữ... không kể các bản chép tay"[46, tr.43]. Những năm gần
đây, do cơ chế mở của thị trường, Truyện Kiều được in lại với một số lượng khổng lồ hơn
bao giờ hết...Lại có những tác phẩm, văn bản được in rất hạn chế, và sau mỗi lần sao chép,
lại được điều chỉnh theo chủ kiến của người sưu tầm, hiệu đính. Song, do yêu cầu của đề tài,
người viết luận án này chỉ chọn ra các văn bản quốc ngữ phổ biến nhất đã được một số nhà
nghiên cứu dày công hiệu đính, chú thích để làm căn cứ khảo sát.

1.2.1.Vấn đề chọn văn bản đối với Truyện Kiều

Đối với Truyện Kiều, chúng tôi chọn ba văn bản chính làm cơ sở để đối chiếu, so sánh
khi xác định câu đối thoại, độc thoại của nhân vật. Đó là:

1.Truyện Thúy Kiều (Đoạn trường tân thanh) - Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo -
In lần thứ ba -Vĩnh Hưng Long thư quán, Hà Nội, 1934, (gọi tắt là bản BK-TTK).

2.Truyện Kiều- Hà Huy Giáp giới thiệu - Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích
- Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1972, (gọi tắt là bản NTG).

24
3.Truyện Kiều - Đào Duy Anh khảo chứng, hiệu đính và chú giải - Nxb. Văn học, Hà
Nội, 1984 (gọi tắt là bản ĐDA).

Sau khi đối chiếu kỹ ba văn bản trên, chúng tôi nhận thấy văn bản do Đào Duy Anh
khảo chứng, hiệu đính, chú giải với sự góp ý, hiệu đính của một số nhà văn, nhà thơ và sự
chỉnh sửa của Nhà xuất bản Văn học là bản có nhiều điểm ưu trội hơn cả trong việc xác định
ngôn ngữ nhân vật.

Thứ nhất, cách trình bày lời đối thoại và lời độc thoại trong bản ĐDA có sự phân định
rõ ràng, hợp lý và khoa học hơn các văn bản khác: mở đầu lời đối thoại bao giờ cũng có
gạch ngang ( _ ) trước khi dẫn ngôn bản, giống như cách trình bày hội thoại ương phần lớn
văn bản các tác phẩm văn học hiện đại. Ngoài ra, người làm văn bản còn để dấu mở ngoặc
kép chạy suốt chiều dài lời nói nhân vật, giúp ta dễ phân biệt được lời nói bên ngoài và lời
nói bên trong nhân vật:

355. Rằng: _ "Trăm năm cũng từ đây,

"Của tin gọi một chút này làm ghi."

Còn đối với lời độc thoại, tác giả chỉ dùng một lần dấu đóng, mở ngoặc kép làm ký
hiệu phong tỏa nội dung một diễn ngôn.

Bản BK-TTK và bản NTG cũng như nhiều văn bản khác không có dấu hiệu phân biệt
này: ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại của nhân vật đều để trong một lần đóng, mở
ngoặc kép, hình thức hoàn toàn chẳng khác gì nhau. Thậm chí, đôi khi chính tác giả văn bản
có sự nhầm lẫn giữa độc thoại và đối thoại, nhưng do cách trình bày giống nhau, nên khó
phát hiện ra. Đoạn lời nói Hoạn Thư (từ câu 1609 đến 1620): "Nghĩ rằng: "Ngứa ghẻ hờn
ghen... Sao cho để một trò cười về sau" là một trường hợp như vậy (chúng tôi sẽ nói cụ thể
ở phần tiếp theo).

Thứ hai, trong bản ĐDA, việc xác định đối thoại, độc thoại chặt chẽ, kỹ lưỡng, chính
xác, tính tường hơn bản NTG và bản BK-TTK. Chẳng hạn các đoạn:

-Thúy Kiều trước lầu Ngưng Bích (câu 1039-1046).

- Thúy Kiều nhớ nhà, tự thương mình (câu 1253-1264)

- Kiều nghĩ về thân phận mình trước nanh vuốt của Hoạn Thư (câu 1873 - 1882).

25
- Suy tính của Từ Hải (2464-2472) và của Thúy Kiều (câu 2475-2486) trước quyết
định đầu hàng v.v... và nhiều đoạn khác.

Bản BK-TTK cũng như bản NTG không cho những câu thơ trên là lời nội tâm nhân
vật, mặc dù tính chất độc thoại ở đây biểu hiện rất rõ. Bản ĐDA đã khắc phục được khiếm
khuyết này.

Lại có chỗ, bản BK-TTK và bản NTG nhầm lẫn giữa đối thoại và độc thoại, bản ĐDA
đã không mắc phải thiếu sót đó. Chẳng hạn đoạn Hoạn Thư về thăm mẹ, bàn mưu tính kế
với Hoạn Bà về cách hãm hại Kiều, Bản BK-TTK và bản NTG viết:

Roi câu vừa gióng dặm trường,

Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh.

Thưa nhà huyên hết mọi tình,

Nỗi chàng ở bạc, nỗi mình chịu đen.

1609. Nghĩ rằng: "Ngứa ghẻ hờn ghen,

Xấu chàng mà có ai khen chi mình!

Vậy nên ngành mặt làm thinh,

Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày.

...................................................

Trước cho bõ ghét những người,

1620. Sau cho để một trò cười về sau!"

Phu nhân khen chước rất mầu,

Chiều con mới dạy mặc dầu ra tay.

Với cách đặt dấu ngoặc kép sau chữ "nghĩ rằng" như trên, văn bản sẽ khiến người đọc
hiểu toàn bộ đoạn thơ nằm trong ngoặc kép (từ câu 1609 đến câu 1620) là lời độc thoại.

Có sự nhầm lẫn này vì thông thường hai chữ "nghĩ rằng" là từ báo hiệu, dùng để cho
biết sau đó là một lời nói nội tâm, một lời nói thầm của tư duy, chưa được phát ngôn.
Nhiữig, thực chất đây là lời đối thoại: Hoạn Thư thuật lại sự suy nghĩ, tính toán "mưu cao
vốn đã rắp ranh những ngày" của mình cho mẹ ả. Chính vì đã nghe ả kể, nên "phu nhân"

26
mới "khen chước rất mầu". Còn nếu ý kiến trên vẫn đang còn nằm trong bộ óc lắm mưu,
nhiều mẹo của Hoạn Thư chưa được bộc lộ ra, thì làm sao Hoạn Bà lại có thể biết mà khen ả
được? Ở đây, bản ĐDA đã đặt dấu mở ngoặc kép đúng vị trí:

_ "Nghĩ rằng: ngứa ghẻ hờn ghen,

Xấu chàng mà có ai khen chi mình..."

trả lại câu nói trên về đúng tính chất của nó: một lời đối thoại!

Bản ĐDA có nhiều ưu điểm trong việc xác định ngôn ngữ đối thoại, độc thoại, nhưng
không phải là không có những chỗ cần cân nhắc lại. Trong một số trường hợp như vậy,
chúng tôi đã chọn lựa cách xác định ngôn ngữ nhân vật của bản NTG hoặc bản BK-TTK.
Như câu 2726 trong đoạn thơ kể lại việc sau khi Kiều tự vẫn ở sông Tiền Đường, được sư
Giác Duyên cho người giăng lưới vớt. Trong lúc mê man, nàng gặp lại Đạm Tiên. Bóng ma
kỹ nữ cho Kiều hay rằng nàng đã hết kiếp đoạn trường. Và rồi:

2725 Nàng còn ngơ ngẩn biết sao,

2726 Trạc Tuyền nghe tiếng gọi vào bên tai.

Giật mình thoắt tỉnh giấc mai,

Bâng khuâng nào đã biết ai mà nhìn.

Trong thuyền nào thấy Đạm Tiên,

Bên mình chỉ thấy Giác Duyên ngồi kề.

Cặp lục bát 2725-2726, về mặt cú pháp là một câu hoàn chỉnh. Theo cách trình bày
của bản ĐDA và bản NTG như trên (Trạc Tuyền nghe tiếng gọi vào bên tai) thì câu lục là
một mệnh đề, mà câu bát cũng là một mệnh đề. Cặp lục bát dường như cổ hai chủ thể:
"nàng" và “Trạc Tuyền” độc lập với nhau. Có thể diễn nôm cả câu như sau:

Nàng (Kiều) còn ngơ ngẩn chưa biết sao

Thì Trạc Tuyền đã nghe tiếng gọi vào bên tai.

Như vậy, chủ thể của hành động "nghe" trong câu bát là "Trạc Tuyền" chứ không phải
là "nàng" Kiều - chủ thể của câu lục. Thực ra, "Trạc Tuyền" hay "nàng" Kiều cũng chỉ là
một. Nhiữig đây là câu kể của Nguyễn Du về những gì đang diễn ra đối với Kiều. Mà
Nguyễn Du, với sự nhất quán trong toàn tác phẩm, không bao giờ gọi Kiều là Trạc Tuyền.
Người gọi pháp danh của nàng ở đây chỉ có thể là sư Giác Duyên. Vậy, "Trạc Tuyền" là một

27
hô ngữ, là tiếng Giác Duyên gọi Kiều. Hô ngữ này chỉ có chức năng liên lạc - Roman
Jakobson gọi chức năng đó là phatic function - Nó có nội lực gần giống câu mệnh lệnh -
ương trường hợp này là tạo sự chú ý của đối tượng nghe hướng về đối tượng nói. Đáp lại nó
là những ứng ngữ: "ơi!", "dạ!", "hả?", "gì?"... [57, tr. 208]. Hô ngữ "Trạc Tuyền!" đứng
trong câu thơ trên trở thành bổ ngữ của "nghe". Chủ thể của hành động "nghe"-đó là "nàng"
Kiều.

Đây là câu đảo ngược vị trí của bổ ngữ lên trước vị ngữ. Do cách đảo ngược này, câu
thơ của Nguyễn Du đã làm nổi bật được đối tượng cần nhấn mạnh: yếu tố đánh thức Kiều,
đưa nàng chuyển từ cõi mê sang cõi thực. Lối đảo câu là một biện pháp tu từ cú pháp rất
được Nguyễn Du ưa sử dụng, trở thành một thói quen trong phong cách ngôn ngữ của nhà
thơ. Truyện Kiều có tới gần 120 trường hợp viết theo lối đảo ngữ này. (Đào Thản)[94,
tr.111].

Trong Kim Vân Kiều truyện, đây cũng là lời đối thoại:

"Thúy Kiều đang định hỏi Đạm Tiên nữa thì nghe bên tai có người gọi:

- Trạc Tuyền! Trạc Tuyền mau tỉnh! Mau tỉnh!

Thúy Kiều mở mắt ra trông thấy Giác Duyên ngồi một bên..." [102, tr.335].

Vì vậy, chúng tôi nhất trí với bản BK-TTK xem hai chữ "Trạc Tuyền" trong câu thơ
2726 là lời đối thoại của nhân vật:

Nàng còn ngơ ngẩn biết sao,

"Trạc Tuyền!"- nghe tiếng gọi vào bên tai

(Bản của Tản Đà, Hồ Đắc Hàm, Chiêm Vân Thị và bản Nguyễn Quảng Tuân cũng
xem đây là lời đối thoại. Tuy nhiên, bản của Hồ Đắc Hàm, Chiêm Vân Thị và kể cả Bản
BK-TTK in lại năm 1995 đều đặt dấu chấm than chưa thật đúng vị trí: "Trạc Tuyền"! nghe
tiếng gọi vào bên tai.)

Tóm lại, cơ sỏ chính để chúng tôi khảo sát ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều là ba văn
bản của các học giả Đào Duy Anh, Bùi Kỷ-Trần Trọng Kim và Nguyễn Thạch Giang. Ngoài
ra, chúng tôi còn tham khảo các văn bản khác và đối chiếu với "Kim Vân Kiều truyện" của
Thanh Tâm Tài Nhân.

28
1.2.2.Vấn đề chọn văn bản ở các tác phẩm khác

_ Văn bản Truyện Song Tinh:

Văn bản Truyện Song Tinh không có nhiều như Truyện Kiều. Vì bản chữ quốc ngữ của
Hữu Lân do Đông Hồ xuất bản (Nxb. Bốn Phương, Sài Gòn, 1962) đến nay ít phổ biến, nên
chúng tôi chọn hai văn bản chính làm cơ sỏ để xác định ngôn ngữ nhân vật là:

1/ - Truyện Song Tinh - Nguyễn Thị Thanh Xuân khảo đính, phiên âm và chú thích -
Nxb. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1984 - (gọi tắt là bản NTTX).

2/ - Truyện Song Tinh - Hoàng Xuân Hãn biên khảo, giới thiệu -Nxb. Văn học, Hà
Nội, 1987 - (gọi tắt là bản HXH).

Bản NTTX trong quá trình phiên âm từ chữ Nôm sang chữ quốc ngữ đã giữ được màu
sắc phương ngôn Nam bộ đậm nét hơn, song, đã để sót nhiều lời hội thoại, mặc dù, ở rất
nhiều câu, từ báo hiệu ngôn ngữ nhân vật xuất hiện trước và sau một phát ngôn cũng như
đại từ nhân xưng cho biết chủ thể và đối tượng của phát ngôn thể hiện khá rõ. Chẳng hạn
đoạn Song Tinh gặp Giang Ông, nghe ông hỏi về gia cảnh:

155. Chàng nghe phủi động lòng vàng,

Cúi đầu bày suốt lòng thường giấu chi

Tôi nay thật khách xa quê,

Chữ Song ấy họ, tịch về Thục Xuyên.

Tôi rày muốn nối nghiệp xưa,

..........................................................

Qua đây phút gặp Tôn đài nhàn câu.

Lòng riêng tỏ đặng lẽ mầu,

Gặp hiền đâu nỡ nghiêng đầu thẳng qua.

Rụt rè chút dám lân la,

Trước là ra mắt, sau là làm quen.

175 Lão nghe bày hết sự duyên,

Bản NTTX không xem đoạn thơ trên có sự xuất hiện của ngôn ngữ hội thoại. Nhiùig,
với cách sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số ít "tôi" ở các câu 157, 159, rõ ràng, đây

29
không phải là ngôn ngữ tác giả mà là ngôn ngữ nhân vật. Căn cứ vào những từ báo hiệu mở
đầu hay kết thúc một phát ngôn trong câu 156 và 175, chúng ta có thể thấy được đoạn thơ từ
câu 157 đến câu 174 là một lời hội thoại. Và việc xác định của bản HXH cho rằng đây là lời
nói của nhân vật Song Tinh trong buổi đầu gặp gỡ Giang Ông là hoàn toàn có cơ sở, hợp lý
và chính xác.

Trong bản NTTX, dấu đóng mở ngoặc kép chỉ xuất hiện một lần ở đầu và cuối câu, nên
hơi khó phân biệt ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, đặc biệt là ỏ những trường hợp
hoặc do lỗi của người làm văn bản, hoặc do lỗi của nhà in, đã quên không đặt dấu đóng
ngoặc kép vào cuối một phát ngôn. Bản NTTX có tới 10 lần thiếu dấu đóng ngoặc kép như
vậy.

Trong hai bản trên, bản HXH có nhiều ưu điểm hơn trong việc khoanh vùng ngôn ngữ
nhân vật, tương tự như văn bản Truyện Kiều của Đào Duy Anh: có dấu mở ngoặc kép chạy
suốt chiều dài ngôn ngữ nhân vật, xác định đối thoại và độc thoại kỹ và tinh hơn: bản HXH
xác định nhiều hơn bản NTTK tới 27 lời đối thoại và 10 lần độc thoại, trong khi đó, bản
NTTX chỉ bổ sung được 7 trường hợp đối thoại mà thôi. Do vậy, chúng tôi chọn bản HXH
làm cơ sở để xác định ngôn ngữ nhân vật.

Trong 39 lời đối thoại và 11 lời độc thoại hai vãn bản khác nhau, chỉ có 4 trường hợp
đối thoại và 1 trường hợp độc thoại xác định số câu khác nhau, còn lại là trường hợp vãn
bản này có mà văn bản kia không có. Và hình thức ngôn ngữ nhân vật được xác định khác
biệt nhau hoặc được bể sung nhiều nhất ở đây là hình thức "hội thoại một câu" (một lượt lời
nằm gọn trong khuôn khổ một câu thơ): có tới 21 lời đối thoại và 5 lần độc thoại "một câu"
khác nhau như vậy. Nguyễn Hữu Hào thực sự có sở trường ương việc tạo nên "đối thoại một
câu", kiểu như:

643. Vân rằng: " _ Hà nói chẳng vu"

705 Nàng don: "_ Cớ sự chi lâu ? "

1581 Chài rằng: Nguyện đã ghi lòng."

2101 Nó rằng: “ _ Sự lạ lùng sao!”.

Chỉ dùng một vài từ, nhà thơ có thể tạo nên cả một không khí đối thoại, thậm chí cả
một cuộc đối thoại. Buổi đầu tiên Song Tinh đến nhà, Giang Bà gọi Nhụy Châu ra chào.
Nàng

30
345. Tới gần tác tiếp nghiêng mình,

Chào rằng: "_ Muôn phúc! Mừng anh, bội mừng!"

Ngươi Sinh đứng dậy sấp lưng,

Nghiêng đai đáp lễ tạ rằng: "Ơn thay!"

Chỉ 4 câu thơ, ngôn ngữ nhân vật xuất hiện vỏn vẹn trong 8 từ, mà tái hiện sống động
và hiện thực cả một cuộc gặp gỡ khách khí đầy nghi thức lễ giáo phong kiến: có chào hỏi,
có chúc tụng, có cám ơn. Đủ cả.

Truyện Song Tinh có 18 nhân vật cá nhân và 5 "nhân vật tập thể" thì đã có 12 nhân vật
cá nhân và 4 "nhân vật tập thể" sử dụng "hội thoại một câu", với số lượt hội thoại là 65/253
lượt lời (khoảng lÁ số lượt đối thoại, độc thoại). Trong lúc đó, các tác phẩm khác như Sơ
kính tân trang, Truyện Hoa tiên, Nhị độ mai, Lục Vân Tiên, Truyện Kiều... chỉ có từ 9 đến
12%. Có phải vì tính cách của người miền Nam bộc trực, hay nói thẳng, thậm chí "nói
chỏng lỏn", mà cái rào đón, khách sáo, nhiêu khê của xã hội quý tộc phong kiến không phá
vỡ được tính cách này, đưa đến hiện tượng ngôn ngữ "đối thoại một câu" khá phổ biến trong
tác phẩm? Hay còn vì đây là một nét phong cách riêng của tác giả mà người ta quen gọi là
thi pháp? Có lẽ có cả hai. Và chúng tôi nhất trí với các nhà làm văn bản trong việc xác định
những lời "hội thoại một câu" như vậy.

_ Văn bản Truyện Hoa Tiên:

Trong lúc Đào Duy Anh xác định ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều rất kỹ thì cũng
chính học giả này lại "ngoảnh mặt làm ngơ" đối với việc xác định ngôn ngữ nhân vật
Truyện Hoa Tiên (bản nhuận chính của Nguyễn Thiện đối chiếu với nguyên tác của Nguyễn
Huy Tự)[154] khi ông làm văn bản tác phẩm này. Ngoài bốn chữ "hồ thỉ chí trai" ở câu 35
(bản Nguyễn Thiện), ông hầu như không đặt dấu ngoặc kép ở bất cứ một lời nói nào hết. Vì
vậy, chúng tôi dựa vào văn bản của Lửa Thiêng xuất bản, Quang Minh dẫn giải lần thứ nhất
(in năm 1958) và bản Truyện Hoa Tiên (Hoa Tiên nhuận chính) do Hoàng Hữu Yên chú
thích và giới thiệu được in gần đây, để làm căn cứ xác định ngôn ngữ nhân vật.

Hai bản này xác định ngôn ngữ nhân vật khá tốt, mặc dù có nhiều chỗ khoanh vùng
khác nhau. Có hai nguyên nhân chính tạo nên sự khác biệt này:

_ Thứ nhất là do hai văn bản có những câu thơ mà bản này có, bản kia không có. Bản
Hoàng Hữu Yên (gọi tắt là bản HHY) chỉ có 1766 câu thơ, ương lúc đó, bản Lửa Thiêng

31
(gọi tắt là bản LT) có tới 1826 câu (nhiều hơn 60 câu). Dù có số câu thơ ít hơn nhưng bản
HHY vần có một số câu thơ mà bản LT không có. Chỉ khảo sát riêng ngôn ngữ nhân vật thì
đã có 7 chỗ như vậy.

_ Nguyên nhân thứ hai là do phiên âm thành những nội dung khác nhau. Vì vậy, tuy
nội dung mà văn bản này xác định là ngôn ngữ nhân vật, còn văn bản kia lại cho là ngôn
ngữ tác giả, và bận nào xem ra cũng... có lý. Tuy nhiên, văn bản mà chúng tôi trích dẫn là
văn bản của Hoàng Hữu Yên, vì văn bản này mới và phổ biến hơn.

_ Văn bản Sơ kính tân trang:

Vì bản Hoàng Hữu Yên giới thiệu và chú thích (Nxb. Giáo dục, 1994), (gọi tắt là bản
HHY) dựa theo bản của Lại Ngọc Cang khảo đính và giới thiệu (Nxb. Văn hóa, Viện Văn
học, 1960), nên sự sai khác giữa hai bản là không đáng kể (chỉ 2 lời thoại với 7 câu thơ,
trong đó, thực sự khác nhau chỉ có 4 câu - do bản HHY bổ sung thêm). Do đó, chúng tôi chỉ
chọn bản HHY. Tuy nhiên, hai văn bản trên đều không chú ý đến dòng độc thoại nội tâm
của nhân vật (họ cho rằng chỉ có hai lần suy nghĩ), nên chúng tôi chọn thêm bản của
Nguyễn Quảng Tuân (bản NQT) trong Tổng tập văn học Việt Nam - tập 13A, (Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1997) để so sánh, đối chiếu. Bản NQT có nhiều bổ sung khá thú vị, nhất
là về ngôn ngữ độc thoại, nhưtig vì bản này có tới 25 chỗ không đóng hoặc mở ngoặc kép
nên việc xác định ngôn ngữ nhân vật trong văn bản này chỉ xem là có tính chất tương đối.
Do đó, chúng tôi chọn bản HHY lầm văn bản hạt nhân.

_ Văn bản Truyện Lục Vân Tiên:

Cái khó trong việc xác định ngôn ngữ nhân vật của truyện Lục Vân Tiên là sự xác định
đường biên giữa ngôn ngữ đối thoại và độc thoại. Nguyễn Đình Chiểu cũng có một cách thể
hiện riêng trong lĩnh vực này. Không dưới 3 lần, nhân vật của ông có kiểu vừa đối thoại,
vừa độc thoại nối tiếp nhau. Đó chính là lý do để bản Nguyễn Thạch Giang (1976) xác định
các đoạn thơ từ câu 209 - 216, 1281 -1284, 1312 - 1318 chỉ là 3 lượt lời của 2 nhân vật. Bản
Tân Việt (được Nxb. Tổng hợp Đồng Tháp in lại năm 1998) cũng xác định đoạn 1281 -
1284 chỉ có một lượt hội thoại, nhưng chỉ có 2 câu thơ 1281 - 1282. Song, bản này lại tinh
hơn khi tách đoạn 209 - 216 và 312 - 318 làm 4 lượt phát ngôn. Tuy nhiên, do cách đóng
mở ngoặc kép hoàn toàn giống nhau nên không rõ đâu là đối thoại, đâu là độc thoại.

Có thể lấy đoạn thơ 209 - 218 làm một ví dụ về việc chọn vãn bản và xác định ngôn
ngữ nhân vật của chúng tôi. Đoạn này, bản NTG viết:

32
209. (Nguyệt Nga) Thưa rằng: "Chút phận nữ nhi,

"Vốn chưa biết lẽ có khi mích lòng.

"Ai dè những đấng anh hùng,

"Thấy trâm thôi lại thẹn cùng cây trâm.

213. "Riêng than: Trâm hỡi là trâm!

"Vớ duyên chi bấy ai cầm mà mơ?

215. "Đưa trâm chàng đã làm ngơ,

"Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ".

217. Vân Tiên ngó lại rằng ừ:

"Làm thơ cho kịp bấy chừ chớ lâu ".

Như vậy, theo bản NTG thì ở đây chỉ có hai lượt lời, một của Nguyệt Nga (8 câu) và
một của Vân Tiên (Ì câu). Cụm từ "riêng than" ở câu 213, Nguyễn Thạch Giang xem là lời
nhân vật, còn cụm từ "thưa rằng" ở câu 209 và từ "ừ" ở câu 217 thì xem là lời tác giả. Bản
Tân Việt in lần thứ tư xác định khác cả về số câu thơ, cả về số lượt lời (Nguyệt Nga 2 lần -
mỗi lần 4 câu, Vân Tiên 1 lần - 2 câu). Từ "riêng than", trái lại, bản TV xem là lời tác giả,
còn cụm từ "thưa rằng" và từ "ừ" thì xem là lời nhân vật:

209. "Thưa rằng: " Chút phận nữ nhi,

"Vốn chưa biết lẽ cổ khi mích lòng.

"Ai dè những đấng anh hùng,

"Thấy trâm thôi lại thẹn thùng cùng trâm."

213. Riêng than: "Trâm hỡi là trâm!

"Vô duyên chi bấy ai cầm mà mơ?

215. "Đưa trâm chàng đã làm ngơ,

"Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ".

217. Vân Tiên ngó lại rằng "Ừ,

"Làm thơ cho kịp bấy chừ chớ lâu ".

33
Theo chúng tôi, cụm từ "thưa rằng" ở đây là ngôn ngữ tác giả, cũng giống như "hỏi
rằng", "kêu rằng", "thưa rằng", "đáp rằng", "than rằng", ở các câu thơ 49,125, 139, 144,
203... trước đó. Chúng tôi nhất trí với bản TV xem 4 câu thơ 209 - 212 là một lượt lời của
Nguyệt Nga, còn lời nói của Vân Tiên gồm hai câu thơ 217 - 218 chứ không phải chỉ có một
câu như bản NTG đã xác định, vì từ "ừ" chẳng những là một ứng ngữ, thường xuất hiện
ương lời đáp, khi người nói đồng ý với một ý kiến nào đó, mà còn xuất hiện sau từ "rằng",
một từ báo hiệu phát ngôn hết sức tiêu biểu của ngôn ngữ thoại. Chúng tôi cũng nhất trí với
bản TV trong việc xem từ "riêng than" là ngôn ngữ tác giả. Tuy nhiên, khác với bản TV,
chúng tôi xem đoạn thơ từ câu 213 — 216 là có 2 lời nhân vật. Căn cứ vào nội dung của câu
thơ và từ "riêng" ương cụm từ "riêng than", chúng tôi xem câu 213 - 214 là độc thoại. Còn
căn cứ vào đại từ nhân xưng "chàng", "thiếp" trong câu 215-216, chúng tôi khẳng định hai
câu này là đối thoại. Như vậy, toàn bộ đoạn thơ trên (từ câu 209 đến câu 218), theo chúng
tôi có 3 lượt đối thoại và Ì lần độc thoại, số câu đối thoại của Nguyệt Nga là 6, của Vân Tiên
là 2, số câu độc thoại của Nguyệt Nga là 2.

1.3.XÁC ĐỊNH NGÔN NGỮ ĐỐI THOẠI, ĐỘC THOẠI CỦA NHÂN VẬT
TRONG TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC

Mặc dù các văn bản có rất nhiều công phu trong việc xác định ngôn ngữ đối thoại, độc
thoại, song vấn đề vẫn đang còn là một cánh cửa bỏ ngỏ: không ít chỗ, cách xác định của
các nhà nghiên cứu có sự khác nhau.

Xác định câu đối thoại là phần tương đối dễ hơn. Vì vậy, việc khoanh vùng số lần, số
câu đối đáp của nhân vật, các văn bản có sự thống nhất khá cao: khác nhau chỉ từ 2 câu
(0,3%) đến 16 câu (2,7%). Như trong Truyện Kiều:

- Bản ĐDA: 191 lần với 1185 câu thơ.

- Bản BK-TTK: 190 lần -1189 câu.

- Bản NTG: 189 lần - 1188 câu.

Toàn bộ chỉ có 8 lời thoại với 12 câu thơ là chưa thống nhất giữa ba văn bản( 1)

1
Câu 224, 763, 1609, 1681-1682, 2378, 2383-2386, 2388, 2726. Riêng các câu 208 - 210 ba văn bản xác định như
nhau, nhưng bản ĐDA nhầm độc thoại sang đối thoại. Câu 2623 - 2624 bản ĐDA xem là đổi thoại. Thực chất, đây là
lời đối thoại trong câu độc thoại.

34
Riêng phần xác định câu độc thoại, vấn đề phức tạp hơn nhiều. Có tác phẩm, như
Truyện Song Tinh chẳng hạn, chỉ với 2 văn bản của Hoàng Xuân Hãn và Nguyễn Thị Thanh
Xuân, sự khác biệt đã lên đến 77, 6%. Truyện Kiều cũng ở tình trạng tương tự:

- Bản ĐDA cho rằng có 36 lần độc thoại với 241 câu thơ.

- Bản BK-TTK cho là có 20 lần - với 138 câu.

- Bản NTG thì chỉ 17 lần - với 131 câu.

Trong toàn tác phẩm, chỉ có 11 lần độc thoại với 73 câu thơ là 3 tác giả xác định hoàn
toàn thống nhất. ở 3 chỗ khác, các tác giả có sự nhất trí một phần -với 41 câu thơ (xem Phụ
lục- bảng 3). Như vậy, chỉ với 3 văn bản thôi, thì việc xác định câu độc thoại trong Truyện
Kiều đã khác biệt nhau tới 53% (129 câu / 243 câu).

Song, dù là ưu việt hơn cả khi chỉ ra đâu là ngôn ngữ nhân vật, những con số của Đào
Duy Anh vẫn chưa phải là những con số cuối cùng: một đôi chỗ bản BK-TTK hoặc bản
NTG xác định có phần hợp lý hơn.

Có hiện tượng khác biệt khá lớn trong việc khoanh vùng ngôn ngữ độc thoại giữa các
văn bản là vì trong Truyện Kiều, không ít chỗ, thật khó xác định đâu là ngôn ngữ độc thoại
nội tâm của nhân vật, đâu là lời miêu tả, phân tích tâm trạng nhân vật của tác giả, thậm chí
là lời thể hiện cảm xúc của chính Nguyễn Du, khi nhân vật của ông gặp tai ương, bất hạnh.
Chẳng hạn đoạn nói về tâm trạng Kiều sau khi việc đi trốn khỏi lầu xanh bị vỡ lỡ, nàng bị
đánh đập tàn bạo, phải nhận lời tiếp khách, tiếp đó lại phải đối mặt với sự tráo trở của Sở
Khanh:

Buồng riêng riêng những sụt sùi,

1190. Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân.

1191. Tiếc thay trong giá trắng ngần,

Đến phong trần, cũng phong trần như ai!

Tẻ vui cũng một kiếp người,

Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru!

Kiếp xưa đã vụng đường tu,

Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi.

35
Dẫu sao bình đã vỡ rồi,

1198. Lấy thân mà trả nợ đời cho xong.

Nguyễn Thạch Giang xem đoạn trên có 8 câu độc thoại (1191-1198), bản BK-TTK
khẳng định có 9 câu (1190-1198), còn Đào Duy Anh thì cho là không -không có câu nào!

Sự xác định này đặc biệt khó trước những câu bắt đầu bằng động từ chỉ trạng thái cảm
xúc kiểu như:

1191 - " Tiếc thay trong giá trắng ngẩn,

Đến phong trần cũng phong trần như ai.n

1221 - "Xót mình cửa các buông khuê,

Vỡ lòng học lấy những nghề nghiệp hay !"

1225 - “Thương thay thân phận lạc loài,

Dẫu sao cũng ở tay người biết sao?"

Trong truyện thơ Nôm, các câu có dạng lược bỏ chủ ngữ (chủ ngữ ẩn) thường dùng để
nói về ngôi thứ ba. cấu trúc đó hay được dùng để miêu tả, tường thuật mang tính khách
quan. Nó thường là lời tác giả. Truyện Kiều của Nguyễn Du có rất nhiều câu ở dạng này.
Thế nhưng, toong nhiều trường hợp, câu đầu dường như là câu Nguyễn Du nói lên cảm xúc
của mình trước số phận của nàng Kiều (Ví dụ: Thương thay thân phận lạc loài) thì câu sau
lại có vẻ như là lời tự nhủ của chính nhân vật (Dẫu sao cũng ở tay người biết sao?).

Sự xóa nhòa, hoa trộn ranh giới giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả ở đây, cơ
bản, có ba nguyên nhân:

Trước hết, là do đặc điểm của thể loại: các tác phẩm này là những truyện thơ. Mà thơ
là hình thức bộc lộ tình cảm. Nhà thơ dùng ngôn ngữ văn chương làm công cụ để bộc lộ tâm
tình với độc giả. Vì vậy, chủ thể trữ tình và nhân vật trữ tình có khi hai nhưng nhiều khi là
một.

Thứ hai, cũng do hình thức thể loại, các thi sĩ đã vận dụng quy luật tiết kiệm ngôn ngữ
để phù hợp với kích cỡ và vần, luật của câu thơ.

Thứ ba, trong sáng tác văn học có hiện tượng tác giả sống sâu sắc với nhân vật của
mình. Thơ thuộc thể loại trữ tình, hiện tượng này càng rõ.

36
Sự phân biệt ranh giới giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ nhà văn không phải lúc
nào cũng luôn rõ ràng. Cũng như các hiện tượng thiên nhiên: có ban ngày khác ban đêm,
nhưng giữa chúng là một khoảng nhá nhem, chập choạng. Và biết đâu, chính khoảng chập
choạng, nhá nhem, nhạt nhòa kia lại chẳng làm nên cái vẻ đẹp mơ hồ, huyền ảo của tác
phẩm văn chương?

Với một đối tượng phức tạp như thế, vậy phải làm thế nào để có thể bảo đảm tính
chính xác ương việc xác định ngôn ngữ nhân vật? Một mặt, chứng tôi tiếp thu, kế thừa
thành quả của người đi trước. Mặt khác, chúng tôi mạnh dạn đề xuất ý kiến cá nhân, xác
định lại phạm vi một số câu đối thoại, độc thoại, mong đóng góp một phần nhỏ vào việc xử
lý tác phẩm truyện thơ Nôm bác học ngày càng chính xác.

Việc kế thừa thành tựu của người đi trước và hiệu đính, bổ sung trong xác định ngôn
ngữ đối thoại độc thoại của nhân vật, chúng tôi dựa vào mấy căn cư:

1. Từ báo hiệu ngôn ngữ nhân vật:

Từ này có thể được xem là những từ khoa, từ dẫn, nằm trong lời kể, lời tả của tác giả.
Nó có thể đứíig trước, đứng sau hoặc đứng giữa lời nói nhân vật, giúp ta nhận ra nội dung
sau hoặc trước nó là nội dung một phát ngôn. Chẳng hạn, từ báo hiệu một lời đối thoại có
thể là:

489. - Tiện lời rón rén tỉ tê:

647. - Tránh ngang, sinh lại theo sau gan nài: (HT)

331. - Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:

876. - Rỉ tai nàng mới giãi lòng thấp cao: (TK)

Từ báo hiệu một lời độc thoại có thể là:

789.Nghĩ lòng lại xót xa lòng, đòi phen:

1760. Nỗi lòng luống những bàn hoàn niềm tây:

1784. Sớm ngơ ngẩn bóng, đêm năn nỉ lòng:

1867. Lòng riêng tấp tểnh mừng thầm: (TK)

2. Nội đung ngôn bản (toàn bộ lời nói) trong mối tương quan với hoàn cảnh phát
ngôn:

37
Trong Truyện Kiều, có không ít đoạn, một khi từ báo hiệu không sáng nhấp nháy mà
chỉ leo lết, mờ mờ, thì ta phải dựa vào nội dung để xác định phạm vi lời nói nhân vật. Chẳng
hạn:

1961 Mụ nghe nàng nói hay tình,

Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên:

"- Này này sự đã quả nhiên,

Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi..."

1557 - Tiểu thư nổi giận đùng đùng:

“-Gớm tay thêu dệt, ra lòng trêu ngươi.

Chồng tao nào phải như ai..."

Thực ra các động từ "nổi tam bành", "nổi giận đùng đùng" là những ngữ động từ chỉ
một hành vi, tính chất thuộc trạng thái cảm xúc. Sau nó có khi là một phát ngôn, có khi
không phải. Lúc này, ta cần căn cứ vào nội dung, vào đại từ nhân xưng để xác định phạm vi
lời nói nhân vật.

3.Câu trúc ngữ pháp, ngữ nghĩa của câu:

Ở một số trường hợp, chúng tôi căn cứ vào cấu trúc ngữ pháp, ngữ nghĩa của câu để
xác định phạm vi lời nói nhân vật. Chẳng hạn câu 2726 “Trạc Tuyền!” nghe tiếng gọi vào
bên tai) đã nói ở trên, hoặc là câu 1767 (Những là nương náu qua thì) sẽ nói ở phần sau.

4.Đại từ nhân xưng:

Trong một số trường hợp khác, đặc biệt là ở tác phẩm Truyện Song Tinh, chúng tôi
dựa vào đại từ nhân xưng để xác định ngôn ngữ nhân vật, như trường hợp ở đoạn thơ từ câu
157 đến câu 174 đã nói trên (xem tr. 26).

5.Đối với Truyện Kiều, để xác định phạm vi ngôn ngữ đối thoại, độc thoại, chúng tôi
còn đối chiếu với tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân. Nhưng đây chỉ là vấn đề tham
khảo. Bởi khi viết Truyện Kiều, để đạt được hiệu quả nghệ thuật cần thiết trong việc xây
dựng hình tượng nhân vật và thể hiện ý đồ tác phẩm, Nguyễn Du đã có không ít sự sáng tạo,
thoát ly ảnh hưởng của nguyên tác. Chẳng hạn, Truyện Kiều có 43 lần độc thoại (theo sự
thống kê của chúng tôi), thì, tương ứng với những lần đó, Kim Vân Kiều truyện chỉ có 23 lần
(còn lại là 11 lần đối thoại, 4 lần tả tâm trạng, 1 lần làm thơ bộc lộ nỗi lòng), 4 chỗ khác

38
không có trong tác phẩm của nhà văn Trung Quốc. Nó hoàn toàn là sự sáng tạo mới của
Nguyễn Du: nhân vật của Kim Vân Kiều truyện thường nói nhiều, hay làm thơ, nhưng ít suy
nghĩ; nhân vật Truyện Kiều nói năng hợp lý, đúng lúc, đúng chỗ, thế giới nội tâm phong
phú, giàu tình cảm, nặng trĩu suy tư...

6.Một căn cứ nữa có thể được xem là xuất phát điểm để chúng tôi xác định ngồn ngữ
nhân vật là vấn đề dấu câu thuộc lĩnh vực chính tả của văn học viết. "Dấu câu được dùng
làm phương thức biểu đạt nội dung ý nghĩa trong ngôn ngữ viết", "làm cho câu tạo cú pháp
của lời nói trở nên rõ ràng" và "dùng để biểu thị ngữ điệu của lời nói" [69, tr.6].

Để xác định ngôn ngữ nhân vật, chúng tôi đã thực hiện một số thao tác phân tích, so
sánh cụ thể trên văn bản dựa theo các căn cứ vừa nêu.

1.3.1. HIỆU ĐÍNH MỘT SỐ CÂU ĐỐI THOẠI, ĐỘC THOẠI TRÊN CƠ SỞ CÁC
VĂN BẢN ĐÃ CÓ

1.3.1.1.Xác định lại: đối thoại hay độc thoại?

Trong các văn bản truyện thơ Nôm bác học, tình huống nhầm lẫn giữa đối thoại và độc
thoại xảy ra không nhiều. Tuy nhiên, vẫn có. Như trường hợp Truyện Lục Vân Tiên (câu
213 - 216 đã nói trên - tr.32). Một trường hợp khác: Kiều mộng thấy Đạm Tiên lần đầu,
người cõi âm đã đưa cho nàng mười đề tài của Hội chủ Hội Đoạn trường. Với tài hoa trác
tuyệt, trong khoảnh khắc, Kiều đã họa trọn cả mười khúc ngâm. Đạm Tiên khi ấy:

Xem thơ nức nỏm khen thầm;

208. _ "Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường!

"Ví đem vào tập Đoạn trường,

210. "Thì treo giải nhất chi nhường cho ai!"

Với cách trình bày như trên, bản ĐDA cho rằng các câu 208-210 là đối thoại (bản
NTG và bản BK-TTK không rõ xác định như thế nào, vì độc thoại, hay đối thoại không có
dấu hiệu phân biệt riêng). Nhưng ở đây, Đạm Tiên "khen thầm", tức là ý nghĩ thán phục mới
hình thành ương đầu, chưa được phát ra thành lời nói. Vì vậy, chúng tôi coi đoạn thơ trên là
một lời độc thoại.

39
1.3.1.2.Điều chỉnh lại lời đối thoại, độc thoại

Trên cơ sở những lời đối thoại, độc thoại đã được các nhà làm văn bản xác định, chúng
tôi phân tích, điều chỉnh lại phạm vi sao cho hợp lý hơn.

Chẳng hạn đoạn độc thoại của Thúy Kiều sau khi bị trận đòn của Hoạn Bà, các bản
của ĐDA, BK-TTK và NTG đều viết:

Nàng càng giọt ngọc như chan,

Nỗi lòng luống những bàn hoàn niềm tây:

1761. "Phong trần kiếp chịu đã đầy,

Lầm than lại có thứ này bằng hai.

Phận sao bạc chẳng vừa thôi,

Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan.

Đã đành túc trái tiền oan,

1766. Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi!"

1767. Những là nương náu qua thì,

Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia.

Mẹ con trò chuyện lân la,

Phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời.

Các văn bản của ĐDA, BK-TTK, NTG và cả những bản khác như bản của Tản Đà,
Phạm Kim Chi, Hồ Đắc Hàm, Chiêm Vân Thị, Vũ Bằng... xa hơn nữa, là các bản của
Edmond Nordmann và bản của Abel des Michels (thế kỷ XIX)... đều kết thúc lời độc thoại
trên ở câu:

1766- "Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi!"

Ta hãy đọc câu tiếp:

Những là nương náu qua thì,

Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia.

Với cách dùng dấu phẩy ở cuối câu lục, dấu chấm ở cuối câu bát như vậy, văn bản đã
khiến người đọc hiểu rằng: cả cặp câu 6-8 chỉ diễn đạt một ý trọn vẹn. Đó là về cấu trúc ngữ

40
pháp. Xét thêm về mặt logic ngữ nghĩa của câu, ta hãy thử phân tích: Chủ ngữ của câu trên
là đâu? - "Tiểu thư"! Vậy, với cách chấm câu vừa nêu, người đọc sẽ phải hiểu mệnh đề
"những là nương náu qua thì" là một trạng ngữ chỉ mục đích. Về cú pháp, cách châm phẩy
như trên không làm sai câu. Nhưng về nội dung: tiểu thư "về ninh gia" để "nương náu qua
thì" - là điều ta cần bàn lại. "Nương náu" có nghĩa là ở nhờ, ở tạm bợ để trốn tránh một việc
gì đố cho xong chuyện, cho qua lúc vận hạn. Người phải "ăn nhờ ở đậu" này rõ ràng, hoặc
vẫn có hy vọng, hoặc biết rõ vẫn còn cơ hội để thoát khỏi tình cảnh nguy khó kia. Liệu
Hoạn Thư có phải là kẻ ở ương tình thế phải "về ninh gia" để trốn lánh đợi thời không?
Không! Tất nhiên là không! Vậy thì hành động "nương náu qua thì" thuộc "quyền sở hữu"
của ai? Không thể là của Hoạn Thư, tất nhiên nó phải là hành động - đúng hơn là mụe đích
hành động - của một chủ thể khác: chủ thể xuất hiện trước khi Hoạn Thư có mặt ở đoạn thơ
này. Đó là Thúy Kiều.

Lần theo suy nghĩ của Kiều ở nhữiig dòng thơ trước đó, ta thấy nàng đi từ chỗ than
thân, trách phận đến chỗ suy xét:

1763. Phận sao bạc chẳng vừa thôi,

Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan.

Đã đành túc trái tiền oan,

Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi!

Như vậy, Kiều oán trách phận bạc không chịu buông tha nàng, nhưng nàng cũng cho
rằng đấy là nỗi oan nghiệt nợ từ kiếp trước, chẳng việc gì mà phải liều thân uổng đời. sống
ở đây chỉ là một sự tạm bợ để cho xong thời vận hạn, cho qua thì tuổi trẻ bất hạnh mà thôi.
Đưa câu thơ nói về sự tính toán việc "nương náu" vào chỗ này là hoàn toàn hợp logic nội
tâm của Kiều.

Ta đã có cơ sở để khẳng định: câu "những là nương náu qua thì" thực chất không phải
là câu kể của Nguyễn Du về Hoạn Thư. Theo chúng tôi, đây là câu độc thoại nằm trong
mạch suy nghĩ của Kiều. Sau nó phải dùng dấu kết thúc câu (dấu chấm hoặc dấu chấm than)
và đóng ngoặc kép, chứ không thể dùng dấu phẩy - Càng không thể tách câu "những là

41
nương náu qua thì" sang hẳn đoạn dưới như bản BK -TTK đã làm (nếu có tách thì chỉ nên
tách từ câu 1768 trở đi)(2)

Ở đây, một vấn đề đặt ra: thơ 6-8 thường đặt dấu chấm câu ở cuối câu bát. Nay để cuối
câu lục thì liệu có gì là bất thường, là trái phong cách Nguyễn Du không?

Sở dĩ các văn bản trước đây không dừng ở câu 6 mà qua tới câu 8 mới hạ dấu kết thúc
câu là bồi thói quen tư duy theo đặc điểm của thơ lục bát. Thể thơ này, mỗi cặp câu 6-8
thường diễn đạt một ý trọn vẹn.

Với ngôn ngữ nhân vật, lời nói thường bắt đầu bằng câu 6, kết thúc bằng câu 8. Nếu
câu 6 là lời đưa đẩy, giới thiệu, tạo môi trường xuất hiện phát ngôn thì lời nói sẽ bắt đầu
bằng câu 8 và kết thúc cũng bằng câu 8 (trừ một số câu tình lược hoặc câu gọi, hỏi, trả lời...
dạng ngắn, nội dung chỉ gói gọn trong một dòng). Song, không phải là không có ngoại lệ.
Sơ kính tân trang sử dụng một số trường hợp kết thúc ý ở câu 6 - chủ yếu dưới dạng câu
hỏi. Chẳng hạn lời Trương Công hỏi ý kiến con gái sau lời cầu hôn của viên đô đốc:

629. " -Bây giờ con nghĩ thế nào?

Nên, chăng liệu đấy làm sao mặc lòng!"

Riêng dạng đặt dấu chấm cuối câu 6, trừ Truyện Song Tinh, thơ Nôm bác học có
không nhiều. Một đôi trường hợp, chúng ta thấy xuất hiện lẻ tẻ trong Sơ kính tân trang,
hoặc trong Truyện Hoa tiên. Các tác phẩm khác rất hi hữu.

Song, ta có thể gặp không ít ngoại lệ này trong Phạm Công tân truyện (Phạm Công
Cúc Hoa), một truyện Nôm khuyết danh, và đặc biệt là trong ca dao, dân ca:

-Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ

Ai vô xứ Nghệ thì vô...

Dạng kết thúc ở câu 6 xuất hiện nhiều hơn cả là ở những câu lục bát biến thể hoặc
song thất lục bát biến thể:

_ Sông Ngầu, sông Cả, sông Đào,

Ba con sông ấy đổ vào sông


2
Bản của Vũ Bằng có cách xác định mà chúng tôi cho là rất thuyết phục. Ông kết thúc đổi thoại ở "Cũng liều ngọc
nát hoa tàn mà chi." và đặt dấu ba chấm sau câu kế tiếp "Những là nương náu qua thì ... "[29, tr.120], coi câu thơ này
là ngôn ngữ tác giả, là câu kể của Nguyễn Du nói về nàng Kiều.

42
Thương Con sông sâu, nước dọc đò ngang,

Mình về bên ấy, ta sang bên này,

Đương cơn nước lớn đò đầy...

_ Đêm đông trường nghe con vượn cầm canh,

Nghe chim khuyên tể, nghe anh khuyên nàng.

Giàu giữa làng trái duyên khuôn ép,

Khó nước người phải kiếp tìm đi.

Tiền trăm bạc chục kể chi! [109].

Hoàng Xuân Hãn cho rằng: "về lối hành văn lục bát, Truyện Song Tinh không có ảnh
hưởng trực tiếp gì đến văn chương Đàng Ngoài" [55, tr.46]. Nhưng, theo chúng tôi, không
phải lúc nào, ranh giới của lãnh thổ, của chính trị cũng trùng với ranh giới của văn chương,
nhất là khi Đàng Trong và Đàng Ngoài cùng sử dụng chung một thứ tiếng Việt, bởi văn hóa
có thể có tầm ảnh hưởng ra ngoài phạm vi một quốc gia, châu lục. Nghe những lời thoại này
của các nhân vật Truyện Song Tinh, ta không thể không nhận thấy âm hưởng của nó vang
vọng đâu đây trong Truyện Kiều hay Truyện Hoa tiên:

163. _ "Ngư dân muốn tỏ đạo mầu,

Dặm nghìn bao quản dãi dầu nắng mưa."

844. _ "Kiếp này dừ lỡ duyên này,

Đã đành nước chảy hoa bay quản gì."

1699. _ "Kiếp này chẳng hợp đài gương,

Quyết dò đáy biển suối vàng thấy ai."

1751. _ "Đêm đêm ánh bóng đèn hoa,

Một mình ngồi dậy, tiếng gà tàn canh."

Và nếu về câu chữ, Truyện Kiều và Truyện Hoa tiên đã có thể có những câu thơ chịu
ảnh hưởng của Truyện Song Tinh thì không có lí gì, Truyện Song Tinh không có ảnh hưởng
đến văn học Đàng Ngoài về lối hành văn lục bát.

43
Tuy nhiên, có lẽ Nguyễn Du học nhữhg ngoại lệ này nhiều hơn ở ca dao.

Trong Truyện Kiều hiện tượng trên khá phổ biến. Ta có thể thấy rõ qua trường hợp Tú
Bà mắng Kiều:

975. ..." Cớ sao chịu tốt một bề?

Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao!

Phải làm cho biết phép tao."

Và Kiều đáp lại:

979. Nàng rằng: "- Trời thẳm đất dày!

Thân này đã bỏ những ngày ra đi.

Thôi thì thôi, có tiếc gì!"

Đoạn thơ nói về sự xuất hiện của Hoạn Thư ương cuộc đời Kiều cũng là đoạn có khá
nhiều câu thơ kết thúc ý ở câu 6 như vậy. Nhưng trong hầu hết các trường hợp, các nhà làm
văn bản đều đặt nhầm dấu chấm kết thúc câu ở câu 8 sau nó. Chẳng hạn: Hoạn Thư sau khi
vả miệng bẻ răng những kẻ tâng công:

Buồng đào khuya sớm thảnh thơi,

Ra vào một mực nói cười như không.

1567. Đêm ngày lòng những giận lòng,

Sinh đà về đến lầu hồng, xuống yên.

Thúy Kiều ra ở Quan Âm các:

Quan phòng then nhặt lưới mau,

Nói lời trước mặt, rơi châu vắng người.

Gác kinh, viện sách đôi nơi,

Trong gang tấc lại gấp mười quan san.

1939. Những là ngậm thở ngùi than,

Tiểu thư phải buổi vấn an về nhà.

Thừa cơ sinh mới lẻn ra,

44
Xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng.

Thúy Kiều suy tính và trốn khỏi nhà Hoạn Thư:

Nghĩ đi nghĩ lại quanh co,

Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân.

2025. Bên mình giắt để hộ thân,

Lần nghe canh đã một phần trống ba.

Cất mình qua ngọn tường hoa

Lần đường theo bóng trăng tà về tây.

Nếu để dấu phẩy sau các câu lục 1567, 1939, 2025 theo cách ngắt câu truyền thống,
các nhà làm văn bản vô hình trung đã tạo nên những cuộc kết duyên ngộ nghĩnh "râu ông nọ
cắm cằm bà kia": họ lấy cái giận ngấm ngầm của Hoạn Thư mà gán cho Thúc Sinh, trong
lúc chàng vừa từ chỗ Thúy Kiều về, lòng còn đang gửi ở vầng trăng sẻ nửa. Họ gán cái
"ngậm thở ngùi than" của Thúy Kiều nơi "Phật tiền thảm lấp sầu vùi" cho Hoạn Thư trong
lúc ả đang đắc thắng, mừhg vui...

Như vậy, để phù hợp với nội dung, ngữ nghĩa của các đoạn thơ, phải đặt dấu chấm
cuối các câu lục nêu trên:

1567. Đêm ngày lòng những giận lòng.

1939. Những là ngậm thờ ngùi than.

2025. Bên mình giắt để hộ thân.

Bản BK-TTK tách các câu 1567, 1939 xuống khổ thơ dưới là thiếu hợp lý(3).

Sự kết thúc lời thơ, ý thơ ở câu 6 làm thay đổi nhịp điệu câu thơ, giống như hiện tượng
đảo phách tạo nhịp chối (silcop) trong âm nhạc. Nó thường diễn đạt một sự dừíig ngắt đột

3
Thậm chí, bản của Tản Đà chẳng những đặt dấu phây cuối câu 1567 mà còn bình chú: " Chữ "đà" trong câu đây đi với
chữ "những" ở câu trên là một thế văn." [37,tr.122]!
Tuy nhiên, ông lại đặt dấu câu chính xác trong đoạn thơ chứa câu 2025:
Nghĩ đi nghĩ lại quanh co,
Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân;
2025. Bên mình giắt để hộ thân.
Lần nghe canh đã một phần trống ba,
Cất mình qua ngọn tường hoa,
Lần đường theo bổng trăng tà về tây. [37, tr.150].
Cách đặt dấu câu của Tản Đà trong đoạn này rất giống cách chấm câu của bản Edmond Nordemann. Các văn bản khác,
hầu hết đều đặt dấu phẩy.

45
ngột, tạo cảm giác dồn nén sự kiện, tâm trạng hoặc tạo cảm giác hụt hẫng... Trong mạch thơ,
sự chuyển ý đột ngột dễ tạo cảm giác bất ngờ. Nó thường nói lên một cái gì đó bất thường.
Có lẽ quãng đời Thúy Kiều rơi vào chốn lầu xanh của Tú Bà hay ỡ trong cái "địa ngục trần
gian" - nhà Hoạn Thư - là quãng đời có nhiều xáo trộn kinh hoàng nhất đối với đời sống tâm
lý của nàng? Cách ngắt câu như vậy đã hỗ trợ không ít về mặt nội dung.

Đây là một đặc điểm thuộc phong cách nghệ thuật - làm nên cái độc đáo của tài hoa
Nguyễn Du, ít thấy trong văn chương trung đại.

Ở một đôi chỗ khác, nói chung, chúng tôi thống nhất với các nhà làm văn bản trong
việc xác định ngôn ngữ độc thoại của nhân vật, nhưng dời dấu ngoặc kép đi - dù chỉ một từ -
với mong muốn sao cho phạm vi lời nối được khoanh vùng một cách chặt chẽ nhất, chính
xác nhất.

Chẳng hạn, một số lần độc thoại bắt đầu bằng chữ "nghĩ": Kiều "Nghĩ mình mặt nước
cánh bèo ..." hoặc Hồ Tôn Hiến:

2591. "Nghĩ mình phương diện quốc gia,

Quan trên trông xuống người ta trông vào..."

Rõ ràng, đây là ngôn ngữ thầm của nhân vật chứ không phải ngôn ngữ tác giả. Nhưng
nếu để dấu ngoặc kép trùm ra ngoài chữ "nghĩ" như các văn bản đã ấn hành, thì câu thơ sẽ
rơi vào dạng câu lược bỏ chủ ngữ, trở thành lời tả, lời kể của Nguyễn Du chứ không còn là
lời bộc bạch của nhân vật. Vì vậy, chúng tôi chuyển từ "nghĩ" sang phạm trù lời dẫn, phạm
trù từ báo hiệu, kiểu như đoạn nói về suy nghĩ của Thúc Sinh:

1577. Nghĩ : "_ Đà bưng bít miệng bình,

Nào ai có khảo mà mình lại xưng?"

1.3.2.XÁC ĐỊNH BỔ SUNG NHỮNG CÂU ĐỐI THOẠI, ĐỘC THOẠI MỚI

Bên cạnh việc chỉnh lý, hiệu đính trên cơ sơ các văn bản đã có, tác giả luận án bổ sung
thêm một số trường hợp chúng tôi xác định là ngôn ngữ nhân vật, còn các nhà làm văn bản
lại xem là ngôn ngữ tác giả. Như đoạn nói về suy nghĩ của Thúc Sinh sau khi nghe đạo nhân
cho biết tin tức về Thúy Kiều:

Nghe lời nói lạ dường này,

Sự nàng đã thế, lời thầy dám tin.

46
"Chẳng qua đồng cốt quàng xiên

1702. Người đâu mà lại thấy trên cõi trần!"


4
Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân:

1704. "Thân này dễ đã mấy lần gặp tiên!"

