You are on page 1of 251

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM


HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ DUY NGHĨA

TÍN NGƢỠNG CỦA NGƢỜI HOA Ở THÀNH PHỐ


HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC

HÀ NỘI - 2022
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ DUY NGHĨA

TÍN NGƢỠNG CỦA NGƢỜI HOA Ở THÀNH PHỐ


HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM HIỆN NAY

NGÀNH: NHÂN HỌC


MÃ SỐ: 9 31 03 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Minh

HÀ NỘI - 2022
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự
hƣớng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Văn Minh. Các số liệu, kết quả
nghiên cứu trong Luận án này là trung thực và chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ
công trình nào trƣớc đó. Các trích dẫn ý kiến của các nhà khoa học và nguồn tài
liệu đƣợc thực hiện nghiêm chỉnh theo đúng quy định chung. Nếu vi phạm, tôi
xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Tác giả luận án

Võ Duy Nghĩa
LỜI CẢM ƠN
Đƣợc học tại Học viện Khoa học xã hội là một niềm vinh hạnh đối với
không ít nghiên cứu sinh và bản thân tôi cũng không là ngoại lệ. Ƣớc mơ trở
thành một nhà nghiên cứu khoa học nhen nhóm trong suốt quá trình học tập
và rèn luyện tại Học viện. Đƣợc sự dẫn dắt của PGS.TS. Nguyễn Văn Minh
cùng tất cả thầy cô trong Học viện Khoa học xã hội, tôi đã đƣợc trang bị một
hành trang kiến thức để có thể tự tin bƣớc vào đời, bƣớc vào những khó khăn,
thách thức mà có thể tôi không lƣờng trƣớc đƣợc. Nhƣng hoàn thành đƣợc
luận án tiến sĩ xem nhƣ là thành công bƣớc đầu của tôi.
Với tôi, mỗi một trải nghiệm cũng chính là lúc chiêm nghiệm lại bản
thân mình. Trong quá trình học tập nghiên cứu, viết luận án, tôi đã gặp không
ít khó khăn song đƣợc sự giúp đỡ tận tình của Ban Lãnh đạo và các cán bộ
trong Trung tâm Quản lý bảo tồn di tích Hội An, Ủy ban Nhân dân thành phố
Hội An, Ủy ban Nhân dân phƣờng Minh An, Phòng Thống kê thành phố Hội
An, Thƣ viện thành phố Hội An và Thƣ viện Quốc gia Việt Nam… đã tạo
điều kiện thuận lợi về mọi mặt để tôi hoàn thành luận án.
Trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, các Phòng chức năng, Khoa chuyên
môn và tập thể cán bộ giáo viên Học viện Khoa học xã hội, những ngƣời đã
trực tiếp dìu dắt tôi trong suốt khóa học. Xin đƣợc gửi lời cảm ơn đặc biệt tới
thầy hƣớng dẫn PGS.TS. Nguyễn Văn Minh đã chỉ bảo tận tình, động viên,
khích lệ tác giả trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận án.
Cuối cùng, tác giả luận án xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia
đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu
và hoàn thành luận án.
Tác giả luận án
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
THUYẾT VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU .................................................... 11
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .......................................................... 11
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về ngƣời Hoa và tín ngƣỡng ngƣời Hoa
ở Việt Nam ............................................................................................ 11
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về ngƣời Hoa và tín ngƣỡng của ngƣời
Hoa ở thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam .......................................... 20
1.2. Cơ sở lý thuyết ........................................................................................ 26
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản ............................................................. 26
1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu .................................................................. 42
1.3. Khái quát về thành phố Hội An và ngƣời Hoa ở Hội An ................... 45
1.3.1. Khái quát về thành phố Hội An .................................................. 45
1.3.2. Khái quát về ngƣời Hoa ở thành phố Hội An ............................. 50
Tiểu kết Chƣơng 1 ......................................................................................... 59
Chƣơng 2: CÁC HÌNH THỨC TÍN NGƢỠNG VÀ THỰC HÀNH
TÍN NGƢỠNG CỦA NGƢỜI HOA Ở HỘI AN HIỆN NAY ................... 61
2.1. Khái quát về tín ngƣỡng và thực trạng tín ngƣỡng của ngƣời Hoa
ở Hội An ......................................................................................................... 61
2.1.1. Khái quát về tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ..................................... 61
2.1.2. Thực trạng tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở thành phố Hội An....... 67
2.2. Thực hành tín ngƣỡng trong cộng đồng .............................................. 73
2.2.1. Thờ Tiền hiền, Hậu hiền ............................................................. 58
2.2.2. Thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu ........................................................ 77
2.2.3. Thờ Môn thần.............................................................................. 80
2.2.4. Thờ Quan Thánh Đế Quân (Quan Công).................................... 82
2.2.5. Thờ Bắc Đế Trấn Vũ (Huyền Thiên Đại Đế ) ............................ 88
2.2.6. Thờ âm linh, âm hồn ................................................................... 92