Đây là một đoạn thơ khó phân biệt giữa ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật.

Trong Kim Vân Kiều Truyện, nó là lời đối thoại của Thúc Sinh: "_ Người đã chết rồi,
há còn sống lại được ư?" và ngôn ngữ miêu tả tâm trạng nhân vật của Thanh Tâm Tài Nhân:
" Thúc Sinh nửa tin nửa ngờ đưa lễ tạ rồi tiễn đạo sĩ ra về. Từ đó ngày đêm vẫn âm thầm
thương nhớ" [102, tr.228].

Bên cạnh việc phân tích nội dung và sắc thái biểu cảm của đoạn thơ, chúng tôi còn căn
cứ vào đại từ nhân xưng để xác định phạm vi ngôn ngữ nhân vật. Từ khóa để chúng tôi xem
các câu 1701 -1702 và 1704 là ngôn ngữ độc thoại của nhân vật nằm ở hai chữ "thân
này".Sự kết hợp giữa danh từ "thân" với đại từ chỉ định "này" tạo thành cụm từ chỉ định
"thân này" có tính xác định hết sức cụ thể về mặt đối tượng. Nó có tính chất hướng nội, chỉ
về bản thân chủ thể người nói, người nghĩ (ngôi thứ nhất). Nếu dùng ở ngôi thứ hai, thứ ba
để nói về người khác, thường chữ "thân" sẽ mang nét nghĩa thuần túy ý nghĩa vật chất của
"thân xác", "thân hình" chứ không còn nét nghĩa khái quát chỉ về một cuộc đời, một con
người như khi dùng cho ngôi thứ nhất nữa.

Trong Truyện Kiều, "thân này" được dùng thay thế cho "ta", "tôi":

2185 Nàng rằng " - Người dạy quá lời,

Thân này còn dám xem ai làm thưởng."

Ở đây, hai chữ "thân này" vừa thay thế được cho đại từ nhân xưng, vừa làm cho cách
biểu đạt thêm phong phú, giàu tính hình tượng, vừa có tính cụ thể, vừa mang tính khái quát.
Từ sự phân tích trên, chúng tôi xác định câu 1701 - 1702 và 1704 là ngôn ngữ độc thoại của
nhân vật.

Với cách làm như trên, chúng tôi đã có sự xác định lại đối với 4 lượt lời hội thoại, 1
lần độc thoại trong Lục Vân Tiên, 2 lượt đối thoại, 2 lời độc thoại trong Nhị độ mai, 2 lượt
đối thoại cho Truyện Song Tinh. Ngoài ra, chúng tôi còn bổ sung thêm 14 câu độc thoại cho

4
Riêng câu 1567, duy nhất có bản của Abel des Michels là đặt dấu chấm..

47
Sơ kính tân trang, 35 câu độc thoại cho Truyện Kiều, 2 câu đối thoại và 2 câu độc thoại cho
Lục Vân Tiên, 17 câu đối thoại, 30 câu độc thoại cho Nhị độ mai so với các văn bản chúng
tôi đã chọn (xem Phụ lục bảng 1.2, bảng 3.2, bảng 4.2, bảng 5.2 và 6.2).

Những ý kiến bổ sung của chúng tôi, đây đó, rất có thể trùng vội ý kiến của một vài tác
giả văn bản nào đó mà do điều kiện về thời gian, về tư liệu, chúng tôi chưa có dịp khảo sát
văn bản của họ. Song, chúng tôi vẫn mạnh dạn đề xuất ý kiến của mình, để mong có những
văn bản xác định ngôn ngữ nhân vật có tính chính xác cao, phục vụ cho việc thực hiện đề tài
của mình.

Mặc dù đã hết sức cố gắng trong vấn đề xác định ngôn ngữ nhân vật truyện thơ Nôm
bác học với mong muốn góp phần tạo nên những văn bản ngày càng chính xác, có tính khoa
học, chúng tôi cũng vẫn còn một số chỗ lúng túng, phân vân trong việc lựa chọn xác định
những câu thơ độc thoại nội tâm nhân vật, nhất là khi ngôn ngữ ấy có sự "nhập cảm"
(empathy) của tác giả. Như khi Kiều rơi vào lầu xanh lần thứ hai, thật khổ phân biệt được
đâu là tiếng nói phẫn uất trong tâm trạng Thúy Kiều, đâu là ngôn ngữ tác giả khi Nguyễn
Du không cầm lòng mình được trước những bất hạnh của nhân vật:

2149. Thoắt trông nàng đã biết tình,

Chim lồng khôn lẽ cất mình bay cao.

Chém cha cái số hoa đào,

Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi.

Nghĩ đời mà ngán cho đời,

Tài tình chi lắm cho trời đất ghen!

Tiếc thay nước đã đánh phèn,

Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần.

Hồng quân với khách hồng quần,

Đã xoay đến thế còn vần chưa tha.

2163. ...Biết thân tránh chẳng khỏi trời,

Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.

48
TIỂU KẾT

Ngôn ngữ nhân vật chiếm một tỷ lệ đáng kể và có vai trò quan trọng trong truyện thơ
Nôm bác học. Xác định chính xác ngôn ngữ nhân vật không chỉ giúp chúng ta tìm hiểu về
phong cách tác giả mà còn giúp chúng ta hiểu nhân vật, hiểu tác phẩm chính xác hơn.
Nhưng, cho đến nay, việc xác định đâu là lời nhân vật, đâu là lời tác giả, đâu là đối thoại,
đâu là độc thoại vẫn chưa có sự thống nhất cao giữa các nhà nghiên cứu, thể hiện cụ thể qua
văn bản. Đây đó vẫn còn một số câu xác định chưa chính xác. Các tác phẩm truyện thơ Nôm
bác học tiêu biểu đều rơi vào tình trạng này. Thể hiện rõ hơn cả là Truyện Song Tinh,
Truyện Kiều và Truyện Nhị độ mai. Chúng tôi đã cố gắng phân tích, xác định lại một số
trường hợp. Song, công việc này không đơn giản, đặc biệt là đối với những câu độc thoại
nội tâm có sự "nhập cảm" của tác giả. Vì vậy, chắc chắn là chúng tôi không thể tránh được
sai sót. Chúng tôi thiết nghĩ đây là một vấn đề vẫn cần được những người nghiên cứu
Truyện thơ Nôm bác học tiếp tục quan tâm làm sáng tỏ thêm.

49
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRUYỆN
THƠ NÔM BÁC HỌC

2.1.TÍNH TRANG NHÃ, UYÊN BÁC TRONG NGÔN NGỮ NHÂN VẬT
TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC

Tính trang nhã uyên bác là một đặc điểm nổi bật của thi pháp văn học trung đại, bao
gồm cả truyện thơ Nôm bác học. Nó chi phối toàn bộ mọi phương diện của tác phẩm, trong
đó có ngôn ngữ nhân vật. Yếu tố chính để tạo nên tính chất này là ngôn ngữ ước lệ, tượng
trưng.

2.1.1.NGÔN NGỮ ƯỚC LỆ, TƯỢNG TRƯNG TẠO NÊN TÍNH TRANG NHÃ,
UYÊN BÁC LÀ MỘT ĐẶC ĐIỂM CỦA THI PHÁP VĂN HỌC TRUNG ĐẠI

Văn chương phong kiến Việt Nam mang tính trang nhã và uyên bác cao. Dưới thời Lý,
Trần, lực lượng sáng tác chủ yếu là các nhà sư. Nhưng khoảng từ cuối đời Trần trở đi, Nho
giáo phát triển, lực lượng sáng tác chủ yếu là những nhà Nho, những trí thức Hán học "đã
thông kinh sử lại làu văn chương" được đào tạo công phu để thi thố tài năng trên con đường
hoạn lộ.

Trong giai đoạn này, thơ văn được xem là cao sang, quí phái, không phải ai cũng có
thể thưởng thức, am tường, càng không phải ai cũng có khả năng sáng tác. Tỉ lệ người biết
chữ Hán không nhiều. Vậy nên, giới văn chương thời phong kiến rất hẹp. Chính vì cả người
sáng tác lẫn người thưởng thức đều rất trí thức nên họ ham chuộng sự uyên bác.

Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX là thời đại nở rộ của những tài
hoa, thời đại kết tinh những thiên tài nghệ thuật có tầm cỡ lổn. Tuy công chúng văn học đã
được mở rộng (chủ yếu là cồng chúng văn học chữ Nôm) do chế độ thi cử dễ dãi hơn, nhiều
người có điều kiện đi thi, đi học, đối tượng biết chữ tăng lên, song các truyện thơ Nôm bác
học là sản phẩm của những nhà Nho tài hoa, hay chữ nhất nước, nên tác phẩm của họ thể
hiện một sự uyên bác hơn bao giờ hết. Sự uyên bác, trước tiên, thể hiện ở quan điểm mỹ học
của thời đại: cái đẹp gắn liền với cái cao sang. Bởi vậy, đặc trưng thi pháp của văn học cổ
trung đại là: nó phản ánh hiện thực, phản ánh đời sống tâm hồn con người thông qua một hệ
thống ước lệ mang tính qui phạm chặt chẽ.

50
Tính qui phạm của văn học cổ thể hiện ở quan điểm nghệ thuật hết sức coi trọng mục
đích giáo huấn, ở tập quán tư duy nghệ thuật thông qua những kiểu mẫu có sẩn, đã thành
công thức, ở hình thức thể loại văn học có lối kết cấu định hình, có niêm luật chặt chẽ và
thống nhất, đề cao phép đối, ưa sử dụng những văn liệu, thi liệu đã trở thành quen thuộc đối
với mọi loại hình nghệ thuật: Nói đến cây là nói đến tùng, cúc, trúc, mai; Nói đến vật, phải
là long, lỵ, quy, phụng; Tả thiên nhiên, phải có phong, hoa, tuyết, nguyệt; Thú thanh tao phải
có cầm, kỳ, thi, họa... Các chủ đề tứ thời, tứ linh, tứ vật, tứ quý, bát bửu, bát quả... đã trở
thành những chủ đề quen thuộc cho mọi loại hình nghệ thuật thời bấy giờ.

Mọi đối tượng muốn đưa vào nghệ thuật, văn chương, trước hết, theo con mắt thẩm
mỹ đương thời, chúng phải được quan niệm là cao sang, là đẹp. Không phải bất cứ cái gì
của xã hội và tự nhiên cũng có thể đưa vào. Trở thành chất liệu của văn chương rồi, chúng
còn phải được gia công, cách điệu, điểm tô để tôn vinh cái đẹp, cái cao sang lên một tầng
nữa .

Mọi nghệ thuật đều mang tính ước lệ. Song, môi trường xã hội phong kiến đầy những
lễ nghi, hình thức, cùng với cái không khí trà rượu, đàn hát tiêu dao của giới quí tộc đã tạo
ra một kiểu ước lệ mang đặc tnứig riêng của văn học trung đại: nghệ thuật thiên về công
thức, có tính chất uyên bác và cách điệu hóa, tính sùng cổ, sùng thượng và tính phi ngã.

Quan điểm mỹ học trên đã chi phối cách thức diễn đạt của văn chương phong kiến. Đó
là: các nhà văn chuộng sử dụng điển tích, điển cố. Phép dùng điển là một khâu hết sức được
coi trọng. Một áng văn hay - theo quan niệm phong kiến - chính là áng văn biết dùng nhiều
điển tích, điển cố chủ yếu rút ra từ những sử sách, thư tịch của Trung Hoa như Tứ thư, Ngũ
kinh, Bắc sử, thơ Đường, thơ Tống... Trung Quốc là một trong những cái nôi văn hoa lớn
của nhân loại. Chữ Hán lại có một lịch sử mấy ngàn năm. Triết học, thơ ca, sử ký, tiểu
thuyết trường thiên... đều có những thành tựu rực rỡ. Biết bao nhiêu tư tưởng, tình cảm, uẩn
khúc, tâm sự, kinh nghiệm sống... được gửi gắm, đúc kết ừong những câu chuyện, những
vần thơ... Dùng điển "đắt" chẳng những làm tăng tính hàm súc của thơ ca mà còn thể hiện
sự uyên bác, tầm văn hoa của người sử dụng.

Được học hành từ trường ốc phong kiến đào tạo theo lối chính quy, một số người lại
xuất thân từ những gia đình dòng dõi quý tộc, thế phiệt, trâm anh, ngòi bút của các nhà thơ
giai đoạn này không thể không chịu ảnh hưởng bởi thói quen tư duy, cảm xúc của thời đại.

51
Hơn nữa, thơ ca là một loại hình nghệ thuật đòi hỏi ngôn ngữ cách điệu hóa cao. Bởi vậy,
mọi yếu tố của truyện thơ Nôm bác học đều thể hiện tính uyên bác và trang nhã.

Do điều kiện lịch sử - xã hội và mối quan hệ lân bang giữa Việt Nam -Trung Hoa,
cũng như do quan niệm đề cao chữ Hán và văn chương Hán của giai cấp phong kiến thống
trị, văn hoá Việt Nam đã tiếp nhận khá nhiều ảnh hưởng từ văn hoa Trung Quốc. Không ít
điển tích, điển cố và hình ảnh nghệ thuật từ sử sách văn học Trung Quốc đã đi vào đời sống
văn hoa dân gian Việt Nam, trở thành những biểu tượng hết sức phổ biến, gần gũi, quen
thuộc, đặc biệt là nhữíig biểu tượng cặp đôi như loan - phượng, rồng - mây, cá - nước, bèo -
sen, liễu -đào, vàng - đá, hoa - bướm, Châu - Trần, Tấn - Tần, ông Tơ - bà Nguyệt... Sử
dụng những biểu tượng này của ca dao dân ca, các nhà thơ chẳng những vẫn giữ được tính
chất ước lệ, uyên bác của hình tượng văn học, đúng phong cách và quan niệm thẩm mỹ của
tầng lớp trí thức đương thời, mà còn tạo cho tác phẩm của mình một sự gần gũi, thân quen
đối với mọi người dân lao động.

Nhiều điển tích, điển cố được dùng một cách hết sức tự nhiên, như dùng một đơn vị từ
vựng sẩn có trong tiếng Việt. Nói đến duyên tình, tác giả cho nhân vật của mình dùng điển
"tơ hồng", "xích thằng". Trăng già", "Nguyệt lão xe tơ", "phượng loan", "sắt cầm". Nói đến
sự xa cách của người yêu đối với người yêu là nói đến Ngưu Lang, Chức Nữ và cầu Ngân
Hán. Nói đến sắc đẹp là "nghiêng thành, khuynh quốc". Nói đến tốc độ thời gian là "ngựa
qua song". Nói đến thi cử thành đạt là "cửa Vũ hoa rồng". Nói đến "đông sàng", "chiêm
phượng cầu huỳnh" là nói đến việc chọn người hiền kén rể... Điển tích, điển cố giúp cho lời
nói ngắn gọn, súc tích, có tính chất bác học. Nó vừa tạo nên những hình ảnh đẹp, hoa mỹ,
vừa gợi ra vô vàn những ý nghĩa và những liên tưởng sâu xa. Nhưng dùng nhiều quá thì
cũng dễ tạo nên những lối mòn.

Thế hệ hậu sinh chúng ta không qua sự đào tạo theo lối văn chương cử tử, không đứng
trên cùng một hệ quy chiếu nên đọc văn chương cổ dùng nhiều điển, không ít khi, ta thấy
rắc rối, khó hiểu. Nhưng đối với các nhà nho xưa, đấy chính là chỗ thể hiện "những thói
quen ý thức của họ", "phương thức đánh giá thực tế, phương thức nhìn thế giới của họ" bởi
"mỗi nền văn minh, mỗi hệ thống xã hội có phương thức riêng cảm thụ thế giới" [49, tr.17,
19]. Đấy còn là nơi thể hiện trình độ am tường, hiểu biết, kiến thức uyên bác và tài năng văn
chương của tác giả, cũng là chỗ tâm đắc, thú vị của người thưởng thức.

52
Tương tự một số nước trong khu vực châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, trong ngôn
ngữ tiếng Việt, chữ Hán chiếm một tỷ lệ khá cao. Bên cạnh việc dùng điển, văn chương
trung đại còn xem trọng việc dùng từ Hán -Việt để tăng phần trang trọng; mượn câu, mượn
ý, mượn hình ảnh từ những tác phẩm nổi tiếng của thơ ca Trung Quốc xưa để tăng sự hài
hòa, tính hình tượng và tính uyên bác. Chẳng hạn, nhân vật Truyện Song Tinh thường hay
nói chữ. Những cách nói: "thức thì kiến cơ", "khai khẩu lưỡng nan", "phượng lữ duyên hài",
"đài phượng xuy tiêu"... ta bắt gặp khá nhiều trong tác phẩm.

Để đạt được sự trang nhã và uyên bác, các nhà thơ đã dùng ngôn ngữ ước lệ, tượng
trưng thể hiện mọi phương diện nghệ thuật của tác phẩm.

Nguyễn Du tả người, tả cảnh ở cõi trần mà nhiều khi tựa như ở chốn bồng lai. Thúy
Kiều, Thúy Vân - nhũhg "tuyệt sắc giai nhân" - đẹp như những nàng tiên giáng thế. Tác giả
đem tất cả cái lộng lẫy, tươi thắm của thiên nhiên điểm tô cho nhan sắc của Thúy Vân, để
rồi khi đặt Thúy Vân đứng bên chị nàng, không chỉ Thúy Vân thua "bề tài sắc" mà vẻ đẹp
của Thúy Kiều, đến thiên nhiên cũng không sánh kịp: "Làn thu thuỷ, nét xuân sơn, Hoa
ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. Một hai nghiêng nước nghiêng thành..." Với thủ pháp
đòn bẩy này, nhan sắc Thúy Kiều đã được cực tả.

Giới thiệu "lý lịch trích ngang" của Kim Trọng, đoạn thơ đầy những từ ngữ trang
trọng, đẹp đẽ:

147. Nguyên người quanh quất đâu xa,

Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.

Nền phú hậu bậc tài danh,

Văn chương nết đất, thông minh tính trời.

Phong tư tài mạo tót vời,

Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa.

Ngay cả cái xấu đưa vào tác phẩm cũng phải là một cái xấu đã được ngôn ngữ ước lệ
biểu hiện dưới dạng cách điệu nghệ thuật. Những hình ảnh hoán dụ, ẩn dụ... sẽ giúp hình
tượng văn học trở nên trang nhã, không rơi vào dung tục. Như khi Kiều thất thân với Mã
Giám Sinh, tác giả đã dùng những hình ảnh ẩn dụ hoa mỹ để diễn tả tất cả cái phũ phàng
của cảnh ngộ Thúy Kiều, mà không rơi vào thứ ngôn ngữ tự nhiên, trần trụi:

53
845. Tiếc thay một đoá trà mi,

Con ong đã tỏ đường đi lối về!

Một cơn mưa gió nặng nề,

Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương.

Như vậy, có thể nói, ngôn ngữ ước lệ, tượng trưng đã hiện diện ở khắp mọi nơi, từ
miêu tả thiên nhiên, con người, giới thiệu nhân vật, nêu sự kiện, cho đến lời kể chuyện,
phẩm bình của tác giả. Lẽ dĩ nhiên, nó cũng sẽ có mặt và chi phối đối với ngôn ngữ nhân
vật, cả độc thoại lẫn đối thoại. Hơn nữa, lời nói một khi đi vào thi ca sẽ không thể giữ được
hình thức ngôn ngữ giao tiếp tự nhiên như chúng vốn có. Chính điều đó đã khiến cho các
nhân vật trong truyện thơ Nôm bác học và những khúc ngâm dùng thứ ngôn ngữ được cách
điệu hóa cao, nói năng với một phong cách văn hoa, quý phái. Và đó cũng chính là một đặc
điểm phổ quát của ngôn ngữ nhân vật trong: Truyện Song Tinh, Sơ kính tân trang, Truyện
Hoa tiên, Đoạn trường tân thanh, Truyện Nhị độ mai, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm
khúc... Ngay cả trong một số truyện thơ Nôm bình dân như Quan Âm Thị Kính, Trinh Thử...
ngôn ngữ ước lệ, tượng trưng với những điển tích, điển cố cũng được dùng khá phổ biến
trong tác phẩm. Nhưng, để đạt được sự uyên bác, phải tuy thuộc vào tài năng của nhà thơ.
Và tính chất trang nhã, uyên bác này có thể xem là một trong những tiêu chí để phân biệt
truyện thơ Nôm bác học với truyện thơ Nôm bình dân.

2.1.2.NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA NGÔN NGỮ ƯỚC LỆ, TƯỢNG TRƯNG TRONG
NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC

Ngôn ngữ ước lệ, tượng trưng sẽ chi phối nhân vật truyện thơ Nôm bác học ở hai biểu
hiện sau:

Thứ nhất, vì trang nhã, uyên bác là phong cách ngôn ngữ chung của cả thời đại và là
một nét phong cách nghệ thuật đặc trưng của tác phẩm Truyện thơ Nôm bác học, nên mọi
nhân vật truyện thơ Nôm bác học đều có thể sử dụng ngôn ngữ ước lệ, tượng trưng - với
những mức độ, liều lượng khác nhau - và họ có thể sử dụng nó trong mọi hoàn cảnh, mọi
mối quan hệ.

Thứ hai, vì ước lệ, tượng trưng là để làm đẹp, làm cao sang ngôn ngữ và hình tượng
văn học nên những gì thuộc phạm trù cái đẹp, cái cao sang đều được tác giả "ưu tiên" sử
dụng nhiều ngôn ngữ tượng tnữig, ước lệ. Thế cũng có nghĩa là nhân vật nào, sự kiện nào,

54
cuộc tiếp xúc nào... được tác giả quan niệm là đẹp, là quan trọng, là cao sang thì ngôn ngữ
nhân vật đó hoặc ngôn ngữ được dùng trong những trường hợp đó sẽ giàu yếu tố ước lệ,
tượng trưng hơn.

Những gì các nhà thơ đi đúng nguyên tắc trên là cái mà họ đã bám rễ vào truyền thống
văn học của thời đại mình. Còn cái gì khác những nguyên tắc trên là họ đã đi "chệch chuẩn
mực" để tạo nên một hiệu quả nghệ thuật riêng, một phong cách riêng cho ngòi bút. Đó
chính là phần sáng tạo cửa cá nhân họ, và rất có thể là những đóng góp lớn của các nhà thơ.

Ta sẽ tìm hiểu để thấy được các tác giả truyện thơ Nôm bác học thể hiện tính ước lệ,
tượng trưng như thế nào trong đối thoại, độc thoại và nó đã giúp ngôn ngữ nhân vật đạt
được hiệu quả gì.

2.1.2.1.Trong thế giới nhân vật truyện thơ Nôm bác học, hầu như ai ai cũng nổi
năng văn chương, kiều cách, sà dụng ngôn ngữ ước lệ, tượng trưng. Từ những chàng văn
nhân tài tử như Kim Trọng, Phạm Kim, Song Tinh, Lương Sinh, Mai Sinh, những cô tiểu
thư khuê các như Thúy Kiều, Dao Tiên, Quỳnh Thư, Nhụy Châu, Thụy Châu, các nhân vật
thuộc tầng lớp quan lại cấp cao như Hồ Tôn Hiến, người anh hùng như Từ Hải, nhà buôn
như Thúc Sinh, đến những người hầu kẻ hạ như Nhạn, Yến, Hồng, Oanh, Xuân Hương,
Minh Nguyệt cũng dùng thứ ngôn ngữ này. Yến chỉ là tiểu đồng của Phạm Kim mà khi tả
Quỳnh Như, lại nói năng văn vẻ, uyên bác như một bậc cao nho:

406. ''Xuân hoa bậc ấy đang vừa,

Tuổi vừa đôi bảy phong tư lạ lùng.

Thước tầm phỏng dạng bằng ông,

Lam pha mày liễu mỡ đông da ngà.

Chiều cá nhảy, vẻ nhạn sa,

Mắt long lanh nguyệt, tóc rà rà mây.

Má hồng môi thắm hây hây,

Khổ mê thược dược, thức say hải đường.

Chiều sánh ngọc, vẻ so vàng,

Ôi hoa vì sắc, ủ hương vì màu.

Thị thành đã mấy ai đâu?

55
Nguyệt vi kém giá, xuân lâu ừ làn."

và rành roi về đặc điểm nhân dạng như một thầy tướng số:

"Chỉn e tướng số chưa an,

Hay vì hai chữ hồng nhan quai gàn.

Hai cung nhật nguyệt thần quang,

Tài thông minh với văn chương rất kỳ.

Song hiềm phúc ấn tiêm đê,

E đường thọ khảo kém bề phu quân.

Định tiền họa tạ tàn xuân,

Hay phần quỵ ẩn, xấu phần tử cơ."

Thậm chí cả những loại trí thức nửa mùa như Mã Giám Sinh, những kẻ lưu manh như
Sở Khanh... đều biết dùng ngôn ngữ ước lệ. Ngay đến mụ chủ nhà chứa Tú Bà lúc dỗ dành,
khuyên giải Kiều sau khi nàng tự tử không thành, cũng ăn nói như một văn nhân. Và khi
khấn khứa thánh thần, cầu xin "món hàng" Thúy Kiều sớm sinh lãi, sinh lời, mụ cũng nói
năng văn vẻ, sử dụng điển sách:

941. "Cửa hàng buôn bán cho may,

Đêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu.

Muôn nghìn người thấy cũng yêu,

Xôn xao anh yến dập dìu trúc mai,

Tin nhạn vẩn, lá thơ bài,

Đưa người cửa trước, rước người cửa sau."

Trong lời nói, nhắc đến tết ăn đồ lạnh, mụ dùng điển "Hàn thực" (của Hậu Hán thư),
nhắc đến việc tin tức đến nhanh, lan nhanh, mụ dùng điển "tin nhạn" (Hán thư). Cách nói
văn vẻ ấy lọt ra từ miệng của một kẻ như Tú Bà khiến ta nhận ra thái độ của mụ trong
trường hợp này là khá nghiêm túc. Đối với thần thánh, không thể ăn nói theo lối bờm xờm,
văng mạng hàng ngày được, nhất là vào lúc mụ đang thành khẩn cầu tài! Nhưng đây là cái
nghiêm túc của một gái làng chơi trước thần Mày Trắng, nên mới có những câu nói kiểu:
"Muôn nghìn người thấy cũng yêu, xôn xao anh yến dập dìu trúc mai!". Đúng là "bệnh nghề

56
nghiệp"! Mụ cầu thần, cầu thánh mà cứ như tán tính, quyến thần, rủ thánh cùng vào vòng
trăng hoa với mụ!

Không những nhân vật nào cũng có thể sử dụng ngôn ngữ quý tộc mà họ còn có
thể dùng nó ở mọi chỗ, mọi nơi, với mọi đối tượng: từ việc xử án chốn công đường trong
vụ kiện tụng của cha con Thúc Sinh đến lời thề nguyền tình tự giữa những đôi trai gái Kim -
Kiều, Phạm Kim - Quỳnh Thư, Lương Phương Châu - Dao Tiên, từ bữa tiệc đoàn viên của
gia đình Vương Ông, đến việc trao đổi mua bán của anh chàng họ Mã... Ngay cả trong quan
hệ ruột rà: cha mẹ nói với con cái, con cái nói với cha mẹ - thông thường đó là thứ ngôn ngữ
thân mật gia đình, ít bị chi phối bởi quy tắc xã giao hơn cả - thì ở đây, ta vẫn bắt gặp nhưng
lời nói hết sức kiểu cách, trau chuốt. Như lời Kiều ngăn ý định tự tử của cha hoặc lời Vương
Bà khi nghe tiếng khóc của con gái trong đêm nàng nằm mê gặp Đạm Tiên lần đầu:

225. " _ Cớ sao trằn trọc canh khuya?

Màu hoa lê, hãy dầm dề giọt mưa."

Hình tượng "màu hoa lê" trong câu hỏi của Vương Bà lấy từ ý thơ trong bài Trường
hận ca của Bạch Cư Dị:

"Ngọc dung tịch mịch lệ can can,

Lê hoa nhất chi xuân đới vũ"

(Nghĩa là: Mặt ngọc lặng lẽ lệ chứa chan;

Một cành hoa lê mùa xuân bám hạt mưa.)

Người mẹ dùng hình ảnh mà một thi sĩ tài danh tả người đàn bà đẹp khóc để hỏi con
gái sao còn ngồi khóc giữa canh khuya! Nếu tách câu nói ra khỏi văn cảnh và ra khỏi môi
trường sống của nó - môi trường văn học trung đại - ta sẽ thấy lối nói này hết sức kiểu cách,
khách sáo, không hợp với không khí tình cảm và mối quan hệ giữa các nhân vật. Nhiữig ở
đây, đặt nó trong tính hệ thống của toàn tác phẩm, ngôn ngữ ước lệ này có sự hài hòa với cái
tổng thể. Nhờ ngữ cảnh cụ thể, ta vẫn thấy nó toát lên tình cảm chân thành, sự lo lắng ân cần
của người mẹ. Sử dụng ý thơ xưa, Nguyễn Du vừa diễn đạt được điều Vương Bà muốn hỏi
trong khuôn khổ của một câu thơ, vừa "quý tộc hóa" ngôn ngữ của nhân vật, đem lại một
hình tượng đẹp và sự trang nhã, uyên bác cho tác phẩm.

Ngôn ngữ ước lệ tượng trưng còn được dùng để diễn tả những điều được xem là
trần tục, cấm kỵ. Ở giai đoạn sơ kỳ và trung kỳ trung đại, cá nhân con người bị che mờ,

57
khuất lấp trong những nghĩa vụ và đạo đức nho giáo. Con người của giai đoạn này là con
người danh phận, phận vị. Họ sống vì đất nước, vì vua, vì chúa, vì chủ tướng chứ không
sống cho những nhịp đập buồn vui, những khát khao yêu thương cháy bỏng của chính cuộc
đời mình. Đoàn Lê Giang trong luận án tiến sĩ khoa học của mình đã hóm hỉnh nhận xét:
"Thời ấy nhà thơ dám thung dung đi vào chỗ chết mà sắc mặt vẫn không thay đổi, nhưng họ
lại đỏ mặt xấu hổ ngay nếu nói ra những điều được coi là không xứng đáng" [45, tr.139].
Nhưng, đến giai đoạn này, giai đoạn hậu kỳ trung đại, khi quyền tự do, hạnh phúc của con
người trở thành một nhu cầu được khám phá và được thể hiện một cách bức bách, thì văn
chương, nghệ thuật đã tìm cho mình những con đường phản ánh nhiều khía cạnh của cuộc
sống riêng tư. Trong những trường hợp như thế này, ngôn ngữ ước lệ tượng trưng quả là lợi
hại. Nó không làm mất đi tính cao quý, sang trọng của văn chương mà vẫn thể hiện được
mặt trái hoặc những chi tiết trần tục, những khía cạnh tế nhị, tinh vi của cuộc sống. Khi
Nhụy Châu hỏi Thể Vân về đêm tân hôn của Thể Vân với Song Tinh:

2157. Nàng Tằng: "Ngày đẹp hoa phòng,

Đào hoa gặp trận gió dông thế nào?"

Một câu hỏi quá tò mò, thóc mách đối với một người con gái chưa từng biết đến
chuyện chăn gối! Nếu hỏi bằng lời ăn tiếng nói hàng ngày, chắc chắn Nhụy Châu sẽ làm cho
các nhà nho phải chau mày, nhăn mặt. Người ta có cảm tưởng như nhà thơ đã đẩy nhân vật
của mình đi đến bước cuối cùng trên một cái cầu cụt chênh vênh chìa ra bên bờ vực thẳm.
Nhưng Nhụy Châu không ngã. Chính ngôn ngữ ước lệ, tượng trưng giàu chất ẩn dụ đã giữ
nàng lại, tạo cho nàng một hình ảnh đầy ấn tượng. Sự mạo hiểm đem lại cho nhân vật một
sự độc đáo, một vẻ đẹp riêng, giúp cho sự tò mò rất đàn bà của nàng không rơi vào sự sống
sượng, vô duyên. Trái lại, nó còn góp phần thể hiện được cái thẳng thắn, táo bạo ngầm ẩn
bên trong tính cách nhân vật. Nhờ sử dụng ngôn ngữ ước lệ, tượng trưng, Nguyễn Hữu Hào
đã tạo nên một cuộc đối thoại có thể xem là táo bạo, hiện đại nhất của Truyện thơ Nôm Việt
Nam trong quan niệm về tình dục, mà vẫn giữ được sự trang nhã, uyên bác cho ngôn ngữ
nhân vật và cho tác phẩm.

Ngay trong suy tính của Mã Giám Sinh, một tên trí thức lưu manh, ta cũng thấy có mặt
nhiều yếu tố ước lệ:

825. Đã nên quốc sắc thiên hương,

Một cười này, hẳn nghìn vàng chẳng ngoa.

58
Về đây nước trước bẻ hoa,

Vương tôn quý khách ắt là đua nhau.

Ngôn ngữ không những là công cụ giao tiếp mà còn là công cụ tư duy. Rõ ràng, ở đây,
các nhân vật của truyện thơ Nôm bác học chẳng những nói mà còn tư duy, cảm xúc bằng
ngôn ngữ ước lệ.

Chính ngôn ngữ đối thoại và độc thoại giàu yếu tố ước lệ, tượng tnửig trang nhã và
uyên bác này là một tiêu chí quan trọng để phân biệt giữa truyện thơ Nôm bình dân và
truyện thơ Nôm bác học.

Như vậy, ngôn ngữ ước lệ, tượng trưng có tính chất trang nháy uyên bác là một trong
những tiếng nổi đặc trưng của nhân vật và tác phẩm truyện thơ Nôm bác học, cũng là tiếng
nói chung của nhân vật và tác phẩm văn chương bác học thời đại phong kiến giai đoạn nửa
cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX.

2.1.2.2.Như trên đã nói, sự cách điệu trong văn học là để nâng ngôn ngữ và hình tượng
được kiến trúc từ ngôn ngữ đạt đến cái đẹp, cái cao sang phù hợp với quan điểm thẩm mỹ
của nghệ thuật thời trung đại.

Mỹ học truyền thông quan niệm ba phạm trù chân- thiện- mỹ là những phạm trù mỹ
học có giá trị gắn bó với nhau. Tùy nhận thức của mỗi thời đại, gắn liền với những biến
thiên về kinh tế, chính tri, lịch sử xã hội, điều kiện môi trường... mà quan niệm về giá trị
mỗi phạm trù ít nhiều có tính chất khác nhau.

Thời trung đại, cái đẹp, cái thiện, cái chân thường gắn với quan điểm đạo đức phong
kiến. " Nhân vật chính diện và phản diện là những phạm trù lịch sử". [115, tr.103]. Bởi vậy,
phương thức xây dựng loại hình nhân vật thời kỳ này khá đơn giản, một chiều. Nhân vật là
sự hóa thân của một loại khái niệm đạo đức nào đó: Nhân vật chính diện hội tụ những giá trị
chân - thiện - mỹ, mang lý tưởng, quan điểm tư tưởng, quan điểm đạo đức, mỹ học của tác
giả và của thời đại. Nhân vật phản diện là sự hội tụ những gì ngược lại. Nó thuộc phạm trù
cái xấu, cái thấp hèn, và nhiều khi thuộc cả phạm trù của cái hài nữa. Tính cách họ "nhất
thành bất biến", không thay đổi trong mọi hoàn cảnh: ác thì cái gì cũng ác, lúc nào cũng ác,
đẹp thì cái gì cũng đẹp, ở đâu cũng đẹp... Chính vì vậy, khi xây dựng nhân vật chính diện,
văn học trung đại thiên về tính chất lý tưởng hóa, tập trung vun đắp cho loại nhân vật này
mọi giá tri tốt đẹp, cả về hình thể bên ngoài lẫn phẩm chất đạo đức và những giá trị tâm hồn

59
bên trong, đẹp cả về ngôn ngữ lẫn hành động. Họ có nguồn gốc xã hội cao quý, có tài năng,
thậm chí có những hành động, tính cách phi thường... Các nhân vật Song Tinh - Nhụy Châu
của Truyện Song Tinh, Phạm Kim - Quỳnh Thư - Thụy Châu của Sơ kính tân trang, Lương
Phương Châu - Dương Dao Tiên của Truyện Hoa tiên, Phan Tất Chánh - Trần Kiều Liên
của Phan Trần, Mai Lương Ngọc - Trần Hạnh Nguyên của Truyện Nhị độ mai, Lục Vân
Tiên - Kiều Nguyệt Nga của Truyện Lục Vân Tiên... đều được xây dựng theo cách thức ấy.

Để phù hợp, thích ứng với loại đôi tượng phản ánh như vậy, các phương thức ước lệ,
tượng trưng phải được huy động làm chất liệu xây dựng mọi yếu tố cấu thành nhân vật,
trong đó có ngôn ngữ đối thoại và độc thoại.

Ngôn ngữ được cách điệu hóa cao, giàu tính ước lệ, tượng trưng của văn chương bác
học được quan niệm là thứ ngôn ngữ cao nhã, sang trọng, uyên thâm, quý phái, rất phù hợp
với đối tượng trên.

Nếu như ngôn ngữ ước lệ, tượng trưng là đặc điểm chung, có tính chất phổ biến, là
phong cách chung của mọi nhân vật văn học trung đại, thì đối với nhân vật chính diện, tính
chối ước lệ, uyên bác trong ngôn ngữ sẽ được đẩy lèn cao hơn nữa, với nồng độ đậm đặc
hơn nữa. Thậm chí ở Hoa Tiên, Sơ kính tân trang, cả những người đầy tớ của các nhân vật
chính diện, những tiểu đồng Hồng, Yến, Nhạn, Oanh ương hầu hết các cuộc thoại đều nói
bằng một giọng văn hoa, quý phái như chủ của họ. Trong Sơ kính tân trang, chỉ các nhân
vật chính diện mới sử dụng điển tích, điển cố, còn nhân vật phản diện thì không sử dụng.

Các nhân vật chính diện trung tâm của truyện thơ Nôm bác học phần lớn được hình
thành theo phương thức này. Dao Tiên khuyên nhủ, gửi gắm Lương Sinh:

793 Nàng rằng: "Bồ liễu chút thân,

Gió đông những lệ chúa xuân phải phiền.

Trăm năm nhẹ một mảnh nguyền,

Vừng soi đã hổ với trên đỉnh đầu.

Thề lòng đợi bến Hà Châu,

Đợi nhau trên Bộc trong dâu ru mà.

Dám xin tính rộng lo xa,

Bảng vàng treo đã, đuốc hoa vội gì."

60
Kim Trọng, Từ Hải được xây dựtig theo lối lý tưởng hóa. Ngôn ngữ của họ không sử
dụng những từ khẩu ngữ thông tục. Kim Trọng là văn nhân, Từ Hải là võ tướng. Ngôn ngữ
của Kim Trọng sẽ giàu yếu tố ước lệ hơn ngôn ngữ của Từ.

Chàng tương tư Kiều:

257. "Ví chăng duyên nợ ba sinh,

Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi?"

Chàng ướm lòng Kiều:

305. " _ Thoa này bắt được hư khổng,

Biết đâu Hợp phố mà mong châu về? "

Chàng tình tự với Kiều:

327. " _ Tháng tròn như gửi cung mây,

Trần trần một phận ấp cây đã liều.

Tiện đây xin một hai điều,

Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?"

Sau những năm dài xa cách Kiều, ngày gặp lại, ta vẫn nghe giọng nói quý phái, văn
hoa nhưng rất chân tình của chàng Kim mười lăm năm về trước:

3121. " Trời còn để có hôm nay,

Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời.

Hoa tàn mà lại thêm tươi,

Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa.

Người anh hùng Từ Hải, ngôn ngữ có mộc mạc hơn, song vẫn là ngôn ngữ được cách
điệu hóa:

2181. "Bấy lâu nghe tiếng má đào,

Mắt xanh chẳng để ai vào, có không?"

Thúy Kiều khi chưa dấn thân vào cuộc đời gió bụi, ngôn ngữ của nàng cũng mang yếu
tố ước lệ, tượng trưng cao. Ngôn ngữ Thúy Vân, Vương Quan, Vương Ông, Vương Bà...đều
thể hiện tính chất uyên bác này.

61
Thế nhưng, Nguyễn Du nhìn thế giới nhân vật của mình không phải với cái nhìn phiến
diện bị chi phối bởi quan niệm đạo đức của thời đại. Lại càng không phải cái nhìn thiên lệch
theo tình cảm kiểu "Yêu nhau yêu cả đường đi, Ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng" (ca dao).
Đã là người tốt thì cái gì cũng tốt! Đã là người xấu thì xấu toàn diện, xấu triệt để! Nguyễn
Du nhìn nhân vật một cách khách quan hơn: con người có cả cái tốt lẫn cái xấu. Ngay cả kẻ
xấu cũng có thể có những lời nói đẹp! Người tốt cũng có thể có những sai lầm, những hành
vi xấu! Cái tốt, cái xấu của con người không đơn giản chỉ là khuôn theo những chuẩn mực
nào đó được xã hội quy định. Cái xấu, cái tốt hình thành nhiều khi là cả một quá trình chịu
sự tác động của hoàn cảnh. Biểu hiện của nó bị chi phối bởi nhiều yếu tố: những trạng
huống cụ thể, tính cách nhân vật, mục đích hành động, nói năng... Hơn nữa, nhân vật chính
của ông - Thúy Kiều - khi sống trong nhung lụa, lúc sống giữa bùn lầy, phải tiếp xúc với đủ
mọi hạng người, phải xử trí với đủ mọi tình huống, phải nếm trải đủ mọi cảnh ngộ, làm sao
cứ khăng khăng giữ mãi một giọng đài các, quý tộc?

Không phải lúc nào sự khác biệt giữa các tầng ngôn ngữ cũng gắn liền với sự khác biệt
giữa các tầng lớp xã hội. Hiện thực và những quy luật của cuộc sống đã mạnh hơn thói quen
tư duy của thời đại, chi phối ngôn ngữ, hành vi, tính cách các nhân vật của ông. Ta sẽ thấy
các nhân vật Truyện Kiều sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, "có khi biến, có khi thường". Đặc
điểm này đã đưa đến một hiện tượng khá đặc biệt trong tác phẩm của Nguyễn Du mà ngoài
Nhạn đồng, My Oanh của Sơ kính tân trang, Nhược Hà, Thể Vân trong Truyện Song Tinh,
hầu như không tác phẩm văn học trung đại nào có được. Đó là: nhiều nhân vật của ông nói
hai kiểu giọng: khi quý tộc, lúc khẩu ngữ tự nhiên... tùy hoàn cảnh, tính cách, mục đích, tùy
nội dung tư duy, cảm xúc.

Với nhân vật có hai kiểu giọng - Nguyễn Du đã đủ để vượt thời đại của mình. Không
những thế, Truyện Kiều còn có những lời nói hai kiểu giọng, sử dụng hai loại ngôn ngữ,
đem lại cho phạm trù ngôn ngữ nhân vật của Nguyễn Du một sự phong phú, đa dạng không
tác phẩm nào trong giai đoạn văn học này có thể so tài. Ta gặp Thúy Kiều nói với Thúc Sinh
trong buổi báo ân, báo oán:

2327. Nàng rằng: "_ Nghĩa trọng nghìn non,

Lâm Trí người cũ, chàng còn nhớ không?

Sâm, Thương chẳng vẹn chữ tòng,

Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?

62
Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân,

Tạ lòng dễ xứng, báo ân gọi là!

Vợ chàng quỷ quái, tinh ma,

Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.

Kiến bò miệng chén chưa lâu,

Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa!"

Ở đây, chỉ trong một lời nói, Thúy Kiều đã sử dụng cả hai loại ngôn ngữ quý tộc và
bình dân, tạo thành hai phần tách bạch khá rõ hướng tới hai đối tượng khác nhau: Thúc Sinh
và Hoạn Thư.

Với Thúc Sinh, người đã cứu Kiều ra khỏi chốn lầu xanh nhơ nhớp, ngôn ngữ Kiều
giàu yếu tố ước lệ, quy phạm, sử dụng nhiều từ Hán - Việt với những kiến thức kinh điển:
"nghĩa trọng", "Sâm, Thương", "chữ tòng", "cố nhân", "báo ân"... biểu hiện một thái độ,
một tình cảm trân trọng.

Bốn câu sau dành cho Hoạn Thư - người đã hành hạ Kiều khốn khổ - ngôn ngữ Kiều
dày đặc những thành ngữ, tục ngữ, khẩu ngữ dân gian: "quỷ quái tinh ma", "kẻ cắp gặp bà
già", "kiến bò miệng chén" v.v... Lại cả cách nói cũng rất bình dân nữa:"Phen này kẻ cắp, bà
già gặp nhau!". Lối nói này, lời lẽ này rõ ràng rất khác với những gì xã hội phong kiến quan
niệm về ngôn ngữ của phu nhân một bậc đại vương như Kiều. Nó cũng không phù hợp với
đối tượng được nói tới là Hoạn Thư - một tiểu thư thuộc tầng lớp quý tộc bậc cao trong xã
hội. Song, sự "lệch chuẩn" ở đây chẳng những không hạ thấp, không làm mất tính thống
nhất trong lời nói nhân vật, mà trái lại, đã tạo ra một hiệu quả hữu hiệu trong việc biểu cảm.
Nó cho ta thấy rõ thái độ của người nói đối với những đối tượng mà nó hướng tới: với Thúc
Sinh thì tôn trọng, tình nghĩa, biểu thị lòng biết ơn chân thành; với Hoạn Thư thì trong lời
cảnh cáo đe dọa kia, không giấu nổi sự căm ghét và sự hả dạ của kẻ bị đè nén oan khuất, nay
đã có dịp bắt đối thủ của mình đền tội. Đúng là "đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo
giấy"! Hoàn toàn hợp với triết lý đối nhân, xử thế của dân tộc ta.

Như vậy, ta thấy trong nhiều trường hợp, nhân vật truyện thơ Nôm bác học sử dụng
loại hình thức ngôn ngữ nào là do tình cảm, cảm xúc của họ dành cho đối tượng được nói
đến quyết định.

63
Gs. Đặng Thanh Lê trong chuyên luận Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm đã cho
rằng:

"Đặc điểm lớn nhất của ngôn ngữ đối thoại Truyện Kiều là sự nhất quán sâu sắc giữa
nội dung tư duy cảm xúc với hình thức ngôn ngữ. Đây là một yếu tố cơ bản quyết định tính
chất, giá trị ngôn ngữ đối thoại Truyện Kiều, ngôn ngữ quý tộc hay ngôn ngữ nhân dân,
ngôn ngữ nhân vật chính diện và ngôn ngữ nhân vật phản diện, ngôn ngữ ước lệ công thức
hay ngôn ngữ có màu sắc hiện thực chủ nghĩa v.v..." [81, tr.236-237].

Nhận xét của Gs.Đặng Thanh Lê khá sâu sắc. Nhưng, nhân vật của truyện thơ Nôm
bác học, đặc biệt là nhân vật của Nguyễn Du không phải là những người mà bao giờ ta cũng
"đọc" được họ qua ngôn ngữ đối thoại. Nhận xét ấy chỉ đúng khi nhân vật sống đúng với
bản chất của mình. Loại người như vậy thường là nhân vật chính diện.

Riêng các nhân vật phản diện, tình hình có phức tạp hơn. Trong nhữỉig tình huống
không cần phải đóng kịch, ngôn ngữ của họ sẽ tuân theo quy tắc trên. Còn một khi đã "vào
vai", họ sẽ sử dụng thứ ngôn ngữ khác - thứ ngôn ngữ có thể làm tấm bình phong che đậy
những mưu mô xảo trá và bản chất xấu xa của họ. Khi giả nhân nghĩa, giả đạo đức, những
nhân vật này sẽ nói y như các nhân vật chính diện: quân tử, lịch lãm, cao sang, quý phái...
Có vậy, họ mới lừa được người đời. Nếu không thế, thì làm sao lý giải được thứ ngôn ngữ
văn hoa Kiều nghe từ miệng Sở Khanh buổi đầu gặp gỡ? Và lý giải như thế nào đây trong
trường hợp ngôn ngữ của Hồ Tôn Hiến luôn luôn là giọng của kẻ quyền cao, chức trọng, có
học thức, "kinh luân gồm tài"? Hắn nói rất kiểu cách, lịch sự ngay cả khi làm cái việc bỉ ổi
là gạ gẫm, tán tỉnh, giở trò trăng hoa đối với người quả phụ mà chồng nàng, hắn vừa mới
giết.

Có lẽ, trong những trường hợp như thế này, cách lý giải vấn đề của giáo sư Nguyễn
Lộc hợp lý hơn:

"Ngôn ngữ có nhiều tính ước lệ trong Truyện Kiều chủ yếu được sử dụng cho các nhân
vật chính diện"... "Nhân vật phản diện một khi làm ra vẻ chính diện thì ngôn ngữ của chúng
cũng thay đổi. Nó không dùng nhữhg lời lẽ thông thường để nói, mà dùng nhiều lời lẽ có
tính chất ước lệ" [88, tr.66].

Bởi vậy, Tú Bà khi làm ra vẻ tử tế, biết người, biết ta, khi cần giả giọng đạo đức, mụ
cũng nói bằng thứ ngôn ngữ chứa nhiều yếu tố ước lệ:

64
1005. "_Một người dễ cổ mấy thân,

Hoa xuân đương nhụy, ngày xuân còn dài.

Cũng là lỡ một, lầm hai,

Đá vàng sao nỡ ép nài mưa mây.

Lỡ thân trót đã vào đây,

Khóa buồng xuân, để đợi ngày đào non."

Hách Sinh (Truyện Song Tinh) cầu hôn Nhụy Châu không thành, đã tỏ thái độ đối với
Giang Ông một cách hết sức bất kính:

1097. Hách Sinh nghe nói thêm hằn,

Mắng rằng: "Lão tặc nói năng nhiều lởi!

Ví so, ai dễ thua ai,

Lão chức khoa đài, cha mổ nguyên nhung.

Gớm lời đáo trác dẻ dung,

Trong đời há bượp má hồng ấy vay!

Trai đâu luống chịu mặt dày,

Trời kia còn đội, thù này chẳng quên."

Thế nhưng, khi mượn việc Diêu Doãn tuyển mộ cung nữ để thực hiện lá bài trả thù
thâm độc và hèn hạ của mình, để thuyết phục Diêu Doãn chọn Nhụy Châu, hắn nói với Diêu
Doãn bằng thứ ngôn ngữ của một người có học, biết giá trị của cái đẹp và khen Nhụy Châu
không tiếc lời:

1153. "Vóc mai hình liễu nõn nà,

Hoa nhường, trăng thẹn, nhạn sa, cá chìm,

Khuê môn nữ tắc đoan nghiêm,

So đường cung Quảng thác rèm chói trăng.

Nức danh quốc sắc tột chừng,

Non Côn ngọc rắc, sông vàng châu rây."

65
Giọng điệu này thật khác xa với thứ giọng điệu hằn học, vô lễ, láo xược của hắn khi
nghe Giang Ông từ hôn.

Sở Khanh là một tên lưu manh đại bịp. Nhưng khi cấu kết với Tú Bà lập mưu lừa dối,
hãm hại Kiều, y giả dạng một nhân vật "cũng mạch thư hương" mà lại có cái chí của người
anh hùng hào hiệp, sấn sàng ra tay cứu giúp kẻ khó. Vì vậy, y cũng nói bằng cái giọng của
một văn nhân, lại có cái khí vị của một người anh hùng, ngôn ngữ giàu yếu tố ước lệ:

1065. "_ Than ôi sắc nước hương trời!

Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây!

Giá đành trong nguyệt trên mây,

Hoa sao hoa khéo đọa đầy bấy hoa!

Tức gan riêng giận trời già,

Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng?

Thuyền quyên ví biết anh hùng,

Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi."

Trong những trường hợp như thế này, nhân vật sử dụng hình thức ngôn ngữ nào
không phải tùy tình cảm thực chất mà tùy vào động cơ, mục đích nói năng, tùy vai mà họ
định "thử", đang "thử".

Bên cạnh đó, khi các nhân vật người hầu thực hiện vai trò của những bà mối, những
"cố vấn ái tình", thì, để thuyết phục được những cậu chủ, cô chủ học vấn uyên thâm, tài hoa
rất mực của họ, những Thể Vân, Như Nguyệt, Xuân Hương, My Oanh, Nhạn Đồng sẽ nói
năng văn vẻ, am tường điển sách, ngôn ngữ đầy tính triết lý, giàu tính thuyết phục. Nội dung
cũng như hình thức ngôn ngữ đối thoại ở đây không phù hợp với địa vị, giai tầng của họ mà
phù hợp với chức năng nhân vật phải đảm nhiệm trong tác phẩm

2.1.3.CÁCH THỨC TẠO NGÔN NGỮ ƯỚC LỆ, TƯỢNG TRƯNG CHO NHÂN VẬT
CỦA TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC

Có thể thấy được cách thức các tác giả truyện thơ Nôm bác học tạo ngôn ngữ quý phái,
ngôn ngữ giàu tính ước lệ cho nhân vật của mình qua ví dụ:

Trong đêm Kim Trọng, Thúy Kiều gặp gỡ, tình tự, khi "sóng tình dường đã xiêu xiêu",
chàng Kim không cầm nổi lòng mình trước người đẹp, nên "xem ương âu yếm có chiều lả

66
lơi". Nàng Kiều đã ngăn chàng lại. Trong trường hợp như thế này, lời lẽ đòi hỏi phải hết sức
tế nhị, vì nó liên quan đến những điều khó nói ương quan hệ giữa đôi trai gái mới bước vào
tuổi hoa niên. vả lại, nói gay gắt thì dễ trở thành cao đạo, dễ làm thương tổn đến lòng tự ái
của người nghẹ. Nói thẳng thừng thì dễ sống sượng. Nói tránh, nói vòng thì nhiều khi không
thể hiện được rõ thái độ của người nói... xử lý thế nào đây để lời nói nhân vật vừa tế nhị,
vừa thể hiện được sự kiên quyết, có sức thuyết phục cao đối với nhận thức và tình cảm
người nghe? Nguyễn Du đã làm tăng hàm lượng tính ước lệ kinh điển trong ngôn ngữ nhân
vật:

501. Thưa rằng: Đừng lấy làm chơi,

Dẽ cho thưa hết một lời đã nao.

Vẻ chỉ một đoa yêu đào,

Vườn hồng chi dám ngăn rào chìm xanh

Đã cho vào bậc bố kinh,

Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.

Ra tuồng trên Bộc trong dâu,

Thì con người ấy ai cầu làm chi.

Phải điều ăn xổi ở thì,

Tiết trăm năm, nỡ bỏ đi một ngày

Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay,

Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi, Trương.

Mây mưa đánh đổ đá vàng,

Quá chiều nên đã chán chường yến anh.

Trong khi chắp cánh liền cành,

Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên.

Mái tây để lạnh hương nguyền,

Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.

Gieo thoi trước chẳng giữ giáng,

67
Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai.

Vội chi liễu ép hoa nài,

Còn thân ắt cũng đền bồi có khi."

Chỉ trong một câu nói (22 dòng), Kiều sử dụng hàng chục điển tích, điển cố, ý thơ cổ
và những hình ảnh ẩn dụ đẹp trong văn chương để giúp nàng giãi bày điều khó nói. Từ các
sách Hậu Hán thư (điển "bố kinh"), Hán thư ("trên Bộc ương dâu"), Hội chân ký ("Thôi,
Trương", "mái tây"), Lưu thần ký ("chắp cánh liền cành"), Tấn thư ("gieo thoi") Lã Thị
Xuân Thu ("đá vàng"), Kinh lễ ("đạo tòng phu") đến thơ trong Kinh Thi ("yêu đào"), phú của
Tống Ngọc ("mây mưa"). Làm nên tính ước lệ trong câu nói trên còn phải kể đến nhữhg ẩn
dụ của ca dao: "vườn hồng", "chim xanh", "liễu", "hoa", v.v... Bên cạnh đó, các từ Hán-
Việt: "duyên kỳ ngộ", "yến anh", "hương nguyền",... cũng góp phần làm tăng tính trang
trọng, đài các của ngôn ngữ nhân vật. Thế nhưng, một lời nói dày đặc kiến thức lánh điển
như trên sẽ dễ rơi vào chỗ nặng nề, trúc trắc, khó hiểu. Nguyễn Du đã làm thế nào để câu
nói của Kiều vừa trang nhã, kín đáo, lại vừa dễ hiểu, chân thành? Ta thấy ông làm được điều
đó là vì: có chỗ, ông dùng những điển đã trở thành phổ biến trong đời sống nhân dân. Chẳng
hạn điển "đá vàng" của sách Lã Thị Xuân Thu chỉ sự gắn bó bền vững lâu dài như khắc vào
bia đá, chuông vàng. Điển này đã trở thành một hình ảnh quen thuộc trong ca dao Việt
Nam:

_ Trăm năm dốc nguyện đá vàng,

Dè đâu gãy gánh giữa đàng khó toan.

_ Cải than nhem nhuốc với tình

Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên.

Lại có chỗ, ông dùng những điển rất hình ảnh, rất sáng, rất rõ với ngôn ngữ thuần Việt,
đọc lên là có thể hiểu ngay, như điển "mây mưa", "chắp cánh liền cành". Có khi, Nguyễn
Du tạo nên một thế tương quan, để điển dễ làm rõ nghĩa điển khó:

Đã cho vào bậc bố kinh,

Đạo tòng phu lấy chữ trình làm đầu.

Người đọc có thể không hiểu điển "bố kinh" nlnửig chữ "bậc" đúng trước nó gợi nét
nghĩa trang trọng, cao quý (chẳng hạn "bậc hiền nhân quân tử", "bậc nữ lưu"). Trong "bậc

68
bố kinh" ấy có "đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu". Đối với người Việt Nam, "đạo tòng
phu" và "chữ trinh" của lễ giáo Nho gia đã là những gì quen thuộc ương đời sống nhân dân
thời phong kiến. Vì vậy, người đọc có thể không hiểu "bậc bố kinh" chỉ người vợ biết làm
tròn bổn phận đối với lễ giáo Nho gia, nhưng có thể tự suy luận, tự đoán biết nhũng từ này
nói về đạo làm vợ hiền của người phụ nữ.

Câu thơ tiếp theo, điển "trên Bộc trong dâu" đặt trong thế đối lập về nghĩa với "chữ
trinh" ở trên. Ý nghĩa của nó còn được soi sáng bởi các từ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa, hoặc
chỉ trùng với nó ở một nét nghĩa nào đó, như "mây mưa", "duyên bẽ bàng" trong sự tương
phản với "đá vàng", "tiết trăm năm", "duyên đằm thắm"...

Như vậy, sự tương quan về mặt văn cảnh, sự bổ sung ý nghĩa giữa các khái niệm, và
sự bọc lót, đan xen của những từ thuần Việt quen thuộc trong ngôn ngữ đại chúng như "ăn
xổi ở thì", "đẹp tày", "chán chường", "đằm thắm", "bẽ bàng"... đã làm nổi rõ ý nghĩa của câu
thơ, khiến chúng ta vẫn có thể hiểu được nó mặc dù những điển tích, điển cố ấy nhiều khi ta
chưa phải đã thật am tường.

Tinh ước lệ bác học của nhũng kiến thức kinh điển ấy lại kết hợp với cái ước lệ dân
gian của những hình ảnh ẩn dụ "vườn hồng", "chim xanh", "liễu", "hoa" trong ca dao, tạo
cho câu thơ một sự kết hợp hài hòa giữa văn chương bác học và vãn chương dân gian, khiến
câu nói của Kiều cao sang đấy mà không mất đi cái gần gũi, thân quen, nghe đài các mà
không rơi vào khuôn sáo, kiểu cách. Lối nói với nhữiig dẫn chứng, phân tích có lý, có tình,
lập luận rất kín kẽ này cho thấy sự mềm mại và cương quyết ương tính cách, sự phong phú
về trí tuệ và tâm hồn, sự đoan trang, khéo léo và tình tế trong cư xử của Thúy Kiều. Nó
chẳng nhữhg thuyết phục Kim Trọng từ nhận thức đến tình cảm mà còn khiến chàng không
thể không cảm phục, vì nể. Có thể nói đây là một lời thoại hết sức khôn khéo, trang nhã và
uyên bác.

Lời nói trên là một ví dụ khá tiêu biểu về cách thức tạo yếu tố ước lệ của Nguyễn Du
cũng như các nhà thơ thế kỷ XVIII - XIX. Các tác giả đã sử dụng điển tích, điển cố trong sử
sách, mượn ý tứ, hình ảnh từ thơ ca Trung Quốc xưa, kết hợp với những từ Hán Việt, những
hình ảnh được chắt lọc từ ca dao dân tộc, những ẩn dụ, hoán dụ, định ngữ nghệ thuật để tạo
nên yếu tố ước lệ cho ngôn ngữ nhân vật cũng như cho toàn tác phẩm.

Kiến thức văn chương cổ điển được Nguyễn Du và các tác giả thơ Nôm trung đại tiếp
thu, vận dụng đầy sáng tạo, sử dụng linh hoạt, tinh tế đã đem đến cho ngôn ngữ nhân vật và

69
ngôn ngữ tác phẩm của họ sự chuẩn xác và sự thâm trầm, hàm súc, có giá trị nhận thức và
giá trị thẩm mỹ cao. Mỗi điển tích, điển cố chỉ vỏn vẹn vài ba chữ, nhưng lại có khả năng
mở ra những trang đời phong phú, tạo nên nhữhg hình ảnh đẹp, gợi ra những liên tưởng sâu
xa, bởi tiềm ẩn sau những điển tích, điển cố là hình ảnh của biết bao số phận, cuộc đời của
biết bao con người, là chiều sâu của những tư tưởng triết học, là những bài học thâm trầm
của lịch sử, của đời sống, là những hình tượng văn học sinh động. Hai mươi hai câu thơ như
vẽ trước mắt người đọc, người nghe những tấm gương về đạo đức của cổ nhân được phản
ảnh, soi chiếu ở cả hai mặt tốt - xấu, đầy sức thuyết phục. Ý nghĩa của nó tầng tầng lớp lớp,
tác động mạnh mẽ đến nhận thức, lay động sâu xa đến tình cảm. Phương pháp sáng tác này
của Nguyễn Du có cái gì đó rất gần với nguyên lý sáng tác "tảng băng trôi" (típ of iceberg)
của Ernest Hemingway: phần nổi là hai mà phần chìm là tám. Nó chúng tỏ các tác giả
truyện thơ Nôm bác học có một vốn kiến thức Hán học hết sức uyên bác và đạt đến trình độ
bậc thầy trong việc vận dụng kiến thức này.

Vương Ký Đức - một học giả đời Minh ở Trung Quốc khi bàn về Khúc luật đã cho
rằng cái hay của phép dùng điển cố là ở chỗ khéo dùng: phải đạt được tiêu chuẩn "trích dẫn
chính xác, sử dụng xác đáng". Tác giả phải trở thành "một cái lò nấu luyện riêng", nấu luyện
lại các điển cố, biến chúng trở thành những thứ mình đã tiêu hóa. Sau đó căn cứ vào yếu cầu
về nội dung và hình thức của tác phẩm mà dùng: "điển cố nào sáng rõ thì sử dụng kín đáo;
điển cố nào khó hiểu thì sử dụng rõ ràng, khiến cho khi hát lên ai ai cũng hiểu, không cần
phải giải thích". Điều tuyệt diệu nhất của việc sử dụng điển cố là "dùng ở trong câu mà
người không biết, như thiền gia nhúm muối bỏ vào nước, khi uống chỉ cảm thấy rặt có một
vị mặn mà thôi." [123, tr.331-333-334].

Nguyễn Du và các nhà thơ cùng thời dùng điển cố và những kiến thức văn chương bác
học trong tác phẩm của mình đã đến tầm độ của bậc thiền gia "dùng ở trong câu mà người
không biết."!

2.2.TÍNH BÌNH DÂN CỦA NGÔN NGỮ SINH HOẠT ĐỜI THƯỜNG, NGÔN
NGỮ DÂN GIAN TRONG NGÔN NGỮ NHÂN VẬT

Ngôn ngữ nhân vật truyện thơ Nôm bác học không chỉ trang nhã và uyên bác, giàu yếu
tố ước lệ, tượng trưng. Một trong những cái làm nên sức sống tiềm tàng, bền vững và sức
lay động, ngân vang sâu xa của các truyện thơ Nôm bác học trong lòng dân tộc chính là ở
chỗ nhiều nhân vật trong các tác phẩm này đã có một đời sống ngôn ngữ riêng, sống động.

70
Họ nói tiếng nói không chỉ của thời đại mà còn của chính mình. Chính ngôn ngữ của đời
sống sinh hoạt hàng ngày-ngôn ngữ hiện thực tự nhiên - và văn học dân gian Việt Nam đã
đem lại bộ mặt riêng, giọng điệu riêng cho ngôn ngữ nhiều nhân vật, không chỉ ương các tác
phẩm có tính chất tự truyện như Sơ kính tân trang, Truyện Lục Vân Tiên, mà ngay cả trong
những truyện thơ có cốt truyện mượn từ tiểu thuyết Trung Quốc. Tiếng nói đó xuất phát
không chỉ bởi truyện thơ Nôm bác học phát triển trên nền tảng truyện thơ Nôm nói chung,
mà truyện Nôm vốn "là một thể loại sinh thành và phát triển từ cội nguồn văn hoá dân gian"
[61, tr.133]. Tiếng nói đó còn là tiếng vọng từ những biến động lớn lao của cuộc sống, âm
vang vào tác phẩm, đưa đến cho văn học giai đoạn này một sinh khí mới, một nhịp đập mới.

Xã hội Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX với những
phong trào khởi nghĩa nông dân nổ ra liên miên, những cuộc chiến tranh tranh giành quyền
lực giữa các phe phái xảy ra liên tục, với sự xâm nhập của nền kinh tế hàng hóa và cùng với
nó là tư tưởng thị dân... đã làm lung lay tận gốc rễ hệ tư tưởng phong kiến chính thống.

Nhiều nhà văn, kể cả những người xuất thân từ tầng lớp trên của xã hội như Nguyễn
Du, Phạm Thái, Nguyễn Gia Thiều... đã bị ném vào giữa phong ba, bão táp cuộc đời. Rời
môi trường sống nhung lụa, họ trải nghiệm cái khốc liệt "nửa đời nếm trải mọi mùi đắng
cay". Hiện thực cuộc sống sôi động, phong phú, phức tạp mà cũng hết sức gian nan, cơ cực
đã phá vỡ các nguyên tắc sáng tác qui phạm mà trước đây họ được đào tạo và đã tuân thủ.
sống cùng nhân dân, họ có điều kiện làm giàu thêm vốn từ vựng và kinh nghiệm sống, đồng
thời nảy sinh những cảm hứng, những nhu cầu mới trong thể hiện nghệ thuật.

Một trào lưu sáng tác nhân đạo chủ nghĩa trong vãn học Việt Nam đã ra đời, tiếng nói
hướng về con người và nhữhg giá trị của con người, nhất là người phụ nữ, đề cao hạnh
phúc, tình yêu, cuộc sống trần tục, phê phán những thế lực phong kiến tàn bạo, nhữhg cái
ác, cái xấu trong xã hội chà đạp, vùi dập con người.

Quang Trung xuất hiện như "một vì sao lạ" giữa buổi suy tàn của diều đại phong kiến
nhà Lê, đánh đuổi quân xâm lược Xiêm, Thanh, khuyến khích chữ Nôm, châm ngòi cho tinh
thần dân tộc trong văn chương bùng nổ.

Chữ Nôm, thơ Nôm phát triển hơn bao giờ hết. Các nhà thơ trong giai đoạn này đã lập
nên một chiến tích diệu kỳ mà nghìn đời sau, dân tộc Việt Nam còn phải biết ơn họ. Đi
ngược quan niệm truyền thống của giai cấp phong kiến thống trị coi chữ Hán, văn chữ Hán
giữ địa vị độc tôn, bằng thực tiễn sáng tác, họ đã chứng minh một cách hùng hồn khả năng

71
biểu đạt tuyệt vời của tiếng Việt đối với thế giới hiện thực, thế giới tâm hồn, tình cảm. Họ
đã "đăng quang" cho thơ Nôm, đưa tiếng Việt lên hàng ngôn ngữ văn học, nghệ thuật.

2.2.1.NGÔN NGỮ SINH HOẠT ĐỜI THƯỜNG

Các sáng tác thơ Nôm bác học đều ít nhiều đưa tiếng nói đời thường – ngôn ngữ hiện
thực tự nhiên - và một chừng mực nào đó, những yếu tố của văn chương dân gian vào tác
phẩm vã một sự kết hợp hài hòa, nhuần nhị. Rõ nét hơn cả là Truyện Kiều, Truyện Song
Tinh, Truyện Hoa tiên, Truyện Nhị độ mai, Truyện Lục Vân Tiên, thơ Hồ Xuân Hương...đặc
biệt là Truyện Nhị độ mai và các tác phẩm ra đời từ mảnh đất phương Nam, như Truyện
Song Tinh, Truyện Lục Vãn Tiên. Nhờ đó, ngôn ngữ nhân vật truyện thơ Nôm bác học
mang tính hiện thực khá rõ nét.

Truyện Song Tinh đã tái hiện được đời sống của ngôn ngữ giao tiếp thực tiễn. Tác giả
đã dùng lời nói nhân vật để làm mọi công việc của giao tiếp hàng ngày: chào hỏi, xưng
danh, giới thiệu nhân vật, hỏi thăm sức khoe, tình hình đời sống gia đình, nhắc lại lời người
khác, kể chuyện này, chuyện kia, thậm chí, dùng để kêu la, phàn nàn, mắng mỏ... về phương
diện này, sự thể hiện của Truyện Song Tinh có cái gì đó rất gần với cách thể hiện ngôn ngữ
nhân vật trong các truyện thơ Nôm bình dân như: Thạch Sanh, Trê - Cóc, Trinh Thử, Phạm
Công tân truyện v.v... Các nhân vật của Truyện Song Tinh, hầu như ai cũng thích kể chuyện.
Thậm chí, có những tình tiết được kể nhiều đến độ thừa thãi. Kể chuyện - theo Phan Ngọc -
"là một chức năng quan trọng nhất cửa giao tiếp thông thường" [98, tr.123]. Và truyện thơ
Nôm ban đầu "được sáng tác để kể là chính chứ không phải để xem hay để đọc" [87]. Hội
thoại đã góp phần làm chất tự sự của tác phẩm tăng tính khách quan. Những đặc điểm này
rất gần với ngôn ngữ nhân vật trong văn học hiện đại.

Gs. Lê Trí Viễn nói: Truyện Song Tinh "là truyện bác học mà khí vị lại rất dân gian"
[56, tr.8]. Những từ ngữ thuộc lớp từ bình dân và những câu tục ngữ quen thuộc trong lời ăn
tiếng nói hàng ngày đã góp phần tô đậm tính chất hiện thực của tác phẩm. Cuộc trò chuyện
chân tình giữa Giang Ông và Song Tinh, tác giả dùng lối nói bình dân như ngôn ngữ cuộc
sống tự nó vốn có. Giang Ông hỏi Song Tinh về tình cảnh gia đình chàng:

217. "_ ...Chẳng hay điền sản gia tư,

Mẹ con ngày tháng đói no thế nào?

72
Song Tinh kể về gia cảnh, cách nói thanh lịch, nho nhã đấy, .nhưng bình dị, thực đến
từng chi tiết:

225. "Lần hồi muối bạc cơm thô,

Đông chầy áo mỏng, bếp trưa khói tàn".

Nguyễn Hữu Hào còn thực sự có tài trong việc tạo nên "đối thoại một câu" (một lượt
lời nằm gọn ương khuôn khổ một câu thơ) như chúng tôi đã nói ở trận (xem Phần mở đầu,
1.2.2). Thậm chí, chỉ với hai từ thôi, bằng phương thức lặp, trong khuôn khổ một câu thơ,
tác giả tạo nên không chỉ một lời đối thoại mà cả một cuộc hội thoại. Đó là khi ông thể hiện
sự vồ vập, mừng mừng tủi tủi của Nhụy Châu và Thể Vân ngày gặp lại sau bao nhiêu nguy
biến, chuân chuyên:

2137. Nàng cùng Vân thị ngả kề,

Than rằng: "Chị chị!", " Dì dì!" tiếng vang.

Rõ ràng, trong thực tế đã có không ít những lời hội thoại với chỉ một vài từ như vậy. ở
đây, hơi thở của cuộc sống như ùa vào tác phẩm cùng các chi tiết hiện thực.

Còn gì đời thường hơn là giọng nói hồn nhiên, chất phác, thật thà của Ngư Bà trong
Truyện Nhị độ mai khi bà đi gặp quan trở về, mọi người hỏi xem bà đi kiện ra sao?

1699 Bà rằng: "Kiện cáo gì tôi,

"Này này! anh nó vào ngồi với quan!

"Từ rày phường bạn đừng nhờn,

"Đủ trăm văn lý, dư muôn thế trần.

"Giang Khôi rày hẳn biết thân.

"Hôm xưa thầy tớ một sân chịu đòn.”

Kết cấu nghi vấn khẳng định mang hàm ý phủ định (động từ + gì + đại từ nhân xưng)
trong câu "kiện cáo gì tôi" là một kết cấu khẩu ngữ khá điển hình. Những từ ngữ "anh nó, từ
rày, đừng nhờn, hẳn biết thân, hôm xưa" và cả lối dùng hô ngữ "này này!" để tạo sự chú ý
của người nghe là một lối nói hoàn toàn bình dân, trăm phần trăm khẩu ngữ. Ngôn ngữ đời
thường ở đây được dùng rất sinh động, rất tài.

73
Trong Truyện Lục Vân Tiên và các tác phẩm truyện thơ của cụ Đồ Chiểu, chất dân dã,
và đặc biệt là chất Nam bộ cứ theo cái hồn quê chân chất, thuần hậu của cụ mà đi vào tác
phẩm. Buổi đầu gặp gỡ của Kim Trọng - Thúy Kiều, ngôn ngữ khuê các, văn hoa bao nhiêu
thì buổi đầu gặp gỡ của Vân Tiên - Nguyệt Nga, lời thoại mộc mạc, chất phác bấy nhiêu.
Trao trâm cho Lục Vân Tiên, thấy chàng làm ngơ, Nguyệt Nga trách một cách thật thà:

197 Vật chi một chút gọi là,

Thiếp đưa chưa dứt, chàng đà làm ngơ.

Của này là của vất vơ,

Lòng chê củng phải mặt ngơ sao đành.

Vân Tiên trả lời cũng thật thà không kém :

203 Than rằng: "Đó khéo trêu đây,

Ơn kia đã mấy của này rất sang."

Ta có thể bắt gặp tính chất bình dân có mặt trong mọi tác phẩm của giai đoạn văn học
này, đặc biệt rõ nét hơn cả là trong các truyện thơ Nôm khuyết danh, trong Nhị độ mai và
trong Truyện Lục Vân Tiên - một tác phẩm ra đời vào giai đoạn cuối của văn học trung đại.

Ngôn ngữ sinh hoạt đời thường đã góp phần làm nhân vật giàu chất sống, phản ánh
hiện thực cuộc sống sinh động hơn. "Qua phương thức diễn đạt và cách dùng từ ngữ cổ, ta
có thể tìm thấy nhũìig tia hồi quang nào (đó) của đời sống tinh thần và hiện thực của xã hội
Đàng Trong thế kỷ xvn, xvnr (Nguyễn Thị Thanh Xuân)[56, tr.5].

Ngoài ra, khi dùng phương ngữ Đàng Trong với những từ ngữ như: "hôn nhơn", "đọt
cây", "lén dòm", "chốn ni"... hay cách xưng hô "qua - bậu" ("Bậu về qua gửi thăm người
ngọc hay"), cha đẻ của Truyện Song Tinh cũng đã đem lại cho tác phẩm những dấu ấn,
những đặc điểm riêng rất thú vị, độc đáo, mà mãi đến 150 năm sau, ta mới bắt gặp lại trong
tác phẩm của Cụ Đồ Chiểu.

Truyện Lục Vân Tiên là bước chuyển tiếp, chiếc cầu nối giữa văn chương trung đại với
văn học cận đại. Một trong những cái độc đáo, đặc sắc của Lục Vân Tiên cũng chính là cái
chất phương ngôn Nam bộ thấm đẫm tác phẩm:

917 Người rằng: " _ Một gã con trai,

"Ở đâu không biết lạc loài đến đây.

74
"Chơn tay mặt mũi tốt thay,

"Đau chi nên nỗi nước nầy khá thương."

Được ái mộ, lưu truyền khắp lục tình Nam Kỳ, lại là một trong những truyện thơ Nôm
đầu tiên được phiên âm ra chữ quốc ngữ (Janneaux phiên âm năm 1873, Trương Vĩnh Ký
phiên âm năm 1889), Lục Vân Tiên càng có điều kiện để phổ biến rộng rãi trong công chúng
miền Nam. Phải chăng ngôn ngữ bình dị, mộc mạc, gần gũi với đời thường của Nguyễn
Đình Chiểu đã trở thành một trong nhữhg tiền đề đặt nền móng cho những cuốn tiểu thuyết
quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam ra đời ở miền Nam như: "Thầy Lazaro phiền" (1887) của
Nguyễn Trọng Quản, "Phan Yến ngoại sử" (1910) của Trương Duy Toan, "Hoàng Tố Anh
hàm oan" (1910) của Trần Chánh Chiếu và đặc biệt, từ những năm 1920, là sự xuất hiện
rầm rộ của tiểu thuyết hiện đại Việt Nam mà tác gia tiêu biểu đầu tiên là Hồ Biểu Chánh?

Song trong các truyện thơ Nôm bác học, không có sự hòa nhập và kiến tạo mới nào
của yếu tố ngôn ngữ đời thường và văn học dân gian lại đạt được thành tựu rực rỡ, xuất sắc
như Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du.

"Mười năm gió bụi" cùng những năm tháng trở về quê hương sống "dưới chân Hồng
Lĩnh", thâm nhập vào cuộc sống của quần chúng cần lao, Nguyễn Du đã kết tinh những
muối mặn của cuộc đời, đem vào tác phẩm của mình tiếng nói đậm đà bản sắc dân tộc.

Với dụng tâm "tính cách hóa" ngôn ngữ nhân vật, khiến cho "kiểu người nào có lời ăn
tiếng nói của người đó" (Kim Nhân Thụy)[123, tr.234], Nguyễn Du đã dùng ngôn ngữ đời
thường và ngôn ngữ văn học dân gian "khẩu ngữ hoa" ngôn ngữ một số nhân vật, đem lại
cho tác phẩm những tính cách sống động tuyệt vời.

Nếu xem ngôn ngữ bình dân có hai bình diện, ta thấy Nguyễn Du sử dụng hai bình
diện này với những cách khác nhau.

Ở bình diện thứ nhất - đó là thứ ngôn ngữ bình thường của đời sống dùng trong sinh
hoạt, giao tiếp hàng ngày mà ta vừa nhắc đến ở trên. Loại ngôn ngữ này cũng có sắc thái
biểu cảm, nhưng không gay gắt. Nó là thứ ngôn ngữ chung của toàn xã hội, mọi người đều
có thể sử dụng. Không chỉ trong giao tiếp thân mật, mà cả trong giao tiếp mang tính chính
thức xã hội như việc xử kiện ở chốn công đường, ngôn ngữ đời thường cũng được dùng.
Viên quan xử kiện đã dàn xếp gia đình Thúc ông bằng thứ ngôn ngữ hàng ngày:

1461. "Đã đưa đến trước cửa công,

75
Ngoài thì là lý, song trong là tình.

Dâu con trong đạo gia đình,

Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong!"

Không chỉ các nhân vật phản diện hoặc những người thuộc tầng lớp dưới trong xã hội
như Mã Kiều, hoa tỳ nói bằng thứ ngôn ngữ này mà các nhân vật chính diện, kể cả những
người được xây dựng theo lối lý tưởng hóa như Kim Trọng, Từ Hải cũng sử dụng.

Nguyễn Du thường đưa ngôn ngữ đời thường vào những cuộc giao tiếp tự nhiên giữa
các cá nhân trong phạm vi hẹp hoặc những cuộc nói chuyện, tiếp xúc có tính chất thân mật,
gia đình. Lời Từ Hải tâm sự với Thúy Kiều khi nàng tạ ơn là một trường hợp như vậy:

2431. "Huống chi việc cũng việc nhà,

Lọ là thâm tạ mới là tri ân.

Xót nàng còn chút song thân,

Bấy lâu kẻ Việt người Tần cách xa,

Sao cho muôn dặm một nhà,

Cho người thấy mặt là ta cam lòng".

Tiếng nói đời thường đã thể hiện được sự cởi mở, tấm chân tình của Từ Hải đối với
Thúy Kiều.

Chàng văn nhân Kim Trọng "Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa",

"văn chương nết đất, thông minh tính trời" khi vật vã trước nỗi đau mất Kiều đã nói
với gia đình Vương Ông bằng tiếng nói giản dị, chân thành:

2811. Rằng: "-Tôi trót quá chân ra,

Để cho đến nỗi trôi hoa dạt bèo.

Cùng nhau thề thốt đã nhiều,

Những điều vàng đá phải điều nói không?

Chưa chăn gối cũng vợ chồng,

Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang!

Bao nhiêu của, mấy ngày đàng,

76
Còn tôi, tôi một gặp nàng mới thôi!"

Những lời trong sáng, bình dị ấy khiến cho các nhân vật của Nguyễn Du dù đứng ở vị
trí nào trong xã hội cũng thân thuộc, gần gũi, dễ bắt gặp trong cuộc đời.

Song, ở đây, đáng chú ý là loại ngôn ngữ đời thường ở bình diện thứ hai.

Nguyễn Du và các nhà thơ thời này đã đưa vào ngôn ngữ đối thoại, độc thoại những từ
ngữ dân dã từ nguồn từ vựng trong ngôn ngữ nhân dân: "giống hôi tanh", "mắc lận", "ăn
lời", "trăm điều ngang ngửa", "dơ dáng dại hình", "quỉ quái tinh ma ", ''giống yêu ma "nết
quỷ dạ tỉnh "đồ ma trơi"...

Đặc điểm của lớp từ thông tục thuộc phong cách khẩu ngữ tự nhiên nói trên là
chúng mang tính miêu tả cụ thể, giàu hình ảnh, có sắc thái biểu cảm âm tính hết sức rõ nét,
in đậm dấu ấn chủ quan của cá nhân người nói.

Lớp từ vựng này một khi đưa vào ngôn ngữ nhân vật, nó sẽ như một thứ lò xo làm
ngôn ngữ nhân vật phải bật dậy - gai góc, ương ngạnh, sống động vô cùng. Nó thường dùng
để biểu lộ sự phản ứng, lên án, phê phán gay gắt. Nó hay vận dụng một số thành ngữ, tục
ngữ dân gian để tăng thêm độ sắc bén ngôn từ.

Thứ ngôn ngữ này có tần số xuất hiện cao trong những lời nhục mạ, mắng mỏ, chửi
bới, cãi cọ, đe dọa...Đối với những lời xỉ vả, lăng nhục, khẩu ngữ thông tục có một khả năng
hết sức hữu hiệu, do sắc thái biểu cảm của nó rất mạnh.

Tính chất cường điệu, thậm xưng của nhiều câu thành ngữ, tục ngữ dân gian vừa dễ
nêu bật bản chất vấn đề, vừa dễ tạo tính chất ngoa ngoắt trong lời nói. Bởi lẽ, cái ngoa ngoắt
trong lời nói thường do những gì quá đáng, những gì cường điệu tạo nên. Cách dùng từ
thông tục một cách hết sức thoải mái, bất chấp mọi quy tắc xã giao, mọi phép tắc xã hội của
khẩu ngữ tự nhiên cũng tạo nên cái ngoa ngoắt này.

Bên cạnh đó, lối xưng hô của nó thường là một sự vi phạm chuẩn mực ứng xử thông
thường trong giao tiếp. Phép tắc quy ước chuẩn mực là "xưng phải khiêm, hô phải tôn", ở
đây, mọi cái thậm chí hoàn toàn đảo lộn. Người nói xưng "ông", xưng "bà"... còn gọi đối
tượng bị chửi, bị mắng là "đồ", "lũ", "quân", "bọn", "thằng nọ", "con kia"... một cách khinh
thường.

77
Cấp độ ngôn ngữ thứ hai của loại ngôn ngữ bình dân đối chọi chan chát với văn
chương bác học: một bên được xem là ngôn ngữ cao sang, một bên bị coi là ngôn ngữ thông
tục, "hạ đẳng". Trong các truyện thơ Nôm bình dân như "Trê -Cóc", 'Trinh Thử", loại ngôn
ngữ này được sử dụng khá nhiều và đã phát huy hiệu lực một cách tối đa trong việc thể hiện
các cuộc đấu khẩu nhiếc móc, đánh ghen, kiện tụng... Như khi nghe chuột vợ sỉ vả,

Chuột Bạch đỏ mặt tía tai,

Hỏi rằng: "Ai đấy mắng ai chốn này?

Con này chưa biết bà đây,

Lại toan tiếng nọ lời này đành hanh."

(Trinh Thử)

Văn chương chính thống của giai cấp phong kiến hết sức "dị ứng" với khẩu ngữ thông
tục tự nhiên. Ngay trong các truyện thơ Nôm bác học, khi xây dựng ngôn ngữ nhân vật, nó
cũng ít được dùng. Ta chỉ đôi lần bắt gặp sự xuất hiện của nó.

Thành công hơn cả là ngôn ngữ của viên đô đốc trong Sơ kính tân trang khi cầu hôn
Quỳnh Thư bị chối từ:

612. Ông nghe thấy nói trái tai:

" _ Đù òa sấu đá Đồng Nai ngay ngà.

Đây không đáng rể ông già,

Gớm gan đổ đốc có là chi mô!

Trẻ đâu phá cửa bay vô,

Nắm bắt ngó thử náu cô chừng nào ".

Qua câu nói cục súc, thô tục của viên đô đốc, ta thấy rõ tính chất mỉa mai, hăm dọa
của một kẻ cường quyền, tàn bạo, hợm hĩnh và vô học.

Ngoài ra, khẩu ngữ đời thường còn xuất hiện trong cuộc đối đáp giữa Nhạn đồng và
My Oanh. Đây là một cuộc thoại sử dụng hết sức đặc sắc lớp từ thông tục. Mượn cách hiểu
lầm nhau phút đầu, họ đã mạt sát không thương tiếc về bọn người giả tu, giả tiên, giả dạng
văn nhân xưng chữ thánh hiền. My Oanh phê phán giới sư tăng:

1013 " Chùa thấp ụp, Bụt đen sì,

78
Tiểu phềnh bụng gạo, sư bì da rau

Mấy người sãi vãi xấu màu,

Má đen chó đá, mắt sâu sấu sành.

Những tuồng nết quỷ, dạ tinh.

Miệng tuy bồ tát mà lòng dạ xoa!

Phật về Tây Trúc ru mà,

Để cho những giống yêu ma quấy chùa ? "

Nhạn đồng cũng thẳng tay phê phán giới đạo sĩ:

1031 "Người xưng chữ thánh thơ tiên,

Thơ rông chó chạy, chữ nhem cua bò.

Vách vôi đen nhẻm như tro,

Chổi cùn biết mấy, rơm vò biết bao?

Cũng đòi xưng lấy anh hào,

Chước gì nói phét, lệnh nào cấm đi?"

Như vậy, với Phạm Thái, khẩu ngữ thông tục giàu tính hiện thực hoặc chỉ dùng cho
ngôn ngữ nhân vật phản diện, hoặc dùng phê phán những cái xấu xa, đê tiện trong cuộc
sống. Hình thức khẩu ngữ tự nhiên ở đây sử dụng rất thành công. Nhưng nó được dùng để
bày tỏ thái độ châm biếm, khinh thị, căm ghét của tác giả hơn là để xây dựng tính cách nhân
vật, mặc dù, không biết vô tình hay cố ý, việc nhái lại những lời chửi thề, nhái lại phương
ngữ miền Trung và giọng mỉa mai của nhà thơ khi xây dựng ngôn ngữ đối thoại đã góp phần
khắc họa rất thành công tính cách nhân vật viên đô đốc.

Nguyễn Du đưa khẩu ngữ tự nhiên vào ngôn ngữ nhân vật với một ý thức khác. Ông
có ý đồ nghệ thuật hẳn hoi. Và trong Đoạn trường tân thanh, khẩu ngữ tự nhiên là một
phương diện góp phần hoàn thiện ngôn ngữ nghệ thuật của tác giả.

Nhiều nhân vật của Truyện Kiều đã sử dụng cả hai loại ngôn ngữ: quý tộc và khẩu ngữ
thông tục bình dân, kể cả nhân vật chính diện lẫn nhân vật phản diện, đặc biệt là nhân vật
phản diện. Điều này chẳng những phù hợp với hiện thực cuộc sống mà còn giúp cho
Nguyễn Du tạo nên những tính cách hết sức độc đáo, sống động. Nó làm cho những Thuý

79
Kiều, Hoạn Thư, Tú Bà, Sở Khanh... trở thành những nhân vật có ngôn ngữ hai kiểu giọng -
rất đặc sắc.

Nguyễn Du đã khai thác triệt để sắc thái biểu cảm mạnh, tính hình tượng và cái gai góc
của lớp từ khẩu ngữ tự nhiên và thành ngữ tiếng Việt, để xây dựng nên những lời nói nhân
vật sắc cạnh và độc đáo, đặc biệt là các nhân vật lưu manh như Tú Bà, Sở Khanh.

Lời mắng mỏ, xỉa xói của Tú Bà đối với Kiều và Mã Giám Sinh khi biết Kiều thất thân
với Mã là một điển hình bộc lộ cái đặc sắc vô song của tài năng Nguyễn Du trong việc dùng
khẩu ngữ tự nhiên tạo ngôn ngữ nhân vật:

967. "Tuồng vô nghĩa, ở bất nhân,

Buồn mình trước đã tần mần thử chơi.

Màu hồ đã mất đi rồi,

Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma.

Con kia đã bán cho ta,

Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây.

Lão kia có giở bài bây,

Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe!

Cớ sao chịu tốt một bề?

Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao!

Phải làm cho biết phép tao! "

Chỉ một vài từ thông tục như "tần mần", "đi đời nhà ma", "bài bây", "văng vào mặt",
"gái tơ", "ngứa nghề"... Nguyễn Du đã chọn lọc, sắp xếp bên cạnh những từ ngữ "hiền lành"
của ngôn ngữ đời thường, tạo nên một câu nói có một không hai ương lịch sử văn học, cá
tính hóa sâu sắc nhân vật.

Lời mắng mỏ thậm tệ của Tú Bà như "chan tương đổ mẻ" vào mặt Thúy Kiều. Dẫu
không có một lời chửi thề, một từ tục bậy nào, người ta vẫn thấy lời nói của mụ chủ chứa
hết sức nanh nọc, côn đồ, tục ưu, thô bỉ. Nguyễn Hiến Lê cho rằng: "Đoạn Tú Bà nổi giận

80
lôi đình với Thúy Kiều là một đoạn tả những lời thô tục nhất mà phi cụ (Nguyễn Du) ra,
không ai viết được thành thơ" [77, tr.10].

Qua tác phẩm của Nguyễn Du, ta thấy lớp từ khẩu ngữ thông tục, phụ nữ hay dùng
hơn nam giới, nhất là khi họ có quyền lực trong tay, còn đối tượng được đề cập đến trong
lời nói kia là kẻ thất thế, chịu lép một bề trước quyền lực của họ. (Ngay cả Thúy Kiều khi
trở thành phu nhân của Từ đại vương, trong buổi báo ân, báo oán, cũng có những lời mỉa
mai địch thủ - cô tiểu thư họ Hoạn!).

Duy nhất có một người đàn ông trong tác phẩm dùng thứ ngôn ngữ này -đó là gã lưu
manh Sở Khanh.

Có thể nói, nhận ra lớp từ khẩu ngữ thông tục gai góc, sinh động, gây ấn tượng mạnh
rất có ưu thế trong việc xây dựng ngôn ngữ cho những nhân vật lưu manh như Tú Bà, Sở
Khanh... là một phát hiện của Nguyễn Du. Ông là người đầu tiên xây dựng hình tượng nhân
vật lưu manh trong văn học Việt Nam rất thành công, mở đường cho những Chí Phèo, Xuân
Tóc Đỏ ra đời sau này trong văn học hiện đại.

Cũng duy nhất có một lần, nhân vật sử dụng ngôn ngữ góc cạnh không phải là kẻ nắm
quyền uy mà là người lép vế. Đó là Thúy Kiều khi vạch mặt sự nhàng nháo, tráo trở, vô sỉ
của Sở Khanh:

1181. "Đem người đẩy xuống giếng khơi,

Nói rồi, rồi lại ăn lời được ngay!

Còn tiên "tích việt" ở tay,

Rõ ràng mặt ấy mặt này chứ ai!”

Kiểu nói "rõ ràng mặt ấy mặt này chứ ai" dường như không hợp với tính cách đoan
trang của một người con gái sinh trưởng trong một gia đình nề nếp như Thúy Kiều. Nhưng
đây là một sự phản kháng gay gắt, quyết liệt biểu hiện sự phẫn uất, khinh bỉ đến tột cùng.
Cũng rất đáo để! Nhưng là cái đáo để của người hiền lương ở trong tình cảnh "con giun xéo
lắm cũng quằn". Dù dùng khẩu ngữ tự nhiên để tỏ thái độ phản ứng gay gắt, ngôn ngữ của
nàng vẫn là ngôn ngữ của con nhà gia giáo, không rơi vào cái thô tục như ngôn ngữ của Tú
Bà, Sở Khanh.

Vậy là, trong Truyện Kiều, thứ "ngôn ngữ bất chấp" này được sử dụng chủ yếu cho
nhân vật phản diện trong lúc chúng tức giận hoặc giả bộ tức giận, hay khi muốn tỏ rõ quyền

81
uy. Nó được dùng cho bọn lưu manh, côn đồ khi chúng "lật bài ngửa", tự lột mặt nạ - như
Sở Khanh; cho những kẻ hành nghề bất lương khi chúng nổi giận, bất bình vì bị đụng chạm
tới quyền lợi - như Tú Bà; cho những kẻ có quyền thế bị đụng chạm tới sự tự ái cá nhân -
như Hoạn Thư; hoặc muốn ra oai thị uy trước người khác - như Hoạn Bà.

Cũng có khi nhân vật chính diện cũng dùng lớp từ khẩu ngữ tự nhiên - như trường hợp
Thúy Kiều chẳng hạn. Đó là khi con người phẫn nộ đến tột cùng, không còn biết sợ là gì
nữa. Nhưng, ở trong cảnh yếu thế, họ sử dụng loại ngôn ngữ trên như một vũ khí phản
kháng, đấu tranh. Hạnh Nguyên trong Nhị độ mai khi tỏ sự phẫn uất, bất bình của mình đối
với Lư Kỷ cũng có cái giọng mỉa mai gay gắt như vậy.

Trong hoàn cảnh xung đột ít gay gắt hơn, và ở thế chủ động, có khi, họ vẫn dùng nó -
nhưng ở mức độ nhẹ nhàng và có phần lịch lãm hơn - để thể hiện một thái độ phản ứng nào
đó. Chẳng hạn khi Kiều cảnh cáo Hoạn Thư trong buổi báo oán, báo ân...

Có thể nói, khi cọ xát với hiện thực cuộc sống, nhất là khi thể hiện những gồ ghề,
những góc tối của nó, ngôn ngữ ước lệ giàu tính cách điệu, hào hoa, công thức hoặc là đành
bất lực, hoặc là không đủ khả năng biểu đạt một cách thấu đáo, nhất là thể hiện một cách
chính xác, tinh vi sắc thái tình cảm ở mọi phương diện, góc độ. Đó chính là lúc ngôn ngữ
bình dân "lên ngôi", phát huy toàn bộ sức mạnh mà nó vốn có.

Nhờ cái nhìn khách quan tôn trọng hiện thực và sự táo bạo, cách tân trong thể hiện
hình tượng nghệ thuật, Nguyễn Du đã dùng ngôn ngữ sinh hoạt đời thường và văn học dân
gian để tái hiện lớp khẩu ngữ tự nhiên trong ngôn ngữ nhân vật với tất cả những dạng vẻ của
nó "dưới hình thức của bản thân đời sống". "Thực tiễn cuộc sống là cơ sở quyết định tính
chất ngôn ngữ" [81, tr.240], hình thức ngôn ngữ của con người. Sự sôi động, phức tạp nhiều
vẻ, nhiều màu của cuộc sống đã chọc thủng được bức thành trì ngôn ngữ ước lệ của văn
chương trung đại, ùa vào tác phẩm. Nhờ thế, nhiều nhân vật Truyện Kiều có ngôn ngữ hết
sức sinh động, hiện thực, thậm chí hết sức độc đáo, đặc biệt là đối với những nhân vật sử
dụng hai kiểu giọng, ở đây, ta có thể thống nhất với ý kiến của Gs. Nguyễn Lộc: "Ngôn ngữ
có nhiều thành phần hiện thực chủ nghĩa trong Truyện Kiều được sử dụng nhiều hơn cho các
nhân vật phản diện. Đối với các nhân vật chính diện, thì thành phần ước lệ trong ngôn ngữ
bị phá vỡ và thành phần hiện thực chủ nghĩa được tăng cường khi con người đi sâu vào cuộc
sống nhiều xung đột" [88, tr.70].

82
Khi sử dụng ngôn ngữ thông tục, có những cái, ca dao, tục ngữ, truyện cười, truyện
tiếu lâm... có thể tiến đến nói thẳng toét. Nhưng tác giả truyện thơ Nôm bác học luôn giữ
được cái "ngưỡng", cái độ dừng cần thiết. Đó là độ dừng có tính chất đặc điểm của truyện
thơ Nôm bác học. Ta nhớ tác giả của nó là những nhà nho, phần lớn thuộc tầng lớp phong
kiến quý tộc, quan niệm văn chương phải trang nhã, uyên bác...

Xây dựng thành công ngôn ngữ mang phong cách khẩu ngữ tự nhiên chính là một
thành công của Nguyễn Du và các tác giả Truyện thơ Nôm bác học trên phương diện xây
dựng hình tượng nhân vật văn học. Đặc điểm này thể hiện đặc biệt rõ trong các tác phẩm
truyện thơ Nôm khuyết danh và các tác phẩm xuất hiện cuối thời kỳ Trung đại như Truyện
Lục Vân Tiên.

2.2.2.NGÔN NGỮ VĂN HỌC DÂN GIAN

Cũng như truyện thơ Nôm bình dân, truyện thơ Nôm bác học không chỉ mang dâu ấn
của văn học dân gian qua thể thơ lục bát, mô hình cấu trúc "gặp gỡ - tai biến - đoàn viên",
lối kết thúc có hậu, cách sử dụng một số yếu tố thần kỳ, ngẫu nhiên, chủ đề được đề cập tới
là chủ đề tình yêu với đầy khát vọng nhân văn hay cách thể hiện về hình thức, tính cách các
nhân vật chính... Với ngôn ngữ nhân vật, ảnh hưởng lớn nhất của văn học dân gian là sự có
mặt của các câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân ca trong lời nói.

2.2.2.1.Sự có mặt của thành ngữ, tục ngữ trong lời nói:

Một trong những đặc điểm của khẩu ngữ tiếng Việt là nhân dân ta rất ưa sử dụng
thành ngữ, tục ngữ trong lời nói.

Tính chất nhịp nhàng, hài hòa, cân đối cả về thanh điệu lẫn về ý nghĩa, tính chất hình
tượng, tính chất ngắn gọn, hàm súc của nhũng thành ngữ, tục ngữ rất phù hợp với tiết tấu lối
nói hoạt bát, giàu hình ảnh, ưa ví von của nhân dân ta, đồng thời lại dễ đưa vào khuôn khổ
của thi ca. Hình tượng của thành ngữ so sánh thường sinh động, chân xác. Thành ngữ, tục
ngữ mang nội dung đánh giá hiện thực khá rõ rệt. Nhờ đó mà nó tác động trực tiếp đến sự
tiếp thụ, đến cảm giác của người nghe.

Trong truyện cổ tích, theo Gs. Đặng Thanh Lê, ngôn ngữ nhân vật "thường là những
câu ca dao, tục ngữ hay những câu vè" "chủ yếu xuất hiện dưới dạng thông báo hơn là đối
đáp" [81, tr.233].

83
Trong các truyện thơ Nôm bình dân, thành ngữ, tục ngữ được sử dụng rất thông dụng,
bởi thực chất, truyện thơ Nôm bình dân chính là một trong những thể loại của văn học dân
gian - thể loại truyện thơ. Tiêu biểu hơn cả là "Trinh Thử". Tác phẩm này có không ít những
đoạn thành ngữ, tục ngữ ken dày, quyện chặt trong ngôn ngữ nhân vật. Chẳng hạn đoạn
chuột cái trách móc chồng phụ tình, phụ công mình:

"...Chẳng ưa cà chín bầu già,

Tuổi đà dư lạp, lịch đà quá niên.

Có trăng nên nỗi phụ đèn,

Chẳng ngon thể sốt, thể liền bén hơi.

Cười ra nước mắt hổ ngươi,

Khen ai khéo đặt nên lời ví xưa :

Còn duyên kẻ đón, người đưa,

Hết duyên vắng ngắt như chùa bà Đanh.

Thế tình chuộng lạ, tham thanh,

Thân tiên, thân cú ra hình xấu chơi.

Cầu Nôm đồng thủng lạ đời,

Kẻo còn nhọc xác mệt người xông pha.

Cắn đuôi tha trứng gần xa,

Cái thân tất tả như bà đánh ong.

Dã tràng xe cát luống công,

Tò vò nuôi nhện khá mong cậy nhờ."

Nhờ cách sử dụng ngôn ngữ đời thường và tục ngữ, thành ngữ, ca dao, lời nói của
chuột vợ ở đây trở nên rất sống động, giàu hình ảnh, góp phần lột tả được tính cách đáo để
và "cái ghen bình dân" của nhân vật. Tuy nhiên, dâu ấn của văn học truyền miệng ương tác
phẩm còn khá đậm nét: ngôn ngữ mộc mạc, thuần phác, chưa có được cái chau chuốt điêu
luyện như truyện thơ bác học.

Tác giả truyện thơ Nôm bác học cũng sử dụng khá nhiều tục ngữ, thành ngữ trong lời
nói nhân vật: "Khế sung cũng thể một lòng", "Vào tai ra miệng, khá hay luật lề", "Chờ khỉ

84
gió cả bẻ cây", "Lại e mất thỏ họa lây đến rừng" (ST), "Gần chùa gọi Bụt là anh", "Để ai
tan nghé rẽ đàn vì ai?", "Ong trong tay áo có người" (NĐM), "Tre còn măng mất lẽ nào cho
cân", "Thương thay tiền mất tật còn"(LVT), "Tiếc thay thân cái dã tràng luống công"
(HT)...

Đưa thành ngữ, tục ngữ vào ngôn ngữ nhân vật truyện thơ Nôm bác học, cảo nhà thơ
chẳng những đã tái hiện một cách sinh động đời sống ngôn ngữ tự nhiên của nhân dân ta mà
còn làm cho ngôn ngữ, suy nghĩ của nhân vật thêm thâm trầm, hàm súc, giàu hình ảnh.

Khái quát cái bi kịch xã hội ghê gớm của thời buổi xã hội phong kiến suy tàn, Giang
Ông trong Truyện Song Tinh cay đắng thốt lên:

1679. "Non mòn vì bởi hơi thu,

Nó dùng nước lã vã hồ trêu ngươi.".

Cả một nghịch lý, một sự trớ trêu: ngọn núi đồ sộ, vững chãi là thế, bão táp không thể
chuyển lay, lại bị bào mòn, chết dần bởi cái hơi nước mong manh, vô hình, lạnh lẽo. Những
tấn bi kịch của lịch sử: nhiều bậc đại nhân, nhiều đấng anh hùng từng bị hãm hại bởi mẹo
vặt và sự xúc Xiểm của những kẻ tiểu nhân, hạ tiện. Câu thơ khiến người đọc không khỏi
bùi ngùi nhớ đến bi kịch thảm khốc của Nguyễn Trãi.

Cách sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong ngôn ngữ nhân vật của truyện thơ Nôm bác học
thường nhuần nhuyễn, uyên bác hơn truyện thơ Nôm dân gian và các tác gia sử dụng cũng
hết sức linh hoạt. Có khi các nhà thơ sử dụng theo dạng nguyên khối, có khi dùng tục ngữ
theo lối giữ ý nhưng đảo từ, lại có lúc, họ tách thành ngữ, tục ngữ ra, đan kết vào lời nói
nhân vật, làm cho ngôn ngữ nhân vật truyện thơ Nôm bác học khi nói, tự nhiên như lời nói
bình thường không có dấu vết của sự gia công, dàn xếp, nhưng vẫn đạt được mục đích mỗi
lời nói chuyển tải một triết lý sống, một kinh nghiệm sống... Như khi Ngư bà trong Truyện
Nhị độ mai khuyên chàng Xuân Sinh:

1477 " Thôi đừng quản thiệt tham hơn,

Băn khoăn kén cá, phàn nàn chọn canh.

Hoặc khi Trịnh Hâm có vẻ coi thường những lời của ông Quán, ông đã đáp:

85
"Quán rằng: "Sấm chớp mưa rào, Ếch ngồi đáy giếng thấy bao lăm trời. Sông trong cá
lội thảnh thơi, Xem hai con mắt sáng ngời như châu. Uổng thay đơn gảy tai trâu, Nước xao
đầu vịt gẫm âu nực cười.

Một loạt các thành ngữ "Ếch ngồi đáy giếng", "Đơn gảy tai trâu", "Nước đổ đầu vịt"
được sử đụng dồn dập khiến lời nói của ông Quán tuy ngắn gọn mà đầy nội lực và sức công
phá, trở thành những miếng đòn đích đáng đối với nhữhg kẻ hẹp hòi, ngu dốt mà lại kệch
cỡm, kênh kiệu. Trong câu nói của ông Quán hiện lên rõ mồn một gốc gác nông dân cũng
như tính mộc mạc, thẳng thắn của ông. Đồng thời, cảnh tượng, khí hậu miền đồng quê Nam
Bộ và nét đặc tnửig văn hoa vùng lúa nước Việt Nam đã theo chân những câu tục ngữ,
thành ngữ của ông mà ùa vào tác phẩm.

Đặc biệt là lời nói đầy khí vị chua chát, ngao ngán của Thể Vân (Truyện Song Tinh)
khi nói về thứ hạnh phúc hão mà cô được hưởng đêm tân hôn: vợ chồng mỗi người một
phòng, và đức lang quân, lòng đang hướng về người khác.

2159. Vân rằng: "Khát đứng bờ ao,

"Đói ăn bánh vẽ, chiêm bao thấy vàng!

"Đèn xuyên hang tối không tường ,

"Dép xuyên khăn sửa, lẽ thường ai suy."

Chính những "ẩn dụ hoá thạch" (fossilized metaphors) của một số câu thành ngữ, tục
ngữ đã làm toát lên cái nghĩa hàm oan từ câu "dép xuyên khăn sửa" (khi đi qua ruộng dưa
cúi xuống sửa dép, khi đi dưới cây mận mà đưa tay sửa khăn, thì bị người ta nghi) và sự
hẫng hụt, bẽ bàng của tâm trạng "khát đứng bờ ao, đói ăn bánh vẽ" của nhân vật. Đó không
phải là hạnh phúc. Đó là một cực hình, như "cực hình Tăngtan" (5) trong thần thoại Hy Lạp.
Những câu tục ngữ ỏ đây được sử dụng rất đắt. Nó giúp nhân vật diễn tả được một cách
ngắn gọn, súc tích, đích đáng sự vật, hiện tượng và tâm trạng, gọi đúng tên của nó, làm cho
ngôn ngữ và tính cách nhân vật có chiều sâu, đồng thời tạo được mỹ cảm ở người đọc.

Nhiều câu nói của nhân vật Truyện Kiều thật khó phân biệt được đâu là ảnh hưởng của
văn học dân gian đến thơ Nguyễn Du, đâu là ảnh hưởng theo chiều ngược lại. Bởi ngôn ngữ
nhân vật của Nguyễn Du giàu triết lý sống, nên nó đã đi vào lòng dân tộc, biến thành tục

5
"Le supplice de Tantale": chỉ nỗi đau khổ cửa một con người theo đuổi kiên trì một mục đích mà không sao đạt được
hoặc khi tưởng chừng như gần đạt được thì lại thất bại.

86
ngữ, thành ngữ, sấm ngữ của nhân dân! Đọc những câu tục ngữ này, chúng ta thường có
cảm tưởng như vậy: "Thịt da ai cũng là người", "Thân lươn chẳng quản lấm đầu", "Chữ
trinh đáng giá ngàn vàng", "Lòa yếm thắm, ai lòa trôn kim"... [22].

Vốn kiến thức dân gian được các tác giả truyện thơ Nôm bác học huy động đưa vào
tác phẩm hết sức phong phú, đa dạng. Thành ngữ Hán cũng được họ sử dụng đầy sáng tạo.

Có lúc, các nhà thơ sử dụng trong ngôn ngữ nhân vật các thành ngữ Hán -Việt đã được
Việt hóa: "Ván đã đóng thuyền", "Ai khảo mà xưng", "Cao chạy xa bay", "Gạn đục khơi
trong"... [12].

Có khi các thi gia sử dụng những thành ngữ Hán -Việt ở dạng nguyên mẫu. Hầu hết
chúng là những thành ngữ đã khá quen thuộc đối với đời sống hoặc đối với văn chương Việt
Nam:

207. _ Xem thơ nức nỏm khen thầm:

Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường!"

604. _ "Để lời thệ hải minh sơn,

Làm con trước phải đền ơn sinh thành."

Hoặc dùng thành ngữ Hán ở dạng gần nguyên mẫu:

3065. - "Gặp cơn bình địa ba đào,

Vậy đem duyên chị buộc vào duyên em"

(Bình địa phong ba)

Có khi, các nhà thơ đan xen thành ngữ Hán vào lời nói nhân vật:

3210. "Tẻ vui bời tại lòng này

Hay là khổ tận đến ngày cam lai."

( Khổ tận cam lai)

Song, trong truyện thơ Nôm bác học, chủ yếu các nhà thơ sử dụng thành ngữ Hán -
Việt dưới dạng dịch sang tiếng Việt, vừa nhẹ nhàng, thanh thoát, ai cũng có thể hiểu được,
vừa khiến cho ngôn ngữ nhân vật thêm hình ảnh, mỹ lệ, khúc chiết mà vẫn hết sức tự nhiên:
"Mà lòng tạc dạ ghi xương" (NĐM), "Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ", "Nghe ra ngậm
đắng nuốt cay thế nào", "Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng" (T. K).

87
Những thành ngữ ra đời từ các điển cố văn học như:

- "Châu về Hợp Phố" (châu hoàn Hợp Phố).

- "Gương vỡ lại lành" (Phá kính trùng thiên). (T.K)

- "Giơ búa nhà Ban" (Ban môn lộng phủ). (ST)

đem lại cho ngôn ngữ nhân vật cái súc tích, triết lý của tục ngữ, thành ngữ, đồng thời mở ra
một thế giới liên tưởng thú vị do điển cố tạo ra. Có khi, từ những thành ngữ bình thường,
Nguyễn Du đã kiến tạo nên những câu thơ tuyệt vời trong ngôn ngữ độc thoại nội tâm để
diễn tả tâm trạng nhân vật. Như trường hợp câu thành ngữ "ngẫu đoạn ti liên" (ngó đứt tơ
còn vương) đã chắp cánh cho tứ thơ của ông bay lên, mà tình cảm của nhân vật thì lắng sâu,
thấm thía:

2241. "Tiếc thay chút nghĩa cũ càng

Dầu lìa ngó ý còn vương tơ lòng."

Nhiều câu tục ngữ, thành ngữ các thi sĩ sử dụng trong ngôn ngữ nhân vật có khả năng
diễn đạt chính xác tuyệt vời những kinh nghiệm, những quy luật tâm lý xã hội và con người
ương đời sống.

Ngay trong ngôn ngữ của một bà già bình dân - mụ quản gia trong Truyện Kiều - cũng
chứa đựng một kinh nghiệm sống muôn thuở:

1755. "Ở đây tai vách mạch rừng,

(Thấy ai người cữ cũng đừng nhìn chi)

Kẻo khi sấm sét bất kỳ,

Con ong cái kiến kêu gì được oan."

Câu tục ngữ "tai vách mạch rừng (dừng)", "rừng có mạch, vách có tai" của dân tộc ta
đi từ một nhận xét, một sự cảnh tĩnh: tin tức dễ bị lộ, dễ lan truyền, đến một sự nhắc nhở:
phải biết giữ mồm, giữ miệng để giữ thân, để tránh tai họa hoặc những điều phiền toái... Trừ
Sơ kính tân trang là một tác phẩm hầu như không sử dụng ca dao, tục ngữ ( 6), câu tục ngữ
này xuất hiện trong hầu hết các tác phẩm truyện thơ Nôm bác học như Hoa tiên (Mạch rừng
bưng bít cho hay chẳng vừa), Nhị độ mai (Chỉn e tai vách mạch rừng), Truyện Song Tinh
6
Sơ kính tân trang chỉ có một lần sử dụng một câu tục ngữ:
1010.Oanh rằng: "_ Đồng chẳng biết đây,
Người nay ba đấng, của nay ba loài"

88
(Mạch rừng tai vách khôn ngừa tiếng bay), Truyện Phan Trần (Thưa rằng: "Rừng vách
mạch tai") và một số truyện thơ Nôm dân gian (chẳng hạn truyện Trinh Thử. Bây giờ rừng
mặt vách tai).

Ta còn có thể bắt gặp từ Đông sang Tây những câu tục ngữ có cùng nội dung, thậm chí
cùng một hình thức thể hiện như vậy. Tục ngữ Trung Quốc, Hàn Quốc, Anh, Pháp, Nga đều
nói: "Những bức tường có tai". Tục ngữ Thái Lan, Nhật có cùng một cách diễn đạt: "Tường
có tai, cửa có mắt".