2.2.7. Thờ thần Phục Ba ........................................................................ 94
2.3. Thực hành tín ngƣỡng trong gia đình .................................................. 96
2.3.1. Thờ cúng tổ tiên .......................................................................... 96
2.3.2. Thờ Ngũ tự gia đƣờng ................................................................. 99
2.3.3. Thờ Thần Tài, Thổ Địa ............................................................. 101
2.3.4. Thờ Táo Quân ........................................................................... 103
Tiểu kết Chƣơng 2 ....................................................................................... 106
Chƣơng 3: GIÁ TRỊ, XU HƢỚNG BIẾN ĐỔI VÀ GIẢI PHÁP BẢO
TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ TÍN NGƢỠNG CỦA NGƢỜI HOA Ở
HỘI AN TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY .............................................. 108
3.1. Giá trị tín ngƣỡng trong đời sống ngƣời Hoa.................................... 108
3.1.1. Giá trị thể hiện thế giới quan dân gian và giải tỏa tâm linh ...... 108
3.1.2. Giá trị cố kết cộng đồng cƣ trú và tộc ngƣời ............................ 110
3.1.3. Giá trị giữ gìn và thể hiện lịch sử, bản sắc văn hóa tộc ngƣời . 112
3.1.4. Giá trị giáo dục truyền thống .................................................... 114
3.2. Xu hƣớng biến đổi tín ngƣỡng ............................................................ 116
3.2.1. Biến đổi tín ngƣỡng .................................................................. 116
3.2.2. Xu hƣớng biến đổi ................................................................... 109
3.2.3. Nguyên nhân biến đổi .............................................................. 112
3.3. Những vấn đề đặt ra và giải pháp bảo tồn, phát huy các giá trị tín
ngƣỡng .......................................................................................................... 135
3.3.1. Những vấn đề đặt ra .................................................................. 135
3.3.2. Giải pháp bảo tồn, phát huy các giá trị tín ngƣỡng của ngƣời
Hoa ở Hội An trong bối cảnh hiện nay ............................................... 144
Tiểu kết Chƣơng 3 ....................................................................................... 158
KẾT LUẬN .................................................................................................. 161
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ ................................. 166
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 167
PHỤ LỤC LUẬN ÁN
DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1: Bảng dân số theo giới tính của ngƣời Hoa ở các xã, phƣờng
thuộc thành phố Hội An (tính đến ngày 1/4/2019) ......................................... 47
Bảng 2.1: Số lƣợng ngƣời tin theo tín ngƣỡng ..................................... 68
trong cộng đồng ngƣời Hoa tại Hội An ................................................ 68
Bảng 2.2. Những dịp thƣờng đến thăm viếng và lễ vật dâng cúng ...... 70
tại các cơ sở thờ tự của cộng đồng ........................................................ 70
Bảng 2.3. Các hình thức tín ngƣỡng trong gia đình.............................. 72
Bảng 2.4. Ý nghĩa của lễ thờ Tiền hiền, Hậu hiền ................................ 74
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngƣời Hoa định cƣ ở Việt Nam qua nhiều làn sóng di cƣ. Hiện nay,
sau quá trình hòa nhập và giao thoa văn hóa đã mang đến cho cộng đồng
ngƣời Hoa nhiều nét độc đáo, thu hút sự nghiên cứu dƣới nhiều góc độ.
Di dân đến vùng đất mới trên thế giới nói chung và thành phố Hội An
nói riêng là một hiện tƣợng khá phổ biến của ngƣời Hoa. Khi đặt chân đến
thành phố Hội An - một nơi đất lạ quê ngƣời, một trong những điều đầu tiên
của họ chính là xây dựng chỗ dựa về tâm linh. Vì vậy, trong quá trình nhập
cƣ và hình thành cộng đồng ngƣời Hoa, họ đã cố kết với nhau từ trong sinh
hoạt đến lao động và sáng tạo, lƣu giữ nhiều nét văn hóa truyền thống đặc
sắc, trong đó có hệ thống các tín ngƣỡng mang nhiều giá trị đặc trƣng. Kể từ
khi di cƣ tới Việt Nam và thành phố Hội An đến nay, với truyền thống đó,
cộng đồng cƣ dân ngƣời Hoa đã bảo lƣu, tiếp thu cái mới để phát triển, làm
phong phú thêm các giá trị văn hóa nói chung, các loại hình tín ngƣỡng
truyền thống nói riêng.
Tín ngƣỡng của ngƣời Hoa mang nhiều nét độc đáo, bởi vì trong quá
trình định cƣ ở những vùng đất mới lại mang thêm những yếu tố giao lƣu
văn hóa sinh động trên nền kế thừa truyền thống. Đặc biệt là hiện nay, quá
trình hội nhập còn mang đến những sắc thái mới cho tín ngƣỡng của ngƣời
Hoa. Vì thế, nghiên cứu tín ngƣỡng của cộng đồng ngƣời Hoa ở nƣớc ta
trong quá trình phát triển và hội nhập thời kỳ đƣơng đại để từ đó có định
hƣớng bảo tồn, khai thác hợp lí các giá trị văn hóa truyền thống trong đời
sống thực tiễn của ngƣời Hoa hiện nay là cần thiết.
Hội An là một thành phố năng động trực thuộc tỉnh Quảng Nam, đang
vƣơn mình mạnh mẽ, không chỉ là niềm tự hào của ngƣời dân nơi đây mà còn
để lại ấn tƣợng tốt đẹp sâu đậm trong lòng du khách thập phƣơng bởi sự cổ
kính, nhƣng phát triển và thân thiện. Nhắc đến Hội An, ngoài biểu tƣợng
Chùa Cầu, phố cổ, lễ hội hoa đăng, làng nghề truyền thống, phố ngƣời Hoa,