Có sự giống nhau trong ý tưởng và cách thể hiện một số câu thành ngữ, tục ngữ ở các
nước khác nhau, thậm chí rất xa nhau về mặt địa lý, dường như ở đây không chỉ là vấn đề
ảnh hưởng, vay mượn lẫn nhau giữa các dân tộc trong quá trình giao lưu văn hóa mà có thể
do nguồn gốc chung ương lịch sử hình thành và phát triển (của một số dân tộc), nhất là do
nhữag điều kiện lịch sử xã hội nào đó giống nhau đưa đến những kinh nghiệm sống, kinh
nghiệm lịch sử xã hội, những quy luật tâm lý chung (Chu Xuân Diên)[22, tr. 56-58]. Nhưng
trước hết, theo chúng tôi, đó là do con người có nhữhg quy luật tư duy, quy luật về cơ chế
liên tưởng so sánh, quy luật về tâm lý: ở nước nào, con người cũng vui thì cười, buồn thì
khóc, tình yêu tan vỡ thì đớn đau... Ở nước nào cũng có người điềm đạm, kẻ ba hoa, người
trung thực và kẻ dối tri... Và ở nước nào, thời đại nào, cái vạ miệng cũng là một điều đáng
sợ, nhất là trong nhữhg xã hội đang ở thời buổi rối ren, loạn lạc. Đó là điều nhức nhối, là nỗi
đau muôn thuở, là bi kịch ngàn năm...

Đặc biệt, ngôn ngữ nhân vật Truyện thơ Nôm bác học có những câu khái quát thế sự,
nhân tâm, không những tục ngữ Việt Nam đúc kết bằng nhiều cách mà tục ngữ các nước
khác cũng có rất nhiều cách biểu đạt. Chẳng hạn, khi Kiều nhận ra tâm địa của Hoạn Thư:

1815. "Bề ngoài thơn thớt nói cười,

Mà trong nham hiểm giết người khống dao."

Ta có thể gặp không ít phương thức thể hiện tương tự trong tục ngữ nước ta:

_ Miệng mật, lòng đao.

_ Miệng than thớt, dạ ớt ngâm.

_ Miệng Nam mô, bụng bồ dao găm.

_ Khẩu Phật, tâm xà...

89
Và, Nguyễn Du đã đóng góp vào kho tàng văn học dân gian Việt Nam một cách diễn
đạt mới, trên cơ sở những gì ông đã kế thừa và học tập từ văn học dân tộc.

Cùng nội dung trên, ương folklore của nhiều nước khác cũng có muôn vàn hình thức
biểu hiện.

Tục ngữ Trung Quốc:

( Chủy điềm tâm khổ.)(Miệng ngọt ngào, dạ đắng cay.)

(Tiếu lý tàng đao.) (Trong nụ cười giấu gươm giáo.)

(Khẩu mật phúc kiếm.) (Miệng mật lòng gươm.).

Tục ngữ Nga có ít nhất là sáu cách phô diễn. Chẳng hạn:

(Trên lưỡi: mật ong, trong trái tim: băng giá).

(Nói theo kiểu chim họa mi, làm theo kiểu con rắn).

[8, tr.67]

(Nhìn thì như cái cách của cừu, bốc mùi thì như cái cách của sói.)

Tục ngữ tiếng Anh cũng tạo cho mình một lối đi riêng:

_ A honey tongue, a heart ofgall. [121, tr.248]

(Lưỡi mật ong, trái tim mật đắng (7).)

Tục ngữ Đức diễn đạt hơi khác một chút:

_ Das herz denkt oft anders, als der Mund redet. [65, tr.42]

7
Chúng tôi tạm dịch các câu tục ngữ Nga, Anh trong luận án với sự giúp đỡ cửa các giáo viên tiếng Nga và tiếng Anh.

90
(Thường lòng nghĩ khác, mồm nói khác).

_ Im Munde Bibel, im herzen bel.[65, tr.34]

(Miệng cầu kinh, lòng không minh).

Tục ngữ Thái Lan:

(Phiên âm: "Pạk pra sẩy chây shướt kho").

(Ngoài miệng nói tốt, trong lòng muốn cắt cổ người ta.).

Chắc chắn là trong ngôn ngữ của các dân tộc khác còn nhiều câu tục ngữ thú vị cùng
biểu đạt nội dung trên. Và tất cả "mọi con đường đều dẫn tới La Mã".

Hiện tượng đó nói lên điều gì? Loại người nhân hậu, tử tế bề ngoài mà lòng dạ độc ác,
thâm hiểm một cách đáng sợ như Hoạn Thư ở thời đại nào, xã hội nào, dân tộc nào, cộng
đồng nào ta cũng có thể bắt gặp. Trong nhận xét của Kiều về Hoạn Thư, có sự gặp gỡ về
mặt trí tuệ - và trên phương diện nào đó, cả về tình cảm - của nhân dân ta với nhân dân
nhiều dân tộc khác trên thế giới trong quá trình nhận thức về nhân tình, thế thái.

Truyện thơ Nôm bác học có khá nhiều câu nói, ý nghĩ chứa đựng ý nghĩa triết lý như
vậy, đặc biệt là những câu thể hiện sự nhận xét, suy ngẫm về cuộc đời, về sự đời. Đó cũng
là một trong những lý do khiến cho không ít những câu thơ của các truyện thơ Nôm giai
đoạn này, đặc biệt là Truyện Kiều, "có khả năng sống ngoài ngữ cảnh, nhập vào ngôn ngữ
hàng ngày của nhân dân", "có thể áp dụng cho vô số trường hợp" [98, tr.78].

Tục ngữ là "túi khôn muôn đời", là sự đúc kết hàm súc, kết tinh trí tuệ nhân dân về
phương châm xử thế, quan niệm về cuộc sống, kinh nghiệm lịch sử xã hội... của mỗi dân
tộc. Nó ngắn gọn, sáng sủa, giản dị, gần với lối cảm nghĩ, diễn đạt của nhân dân hơn bất kỳ
thể loại nào khác.

Tục ngữ là con đường ngắn nhất để đi đến bản chất của một con người, một hiện
tượng, một sự việc thông qua một phán đoán, một cách nhìn. Là một hiện tượng ý thức xã
hội, tục ngữ phản ánh thực tế xã hội của môi trường sản sinh ra nó. Vì vậy, "Tục ngữ tiêu
biểu cho lối suy nghĩ của dân tộc về các vấn đề của cuộc sống." [67, tr.28]. "Theo nhà
nghiến cứu tục ngữ Nhật Bản Ôtôô Hưdii, tục ngữ là thơ của đạo lý dân gian, làm cuộc sống

91
thường ngày thêm ý vị. Do đó, tục ngữ chỉ có thể sản sinh và nảy nở trong những thời kỳ
rung cảm với thơ để thể hiện những tình cảm và ý nghĩ phổ biến, khi đời sống mang nhiều
tính tập thể hơn cá nhân."[97, tr.130].

Thiên Nam ngữ lục có một câu thơ nói về giá trị nhận thức của tục ngữ:

"Phương ngôn nói một hay mười.".

Người Tây Ban Nha cũng cho rằng: "Tục ngữ là những câu nói ngắn nhưng sử dụng
tốt gấp mười lần một quyển sách dày". "Ai nói bằng tục ngữ, (người đó) có thước để đo mọi
vật, và họ luôn luôn nói trúng vấn đề "[65, tr.5].

Đưa thành ngữ, tục ngữ vào lời nói nhân vật, "tác phẩm của Nguyễn Du chứa đựng
một tầm độ, triết lý sâu sắc do nội dung có ý nghĩa khái quát nhiều phương diện quy luật
của cuộc sống xã hội, của số phận con người và của tâm lý, tính cách nhân vật" (Nguyễn
Lộc)[86, tr.244]. Bởi tục ngữ "nói bằng toàn bộ sức mạnh của nội dung của nó"(Lênin)[76,
tr.36].

Sự gặp gỡ của thành ngữ, tục ngữ giữa các dân tộc đã khiến thành ngữ, tục ngữ nói
riêng, văn học nói chung trở thành một trong những nhịp cầu nối liền các nền văn hóa, bởi
"mọi sự giao tiếp của con người đều lấy sự giống nhau của cảm giác con người làm tiền
đề"(Lênin)[76, tr.32] và "giữa nhữtig nền văn hóa khác nhau vẫn có những chân lý và tình
cảm thân thuộc với tất cả chúng ta" (Sybil Marcus)[51,tr.7].

Nhờ sử dụng thành ngữ, tục ngữ, Truyện Kiều và ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều
không những nói đúng mà còn nói rất ngắn gọn, rất hay, rất gần gũi, rất tâm lý về nhiều vấn
đề của cuộc sống. Chính đặc điểm này là một trong những lý do cơ bản khiến nhân dân ta
hết sức yêu thích, ngưỡng mộ Truyện Kiều. Người ta đố Kiều như nhân dân nhiều dân tộc
trên thế giới đố kinh tôn giáo: người Tây phương đố Kinh Thánh, người Ẩn đố Kinh Ấn Độ
giáo [139, tr.79]. Người ta bói Kiều như bói Kinh Dịch [101, tr.181].

Trong nền văn học thế giới, không nhiều tác phẩm văn học có được cuộc sống sôi
động, kỳ lạ trong lòng dân tộc của mình như Truyện Kiều đối với dân tộc Việt Nam.

Sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong đối thoại, các nhân vật truyện thơ Nôm bác học trở
nên sống động hơn, thông minh hơn, cách nói tự nhiên gần với lối nói trong cuộc đời hơn.
Các nhà thơ đã sáng tạo được nhiều câu nói hết sức ngắn gọn, sắc bén, trí tuệ, đầy tính triết
lý và đầy sức thuyết phục, vừa bộc lộ được bản sắc văn hóa dân tộc, lối tư duy, cách cảm,

92
cách nghĩ của người Việt, vừa mở ra con đường để truyện thơ Nôm bác học có những nhân
vật có thể gặp gỡ với các nhân vật trong văn học thế giới.

2.2.2.2.Ca dao dân ca trong ngôn ngữ nhân vật

Nếu như tục ngữ, thành ngữ giúp truyện thơ Nôm bác học thể hiện một cách đặc sắc
nội dung tư tưởng giàu tính triết lý của tác phẩm, thì ca dao, dân ca lại giúp các nhà thơ một
cách đắc lực khi thể hiện nội dung trữ tình phong phú của nó. Một trong những nguyên nhân
chính dẫn đến hiện tượng này là tục ngữ Việt Nam hầu như thiếu hẳn mảng nói về tình yêu.
Rất ít khi ta tìm thấy những câu kiểu như:"xa mặt cách lòng", "càng thắm thì càng mau
phai, thoang thoảng hoa nhài mà lại thơm lâu"... Ca dao, với không gian của câu chữ rộng
dài hơn, cho phép người ta nói vòng, diễn đạt tình cảm theo kiểu phương Đông: "vẽ mây
nẩy trăng". Trong ca dao, người ta có thể tìm thấy sự diễn đạt tình cảm ở mọi cung bậc.

Xuân Diệu coi ca dao là "thơ của vạn nhà" [156, tr.22].

Khổng Tử - người được tôn xưng là "vạn thế sư biểu" - đã từng khuyên học trò: "Bất
học Thi, vô dĩ ngôn" (không học Kinh Thi thì lấy gì mà nói)[72, tr.279]. Kinh Thi chính là
sách tập hợp các bài ca dao, dân ca của người Trung Quốc xưa, được Khổng Tử san định
lại.

Các nhà thơ cổ điển Việt Nam đã học được rất nhiều từ những bài ca thôn dã.

Võ Thể Loan ngày tiễn Vân Tiến tỏ ra hết sức bịn rịn, đã mượn một câu ca dao nhắn
với Vân Tiên:

"Xin đừng tham đó bỏ đăng

Chơi lê quên lựu, chơi trăng quên đèn "

Thể hiện quyết tâm son sắt với tình, sấn sàng từ bỏ con đường công danh để đi tìm cho
được người tri âm, tri kỷ, trong tâm tưởng Kim Trọng hình thành ý định:

2939. "Rắp mong treo ấn từ quan,

Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng pha."

Đó cũng là sự quyết tâm ta đọc thấy trong câu ca dao:

Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo,

Thất bát sông cũng lội, tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua.

93
Ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều có rất nhiều câu mang bóng dáng của ca dao như vậy.

Cách sử dụng vốn kiến thức ca dao, dân ca của các nhà thơ giai đoạn này hết sức linh
hoạt. Có khi, một câu ca dao có mặt trong hai, ba câu thơ Kiều:

Ca dao:

Ai làm cho bướm lìa hoa,

Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng?

Ai đi muôn dặm non sông,

Để ai chứa chất sầu đong vơi đầy?

Truyện Kiều:

247. _ "Sầu đong càng lắc càng đầy,

Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.

503. _ "Vẻ chi một đoa yêu đào,

Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh. "

1325 _ Thiếp như hoa đã lìa cành,

Chàng như con bướm lượn vành mà chơi."

Lại có khi, một câu nói trong Kiều hoặc trong Hoa Tiên chất chứa hình ảnh, ý, tứ của
nhiều câu ca dao hội lại

Hoa Tiên:

1225. "Đèn giong sẵn bóng trăng già,

Ai ngờ vàng đá dời ra cát lầm!

Thôi duyên đâu nữa mà nhầm,

Nhện vương lại mấy tơ tầm nữa đây ? "

Ca dao:

_ "Tỏ trăng chàng lại phụ đèn,

Thấy nơi sang cả quên hèn nghĩa xưa."

94
_ "Một niềm vàng đá khăng khăng,

Ba thu cũng đợi, chín trăng cũng chờ"

_ "Tơ tằm đã vấn thì vương,

Đã trót dan díu thì thương nhau cùng."...

Có khi, Nguyễn Du chỉ tâm đắc với một cách thể hiện của tiếng nói dân gian - như
trường hợp khi Sở Khanh lật lọng, Thúy Kiều vạch mặt hắn:

1181. Đem người đẩy xuống giếng khơi,

Nối rồi, rồi lại ăn lời được ngay! "

ta liên tưởng tới câu ca dao:

Nói lời thì giữ lấy lời,

Đừng như con bướm đậu rồi lại bay.

để càng thấy rõ bản chất tráo trở của hắn là trái với truyền thống đạo lý xem trọng chữ tín
của nhân dân ta.

Có khi các nhà thơ chỉ mượn một hình ảnh nào đó trong ca dao đưa vào ngôn ngữ
nhân vật và sử dụng chúng như một cụm từ, nét nghĩa tùy thuộc ý đồ người nói, chứ không
nhất nhất phải giữ lại ý nghĩa cũ. Đó là trường hợp Nguyễn Du mượn câu "chữ trinh đáng
giá nghìn vàng" trong bài:

Chữ trinh đáng giá ngàn vàng,

Từ anh chồng cũ đến chàng là năm.

Còn như yêu vụng dấu thầm,

Họp chợ trên bụng cả trăm con người.

Nếu như trong bài ca dao, câu "chữ trinh đáng giá ngàn vàng" là một sự giễu cợt, mỉa
mai đối với người đàn bà lẳng lơ, đa tình, thì trong lời nói Thúy Kiều:

3093. "Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng,

Hoa thơm phong nhụy, trăng vòng tròn gương,

Chữ trinh đáng giá nghìn vàng,

Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa ? "

95
"chữ trinh" lại là một sự khẳng định, một biểu tượng về giá trị đạo đức của người phụ
nữ trong xã hội phong kiến mà nàng Kiều hằng trân trọng và lấy nó làm thước đo nhân
phẩm. (Tuy nhiên, cũng không loại trừ khả năng là câu thơ trên, các tác giả dân gian học lại
của Truyện Kiều và sử dụng nó theo tính cách hài hước, tinh nghịch của mình).

Không chỉ "vận" ca dao vào ngôn ngữ nhân vật, truyện thơ Nôm bác học còn khai thác
hàng loạt các mẫu đề, các mô-típ của ca dao, dân ca: sự thao thức, trăn trở, sự thề nguyền,
sự oán trách, than thở và quyết tâm đi đến tình yêu... và thể hiện chúng ở mọi cung bậc tình
cảm, mọi cấp độ ngôn ngữ.

Để làm giàu cách diễn đạt, các tác giả thơ Nôm trung đại còn học ở ca dao, dân ca
cách chơi chữ, cách cường điệu, nói giảm, cách điệp từ, đối ý của thể lục bát, cách ví von,
so sánh của thể tỷ trong ca dao, cách xấu trúc theo nguyên tắc song hành tâm lý" [104,
tr.317], dùng ngôn ngữ thiên nhiên để khơi gợi, dẫn dắt, bộc lộ tâm trạng... với sự sáng tạo
độc đáo và vẻ đẹp muôn màu mà ca dao thể hiện.

Đặc biệt, các nhà thơ đã học ở ca dao, dân ca những hoán dụ, ẩn dụ nghệ thuật tình tứ,
duyên dáng, trong đó, có không ít ẩn dụ có nguồn gốc từ văn học viết, nhưng phù hợp với
cách cảm, cách nghĩ của dân gian, quen thuộc với đời sống thực tế của nhân dân ta nên đã
thâm nhập sâu vào đời sống vãn hóa dân gian Việt Nam. Nhiều ẩn dụ xuất hiện với tần số
cao, mang ý nghĩa ổn định đã trở thành biểu tượng nghệ thuật phổ biến và đắc dụng trong ca
dao, dân ca, như "trúc - mai", "bướm -hoa", "tằm - tơ", "nhện - tơ", "thuyền - bến", "bèo -
nước"v.v... Trong đó, những biểu tượng về hoa, trăng, vàng, rồng, sông, nước, ông Tơ - bà
Nguyệt, phượng - loan, ong -bướm... nằm trong số những biểu tượng có tần số xuất hiện cao
nhất trong ca dao Việt Nam. Biểu tượng ca dao phản ánh tâm hồn dân tộc, thị hiếu thẩm mỹ
và những thói quen phô diễn tâm tư, tình cảm của người Việt Nó mang ý nghĩa cộng đồng.
Có thể xem nó là "một hiện tượng của văn hóa học" [43, tr.48]. Các mẫu đề, biểu tượng
chính là một số dạng của công thức folklore. Tiến sĩ khoa học Bùi Mạnh Nhị đã có những
khái quát sâu sắc về ý nghĩa của những công thức này: "Công thức folklore là sự chọn lọc,
kết tinh và điển hình hóa kinh nghiệm văn hóa xã hội, nghệ thuật truyền thống, thể hiện
quan niệm mỹ học của nhân dâa.. Đối với lĩnh vực íòlklore, nhân dân sáng tác theo truyền
thống và cảm thụ cũng theo truyền thống, một truyền thống có bề dày lịch sử văn hóa xã hội
và đã được thử thách. Truyền thống trong íolklore ổn định và biến đổi cùng với bước đi của
lịch sử - xã hội, văn hóa." "Công thức íolklore thường có tầng nền văn hóa, dân tộc học rất
sâu sắc" [104, tr.321,322]. Học tập ca dao, dân ca, các nhà thơ đã đem đến cho truyện thơ

96
Nôm bác học một tầm độ sâu sắc về ý nghĩa và về tính truyền thống. Truyện thơ Nôm bác
học đã sống cùng một nhịp đập với văn hóa dân gian, đồng điệu về tâm hồn và tình cảm với
nhân dân. Đó chính là một trong những nguyên nhân sâu xa khiến chúng được nhân dân tiếp
nhận một cách nồng nhiệt và có sức sống mãnh liệt trong đời sống văn hóa tinh thần của dân
tộc.

Sự phong phú trong vốn kiến thức, sự linh hoạt trong vận dụng ca dao, dân ca của các
thi sĩ thời kỳ này đã đem lại cho ngôn ngữ nhân vật của họ sự tinh tế, mềm mại, đẹp đẽ,
trong sáng. Nhiều khi, nghe nhân vật các truyện thơ Nôm bác học nói, ta có cảm tưởng như
họ đang gửi tiếng lòng của mình qua một khúc dân ca:

445. "Thăm hoa thì biết ý xuân,

Muốn coi nước nọ, phải gần bến kia. "(ST)

1973. "Bây giờ kẻ ngược người xuôi,

Biết bao giờ lại nối lời nước non ?

Dẫu rằng sông cạn đá mòn,

Con tằm đến thác cũng còn vương tơ. "(TK)

Trong truyện thơ Nôm bác học, thành ngữ, tục ngữ được dùng hầu như tập trung cho
ngôn ngữ nhân vật, còn ca dao, dân ca được các nhà thơ dừng cho cả ngôn ngữ tác giả, lẫn
ngôn ngữ nhân vật. Nhưng, ưu thế có phần nghiêng về ngôn ngữ độc thoại nội tâm và
những lời đối thoại có tính chất giãi bày tâm sự. Ca dao đem lại cái ý nhị, sâu lắng, mượt
mà cho tiếng nói của những tình cảm riêng tư. Đối với các nhân vật trung gian hoặc phản
diện, ca dao thường được dùng khi họ thuyết phục hay hứa hẹn một điều gì đó (mà khi tình
thế thay đổi, họ sẵn sàng quên lời hẹn ước một cách dễ dàng!). Thể Loan khi chia tay với
Vân Tiên, Thúc Sinh khi chia tay với Thúy Kiều đều có những lời nói thiết tha, sâu tình
nặng nghĩa. Đó là lý do để nhữhg người như Kiều, như Vân Tiên không sớm nhận ra bản
chất của họ. Những lời nói này đối lập với hành động của họ về sau, khiến tính cách giả dối
hoặc ươn hèn được tồ đậm hơn. Bùi Kiệm khi tìm cách thuyết phục Nguyệt Nga bỏ Vân
Tiên theo mình cũng đã biết dùng tục ngữ, ca dao để tăng sức thuyết phục cho lời nói, nhằm
tác động mạnh cả vào cả nhận thức lẫn tình cảm của người nghe. Và cách nói này đã góp
phần làm lộ rõ chân tướng nhân vật:

1580. "Ở đời ai cậy giàu sang,

97
Ba xuân mòn hết ngàn vàng khôn mua,

Hay chi như vãi ở chùa,

Một căn cửa khép bốn mùa lạnh tanh.

Linh đinh một chiếc thuyền tình,

Mười hai bến nước biết mình vào đâu?

Ai từng mặc áo không bâu,

Ăn cơm không đũa, ăn trầu không cau ? "

1605. "Ai ai cũng ở trong trời,

Chính chuyên trắc nết chết thời cũng ma."

Người sử dụng vốn ca dao dân tộc đặc sắc nhất, không ai khác ngoài Nguyễn Du. Có
được vốn ca dao, dân ca phong phú như vậy, Nguyễn Du đã chịu ảnh hưởng của hai trung
tâm sinh hoạt văn nghệ dân gian nổi tiếng thuở xưa: Kinh Bắc - quê mẹ - nổi tiếng với
những làn điệu quan họ Hội Lim. Hà Tĩnh - quê cha - nổi tiếng với những làn điệu hát dặm,
hát phường vải Nghệ - linh. Ảnh hưởng đó cộng với cái lịch lãm, đa dạng bởi nhiều luồng
văn hóa giao lưu của đất kinh thành, tất cả đã hun đúc nên hồn thơ dân tộc của nhà thơ họ
Nguyễn.

Văn chương phong kiến không ca ngợi tình yêu tự do. Nó chỉ cổ xúy cho những cuộc
hôn nhân gắn với nghĩa vụ, đạo lý phong kiến.

Cảm hứng về sự tự do trong tình yêu nam nữ với tất cả những gì say sưa, những rung
động tinh tế nhất, sự thể hiện phong phú của tình cảm ỏ mọi cung bậc trong mọi cảnh ngộ,
tình huống - các nhà thơ chỉ có thể tìm thấy được, chủ yếu, là trong ca dao, dân ca. Giờ đây,
cảm hứng về hạnh phúc và nỗi đau trong tình yêu ấy đã được tiếp sức bởi cả một trào lưu
sáng tác văn học nhân đạo chủ nghĩa và không khí dân chủ của thời đại. Và có khi nó xuất
phát từ sự trải nghiệm đớn đau của chính nhà thơ - như trường hợp của Phạm Thái với
Trương Quỳnh Như -làm nên cái diệu kỳ của ngòi bút các nhà thơ trung đại.

Nguồn suối ca dao, dân ca một thời tuổi trẻ từng khiến Tố Như đàm mê đã lặn vào
trong máu thịt của nhà thơ và ông đã sử dụng nó nhuần nhị, tự nhiên đến mức tưởng chừng
ngôn ngữ hàng ngày của ông cũng là ngôn ngữ ca dao, dân ca vậy. Nguyễn Du đã khẳng
định ảnh hưởng của văn học dân gian đối với mình trong bài thơ chữ Hán Thanh minh ngẫu

98
hứng: "Thôn ca sơ học tang ma ngữ"(Tiếng hát nơi thôn xóm giúp ta học những câu tả về
trồng dâu, trồng gai) [130, tr.63].

Như vậy, thấm đẫm ảnh hưởng của văn chương dân gian kết hợp với ngôn ngữ sinh
hoạt đời thường, đặc điểm lớn thứ hai của ngôn ngữ nhân vật truyện thơ Nôm bác học là nó
mang tính nhân dân và đậm yểu tố hiện thực. Nó làm cho ngôn ngữ thơ nhiều chỗ rất gần
với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân, đưa các tác phẩm đến gần với cuộc đời.

Nếu tục ngữ, thành ngữ giúp cho tiếng nói các nhân vật truyện thơ Nôm bác học thông
minh, sắc sảo hơn, thì ca dao, dân ca lại giúp cho ngôn ngữ của họ hữu tình hơn. Các yếu tố
này có mặt trong đối thoại đã làm tăng giá trị nhận thức, giá trị biểu cảm và giá trị thẩm mỹ
của ngôn ngữ nhân vật.

Chính ngôn ngữ đời thường và nguồn thi liệu từ văn hóa dân tộc đã khiến cho nhiều
nhân vật trong một số truyện thơ Nôm bác học có cốt truyện mượn từ truyện Tàu, tuy "xuất
thân" từ đất nước Trung Hoa nhưìig vẫn sống trọn vẹn đời sống tinh thần, tình cảm và có
cốt cách của những người con đất Việt, tựa như chàng Hamlet - hoàng tử Đan Mạch - qua
ngòi bút thiên tài của Shakespeare đã nghiễm nhiên được cả thế giới công nhận là một công
dân của nước Anh.

Việc các truyện thơ Nôm bình dân sử dụng lời ăn tiếng nói hàng ngày, tục ngữ ca dao
là điều tất yếu, nhưng việc các truyện thơ Nôm bác học sử dụng với một mức độ, liều lượng
đáng kể là một đặc điểm hết sức đáng chứ ý. Bởi vì, dẫu sao, văn học dân gian và văn học
viết cũng là hai hệ thống tư tưởng - thẩm mỹ khác nhau. Việc sử dụng nhiều ngôn ngữ dân
gian đã làm cho truyện thơ Nôm bác học gần với tư tưởng thẩm mỹ của dân gian hơn. Và có
lẽ, đây không chỉ là đặc điểm sáng tác của các nhà thơ thời kỳ này mà còn là một mục đích
nghệ thuật của họ. Trong truyền thống văn học dân tộc có một quy luật: những truyện thơ
Nôm dài muốn đi vào nhân dân, tồn tại trong nhân dân thì nhà văn không những phải mang
tư tưởng thẩm mỹ của nhân dân mà còn phải có cả cách diễn đạt bình dân nữa. Có lẽ, những
truyện thơ Nôm bác học này hướng tới đối tượng nhân dân hơn là hướng tới đối tượng giai
cấp quý tộc. Đây là một kinh nghiệm của cha ông, cũng là một bài học quý giá đối với các
nhà sáng tác đương đại.

Các tác giả truyện thơ Nôm bác học giai đoạn này có một vốn kiến thức uyên thâm và
một vốn từ vựng cực kỳ giàu có, phong phú tiếp thu từ nhiều nguồn: kinh sách, thơ, phú của

99
văn chương cổ Việt Nam và Trung Quốc, thành ngữ, tục ngữ Hán, văn chương dân gian
Việt Nam, ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày, với lớp từ khẩu ngữ thông tục,v.v... Ngôn ngữ
nhân vật của họ là nơi gặp gỡ của mọi dòng chảy từ nhiều nguồn đổ lại. Tài năng kiệt xuất
của các nhà thơ, đặc biệt là Nguyễn Du, là đã hòa chúng làm một với một sự kết hợp tài hoa,
nhuần nhị. Nghe Vương Ông nói với con:

767. " _ Này cha làm lỗi duyên mày,

Thôi thì việc ấy sau này đã em.

Vì ai rụng cải rơi kim,

Vì ai bèo nổi mây chìm, vì ai?

Lời con dặn lại một hai,

Dẫu mòn bia đá dám sai tấc vàng."

Ta thấy sự chân thành của tình cảm người cha trong ngữ cảnh nói và trong lối nói thân
mật gia đình "Này cha làm lỗi duyên mày", cái thân quen của âm hưởng những câu ca dao
chuyên chở cõi lòng, những rung động thẩm mỹ từ những hình ảnh đẹp được tạo ra bởi phép
đối xứng: "rụng cải, rơi kim", "bèo nổi mây chìm" và từ định ngữ nghệ thuật "tấc vàng"...
Lời nói giản dị chân tình nhưng không trở thành vè - một khả năng rất dễ xảy ra đối với thơ
lục bát. Lối nói hết sức tợ nhiên, không hề bị gợn bởi cách dùng điển "kim cải" trong Kinh
Dịch, mượn hình ảnh "bèo nổi mây chìm" trong thành ngữ Hán và trong ca dao Việt Nam.
Ví dụ vừa nêu là một minh chứng về sự kết hợp tài hoa giữa tính chất bác học và tính chất
bình dân ương ngôn ngữ nhân vật truyện thơ Nôm bác học. Có thể coi ngôn ngữ nhân vật là
một yếu tố thể hiện hai khuynh hướng, hai đặc điểm trong bút pháp tự sự, bút pháp khắc họa
tính cách nhân vật độc đáo của thể loại này: một bên còn chưa ra khỏi phạm trù văn hoa và
văn học dân gian, một bên thể hiện đặc điểm của phương thức tự sự bác học và có những
trường hợp báo hiệu phương thức tự sự cận hiện đại. Hai tính chất này tồn tại song song,
giao lưu ảnh hưởng lẫn nhau, hoa hợp trong cảm hứng sáng tạo của nhà thơ.

TIỂU KẾT

Tính trang nhã, uyên bác của ngôn ngữ ước lệ, tượng tnứig và tính chất bình dân của
ngôn ngữ hiện thực tự nhiên, ngôn ngữ tục ngữ, ca dao là hai đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ
nhân vật truyện thơ Nôm bác học giai đoạn thế kỷ XVIH - XIX.

100
Là một phạm trù mỹ học của nghệ thuật thời phong kiến, yếu tố ước lệ, tượng trưng
làm nên sự trang nhã, uyên bác của ngôn ngữ văn học đồng thời làm nên diện mạo riêng của
văn học thời kỳ này. Nó được tạo nên bởi những điển tích, điển cố, những tứ thơ lấy từ sử
sách, thư tịch Trung Hoa và những biểu tượng trong ca dao, dân ca Việt Nam. Nó có mặt
trong mọi yếu tố làm nên hình hài tác phẩm. Trong đối thoại và độc thoại, nó xuất hiện
trong lời nói của hầu hết các nhân vật và được sử dụng mọi nơi, mọi lúc, làm nên cái đẹp,
cái thanh nhã, cao sang, sự uyên bác đầy tính trí tuệ và tính nghệ thuật của ngôn ngữ. Bên
cạnh tính trang nhã, bác học, ngôn ngữ nhân vật truyện thơ Nôm bác học còn có tính chất
bình dân, được tạo nên bởi ngôn ngữ đời thường và ngôn ngữ văn học dân gian. Lớp từ
khẩu ngữ thông tục và thành ngữ, tục ngữ hết sức đắc dụng trên địa hạt ngôn ngữ đối thoại
đã giúp cho hình tượng nhân vật trở nên hết sức gần gũi, thân quen đối với mọi tầng lớp
người dân, đặc biệt, đã dân tộc hóa hình tượng các nhân vật có xuất xứ từ tiểu thuyết Trung
Hoa, đồng thời tạo nên giọng điệu riêng, bộ mặt riêng cho nhân vật. Nhờ sử dụng điển tích,
điển cố, thành ngữ, tục ngữ và những biểu tượng của ca dao, dân ca, ngôn ngữ nhân vật
truyện thơ Nôm bác học hàm súc, dư ba, giàu tính triết lý và sức biểu hiện. Nó có thể diễn tả
tình cảm ở mọi cung bậc, thể hiện chiều sâu văn hóa, thị hiếu thẩm mỹ và thói quen phô
diễn tâm tư tình cảm của người Việt Nam, đồng thời là tấm gương phản ánh đời sống ngôn
ngữ và cách cảm, cách nghĩ của thời đại.

Có thể nói, ngôn ngữ nhân vật truyện thơ Nôm bác học là một sự kết hợp nhuần
nhuyễn, tài tình, khéo léo, đầy sáng tạo giữa văn chương bác học, ngôn ngữ đời thường và
văn học dân gian, đặc biệt là trong Truyện Kiều, "đặc điểm nổi bật làm nên giá trị chủ yếu
của ngôn ngữ tác phẩm vĩ đại ấy là sự kết hợp tuyệt diệu giữa hai khuynh hướng "bình dân"
và "quý phái" trong ngôn ngữ tác phẩm" (Mai Quốc Liên)[83, tr.50]. Nguyễn Du đã thể hiện
"tài dùng chữ... , tài phối hợp chữ dùng đến trình độ hóa công." (Đào Thản) [94, tr.108].

Ngôn ngữ nhân vật truyện thơ Nôm bác học giàu yếu tố ước lệ bác học hay giàu yếu tố
hiện thực, bình dân, phần lớn, là do ý đồ nghệ thuật của nhà thơ trong việc xây dựng tính
cách và thể hiện chức năng của nhân vật trong tác phẩm. Sự thành công của nó phụ thuộc
vào tài năng của người cầm bút.

101
CHƯƠNG 3: VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG
TRUYỆN THƠ NÔM BÁC HỌC

3.1.VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM TỰ SỰ VÀ
KỊCH

Tùy giai đoạn, trào lưu, trường phái, loại thể văn học mà thành phần ngôn ngữ nhân
vật có tì lệ, vị trí, vai trò khác nhau trong tác phẩm.

Ở thể tự sự, lời nhân vật giữ vai trò ngày càng quan trọng, nhưng vẫn đứng sau ngôn
ngữ tác giả. Ở thể kịch, lời nhân vật lại giữ vai trỗ có tính chất quyết định. Với thơ trữ tình,
nếu là thơ tức cảnh, vịnh vật, ngôn ngữ tác giả sẽ chiếm phần ưu. Còn nếu là thơ tự bạch
hoặc thơ trữ tình kiểu "nhập vai", ngôn ngữ nhân vật sẽ chiếm phần trội bật, nếu không nói
là toàn bộ. Văn học cổ xem trọng lời tác giả. Văn học cận đại, hiện đại ngày càng đề cao vai
trò ngôn ngữ nhân vật. Văn học lãng mạn thiên về lời người sáng tác. Văn học hiện thực lại
nghiêng về lời nhân vật. Ranh giới phân biệt lời tác giả và lời nhân vật không phải bao giờ
cũng rạch ròi. Không ít trường hợp, chúng dường như giao thoa với nhau: trong ngôn ngữ
nhân vật, có giọng nói, điệu nghĩ của nhà văn, trong ngôn ngữ tác giả có lời lẽ, tình cảm của
nhân vật.

3.1.1.Ở thể tự sự, qua quan sát, chọn lựa, vận dụng các phương tiện lời nói, nhà văn
tái hiện ngôn ngữ nhân vật, đặc biệt là ngổn ngữ đối thoại trong tính quy định của thời đại,
môi trường, tầng lớp xuất thân, trình độ học vấn, ngành nghề, tâm lý, lứa tuổi, cá tính, tâm
trạng... sao cho sinh động, tự nhiên như lời nói thật ngoài đời. Mỗi nhân vật được xây dựng
với một lối nói, một kiểu phát ngôn có đặc trưng riêng, thể hiện qua trường từ vựng, kiểu
câu, ngữ điệu... để lời trực tiếp của họ trở thành một hiện tượng ngôn ngữ độc đáo, có tính
chất cá tính hóa nhân vật. Và nói như Lỗ Tấn: "Nó có thể làm cho người ta từ lời ăn tiếng
nói mà thấy được người" [123, tr.232].

Văn học cổ nhìn chung ít chú ý khắc họa lời nói nhân vật, mà thường uốn nhân vật nói
theo điệu của tác giả hoặc theo cách tác giả muốn, tác giả nghĩ: Đọc Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ, một tác phẩm ra đời thế kỷ XVI, ta gặp Dương thị trong Chuyện đối tụng ở
Long cung nhắn chồng: "_ ... Người vợ xấu số ở bến nước xa xăm lúc nào cũng vẫn thương
nhớ đến chàng; chàng nên cố xoay xở cách nào để cho phượng được trong mây, ngựa về

102
trên ải, đừíig khiến tôi phải già đời ở chốn cung nước làng mây này." [41, tr.71]. Không chỉ
người thiếu phụ trong Chuyện người con gái Nam Xương có ngôn ngữ nói cùng một dạng
với nàng mà cả sư già Pháp Vân trong Chuyện nghiệp oan của Đào thị cũng đều nói cùng
một cách như thế: " _ Người con gái này, nết không cẩn nguyệt, tính bén lẳng lơ, tuổi đã trẻ
trung, sắc lại lộng lẫy, ta e lòng thiền không phải đá, sắc đẹp dễ mê người; tuy sen hồng
chẳng nhuộm bùn đen, nhưng tấc mây dễ mờ bóng nguyệt..." [41, tr.79]. Rõ ràng, văn
chương cổ thời kỳ này chưa chú ý đến sắc thái riêng của mỗi giọng nói, đến khả năng tự bộc
lộ của ngôn ngữ nhân vật.

Văn học hiện đại ngày càng coi trọng việc biểu hiện ngôn ngữ đối thoại và độc thoại.
Trong nhiều trường hợp, lời nhân vật càng giống khẩu ngữ tự nhiên càng có giá trị tạo hình.
Không chỉ nội dung mà cả bản thân hình thức lời nói vừa giúp nhân vật tự bộc lộ, vừa góp
phần phản ánh hiện thực cuộc sống bên ngoài nhân vật. Thậm chí các nhà văn hiện thực -
như Banzắc trong bộ Tấn trò đời chẳng hạn - đã coi việc cá tính hóa ngôn ngữ nhân vật là
một nguyên tắc nghệ thuật để khắc họa tính cách xã hội, lịch sử của nhân vật.

Bàn về thi pháp tiểu thuyết, M.Bakhtin đã nhấn mạnh vai trò của đối thoại:

"Đối thoại là bản chất của ý thức, bản chất của cuộc sống con người... Sống tức là
tham gia đối thoại: hỏi, nghe, trả lời, đồng ý... Con người tham gia cuộc đối thoại ấy bằng
toàn bộ con người mình và toàn bộ cuộc đời mình: bằng mắt, môi, tay, tâm hồn, tinh thần,
hành vi. Nó trút hết con người nó vào lời nói và tiếng nói của nó gia nhập dàn đối thoại của
cuộc sống con người, gia nhập cuộc hội thảo thế giới (...). Bản ngã không chết Cái chết chỉ
là sự ra đi. Con người ra đi khi đã nói lời của mình, nhưng bản thân lời nói ấy còn lại mãi
mãi trong cuộc hội thoại không bao giờ kết thúc" [4, tr.512]. Không chỉ đối thoại có vai trò
quan trọng đối với thể tự sự mà độc thoại cũng có vị trí đặc biệt quan trọng. Sở trường của
nó là phản ánh đời sống tâm hồn của nhân vật. Trong tác phẩm, để tái hiện tính tự phát của
dòng ý thức cảm xúc, nhà văn không phải lúc nào cũng miêu tả nó một cách rành mạch,
logic, thứ tự mà nhiều khi rối ren, lộn xộn, chắp nối, đứt đoạn, bỏ lửng...

Nội tâm nhân vật còn được thể hiện bằng loại ngôn ngữ "pha" giữa lời nhân vật và lời
dẫn dắt của tác giả. Nhà văn vừa tái hiện dòng ngôn ngữ độc thoại của nhân vật, vừa có sự
phân tích, lý giải, phẩm bình lời nổi ý thức của nhân vật. Trần Đình Sử gọi đó là “lời nửa
trực tiếp”, một kiểu của lời gián tiếp hai giọng. Và theo ông, ương văn học Việt Nam, lối
này xuất hiện từ giai đoạn nửa cuối thế kỷ xvin -nửa đầu thế kỷ XIX, tiêu biểu nhất là

103
Truyện Kiều [115, tr.151]. Nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn ngày nay cũng chuộng lối diễn đạt
này: Chí Phèo của Nam Cao, Mùa lạc của Nguyễn Khải, Những đứa con trong gia đình của
Nguyễn Thi...

Hơn tất cả mọi thể loại, thể tự sự, nhất là tiểu thuyết, rất có điều kiện để đi sâu, phân
tích đời sống nội tâm của con người, phát hiện những bí ẩn sâu kín, những lối rẽ bất ngờ,
những khoảnh khắc đột biến trong tình cảm, tâm trạng, động cơ hành động, thậm chí là
nhữíig ý nghĩ trực cảm, những thoáng mong manh huyền vi, kỳ diệu Ương cõi vô thức của
con người - nơi mà ngay cả những phương tiện khoa học thông tin hiện đại nhất, dù tinh vi
đến đâu, cũng không thể thăm dò, khám phá.

Những biểu hiện thuộc đời sống ngôn ngữ của con người và thế giới nội tâm của các
nhân vật đã làm nên sức hấp dẫn lớn của văn chương. Đó là một đóng góp không thể thiếu
được của ngôn ngữ đối thoại và độc thoại trong tác phẩm tự sự.

3.1.2.Ở nghệ thuật kịch - trừ kịch câm - ngôn ngữ nhân vật đặc biệt là ngôn ngữ đối
thoại có vai trò hết sức quan trọng. Do hạn chế về không gian, thời gian biểu diễn và do đặc
điểm của kịch: tác giả không được phép lộ mặt, cho nên, ngôn ngữ tác giả chỉ có tính chất
hướng dẫn đôi nét cho đạo diễn, diễn viên trong quá trình chuẩn bị, còn lại là ngôn ngữ
nhân vật. Khi diễn viên bước lên sân khâu, tất cả đều thông qua hành động nhân vật mà biểu
hiện. Hành động của sân khấu là hành động hình thể, hành động tâm lý và hành động ngôn
ngữ. Hành động ngôn ngữ và hành động tâm lý của nhân vật được thể hiện qua các hình
thức: đối thoại, độc thoại và bàng khoại.

Ngôn ngữ đối thoại là hình thức chủ yếu của ngôn ngữ kịch, thậm chí có ý nghĩa quyết
định đối với một vở kịch. Nó mang những đặc điểm có tính chất loại biệt của nghệ thuật
kịch: ngắn gọn, súc tích, vừa có nghĩa hiện, vừa giàu nghĩa ẩn. Nó có tính chất khẩu ngữ,
tính chất hành động (có tính kích thích và có mục đích rõ rệt) và là ngôn ngữ tính cách hóa
cao. Đặc trưng của lời nói trong kịch là lời nói có nhiệm vụ kép: vừa thay tác giả làm nhiệm
vụ dẫn dắt tình tiết, diễn biến kịch, vừa đảm đương chức năng ngôn ngữ nhân vật Lời nói
phải vừa thích hợp với nhân vật, vừa phải diễn đạt được ý đồ của tác giả. Tức là: nhân vật
phải nói với khán giả điều tác giả muốn nói, nhưng lại phải nói với tư cách của mình, phù
hợp với tính cách, hoàn cảnh, nghề nghiệp, tuổi tác của vai diễn cụ thể. Bởi vậy, ngôn ngữ
nhân vật trong kịch là ngôn ngữ có tính chất tổng hợp, vừa đầy kịch tính vừa bao hàm cả

104
yếu tố tự sự và trữ tình, hàm súc, dư ba, đầy giá tri triết học. "Thậm chí có câu nói có thể
làm tiêu ma một sự nghiệp, hoặc làm sống lại một đời người" [115, tr.259].

Độc thoại trong kịch - để phù hợp với đặc điểm của nghệ thuật biểu diễn -được biểu
hiện bằng cách tác giả kịch bản cho nhân vật của mình nói to những điều họ suy nghĩ dưới
hình thức nói một mình, hoặc dùng thủ pháp "phục hiện" tái hiện lại những tình huống, tâm
trạng trong quá khứ bằng tiếng vọng hoặc nhữhg lớp kịch xen kẽ, hay lưỡng hóa nhân vật:
cho nhân vật phân thân đối thoại để biểu hiện cuộc đấu tranh nội tâm. Do đặc điểm của kịch,
độc thoại không sử dụng thường xuyên trong mọi trường hợp. Nó chỉ hay dùng cho nhân vật
khi trù liệu, toan tính một âm mưu, khi phải đúng trước một sự lựa chọn khắc nghiệt đòi hỏi
nhân vật phải đấu tranh nội tâm gay gắt, có sự giằng xé giữa lý trí và tình cảm, để đi đến
một quyết định quan trọng trước hoàn cảnh éo le, gay cấn, trước thử thách cam go, ác liệt,
hoặc khi thể hiện nỗi xúc động mãnh liệt trong lòng mà chưa thể thổ lộ cùng ai...

Ngoài hai hình thức trên, sân khấu còn sử dụng một loại lời thoại khá độc đáo: bàng
thoại - nhân vật nói với khán giả. Sân khấu tuồng chèo của ta hoặc kịch tự sự như kịch của
Becton Bret có sử dụng loại ngôn ngữ này tuy không nhiều. Nó là một cách đưa đẩy lời tự
giới thiệu của nhân vật hoặc một cách chú thích thêm về cảnh ngộ, tâm trạng hay một điều
bí mật của nhân vật.

Nếu như trong các tác phẩm tự sự, nhân vật bên cạnh sự tự bộc lộ của bản thân còn
được sự hỗ trợ của ngôn ngữ tác giả, thì "kịch đòi hỏi mỗi nhân vật ương vở phải tự biểu
hiện tính cách bằng lời nói và hành động", không có sự can thiệp tự do của tác giả.

"Các nhân vật kịch hình thành là do những lời lẽ của họ, và tuyệt đối chỉ do những lời
lẽ ấy mà thôi, nghĩa là tác giả xây dựng nhân vật bằng ngôn ngữ hội thoại chứ không phải
bằng ngôn ngữ miêu tả... Muốn cho các nhân vật có được giá trị nghệ thuật và sức thuyết
phục xã hội... phải làm sao cho ngôn ngữ của mỗi nhân vật đều có tính đặc thù rõ rệt, có sức
biểu hiện tối đa... "(M.Gorki) [48, tr.7,8].

Như vậy, trong kịch, ngôn ngữ nhân vật là phương tiện quan trọng nhất để thể hiện
tính cách, bộ mặt tâm lý và cuộc đấu tranh nội tâm của các cá nhân, đồng thời là chất liệu để
tạo nên xung đột kịch. Nó giữ vai trò quyết định, thậm chí có tính chất tối hậu đối với giá trị
tư tưởng và nghệ thuật của một vở kịch.

Tóm lại, trong văn chương, nhất là trong thể tự sự và kịch, ngôn ngữ nhân vật giữ một
vai trò quan trọng trong sự tợ bộc lộ của nhân vật. Nó có chức năng biểu hiện thế giới nội

105
tâm, đồng thời có chức năng như một hành động, một sự kiện đối với nhân vật khác, góp
phần khắc họa tính cách nhân vật, thúc đẩy sự phát triển của tính cách và tình tiết cốt truyện,
qua đó góp phần phản ánh hiện thực bến ngoài nhân vật, bộc lộ tư tưởng nghệ thuật của tác
giả và chủ đề tác phẩm...

3.2.VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN THƠ NÔM
BÁC HỌC

Truyện thơ Nôm được một số nhà nghiên cứu, phê bình xem là tiểu thuyết cổ điển Việt
Nam. Đối thoại và độc thoại là một tiêu chí quan trọng để phân biệt thể loại truyện thơ với
những khúc ngâm.

Văn học cổ trung đại, nhìn chung, đã có sự chú ý đến ngôn ngữ nhân vật. Điều này
trước hết thể hiện ở dung lượng ngôn ngữ đối thoại và độc thoại. Các truyện thơ Nôm bác
học tiêu biểu thế kỷ XVIII - XIX đều có tỉ lệ ngôn ngữ nhân vật từ 35 đến 60% (xem tr.2).
Đó là một tỷ lệ đáng kể. Đặc biệt trong Truyện Kiều, đối thoại và độc thoại chiếm gần một
nửa tác phẩm: 14Ố7 câu trên tổng số 3254 câu (=45,1%), Truyện Song Tinh (1093 câu trên
tổng số 2396 câu = 45,6%) và Truyện Lục Vân Tiên (1254 câu trên tổng số 2082 câu thơ =
60,2%).

Bên cạnh ngôn ngữ của chính nhân vật, các nhà thơ còn dùng ngôn ngữ tác giả để
miêu tả các cuộc hội thoại. Người rất có sở trường trong lĩnh vực này là tác giả Nhị độ mai.
Chẳng hạn, nhà thơ miêu tả về cuộc xô xát giữa bè lũ Giang Khôi - những kẻ định dùng tiền
để ép duyên con gái nhà lành - với nhũng người ngư dân:

1549. Thuận lồng bao quản sang hèn,

Tam bành bà đã nổi lên một hồi.

Ngọc Thư ngấm nguýt một hai,

Trong khi quá giận, lắm lời sam sưa,

Khuyển, Ưng một lũ mắt đưa,

Để phong bạc, bắt Ngọc Thư đem về.

Tiếng nàng kêu dậy giang khê,

Một đoàn thuyền hộ kéo bè la om.

Vác sào, quơ gậy ỳ ôm,

106
Lao xao nổi tép, nổi tôm một vùng.

Lời thô tiếng tục như ong,

Kẻ toan cướp lại, người hòng đánh nhau.

Có thể nói, cảnh hoạt náo trên sông nước đã được tác giả xây dựng một cách hết sức
sinh động.

Như vậy, các tác giả đã chú ý đến ngôn ngữ hội thoại từ nhiều phía: từ phía của chính
nhân vật và từ phía tác giả. Song, tập trung hơn cả vẫn là ngôn ngữ của chính nhân vật.

Không chỉ chú ý về dung lượng, các tác giả như Nguyễn Du, Nguyễn Hữu Hào... còn
chú ý đến hình thức, sắc thái biểu cảm của đối thoại và độc thoại trong việc biểu hiện tính
cách nhân vật. Điều đó chứng tỏ trong ý đồ nghệ thuật của các nhà thơ này, ngôn ngữ nhân
vật hết sức được coi trọng. Quan niệm này rất gần với quan niệm của các nhà tiểu thuyết
hiện đại.

So với các truyện thơ Nôm, Truyện Kiều có số lượng nhân vật khá lớn - khoảng ngoài
40 nhân vật cụ thể và trên lo "nhân vật đám đông" (kiểu như: "vài thằng con con", bọn "sai
nha", "lũ ác nhân", "muôn binh nghìn tướng" của Từ Hải và "quan quân" của Hồ Tôn
Hiến...). Trong đó, có tới 30 nhân vật góp tiếng nói của mình vào dàn hợp xướng chung của
tác phẩm, qua 86 cuộc đối thoại và 196 lần nói (Xem phụ lục - bảng 3).

Trong lúc Truyện Nhị độ mai sử dụng nhiều ngôn ngữ đám đông và ngôn ngữ các nhân
vật vô danh khiến ta liên tưởng tới Vũ Trọng Phụng, một nhà văn châm biếm những năm ba
mươi của thế kỷ XX, rất có tài trong việc miêu tả ngôn ngữ đám đông nhằm khắc họa không
khí bát nháo của xã hội đương thời, thì Nguyễn Du lại ít chú ý đến ngôn ngữ của loại đối
tượng này. Một phần, để phù hợp với khuôn khổ có hạn của thể loại truyện thơ. Một phần
khác, để ông có thể tập trung cho việc xây dựng tính cách các nhân vật cụ thể. Vì vậy, mặc
dù dựa rất sát vào cốt truyện, tình tiết của Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân,
ông vẫn lược bỏ bớt một số nhân vật phụ. Không những tước tên tuổi của họ, ông còn tước
sạch ngôn ngữ của những "nhân vật đám đông" như bọn sai nha, tướng lĩnh của Từ Hải, bọn
người thuyết hàng của Hồ Tôn Hiến...

So với Kim Vân Kiều truyện, nhân vật Truyện Kiều nói ít hơn tới 6 lần [98, tr.121],
nhưtig, thế giới ngôn ngữ nhân vật của Nguyễn Du cực kỳ phong phú và thể hiện tính cách
lại rõ nét hơn hẳn.

107
3.2.1.CÁC HÌNH THỨC NGÔN NGỮ NHÂN VẬT

Truyện thơ Nôm bác học có các hình thức đối thoại hết sức phong phú.

Truyện thơ Nôm đầu tiên đến nay còn lưu truyền văn bản là Truyện Song Tinh - ra đời
ở xứ Đàng Trong khoảng trước sau năm 1700. Tác giả là Nguyễn Hữu Hào, một vị tướng
dưới đời các chúa Nguyễn Phúc Trăn, Nguyễn Phúc Chu. Song Tinh Bất Dạ viết dựa theo
một cuốn tiểu thuyết loại thường, "không một tiếng vang" của Trung Quốc được soạn vào
khoảng thời gian giao tiếp Minh - Thanh dưới cái tên Định Tình Nhân, có thể được xem là
tác phẩm mở đầu cho dòng truyện thơ Nôm viết về đề tài tài tử - giai nhân, ca ngợi tình cảm
lứa đôi giữa trai tài, gái sắc. Thật đáng ngạc nhiên, ngay từ tác phẩm được xem là đầu tiên
này đã xuất hiện hầu như đầy đủ các hình thức đối thoại mà các truyện thơ Nôm ra đời sau
sẽ tiếp bước. Đó cũng là nền móng cho ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết hiện đại về sau.

Truyện thơ Nôm bác học thời kỳ này có ngôn ngữ hiện thực và có cả ngôn ngữ tâm
linh. Người dương gian có đối thoại, độc thoại. Người cõi âm cũng có ngôn ngữ của sự nói
năng, suy nghĩ. Có đối thoại giữa hai người, giữa ba người, đối thoại giữa nhiều người (một
số nhà ngôn ngữ khi nghiên cứu về ngữ dụng học đã gọi đó là song thoại, tam thoại và đa
thoại). Lại có cả đối thoại một phía (có sự trao lời mà không có sự đáp lời, mặc dù có sự
hiện diện của người nghe hoặc có người nói còn người nghe không hiện hữu, như trường
hợp các nhân vật cầu khẩn, trách đất than trời chẳng hạn...). Có đối thoại giữa nhữhg con
người trần thế, lại có cả đôi thoại giữa người âm với người âm, giữa người âm với người
dương, không chỉ trong mộng, mà cả khi tình. Có kiểu đối thoại trực diện - mặt đối mặt, lại
có kiểu đối thoại "cách không" (người được nói đến ở xa nhiữig người nói lại coi như là
đang ở trước mặt hoặc đang nghe mình nói). Loại ngôn ngữ xóa nhòa khoảng cách này được
dùng cho nhân vật khi thể hiện nỗi đau đớn, thương xót tột cùng đối với người xa cách.
Thúy Kiều khi trao duyên cho Thúy Vân đã nức nở đến ngất đi:

755. “Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”

Vương Ông than khóc kể lể tình cảnh của Kiều cho Kim Trọng, đã kêu lên như thể
Kiều có thể nghe được ông nói:

2791. "Phận sao bạc bấy Kiều nhi!

Chàng Kim về đó con thì đi đâu ?"

108
Thể hiện nỗi đau thống thiết trong lòng đến độ nhân vật đánh mất cả ý niệm về thời
gian, khoảng cách như vậy, ngôn ngữ đối thoại "cách không" đảm nhiệm vai trò biểu đạt
tình cảm gần giống như động tác "bê" hoặc "xiếng" trong nghệ thuật tuồng - một động tác
đặc biệt dùng sự dịch chuyển của đôi chân để thể hiện nỗi đau đớn tột bậc...

Nhân vật truyện thơ Nôm bác học có ngôn ngữ tự nói về bản thân, lại có ngôn ngữ nói
về người khác. "Người khác" ấy hoặc là đối tượng nghe (ngôi thứ hai) hoặc là đối tượng
được nhắc đến (ngôi thứ ba).

Hầu hết các nhân vật Đoạn trường tân thanh sử dụng ngôn ngữ đối thoại trực tiếp
(28/30 người). Nhưng, khi để cho nhân vật kể về một sự kiện, một người nào khác, Nguyễn
Du đã không ngần ngại cho xuất hiện thứ ngôn ngữ đối thoại gián tiếp trong ngôn ngữ đối
thoại trực tiếp của nhân vật. Ngôn ngữ đối thoại gián tiếp này có hai hình thức:

Có khi, nó là một lời nói gián tiếp (indirect speech) của nhân vật này qua câu tường
thuật (reported speech) của một nhân vật khác. Chẳng hạn lời Thúy Kiều qua ngôn ngữ "rêu
rao" của Sở Khanh:

1172. " _ Nọ nghe rằng có con nào ở đây,

Phao cho quyến gió rủ mây."

Hoặc lời Hoạn Thư qua ngôn ngữ của Hoa tỳ:

2001. "Dặn tôi đứng lai một bên.

Chán tai rồi mới bước lên trên lầu.”

Loại ngôn ngữ đối thoại gián tiếp kiểu này khi đến với bạn đọc đã bị khúc xạ hỏi ý đồ
hoặc tình cảm chủ quan của người nói.

Để thể hiện thái độ khách quan của nhân vật khi phát ngôn, Nguyễn Du đã sử dụng thứ
ngôn ngữ đối thoại gián tiếp theo kiểu thứ hai: kiểu tường thuật trực tiếp. Tức là: lời nói của
nhân vật này được tường thuật trực tiếp trong lời nói của nhân vật kia, ngôn ngữ của thời
quá khứ được tái hiện và sống lại đời sống của mình trong ngôn ngữ của thời hiện tại, tạo
thành một kiểu đối thoại hai, ba cấp với cấu trúc lồng "đối thoại trong đối thoại" hết sức đặc
biệt đối với thi phú nổi riêng, thể trữ tình nói chung, góp một hương sắc lạ đối với thơ ca
giai đoạn nửa cuối thế kỷ xvm - nửa đầu thế kỷ XIX.

109
Kiều băn khoăn trước tình yêu và định mệnh, đã thuật lại cho Kim Trọng nghe câu nói
của thầy tướng số. Trong lời kể về cuộc đời Đạm Tiên, Vương Quan đã tường thuật trực
tiếp ngôn ngữ của người khách viễn phương hâm mộ nàng:

73. "Khóc than khôn xiết sự tình:

" - Khéo vô duyên bấy là mình với ta!

"Đã khom duyên trước chăng mà.

"Thì chi chút đỉnh gọi là duyên sau".

(Cách xưng hô "mình" với "ta", ngoài người khách viễn phương ra, không thấy có ở
các nhân vật khác). Ở đây, cách dùng đối thoại ương đối thoại không chỉ tạo ra tính khách
quan cho lời kể của Vương Quan mà còn làm cho nhân vật "khách viễn phương" tuy chỉ
xuất hiện thấp thoáng trong tác phẩm qua lời kể của một nhân vật, nhưng vẫn rất cụ thể, rất
sống động trong đời sống của tác phẩm; nó làm tăng sức biểu hiện của cảm xúc trực tiếp và
tính chính xác của một thông báo.

Trong Sơ kính tân trang có một kiểu đối thoại trong đối thoại cũng rất thú vị. Khi Yến
muốn được nhìn thấy mặt Quỳnh Thư, Hồng đã bày cách:

375 Thế thì theo thiếp vào trong,

Nàng rằng có hỏi, gửi: "Hồng, chi em".

Thực ra, câu trả lời: "Hồng, chị em" vẫn là lời nói của Hồng. Nhưng, sau khi đặt ra giả
thiết Quỳnh Thư hỏi, Hồng đã xem câu trả lời này là ngôn ngữ của Yến. Và đối thoại trong
đối thoại ở đây đã khiến cho tình huống giả tưởng trở nên rất thực và rất sinh động.

Ở dạng phát ngôn kép (hai người cùng nói), trong Truyện Song Tinh, Nguyễn Hữu
Hào có khi sử dụng dạng phát ngôn kép cùng chiều mà về sau, ta thường bắt gặp trong văn
học: Dã Hạc, Thanh Vân cùng nói với Nhụy Châu, ông bà Giang cùng nói với Dã Hạc...
Nhưng độc đáo hơn là nhà thơ đã sử dụng dạng phát ngôn kép ngược chiều (chúng tôi tạm
gọi là "đối thoại song phương kép"): hai người cùng nói một nội dung, nhưng không phải để
nói với người thứ ba mà là nói cho nhau nghe. Khi Nhụy Châu và Thể Vân biết rõ căn bệnh
tương tư của Song Tinh, Nhụy Châu quyết định đáp lại tình cảm của chàng. Quyết định táo
bạo này chưa thể để lộ. Nhụy Châu và Thể Vân dặn dò nhau phải giữ bí mật. Lời thoại của
hai người được tác giả gom vào trong một câu:

110
725. Nghị thôi, thầy tớ dặn nhau:

Tua gìn môi hở mày chau lộ hằn".

Chỉ một câu thơ thôi mà ta có thể hình dung được cảnh cả một cuộc đối thoại: hai cô
gái đang chụm đầu vào cùng dặn nhau: "Phải giữ bí mật truyện này nhé!"

Trong các tác giả truyện thơ Nôm bác học thời kỳ này, người đặc biệt chú ý đến ngôn
ngữ độc thoại là Nguyễn Du. Ông không chỉ chú ý khắc họa ngôn ngữ bên ngoài mà còn có
sự dụng công lớn đối với ngôn ngữ bên trong của nhân vật. Điều đó không chỉ thể hiện ở
dung lượng ngôn ngữ độc thoại trong Truyện Kiều vượt lên trên các tác phẩm cùng thời mà
còn thể hiện ở cái "chất" của nó.

Tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân đi theo truyền thống của
tiểu thuyết Minh - Thanh, tập trung thể hiện các tình tiết, sự kiện, ít lưu tâm đến đời sống
tâm lý của nhân vật.

Truyện Nôm Việt Nam đã bước đầu quan tâm đến đời sống tâm lý nhân vật, nhưng ở
một số truyện, các nhà văn vẫn chủ yếu hoặc dùng ngôn ngữ tác giả, hoặc dùng đối thoại để
bộc lộ dòng cảm xúc, suy tư của nhân vật.

Nguyễn Du không dừng lại ở nhữhg cách biểu hiện ấy. Với Tố Như, việc miêu tả trực
diện thế giới nội tâm bằng ngôn ngữ độc thoại của chính họ là một yếu tố đặc biệt quan
trọng để xây dựng tính cách nhân vật.

"Chỉ dưới hình thức lời tự phát biểu mang tính tự bạch mới có thể cổ được lời nói tối
hậu về con người thực sự phù hợp với nó" [4, tr.254].

Nhưng không phải nhân vật nào Nguyễn Du cũng khai thác thế giới nội tâm. Ông chỉ
trao ngôn ngữ độc thoại cho 8 nhân vật (số câu chiếm gần 1/10 tác phẩm).

Truyện Kiều có ngôn ngữ độc thoại hướng nội và hướng ngoại, có cả độc thoại của
người trên dương thế lẫn suy nghĩ của người ở cõi âm cung (Thanh Tâm Tài Nhân không
xây dựng ngôn ngữ nội tâm cho nhân vật ở chốn cửu tuyền!), có độc thoại đơn và có cả độc
thoại chuỗi (liên tiếp những ý nghĩ, như: suy nghĩ của Kiều sau phút thành thân với Mã,
hoặc những đau đớn dằn vặt trước khi nàng gieo mình tự tử...)

Các tác giả truyện thơ Nôm bác học thời kỳ này không chỉ xây đựng ngôn ngữ độc
thoại trong đối thoại (nhân vật kể về suy nghĩ của mình), đối thoại trong đối thoại mà còn
sáng tạo cả ngôn ngữ đối thoại trong độc thoại nữa. Đó không phải chỉ là ngôn ngữ của

111
những giấc mơ. Đó còn là ngôn ngữ của đời sống hiện thực. Như khi Thúy Kiều trước lúc
gieo mình xuống sông Tiền Đường tự tử, nghĩ:

"này thôi hết kiếp đoạn trường là đây", nàng bật lên tiếng gọi thầm:

2623. " _ Đạm Tiên nàng nhẽ có hay?

Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta!"

Trong tâm tưởng Kiều, Đạm Tiên không đơn giản là bóng ma. Đạm Tiên chính là một
phần hiện hữu của cuộc sống, là bức nhân ảnh của cuộc đời nàng. Ngôn ngữ đối thoại và
độc thoại ở đây trở thành chiếc cầu nối hai cõi âm - dương, phản ánh sự phong phú trong
tâm hồn nhân vật.

Đặc biệt, Nguyễn Du, với ngôn ngữ nội tâm, đã làm xuất hiện những khoảnh khắc của
con người do dự trong tác phẩm. Kiều định tự tử nhưng đắn đo, cân nhắc, sợ liên lụy đến
cha mẹ - lại thôi. Thúc Sinh định nói sự thật với Hoạn Thư nhưng chần chừ suy tính: "Nào
ai có khảo mà mình lại xưng" - lại thôi... Tuy nhân vật Truyện Kiều chưa phải là con người
tư tưởng, chưa có những suy ngẫm về ý nghĩa nhân sinh giàu tính triết học như các nhân vật
của Shakespeare hoặc của Đôxtôjêvxki - chẳng hạn chàng Hamlet với câu hỏi trăn trở, băn
khoăn: " To be or not to be" (Sống hay không sống?) - nhưng, hiện tượng con người do dự,
con người định hành động như thế này mà rồi lại hành động như thế kia là một hiện tượng
rất hiếm trong văn học Việt Nam dưới thời phong kiến. Ở đây đã bắt đầu xuất hiện một sự
chọn lựa. Và, "sự chọn lựa tự do là một tiêu chí quan trọng để con người trở thành một cá
nhân"[132, tr.17].

Trong sáng tác văn học, ngôn ngữ được sử dụng dưới nhiều dạng. Và không đâu đa
dạng hơn trong thể tự sự. Nhưng trong một tác phẩm thơ khuôn khổ chẳng lấy gì làm đồ sộ -
dù đó là truyện thơ - sự thể hiện đời sống ngôn ngữ nhân vật giàu có, phong phú muôn hình,
nghìn vẻ như vậy là một thành công đáng kể.

3.2.2.VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN THƠ NÔM BÁC
HỌC

Vai trò của ngôn ngữ nhân vật trong truyện thơ Nôm bác học rất đa dạng:

3.2.2.1.Trong truyện thơ Nôm bác học, ngôn ngữ nhân vật có khi được dùng thay lời
tác giả kể chuyện, giới thiệu nhân vật, giới thiệu tiểu sử hay tổng kết cuộc đời của một

112
nhân vật như trường hợp Giang Ông kể về cha mẹ Song Tinh, Vương Quan giới thiệu nhân
vật Đạm Tiên hay Tam Hợp Đạo Cô tổng kết về cuộc đời Thúy Kiều v.v...

3.2.2.2.Ngôn ngữ nhân vật có khi thể hiện những chi tiết dự báo, làm yếu tố "khớp
nôi " trước khi tình tiết truyện rẽ ngoặt sang một hướng khác như suy tính và lời bàn của
Thúy Kiều, suy tính của Từ Hải dẫn đến hành động đầu hàng triều đình và kết cục bi thảm
của nhân vật

3.2.2.3.Đối thoại và độc thoại được dùng để thể hiện tâm trạng, cảm xúc của nhân
vật: Như tâm trạng đau đớn đến tột cùng của Thúy Kiều khi trao duyên cho Thúy Vân, tâm
trạng chua chát, chán chường của Thể Vân khi kể về đêm tân hôn, hay tâm trạng của Giang
Bà khi nghe tin Giang Ông đồng ý cho Diêu Doãn đưa con gái tiến kinh:

1234. Giang Bà mảng tiếng gieo mình ngả rơi.

Nỉ non than đất kêu trời,

Trách ai tỏ mạch, giận người bày thăm.

Đâu thanh lệ nhỏ đầm đầm,

Mắng văng Giang lão, rủa thầm Hách Sinh:

"Cha mày vẽ dạng múa hình,

Nào lầu khuể phượng, nào bình bắn công.

Thằng Sinh thật đứa si đồng!

Đối chưa đặng luật lại hòng tranh châu.

Tuổi già ban xế cành dâu,

Vô nam dụng nữ sau hầu tự tông.

Bây giờ vào chốn thâm cung,

Lấy ai hú hí bạn cùng sớm khuya?"

Giang Bà bối rối lòng sơ.

Bản thân ngôn ngữ tác giả mô tả ngôn ngữ nhân vật đã sinh động. Lời nhân vật ở đây
đã gia tăng sự sinh động thêm một tầng nữa. Tác giả như thấu hiểu, tâm trạng, gan ruột của
người mẹ. Có thể nói, Nguyễn Hữu Hào đã khá thành công khi xây dựhg lời thoại này. Ở
hai câu đầu, Giang Bà chì chiết, mỉa mai, trách móc việc chọn rể của chồng: ông bấy lâu đã

113
tốn bao công sức, làm đủ cách để kén chọn rể hiền. Vậy mà nay được rể hiền rồi thì, nghe
lời Diêu Doãn, tất cả công sức bỗng thành đổ sông đổ biển. Hai câu tiếp, bà nguyền rủa
Hách Sinh, một kẻ bất tài, thô lậu và tiểu nhân đã bày mưa chia uyên rẽ thuý, "không ăn
được thì đạp đổ", rắp tâm hại con gái của bà. Hai câu tiếp, bà kể gia cảnh của mình. Gia
đình bà không có con trai, chỉ có một cô con gái. Tất cả trông cậy vào con. Nay, lúc tuổi già
bóng xế, bỗng bị đốn mất chỗ dựa cuối cùng. Chơi vơi, hẫng hụt. Hai câu cuối, bà thương
cảm sâu sắc, gan ruột tình cảnh của con bây giờ. Chồng bà xưa là thiếu sư, từng nắm vận
mệnh quốc gia. Bà là phu nhân, từng sống ở chốn phồn hoa, đô hội. Bà hiểu cuộc sống ở
chốn cung đình hơn ai hết. Làm vợ hoàng thái tử đó, nhưng thân phận của một người cung
phi vào chốn thâm cung, là sự đoạn tuyệt với thế giới sống, là cô đơn, là lẻ loi, đơn chiếc, là
côi cút một mình một bóng "lấy ai hú hí bạn cùng sớm khuya?". Từ "hú hí" của người bình
dân đi vào câu thơ này thật đắt. Nó miêu tả sinh động tuyệt vời cái vui thú tâm tình, đùa
giỡn trêu chọc nhau rất đời thường, rất con người. Cái vui vẻ, ấm cúng của tình cảm gia
đình ở đây càng làm nổi bật sự hụt hẫng, đớn đau, tuyệt vọng của người mẹ. Chỉ 8 câu thơ
với 56 chữ, hướng tới 4 đối tượng, mà tâm trạng, mà hình ảnh của người mẹ như hiện ra
trong từng câu, vật vã, tâm sự chất chồng. Ngôn ngữ bình dân ở đây được sử dụng hết sức
sống động. Có thể nói, tác giả Truyện Song Tinh đã xây dựng được một lời thoại thể hiện
đặc sắc tâm trạng nhân vật.

3.2.2.4.Có khi, ngôn ngữ nhân vật đóng vai trò quan trọng trong việc tạo tình huống
kịch:

Cuộc gặp gỡ tay ba Hoạn Thư - Thúc Sinh - Thúy Kiều là một trường hợp như vậy.
Đây là đoạn mật độ ngôn ngữ nhân vật dày nhất tác phẩm Truyện Kiều.

Cái đặc sắc của tình huống giao tiếp này là ai cũng đóng kịch. Ai cũng hiểu rõ cái thật,
cái giả của mình và của người khác, nhưng ai cũng làm như không biết, và ai cũng tiếp tục
đi đến tận cùng vai diễn của mình.

Trên vũ đài, ngoài một câu chống chế thảm hại, khôi hài của Thúc Sinh, còn một mình
Hoạn Thư độc diễn. Thị "cười nói tỉnh say", bày trò chơi, thét bên này, tra hỏi bên kia, làm
mưa, làm gió trên bàn tiệc. Tiệc rượu đón chồng ả mà ngoài ả ra, tất cả chìm trong câm
lặng, đau đớn, khiếp sợ. Chỉ tiếng nói nội tâm những nạn nhân của ả là ữỗi lên hốt hoảng,
quằn quại, tê tái. Ngôn ngữ đối thoại của Hoạn Thư trở thành một công cụ điều khiển tất cả,

114
khuấy đảo tất cả, uy hiếp tất cả. Hoạn Thư thét Kiều mà làm Thúc Sinh ngả nghiêng, đớn
đau, kinh hãi...

Hoạn Thư đã hết sức thành công trong vai diễn của mình. Thành công không chỉ đối
với Kiều và Thúc mà còn thành công đối với độc giả của muôn đời. Còn nhân vật nào có thể
diễn xuất đặc sắc hơn ả? Đến ả cũng phải hả hê, thỏa mãn với chính mình: "Vui này đã bõ
đau ngầm xưa nay".

Thúc Sinh khi nghĩ ra được: "thôi thôi đã mắc vào tay ai rồi" có nghĩa là chàng đã
nhận thức được vợ biết rồ mối quan hệ của mình với Thúy Kiều, đồng thời đã hiểu được
mứu đồ của Hoạn Thư. Vậy mà bị vợ gạn hỏi, Thúc vẫn nói dối! Lại trả lời:

1831. Sinh rằng: " _ Hiếu phục vừa xong,

Suy lòng trắc dĩ đau lòng chung thiên!"

Phải viện đến cái chết của mẹ để che giấu những giọt nước mắt khóc thương Thúy
Kiều! Chỉ một câu nói thôi cũng đủ cho thấy cái bi hài của tính cách Thúc, thân phận Thúc!

Xét theo vị thế xã hội, Thúc là chủ nhân ông của gia đình. Lẽ ra Thúc phải có quyền
quyết định, xếp đặt mọi việc. Thế nhưng, nghịch cảnh ở đây là đến nhận mặt vợ lẽ, Thúc
còn không dám, nói chi đến bênh vực, bảo vệ.

Buổi tiệc mừng chàng sum họp gia đình, chàng phải là người được hưởng mọi niềm
vui, hạnh phúc. Nhưng sự thực, Thúc "như dại như ngây", "phách lạc hồn xiêu", "nát ruột
tan hồn", "thảm thiết bồi hồi", và "lã chã", "sụt sùi"-chỉ toàn nước mắt.

Trong tình thế bi đát này, Kiều không nói được lời nào. Chỉ tâm hồn nàng nổi sóng.
Nàng ngay lập tức nhận thức được một cách sâu sắc tình cảnh nguy hiểm, trớ trêu mà mình
lâm vào, âm mưa thâm độc kỳ quái và bản chất nham hiểm của Hoạn Thư cũng như tính
chất, tầm độ ác hiểm của ngón đòn "nhẹ như bấc, nặng như chì" mà Hoạn Thư giáng xuống.
Ngôn ngữ nội tâm cho thấy sự thông minh, sâu sắc ương nhận thức, đánh giá con người, sự
việc của Thúy Kiều, đồng thời cho thấy cái tâm trạng lo lắng, hoảng sợ, đớn đau của nhân
vật.

Đây là một đoạn đối thoại, độc thoại mang đầy tính kịch, khái quát biết bao tấn bi hài
kịch diễn ra trong xã hội không chỉ một thời. Ngôn ngữ nhân vật đã nói rất nhiều về bản
thân các nhân vật Hoạn - Thúc - Kiều qua màn kịch này.

115
3.2.2.5.Ngôn ngữ nhân vật là một trong những phương tiện để thể hiện nhân sinh
quan, thế giới quan của nhà thơ:

Mỗi tác phẩm là một đứa con tinh thần hội tụ tâm huyết, khát vọng và những trăn trở,
uẩn ức, ưu tư của các nhà thơ. Nhiều nhà thơ đã mượn xưa nói nay, mượn người nói mình,
mượn lời nhân vật để bộc lộ chính kiến, qua đó mà bày tỏ thái độ của họ đối với xã hội và
đối với thân phận con người. Các nhà văn giai đoạn sơ kỳ và trung kỳ trung đại đã trao cho
văn chương một sứ mệnh lớn lao: dùng văn chương để phục vụ chính trị, dùng thơ văn để
đánh giặc cứu nước. Còn các nhà thơ giai đoạn hậu kỳ lại trao cho thơ văn một sứ mệnh
khác. Họ dùng thơ văn để than khóc cho nhữhg thân phận bị dập vùi. Nếu như ở giai đoạn
sơ kỳ và trung kỳ trung đại, các nhà nho dùng thơ để nói chí "thi dĩ ngôn chí", để tải đạo
"văn dĩ tải đạo", để ca ngợi cái tài kinh bang tế thế, cái đạo đức mẫu mực, cái khí tiết thanh
cao, cứng cỏi của nhà nho, thì văn học hậu kỳ trung đại nói chung, truyện thơ Nôm bác học
nói riêng, lại chủ yếu ca ngợi con người ở khía cạnh tài hoa, nhan sắc và ca ngợi tình yêu
nam nữ. Các cốt truyện đều xoay quanh chủ đề "tài tử gặp giai nhân", "trai anh hùng gặp gái
thuyền quyên". Đó là một nét đặc trưng khiến người ta không xem các tác giả truyện thơ
Nôm bác học là nhà nho chính thống mà xem họ là nhũng nhà nho tài tử. Các nhà thơ thời
này hết lời ca ngợi tình yêu, tài hoa, nhan sắc của con người, đồng thời cũng chỉ ra bi kịch
của cái tài, cái tình và cái đẹp. Ngôn ngữ nhân vật là lời phát ngôn trực tiếp cảm hứng văn
học đầy chất nhân bản cửa các nhà thơ-, cảm hứhg về thời cuộc, về thân phận con người...
Tác giả của Sơ kính tân trang đã để My Oanh thốt lên:

1131. "Tiếc thay những bậc tài hoa,

Phải đem châu báu mà pha cát lầm "

Các tác phẩm của Phạm Thái, của Nguyễn Du chính là tiếng kêu cứu đối với cái sắc,
cái tài và cái tình bị vùi dập, đặc biệt là sự "bạc mệnh" của người phụ nữ:

"Đau đớn thay phận đàn bà!

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung."

Nguyễn Du tin vào thuyết "tài mệnh tương đố" khi ông không chỉ nói bằng ngôn ngữ
tác giả "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen", "Chữ tài liền với chữ tai một vần" mà còn
dùng lời thầy tướng số nói về số phận Thuý Kiều:

"Anh hoa phát tiết ra ngoài,

116
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa"

Đồng thời, ông cũng thể hiện niềm tin và sự khát vọng của con người khi để chàng
Kim phát biểu: "Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều" thể hiện một thế giới quan,
nhân sinh quan đầy mâu thuẫn của nhà thơ. Sự tương đồng giữa ngôn ngữ nhân vật với
những lời bình luận trữ tình ngoài đề của tác giả chứng tỏ đối thoại và độc thoại được các
nhà thơ sử dụng như một công cụ hữu hiệu thể hiện chủ đề và tư tưởng tác phẩm rõ ràng,
giàu cảm xúc và mang tính khách quan hơn.

Như vậy, ngôn ngữ nhân vật còn là lời phát ngôn cho những tư tưởng triết lý của tác
giả. Qua ngôn ngữ nhân vật, có thể thấy được ảnh hưởng của tư tường Lão, Phật, Nho đối
với các nhà thơ thời này như thế nào, chẳng hạn tư tưởng nghiệp chướng, duyên kiếp, triết
lý nhân quả "hại nhân, nhân hại" của nhà Phật, thuyết "tài mệnh tương đố" của nhà nho, hay
tư tưởng thoát tục, vô vi của đạo Lão:

209. "Riêng lo đầy ắt dễ trào,

Từ quan học khách trí cao chơi hồ"(ST)

Lời tâm sự của Giang Ông đối với Song Tinh chứa đựng cả một kinh nghiệm sống,
một bài học lịch sử với triết lý về cách ứng xử hành tàng của các nho sĩ xưa, qua đó có thể
thấy được quan điểm của tác giả.

Một số nhà thơ đã xem ngôn ngữ nhân vật có vai trò như một “cơ quan thông tấn”
giúp nhà thơ trình bày quan điểm của mình theo hướng giáo huấn đạo lý hay để cảm khái
về thế thái nhân tình.

Nguyễn Đình Chiểu đã mượn lời ông Quán ương Lục Vân Tiên để tỏ bày trăm nỗi
ghét thương. Nếu không mượn suy nghĩ của Xuân Sinh trong Nhị độ mai, ai dám lớn tiếng
mà vạch trần cái bi kịch và sự thối nát của xã hội một cách công khai, thẳng thắn như thế
này:

1421. 'Thương thay trung nghĩa mấy người,

Kẻ thì oan thác người nơi nhục hình.

Trách vua Đường ở bất minh,

Dung bên gian đảng mà khinh hiền tài."

117
Có phải vì để cho những dòng thơ này được sống mà tác giả Nhị độ mai đã phải chôn
vùi cả danh tính của mình để tránh cái vạ bút nghiên?

Có thể nói, ngôn ngữ nhân vật chính là một trong những phương tiện thể hiện trực tiếp
cảm hứng văn học, thế giới quan, nhân sinh quan của tác giả. Song, nối đến ngôn ngữ nhân
vật, phải nói đến vai trò trội bật nhất của nó:

3.2.2.6.Đối thoại và độc thoại trong sự thể hiện tính cách nhân vật:

Đối thoại và độc thoại giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong sự thể hiện tính cách, đời
sống tâm lý nhân vật, qua đó bộc lộ tư tưởng, chủ đề của tác phẩm.

Các truyện thơ Nôm bác học có dung lượng đối thoại khá lớn, nhưng ngôn ngữ đối
thoại thể hiện tính cách nhân vật thì chưa nhiều, phần lớn trường hợp vẫn là tác giả mượn
lời nhân vật để phát ngôn. Tuy nhiên, một khi các nhà thơ đã sử dụng ngôn ngữ nhân vật để
xây dựng tính cách thì nhân vật của họ lại rất thành công. Trong Truyện Song Tinh, đối
thoại và độc thoại đã ít nhiều khắc họa được tính cách nhân vật: ngôn ngữ của Hách Sinh là
ngôn ngữ xấc láo hỗn xược của một kẻ ỷ thế lực, kém học hành. Đối thoại và độc thoại của
Nhụy Châu là ngôn ngữ của một cô tiểu thư cành vàng lá ngọc vừa táo bạo vừa thận trọng, e
dè. Khi táo bạo thì dám có những ý nghĩ ghê gớm: coi việc được tuyển vào cung làm vợ
hoàng thái tử là nhơ danh, bởi nó đã khiến nàng phải lỗi lời thề ước với Song Tinh. Và, vì
coi là nhơ nhuốc nên nàng quyết quyên sinh để giữ trọn niềm chung thủy:

1511. "... Sao bằng quyết chí chơi mây,

"Nguyền xưa cho trọn, danh này khéo nhơ"

Khi thận trọng thì dò xét chàng Song một cách cẩn trọng, kỹ lưỡng:

593. "Lét xem khí tượng Song Kha,

"Đành ưng báu nước ngọc nhà chủng nên.

"Chỉ hiềm hãy lạ chưa quen,

"Còn ngờ tính hạnh chưa yên dạ này."

Đặc biệt thành công hơn cả trong Truyện Song Tinh là ngôn ngữ nhân vật Nhược Hà
và Thể Vân (chúng tôi sẽ nói ở phần sau).

118
Trong Lục Vân Tiên, ngôn ngữ của Hớn Minh khắc họa rất rổ nét và sinh động tính
cách bộc trực, thẳng thắn của người nông dân Nam Bộ, tính cách của một chàng hảo hán
thấy việc bất công thì ra tay giúp người:

1159. "Đi vừa tới huyện Loan Minh,

Gặp con quan huyện Đặng Sinh là chàng.

Giàu sang ỷ thế nghinh ngang,

Gặp con gái tốt cưỡng gian không nghì.

Tôi bèn nổi giận một khi,

Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò ".

Tự nộp mình và bị đày, rồi vượt ngục, phải sống ẩn lánh trong rừng, nhưỉig gặp lại
Vân Tiên, Hớn Minh vẫn thể hiện một tâm hồn yêu đời, lạc quan, trong sáng, tin ở tương
lai. Chính vì có một tâm hồn trong sáng như thế nên Hớn Minh tỏ thái độ rất rõ ràng, quyết
liệt đối với những gì bội bạc, dầu đó là phản bội tình bạn hay phản bội trong hẹn ước hôn
nhân. Trịnh Hâm là kẻ hại Vân Tiên. Ngày vua giao cho tân trạng Vân Tiên xét xử, chàng
dẫn Hâm đến để hỏi ý bạn bè về hình thức xử hắn. Trịnh Hâm chào: "các anh". Hớn Minh
đã phản đối liền và tỏ rõ thái độ rất quyết liệt, không dung thứ đối với kẻ phản bội:

1961. Minh rằng: "_ Ai mượn kêu anh ?

Trước đà đem thói chẳng lành thời thôi.

Kéo ra chém quách cho rồi,

Để chi gai mắt, đứng ngồi căm gan."

Khẩu ngữ được ở đây được tác giả sử dụng rất tài, hệt như ngôn ngữ của đời sống. Là
thơ mà ta không nghe sự giới hạn của vần luật câu chữ. Những ý tưởng của nhân vật - mà
cũng chính là của tác giả - cứ tự do sải bước một cách phóng túng như không hề có một sự
chăm chút, gia công của người làm thơ. Ngày mẹ con Thể Loan trơ tráo đến gặp Vân Tiên
hy vọng nối lại tình xưa, ta thấy:

Hớn Minh, Tử Trực đúng coi.

2056. Cười rằng: "_ Hoa khéo làm mồi cho ong,

Khen cho lòng chẳng thẹn lòng,

119
Còn mang mặt đến đèo bòng nỗi chi,

Ca ca sao chẳng chịu đi,

Về cho tẩu tẩu để khỉ xách giày."

Trong cái giọng chế giễu, cười cợt của chàng phó tướng kia, ta thấy được cái thẳng
thắn, ngang tàng, đồng thời thấy chàng vẫn còn một chút con nít. Hớn Minh chính là nhân
vật có ngôn ngữ thể hiện tính cách rõ rệt nhất của tác phẩm Lục Vân Tiên.

Song, trong truyện thơ Nôm bác học, thành công hơn cả trong việc sử dụng ngôn ngữ
đối thoại và độc thoại khắc họa tính cách nhân vật phải nói đến nhà thơ Tiên Điền họ
Nguyễn. Sự lao động nghệ thuật đầy sức sáng tạo của Nguyễn Du thể hiện rất rõ ở mảng
xây dựng ngôn ngữ đối thoại và độc thoại nhằm khắc họa tính cách nhân vật.

Từ tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du thêm một lời độc thoại ở chỗ này,
bớt một lời độc thoại ở chỗ kia, chuyển đối thoại thành độc thoại, "sang tên" lời nói của
nhân vật này qua cho nhân vật khác, sửa đổi lại cách nói, nội dung lời nói của một số nhân
vật. Mã Giám Sinh tính toán "nước trước bẻ hoa" nhưng còn e sợ Tú Bà nổi tam bành.
Thêm một chi tiết "liều công mất một buổi quỳ" vào suy nghĩ của Mã, Nguyễn Du đã tô
đậm thêm tính cách đớn hèn, thiếu tự trọng, vô liêm sỉ của hắn.

Ngay vấn đề lựa chọn nhân vật phát ngôn, để nhân vật nói khi nào, không nói khi
nào... cũng thể hiện sự phân tích tâm lý và dụng ý nghệ thuật của nhà thơ. Ngày gặp gỡ gia
đình, Kiều muốn ở lại tu hành, đền ơn tái sinh của Giác Duyên. Trong Kim Vân Kiều truyện,
Giác Duyên, Vương Bà, Kim Trọng cùng xúm lại khuyên Kiều về với gia đình. Nội dung
lời nói của ba nhân vật, Nguyễn Du gom vào một câu. Nhà thơ trao lời nói ấy cho Vương
Ông và thêm vào một ý: "Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây?":

3051 Ông rằng: " Bỉ thử nhất thì,

Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền.

Phải điều cầu Phật cầu Tiên,

Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây?

Độ sinh nhờ đức cao dầy,

Lập am rồi sẽ rước thầy ở chung."

120
Trong gia đình Kiều, Vương Ông, Vương Bà... ai cũng thiết tha mong nàng được trở
về mái ấm. Người nhiệt tình sốt sắng tàm Kiều, tha thiết với sự hàn gắn lứa đôi là Kim
Trọng. Vì sao Nguyễn Du lại lựa chọn nhân vật phát ngôn là Vương Ông chứ không phải là
chàng Kim hay một người nào khác? Ở đây thể hiện một sự phân tích tâm lý hết sức tinh vi
của nhà thơ. Thúy Kiều bán mình, tan vỡ hạnh phúc tuổi xuân, trôi nổi cuộc đời lưu lạc là
để cứu cha và em. Trong nỗi xót thương con, Vương Ông còn canh cánh nỗi day dứt của
người cha vì sự sống còn, yên ổn của mình mà làm lỡ duyên con gái. Trao lời thuyết phục
Kiều cho Vương Ông trong trường hợp này là hoàn toàn hợp lẽ. Không ai đủ tư cách hơn
ông khi nói đến chữ "tình kia hiếu nọ" với Thúy Kiều. Nói với nàng điều này, ông hiểu con
gái biết bao! Đấy chính là lý lẽ có sức thuyết phục lớn nhất đối với Kiều.

Các thao tác của Nguyễn Du đã loại bỏ những lời nói sống sượng có tính chất tự nhiên
chủ nghĩa, có hại đối với mỹ cảm người đọc, tiết kiệm được ngôn ngữ, giản lược bớt những
chi tiết rườm rà của tiểu thuyết, khuôn chúng vừa với phương thức thể hiện của thể loại thi
ca, đồng thời mở rộng dung lượng các vấn đề được phản ánh, đem lại ý nghĩa triết lý, sức
khái quát cao, nâng cấp chất lượng của ngôn ngữ nhân vật và của toàn tác phẩm. Nhờ đó,
ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều luôn hợp tình, hợp lý, đúng lúc, đúng chỗ, đúng mực, thể
hiện tính cách nhân vật tập trung và sắc nét.

Khi xây dựng tính cách nhân vật Truyện Kiều, Nguyễn Du vừa đưa ra cái nhìn chủ
quan của ông, vừa cấp cho ta cái nhìn khách quan từ phía các nhân vật. Và đấy là một
phương pháp mà Phan Ngọc cho rằng trước đó văn học Việt Nam chưa từng có (8).

Đến lượt các nhân vật, ngoài sự tự bộc lộ chủ quan của mình, họ còn chịu sự bình
phẩm, đánh giá của các nhân vật khác. Các ý kiến này chịu sự chi phối bởi những tình cảm,
quan điểm chủ quan của mỗi cá nhân người nói, người nghĩ. Bản thân ngôn ngữ thơ là một
thứ ngôn ngữ đánh giá đối với đối tượng được đề cập tới. Ngôn ngữ tác giả cho ta cái nhìn
chủ quan của nhà văn về hình tượng văn học. Ngôn ngữ nhân vật cho ta cái nhìn khách quan
về chúng. Các nhân vật tự nói về mình, nhận xét lẫn nhau... Các tác giả truyện thơ Nôm bác
học đã dùng ngôn ngữ đối thoại và độc thoại để soi sáng nhân vật từ trong ra, từ ngoài vào
và từ nhiêu phía tới. Các lớp ngôn ngữ bổ sung cho nhau. Phương pháp này đưa đến cho ta
một sự cảm thụ trọn vẹn nhiều chiều về hình tượng thẩm mỹ từ nhiều góc nhìn khác nhau.

8
Gs.Phan Ngọc cho rằng chỉ Hoàng Lê nhất thống chí - Một tác phẩm cùng thời với Truyện Kiều - khi nói về anh hùng
Nguyễn Huệ là có sà dụng phương pháp trên [98, tr.53].

121
Nói đến sự thông minh, tài sắc của Thúy Kiều, Nguyễn Du trước hết dùng ngôn ngữ
tác giả giới thiệu. Sau đổ, qua chính sự tự ý thức và tự bộc lộ của nhân vật về tài đàn, tài
thơ, về cách xét người đoán việc, cách cư xử hợp tình hợp lý, Nguyễn Du một lần nữa
chúhg minh và khẳng định những phẩm chất đó của Kiều. Bên cạnh đấy, ông để cho nhũng
người xung quanh nhận xét, đánh giá về nàng. Từ người dương cho đến người âm, từ người
gần cho đến người xa, từ người thân cho đến người dưng... tất cả đều khen ngợi tài sắc, trí
tuệ của Kiều. 30 thành viên trong tác phẩm có ngôn ngữ nhân vật thì đã có 12 người khen
nàng: Thây tướng, Đạm Tiên, Kim Trọng, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Thúc Sinh, Hoạn Thư,
Từ Hải, họ Đô, viên quan xử kiện, Hồ Tôn Hiến, Tam Hợp đạo cô. Mỗi đối tượng, tùy tầng
lớp, ngành nghề, cá tính, tình cảm và mối quan hệ đối với Thúy Kiều mà đánh giá nhìn nhận
nàng ở nhữhg góc độ khác nhau: Kim Trọng nhìn Kiều với con mắt của người yêu, của một
văn nhân, nghệ sĩ; Mã Giám Sinh nhìn nàng với con mắt cân đong đo đếm của một gã con
buôn; Thúc Sinh xem tài sắc của nàng như đối tượng của một sự hưởng lạc... Đặc biệt,
Nguyễn Du đã để ngay cả kẻ đối kháng với Kiều như Hoạn Thư cũng không thể không thừa
nhận tài sắc của nàng.

Nhà thơ cho thấy tài sắc, sự thông minh mẫn tiệp của Kiều đã trở thành một lực hút,
một sức hấp dẫn đối với những người có tài như Kim Trọng, Từ Hải, có sức cảm hóa với
những đối tượng khác như Thúc Sinh, Thúc Ông, viên quan xử kiện. Thậm chí, có sức
thuyết phục đối với cả Hoạn Thư.

Phương pháp khắc họa tính cách đối với nhiều nhân vật khác, Nguyễn Du cũng thực
hiện tương tự.

Ý đồ nghệ thuật của Nguyễn Du trong việc dùng ngôn ngữ đối thoại và độc thoại khắc
họa tính cách nhân vật không chỉ thể hiện ở nội dung lời nói mà ở cả dung lượng ngôn ngữ.
Tiếp xúc với Sở Khanh, lượng ngôn ngữ của Kiều chỉ bằng 1/3 lượng ngôn ngữ của Sở.
Phải chăng nàng không khỏi dè dặt, nghi ngại? Trong khi đó, gặp gỡ Thúc Sinh, nàng lại nói
rất nhiều, nhất là khi căn dặn Thúc trở về dàn xếp với vợ cả. Vai trò chủ động của Thúy
Kiều ỏ đây vừa thể hiện ở nội dung, vừa thể hiện ở lượng ngôn ngữ.

Ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều đã tiến tới cá tính hóa, mang đặc trưng riêng, không ai
giống ai. Nhiều nhân vật có ngôn ngữ hai kiểu giọng.

122
Có những nhân vật, tính cách biểu lộ qua ngôn ngữ bề ngoài như Sở Khanh, Tú Bà.
Ngôn ngữ Tú Bà là một điển hình đặc sắc về ngôn ngữ cá tính hóa nhân vật - qua lời nói mà
thấy được tất cả tình cảm, hành động, tâm lý.

Trong khi đó, các nhân vật Mã Giám Sinh, Hồ Tôn Hiến, Hoạn Thư, tính cách chỉ hiện
hình khi ngôn ngữ nội tâm bộc lộ.

Tuy nhiên, tính cách của một số nhân vật Truyện Kiều vẫn được xây dựng theo
phương pháp truyền thống: tính cách một chiều. Đây cũng là đặc điểm chung của các tác
phẩm văn học trung đại, trong đó có truyện thơ Nôm bác học.

Mặc dù thể hiện loại tính cách mà văn học phương Tây gọi là tính cách phẳng (Hát
character), tính cách giản đơn (simple character), truyện thơ Nôm bác học vẫn có nhữtig
thành công đáng kể với những nhân vật mà đối thoại góp phần khắc họa tính cách nhân vật
rất sắc nét và sinh động, như lời thoại của Mai Bá Cao {Truyện Nhị độ mai) và viên đô đốc
(Sơ kính tân trang) chẳng hạn. Ngay từ lần xuất hiện đầu tiên, lời phát ngôn đầu tiên, Mai
Bá Cao đã bộc lộ tính cách:

47. Rằng: "Ta vốn kẻ trung thần

Trên vì nước dưới vì dân mới là

Ví dù theo thói người ta,

Uốn lưng co gối cũng nhơ một đời.

Lọ là cầu cạnh chi ai.

Chẳng trong lăng miếu, cũng ngoài điền viên".

Cái tâm sự "dạ này tấn tức vã người quyền gian" và mong vua tin dùng, thực hiện
được hoài bão "đàn hồ, lũ thỏ một ngày quét thanh" đã được tác giả tô đậm qua ngôn ngữ
đối thoại. Với 18 lượt lời phát ngôn thì đã có đến 8 lần Mai Công bộc lộ sự căm phẫn đối
với bè lũ gian đảng. Mai Bá Cao không chỉ bộc lộ tâm sự, thái độ và chính kiến của mình
với vợ con, với dân huyện Lịch Thành, với bạn bè thân hữu, với cả sai nha Lại bộ trong kinh
ra đón và với vua mà còn thể hiện công khai, gay gắt đối với bọn gian thần Hoàng Tung, Lư
Kỷ. Ông mỉa mai với cái giọng "đâm hông" việc Hoàng Tung 54 tuổi mà nhận Lư Kỷ 60
tuổi làm cha nuôi:

379. Ông rằng: "Thực cũng khéo là,

123
Thế mà nghĩa phụ, thế mà ân nhi.

Sống lâu thấy lắm chuyện kỳ,

Sao xưa nay vẫn không nghe tiếng đồn?

Mới hay vượng khí tướng môn,

Năm lên sáu tuổi sinh con đầu lòng."

Nhân dịp các quan mời rượu, ông nói vỗ mặt bè đảng Hoàng, Lư:

391. "Nghe hơi tử khí đâu đây,

Dấu rằng nửa chén đưa cay chẳng màng.

Đến đây vâng mệnh Thánh hoàng,

Sá vui kèo rót với tuồng quyền gian."

Mai Báo Cao khảng khái và nóng nảy. Nóng nảy đến mất khôn. Phùng Đô Sát - bạn
tâm giao của ông - đã khuyên ông một câu khôn ngoan và chí tình:

317. Chư công rằng: "Hãy kín hơi,

Nghĩ cho chín mới là người tri cơ.

Rồi đây trời cũng có ta,

Làm bao giờ, biết bấy giờ, mới cao."

Thiếu kinh nghiệm sống ỏ đất kinh kỳ, lại đang sục sôi bầu nhiệt huyết trừ gian, Mai
Bá Cao không chấp nhận đây là một giải pháp, ông chỉ thấy đây là một sự thu mình nhu
nhược, thiếu bản lĩnh.

321. Ông rằng: "Như thế thảo nào,

Bè gian tránh chẳng quyền hào lắm ru!"

Bất chấp tất cả, thách thức tất cả, Mai Bá Cao cứ làm tới. Ông đã phải trả giá cho sự sự
nóng nảy, khảng khái của mình bằng cả tính mạng và sự an bình của gia đình. Nhưng ông
đã để lại một tấm gương trung nghĩa và khí phách. Mọi lời nói của ông và mọi lời nói về
ông đều tập trung thể hiện cái tâm trong sáng và cái tính cách khảng khái, thẳng thắn, bộc
trực nhưng vô cùng nóng nảy của nhân vật. Tính cách ông là tính cách của loại kép trung
trong nghệ thuật tuồng. Lời thoại của Mai Bá Cao là ngôn ngữ tính cách của kiểu cấu trúc

124
nhân vật chức năng (nhân vật mặt nạ). Và với ngôn ngữ đối thoại, Mai Bá Cao đã có một
gương mặt riêng trong truyện thơ Nôm bác học giai đoạn này.

Thế nhưng, trong truyện thơ Nôm bác học, ngôn ngữ đối thoại không chỉ thể hiện
thành công tính cách của các nhân vật có kiểu tính cách một chiều như Mai Công - nhân vật
chính diện, viên đô đốc - nhân vật phản diện. Trong Truyện Song Tinh của Nguyễn Hữu
Hào và Truyện Kiều của Nguyễn Du còn có những nhân vật có tính cách phức tạp
(complex), nhiều mặt (many-sided), tính cách tròn (round character): vừa có những biểu
hiện của nhân vật chính diện, vừa có những biểu hiện của nhân vật phản diện. Đó là những
hiện tượng lạ của văn học trung đại. Chúng tôi sẽ đi sâu vào ngôn ngữ 5 nhân vật loại này.

3.2.3.MỘT SỐ TÍNH CÁCH ĐẶC SẮC THỂ HIỆN RÕ VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ
NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM

3.2.3.1.Nhược Hà:

Trong các chân dung những người hầu mà văn học cổ trung đại từng xây dựng, thì
chân dung cũng như ngôn ngữ Nhược Hà trong Truyện Song Tinh được xây dựiig sinh động
và thật hơn cả. Chính ngôn ngữ đối thoại đã làm nên diện mạo của nhân vật này và đã để lại
những ấn tượng thật khó quên.

Ngôn ngữ của Nhược Hà là ngôn ngữ của người ăn, kẻ ở, có phần ít học, thậm chí có
lúc vô lễ. Và là ngôn ngữ của một cô gái đáo để, nhưng thông minh.

Nhược Hà chưa có được cái tầm cỡ như Iago trong Othello của Shakespeare, nhưag
cũng là một nhân vật tiêu biểu cho loại người hay ganh tỵ, thích đưa chuyện, ưa đâm thọc
vào việc của người khác, ranh mãnh, và ngụy biện có tài - một loại nhân vật tiểu nhân ta dễ
bắt gặp, thường gặp trong đời sống.

Ngôn ngữ Nhược Hà khá linh hoạt, biến hóa. Ngay lời nói đầu tiên cất lên, Nhược Hà
đã bộc lộ tính cách. Thấy chàng Song Tinh si tình lòng tơ tưởng đến Nhụy Châu mà không
biết cách nào tỏ bày, đang đứíig trước bức vách một mình nhỏ to tâm sự, Nhược Hà kể cho
cả gia đình Nhụy Châu nghe. Xong, cô còn bồi thêm một câu:

633. ...Xưa nhìn ngỡ đấng trương phu,

Nay xem hình tướng mía đồ ma trơi."

Song Tinh là khách quý của gia đình Nhụy Châu, con nuôi của ông bà Giang Nhưng,
ương con mắt của Nhược Hà, chàng hàn sĩ này chẳng có lấy một miligram trọng lượng.

125
Nhược Hà nói với gia đình cô chủ, mà tỏ thái độ khinh khi Song Tinh một cách công khai.
Cô ta ăn nói chẳng kiêng dè, không thèm gọi "chàng" mà gọi "đồ", xưa, cô ngỡ chàng là
"đấng trượng phu". Nhưng, "ngỡ" có nghĩa là lầm tưởng. Nay, thực chất chàng chỉ là "đồ
ma trơi" mà thôi. Và cô phủ định chàng một cách không thương xót. Sự đối lập giữa "xưa" -
"nay", giữa "đấng trượng phu" và "đồ ma trơi" càng làm nổi rõ hình ảnh của Song Tinh
trong con mắt Nhược Hà, đồng thời càng làm nổi rõ thái độ của Nhược Hà đối với Song
Tinh: "đấng" trân trọng bao nhiêu thì "đồ" khinh thị bấy nhiêu! Không dưới ba lần, Nhược
Hà tỏ ý coi thường Song Tinh ra mặt, kể cả lúc đối thoại trực tiếp với Song Tinh.

Thấy Song Tinh ướm hỏi về Nhụy Châu, cô ả vùng vằng, khinh khỉnh:

737. Hà rằng: Lời khéo trái thay,

Ý ai nấy biết, tôi hay chi người."

Nhụy Châu không ra hoa đình chơi, có lẽ là vô tình, nhưng Nhược Hà lại biến nó
thành hữu ý. Cô ả nói với Song Tinh rằng ngày trước, Nhụy Châu thường chơi ở đây nhưng
nay có ý hồ nghi Song Tinh có ý đồ nên muốn lánh mặt chàng.

Nghe Song Tinh than thỏ về lời một người bạn khuyên chàng “toan bề thật rể chẳng
thà gả con”, việc đầu tiên, Nhược Hà tỏ ra đồng ý với ý kiến này, khiến Song Tinh đã bối
rối lại càng bối rối. Sau đó, cô ta còn bồi thêm một đòn:”Nuôi con làm rể thế hòng loạn
luân”. Sinh phản đối, nghi ngờ đó là ý kiến của Hà: "Chẳng hay tiếng ấy ngươi luân hay
ai?". Chính là ý của Nhược Hà, nhưng cô lập tức chối bay và "sang tên tác giả" cho người
khác:

757. "Dịp nhân từng thấy tiểu thư,

Giảng luẩn đạo lý lời xưa dặn bày"

Đặt những lời phân tích mang tính đạo lý ấy vào miệng "tiểu thư" thì còn gì phù hợp
hơn! Điều đó khiến Song Tinh không chút nghi ngờ. Không những thế, khi "sang tên" lời
nói này cho tiểu thư, Nhược Hà biết rõ là hiệu quả của nó sẽ gia tăng theo cấp số nhân. Nếu
đúng đây là lời Nhụy Châu thì nó sẽ là một đòn giáng vào Song Tinh rất nặng. Vậy là, khi
cần, Nhược Hà biết đem đạo lý để nói đạo lý, biến cái vô tình thành cái hữu ý, đoán đúng
tâm lý Song Tinh, đánh vào tâm trạng phân vân, phấp phỏng, nghi ngờ của Song Tinh,
khiến chàng đã hoang mang lại càng thêm hoang mang. Dường như để tăng tính thuyết

126
phục, Nhược Hà còn nói thêm rằng cô là người hèn kém dốt nát, khó dạy, nghe sao nói vậy,
thấy thế nào thì nói thế ấy chứ đâu có hay biết gì về luật lệ:

759. "Trân trân nan hoa thói ngây,

Vào tai ra miệng, há hay luật lề".

Cách lý luận ấy, Song Tinh không thể không tin. Và nói thế có nghĩa là Nhược Hà đã
rào trước rằng mình ...vô tội.

Một đoạn thơ 26 câu, chỉ có 2 câu dẫn là lời của tác giả, còn lại 24 câu là ngôn ngữ
nhân vật với tới 8 lượt lời, tạo nên một cuộc đối thoại rất thú vị. Nó dẫn đến một diễn biến
tâm lý tất yếu: Song Tinh hồ nghi, choáng váng và cảm thấy bế tắc: "Thật lời nàng luận ắt
thì khôn toan". Mọi cánh cửa dường như đều đóng sập trước mặt chàng. Chút hy vọng vừa
nhen nhóm lên từ cuộc nói chuyện của Thể Vân, giờ đây cũng tắt ngấm. Hết cách. Chàng
rơi vào tình trạng bấn loạn, bất tỉnh. Giữa lúc Song Tinh đang trong tình trạng như thế dù
Nhược Hà... lỉnh đi, không một phút thăm nom, không một lời han hỏi. Và cô nói rõ thái độ
của mình khi Thể Vân căn vặn:

799. "Thốt thôi trở lại môn phòng

Thương ai chẳng biết thương phong mặc người".

Coi thường Song Tinh là thế, phũ phàng với Song Tinh là thế, nhưng ngày Song Tinh
trở thành trạng nguyên, trở lại chốn xưa tìm Nhụy Châu, gặp lại Nhược Hà, chào rằng:
“_Bậu hỡi, Nhược Hà phải chăng?” thì ta nghe Nhược Hà đổi giọng, đổi cả cách xưng hô,
vừa trân trọng người, vừa khiêm nhường từ phía mình:" _ Quý nhân sao hãy nhớ chưng
danh hèn!". Khi nghe: "Trạng rằng: _ Chút đã từng quen, Mấy thu chi đó mà quên danh
mày.", ta thấy Nhược Hà cảm động, và lời nói ân tình, tha thiết, như thể tri âm gặp lại tri
âm:

1739. Hà rằng: Cảm nỗi ơn dày,

Sang hèn chẳng phụ, xưa nay mấy người."

Có vẻ như Nhược Hà giờ đây đã trở thành một con người hoàn toàn khác!

Thế nhưng, vừa nghe Song Tinh hỏi đến Thể Vân thì cái tính ganh tỵ cố hữu của Hà
lại nổi lên. Dường như Song Tinh đã chạm vào nỗi đau sâu kín nhất của Nhược Hà. Lập tức,
cô nàng nhảy nhổm như bị chọc vào tổ kiến lửa:

127
1743. Hà nghe phút chốc chau mày,

Lắc đầu, chắt lưỡi, cắn tay trìữig trừng.

Hà nói về Nhụy Châu với giọng đầy thương cảm, xót xa. Nhưng khi nói đến Thể Vân
thì giọng cô ta đai ra, mai mỉa:

1753. “Thể Vân vẽ dạng làm hình,

Khuyên lời phiền não, đẹp tình Nàng ta.

Liệu bề cắt một trọn ba,

Nhện vò đáu trác, phượng gà đoàn loan.

Từ ngày chế biến nghĩa con,

Khác hình khác dạng chẳng còn như xưa.

Hoa nhà đều gọi "tiểu thư",

Ra vào hài hán xem như là Nàng.

Ghe phen toan định đông sàng,

Hiềm vì vó ngựa, ai màng đó vay!

Rày nhân có trạng về đây,

Làm điều nồng não ấp cây đợi tằm.”

Vậy là chước "cắt một trọn ba" của Nhụy Châu ngày nàng bị tiến kinh giờ đây đã bị
gán cho Thể Vân. Ngày Nhụy Châu bị tiến kinh, để trọn tình với Song Tinh, nàng tính bài tự
tử. Thấy Thể Vân là người tâm phúc, thương cảm nàng hết tình, nên Nhụy Châu đề nghị gia
đình nhận Thể Vân làm con nuôi. Một là để Thể Vân kết duyên cùng chàng Song, thay nàng
nối lời ước cũ. Hai là để ông bà Giang có người phụng dưỡng lúc tuổi già. Ba là để nàng có
thể yên tâm lúc ra đi. Sự thật ấy đã bị Nhược Hà bóp méo. Nắm bắt một vài chi tiết, sự kiện
có thật, ả lách một cái, biến tấu một chút, mà sự việc bỗng thành đổi trắng thay đen. Khi
chuyển đổi tên chủ thể, Nhược Hà đã biến sự chân tình của Thể Vân thành một hành động
đầy toan tính và mưu mô. Sự xuyên tạc này rất dễ làm Song Tinh ngộ nhận, bởi lẽ, Thể Vân
cũng trộm nhớ, thầm yêu chàng. Nàng chờ chàng Song không chỉ vì làm theo tâm nguyện
của Nhụy Châu mà còn vì tiếng lòng của chính trái tim mình nữa. Sau khi gieo vào lòng

128
Song Tinh nỗi ngờ vực Thể Vân rắp tâm "bẫy" chàng, Nhược Hà lại tỏ ra đúng về phía Song
Tinh để ái ngại, để bênh vực, để phòng ngừa cho chàng:

1765. "E khi mắc phải câu dầm,

Sắc quyên bén vện, sen đầm bùn lây."

Cuối cùng, cô kết luận: vì e ngại cho Song Tinh mà cực chẳng đã, cô phải nói sự thật
này, chứ cô không phải là người thày lay, đưa chuyện:

1767. "Vậy nên tỏ nỗi ấy vay,

Há rằng thèo lẻo, thày lay việc người."

Một lần nữa, ta lại thấy Hà rào bọc câu nối của mình lại. Một cách nói rất tinh khôn.

Hai từ láy "thèo lẻo, thày lay" được Nguyễn Hữu Hào sử dụng ở đây thật đặc sắc.
"Thèo lẻo" là nhạy miệng, lẻo mép, đem chuyện người này học với người kia. "Thày lay" là
xen vào chuyện người khác, làm những việc mà không ai cần. Hà nhàng nháo nói rằng cô ta
chỉ tỏ bày tâm sự, tỏ bày nhũhg suy nghĩ, quan niệm chính đáng chứ không phải là một kẻ
"thèo lẻo, thày lay". Nhưng sự thật, cô ả là một kẻ "thèo lẻo, thày lay" hơn ai hết.

Với nhân vật Nhược Hà, Nguyễn Hữu Hào đã xây dựng được những cuộc đối đáp khá
thú vị. Cái đặc sắc của nhà thơ khi xây dựng nhân vật này là ông đã tạo cho nhân vật một
tính cách, một giọng điệu, một ngôn ngữ riêng. Nhược Hà hay có lối nói trùng điệp, chơi
chữ:

629. "Đời nào chẳng biết, đời ta chưa tường."

745. "Biểu huynh cũng lánh, lưa là nghị huynh."

800. 'Thương ai chẳng biết, thương phong mặc người."

Nhược Hà cũng hay thuật lại lời người khác theo lối tường thuật trực tiếp (đối thoại
trong đối thoại), như khi kể lại việc cả nhà đều gọi Thể Vân là "tiểu thư" với ý giễu cợt, mỉa
mai (câu 1759), hoặc khi thuật lại cuộc nối chuyện của Song Tinh với cô ả, như trường hợp
lời thoại ỏ câu thơ 795 - 798. Đấy là khi Nhược Hà sinh chuyện khiến Song Tinh lâm bệnh,
Thể Vân mắng, Nhược Hà cãi lại. Cô ta chẳng những dẫn lại hầu như hoàn toàn chính xác
lời của Song Tinh mà còn nhắc lại lời nói của chính mình. Có điều, đó là một lời nói chỉ
chứa một nửa sự thật, và chính vì thế, lại là một sự giả dối. Hà kể lại:

794. "Khi người đến chốn Hoa Đình,

129
Hương câu hóng mát một mình ngợi ca.

Người rằng: "Có bạn rủa ta:

"Toan bề thật rể chẳng thà giả con".

Tao rằng: "Lẽ ấy chỉn khôn,

Di luân phong hoa hãy còn luật công".

Như vậy, trong lời đối thoại của Nhược Hà với Thể Vân, có cả một cuộc đối thoại
khác: đối thoại giữa Song Tinh với Nhược Hà. Lạ hơn nữa, trong lời nói của mình, Song
Tinh còn thuật lại lời của bạn chàng. Lối đối đáp này chẳng những phản ánh đúng chức
năng, vai trò kể chuyện của đối thoại trong giao tiếp ngôn ngữ mà còn tạo nên một cấu trúc
đối thoại tầng tầng lớp lớp:

Hiện tượng đối thoại cấu trúc hai tầng vốn đã hiếm trong truyện thơ Nôm bác học. Ta
chỉ bắt gặp một, hai trường hợp trong Sơ kính tân trang và trong Truyện Kiều... Còn cấu trúc
ba tầng như của Truyện Song Tinh thì đây là trường hợp hi hữu. Nhờ lối đối thoại tường
thuật trực tiếp này, Nhược Hà đã ngụy tạo cho lời nói của mình một sự "khách quan", "vô
tư". Lời thoại ở đây trở nên rất thật và sống động, phục vụ được ý đồ của người nói. Phải đặt
Truyện Song Tinh vào vị trí của nó _ vị trí của kẻ khai sáng, vị trí của người mở đầu dòng
truyện thơ Nôm bác học _ mới thấy hết cái đặc sắc cũng như sự đóng góp của tác phẩm
trong việc xây dựng những lời đối thoại kiểu như vậy.

Lối nói của Nhược Hà rất ma mãnh. Bởi khi cần, cô nàng có thể chối tội một cách trơn
tuột. Biết ả là thủ phạm chính mà Thể Vân, Nhụy Châu không thể bắt bẻ, cũng như không
thể làm gì được ả. Lối nói này lại còn dễ bề ngụy tạo rằng lời nói của Nhược Hà là trung
thực. Nhưng sự thật là, từ một vài chi tiết có thực, Hà xuyên tạc, bóp méo chúng theo ý định
chủ quan, làm cho sự việc bị biến tướng và mang một ý nghĩa khác, bởi, như ai đó đã nói

130
rằng: "một nửa cái bánh mỹ vẫn là bánh mỹ nhưtig một nửa sự thật thì đã là sự giả dối".
Chẳng hiểu sao, Song Tinh hay có "duyên" gặp cô ta, và lần nào cũng bị mắc vào lưới nhện,
thậm chí có lúc rơi vào tình cảnh khốn đốn. Anh chàng khờ khạo si tình tin vào cô chỉ vì lối
tường thuật trực tiếp này.

Lối lập luận của Nhược Hà cũng khác các nhân vật khác trong Truyện Song Tinh - một
kiểu lập luận "phản pháo". Khi Thể Vân trách cô ta bịa chuyện khiến Song Tinh lâm trọng
bệnh, Nhược Hà đâu có vừa. Cô "ăn miếng, trả miếng" ngay. Chẳng những chối bay tội, mà
cô còn quay lại trách móc Thể Vân là người nhỏ mọn, ưa bới móc chuyện: cậu ấy thương ai
hay thương phong cũng mặc! Con vật nó còn biết thương nhau huống chi mày với tao là chỗ
bạn bè, cùng cảnh mà nỡ buộc tội nhau, kiếm cớ bươi móc nhau... Với kiểu lập luận này thì
người có lỗi không phải là cô ta mà hóa ra là... Thể Vân. Đúng là "vừa được ăn, vừa được
nói"! Nghe Nhược Hà nói, mà ta như thấy được cái điệu bộ vùng vằng, ngúng nguẩy của cô
ta.

Khi Thể Vân lấy được Song Tinh và cuộc sống của Song Tinh với Nhụy Châu, Thể
Vân diễn ra ếm đềm, hạnh phúc, Nhược Hà không còn đất diễn nữa, cô lập tức lui vào hậu
trường, chăm chỉ làm việc như một cô hầu sống biết điều, và ngôn ngữ của cô - với sắc thái
và giọng điệu riêng - cũng biến mất.

Văn học cổ Việt Nam có nhiều cô hầu, nhiữig Nhược Hà là cô hầu đáo để, "thày lay",
tinh quái, là cô hầu này, chứ không phải là cô hầu khác. Tất cả những nhân vật người hầu
trong truyện thơ Nôm bác học đều hết mực trung thành sống chết vì chủ, vun vén tình duyên
cho chủ, chỉ một Nhược Hà là phá đám chủ. Cũng chỉ một Nhược Hà mới có cái giọng
khinh thị đối với Song Tinh - một nhân vật thuộc tầng lớp trên, nhân vật chính diện - mà
thôi. Tính cách Nhược Hà chẳng những tiêu biểu cho một loại cô hầu mà còn tiêu biểu cho
một loại người trong xã hội.

Với nhân vật Nhược Hà, Nguyễn Hữu Hào đã xây dựng được một ngôn ngữ đối thoại
góp phần cá tính hóa nhân vật: qua lời nói mà thấy được tình cảm, hành động, tâm lý... tuy
chưa đạt được đến mức điển hình đặc sắc như Nguyễn Du xây dựng ngôn ngữ Tú Bà, nhưng
cũng là một thành công đáng kể của văn học trung đại.

3.2.3.2.Thể Vân:

Thể Vân là một thị nữ tâm phúc của Nhụy Châu. Đây là người con gái thông minh, táo
bạo nhưng ứhg xử khôn khéo nhất Truyện Song Tinh, cũng là người con gái tinh nghịch

131
nhất truyện thơ Nôm bác học. Không phải ngẫu nhiên, Nguyễn Hữu Hào đã dành khá nhiều
giấy mực để viết về nhân vật này: ông dành cho cô 37 lần đối thoại và 2 lần độc thoại với
174 câu thơ. Tần suất ngôn ngữ hội thoại của cô chỉ đứng sau Song Tinh và Nhụy Châu mà
thôi. Đối thoại chính là phương tiện hữu hiệu nhất bộc lộ tư chất cũng như tính cách của cô
trong mọi trường hợp.

Phẩm chất được thể hiện rõ nhất của Thể Vân là sự thông minh: thông minh trong xét
đoán con người và sự vật, thông minh trong việc tìm ra những giải pháp tháo gỡ. Song Tinh
vừa lâm bệnh, Vân lập tức đoán ra chứng bệnh trầm kha của chàng: "Dù chăng thương thử,
ắt thì tương tư.". Không những thế, cô còn chỉ rõ cả nguyên nhân nguồn bệnh:

782. “Bệnh chàng sinh ở Nhược Hà chẳng ai”

Đọc được tâm trạng "vì ai nỗi để lòng mang não sầu" của Nhụy Châu đối với Song
Tinh, lại cũng đoán biết được sự e dè của nàng, thấy được cái hữu hạn của đời người, những
bước đi vô hình vùn vụt của thời gian và cơ hội không dễ có của hạnh phúc tuổi trẻ: "Người
đời dường ngựa qua song, Xuân qua thu lại má hồng dễ phai.", Thể Vân khuyên cô chủ
"phá rào", sống với tình cảm thực của mình, mạnh dạn đến với người mình yêu dấu. Táo
bạo hơn, Vân còn dám xui cô chủ hãy chủ động đến với tình yêu: cứ liều đến với tình yêu
đi, cô sẽ được nếm mật ngọt của nó: "Quyết liều chiêu bướm, ắt lần nếm châu"!

Cô mách cho Nhụy Châu cách chữa bệnh tương tư cho chàng Song:

853. "Nội kinh chẳng đặng thì ngoài,

"Đem người mà lại chữa người mới yên."

Cái phương thuốc "đem người mà lại chữa người mới yên" của cô gái mà Song Tinh
từng khen là "tính tuệ có dư" này quả là hiệu nghiệm. Nó chẳng những cứu được tính mạng
của Song Tinh mà còn tạo nên một mảnh đất màu mỡ cho một tình yêu tươi đẹp nảy nở.

Sự thông minh, khéo léo của Thể Vân lại một lần nữa thể hiện khi cô trao thư của
Nhụy Châu cho Song Tinh. Hiểu rõ tình cảm sâu nặng của Song Tinh đối với Nhụy Châu,
biết chàng không dễ gì chấp nhận người khác, nhiữig cô không muốn mất đi cơ hội của
mình. Thể Vân biết rõ Song Tinh có thể từ chối cô, nhưng không thể từ chối thực hiện
nguyện ước cuối cùng của Nhụy Châu, mong Song Tinh "thương lan" mà "đoái trúc", nhất
là khi Nhụy Châu đã vì thủ tiết với chàng mà trở thành người thiên cổ. Vì vậy, việc đầu tiên
là cô từ chối đưa thư cho Nhược Hà cầm ra cho Song Tinh, đòi Song Tinh phải đến tận nơi

132
mà nhận để cô có thể thuật lại lời Nhụy Châu. Nếu cô thấy yên tâm thì mới trao thư. Nếu
thấy khác ý thì sẽ cho ném thư xuống nước:

1844. "Nói rằng ai có nhớ lời,

"Xin dời gót ngọc hỏi người lầu trang.

"Đặng cho thuật lại lời nàng,

"Hẳn lòng khi ấy phong vàng mới trao.

"Dễ đâu tính nước kíp trào,

"Tờ mây ắt phó dòng đào, sá chi."

Đưa ra yêu cầu này, Thể Vân đã tạo nên một ấn tượng: rằng cô hết sức trân trọng
những lời nhắn nhủ của Nhụy Châu. Một cái gì đó thật trang trọng, thiêng liêng đối với
người đã khuất. Điều đó khiến Song Tinh thực sự cảm động:

1852. Rằng: "Sao nghe vậy dám sai nửa lời".

Khi chàng đến, Thể Vân:

1861. Miệng chào rằng: "Tử vi lang!

"ơn thay còn đoái, đạo hằng chẳng vong.

"Rằng ngày chị chọn vào cung,

"Mấy niềm tâm sự phó trong tờ này.

"Dặn sau ai có về đây,

"Xem trong tờ ấy thì hay dạ nàng.

"Nay là vâng chiu lời vàng,

"Mấy ai ở đặng cho toàn thủy chung."

Nàng khen chàng không quên đạo thường, còn đoái đến nghĩa cũ. Như vậy là mở.
Nhưng lại bảo "mấy ai ở đặng cho toàn thủy chung". Như thế là buộc: buộc Song Tinh vào
danh dự của người quân tử, buộc Song Tinh vào với những gì chàng và Nhụy Châu đã từng
hẹn ước, buộc Song Tinh vào với lời trăn trối tha thiết, gan ruột ương bức chúc thư của
Nhụy Châu. Người ta không dễ gì nhận thấy được là Thể Vân đang buộc Song Tinh vào với
chính nàng. Mà có thấy thì cũng không thể nói khác nhũiig gì nàng nói. Bởi Thể Vân đã biết
vin vào một lí do đầy sức thuyết phục: cô làm như vậy là làm theo nguyện ước của Nhụy

133
Châu, là "vâng chịu lời vàng". Cô đã biết tác động vào tâm lí chàng Song: vì yêu thương
Nhụy Châu mà phải chấp nhận sự dàn xếp của người quá cố:

1929. "Chẳng nghe, trước tủi lòng nàng,

"Sau là chạnh ý lưỡng đường đó vay."

Lòng đầy đau đớn, Song Tinh chẳng còn bụng dạ nào mà nghĩ đến chuyện ái ân,
nhưng chàng không thể từ chối hôn lễ với Thể Vân được. Thể Vân đã biết dùng "lạt mềm
buộc chặt", buộc Song Tinh vào với bức chúc thư của Nhụy Châu để có được cho mình
hạnh phúc. Khôn ngoan đến thế là cùng!

"Cờ đến tay ai người ấy phất". Thể Vân không phải là kẻ cơ hội, nhưng là một cô gái
sống rất thực tế. Khi cơ hội đến, cô đã biết "phất cờ", tận dụng triệt để dịp may hiếm có của
mình.

Để thể hiện rõ tư chất thông minh này, Nguyễn Hữu Hào xây dựng ngôn ngữ Thể Vân
vừa có chất uyên bác, hiểu biết, sách vở của giới quý tộc, vừa có cái sâu sắc, giản dị, thực
tiễn và chân tình của người bình dân. Thể Vân ưa nói chữ, thích dùng tục ngữ. Ngôn ngữ
mang tính triết lí, đầy sức thuyết phục, bởi vì cô là một người hiểu mình, hiểu người. Ta hãy
nghe giọng nói vừa có lí vừa có tình của cô khi gạn lời khuyên Nhụy Châu:

1271. "Dám xin gác lấy cơn phiền,

"Tùy cơ ứng biến ngõ tuyền cựu minh.

"Xưa nay mấy khách chung tình,

"Hễ là hảo sự, đã đành đa ma.

"Trời còn có bụng thương ta,

"Đắng qua ngọt lại, thu xa đông vầy.

"Chân duyên chẳng nệ kíp chầy,

"Ngự câu hồng diệp xưa nay còn truyền."

Một loạt các thành ngữ, tục ngữ, điển tích, điển cố như "tùy cơ ứng biến", "hảo sự đa
ma" (việc tốt đẹp phải trải nhiều gian nan: tình yêu tốt đẹp phải chịu nhiều thử thách), “đắng
qua ngọt lại” (khổ tận cam lai), "ngự câu hồng diệp" được sử dụng ở đây và sự đồng cảm
của cô đối với nỗi đau chia cắt của Nhụy Châu đã khiến cho lời nói của Thể Vân đầy sức
thuyết phục.

134
Ngôn ngữ của Thể Vân không phải chỉ giàu tính triết lý mà còn có cái táo bạo, tinh
nghịch mà văn học viết trung đại trước đó chưa từng có. Thây anh chàng si tình Song Tinh
đứng lầm rầm nói chuyện với bức vách khi tơ tưởng đến Nhụy Châu, Thể Vân giả bộ không
biết gì về tình cảm của chàng. Cô mặc sức trêu chọc: đất này sơn thủy hữu tình, có núi che
chắn, vây bọc, tha hồ mà kín đáo!

Thiếu gì chỗ cho khách hương phấn, yên hoa! Người có chạnh ý ham muốn gì thì hãy
liều bỏ ra năm ba lạng đỡ khi đang ngặt. Hơi đâu mà phải tưởng tượng, rồi một mình reo
cười, than chào vơi bức vách không:

651. "Đất này thủy tú sơn minh,

"Nga Mi án dựng, Thúy Bình trướng vây.

"Yên hoa hương phấn chen bày,

"Đuột dòng Tây Tử đã đầy bượp chỉ.

"Ví dù chạnh thửa ý kia,

"Liều năm ba lạng đỡ khi ngặt ngào.

"Hơi đâu vẽ nguyệt điểm sao,

"Reo cười nhà vắng, than chào vách không."

Dưới thời phong kiến, con gái mà dám nói với con trai nhữỉig chuyện "động trời" như
thế thì quả là táo bạo. Càng táo bạo hơn nữa khi cô nàng dám nói chuyện đó với một nho
sinh.

Đối với cô chủ, Thể Vân cũng... không tha. Sự tình nghịch của Thể Vân lại được tác
giả khắc họa một lần nữa khi để cô trêu chọc Nhụy Châu khi thấy nàng đêm ngày mong đợi
tin Song Tinh:

1053. "Rày đà gần tiết Trừng dương,

"Thu lâu sao vắng hạc vàng bày thông,

"Chớ chi đặng cái chỉnh hồng,

"Trừu trầy coi thử âm phong thế nào."

(Nay đã gần tiết Trùng dương (mùng 9 tháng 9), mùa thu sang đã lâu rồi, sao vắng
thấy chim hạc bay từng đàn mang tin thư. Trái lại, nếu ta bắt được một con chim hồng từ xa

135
tới thì phải biết. Ta sẽ vạch lông nó xem thử nó có mang phong thư báo tin chàng ra sao?"
(Hoàng Xuân Hãn diễn nghĩa [55, tr.123]).

Đêm tân hôn, Song Tinh ra phòng ngoài, không chịu thành thân với vợ. Nàng hỏi:
"Nghìn vàng một khắc bỏ qua sao đành?"

Chính với tính cách thẳng thắn, táo bạo ấy của Thể Vân đã cho phép Nguyễn Hữu Hào
xây dựng nên một cuộc đối thoại độc đáo hiếm có trong lịch sử văn học truyện thơ Nôm bác
học: cuộc đối thoại giữa Nhụy Châu và Thể Vân sau bao ngày xa cách, sau bao nhiêu biến
động, chuân chuyên. Bằng ngôn ngữ hội thoại, Nguyễn Hữu Hào cứ tiếp tục cho nhân vật
của mình đi đến tận cùng của sự táo bạo. Nhụy Châu dù đã kết nghĩa với Thể Vân, coi cô
như em gái và đã trao duyên cho cô, nhưng còn nặng lòng với Song Tinh, nên không giấu
được sự tò mò. Nàng hỏi Vân về đêm tân hôn. Ta hãy nghe cuộc hội thoại giữa họ:

2157. Nàng rằng: Ngày đẹp hoa phòng,

"Đào thơ gặp trận gió dông thế nào?"

Vân rằng: Khát đứng bờ ao!

"Đói ăn bánh vẽ, chiêm bao thấy vàng!

"Đèn soi hang tối không tường,

"Dép xuyên khăn sửa, lẽ thường ai suy."

Nàng rằng: Vui miệng hỏi chơi,

"Ghen tuông chỉ đó, nỡ lời man nhau.

"Cá hang khi gặp nước sâu,

"Dễ ai cấm đặng đâm đầu vẫy đuôi!"

Vân rằng: "_ To chỉ nhỏ mồi,

"Cá khôn linh tính lội xuôi chẳng dừng.

"Có ưng, không nghĩ cũng ưng;

"Bấy giờ hầu dễ đãi đằng, ai thương!"

Một chuyện vô cùng khó nói thẳng thắn với nhau là chuyện vợ chồng đêm tân hôn.
Vậy mà các cô gái này dám hỏi và dám trả lời không một chút kiêng dè!

136
Với một giọng mỉa mai, chua chát, Thể Vân đã "lật bài ngửa", nói "trắng phớ" mọi
chuyện, không giấu giếm tâm trạng chán chường, bẽ bàng về thứ hạnh phúc hão trong đêm
tân hôn của mình. Gs. Lê Trí Viễn bình: " ...Tra và xưng đều táo tợn như nhau. Ngang
ngang, thô thô, nhưng sắc nhọn, ý vị. Đó là một nét khó lẫn lộn, một nét miền Nam, một nét
mới trong tâm hồn Việt Nam." [56, tr.9].

Cái táo bạo và thành thật ấy ở Thể Vân có lẽ sẽ là tiền đề cho cái táo bạo và thành thật
của thơ Hồ Xuân Hương ỏ thế kỷ sau.

Dùng biện pháp ẩn dụ và phương thức ước lệ, tượng trưng, tác giả Truyện Song Tinh
đã làm cho các nhân vật của mình thẳng thắn, táo bạo mà không đi vào thô lỗ, sỗ sàng. Và
họ có thể đi đến tận cùng những ngóc ngách sâu kín của tâm trạng mà không rơi vào sự vô
duyên, thô thiển. Một cuộc nói chuyện rất hiện đại! Chỉ với cuộc hội thoại vẻn vẹn 14 câu
thơ, phải chăng Truyện Song Tinh đã làm một cuộc cách mạng trong văn chương về quan
niệm tình dục?

Từ một thị nữ, từ tầng lớp bình dân, Thể Vân bước vào thế giới của tầng lớp quan lại
cấp cao. Nguyễn Hữu Hào đã chuẩn bị ngôn ngữ cho Thể Vân trước khi nàng bước vào giới
thượng lim, để nàng hoàn toàn có thể bước vào một cách đĩnh đạc, đường hoàng, có tư thế
và có tư cách. Với Thể Vân, Nguyễn Hữu Hào đã tạo nên một sự thay bậc, đổi ngôi cho
nhân vật của mình trong văn học trung đại, thể hiện tư tưởng dân chủ của tác giả.

Cái môtíp người hiền, người ngoan trở thành vua, trở thành hoàng hậu như Thạch
Sanh, cô Tấm... là một môtíp có tính chất quốc tế, phổ biến trong văn học dân gian và cũng
có mặt trong một số truyện thơ Nôm bác học. Nhưng đó phần lớn là những nhân vật của
những khát vọng và những ước mơ. Còn Thể Vân là loại nhân vật khả dĩ có thật trong cuộc
đời.

Xây dựng hình tượng Thể Vân, Nguyễn Hữu Hào tập trung vào những nét tính cách
chủ yếu của nhân vật: thông minh, táo bạo, tính nghịch, sống thực tế và cũng rất trung
thành. Ngôn ngữ biến hóa nhiều giọng điệu, sắc thái của Thể Vân chính là công cụ sắc bén
làm nên một tính cách đặc sắc, một hình tượng sống động tiếu biểu cho loại nhân vật đổi đời
của thơ Nôm trung đại. Cùng với hình tượng Nhược Hà, hình tượng Thể Vân cũng là một
thành công, một đóng góp đáng kể của Nguyễn Hữu Hào đối với văn học cổ điển Việt Nam.

137
3.2.3.3.Thúy Kiều:

Thúy Kiều là nhân vật được Nguyễn Du hết mực yêu thương. Nguyễn Du đã bắt gặp ở
tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân một nhân vật có số phận lạ kỳ để gửi gắm "nỗi đau nhân
tình" trước "những điều trông thấy".

15 năm lưu lạc: 2 lần tự tử, 2 lần làm lẽ, 2 lần làm đĩ, 3 lần đi tu...

Tài hoa, nhan sắc, đức hạnh, có hiếu, có tình... mà nàng Kiều bị mua về, bán đi như
một món hàng, bị đánh đập chửi bới vô tội vạ ...

Bên cạnh bi kịch chung của người con gái tan vỡ mối tình đầu, người phụ nữ lấy
chồng chung, người vợ bị chết chồng... Thúy Kiều còn có những cảnh ngộ riêng: hai lần làm
lẽ là hai lần nàng bị đẩy đến cảnh oái oăm, quái gở: vừa bước chân vào nhà người chồng thứ
nhất, vợ cả bắt nàng gọi mụ là mẹ, gọi chồng là cha (cậu). Đến nhà người chồng thứ hai,
quan hệ vợ chồng của nàng bị vợ cả " làm ra con ở chúa nhà đôi nơi", nơm nớp lo âu, thăm
thẳm cách biệt. Vợ cả nắm toàn bộ quyền sinh, quyền sát Thân phận nàng chỉ là cái kiến,
con ong. Nàng buộc phải làm đĩ trong nhà người chồng thứ nhất, chịu kiếp tôi đòi và phải đi
tu ngay trong nhà người chồng thứ hai.

Nàng tự tử để bảo toàn danh tiết, bỏ trốn để thoát kiếp bùn nhơ. Nhưng, bi kịch của
nàng là muốn chết cũng không chết được, muốn trốn cũng không trốn thoát. Càng cố ngoi
lên thì càng bị nhấn xuống...

Người chồng thứ ba bán nàng cho hành viện.

Nàng vừa là nạn nhân, vừa là tội nhân trong cái chết của người chồng thứ tư - người
mà đối với nàng vừa là ân nhân, vừa là tri kỷ.

Nàng bị ép gả cho người đàn ông thứ năm; mất tất cả quyền làm mẹ, làm vợ, "chẳng tu
thì cũng như tu" trong nhà người chồng thứ sáu... Cuộc đời nàng nghịch lý chồng chất
nghịch lý.

Trong văn học Việt Nam, chưa bao giờ có một tác giả nào lại dám đương đầu với thực
tế phũ phàng, để cho nhân vật của mình bị đày đọa nhục nhằn, đau đớn như Nguyễn Du
từng để Kiều chịu đựng.

15 năm mà nỗi đau của Kiều như chung đúc nỗi thống khổ nghìn năm của ngàn vạn
người phụ nữ bất hạnh trong xã hội.

138
Chọn một nhân vật có số phận lên thác, xuống ghềnh cực kỳ éo le, khi tột đỉnh vinh
quang, lúc tột cùng tủi nhục, cay đắng, Nguyễn Du đã xây dựng nên một Thúy Kiều có tính
cách phong phú, phức tạp, một Thúy Kiều đầy ắp cảnh ngộ, đầy ắp tâm trạng, đầy ắp kinh
nghiệm sống, với một sự kết hợp lạ kỳ - "sự kết hợp của tâm hồn trong sạch với thể xác nhơ
bẩn", khái quát nhiều phương diện và phẩm chất đạo đức của người phụ nữ Việt Nam và
của dân tộc.

Ngôn ngữ đối thoại, độc thoại đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc thể
hiện tính cách và thân phận Thúy Kiều. Không phải ngẫu nhiên, Nguyễn Du đã dành tới
40% ngôn ngữ đối thoại và 68,5% ngôn ngữ độc thoại trong tác phẩm cho Kiều (nàng tham
gia 69 lần đối thoại với 476 câu và 35 lần độc thoại với 189 câu).

Có những nét tính cách, Nguyễn Du khắc họa chủ yếu bằng ngôn ngữ nhân vật. Ngôn
ngữ tác giả ỏ đây lu mờ hẳn. Nói về tình cảm gia đình sâu nặng và sự hiếu nghĩa của Thúy
Kiều, trong lúc ngôn ngữ tác giả chỉ được dùng đôi ba lần, thì Nguyễn Du đã 18 lần dùng
ngôn ngữ nhân vật để thể hiện. Đối với bản thân Thúy Kiều, tần số xuất hiện của tình cảm
này chiếm tới 1/7 số lần đối thoại, độc thoại của nhân vật (14/104 lần). Ngôn ngữ đối thoại
của Từ Hải, Giác Duyên, Đạm Tiên, Tam Hợp đạo cô, Vương Ông... cũng góp phần soi
chiếu tình cảm ấy của nàng.

Nếu như ở chỗ này, Nguyễn Du khắc họa tính cách Thúy Kiều chủ yếu bằng ngôn ngữ
nhân vật, thì ở chỗ kia, ông lại tước bỏ lời đối thoại hoặc độc thoại của Kiều để làm nổi rõ
một nét tính cách khác. Cuộc đời đẩy Kiều đến chỗ lấy tới 6 đời chồng. Nhiữig, Kiều lấy
Mã Giám Sinh là vì nàng phải quyết định "Dê cho để thiếp bán mình chuộc cha". Với Bạc
Hạnh là vì "cùng đường" phải "tính chữ tòng". Với thổ quan là vì bị Hồ Tôn Hiến gán ép.
Hai ương số ba cuộc hôn nhân nói trên đã khiến nàng có ý định tự tử. Với những cuộc hôn
nhân bất đắc dĩ này, tiếng nói của Thúy Kiều là một sự câm lặng. Chỉ đời sống nội tâm của
nàng nổi sóng, nổi gió. Trong trường hợp này, "im lặng là đỉnh cao âm thanh". Nó biểu hiện
một thái độ, một sự phản ứng của nhân vật. Rõ ràng, khi nào sử dụng ngôn ngữ đối thoại
cho nhân vật, khi nào không - là một dụng ý nghệ thuật của nhà thơ.

Nguyễn Du rất chú ý thể hiện sự thống nhất trong ngôn ngữ Thúy Kiều, qua đó mà
biểu hiện sự nhất quán trong tính cách.

Suốt tác phẩm, ta nghe tiếng nói chân tình mà thấu tình, đạt lý của nàng. Khi thì tiếng
nói ấy nhắc nhở Kim Trọng lúc chàng có chiều đi quá giới hạn của quan hệ tình cảm. Lúc

139
nó như ngọn gió xua tan đám mây đen dồn tụ nhữhg nỗi uất ức dẫn đến ý định tự tử của
người cha. Nàng phân trần điều hơn lẽ thiệt "phận tôi, vốn người" với Tú Bà, "trong ấm
ngoài êm" với Thúc Sinh, lẽ đời "càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều" với Hoạn Thư và
việc "để tiếng" "nghìn năm" với Từ Hải... Ngày tái ngộ cùng Kim Trọng, nhắc đến đạo vợ
chồng, ta vẫn nghe giọng nói ấy khi nàng bày tỏ với người yêu: "chữ trinh còn một chút
này...".

Ngôn ngữ Thúy Kiều vừa lý trí, vừa tình cảm, đầy kinh nghiệm và tâm trạng. Đó là
tiếng nói "mà trong lẽ phải có người có ta" của một người con gái bao giờ cũng đặt mình ở
vị trí khiêm nhường nhất, thiệt thòi nhất, luôn luôn chịu trách nhiệm cao nhất về hành động
của mình.

Với trái tim nhân hậu, vị tha, trước mỗi biến cố xảy ra, Kiều luôn nghĩ đến nỗi đau của
người khác và tự kết tội bản thân với một "logic thiên lệch mà cảm động" [160, tr.103]: "Vì
ta khăng khít cho người dở dang" khi tình yêu tan vỡ; "Trăm điều ngang ngửa vì tôi" khi
chấp nhận làm lẽ Thúc Sinh; và "Trong mình nghĩ đã có người thác oan" khi Từ Hải bị hãm
hại...

Từ Hải chết một phần do lỗi của Kiều, nhưng trước hết là do sự phản bội của viên
"tổng đốc trọng thần", và một phần nữa là do sự thiếu cân nhắc, suy xét kỹ lưỡng của chính
Từ Hải. Trong cuộc đối thoại với Hồ Tôn Hiến, Kiều công nhiên ca ngợi Từ - người chống
lại triều đình - là "đấng anh hùng" trước mặt kẻ đại diện ngai vàng. Đấy là một cách "lên án
công khai khá độc đáo trong đó tên của người bị hy sinh gợi ra tên của người bị lên án" [84,
tr. 226]. Nhưng trước hết, nàng tự kết tội mình đã đẩy Từ đến chỗ thiệt mạng oan uổng.

Nàng tự tử không phải vì ý định thủ tiết với chồng theo quan niệm phong kiến như
Ngọc Khanh của Truyện Hoa tiên. Dẫu yêu tha thiết cuộc đời, "tiếc công cha mẹ thiệt đời
thông minh", song, con người tuyệt vời ý thức trong lương tâm nàng đã không cho phép
nàng sống:

2631. "Giết chồng mà lại lấy chồng,

Mặt nào mà lại đứng trong cõi đời?"

Nhân vật nữ của các truyện Nôm thường tự tử khi họ có nguy cơ bị xúc phạm về mặt
thể xác. Nhân phẩm cao nhất mà họ giữ gìn, bảo vệ là sự tiết trinh.

140
Nguyễn Du cũng có một dòng sông để nhân vật của mình tự vẫn. Nhưíig, dòng sông
của Tố Như không phải là phương tiện, là cứu cánh giúp người con gái bảo toàn danh tiết,
mà là nơi giải thoát cuối cùng cho một kiếp khổ đau.

Đối với Thúy Kiều, sự xúc phạm về mặt thể xác tuy gây nên những thương tổn không
gì bù đắp nổi, nhưng cũng chưa đến mức làm nàng phải chết. Chỉ đến khi chồng bị giết,
nàng vừa chịu nỗi đau của một nạn nhân, vừa chịu sự giày vò, dằn vặt, ân hận ghê gớm
ương lương tâm của một người nghĩ mình là kẻ có tội, thì chính nỗi đau tinh thần cùng cực
này mới làm cho nàng hoàn toàn gục ngã. Xem tình nghĩa, danh dự, thể diện trọng hơn tính
mạng, ngôn ngữ nhân vật cho thấy Thúy Kiều ý thức về nhân phẩm, về giá trị đạo đức làm
người hết sức sâu sắc.

Tiếng nói ý thức ấy đã theo nàng đi suốt cuộc đời. Từ buổi đầu "nắng giữ mưa gìn"
khi gặp gỡ, thề bồi với Kim Trọng, đến sự tự ý thức "phẩm tiên rơi đến tay hèn" khi phải
chung sống với Mã Giám Sinh. Hoàn cảnh càng nghiệt ngã, trớ trêu, ý thức về nhân phẩm
của Kiều càng bộc lộ rõ.

Rơi vào lầu xanh, nàng giẫy giụa, vùng đạp. Tự tử. Chạy trốn. Cam chịu đòn ở chốn
cửa công... Nàng tìm hết cách để thoát khỏi kiếp đời ô nhục. Đem cả tính mạng quyết giữ
gìn phẩm giá: "Đến điều sống đục sao bằng thác trong". Khi không thoát được, phải "lấy
thân mà trả nợ đời", nàng luôn ở trong một tâm trạng tủi nhục, đớn đau, dằn vặt, mất mát.
Nàng phải tiếp khách mà tâm hồn, nhân cách không sa đọa. Đêm ngày nhức nhối một giấc
mộng hoàn lương.

Nghe Tú Bà dạy mánh khóe nhà nghề, Thúy Kiều của Thanh Tâm Tài

Nhân chỉ một chút ngạc nhiên, sau đó là sự thành tâm của kẻ học việc: “Té ra là như
thể, con xin lĩnh hội cẩn thận” [54, tr.176]. Còn Thúy Kiều của Nguyễn Duthì cảm thấy tủi
hổ, nhục nhã, đau xót một cách thấm thìa:

1219. Những nghe nói đã thẹn thùng:

“Nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe!

Xót mình cửa các buồng khuê,

Vỡ lòng học lấy những nghề nghiệp hay!

Khéo là mặt dạn mày dày.”

141
Rơi vào lầu xanh một lần nữa, Thúy Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân còn cổ thể hỏi giá
cả mụ chủ mua mình, bình phẩm về sự lời lãi với một giọng đủng diửig, ráo hoảnh. Tất cả
phản úng của nàng chỉ là một tiếng thở dài. Nàng buông xuôi, chấp nhận cuộc đời, coi mình
là món hàng, mất hẳn ý chí phản kháng. Thúy Kiều của Nguyễn Du rơi vào cảnh ngộ đó thì
đau đớn, uất ức, bi phẫn, tức tưởi. Sáng tạo nhũng đoạn độc thoại đặc sắc nói về cái "giật
mình mình lại thương mình xót xa", cái thao thức, nhức nhối, ê chề ương tâm hồn nàng,
Nguyễn Du đã tạo dựng nên một Thúy Kiều nặng trĩu suy tư và sự tự ý thức về phẩm giá,
nhân cách.

Chính vì ghế tởm cuộc sống ô nhục, Kiều mới thẳng tay trừng trị những kẻ đã đày đọa
nàng.

Qua hàng loạt lời đối thoại của Kiều trong buổi báo ân, báo oán, Thanh Tâm Tài Nhân
tuy thể hiện được triết lý của nhân dân "ác giả ác báo", nhưng lại để nhân vật của mình rơi
vào sự say sứa với ý tưởng trả thù và những hình phạt man rợ theo kiểu phong kiến trung cổ
phương Đông. Còn Thúy Kiều của Nguyễn Du sau lời phân tích lẽ thiệt hơn: "Hại nhân,
nhân hại sự nào tại ta", nàng chỉ tuyên án một câu ngắn gọn: "Thề sao thì lại cứ sao gia
hình".

Lược bỏ ngôn ngữ đối thoại ở đây so với nguyên mẫu, Nguyễn Du đã nâng tính cách
nhân vật và nâng cao hiệu quả thẩm mỹ của hình tượng văn học. Thúy Kiều của ông trừng
phạt nghiêm khắc đối với tội nhân, nhưng không phải là con người tàn nhẫn, man rợ. Phiên
tòa và sự phán xử của nàng phù hợp với khát vọng công lý của nhân dân, đồng thời thể hiện
được khát vọng sống trong sạch hết sức mãnh liệt của một Thúy Kiều quật khởi.

Chưa bao giờ ương văn học Việt Nam, con người ý thức về nhân phẩm, về quyền được
hạnh phúc lại sâu sắc như văn học giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII -nửa đầu thế kỷ XIX. Và
không nhân vật nào tập trung những phẩm chất ấy rõ nét hơn Thúy Kiều.

Đề cao quyền con người, tố cáo những thế lực đen tối chà đạp lên nhân phẩm, hạnh
phúc và khát vọng chân chính của con người, giá tri nhân đạo của Truyện Kiều có ý nghĩa
muôn thuở.

Một mặt thể hiện sự nhất quán của tiếng nói ân tình, đầy ý thức, trách nhiệm ở Kiều,
mặt khác, Nguyễn Du lại thể hiện ngôn ngữ Thúy Kiều có nhiều sắc thái, giọng điệu, phản
ánh một tính cách phức tạp, đa dạng, có sự phát triển.

142
Sự phong phú của ngôn ngữ Thúy Kiều thể hiện dưới nhiều hình thức.

Mỗi lần nhớ nhà, nàng lại có một tâm trạng khác. Thuở ban đầu, những cảm nhận sự
xa cách về không gian tràn ngập ương nỗi nhớ: "Dặm nghìn nước thẳm non xa". Sau này, nó
chuyển thành nỗi nhớ gắn liền nhữhg cảm nhận về sự xa cách thời gian: "Chốc đà mười mấy
năm trời". Những cung bậc của tình cảm thương nhớ ấy hoàn toàn hợp với cảnh ngộ và
logic tâm trạng nhân vật trong từhg thời điểm cụ thể.

Cái chung của nỗi nhớ này là: lần nào, trong tâm tưởng nàng cũng dội lên một sự
thương cảm, xót xa: mẹ cha tuổi tác ngày một ngả về chiều mà nàng - người con gái lớn
trong gia đình lại không được tự tay chăm sóc, phụng dưỡng. Nàng hiểu tình cảm của mẹ
cha dành cho mình với một sự đồng cảm gan ruột:

2237. "Xót thay huyên cỗi xuân già,

Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi?"

Trong tiếng nói hướng nội của tâm tình, Kiều tự thương mình qua tâm trạng của người
khác - tâm trạng cha mẹ - những người thật sự yêu thương nàng:

1255. "Dặm nghìn nước thẳm non xa,

Nghĩ đâu thân phận con ra thể này!"

Thương mình trong nỗi thương nhớ mẹ cha và vì thế càng thương mẹ cha hơn. Cách tư
duy này khiến tình cảm nhân vật thêm tầng tầng, lớp lớp, đem lại nét riêng cho tâm trạng
nhổ nhà của Thúy Kiều. Nguyễn Du đã góp vào thơ cổ Việt Nam viết về đề tài này một sự
thể hiện mới.

Bên cạnh đó, trong nỗi nhớ của Kiều, chữ "hiếu" luôn nằm trong một môi trường tình
cảm có phạm vi rộng hơn: tình gia đình. Nó không chỉ là sự hy sinh, là nỗi day dứt về bổn
phận của người con đối với mẹ cha, mà còn là tình thương, nỗi nhớ, niềm lo đối với hai em
nữa. Đó là một tình cảm rất đời thường, rất con người, nhưng ít được thể hiện trong văn học
cổ. Kim Vân Kiều truyện không có được những đoạn độc thoại lắng sâu bộc lộ nét tình cảm
này. Thể hiện tình con cái đối với mẹ cha gắn liền với tình chị em, Nguyễn Du đã làm cho
nhân vật của mình có một đời sống tình cảm gia đình phong phú, tinh tế và chữ "hiếu'' của
Kiều có một sắc thái riêng, không trộn lẫn với bất cứ ai.

Thúy Kiều trong Kim Vân Kiều truyện luôn miệng nói đến hành động bán mình cứu
cha của mình. Nàng vì cha nhưng cũng vì muốn lưu danh liệt nữ. Thanh Tâm Tài Nhân xây

143
dựhg nàng thành đại biểu của chữ "hiếu" nằm trong khái niệm đạo đức phong kiến. Còn
Thúy Kiều của Nguyễn Du không lần nào nhắc lại việc đó trước mọi người. Hành động cứu
cha của nàng không phải là thứ huy chương trung diện làm vinh dự cho nhân vật. Nàng
Kiều của Nguyễn Du là con người của tình cảm, là hiện thân, là biểu tượng của người con
hiếu thảo, không phải là hóa thân của một khái niệm khô khan. Nàng sống với chữ "hiếu"
không phải bằng lý trí mà bằng tiếng nói tự con tim. Nàng không so đo, tính toán, cũng
không kể lể về hành động hy sinh của mình. Tình cảm gia đình của nàng lắng sâu ở thế giới
bên trong, thể hiện qua tiếng lòng đau xót, nhớ nhung lặng lẽ, chân thành và kín đáo - Rất Á
Đông!

Những lần nói về nỗi nhớ nhà của Thúy Kiều, Nguyễn Du thường để chính ngôn ngữ
nội tâm của nhân vật tự phát sáng, tự bộc lộ. Tiếng nói nơi sâu thẳm tự đáy lòng đem lại cho
tình cảm này của nhân vật một sức biểu hiện chân thật, thấm thìa. Nỗi nhớ ấy xuất phát từ
một nguồn mạch lớn: tình gia đình của Thúy Kiều. Từ ương cõi vô thức, trong niềm ẩn ức
của tâm hồn nàng, tiếng gọi của tình cảm gia đình có một sức nặng sâu xa. Nó như một lực
hướng tâm mạnh mẽ, mãnh liệt, không gì cưỡng nổi. Qua ngôn ngữ Thúy Kiều, người ta
thấy được: vì nó, nàng sẩn sàng hy sinh hạnh phúc lứa đôi. Nó có thể ngăn nàng tự tử sau
đêm tân hôn nhớp nhúa với Mã Giám Sinh. Nó đã trở thành một trong những động cơ chính
thúc đẩy Kiều khuyên Từ Hải ra hàng. Nó là nguyện vọng cuối cùng mà nàng đề đạt với Hồ
Tôn Hiến. Khi nguyện vọng ấy bị chà đạp một cách phũ phàng, ý nghĩa cuối cùng của cuộc
đời đối với nàng cũng tắt.

Có thể nói, chữ "hiếu" và tình cảm gia đình có sức hấp đẫn đặc biệt đối với Thúy Kiều
trong mọi trường hợp. Cả cuộc đời vinh, nhục, tử, sinh... những bước thăng trầm của đời
Kiều luôn gắn với tình cảm rất đẹp, rất con người này.

Nhân vật này kết tinh những nét đặc trưng trong tình cảm của người Việt Nam, con
người của một dân tộc trân trọng nghĩa tình, hết sức coi trọng tình cảm gia đình, lòng hiếu
thảo của con cái đối với mẹ cha, một dân tộc có Lục Vân Tiên khóc mẹ đến mù cả mắt,
Thúy Kiều bán mình để cứu cha và Thoại Khanh cắt tay mình lấy thịt nuôi mẹ...

Sáng tạo những đoạn độc thoại nội tâm bộc lộ nỗi nhớ của Thúy Kiều, Nguyễn Du cho
thấy nàng là một con người sống rất sâu sắc với mỗi trang đời, mỗi tình cảm của mình. Tính
cách nhân vật được dân tộc hóa và được biểu hiện tính tế, phong phú.

144
Sự đa dạng của ngôn ngữ Thúy Kiều, trước hết, được quyết định bởi nội dung mà nó
chuyển tải.

Những lời đối thoại của Kiều vừa giàu sắc thái biểu cảm, vừa thấm đẫm tính triết lý.
Nó là ảnh xạ của một tâm hồn đa cảm và một trí tuệ sắc sảo, thông minh: nàng nhìn hiện
tượng mà thấy được bản chất. Gặp một nấm mồ hoang, nhãn lực của Kiều dường như đã
nhìn thấu không chỉ một thân phận đơn độc, khổ đau, mà còn nhìn thấu một định mệnh
nghiệt ngã thâu tóm bao số phận con người của cả một thế giới - thế giới đàn bà - khái quát
mọi kiếp sống trầm luân, khổ ải: "Đau đớn thay phận đàn bà! Lời rằng bạc mệnh cũng là
lời chung."

Qua ngôn ngữ nhân vật, Nguyễn Du còn thể hiện Thúy Kiều là một con người hết sức
táo bạo. Sau quyết định bán mình, nghĩ đến cảnh phải chung sống với "tay bợm già" Mã
Giám Sinh, nàng xót xa tiếc nuối đã chưa hết mình với Kim Trọng:''Biết thân đến bước lạc
loài, Nhị đào thà bẻ cho người tình chung." Sống với chồng mà tiếc mình chưa hiến thân
cho người yêu! Có thể nói, suy nghĩ ấy rất lạ, rất táo bạo nếu không nói là quá sức táo bạo
đối với nền đạo đức phong kiến và với các cô gái trong thời đại của nàng. Nhưng, trong
hoàn cảnh của Kiều, và với tình yêu nồng nàn mà nàng dành cho Kim Trọng, suy nghĩ ấy
hoàn toàn thực tế, hợp lẽ, thích đáng. Song, những suy nghĩ thầm kín ấy, văn học phong
kiến không dám tỏ bày. Thúy Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân cũng không có. Chỉ Thúy
Kiều của Nguyễn Du là đã đi trước thời đại hàng trăm năm. Khát vọng hạnh phúc mãnh liệt
không gì có thể kiềm tỏa.

Dám có những ý nghĩ táo bạo đã là ghế gớm. Dám nói những điều ghê gớm, Thúy
Kiều của Nguyễn Du càng táo bạo hơn.

Vừa thoạt gặp Từ, ngay phút đầu tiên, Kiều đã hiểu được khát vọng, tài năng, tiềm
năng, sức mạnh của Từ, thấy được Từ sẽ là bậc đế vương ương lúc Từ còn "bốn bể không
nhà" với hai bàn tay trắng. Lập tức, nàng gửi gắm thân phận mình - một kỹ nữ lầu xanh -
cho Từ:

2195. Thưa rằng: " _ Lượng cả bao dong,

Tấn Dương được thấy mây rồng có phen.

Rộng thương nội cỏ hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau."

145
Ký thác thân phận của một kỹ nữ cho một kẻ mà Kiều tin chắc rằng sẽ trở thành một
đấng quân vương và dám nói điều đó thành lời. Không có cái phân vân "một dày một mỏng
biết là có nên" như đối với Kim Trọng. Hoặc nỗi băn khoăn dài như đối với Thúc Sinh. Phải
tin ở sự phóng khoáng, độ lượng, bao dung của Từ và phải tự tín ở phẩm chất, tài năng của
mình đến bậc nào, Kiều mới dám có sự gửi gắm thẳng thắn, táo bạo đến như vậy. Ngôn ngữ
nhân vật đã tạo nên được sự đột biến trong thể hiện tính cách.

Qua ngôn ngữ đối thoại và độc thoại, Nguyễn Du khắc họa được những nét trái ngược
của tính cách Thúy Kiều.

Sắc sảo, thông minh, Kiều nhanh chóng nhận biết và có những nhận xét chính xác về
Kim Trọng, Từ Hải, Thúc Sinh, nhưng lại liên tiếp bị mắc lừa nhữhg Mã Giám Sinh, Sở
Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh, Hồ Tôn Hiến.

Kiều sâu sắc khi lo ngại một cách chính đáng về Hoạn Thư qua những điều nàng nghe
đồn đại:

1485. "E thay những dạ phi thường,

Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông."

nhưng lại tỏ ra hời hớt qua việc: sống chung với Thúc Sinh một năm mà Kiều không biết tên
tuổi, gia cảnh người vợ cả, để đến rơi vào nhà ả mà không hay. ở trong nhà họ Hoạn suốt
một năm mà Kiều không biết chồng Hoạn Thư chính là chàng Thúc, để đến khi gặp, cả
Thúc lẫn Kiều đều rơi vào bi kịch.

Nàng thiếu hẳn những câu hỏi tò mò của một người đàn bà!

Kiều ngay thẳng, chân thật với mọi người, nhiửig có lúc lại nói dối, mà lại là nói dối
Giác Duyên - một vị chân tu - ngay khi nàng cũng là một kẻ tu hành, hiểu rõ về "ngũ giới"
của nhà Phật!

Đâu là sự thật lịch sử? Đâu là "sự lỡ tay của thiên tài" [54, tr.28]? Đâu là sự cố ý ương
thủ pháp nghệ thuật của Thanh Tâm Tài Nhân và của Nguyễn Du? Chỉ biết, nhờ tính chất
không hoàn hảo này, nhân vật Thúy Kiều thêm phức tạp, phong phú và gần với con người
đời thường của cuộc sống.

Kiều chủ động bán mình làm lẽ Mã Giám Sinh song vẫn không phải là con người phụ
bạc.

146
Nàng trải qua 6 đời chồng mà vẫn là hiện thân của tình yêu thủy chung.

Nàng sống ở nơi trụy lạc, sa đọa mà vẫn là con người trong trắng.

Nàng hai lần sống ở chốn thanh lâu mà một ông quan thâm hậu lễ nghĩa, đạo đức, học
thức Nho gia như Kim Trọng vẫn khẳng định nàng là người con gái tiết dinh.

Kiều dường như đã vi phạm hàng loạt chuẩn mực về lễ nghĩa, đạo đức phong kiến
nhưng lại là biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam: giàu tình
cảm và đức hy sinh, nhân hậu, thủy chung, hiếu nghĩa, chí tình, suốt đời không ngừng đấu
tranh vươn lên vì hạnh phúc và nhân phẩm.

Nhìn ở góc độ này, Thúy Kiều dường như "đầy khuyết điểm, đầy tội lỗi" (có không ít
nhà văn, nhà thơ đã nhìn nàng dưới góc nhìn như thế!). Còn nhìn ở góc độ kia thì nàng là
một con người hoàn toàn ngược lại. Làm cho người đời thương cảm, yêu mến một con
người "đầy khuyết điểm", "đầy tội lỗi" như Thúy Kiều quả là một điều lạ, một điều kỳ diệu,
thể hiện cái tài lỗi lạc, vô song của nhà thơ. Tạo ra hiệu ứng ngược từ sự tương phản mạnh
ấy, Nguyễn Du đã biến nhân vật của ông thành trung tâm của những cơn bão - không chỉ
trong cuộc đời nàng mà cả trong đời sống văn học dân tộc bao thế kỷ. Đó là cái tài hết sức
đặc biệt của nhà thơ. Cái tài ấy đã nâng tầm nhân vật vượt xa nguyên mẫu.

Ngôn ngữ nhân vật đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên hiệu ứng kỳ lạ này.

Tiếng nói nội tâm Thúy Kiều khi xa cách Thúc Sinh, Từ Hải đã thể hiện những nét tâm
lý tinh tế, phức tạp mà cũng rất thực của tâm trạng: nàng cùng lúc nhổ đến hai người đàn
ông: một - người chồng, một - người tình. Cái tài của Nguyễn Du là qua ngôn ngữ độc thoại
của Thúy Kiều, nhà thơ cho thấy nàng không phải là con người ăn ở hai lòng đối với chồng,
đồng thời lại là người rất mực thủy chung đối với người yêu cũ.

Nàng tính toán lấy chuông vàng, khánh bạc nhà Hoạn Thư nhưng không có manh tâm
của một kẻ ăn cắp: vừa gặp Giác Duyên, nàng đã trao lại tất cả: "Bản sư rồi cũng đến sau,
Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh".

Nhiệt tình, tích cực, chủ động đến với tình yêu của chàng Kim,

441. Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường,

Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa."

147
Và rồi cũng chính những lời đối thoại của Thúy Kiều đã cho thấy nàng táo bạo, phóng
khoáng trong tình yêu, song vẫn là con người chừng mực, đoan trang, không phải là kẻ tà
dâm, phóng túng:

461. "Đừng điều nguyệt nọ, hoa kia,

Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai."

Chính ngôn ngữ nhân vật đã khiến người ta buộc tội Thúy Kiều. Nhưng cũng chính
ngôn ngữ nhân vật đã giúp nàng tự cởi trói...

Nguyễn Du còn dùng sự đa dạng của giọng điệu, hình thức ngôn ngữ đối thoại và độc
thoại để thể hiện sự phong phú, đa dạng và sự phát triển của tính cách nhân vật.

Truyện cổ tích, truyện Nôm và các tác phẩm văn học phong kiến nói chung, nhân vật
không có sự phát triển tính cách, không có giọng điệu ngôn ngữ riêng. Một đôi trường hợp
có tiếng nói riêng, như viên đô đốc trong Sơ kính tân trang, Mai Bá Cao trong Nhị độ mai,
Hớn Minh trong Lục Vân Tiên thì giọng điệu của họ không thay đổi bởi tính cách họ nhất
thành bất biến.

Ngay trong Truyện Kiều, Kim Trọng bước vào tác phẩm với một giọng say tình như
thế nào thì bước ra, vẫn một giọng say tình, ân tình như thế ấy.

Thúy Kiều của Nguyễn Du là một trường hợp khác. "Nhân vật nổi loạn" này là một
hiện tượng phá vỡ thi pháp trung đại. Hoàn cảnh xã hội như một dòng thác lũ cuốn phăng
nàng đi. Nàng trôi nổi, lênh đênh, cố giữ nhữtig gì để mình vẫn là mình, nhưng tính cách đã
chịu sự tác động của hoàn cảnh. Dù vậy, nàng vẫn là nàng, không là ai khác.

Sống ở nơi "êm đềm trướng rủ màn che", gặp gỡ Kim Trọng, giọng nói của nàng là
giọng nói đằm thắm, dịu dàng của một người con gái khuê các e ấp, tình tứ. Bước vào cuộc
đời đầy cạm bẫy, lọc lừa, đầy biến động, phong ba, nàng vẫn giữ được tiếng nói chí nghĩa,
chí tình, chính xác, tinh tế, đúng mực, nhưng ngôn ngữ của nàng đã có nhiều thay đổi, thích
ứng với nhiều hoàn cảnh.

Nàng nghĩ về người chồng đầu úên:"Tuồng chi là giống hôi tanh" đầy ghê tởm, khinh
bĩ!

Nàng vạch mặt tên lừa đảo sỏ Khanh:"Rõ ràng mặt ấy mặt này chứ ai!" Cũng thật đáo
để!

148
Lúc phải khuất phục thế lực đen tối, tàn bạo của Tú Bà, hãy nghe nàng thề thốt:"Thân
lươn bao quản lấm đầu, Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa. "! Người ta "chừa" thói hư,
tật xấu, chứ ai "chừa" một giá trị đạo đức tốt đẹp bao giờ? Hơn nữa, lại là "chừa" đức hạnh,
tiết trinh đối với một người con gái! Còn gì mỉa mai hơn, bi đát hơn? Với câu nói của Kiều,
Nguyễn Du đã đưa "cái bi thảm trong thơ Việt Nam lên tới cái mức từ trước tới nay chưa thi
sĩ nào đạt được" (Nguyễn Hiến Lê)[79, tr.28].

Nung nấu ý định ngày lìa gia đình dứt áo ra đi: "Dao này thì liệu với thân sau này",
Kiều sẩn sàng tự tử khi danh dự bị xúc phạm, và khi có điều kiện, cũng sẩn sàng mượn lưỡi
gươm của Từ Hải đem lại cái chết thảm khốc cho nhữhg kẻ đầy đọa nàng xuống kiếp bùn
nhơ với một lời tuyên bố khá nghiêm khắc, quyết liệt: "Xem cho rõ mặt biết tôi báo thù!".

Như vậy, tùy cảnh ngộ cụ thể mà có lúc Kiều chao chát với Sở Khanh, chua chát với
Tú Bà, thẳng thừng với Thúc Sinh, mỉa mai, mát mẻ với Hoạn Thư...

Ngày gặp lại Kim Trọng, vẫn là giọng nói ân tình hơn thiệt thuở nào, nhưng, trong lời
nối của nàng đã có khí vị mặn xẵng. Ngôn ngữ dồi dào yếu tố ước lệ nhiều lúc đã nhường
chỗ cho tiếng nói của đời sống sinh hoạt hàng ngày.

Đó mới chính là hiện thực cuộc đời.

Sự biến thiên của ngôn ngữ là một biểu hiện về sự linh hoạt, uyển chuyển của tính
cách. Thúy Kiều là con người "dĩ bất biến, ứng vạn biến". Tính cách nàng đa dạng và
"mềm" hơn rất nhiều so với tính cách Thúy Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân.

Để thể hiện sự đa dạng của tính cách Thúy Kiều, Nguyễn Du còn dùng một thủ pháp
mà các nhà văn trung đại rất kiêng kỵ sử dụng cho ngôn ngữ nhân vật chính diện: ông tạo
độ lệch giữa ngôn ngữ bên ngoài và ngôn ngữ bên ương, nhân vật nghĩ thế này mà nói thế
khác. Đó là khi Nguyễn Du để Thúy Kiều khuyên Từ Hải đầu hàng. Trong suy nghĩ của
Kiều có cái e sợ cuộc đời trôi nổi "mặt nước cánh bèo" của quá khứ, cái bấp bênh như
"chiếc bách giữa dòng" của hiện tại. Tất cả báo trước một tương lai vô định, mờ mịt. Nàng
so sánh nó với viễn cảnh "thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì" mà nàng được hứa hẹn.
Trong đó, nàng được rất nhiều:

2479. "Công tư vẹn cả hai bề,

Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương.

Cũng ngôi mệnh phụ đường đường,

149
Nở nang mày mặt, rỡ ràng mẹ cha.

Trên vì nước, dưới vì nhà,

Một là đắc hiếu, hai là đắc trung."

Viễn cảnh ấy sẽ thỏa mãn hai nguyện vọng lớn của nàng: được yên ổn và được sum
họp. Mẹ cha nàng sẽ được mở mày, mở mặt vì con cái hiển vinh!

Điều đáng lưu ý ở đây là: suy tính về việc đầu hàng của Từ Hải mà suốt cả đoạn độc
thoại, Kiều chỉ nghĩ đến sự hơn thiệt của bản thân, tuyệt nhiên không một chút mảy may
nghĩ đến Từ và sự nghiệp của Từ. Nguyễn Du đã đi trước thời đại, hướng tới tâm lý xã hội
đô thị, biểu hiện ương con người phong kiến mầm mống của tư tưởng xã hội tư bản: tính
chất cá nhân. Tính toán cho cá nhân, nhưng đến lúc khuyên Từ, lời lẽ của Kiều lại hoàn toàn
khác: nàng nói với Từ như thể, tất cả, nàng chỉ vì chữ "trung" đối với vua và vì sự nghiệp
của Từ. Nghe có vẻ rất vô tư! Ngôn ngữ Kiều ở đây mang tính mục đích.

Nói đến ơn mưa mốc của nhà vua và cuộc dấy binh của Từ "để tiếng về sau", lý lẽ
Kiều mâu thuẫn với chính những bất hạnh của đời nàng, mâu thuẫn cả với lồi tin tưởng, gửi
gắm của Kiều đối với Từ buổi đầu gặp gỡ. Nó cũng trái hẳn với suy nghĩ và chí ngang dọc
tung hoành của Từ. Vậy mà lại "mặn mà" đối với Từ, biến chàng từ một người anh hùng
"trước cờ ai dám tranh cường" thành người "vội vàng" "quyết đường giải binh" thì kể cũng
lạ. Chính những chi tiết này đã khiến nhân vật Truyện Kiều "mỗi người là một thao trường
tranh cãi, không bao giờ hết" [98, tr. 139].

Nhìn hình thức, Kiều nói khác những gì nàng nghĩ, và tự mâu thuẫn với chính mình.
Thực ra, ngôn ngữ bên ngoài và ngôn ngữ bên trong của nhân vật có một điểm chung: niềm
khao khát một cuộc sống yên ổn!

Vì sao quân đội của Từ đang binh hùng, tướng mạnh, chiến thắng dồn dập, khí thế
ngất trời mà Kiều lại có tâm trạng "e dè sóng gió, hãi hùng cỏ hoa" như vậy? Cái tâm sự:

2493. “Ngẫm từ dấy việc binh đao,

Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu.”

đã giải thích phần nào tâm trạng của nàng.

Cũng như người thiếu phụ trong Chinh phụ ngâm, Kiều buổi đầu chỉ thấy hào quang
của nghiệp đồ vương bá. Nhận thức là một quá trình. Trải qua sự kiểm nghiệm thực tiễn của

150
bản thân, nàng mới hiểu chiến tranh là khốc liệt, tàn bạo. Cuộc dấy binh của Từ không rõ
mục đích. Kiều nhìn về chiến tranh không phải với con mắt của nhà chính tri, quân sự, mà
bằng con mắt của một người phụ nữ, một người dân, thấy chiến tranh gắn liền với máu
xương, chết chóc. Bản chất của phụ nữ là ưa chuộng hòa bình. Hơn nữa, Kiều không thể
không phấp phỏng mỗi lần chồng cầm quân nơi "tên reo đầu ngựa, giáo dan mặt thành".

Đời Kiều "đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân". Bài học mới nhất nàng tiếp thu được
là khi bước vào và bước ra khỏi gia đình Thúc Sinh - Hoạn Thư qua cửa của hai phiên tòa.
Phiên tòa lần đầu, nàng còn là kỹ nữ - tội nhân. Phiên tòa lần sau, nàng đã trở thành Vương
phu nhân - chánh án. Một sự thay bậc đổi ngôi ghê gớm. Những đảo lộn bất ngờ đã đem đến
cho nàng tâm trạng: "Thiếp như con én phải làn cây cong". Thấp thỏm cho tính mệnh của
Từ, số phận của mình, dù đang trên đỉnh cao của quyền lực và giàu sang, Kiều vẫn có tâm
trạng phập phồng "ở không yên ổn".

Không dày dạn, cơ mưu, rành rẽ kiến thức quân sự như Thúy Kiều của Thanh Tâm Tài
Nhân, lời lẽ nàng Kiều của Nguyễn Du phù hợp với cảnh ngộ và hiểu biết của nhân vật: một
sự ngây thơ về chính trị và mứu đồ quân sự. Kiều nhẹ dạ tin vào sự phỉnh phờ của viên tổng
đốc, ngỡ thuyết phục Từ Hải đầu hàng, nàng sẽ chẳng những được tiếng "đắc trung" mà còn
có điều kiện thỏa mãn khát vọng riêng tư: được sống bình yên và gia đình sum họp.

Hiểu Từ là người nuôi chí tung hoành, không bị níu kéo bởi "thói nữ nhi thường tình",
nên, muốn thuyết phục được chàng, nàng không thể bày tỏ những suy tính cá nhân. Nàng
phải đứng trên quan điểm "vì sự nghiệp" của Từ mà nói với Từ để chàng không phản ứng,
đồng thời phải đứng trên quan điểm của giai cấp phong kiến tuyên truyền ơn mưa móc, ấn
công hầu trong việc đầu hàng để thuyết phục được Từ. Vì vậy, lý lẽ của nàng phải giống
một vị thuyết khách, cho dù có chỗ, nàng tự mâu thuẫn với chính mình.

Quả nhiên, chọn cách nói này, Kiều đã thuyết phục được chồng. Từ Hải nghe theo vì
luôn tin tưởng ở "con mắt tinh đời" của vợ. Vô tình, Kiều đã đẩy chồng đến chỗ chết, và làm
tan tác đạo quân của công lý và tự do lo vạn tinh binh của Từ.

Nguyễn Du nêu cả một bài học lịch sử thông qua một số phận, một quyết định hành
động của nhân vật. Tính chít Me đẩy hành động, quyết định đối với bước phát triển của biến
cố, tình tiết cốt truyện của ngôn ngữ nội tâm thể hiện ở đây rất rõ.

Đành rằng sai lầm của Kiều còn có một yếu tố nữa: nếm mùi vị của quyền lực, phú
quý, giàu sang, Kiều cũng mắc "căn bệnh xã hội" của một số phần tử trong giới quan chức:

151
tham danh, hám lợi, ưa nịnh, thích của đút lót: "lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu"... Nhưng,
qua ngôn ngữ độc thoại - những gì thật nhất trong tâm hồn Kiều - Nguyễn Du cho ta thấy
yếu tố này chỉ có tính chất phụ gia. Nhà thơ "bắt mạch" "căn bệnh" của nhân vật: nguyên
nhân sâu xa thúc đẩy Kiều khuyên Từ Hải đầu hàng là nàng mong được sống bình an và gia
đình đoàn tụ. Nói lên điều đó, Nguyễn Du hiểu Kiều, hiểu phụ nữ biết chừng nào! Cao Bá
Quát trong lời Tựa Truyện Hoa tiên nói: "Kim Vân Kiều là lời nói hiểu đời"[154, tr.11]
chính là vì vậy.

Bi kịch của Thúy Kiều có sức tố cáo lớn đối với xã hội đương thời: xã hội Truyện
Kiều là một xã hội thối nát, tàn bạo. Nó không chỉ hủy hoại tài, sắc -những giá tri tình thần
và vật chất quý giá của con người - mà nó còn hủy diệt cả những tình cảm đạo đức hết sức
tốt đẹp: niềm tin, tình gia đình và khát vọng về một cuộc sống bình yên, hạnh phúc.

Xây dựng Từ Hải thành một người anh hùng, thoát ly hình tượng gốc của nó trong tác
phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân - một tên cướp biển - sai lầm của Kiều càng nhân lên gấp
bội. Chuyển lời thuyết hàng của ả thị nữ - tay chân Hồ Tôn Hiến - thành ngôn ngữ nội tâm
của Thúy Kiều, ngôn ngữ nhân vật đa dạng thêm và tính cách nhân vật càng trở nên phức
tạp, kỳ lạ.

Tiểu thuyết cận đại và hiện đại thường đặc biệt chú trọng đến phân tích tâm lý nhân
vật, lấy tâm trạng để xét đoán hành động.

Ở đây, ngôn ngữ nhân vật Thúy Kiều, đặc biệt là ngôn ngữ nội tâm, cũng đem lại cho
ta một cách nhìn như thế. Tiếng nói tự thân của nhân vật đã giúp người đọc khám phá ra
"con người trong con người" của Thúy Kiều, thấy được đời sống tâm lý phong phú, tính
cách phức tạp của nàng.

Nàng phạm sai lầm nhưng tâm hồn nàng vẫn thực sự cao đẹp, sáng trong.

Khi "tâm hồn tự soi bóng" [74, tr.228], Thúy Kiều được giải oan trước cống luận
nghìn năm!

Xây dựng nhân vật chính diện có ngôn ngữ đối thoại hai kiểu giọng giàu tính triết lý
và giàu sắc thái biểu cảm, có lúc tạo độ chênh giữa ngôn ngữ bên ngoài và ngôn ngữ bên
trong để thể hiện quá trình tâm lý không bằng phảng, nhữtag khúc khuỷu, quanh co, bí ẩn
của tâm hồn, dùng ngôn ngữ đối thoại và độc thoại để thể hiện sự phát triển tính cách xã hội
của nhân vật... tất cả đã làm nên sự cách tân táo bạo vượt thời đại trong bút pháp nghệ thuật

152
của nhà thơ Nguyễn Du, đem đến cái nhìn khách quan về hai mặt của một con người. Nhờ
đó, Thúy Kiều của ông vừa thông minh, sống động, vừa phong phú, phức tạp, có sức khái
quát cao. Nàng là người khi cao thượng, lúc có vẻ tầm thường, vừa đáng thương, vừa đáng
phục, vừa đáng trách.

Cái thần tình của Nguyễn Du là ông đã xây dựng một nhân vật dường như vi phạm
hàng loạt các chuẩn mực đạo đức xã hội phong kiến, nhưỉig thực chất nàng là hiện thân của
những giá trị đạo đức tốt đẹp, sáng trong. Có thể xem nàng là biểu tượng của tinh thần và
tâm hồn dân tộc, là kết tinh của những tình cảm người, giá trị người. Nàng đã vượt lên trên
bão táp của số phận, là con người nhất ngay trong những cảnh ngộ phi nhân tính nhất. Tính
cách nàng là sản phẩm của một thời đại bão giông.

Biên độ dao động rất lớn của ngôn ngữ đối thoại và sự phong phú của ngôn ngữ độc
thoại đã góp phần không nhỏ trong việc khắc họa sự phức tạp, phong phú của tính cách
Thúy Kiều.

3.2.3.4.Hoạn Thư:

Nguyễn Du yêu nhất nhân vật Thúy Kiều nhiữig lại xây dựng đặc biệt thành công nhân
vật Hoạn Thư. Qua các sáng tác của ông, như "Khổng tước vũ" (Chim công múa), "Phản
chiêu hồn"... có thể thấy được: không chỉ hình tượng người kỹ nữ, kẻ tài hoa mà cả loại
người "miệng mật lòng gươm" cũng nằm ương vùng đề tài ám ảnh nhà thơ họ Nguyễn. Đây
là một trong những nhân vật Truyện Kiều đem đến cho bạn đọc nhiều tình cảm, cảm xúc trái
ngược.

Người ta có thể thông cảm cho động cơ hành động của Hoạn Thư - nạn nhân của chế
độ đa thê - nhưng người ta không ưa tâm địa thị.

Xét về mặt đạo đức, thị có thể làm cho người ta ghét. Nhưng xét về mặt ý nghĩa
thưởng thức - thẩm mỹ của hình tượng văn học, tính cách nhân vật này lại có một sức hấp
dẫn lớn đối với mọi thế hệ độc giả ngồi trước trang Kiều.

Hoạn Thư bề ngoài dường như không có tính cách nhưng bên trong lại sâu sắc hơn ai
hết.

Nếu xem lời tâm sự của Hoạn Thư với Hoạn Bà là ngôn ngữ nội tâm dưới hình thức
đối thoại - vì nó thuật lại suy nghĩ của ả - thì có thể cho rằng, nhìn trên khía cạnh dung

153
lượng ngôn ngữ, Hoạn Thư thuộc loại người nói ít, nghĩ nhiều. Đầu óc đầy nhữtig âm mưu,
tính toán, nhiửig ngôn ngữ đối thoại hết sức ngắn gọn, có tính hành động, tính tác động cao.

Xét về ý nghĩa bề mặt, ý nghĩa tự thân, ngôn ngữ đối thoại của Hoạn Thư không có gì
đặc sắc, không ỉn đậm dấu ấn chủ quan, màu sắc cá tính, tâm lý nhân vật như kiểu ngôn ngữ
Tú Bà. Gs. Nguyễn Lộc nói: "tính chất "không đặc điểm"... là đặc điểm ngôn ngữ đối thoại
của Hoạn Thư." [88, tr.74] chính là vì vậy.

Cái đặc sắc trong việc biểu hiện tính cách nhân vật của ngôn ngữ Hoạn Thư là ở sự
mâu thuẫn và thống nhất của ngôn ngữ bên trong với ngôn ngữ bên ngoài, đặc biệt là ở sự
tương hỗ giữa lời nói với văn cảnh, giữa lời nói với thái độ, hành động. Tách ra khỏi ngữ
cảnh, ngôn ngữ đối thoại của Hoạn Thư không có giá trị cao. Nhưng đặt trong văn cảnh,
trong mối quan hệ chặt chẽ giữa lời nói -suy nghĩ - thái độ - hành động,... nó trở nên độc
đáo, sống động vô cùng. Đặc sắc của ngôn ngữ Hoạn Thư chính là ở lối nói.

Phải nghe cái ngôn ngữ nội tâm và lời tâm sự riêng của ả khi tính toán mưu mô kế
hoạch trả thù chồng cùng vợ lẽ của chồng:

1549. - "Làm cho nhìn chẳng được nhau,

Làm cho đày đọa cất đầu chẳng lên.

Làm cho trông thấy nhãn tiền,

Cho người thăm ván bán thuyền biết tay!"

1617. - "Làm cho cho mệt cho mê,

Làm cho đau đớn ê chề cho coi.

Trước cho bõ ghét những người,

Sau cho để một trò cười về sau."

mới thấy hết cái đáng sợ của Hoạn Thư, khi ả gặp Thúy Kiều và Thúc Sinh tình tự, mà vẫn
"cười cười nói nói ngọt ngào".

Trong mưu tính của ả, điệp từ "làm cho" được nhắc đi nhắc lại như một sự đay nghiến,
chì chiết, chà đi, xát lại đối với các nạn nhân cho đến nhuyễn, đến nhừ người. Nhiữig nghe
những lời nói bên ngoài, người ta không thể chê trách, phế phán được điều gì về ả.

154
Ta thấy Hoạn Thư có chủ đích, có định hướng thống nhất trong phát ngôn, xử sự, hành
động.

Về ngôn ngữ, Hoạn Thư luôn luôn nói bằng thứ ngôn ngữ có hai mục đích: Một mặt,
với Thúc Sinh và Thúy Kiều, nó phải "làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên", "làm cho đau
đớn ê chề", làm cho "biết tay", làm cho "bồ ghét". Nhưhg mặt khác, nó phải giúp Hoạn Thư
"giữlấy nền" mà không để "rước tiếng ghen vào mình".

Một ngôn ngữ nung níu, chứa đựĩig ý định trả thù, hành hạ người khác một cách ghế
gớm, nhưhg không bao giờ được để lộ chân tướng... Sử dụng hết sức thành công thứ ngôn
ngữ có nhiệm vụ kép này, chính là tài nghệ của Hoạn Thư, cái "tài" khiến Thúy Kiều phải
khâm phục mà không giấu nổi nỗi ghê sợ:

2005. "Ấy mới gan, ấy mới tài!"

Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời.

Nhìn vào lời nói, thái độ, hành động của Hoạn Thư, người ta chỉ cố thể đánh giá: cô
nàng là một nguôi vợ cư xử đúng mực, yêu thương chồng, sẵn sàng làm tất cả để bảo vệ
thanh danh chồng, làm tất cả để đem đến cho chồng niềm vui, hạnh phúc... Nhiửig thực
chất, trong nhiều trường hợp, mỗi lời nói của Hoạn Thư lại là một đòn cân não "không đánh
mà đau", hết sức hiểm đối với cả Thúc Sinh lẫn Thúy Kiều.

Ả khinh Thúc Sinh đã dấu ả chuyện cưới vợ lẽ: "Làm chi những thói trẻ ranh nực
cười". Nhưng, ngoài miệng, Hoạn Thư nói với chồng:

1583. Rằng: " Trong ngọc đá vàng thau,

Mười phần ta đã tin nhau cả mười.

Khen cho những miệng dông dài,

Bướm ong lại đặt những lời nọ kia.

Thiếp dù vụng chẳng hay suy,

Đã dơ bụng nghĩ, lại bia miệng cười."

Yếu tố tiền giả định (presupposition) trong câu nói này là Thúc Sinh là người trong
sáng, chung thủy, đáng tín cậy. Khẳng định niềm tin tuyệt đối của mình đối với chồng,
Hoạn Thư vừa giăng mắc những sợi dây vô hình để ràng buộc Thúc Sinh, vừa "cắt cầu"
không cho Thúc Sinh một con đường rút, một cơ hội để thành thật, dọn đường cho mụ

155
"tương kế tựu kế": "giấu ta ta cũng liệu bài giấu cho", dẫn anh chồng nông cạn vào một mê
hồn trận, một bát quái trận đồ, không còn biết đường vào, đường ra, đường sinh, đường tử ở
đâu nữa.

Người đời "no mất ngon, giận mất khôn". Hoạn Thư ghen nồng, giận sôi mà vẫn "ra
vào một mực nói cười như không", tỉnh táo, tinh vi trong toan tính mọi đường đi nước bước.

Người ta nổi giận là khi không kiềm chế được sự tức giận và những bức xúc dữ dội
trong lòng. Lúc ấy, họ thường bộc lộ mình rõ nhất, thật nhất. Hoạn Thư lại chỉ nổi giận
trong những trường hợp cô ả cần đóng kịch.

Ả đùng đùng quát mắng, vả miệng, bẻ răng những đầy tổ định tâng công, chính là đem
cái phẫn nộ này ngụy trang nỗi tức giận kia và để nhằm một mục đích khác. Thét lác, trừhg
phạt người ăn kẻ ở, Hoạn Thư làm thế chẳng phải vì tức tối họ đã "thêu dệt", đơm đặt bịa
tạc, nói sai sự thật, xúc phạm đến thanh danh của chồng cô nàng. Thực chất, bằng cách này,
Hoạn Thư dùng uy lực bịt miệng dư luận một cách nhanh nhất, triệt để nhất, đồng thời tạo
bức màn bí mật cho việc thực thi mưu kế của ả, vừa được tiếng thơm, vừa khỏi phải bận tâm
nhức nhối vì những lời ong, tiếng ve đồn tụng.

Bày ra bữa tiệc rượu đón chồng, Hoạn Thư làm cho người ngoài có cảm tưởng cô nàng
rất nhiệt tình, tận tâm săn sóc Thúc Sinh, hết mực cố gắng bằng mọi cách đem lại niềm vui
cho chồng. Nhưng dưới lớp vỏ bề ngoài ấy, Hoạn Thư mượn cách hạch sách, "bắt khoan,
bắt nhặt" Thúy Kiều Ương việc đánh đàn, hầu rượu Thúc Sinh để thể hiện quyền uy, hành
hạ Kiều điêu đứng, qua đó làm cho Thúc Sinh dở khóc, dở cười.

Ngôn ngữ của Hoạn Thư ở đây là thứ ngôn ngữ "nói đằng đông, động đằng tây". Dù là
thét lác hay "cười nói tỉnh say", mỗi câu nói của Hoạn Thư là một mũi tên nhắm hai mục
đích, và luôn tạo phản ứng dây chuyền: Kiều càng "tán hoán tê mê" thì Thúc Sinh càng "như
dại như ngây". Họ càng đau đớn, kinh sợ thì Hoạn Thư càng hài lòng, hả dạ. Lối trả thù của
Hoạn Thư xem ra nhẹ như không, nhưng thực tế rất tinh vi, tàn nhẫn, rất ác, nhít là đối với
những người hiền lành, nhu nhược nhưng nhân hậu như Thúc Sinh, đa cảm và tự trọng như
Thúy Kiều.

Thường, người ta ghen là vì yêu. Đánh ghen mà dụng tâm "để một trò cười về sau",
biến chồng thành một thứ con rối để giật dây và hành hạ "đến điều" như thế, thực khó có cơ
sở để khẳng định rằng Hoạn Thư thật sự yêu chồng.

156
Hoạn Thư đánh ghen không phải vì không chấp nhận được việc chồng lấy vợ lẽ. Trong
xã hội phong kiến, tình trạng "trai năm thê bảy thiếp" là chuyện bình thường. Ả trìtog trị
Thúy Kiều chỉ vì họ dám "bưng bít", "qua mặt" ả. Hoạn Thư thẳng tay vì tự ái cá nhân, vì
cảm thấy niềm kiêu hãnh về vị thế và quyền lực của mình bị xúc phạm:

1539. "Ví bằng thú thật cùng ta,

Cũng dong kẻ dưới mới là lượng trên."

Dại chi chẳng giữ lấy nền,"

(Sau này, khi thấy cả Thúc Sinh lẫn Thúy Kiều đều sợ nem nép, quyền uy của mụ
không hề hấn, suy chuyển gì, Hoạn Thư cũng tỏ ra nới tay hơn thật.)

Qua ngôn ngữ thầm của Hoạn Thư, có thể thây được thực chất mối quan hệ của cặp vợ
chồng Hoạn -Thúc. Mối quan hệ ấy đảo nghịch trật tự phu - phụ thông thường của lễ giáo
phong kiến. Nó bị qui định không chỉ bởi đẳng cấp, vị thế xã hội mà còn bởi tính cách của
hai con người Thúc Sinh - Hoạn Thư nữa.

Trong một xã hội vắng bóng tính chất gia trưởng theo chế độ phụ quyền như xã hội
Truyện Kiều, mối quan hệ trên không phải là cá biệt. Cặp "vợ chồng" Tú Bà - Mã Giám
Sinh cũng quan hệ theo trật tự đó.

Thể hiện mối quan hệ nghịch này, rất có thể ý đồ tác giả là muốn phản ánh tình ữạng
đảo lộn của xã hội bắt đầu từ sự đảo lộn trong mỗi gia đình. Nhưng, không có những tính
cách như Tú Bà, Hoạn Thư, cũng khó hình thành nên một trật tự đảo ngược như thế.

Loại người như Tú Bà, mọi cái đều có thể phơi bày ra ngoài qua lời nói.

Còn người sâu sắc như Hoạn Thư thì không. Người ta chỉ có thể đọc thấy được một
phần sự thật qua ngôn ngữ nội tâm của ả.

Cái ghen của Hoạn Thư không phải là cái ghen thông thường của mọi người đàn bà.
Đó là cái ghen của một người phụ nữ quí tộc có quyền thế và bản lĩnh, quen thấy kẻ khác
quy phục trước quyền lực của mình, không chịu được bất cứ ai - dù đó là chồng mình - dám
một lần xem nhẹ cái "nền", cái "mối giường" đã được thiết lập. Phải có cái thế lực ghê gớm
của con quan Lại bộ, Hoạn Thư mới có thể thực thi một kế hoạch đánh ghen qui mô, cho gia
nhân bắt người, đốt nhà tùy ý mụ. Phải có cái bản lĩnh hơn đời, Hoạn Thư mới xem việc
trừng trị chồng và người vợ lẽ của chồng ở cách xa ngàn dặm, đi mất hàng tháng trời, là
chuyện trong tầm tay, với một thái độ ung dung:

157
1547. " Lo gì việc ấy mà lo,

Kiến trong miệng chén có bò đi đâu."

Thông minh, nhưng phải thông minh theo kiểu "quỉ quái tinh ma" như Hoạn Thư, mới
nghĩ ra được kế ly gián chồng với vợ lẽ bằng cách "làm ra con ở chứa nhà đôi nơi" hết sức
trớ trêu, quái gở, khiến cho:

1697. " Hai bên giáp mặt chiền chiền,

Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn, lạ thay!"

Phải thâm trầm một cách khôn ngoan, Hoạn Thư mới có thể luôn luôn "cười cười nói
nói", "chào mời vui vẻ nói năng dịu dàng" ngay cả khi bắt được quả tang chồng lén lút gặp
Thúy Kiều ở Quan Âm các.

Với cái ghen và sự trả thù của một kẻ vừa có quyền lực, bản lĩnh, vừa sâu sắc, thâm
trầm, vừa thông minh, tinh vi, vừa tàn nhẫn như Hoạn Thư thì không phải chỉ người nông
cạn, nhu nhược như Thúc Sinh mà cả đến người sâu sắc, can trường như Thúy Kiều cũng
đành bó tay, khuất phục, khiếp sợ.

Một trong những yếu tố làm nên sức sống và tính chân thật của nhân vật này là ở chỗ
Nguyễn Du xây dựng Hoạn Thư không đơn giản, một chiều. Ả không hoàn toàn xấu để
người ta ghét, không hoàn toàn dối để người ta ngờ.

Lức này, lúc kia, Hoạn Thư cũng có sự chân thật trong lời nói.

Cô nàng đã không dưới ba lần khen tài Kiều và có lúc tỏ ý thương xót cho cảnh ngộ
của Kiều. Đôi khi, "Tiểu thư xem cũng thương tài, Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân."

Có mối liên tài, có chút động lòng đối với Kiều, chứng tỏ Hoạn Thư hiểu người, hiểu
đời, biết giá trí của con người và tâm hồn hoàn toàn không phải chai sạn, gỗ đá. Có điều, ý
thức về quyền lực, về dòng họ danh giá và sự cay cú của cái "tôi" cá nhân bị xâm phạm đã
lấn át mọi tình cảm tốt đẹp trong con người ả. Và cũng vì nó, Hoạn Thư sẩn sàng đạp lên tất
thảy, sẩn sàng làm cả những điều tàn nhẫn để bắt mọi người phải thừa nhận quyền lực, vị
thế của mình.

Hoạn Thư chỉ nới tay khi biết chắc chắn quyền lực đó vẫn được duy trì, Thúy Kiều,
Thúc Sinh đều "sợ uy" một phép!

158
Hoạn Thư trọng tình, thương tài, cũng là "trọng", là "thương" theo cách của ả. Ả nói
với Thúc Sinh: Rằng: “- Tài nên trọng mà tình nên thương.” sau khi hành hạ Kiều điêu
đứng, đẩy nàng đến chỗ phải coi việc xin đi tu ngay trong chính nhà chồng của mình là một
lối thoát thân.

Chấp nhận cho Kiều đi tu là một cách Hoạn Thư "mượn nước đẩy thuyền", dùng cửa
Phật để diệt cả tài lẫn tình của một cô gái đang thì xuân sắc, nhưng đối với Thúy Kiều và
trước mắt Thúc Sinh, vẫn được tiếng là một sự ra ân. Nhân vật Bá Kiến trong truyện Chí
Phèo của Nam Cao cũng có lối hành xử na ná như thế, qua suy nghĩ của hắn: "Một người
khôn ngoan chỉ bóp đến nửa chừng. Hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng rồi lại
dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn đập ghế, đòi cho được năm đồng, nhưng được rồi thì
lại vất trả lại năm hào "Vì thương anh túng quá"!" [11, tr.107]. Chính kiểu thi ân này đã tạo
nên một cánh cửa hậu giúp Hoạn Thư thoát chết về sau.

Nhưng, lời ả khen Kiều, tỏ sự cảm thông "thương nỗi vô duyên "của Kiều không phải
là không thành thực.

Cứ thật thật, giả giả, thực thực, hư hư như thế, các nạn nhân của Hoạn Thư có cảm
tưởng cái lưới của ả giăng mắc khắp nơi, không còn biết đường nào để đề phòng, né tránh.

Chính vì vậy, Kiều nương nhờ ỏ Quan Âm các, mong tìm được sự chở che

ở chốn cửa Phật, mà vẫn cảm thấy không chút bình yên. Mối đe dọa, hiểm họa

vẫn lơ lửng đâu đó trên đầu khiến nàng không khỏi nơm nớp:

2015. “Thân ta, ta phải lo âu,

Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này.”

Có là người trong cuộc, rơi vào trò ảo thuật của Hoạn Thư, mới thấm thìa "nọc người
hơn mười nọc rắn", và mới hiểu nỗi kinh sợ của Thúy Kiều về chốn "miệng hùm nọc rắn"
này.

Suy cho cùng thì Hoạn Thư cũng là nạn nhân đáng thương của chế độ đa thê, hoàn
toàn có quyền đấu tranh để bảo vệ hạnh phúc của mình. Thế nhưng, giữ hạnh phúc cho
mình với một thủ đoạn đánh ghen tinh vi, thâm hiểm, hành hạ người khác một cách nghiệt
ngã như Hoạn Thư, quả là hiếm có.

159
Tính cách, bản lĩnh của Hoạn Thư một lần nữa được hoàn chỉnh một cách xuất sắc là
khi Hoạn Thư phải mặt đối mặt với cái chết.

Trong buổi báo ân, báo oán của Thúy Kiều, trước cảnh quân đội uy nghiêm, tề chỉnh,
hùng dũng với những "gươm lớn giáo dài", "bác đòng chật đất, tinh kỳ rợp sân", chẳng ai
bỗng dưng lọt vào giữa chốn ấy mà không khỏi bàng hoàng, khiếp sợ. Không riêng gì một
Thúc Sinh "mặt như chàm đổ, mình dường dê run". Đến mụ quản gia, vãi Giác Duyên, sau
khi nhận sự đền ơn hậu hỉ của Kiều rồi mà cũng vẫn "nửa phần khiếp sợ". Người có công,
được đền ơn còn thế, huống chi là kẻ có tội!

Khi Hoạn Thư xuất hiện, cảnh pháp trường còn rùng rợn hơn nữa:

"Dưới cờ gươm tuốt nắp ra".

Thúy Kiều - người ả từng đày dọa đến khốn khổ bấy lâu, nay trở thành phu nhân của
Từ Hải đại vương - đang ở vị trí chánh án của phiên tòa. Đối với Thúy Kiều, Hoạn Thư là
tội phạm nặng nhất, đứng đầu danh sách các tội phạm. Lời chào hỏi có tính chất mỉa mai và
lời phán xét của Kiều... Tất cả báo hiệu một sự trả thù quyết liệt

Trước tình thế hiểm nghèo ấy, Hoạn Thư phút đầu không khỏi "hồn lạc phách xiêu".
Nhưng trong lúc khiếp sợ, ả vẫn đủ bình tĩnh, sáng suốt để "liệu điều kêu ca". Quả thật bản
lĩnh không thể xem thường!

Chỉ một lời đáp trong khuôn khổ tám câu thơ, năm mươi sáu chữ, Hoạn Thư đã trở
thành một luật sư tự bào chữa tuyệt vời. Nói chưa đầy một phút, thị đã giành thế chủ động,
đảo ngược thế cờ, chuyển bại thành thắng.

Trước hết, thị đánh đồng trò đánh ghen nghiệt ngã, có một không hai của mình với cái
ghen "thường tình" của giới đàn bà:

2365. Rằng: “ _ Tối chút phận đàn bà,

Ghen tuông thì cũng cũng người ta thường tình”

Hiểu người, hiểu đời, Kiều không thể không thừa nhận quy luật tâm lý chung có tính
chất phổ biến của nhân loại, mà nhân dân ta đã đúc kết thành tục ngữ: "Ớt nào mà ớt chẳng
cay, Gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng." Chính nàng, ngày sống bên Thúc Sinh, khi
thấy chàng say hoa, đắm nguyệt "mặn tình cát lũy, lạt tình tao khang", cũng đã từng băn
khoăn mình là kẻ xâm phạm hạnh phúc gia đình Hoạn thị: "Thêm người, người cũng chia

160
lòng riêng tây". Vì vậy, luận điểm này đối với Kiều đầy sức thuyết phục. Nó lại được củng
cố thêm một lần nữa, tác động cả tình cảm lẫn lý trí của Kiều, khi Hoạn Thư nhấn mạnh:

2369. "Lòng riêng riêng những kính yêu,

Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai."

Tình cảnh lấy "chồng chung" không hiếm trong xã hội phong kiến. Bao người phụ nữ
đã phải cay đắng, uất ức kêu lên:

"Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng"

Thơ Hồ Xuân Hương cũng đã có lần nguyền rủa:

"Chém cha cái kiếp lấy chồng chung."

(Hồ Xuân Hương - Lấy chồng chung.)

Kiều không thể không thông cảm với Hoạn Thư một lần nữa, nhất là khi Hoạn Thư nói
"Lòng riêng riêng những kính yêu" không phải không có cơ sở của sự thật. Rồi, ả kể công:

2367. "Nghĩ cho khi các viết kinh,

Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo."

Hoạn Thư là người sâu sắc, biết người, biết ta, "lúc đáng giữ thì giữ, lức đáng buông
thì buông" [102, tr.238]. Đồng ý cho Kiều ra Quan Âm các hoặc để mặc Kiều trốn đi, đều
vừa được việc cho ả, vừa hàm ân đối với Thúy Kiều. Nhưng, những hành vi, xử sự khôn
khéo ấy, giờ đây, hoàn toàn cho phép ả nói điều này mà không ai có thể bắt bẻ.

Chưa hết. Tất cả những mưu ma, chước quỷ, những kế sách: bắt cóc, đốt nhà, mượn
tay mẹ đánh người... những thủ đoạn hành hạ Kiều hết sức thâm độc, tinh vi, làm Kiều điêu
đứng về tình thần, tình cảm, đau đớn về thể xác, Hoạn Thư gói gọn vào hai chữ "chông gai"
và tự luận tội mình một cách thành khẩn:

"Trót lòng gây việc chông gai"

Chỉ tóm lấy một phần sự thật và bẻ cong nó theo ý của mình, Hoạn Thư dồn tất cả tội
lỗi vào hai chữ, và dàn tất cả "công trạng" thành ba câu ( 9 ), đem một sự thật nhỏ ra để ngụy
trang cho một sự dối trá lớn, rồi kêu gọi lòng nhân ái, sự độ lượng của Thúy Kiều:

“Nghĩ cho khi các viết kinh,


9

Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo


Lòng riên riêng những kính yêu...”

161
“Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.”

Cái tài của Hoạn Thư là: trí trá mà không ai có thể bắt bẻ ả là dối trá, thâm sâu mà
không ai có thể kết tội ả là thâm sâu. Bởi "câu nào lý lẽ cũng chính trực cả" (Hoài
Thanh)[126, trl22].

Ở đây, Hoạn Thư không chỉ đẩy Kiều đến cái thế "đánh kẻ chạy đi không đánh người
chạy lại", mà đưa Kiều lên cao với hai chữ “lượng bể”, Hoạn Thư cũng đồng thời cắt đường
lui lại, rút xuống của Kiều. Nhìn bên ngoài thì đây là một lời cầu khẩn, van xin Thúy Kiều
mở lượng khoan hồng tha thứ cho ả, nhưng bên trong, lại là một sự gài thế theo kiểu "tương
kế, tựu kế" rất sở trường của tiểu thư họ Hoạn. Kiều chẳng vừa nói với Hoạn Thư trước mặt
văn võ bá quan về cái quy luật của tình người: "Dễ dàng là thói hồng nhan, Càng cay nghiệt
lắm, càng oan trái nhiều" đó là gì? Huống chi, hành động của Hoạn Thư "ghen tuông thì
cũng người ta thường tình"! Ả chỉ mắc mỗi một cái tội duy nhất là đã "trót" làm hơi quá mà
thôi! - Một lý lẽ "buông bắt, quanh co, khúc khuỷu, ẩn hiện" (Lê Trí Viễn)[160, tr.123]!
"Chỉ với 8 câu thơ mà Hoạn Thư rào trước, đón sau, tình riêng, lý chung, tội mình, lượng
người... đưa ra đầy đủ thứ lớp phân minh. Đúng là "Nói điều ràng buộc thì tay cũng già"!
(Đặng Thanh Lê)[70, tr.400]. Đến nước này thì dù có căm ghét ả đến mấy, Kiều cũng không
thể hành động khác được, bởi "làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen". Hơn nữa, Kiều vốn là
người sống nghĩa tình "ơn ai một chút chẳng quên". Nàng đã phải: "Truyền quân lệnh xuống
trướng tiền tha ngay"!

Từ chỗ là "chính danh thủ phạm", đứng đầu hàng trong các tội phạm, Hoạn Thư đã
được tha bổng trong lúc những kẻ khác "máu rơi thịt nát tan tành".

Để Kiều tha cho Hoạn Thư mà không để Kiều trừng phạt ả 100 roi như trong nguyên
tác của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du chẳng những đề cao tấm lòng nhân hậu của Thúy
Kiều, mà còn đề cao sự thông minh, bản lĩnh của nhân vật tiểu thư con quan Lại bộ.

Trong Kim Vân Kiều truyện, Hoạn Thư thoát chết là nhờ ỏ lời cầu xin của Thúc Sinh
và sự nể lòng của Kiều đối với tình nghĩa xưa của người chồng cũ. Nghe Sinh quỳ lạy, nài
nỉ, Kiều đã hứa: " _ Thôi thì ta sẽ trả chàng người sống, lát nữa sẽ đến mà lĩnh người về."
[102, tr.291].

Như vậy, ngay khi Hoạn Thư chưa xuất hiện, số phận của ả đã được định đoạt: thoát
chết, nhưng không tránh khỏi nhục hình trừng phạt! Và, Thúc Sinh cũng đã cho ả biết trước
điều này.

162
Lời Hoạn Thư trong nguyên tác của Thanh Tâm Tài Nhân chỉ là lời kêu van thông
thường của kẻ có tội đối với người luận tội, không có giá trị như một lời tự bào chữa, tự cứu
mạng như lời của nhân vật Hoạn Thư trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.

Xây dựng cho ngôn ngữ tự biện của Hoạn Thư có đủ lý lẽ đầy sức thuyết phục trong
việc tự cứu mạng mình mà không cần sự viện trợ của Thúc Sinh vin vào tình nghĩa xưa,
Nguyễn Du đã mài sắc tính cách Hoạn Thư qua một câu nói.

Trong văn học thế giới, thật hiếm có một nhân vật nào ra trước tòa án đại hình mà chỉ
với một câu nói 56 chữ thôi, lại có thể tự bào chữa cho tội danh ở mức án cao nhất - tử hình
- trở thành trắng án, như tiểu thư họ Hoạn.

Với câu nói này của Hoạn Thư, Nguyễn Du đã góp vào văn học dân tộc một lời bào
chữa thần tình của một người phụ nữ, bên cạnh lời bào chữa của người con gái "dở dang"
ương thơ Hồ Xuân Hương. Cô gái kia là nạn nhân, còn Hoạn Thư là tội nhân. Trường hợp
nhẹ dạ trong tình yêu mà phải chịu nỗi truân chuyên như cô là phổ biến. Trường hợp vì tình,
vì quyền mà đánh ghen theo kiểu độc đáo có một không hai như Hoạn Thư là cá biệt.
Nhưng trong văn học, cả hai có một điểm chung:

không ai có thể lên tiếng bảo vệ mình một cách xuất sắc hơn họ!

Tự cứu mình trong một tình huống ghê gớm "ngàn cân treo sợi tóc", mà khiến địch thủ
phải phục, phải khen: "khôn ngoan đến mực nói năng phải lời" -Hoạn Thư quả là một người
đàn bà quyền mưu, bản lĩnh.

Vẫn cách nói vừa gỡ cho mình, vừa buộc cho người, vẫn là kiểu "tương kế, tựu kế",
vừa thông minh, vừa mềm mỏng, vừa "sâu sắc nước đời", ngôn ngữ Hoạn Thư hoàn toàn
nhất quán trong mọi trường hợp.

Lời bào chữa của Hoạn Thư không xuất sắc theo kiểu sử dụng tính độc đáo của ngôn
từ, nhưng nó đặc biệt độc đáo xuất sắc khi đặt trong tính tổng thể của tình huống, văn cảnh.

Với lời bào chữa trong màn Thúy Kiều báo ân, báo oán, "Hoạn Thư xuất hiện lần cuối
và tính cách được hoàn chỉnh một cách tuyệt vời dưới ngòi bút tài tình của thi hào họ
Nguyễn." [70, tr.400].

Trong Truyện Kiều, Hoạn Thư là một nhân vật có ngôn ngữ hết sức đa dạng, phong
phú. Nhân vật này không chỉ sử dụng ngôn ngữ ỏ cả hai kiểu quý tộc và bình dân mà còn sử
dụng loại ngôn ngữ hai mặt, hai mục đích một cách hết sức đặc sắc, làm nên tính cách riêng

163
vô cùng độc đáo. Hoạn Thư có lúc nói thật, có khi nói dối, có trường hợp vừa dối, vừa thật.
Ngôn ngữ bên trong có khi trùng, có khi chối, vừa mâu thuẫn, vừa thống nhất với ngôn ngữ
bên ngoài. Đối thoại được thể hiện với nhiều ngữ điệu, nhiều sắc thái... Tính đa dạng trong
ngôn ngữ nhân vật đã đóng vai trò quan trọng trong việc khắc họa nên tính cách của một
Hoạn Thư năng động, phong phú, phức tạp, sinh động vô cùng.

Chỉ xuất hiện xung quanh một vụ đánh ghen, Hoạn Thư đã mãi mãi đi vào lịch sử văn
học Việt Nam như một điển hình của tính cách nhân vật văn chương.

Từ cái tên riêng của một tiểu thư con quan Lại bộ trong Truyện Kiều với kiểu đánh
ghen có một không hai, Hoạn Thư đã bước ra ngoài đời, sống một cuộc sống bên ngoài tác
phẩm, trong lòng dân tộc, trở thành cái tên chung cho một loại đối tượng xã hội. Có thể nói
như Gs. Lê Đình Kỵ: "Cái tên Hoạn Thư đã trở thành điển hình bậc thầy trong nghệ thuật
đánh ghen. - "Đàn bà thế ấy thấy âu một người"!" [74, tr.149].

3.2.3.5.Thúc Sinh:

Cho đến cuối thế kỷ XX, ữong nền văn học hiện đại, vẫn không ít tác phẩm xây dựng
nhân vật theo kiểu tính cách một chiều. Thế nhưng, trong Truyện Kiều đã xuất hiện một
nhân vật đặc biệt, dường như là trung gian của mọi quan niệm: Thúc Sinh!

Cả thời trung đại, nhìn trước ngó sau, chỉ một Thúc Sinh là nhân vật "đi hàng hai"
trong văn học phong kiến. Thật khó có thể xếp anh ta vào loại nhân vật nào - chính diện hay
phản diện? Tốt hay xấu?

Thời đại Thúc Sinh, thi ca được dùng "chở đạo", nói "chí", vịnh cảnh, ngợi ca những
thú nho nhã, thanh cao...

Còn Thúc Sinh, thi hứng chỉ phát sinh khi anh chàng trông thấy người đàn bà khỏa
thân đang tắm - điều mà văn học phong kiến tối kỵ!

Kiều đang khi "lòng còn gửi áng mây Hàng" thì chàng lại đem chuyện tắm táp của
nàng ra mà ngợi ca, ngâm vịnh. Thế đã đủ vô duyên! Dan díu với nàng từ xuân qua hè, mà
vẫn tưởng Thúy Kiều là con gái Tú Bà, đến nỗi kinh ngạc hỏi một câu ngớ ngẩn: "Cành kia
chẳng phải cỗi này mà ra?".

Kiều nói thẳng thừng: Thúc là người "yêu hoa yêu được một màu điểm trang", "ngắn
ngày thôi chớ dài lời làm chi" mà anh chàng không hề tự ái.

164
Nghe Kiều trù liệu, ái ngại những tình huống có thể phát sinh, Thúc chẳng bận tâm
nghĩ lại, còn cho Kiều là "hay nói đè chừng". Không phải vì muốn trấn an Kiều mà vì anh ta
tin như vậy. Thức đâu có hiểu gì về cha mình, vợ mình! Để đến khi mọi việc xẩy ra, anh ta
chỉ còn biết trách mình, khóc người.

Nông nổi, hời hợt đến thế, nhưng trong ngôn ngữ đối thoại, Thúc Sinh toàn dùng
những lời cực tả, những từ ngữ "búa lớn, đao to". Nào là:

1329 Sinh rằng: _ Từ thuở tương tri,

Tấm riêng riêng những nặng vì nước non.

Trăm năm tính cuộc vuông tròn,

Phải dò cho đến ngọn nguồn, lạch sông.

nghe có vẻ sâu sắc, tình nghĩa! Nào là:

1363. "Đường xa chớ ngại Ngô, Lào,

Trăm điều hãy cứ trông vào một ta.

Đã gần chi có điều xa,

Đá vàng cũng quyết, phong ba cũng liều."

nghe có cái chí của người quân tử, cái khí của người anh hùng, với một quyết tâm son
sắt, chung thủy. Sâu nặng, hùng hồn là thế mà người nghe không khỏi có cảm tưởng "thùng
rỗng kêu to".

Nhưng Thúc Sinh không phải là kẻ hoàn toàn huênh hoang, dối trá. Anh ta cũng đã
dám chèo chống trước Tú Bà, Thúc Ông, quan xử kiện.

Thúc yêu thương Kiều thực lòng, nhưng là yêu thương theo kiểu của Thúc: tình yêu
bắt đầu từ nơi hành viện, từ chuyện gió trăng, có vẻ đắm đuối, nồng nàn, thiến về sắc dục.

Lúc tưởng Kiều chết, Thúc khóc than vật vã, ghê gớm. Đến phút chót, chỉ một suy
nghĩ "thân này dễ lại mấy lần gặp tiên?!" đầy tiếc rẻ, Nguyễn Du - với một nụ cười hóm
hỉnh - đã cho thấy tất cả sự tiếc thương và toàn bộ bản chất tình yêu của Thúc đối với Kiều.

Nhưng, điều đó mới chỉ làm rõ một nét tính cách của Thúc. Thúc chỉ hoàn toàn bộc lộ
bản chất, tính cánh của mình khi đối mặt với Hoạn Thư, nhất là trong những cuộc chạm trán
tay ba Hoạn - Thúc - Kiều.

165
Trước mặt Hoạn Thư, Thúc "xếp càng" như một con cua trong "tay" một con ếch, bị
vợ giật dây như con rối. Đến cả cái khóc cười, Thúc cũng không còn "minh được là mình"
mà phải chạy theo sự điều khiển của người khác.

Không giữ được chút gì thể diện của người đàn ông, Thúc càng không giữ được vai trò
của người chủ gia đình của một "đấng trượng phu" trong quan hệ phu - phụ của trật tự
phong kiến.

Khi lo liệu việc dàn xếp gia đình, người ta chỉ nghe thấy tiếng nói của Kiều (2 lần 32
câu). Đến lúc tính toán cho Kiều "liệu bài xa chạy cao bay", Thúc tựa như chiếc radio bắt
trúng tần số, nói tưởng chừng không dứt. Hoạn Thư xuất hiện, lập tức anh ta "tắt đài". Trả
lời vợ được đúng một câu, lại là câu nói dối. Thúc ba lần đối đáp với Hoạn Thư thì hết hai
lần chối quanh, nói dối.

Gặp Kiều ở Quan Âm các, Thúc khóc như mửa, nhận tội hết sức thành khẩn:

1945. “ _ Đã cam chịu bạc với tình,

Chúa xuân để tội một mình cho hoa!

Thấp cơ thua trí đàn bà,

Trông vào đau ruột, nói ra ngại lời.

Vĩ ta cho lụy đến người,

Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh.”

Thấy Kiều bị hành hạ, Thúc chỉ biết "trông vào đau ruột", đến cả một tiếng bênh vực
cho nàng, Thúc cũng "ngại lời", không dám nói ra. Thậm chí khóc thương Kiều, bị vợ hỏi,
Thúc còn phải nói trại ra là khóc thương người mẹ quá cố... Tính cách ươn hèn, tình cảnh
thảm hại. Vậy mà Thúc vẫn hùng dũng một cách ồn ào:

1951. "Quản chi lên thác, xuống ghềnh,

Cũng toan sống thác với tình cho xong."

Thúc to mồm, mạnh miệng "quản chi lên thác xuống ghềnh", làm như mình có một ý
chí, một quyết tâm sắt đá, có thể san bằng mọi khó khăn, nguy hiểm. Vẫn cái giọng "đá
vàng cũng quyết, phong ba cũng liều" ngày nào... Toàn bộ cái "thác ghềnh", "phong ba" ở
đây, chỉ là chuyện vợ cả cản ngăn. Vậy mà, đối với Thúc đã là chuyện sống chết! Quả là hài
hước! Mặc dù vậy, chàng vẫn rất quyết tâm: "Cũng toan sống thác với tình cho xong." Sở

166
dĩ, tất cả cái ý chí sắt son, cái quyết tâm cao độ ấy được thay thế bằng một thái độ ươn hèn,
vô trách nhiệm đối với Kiều là vì Thúc chưa có con nối dõi, cho nên đành: "Cắn răng bẻ
một chữ đồng làm hai." vẫn là cái giọng ba hoa "chẻ đá vá trời"! Và rồi, tất cả những gì mà
Thức có thể làm cho Kiều là một lời khuyên:

1971. "Liệu mà xa chạy cao bay,

Ái ân ta có ngần này mà thôi!"

Đành đoạn cắt đứt, bỏ rơi Kiều vào lúc nàng gặp khó khăn, nguy hiểm nhất trong khi
Thúc có khả năng giải thoát cho Kiều - nhưng lời lẽ ngôn ngữ đối thoại của Thúc vẫn mang
cái vẻ sâu tình, nặng nghĩa của buổi ban đầu:

1973. "Bây giờ kẻ ngược, người xuôi,

Biết bao giờ lại nối lời nước non?

Dẫu rằng sổng cạn, đá mòn,

Con tằm đến thác cũng còn vương tơ."

Thúc yêu thương Kiều thực lòng, mà khi Kiều bị đọa đày, gặp nguy hiểm, Thúc đã bỏ
rơi nàng, để mặc nàng tự xoay sỏ, chèo chống. Thúc gắn bó nghĩa trăm năm vối Hoạn Thư,
nhưng khi tính mạng vợ chàng bị đe dọa, Thúc cũng để mặc Hoạn Thư tự lo liệu, vần xoay.
Mặc dù trong cả hai trường hợp, việc cứu Kiều hay cứu Hoạn Thư đều nằm trong tầm tay
của Thúc!

Cũng may cả Kiều lẫn Hoạn Thư đều là những người phụ nữ thông minh, bản lĩnh,
Nếu không, họ đã bị rơi vào lưỡi hái của tử thần, mà Thúc - vì sự yên ổn của bản thân - sẽ
chẳng bao giờ ra tay cứu giúp, dù họ là vợ của chàng. Chỉ có một thứ, Thúc có thể dành cho
Kiều - rất dồi dào. Đó là nước mắt. Rốt cuộc thì Thúc chỉ yêu mỗi bản thân mình!

Để tập trung thể hiện tính cách Thúc Sinh, khi Kiều tính việc trốn khỏi nhà Hoạn Thư,
Nguyễn Du đã tước đi của nguyên mẫu Thúc Kỳ Tâm lời dặn dò: "Từ khu vực này đi về
phía tây, có khá nhiều am viện, trụ trì đều là ni cô... Nàng nên thu thập lấy tí tiền lưng hãy
tạm trốn đi nơi khác..." [102, tr.258] mà dồn tất cả sự toan tính đó vào cho độc thoại nội tâm
của Kiều.

Khi Thúc ra trước tòa, nhà thơ đã không để cho Thúc Sinh đủ hoàn hồn, đủ một chút
nghĩa tình và dũng khí để xin Vương phu nhân tha cho vợ như trong Kim Vân Kiều truyện.

167
Nguyễn Du đã làm nổi rõ những nét tiêu biểu của tính cách nhân vật họ Thúc: thụ
động, ích kỷ, bất lực và ươn hèn.

Hiểu cái nông cạn của Thúc Sinh, nên dù từng chung chăn gối với nhau cả năm, xa
nhau chưa bao lâu, ngày gặp lại, Thúy Kiều vẫn phải hỏi:

"Lâm Truy người cũ chàng còn nhớ không?"

Trong khi đó, thời gian gặp gỡ, gần gũi Kim Trọng, dồn lại, chưa được hai ngày. Xa
cách 15 năm, khi hội ngộ, Kim - Kiều vẫn nhận ra nhau, Kiều không đến nỗi phải hỏi một
câu tưởng chừtig lạ lùng, vô nghĩa lý đến như vậy.

Xây dựng nhân vật Thúc Sinh, Nguyễn Du ít miêu tả tính cách xã hội được quy định
bồi nghề nghiệp buôn bán của Thúc, mà chủ yếu tập trung miêu tả tính cách cá nhân của
một điển hình ươn hèn, sợ vợ.

Sự lép vế của Thúc Sinh trước Hoạn Thư một phần mang dấu ấn xã hội: sự lép vế của
tầng lớp thương nhân trước giai cấp phong kiến quý tộc, nhưng chủ yếu là do tính cách nhân
vật. Cặp vợ chồng này hoàn toàn đối lập nhau về tính cách: Hoạn Thư sâu sắc, lý trí, chủ
động bao nhiêu thì Thúc Sinh nông cạn, hời hợt, bị động bấy nhiêu. Hoạn Thư kỷ cương,
Thúc Sinh phóng túng. Hoạn Thư bản lĩnh, Thúc Sinh bạc nhược...

Một người như Hoạn Thư, thông minh như Kiều còn khiếp đảm, Thúc Sinh sợ là phải.
Nhưng sợ vợ hơn cả sợ cha, sợ quan như Thúc Sinh trong cái trật tự phong kiến "quân - sư -
phụ" thì quả là trong văn học Việt Nam xưa nay chỉ có một, dù tiền thân của Thúc - những
anh chàng sợ "giàn thiên lý đổ" - trong văn học dân gian cũng chẳng hiếm gì!

Xây dựng một nhân vật đặc biệt như Thúc Sinh, Nguyễn Du sử dụng một thủ pháp
nghệ thuật khác hẳn các nhân vật khác: Thúc Sinh là đối tượng của phạm trù cái hài và cái
bi hài.

Ngôn ngữ của anh ta có độ đàn hồi rất lớn. Khẩu khí, sắc thái, tính chất ngôn ngữ đối
thoại của Thúc Sinh giống sự đổi màu của một con kỳ nhông, mỗi lúc mỗi thay đổi trước
từng đối tượng. Thúc huênh hoang trước Thúy Kiều, nhưng lại nhún nhường "xuống nước"
trước Thúc Ông, thành thật trước quan xử kiện nhưng lại loanh quanh, dối trá với Hoạn
Thư...

Cái thật của Thúc Sinh cũng không hoàn toàn đồng nhất với sự trung thực. Sống với
Thúy Kiều, Thúc mới được là Thúc: vừa nông cạn, bản năng, vừa chân thật, vừa bốc đồng.

168
Thúc Sinh khoác loác một cách thành thật, và cũng luôn thành thật thừa nhận mọi lỗi lầm,
yếu kém: "Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu", "Thấp cơ thua trí đàn bà"! Hiếm có nhân vật nào
trong văn học Việt Nam lại luôn luôn "xưng tội" một cách thành khẩn như vậy.

Chính thứ ngôn ngữ linh hoạt, uyển chuyển, thứ ngôn ngữ "biến màu như kỳ nhông"
của Thúc đã giúp chàng chui qua khỏi hai cơn thịnh nộ giông tố của hai cô vợ một cách an
toàn, bởi nó đã đánh đúng và điểm yếu của họ: đàn bà nhẹ dạ cả tin và dễ mủi lòng! Ngôn
ngữ Thúc, tính cách Thúc làm ta nhớ đến câu chuyện về cây sồi và cây sậy của ngụ ngôn
phương Tây, hay câu chuyện giai thoại về răng và lưỡi của người Trung Quốc.

Các nhân vật Truyện Kiều phần đông đều rất thông minh. Chỉ một Thúc Sinh là trí tuệ
hơi kém người một chút. Nhưng bù lại, anh ta rất giàu nước mắt.

Giống Sở Khanh, Thúc Sinh có những phút nói năng khẩu khí hùng hồn như một trang
hiệp sĩ, một Từ Hải anh hùng. Nhưng, khác với Sở Khanh, khi nói với Thúy Kiều, Sở
Khanh biết mình nói dối. Còn Thúc Sinh lại tin là thật.

Nếu xét theo quan niệm sáng tác của văn học trung đại, Thúc Sinh là đối tượng của cái
hài - một phạm trù mỹ học thường gắn với nhân vật phản diện.

Nếu xét theo quan niệm đạo đức, anh ta là kẻ ăn chơi trác táng, bội bạc, đảo lộn cương
thường.

Nhưng anh ta là người hiền lành, trung hậu và đã có công cứu Kiều thoát khỏi cuộc
sống nhà chứa ô nhục, bẩn thỉu. Trong con mắt Thúy Kiều, Thúc Sinh là nhân vật chính
diện.

Trong xã hội Truyện Kiều, những người vừa có tài, vừa chí tình với Kiều như người
anh hùng Từ Hải, chàng văn nhân Kim Trọng, cuối cùng đều bất hạnh.

Rốt cuộc, chỉ một Thúc Sinh chẳng tài cán gì, mà chẳng những lấy được con quan lại
bộ quyền lực, giàu sang vào loại nhất nước, "ở ăn thì nết cũng hay", mà còn lấy được Kiều,
người con gái tài hoa, hiếu hạnh với sắc đẹp "khuynh quốc khuynh thành". Thúc vừa được
hưởng hạnh phúc với Kiều, vừa được nàng ban thưởng - ngay cả sau khi anh ta bỏ rơi nàng.

Nhân vật này làm ta nhớ đến những Chàng Ngốc, những chú Ivan trong truyện dân
gian của nhiều quốc gia, và đặc biệt là nhớ đến Dương Khuông của Hoàng Lê nhất thống
chí "vì ngu si mà được hưởng phúc thái bình"!

169
Phải chăng, đây cũng là một khía cạnh của ý nghĩa xã hội toát lên từ hình tượng nhân
vật Thúc Sinh - một phản đề có ý nghĩa bổ sung cho thuyết "tài mệnh tương đố" được tác
giả thể hiện trong tác phẩm?

3.3.MỘT SỐ ĐIỂM HẠN CHẾ:

Bên cạnh những thành công, truyện thơ Nôm bác học không phải là không có những
hạn chế về ngôn ngữ đối thoại và độc thoại. Nhiều nhân vật nói thay cho tác giả, lời nói
không có giọng điệu, sắc thái riêng. Chính vì vậy mà có nhữhg trường hợp có vẻ phi thực tế
tồn tại trong tác phẩm: Hồng, Yến, Nhạn, Oanh đều là kẻ hầu người hạ nhưng nói không
khác gì những người chủ có học vấn cao, giỏi thơ văn của họ. Thậm chí, Yến Đồng sau khi
xem tướng mạo của Quỳnh Như, về thưa chuyện lại với chủ mà nói rành rẽ như một thầy
tướng số, từ ngữ chẳng khác một học giả uyên thâm (xem 2.1.2.1 - tr. 56, 57).

Ngoài ra, truyện thơ Nôm bác học còn có những lời nói ép vận và thiếu sự trau chuốt,
gia công. Chẳng hạn lời Vương Tử Trực nói với Võ Công:

1229. "Vợ Tiên là Trực chị dâu, (10)

Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghi."

Hay Mục Vinh (Mai Sinh giả dạng) trong Nhị độ mai khi nghe Phùng Lạc Thiên hỏi
có biết Mai Sinh không,

1349. Sinh rằng: Cùng ở một vùng,

Bạn bè cũng biết có công tử chàng".

Khi dựa vào nguyên tác, Nhị độ mai đã thuật lại quá tỉ mĩ những cuộc đối thoại của
Chiếu Quân với vai trò thần báo mộng, người đọc biết tất cả nhữhg gì sẽ xảy ra trước khi nó
xảy ra - điều mà các tiểu thuyết hiện đại tối kỵ. Vì vậy, sự kiện mất tính chất bất ngờ khiến
câu chuyện giảm tính hấp dẫn.

Nhị độ mai cũng không chú ý tới diễn biến tâm lý của nhân vật. Điều này đưa đến
những quyết định quá vội vàng của nhân vật, khiến một số hình tượng văn học thiếu chiều
sâu, và không khỏi có những chi tiết nực cười mà các nhà tiểu thuyết ngày nay khó lòng
chấp nhận. Xuân Sinh tự tử được Ngư Bà vớt lên. Chàng vừa tỉnh lại, "hãy còn im ỉm khí

10
-Theo Nguyễn Ngọc Thiện [19, tr.21 ], tác giả bài "Để có một văn bản Lục Vân Tiên gần với nguyên tác hơn" (Văn
nghệ Tph Hồ Chí Minh, số22, 3-7-1988) đã đưa ra một giả thiết để đính chính sự phiên âm sai về thơ Lục Vân Tiên,
dựa vào phương pháp khảo sát của ngữ âm học so sánh và lôgic ngữ nghĩa học, đổ là xem câu này phải đọc là:
"Vợ Tiên là bực chị dâu"

170
sinh lạ đời", Ngư Bà đã hỏi quê quán, tên họ, nguyên nhân của việc gieo sông. Chưa từng
biết anh ta là ai, mà nay, anh ta vừa mới trả lời được đúng một câu về gia cảnh, Ngư Bà đã
đề nghị chuyện hôn nhân ngay lập tức. Xuân Sinh vì lòng đầy uẩn ức, quẫn bách mà phải
đâm đầu xuống sông tự tử. Ây thế mà giờ đây, khi anh chàng mới ướt lướt thướt từ dưới
nước được đưa lên thuyền, sự sống còn chưa kịp lên tiếng, thì, nghe Ngư Bà, một người
hoàn toàn xa lạ, đề nghị chàng lấy một người cũng hoàn toàn xa lạ, chàng đã lập tức đồng ý
ngay. Chi tiết này phản ánh đúng tính hồn nhiên, đơn giản, dễ dãi trong hôn nhân của không
ít người dân Việt. Đồng thời cũng cho thấy tính phi logic của tâm lý, tình tiết, sự kiện khi
tác giả chọn cho nhân vật giải pháp tự tử, và dùng những Ngư Ông, Ngư Bà, Ông Chài cứu
họ như một giải pháp tình thế. Các nhân vật truyện thơ Nôm bác học sau khi tự tử được vớt
lên, hầu như đều là những con người hoàn toàn khác. Họ hầu như mất hẳn tâm trạng quá
khứ mặc dù họ vẫn có thể kể về quá khứ. Dạng tình cảm, trạng thái đứt đoạn, không liên tục
này khiến cho việc kết thúc có hậu của các tác phẩm văn học tuy thoa đáng đối với tâm lý
người đọc, nhưhg lại trở nên gượng ép, khiên cưỡng đối với chính logic tâm lý, sự kiện của
tác phẩm.

Còn Truyện Song Tinh thì đôi khi để nhân vật của mình kể chuyện quá nhiều, đèn độ
thừa thãi, khiến một số tình tiết bị lặp đi lặp lại một cách không cần thiết. Việc Song Bà,
Song Tinh, Giang Ông, ông bà Giang kể đi kể lại gia cảnh của Song Tinh và mối thân giao
cũ là một trường hợp như vậy.

Nhưng dù sao những lời nói như thế này cũng không xuất hiện nhiều trong tác phẩm.

TIỂU KẾT:

Ngôn ngữ nhân vật có vai trò rất quan trọng trong thể tự sự và đặc biệt là trong kịch.
Trong truyện thơ Nôm bác học, ngôn ngữ nhân vật có hình thức hết sức phong phú, và có
vai trò không nhỏ trong tác phẩm. Nó có thể được dùng để kể chuyện, giới thiệu tiểu sử hay
tổng kết cuộc đời của một nhân vật. Có khi, nó là yếu tố tạo nên sự chuyển hướng tình tiết
truyện, thể hiện xung đột kịch, thể hiện tâm trạng, cảm xúc của nhân vật hay thể hiện thế
giới quan, nhân sinh quan của nhà thơ... Song, trên hết, ngôn ngữ nhân vật giữ một vai trò
vô cùng quan trọng trong việc xây dựng, hình thành tính cách nhân vật. Nó tạo nên một số
giọng điệu riêng, làm nên những gương mặt riêng, độc đáo, không thể trộn lẫn, không thể
phai mờ của truyện thơ Nôm trung đại: một Tú Bà nanh nọc, một viên đô đốc thô lỗ, cộc
cằn, một Nhược Hà láu lỉnh, một Thể Vân tinh nghịch, một Thúc Sinh ba hoa, hời hợt, một

171
Hoạn Thư "ngọt mật chết ruồi", một Thúy Kiều ân tình, một Mai Bá Cao khảng khái, một
Hớn Minh bộc trực, ngang tàng, một thầy pháp khoác lác, huênh hoang "một tấc đến trời
"(trong Lục Vân Tiên)... Nhờ đó, việc phản ánh cuộc sống thông qua hình tượng văn học trở
nên sinh động, hấp dẫn và giàu sức ám ảnh hơn. Ngôn ngữ nhân vật cũng giúp cho truyện
thơ Nôm bác học dù có cốt truyện, đề tài đi theo mô-tip chung, nhưng tác phẩm vẫn tạo nên
những diện mạo riêng, dấu ấn riêng ương nền văn học nước Việt. Có thể xem ngôn ngữ
nhân vật là một ương nhữíig tiêu chí để phân biệt truyện thơ Nôm bác học với truyện thơ
Nôm bình dân. Ngôn ngữ nhân vật là nơi thể hiện rõ nhất quan điểm tư tưởng, quan điểm
thẩm mỹ, phong cách, cá tính sáng tạo và đẳng cấp của nhà văn trên văn đàn dân tộc. Dù
còn có một vài hạn chế, ngôn ngữ nhân vật vẫn là một thành công đáng kể và có vai trò rất
lớn đối với những thành tựu rực rỡ mà truyện thơ Nôm bác học đã gặt hái.

172
KẾT LUẬN
Ngôn ngữ nhân vật chiếm một tỷ lệ khá cao và là một thành công đáng kể của truyện
thơ Nôm bác học. Thành tựu rực rỡ nhất của nó tập trung vào các tác phẩm ra đời ở thế kỷ
xvm - XIX, đặc biệt kết tinh ở Truyện Kiều. Nó góp phần đưa tác phẩm của Nguyễn Du lên
hàng kiệt tác văn chương cổ điển và góp phần đưa văn học giai đoạn này trỏ thành đĩnh cao
của văn học Việt Nam.

Ngôn ngữ nhân vật truyện thơ Nôm bác học là nơi gặp gỡ của các dòng chảy: văn
chương quý tộc, văn học dân gian của Việt Nam và của Trung Hoa - theo quy luật ảnh
hưởng, tiếp nhận văn hóa ương cùng một khu vực - và ngôn ngữ sinh hoạt đời thường. Nó
thể hiện vốn kiến thức uyên bác và sự học tập, kế thừa đầy sáng tạo những tinh hoa văn học
truyền thống của các nhà thơ thế kỷ xvin - XIX, đồng thời, thể hiện tài năng và sự cách tân
vượt thời đại của ngôn ngữ, phong cách tác giả. Qua ngòi bút điêu luyện, tài tình của nhà
thơ, tất cả các chất liệu ngôn ngữ đều được nâng tầm, ánh lên vẻ đẹp và những màu sắc mới.

Sự học tập và sáng tạo này đưa đến cho ngôn ngữ nhân vật truyện thơ Nôm bác học
hai đặc điểm lớn: tính thanh nhã uyên bác được tạo bởi ngôn ngữ ước lệ, tượng tnứig và tính
chất bình dân được hình thành từ ngôn ngữ hiện thực tự nhiên và từ ca dao, tục ngữ, kết hợp
với nhau một cách tài hoa, nhuần nhị. Nhờ đó, tiếng nói các nhân vật vừa cổ điển, cao sang,
vừa bình dị, thân thuộc, giàu tính triết lý, trí tuệ, đồng thời lại trữ tình, đằm thắm, mượt mà,
vừa có giá trị khái quát cao, vừa mang tính biểu hiện cụ thể. Cái cô đúc, thâm trầm của ngôn
ngữ nhân vật là sự cộng hưởng cái hàm súc của điển tích, điển cố với tính hàm súc của
thành ngữ, tục ngữ và những biểu tượng của ca dao, dân ca. Sức sống lâu bền, mãnh liệt có
khuynh hướng trường cửu của nó là sức sống nội lực chất chứa bên trong nhũng câu ca dao,
tục ngữ.

Được thể hiện một cách phong phú và tinh tế, ngôn ngữ nhân vật trở thành công cụ
giao tiếp, tư duy hết sức sắc bén, hữu hiệu của các nhân vật.

Và, trên hết là, mỗi lời nói, mỗi suy tư của các nhân vật đều được viết với tất cả tâm
hồn và tình cảm yêu ghét rõ rệt của các nhà thơ biểu lộ khi ẩn, khi hiện ương tác phẩm. Bởi
vậy, nhiều câu thơ đã có sức lay động muôn triệu con tim. Ngay cả khi nhân vật nói bằng
ngôn ngữ ước lệ, ta vẫn thấy tình cảm hết mực chân thành.

173
Các nhà thơ của giai đoạn văn học này đã kiến tạo nên một thế giới mới từ những
nguyên liệu ngôn từ quen thuộc, xưa cũ.

Những nỗ lực của nhà thơ trong việc dịch thuật từ ngữ, văn chương Hán - Việt sang
tiếng Việt khi vận dụng, tăng cường dung lượng khẩu ngữ và các yếu tố văn học dân gian
Việt Nam khi tạo lời đối thoại và độc thoại, chẳng nhũng đã làm giàu tiếng Việt vãn chương
mà còn đem lại cho tính cách nhân vật những bộ mặt riêng, sinh động và linh hoạt.

Trung Quốc vốn không có thơ sử thi, trường ca. Truyện thơ Nôm có thể xem là một
thể loại tự sự trung đại độc đáo của Việt Nam. Chuyên dịch, sáng tạo lại các tiểu thuyết
Trung Hoa thành truyện thơ Nôm, nâng cao chất lượng tác phẩm so với nguyên mẫu, tác
phẩm của các nhà thơ giai đoạn này là một hiện tượng nằm trong quy luật phổ biến của văn
học thế giới: quy luật giao tiếp, tiếp nhận văn học.

Từ một tiểu thuyết không mấy tiếng tăm của văn học Trung Hoa, sáng tạo nên kiệt tác
Truyện Kiều, đỉnh cao của văn học Việt Nam, Nguyễn Du đã khẳng định thiên tài của mình
là thiên tài của một nhà thơ kiệt xuất.

Truyện Hoa Tiên, Truyện Kiều và tác phẩm có tính chất tự truyện Sơ kính tân trang đã
đạt đến trình độ mẫu mực của văn chương nghệ thuật cổ điển.

Ngôn ngữ nhân vật là một lĩnh vực thể hiện đặc biệt rõ tài năng sáng tạo của của các
tác giả truyện thơ. Xây dựlig ngôn ngữ nhân vật với nhữhg lời thoại có giọng điệu, màu sắc
khác nhau, các nhà thơ đã tạo cho tác phẩm của mình một sự phong phú, bộc lộ và phát huy
tối đa khả năng thể hiện đa dạng của câu thơ lục bát tiếng Việt.

Đối thoại và độc thoại trong truyện thơ Nôm bác học vừa có nhiều hình thức phong
phú, vừa giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong tác phẩm: nó được dùng để kể chuyện, để
giới thiệu nhân vật, để tổng kết cuộc đời của một con người, để thể hiện tâm trạng nhân vật,
để tạo tình huống kịch hay tạo nên sự chuyển hướng tình tiết sự kiện trong truyện thơ...
Song, đặc biệt hơn cả là vai trò của nó trong việc khắc họa và cá thể hóa tính cách và đời
sống nội tâm của nhân vật, mặc dù không phải tác phẩm nào cũng có được những gương
mặt riêng. Đặc sắc về phương diện này phải kể đến Truyện Song Tinh và Truyện Kiều.

Nguyễn Hữu Hào và Nguyễn Du không chỉ xây dựng nên những hình tượng nhân vật
lý tưởng, những tính cách một chiều, mà còn tôn trọng logic khách quan của hiện thực, phản
ánh về con người dưới nhiều góc độ, thông qua việc thể hiện nhữtig nhân vật có tiếng nói

174
hai kiểu giọng - khi đài các, cao sang, lúc thô tục phàm trần - có ngôn ngữ bên trong và bên
ngoài vừa thống nhất vừa mâu thuẫn, con người không chỉ nói theo sự thôi thúc của tình
cảm nơi con tim mà còn nói theo những mục đích, những toan tính tính táo của lý tó... Nhờ
đó, các nhà thơ đã tạo cho thế giới hình tượng nhân vật của mình những giọng điệu, những
tiếng nói riêng, nhữtig tính cách vô cùng đặc sắc. Những tính cách ấy không bị khô cứng
bởi tính chất giáo huấn và lối minh họa giản đơn cho những khái niệm đạo đức phong kiến
mà phức tạp, phong phú, đa dạng, sinh động như hiện thực cuộc đời. Ngôn ngữ nhân vật đã
đưa những Thúy Kiều, Tú Bà, Sở Khanh, Hoạn Thư, Thúc Sinh... từ tác phẩm của Nguyễn
Du; Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Bùi Kiệm... từ tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu đi
vào đời sống sinh hoạt, đời sống văn hóa của cả dân tộc.

Đối thoại và độc thoại của nhân vật trong truyện thơ Nôm bác học đã đem lại cho hình
tượng nhân vật những khái quát nghệ thuật đầy tính triết lý về thân phận con người, về
những biến cải trong cuộc đời... Nó đặt ra vấn đề nhân phẩm, quyền sống và quyền hạnh
phúc của con người, đặc biệt là người phụ nữ. Nó tiềm ẩn một khát vọng lớn lao: công lý và
sự giải phóng. Nó kết tinh giá trị lớn của văn học nhân loại: giá trị nhân đạo.

Qua ngôn ngữ nhân vật và những hình tượng nhân vật được xây dựng nên, ta thấy
được quan điểm sáng tác và quan niệm mỹ học của các nhà thơ một thời.

Ngôn ngữ nhân vật là một thành tựu rực rỡ, góp phần không nhỏ cho sự thành công
lớn của truyện thơ Nôm bác học thế kỷ XVIII - XIX, đưa giai đoạn văn học này trở thành một
giai đoạn được xem là tươi đẹp nhất của văn học nước nhà, đồng thời, giúp các tác phẩm
tiêu biểu bắc những nhịp cầu nối liền văn học Việt Nam với văn học thế giới. Với Truyện
Kiều, Nguyễn Du xứng đáng là "thiên tài mẹ" của nền văn học dân tộc.

Trong thời đại bùng nổ thông tín và giao tiếp xuyên lục địa ngày nay, đối thoại giữ
một vai trò hết sức quan trọng trong cuộc sống. Chúng tôi thiết nghĩ: nghệ thuật giao tiếp,
nghệ thuật đối thoại cần được nghiện cứu, cần được biên soạn thành một chuyên đề đưa vào
giảng dạy trong nhà trường. Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ của người xưa chính là
một cách "ôn cố nhi tri tân" (học cũ mà biết mới), góp phần bảo tồn và phát huy vốn văn
hóa tính thần của dân tộc. Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian, tư liệu và khuôn khổ của một
luận án tiến sĩ, chúng tôi chưa có điều kiện giải quyết hết những vấn đề mà đề tài này đặt ra,
chẳng hạn so sánh ngôn ngữ nhân vật truyện thơ Nôm bác học với ngôn ngữ nhân vật văn
học hiện đại để thấy quy luật phát triển, biến đổi của văn học qua từng thời kỳ, so sánh với

175
nguyên tác để thấy được đâu là sự học tập của các tác giả, đâu là sự sáng tạo của các nhà thơ
Việt Nam, mô hình hóa các loại hình ngôn ngữ của từng loại nhân vật và tìm ra quy luật của
chúng... Chúng tôi dự định trong tương lai sẽ tiếp tục tìm hiểu thêm những vấn đề trên.

176
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1.Động tác, múa (tuồng) - TỪ ĐIÊN NGHỆ THUẬT HÁT BỘI VIỆT NAM (Giáo sư
Nguyễn Lộc chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998.

2.Xác định ngôn ngữ độc thoại và đôi thoại của nhân vật trong "Truyện Kiều", TẠP
CHÍ NGÔN NGỮ, số4/1998, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia - Viện Ngôn
ngữ học, Hà Nội, tr. 50 - 60.

3.Xác định ngôn ngữ độc thoại và đổi thoại của nhân vật trong "Truyện Kiều", BÌNH
LUẬN VĂN HỌC, Niên giám 1997, Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học Thành phố Hồ
Chí Minh, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998, ữ.162- 184.

4.Hoạn Thư - Ngôn ngữ và tính cách, KỶ YẾU KHOA HỌC 1998, Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh - Trường Đại học sư phạm - Khoa Ngữ văn, 1998, tr. 90-98.

5.Thúc Sinh - ngôn ngữ và tính cách, TẬP SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN
VĂN, Chuyên san Văn học - số 9/1999, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh -
Trường Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn, 1999, tr. 21 - 24.

6.Vài nét về vai trò của ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều, KỶ YẾU KHOA HỌC
1999, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh - Trường Đại học sư phạm - Khoa Ngữ
văn, 1999, tr.105 - 115.

7.Tính ước lệ tượng trưng - một đặc điểm của ngôn ngữ nhân vật "Truyện Kiều", TẬP
SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, Chuyên san Văn học - số 13/2000, Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh - Trường Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn, 2000, tr.
19 - 29.

8.Vài nét về vai trò của ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều, TẠP CHÍ NGÔN
NGỮ, số 2/2002, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia -Viện Ngôn ngữ học, Hà
Nội, tr. 66 - 77.

177
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Đào Duy Anh (1974), Từ điển Truyện Kiều, Nxb. Khoa học xã hội.

2.Aristote (1999), Nghệ thuật thơ ca, Lưu Hiệp, Văn tàm Mu long, Nxb. Văn học, Hà
Nội.

3.Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội.

4.M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Bộ Văn hóa thông tin và thể
thao, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.

5.M. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp Đoxtoiepski, Nxb. Giáo dục.

6.Pts. Đỗ Bang (1997), Kinh tế thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn, Nxb.
Thuận Hóa.

7.Vũ Bằng (1955), Khảo sát về tiểu thuyết, Nxb. Phạm Văn Tươi, Sài Gòn.

8.Lê Đình Bích (1986), Tục ngữ Nga - Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

9.Võ Bình, Lê Anh Hiền, Cù Đình Trí, Nguyễn Thái Hòa, Bùi Hạnh Cẩn (1982),
Phong cách học tiếng việt, Nxb. Giáo dục.

10.Bộ Giáo dục và đào tạo, Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam (1999), Đại từ
điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý chủ biên, Nxb. Văn hóa thông tin, Tp. Hồ Chí Minh.

11.Nam Cao (1975), Tuyển tệp Nam Cao, Phong Lê sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu,
Nxb.Vănhọc,HàNội.

12.Bùi Hạnh Cẩn (1993), 5000 thành ngữ Hán - Việt thường dùng, Nxb. Giáo dục.

13.Nguyễn Sỹ Cẩn (1984), Mẩy vẩn đề phương phập dạy thơ văn cổ Việt Nam, Nxb.
Giáo dục.

14.Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán, Đại cương ngôn ngữ học, Tập 2, Nxb. Giáo dục.

15.Đỗ Hữu Châu (1995), Giáo ứình CHảnýắi về ngữ dụng học, Nxb. Giáo đục, Huế.

16.Hà Như Chi (1994), Việt Nam thi văn giảng luận, Nxb. Đồng Tháp.

17.Nguyễn Đình Chiểu (1998), Lục Vân Tiên, Nxb. Tổng hợp Đồng Tháp.

18.Nguyễn Đình Chiểu (1976), Truyện Lục Van Tiền, Nxb. Đại học và trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.

178
19.Nguyễn Đình Chầu về tác gia và tác phẩm (1998), Nguyễn Ngọc Thiện tuyển chọn
và giới thiệu, Nxb. Giáo dục.

20.Nguyễn Đức Dân (1998), Lôgích và tiếng Việt, Nxb. Giáo dục.

21.Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, Tập I, Nxb. Giáo dục.

22.Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri (1975), Tục ngữ Việt Nam, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.

23.Xuân Diệu (1987), Các nhà thơ cổ điển Vặt Nam, Tạp 1A Nxb. Văn học, Hà Nội.

24.Nguyễn Du toàn tập (1996), Tập 1,2, Mai Quốc Liên phiên âm - dịch nghĩa – chú
thích với sự cộng tác của Nguyễn Quảng Tuân, Ngô Linh Ngọc, Lê Thu Yến.., Nxb. Văn
học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học.

25.Nguyễn Du (1885), Kim Vân Kiều tím truyện, Abel des Mỉchels (Giáo sư trường
sinh ngữ Đông phương) Dịch và xuất bản, Lần thứ nhất, Paris Ernest Leroux, e'diteur.

26.Nguyễn Du (1897), Kìm Vân Kiều tân chuyện (Nouvelle histoire de Kim, Vân et
Kiều), Edmond Nordemann (Giáo sư trường Thông ngôn) Dịch và xuất bản, Hà Nội.

27.Nguyễn Du (1917), Kim Túy Tình Từ, Phạm Kim Chi chú thích, Nha văn hóa Phủ
quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, Tái bản 1972 theo bản của Phạm Kim Chi phiên chú,
Nguyễn Thành Điểm xuất bản, Sài Gòn.

28.Nguyễn Du (...), Kiều truyện đẫn giải, Hồ Đắc Hàm (Tư nghiệp Quốc tử giám), In
lần thứ nhất, Nhà in Đắc Lập, Huế.

29.Nguyễn Du(1956), Kim Vân Kiều, Vũ Bằng bình chú, Nxb.Phạm Văn Tươi, Sài
Gòn.

30.Nguyễn Du (1994), Kim Vân Kiều, Bản địch của Nguyễn Văn Vinh, Nxb. Văn học.

31.Nguyễn Du (1965), Thúy xẩu truyện tường chứ, Quyển thượng, Quyển hạ, Chú
đính: Chiêm Vân Thị, Phiên dịch và phụ chú: Trúc Viên Lê Mạnh Liêu, In lần thứ nhất, Bộ
Giáo dục xuất bản, Nhà in Tương Lai, Sài Gòn.

32.Nguyễn Du (1984), Truyện Kiều, Đào Duy Anh khảo chúng, hiệu đính và chú giải,
Nxb. Văn học, Hà Nội.

33.Nguyễn Du (1972), Truyện Kiều, Hà Huy Giáp giới thiệu, Nguyễn Thạch Giang
khảo đính, chú thích, Nxb. Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

179
34.Nguyễn Du (1993), Truyện Kiều đề chiểu chữ Nôm - quốc ngữ, Vũ Văn Kính khảo
lục, Viện bảo tàng lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh.

35. Nguyễn Du (1934), Truyện Thúy Kiều (Đoạn trường tân thanh), Bùi Kỷ và Trần
Trong Kim (hiệu khảo), In lần thứ 3, Vĩnh Hưng Long thư quán, Hà Nội.

36.Nguyễn Du (1995), Truyện Kiều (Đoạn trường lân thanh), Nguyễn Quảng Tuân
khảo đính và chú giải, Nxb. Khoa học xã hội.

37.Nguyễn Du (1941), Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện, Tản Đà Nguyễn Khắc
Hiếu, Nxb. Tân Dân, Hà Nội.

38.Nguyễn Du (1991), Vũ Tiến Quỳnh tuyển chọn và trích dẫn, Nxb. Tổng hợp Khánh
Hòa.

39.Nguyễn Du về tác gia và tốc phẩm (1998), Trịnh Bá Đình với sự cộng tác của
Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh (tuyển chọn và giới thiệu), Nxb. Giáo dục.

40.Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào (1993), Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt
Nam, Nxb. Giáo dục.

41.Nguyễn Dữ (1988), Truyền kỳ mạn lục, Nxb. Vãn nghệ, Hội nghiên cứu giảng dạy
Văn học Tp. Hồ Chí Minh.

42.Nguyễn Văn Đạm (1999), Từ điển tiếng Việt - tường giải và liên tưởng, Nxb. Văn
hóa thông tin, Hà Nội.

43.Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2002), Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống
người Việt, Luận án tiến sĩ ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm, Tp. Hồ Chí Minh.

44.Lâm Ngữ Đường (1994), Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa, Nxb. Văn hóa.

45.Lê Giang (2001), Ý thức văn học cổ Trung đại Việt Nam, Luận án tiến sĩ ngữ văn,
Đại học Quốc gia T.p Hồ Chí Minh, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn T.p Hồ
Chí Minh.

46.Nguyễn Thạch Giang, Trương Chính (2000), Nguyễn Du-Tác phẩn và lịch sử văn
bản, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh.

47.Bùi Giáng (1998), Một vài nhận xét về Truyện Kiều - Phan Trài - Thúy Vân - Lục
Vân Tiên - Chinh phụ ngâm - Quan Ầm Thị Kính - Bà Huyện Thanh Quan, Nxb. Hội Nhà
văn.

180
48.M. Goorki (1982), Kỉnh nghiệm viết kịch, Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam.

49.A.JA.Gurêvich (1996), Các phạm trù văn hóa trung cổ, Nxb. Giáo dục.

50.Nguyễn Hải Hà (1992), Thi Pháp tiểu thuyết LTonxtoi, Nxb. Giáo dục.

51.Phạm Vũ Lửa Hạ (1998), 20 truyện ngắn vượt thời gian, Nxb. Đà Nẵng.

52.Nguyễn Thị Bích Hải (1995), Thi pháp Thơ Đường, Nxb. Thuận Hóa, Huế.

53.Dơng Quảng Hàm (1993), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb. Đồng Tháp.

54.Vũ Hạnh (1993), Đọc lại Truyện Kiều, Nxb. Văn nghệ T.p Hồ Chí Minh.

55.Nguyễn Hữu Hào (1987), Truyện Song Tinh, Hoàng Xuân Hãn biên khảo, giới
thiệu, Nxb. Văn học, Hà Nội.

56.Nguyễn Hữu Hào (1984), Truyện Song Tinh, Nguyễn Thị Thanh Xuân khảo đính,
phiên âm và chú thích, Nxb. Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh.

57.Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt - sơ khảo ngữ pháp chức năng, Quyển 1, Nxb.
Khoa học xã hội.

58.Hoàng Ngọc Hiến (...), Văn học - học văn, Trường Cao đẳng sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh, trường viết văn Nguyễn Du.

59.Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mã phê bình văn học, Nxb. Khoa học xã hội, Nxb. Mũi
Cà Mau.

60.Nguyễn Xuân Hoà (1998), Anh hưởng của tiểu thuyết cổ Trung Quốc đến tiểu
thuyết cổ Việt Nam, Nxb. Thuận Hóa.

61.Kiều Thu Hoạch (1993), Truyện Nôm nguồn gốc và bản chất thể loại, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.

62.Kiều Thu Hoạch (1996), Truyện Nôm bình dân của người Việt - lịch sử hình thành
và bản chất thể loại, Luận án PTS. Khoa học ngữ văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân vãn Hà Nội.

63.Nguyễn Văn Hoàn (1962), "Sơ kết cuộc trao đổi ý kiến về vấn đề tranh luận
"Truyện Kiều năm 1924", Nghiên cứu văn học, số6/1962, tr. 49.

64.Phạm Đình Hổ (1989), Vũ trung tùy bứt, Nxb. Trê, Hội nghiên cứu giảng dạy văn
học T.p Hồ Chí Minh.

181
65.Lương Vần Hồng (1992), Tục ngữvà câu đốĐte - Vặt, Nxb. Trẻ, T.p Hồ Chí Minh.

66.Trần Đình Hươu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb. Văn
hóa thông tin.

67.Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên (1972), Lịch sử văn học việt nam -văn học dân
gian, Tập 1, Nxb. Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

68.Nguyễn Thị Dư Khánh (1995), Phân tích tác phẩn văn học từ góc độ thi pháp, Nxb.
Giáo dục.

69.Nguyễn Xuân Khoa (1997), Phương pháp dạy dấu câu tiếng Việt ờ trường phổ
thống, Nxb. Giáo dục.

70.Khoa Ngữ Văn Đại Học Sư Phạm 1 Hà Nội (1992), Giảng văn, Nxb. Đại học và
trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

71.Tạ Ký (1994), Việt Nam thi văn trích giảng, Nxb. Đồng Tháp.

72.Lê Đình Kỵ (...), Hiểu đúng đắn Truyện Kiều, Ban vận động thành lập Hội văn
nghệ Đồng Tháp.

73.Lê Đình Kỵ (1993), Thơ Mã, những bước thăng trần, Nxb. T.p Hồ Chí Minh.

74.Lê Đình Kỵ (1992), Truyện Kiều và chả nghĩa hiện thực, Hội vãn học T.p Hồ Chí
Minh.

75.Đinh Trọng Lạc (1994), Phong cách học văn bản, Nxb. Giáo dục.

76.Lênin bàn về ngôn ngu (1998), Nxb. Giáo dục.

77.Nguyễn Hiến Lê (1993), Hương sắc trong vườn văn, Quyển 1, Nxb. Tổng hợp
Đồng Tháp.

78.Nguyễn Hiến Lê (1998), Luận ngữ, Nhà xuất bản Văn học.

79.Nguyễn Hiến Lê (1965), Thân phận người trong Truyện Kiều, Bách khoa số 209,
tháng 9/1965, tr. 26 - 32.

80.Đặng Thanh Lê (1977), về ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều, Tạp chí van học số 3 -
1977.

81.Đặng Thanh Lê (1979), Truyện Kiều và thể loại Truyện Nôm, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội.

182
82.I. X. Lixevich (1994), Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc, Nxb. Giáo dục.

83.Mai Quốc Liên (1996), Dòng bác học và dòng bình dân trong ngôn ngữ Truyện
Kiều, Tạp chí Văn học, Tháng 3/1966, tr. 50 - 57

84.Nhất Linh (1960), Viết và độc tiểu thuyết, Nxb. Đời nay.

85.Đoàn Ánh Loan (2000), Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố trong truyện thơ và
ngâm khúc giai đoạn văn học nửa cùm thế kỷ XVIII - đầu thể kỷ XIX, Luận án tiến sĩ khoa
học ngữ văn, Đại học quác gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Khoa học xã hội
và nhân vãn, Tp. Hồ Chí Minh.

86.Nguyễn Lộc (1990), Nguyễn Du - con ngíM và cuộc đòi, Nxb. Đà Nắng.

87.Nguyễn Lộc (1992), Văn Học Việt Nam nửa CÚM thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ
XIX, Tập 1 ,2, Nxb. Đại học và giáo dục chuyên nghiệp.

88.Nguyễn Lộc (1965), về ngôn ngữ nhân vật ù-ong Truyện Kiều, Tạp chí Văn học,
Tháng 11/1965, trang 62.

89.Phương Lựu (1989), Tinh hoa lý luận văn học cổ điên Trung Quốc, Nxb. Giáo dục.

90.Phương Lựu (1985), về quan niệm văn chương cổ Việt Nam, Nxb. Giáo dục.

91.Lưu Trọng Lư (1995), Nhật ký đọc Kiều, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội.

92.Nguyễn Đãng Mạnh (1994), Con đường ã vào thế giã nghệ thuật cửa nhà văn, Nxb.
Giáo dục.

93.O.I. Moskalskaja (1996), Ngữpháp văn bản, Người dịch: Trần Ngọc Thêm, Nxb.
Giáo dục.

94.Một số bài viết về sự vận dụng tiếng Việt (1981), Nxb. Giáo dục.

95.Nguyễn Phong Nam (chủ biên), Trần Hữu Duy, Huỳnh Kim Thành, Trần Đại Vinh
(1997), Những vấn đề lịch sử và văn chương triều Nguyễn, Nxb. Giáo dục.

96.Hồ Ngọc (1973), Nghệ thuật viết kịch Nxb. Văn hóa.

97.. Hữu Ngọc (1993), Chân dung văn hóa đất nước Mặt trời mọc, Nxb. Thế giới.

98.Phan Ngọc (1985), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb.
Khoa học xã hội Hà Nội.

183
99.Ngô Gia Văn Phái (1984), Hoàng Lê nhất thống chí, Tạp 1,2, Nguyên Đức Vân,
Kiều Thu Hoạch địch, Nxb. Văn học, Hà Nội.

100.Bùi Văn Nguyên (và nhiều tác giả) (1978), Lịch sử Văn học Việt Nam, T.1, Văn
học dân gian, Phần 2, Nxb. Giáo dục.

101.Bùi Văn Nguyên (1992), Nguyễn Du người tình và Nguyễn Du tình người, Nxb.
Khoa học xã hội, Nxb. Mũi Cà Mau.

102.Thanh Tâm Tài Nhân (1994), Truyện Kìm Vân Kiều, Nguyễn Khắc Hanh và
Nguyễn Đức Vân dịch, Nxb. Hải Phòng.

103.Nhiều tác giả (1976), Tập nghị luận và phê bình văn học chọn lọc, Tập 1, Nxb.
Giáo dục.

104.Bùi Mạnh Nhị (Chủ hiên), Hồ Quốc Hùng, Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2001), Văn
học Vặt Nam Văn học dân gian Những công trình nghiên cứu, Nxb. Giáo dục.

105.Nhóm Lê Quí Đôn biên soạn (1957), Lược khảo lịch sử văn học việt nam, Tập 2,
Nxb. Xây dựng Hà Nội.

106.Những khúc ngòm chọn lọc, Tập 1,2, Lương Văn Đang, Nguyễn Thạch Giang,
Nguyễn Lộc giới thiệu, biên khảo, chú giải, Nxb. Giáo dục.

107.David Nunan (1997), Dẫn nhập phân tích dãn ngôn, Nxb. Giáo dục.

108.(1994) Phạm Công tân truyện (Phạm Công Cúc Hoa), Nxb. Văn học.

109.Vũ Ngọc Phan (1978), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội.

110.Trần Thị Phương Phương (2000), Nghiên cứu so sánh Truyện Kiều của Nguyễn
Du với Evgeni Onegỉn cửa AS.Puskỉn về mật phương pháp sáng tác, Luận văn tiến sĩ ngữ
văn, Đại học Quốc gia T.p Hồ Chí Minh, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn T.p
Hồ Chí Minh.

111.Nguyễn Tường Phượng (1951), Văn học sử Việt Nam tiền bán thế kỉ XIX, Nhà in
Vũ Hùng, Hà Nội.

112.Phạm Đan Quế (1991), Truyện Kiều âm chiếu, Nxb. Hà Nội.

113.Phạm Quỳnh (1929), Khảo về tiểu thuyết, Nxb. Đông kinh.

184
114.Số phận của tiểu thuyết (1983), Nxb. Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam.

115.Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam (1987), Lý luận văn học, Tập 2,
Nxb. Giáo dục.

116.Trần Đình sử (1997), Những thế giới nghệ thuật thơ, tiểu luận, Nxb Giáo dục.

117.Trần Đình Sử (2002), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb.Giáo dục.

118.Doãn Quốc Sỹ (1973), Văn học và tiểu thuyết, Tập 2, Nxb. Sáng tạo, Sài Gòn.

119.Quách Tấn (1973), Lãng - Nhân thân thế và tác phẩm, Nxb. Nam Hà nhã tập.

120.Đặng Tiến (...), Vũ trụ thơ, Giao Điểm ấn hành.

121.Phạm Thái (1960), Sơ kính tần trang, Lại Ngọc Cang khảo thích và giới thiệu,
Nxb. Văn hóa, Viện Văn học.

122.Phạm Thái (1984) Sơ kính tân trang, Hoàng Hữu Yên giới thiệu và chú thích,
Nxb. Giáo dục.

123.Khâu Chấn Thanh (1994), Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trưng Quốc, Nxb.
Giáo dục.

124.Trần Thị Băng Thanh (1999), Những suy nghĩ từ văn học trưng đại, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.

125.Hoài Thanh, Hoài Chân (1988), Thi nhân Việt Nam, Nxb. Văn học Hà Nội.

126.Hoài Thanh (1982), Tuyển tập Hoài Thanh, Tập 2, Nxb. Văn học, Hà Nội.

127.Lã Thành (1989), Từ điển thành ngữ Anh - Việt, Nxb. Khoa học và kỹ thuật Hà
Nội

128.Nguyễn Quý Thành (2002), Cấu trác ngữ pháp - ngữ nghĩa của tục ngữ Việt, Luận
án tiến sĩ Khoa học ngữ văn, Đại học Quốc gia T.p Hồ Chí Minh, Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn.

129.Nguyễn Quốc Thắng, Tìm him một tác phẩm, Nxb. Trường xuân, Sài Gòn.

130.Thơ chữ Hán Nguyễn Du (1959), Bùi Kỷ, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh phiên
dịch và giới thiệu, Nxb. Văn hóa.

131.Thơ văn Nguyễn Công Trà, Trương Chính biên soạn và giới thiệu, Nxb. Văn học
Hà Nội.

185
132.Đỗ Lai Thúy (1994), Con mắt thơ, Nxb. Lao động Hà Nội.

133.Tiếng nói tri âm(1994),Nxb.Trẻ,Thành phố Hồ Chí Minh.

134.Tổng tập văn học Việt Nam (1997), tập 12, Ngọc Kiều Lè, Nguyễn Quảng Tuân
khảo đính và chú giải, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

135.Tổng tập văn học Việt Nam (1997), tập 13A, Hoa tiên, Sơ kính tân trang, Mai
Đình mộng ký, Nguyễn Quảng Tuân khảo đính và chú giải, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

136.Lê Ngọc Trà (1994), Lý luận và văn học, Nxb. Trẻ T.p Hồ Chí Minh.

137.Lê Hữu Trác (1989), Thượng kinh ký sự, Nxb. Thông tin.

138.Hoàng Trinh (1997), Từ kỷ hiệu học đến tỉúpỉiáp học, Nxb. Đà Nâng.

139.Nguyễn Văn Trung (1962),Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết, Nxb. Tự do, Sài Gòn

140. Nguyễn Văn Trung (1986), Càu đố Việt Nam, Nxb. T.p Hồ Chí Minh.

141. Nguyễn Văn Trung (1999), Nghi vấn về tác giả Lục Vân Tiên, Tạp chí văn
học tháng 12/1999, tr.27.

142.Phạm Quang Trung (1995), Tìm hiểu quan niệm thơ cổ Việt Nam, Luận án Phó
Tiến sĩ Khoa học ngữ văn - Đại học sư phạm T.p Hồ Chí Minh.

143.Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện văn học (1997), Nguyễn
Huy Tựvà Truyện Hoa Tiên, Kỷ yếu hội thảo, Nxb. Khoa học xã hội.

144.Truyện Nôm khuyết danh (1994), Nhị Độ Mai, Nxb. Văn học.

145.Truyện Thạch Sanh (1987), Hải Anh, Tá Nhí biên soạn, Mai Xuân Hải giới thiệu,
Nxb. Văn học, Hà Nội.

146.Truyện Trinh thử(1994), Ưu thiên Bùi Kỷ hiệu đính, Nxb. Văn học, Hà Nội.

147.Cù Đình Tú (1983), Phong cách học và đặc diêm tu từ tiếng Việt, Nxb. Đại học và
trung học chuyên nghiệp.

148.Nguyễn Quảng Tuân (1994), ctìữngìũa Truyện Kiều, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội

149.Nguyễn Tuân (1982), Tuyển tập Nguyễn Tuân, Tập 2, Nxb. Văn học, Hà Nội.

150.Đỗ Minh Tuấn (1995), Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều,
Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.

186
151.Trần Văn Chánh biên soạn (1999), Từ dẩn Hòn -Việt-Hàn ngữ cổ đại và hiện đại,
Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

152.Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (1992), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

153.Văn Tần chủ biên, Nguyễn Lân chỉnh lý và bổ sung (1997), Từ điển tiếng Việt,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

154.Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Thiện (1978), Truyện Hoa Tim, Đào Duy Anh khảo
đính, chú thích, giới thiệu, Nxb. Văn học.

155.Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Thiện (1998), Truyện Hoa Tiên (Hoa Tiên nhuận
chính), Hoàng Hữu Yên khảo dị, chú thích và giới thiệu, Nxb. Văn nghệ T.p Hồ Chí Minh,
Hội Nghiên cứu và giảng dạy Văn học Tp. Hồ Chí Minh.

156.Hoàng Tiến Tựu (1992), Bình giảng ca dao, Nxb. Giáo dục.

157.Lê Trí Viễn (1994), Đặc điểm lịch sử Văn học Việt Nam, Nxb. Đại học và trung
học chuyên nghiệp, Hà Nội.

158.Lê Trí Viễn, Phạm Côn, Đặng Thanh Lê, Phạm Văn Luận, Lê Hoài Nam sách đại
học sư phạm, (1978), Lịch sử Văn học Việt Nam, Nxb. Giáo dục.

159.Lê Trí Viễn giới thiệu, Nguyễn Đức Quyền, Lê Xuân Lít, Nghĩ về thơ Hồ Xuân
Hương, Sở Giáo dục Nghĩa Bình.

160.Lê Trí Viễn (1982), Những bài giảng văn ở đại học, Nxb. Giáo dục.

161.Viện Ngôn ngữ học (1998), Từ điển tiếng Việt, Hoàng phê chủ biên, Nxb. Đà
Nâng, Trung tâm Từ điển học Hà Nội - Đà Nấng.

162.Vô danh thị (1952), Truyện Nhị Độ Mai, Thi nham Đinh Gia Thuyết đính chính
và chú thích, Sách Giáo khoa Tân Việt

163.Vô danh thị (1952), Truyện Phan Trài, Thi nham Đinh Gia Thuyết đính chính và
biên soạn, Sách Giáo khoa Tân Việt

164.Lê Thu Yến (chủ biên), Đoàn Thị Thu Vân, Lê Văn Lực, Phạm Văn Nhu (2000),
Văn học trung đại - những công tành nghiên cứu, Nxb. Giáo dục.

187
PHỤ LỤC
BẢNG 1.1a:

188
189
BẢNG 1.1b:

190
191
192
BẢNG 1.3:

Chú thích:

_ Số liệu đầu tiên là số liệu chứng tôi thống kê từ văn bản được chúng tôi xem là văn
bản hạt nhân (ở đây là bản Hoàng Hữu Yên).

_ Các số cộng, trừ cho thấy sự bổ sung, điều chỉnh từ các văn bản khác hoặc từ tác giả
luận án. số liệu cuối cùng ở phần tổng cộng là sự thống kê của chúng tôi.

Ví du:

Ở cột "Số lượt lời" đối thoại, nhân vật Phạm Kim, theo bản HHY, có lổ lần đối thoại,
chúng tôi bổ sung từ các văn bản khác hoặc từ tác giả luận án thêm 2 lượt lời nữa.

ở hàng "tổng cộng", theo bản HHY, tác phẩm có 86 lượt lời. Theo ý kiến chúng tôi,
sau khi đã điều chỉnh, bổsung, có 88 lượt lời.

193
BẢNG 2. la:

194
195
196
BẢNG 2.1b:

197
BẢNG 2.2:

198
Tóm lại:

Bản Hoàng Hữu Yên có 1766 câu thơ. Bản Lửa Thiêng có 1826 câu thơ.

* 2 văn bản khác nhau: 22 chỗ - 179 câu thơ (= 24,7%)(68 câu hoàn toàn khác =
9,4%). Cụ thể:

199
_ Đối thoại: khác nhau 14 lượt lời - 110 câu (=18,3%)(37 câu hoàn toàn khác = 6,2%).

+ Khác số câu trong một lượt lời: 9 lần - 89 câu (trong đó, khác hoàn toàn 16 câu).

+ Bổ sung lẫn nhau: 5 lần - 21 câu thơ. Trong đó:

- Bản HHY : 1 lần - 1 câu.

- Bản LT: 41ần- 20câu.

_ Độc thoại: khác nhau 9 lần - 69 câu thơ (=56,1%)(31 câu hoàn toàn khác = 25,2%).

+ Khác số câu trong một lần độc thoại: 7 lần - 59 câu (khác hoàn toàn: 21 câu).

+ Bổ sung lẫn nhau:

- Bản HHY: 0

- BảnLT: 2 chỗ-10 câu thơ.

Sự khác nhau ở 2 văn bản này chủ yếu là do dịch khác nhau:

- 2 chỗ bản HHY dịch dài hơn (2+2 = 4 câu).

- 1 chỗ là do bản LT dịch khác.

- 2 chỗ là do văn bản bản LT dịch dài hơn(2+12=14 câu).

- 3 chỗ do bản LT có, bản HHY không có những câu thơ này (25 câu thơ).

- 1 chỗ bản HHY xem là 1 lời độc thoại, nhưng do dịch, bản LT lại xem đó là 2
lời đối thoại của 2 nhân vật khác nhau.

* Ỷ kiến người viết luân án:

_Chỉnhlý: 0.

_ Bổ sung: 0.

Theo chúng tôi, việc xác định ngôn ngữ nhân vật của 2 văn bản tuy có nhiều chỗ khác
nhau, nhưng đều có lý, vì dựa trên cách dịch khác nhau.

Tuy nhiên, nếu chọn bản HHY làm văn bản khảo sát chính thì nên chỉnh lý và bổ sung
thêm 2 trường hợp mà bản LT đã xác định:

-1 lượt hội thoại của Lương Sinh với 2 câu thơ (câu 289 - 290).

200
- 1 lần độc thoại - 4 câu - của Dao Tiên (943 - 946), bản LT dịch dài hơn và tách
làm 2 lời đối thoại của Dao Tiên (câu 955 - 956) và của Vân Hương (958 - 960) là có lý và
chính xác hơn.

BẢNG 2.3:

201
202
203
204
205
206
BẢNG 3.2:

207
* số lần độc thoại 3 văn bản:

- thống nhất hoàn toàn: 10 lần = 71 câu

- thống nhất một phần: 3 lần = 41 câu

- tổng cộng: 114 câu

* ý kiến người viết luận án: (276 câu)

208
- 9 cuộc: hoàn toàn thống nhất với 3 văn bản trên = 65 câu

- 5 cuộc: thống nhất một phần = 113 câu

- tổng cộng: 178 câu

(so với bản Đào Duy Anh:

- thống nhất hoàn toàn : 26 cuộc = 177 câu

- thống nhất một phần: lo cuộc = 54 câu

- tổng cộng : 221 câu.)

*chú thích:

- cột (1): (sít): số thứ tự lần độc thoại lấy theo ý kiến người viết luận án.

- cột (2) : từ câu- đến câu: (ví dụ:179-182: lời đối thoại xuất hiện trong phạm vi từ câu
thứ 179 đến câu thứ 182) chúng tôi lấy chuẩn là bản Bùi Kỷ- Trần Trọng Kim. để tiện theo
dõi, những chỗ nào bản Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim không có, chúng tôi bổ sung thêm cách
xác định của bản Đào Duy Anh (in nghiêng đậm). Những chỗ in đậm và có dấu sao là sự bổ
sung hoàn toàn mới của chúng tôi. Cột này được lấy làm chuẩn để so sánh hàng ngang với
các cột khác .

- cột (6): - cho biết lời độc thoại nào của bản Nguyễn Thạch Giang khác các văn bản
khác.

- cột (6): - dấu (x) cho biết những chỗ xác định độc thoại của bản Đào Duy Anh mà
bản Bùi Kỷ- Trần Trọng Kim và bản Nguyễn Thạch Giang không có.

- Những chỗ có ghi số là những chỗ bản Đào Duy Anh xác định có phần khác biệt so
với bản Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim và bản Nguyễn Thạch Giang, chẳng hạn (2004-2020):
đoạn này, bản Đào Duy Anh xác định có 17 câu độc thoại, hai văn bản kia xác định có 19
câu .

- cột (9): - ghi lại những câu mà người viết luận án xác định khác ba văn bản nêu trên.

209
BẢNG 3.3:

210
*Chú thích: (1) - Truyện Kiều có 28 nhân vật tham gia đối thoại trực tiếp. Bên cạnh
đó, Nguyễn Du cồn có chỗ tạo ngôn ngữ "nhân vật đám đông". Chẳng hạn lời đối thoại của
cha mẹ Kiều hoặc của cả gia đình Kiều (khôngcụ thể là lời nói của ai):

Nghe tin nhớn nhác rụng rời,

Xúm quanh kể lể, rộn lời hỏi tra:

Này chồng, này mẹ này cha,

Này là em ruột, này là em dâu..."

Chúng tôi tạm gọi đây là lời đối thoại của "gia đình Kiều".

- Ngoài ra Nguyễn Du còn 2 lần tạo ngôn ngữ đối thoại gián tiếp:

+ Lời người khách viễn phương: 1 lần - 3 câu (Câu 74-76)

+ Lời thầy tướng số: 1 lần - 2 câu (Câu 415-416)

211
BẢNG 4.1a:

212
213
214
215
216
217
218
BẢNG 4. 2:

219
220
Từ 2 bảng thống kê trên, sau khi cộng, trừ số câu độc thoại trong bảng thống kê đối
thoại, và ngược lại, ta có:

_ Số câu đối thoại chính xác là: 106+2=108.

_ Số câu độc thoại chính xác là: 55+6 = 61.

Tóm lại:

* 2 văn bản khác nhau: 29 chỗ - 159 câu thơ (=12,7%)(khác nhau hoàn toàn 89 câu
=7, 1 %). Cụ thể:

_ Đối thoại: 2 văn bản khác nhau 24 lượt lời - 114 câu thơ (khác nhau hoàn toàn 51
câu thơ =4,5%).

+ Khác số câu trong một lượt lời: 13 lần - 79 câu (trong đó, khác hoàn toàn 16
câu).

221
Có 2 chỗ số câu như nhau nhưng xác định số lượt lời khác nhau (15 câu thơ).

+ Bổ sung lẫn nhau: 11 lần - 35 câu thơ. Trong đó:

- Bản ATC: 8 lần-30 câu.

- BảnTV: 3 lần- 5 câu.

_ Đốc thoai: 2 văn bản khác nhau 5 chỗ - 45 câu thơ (= 38,79%) (khác hoàn toàn 38
câu = 31,9%)).

+ Khác số câu trong một lần độc thoại : 1 lần - 8 câu (khác hoàn toàn: 1 câu).

+ Bổ sung lẫn nhau:

- Bản NTG:2 lần - 34 câu thơ.

- Bản TV: 2 lần -3 câu.

* Ý kiến người viết luận án:

Chỉnh lý:

+ Đối thoại:

- 3 lượt đối thoại thành 7 lời (5 lượt đối thoại và 2 lần độc thoại -19 câu).

- 1 lượt lời điều chỉnh số câu (4 câu thành 3 câu). + Độc thoại:

- 1 lần độc thoại thành 1 đối thoại và 1 độc thoại (11 câu thơ).

Bổ sung:

+ Đối thoại: 1 lượt lời - 2 câu thơ.

+ Độc thoại: 1 lần - 2 câu.

222
BẢNG 4.3:

223
224
BẢNG 5.1a:

225
226
227
228
229
230
231
Tóm lại:

* 2 văn bản khác nhau: 13 chỗ - 63 câu thơ (= 6,2%)(khác hoàn toàn 37 câu = 3,6%).
Cụ thể:

_ Đối thoại: 10 lượt lời — 39 câu thơ (= 4%)(15 câu hoàn toàn khác nhau =1,6%).

+ Khác số câu trong một lượt lời:3 lần - 28 câu (trong đó, khác hoàn toàn 4 câu).

+ Bổ sung lẫn nhau: 7 lần - 11 câu thơ. Trong đó:

- Bản ĐGT: 6 lần - 10 câu.

- Bản NTG: 1 lần- 1câu.

_ Độc thoại: 2 chỗ -17 câu thơ khác nhau (=25%). + Khác số câu ương một lần độc
thoại: 0 + Bổ sung lẫn nhau:

- Bản ĐGT: 2 lần - 17 câu thơ.

- Bản NTG: 0

* Ý kiến người viết luận án:

_ Chỉnh lý: 4 chỗ - 48 câu. Cụ thể:

+ Đối thoại: 2 chỗ - 24 câu. Cụ thể:

- 1 lượt đối thoại điều chỉnh số câu (19 câu thành 22câu).

-1 lượt đối thoại (4 câu) thành 2 lượt (2+2).

+ Độc thoại: 2 lời - 22 câu

_ Bổ sung: 12 lời - 47 câu thơ. Trong đó:

+ Đối thoại: 7 chỗ - 17 câu.

+ Độc thoại: 5 lời - 30 câu (=35,3%).

232
BẢNG 5.3:

233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
BẢNG 6.1b:

246
BẢNG 6.2:

247
248
Tóm lại:

* 2 văn bán khác nhau: 50 chỗ - 176 câu thơ (= 16,1%)(164 câu khác nhau hoàn toàn
= 15%). Cụ thể:

_ Đối thoại: 38 lời - 131 câu thơ (=12,6)(125 câu khác nhau hoàn toàn = 12%). Trong
đó:

+ Khác số câu toong một lượt lời: 4 lần - 16 câu (trong đó, khác hoàn toàn lo câu).

+ Bổ sung lẫn nhau: 34 lần - 115 câu thơ. Trong đó:

249
- Bản HXH: 24 lần - 102 câu.

- Bản NTTX: 7 lần- 13 câu.

_ Độc thoại: 12 - 42 câu thơ khác nhau (=85,7%)(39 câu khác nhau hoàn toàn =
79,6%). Cụ thể:

+ Khác số câu trong một lần độc thoại: 1 lần - 4 câu (khác hoàn toàn: 1 câu).

+ Bổ sung lẫn nhau: 11 lần - 38 câu thơ (=77,6%). Cụ thể:

- Bản HXH: 11 lần - 38 câu thơ.

- Bản NTTX: 0

* Ý kiến người viết luận án:

_Chỉnh lý:

+ Đối thoại: 2 lượt đối thoại thành 3 lượt (8 câu thành 5 câu).

+ Độc thoại: 0

_ Bổ sung: 0

250
BẢNG 6.3:

251
Chú thích:

_ Số liệu đầu tiên là số liệu chúng tôi thống kê từ văn bản được chúng tôi xem là văn
bản hạt nhân (ở đây là bản Hoàng Xuân Hãn).

_ Các số cộng, trừ cho thấy sự bổ sung, điều chỉnh từ các văn bản khác hoặc từ tác giả
luận án. số liệu cuối cùng ỏ phần tổng cộng là sự thống kê của chúng tôi.

252

You might also like