1
phố ngƣời Nhật, hội quán Phúc Kiến, thành phố của môi trƣờng, ... ngƣời ta
còn nghĩ đến “thành phố của du lịch”. Bởi thế, thực hiện nghiên cứu khai thác
hợp lí các giá trị văn hóa truyền thống nhƣ tín ngƣỡng, lễ hội, nghi lễ cộng
đồng, ... của cƣ dân nơi đây sẽ là một yếu tố quan trọng góp phần to lớn vào
việc phát triển hơn nữa loại hình du lịch văn hóa tín ngƣỡng, tâm linh.
Hiện nay, sự biến chuyển của đời sống kinh tế và xã hội, đặc biệt là
văn hóa truyền thống các dân tộc trong bối cảnh đổi mới và hội nhập luôn cần
có những nghiên cứu toàn diện, hệ thống nhằm phát hiện những xu hƣớng
vận động, biến đổi để kịp thời ứng phó với những tác động không mong
muốn; tìm ra các giải pháp hữu ích góp phần bảo tồn, giữ gìn và phát huy có
hiệu quả các giá trị văn hóa tộc ngƣời cho phù hợp với sự phát triển không
chỉ của thành phố Hội An mà còn có thể áp dụng cho nhiều địa phƣơng khác.
Tuy nhiên, cho tới nay vẫn chƣa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về văn
hóa tộc ngƣời Hoa ở Hội An và về tín ngƣỡng của họ ở nơi đây. Do đó, rất
cần có một nghiên cứu mang tính hệ thống về những hình thức tín ngƣỡng và
các cơ sở sinh hoạt tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở thành phố Hội An nhằm bảo
tồn văn hóa truyền thống và phục vụ thiết thực cho du lịch, nhất là quảng bá
cho du khách ở trong và ngoài nƣớc vào thời gian trƣớc, trong và sau khi đã
đến du lịch nơi đây.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn “Tín ngưỡng của người
Hoa ở thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến
sĩ Nhân học của mình. Về mặt khoa học, kết quả nghiên cứu đề tài luận án
góp phần nhận diện về đặc điểm và thực hành nghi lễ tín ngƣỡng cũng nhƣ sự
biến đổi từ khi Đổi mới đất nƣớc năm 1986 đến nay, từ đó làm rõ thêm
những giá trị tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Hội An. Đồng thời mang lại ý
nghĩa thực tiễn là xây dựng đƣợc cơ sở dữ liệu bảo tồn các giá trị tín ngƣỡng
truyền thống của ngƣời Hoa, đề xuất biện pháp nhằm phát huy các giá trị tín
ngƣỡng đó trong xu thế phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hội An hiện
nay.

2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nhận diện những hình thức sinh hoạt và giá trị tín ngƣỡng của ngƣời
Hoa ở thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Trên cơ sở đó, luận án tập
trung làm rõ sự giao thoa văn hóa Việt - Hoa ở Việt Nam nói chung và
Việt - Hoa ở Hội An nói riêng, đƣợc biểu hiện thông qua các loại hình và
sinh hoạt tín ngƣỡng, từ đó đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát huy
các giá trị tín ngƣỡng của cộng đồng này trong bối cảnh mới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát, tìm hiểu có hệ thống về những đặc điểm của tín ngƣỡng
ngƣời Hoa ở thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam hiện nay thông qua: sinh
hoạt tín ngƣỡng của cộng đồng và trong gia đình.
- Phân tích những giá trị, làm rõ thực trạng biến đổi, những vấn đề đặt
ra của tín ngƣỡng ngƣời Hoa ở Hội An trong bối cảnh giao lƣu và hội nhập
hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị
tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam trong điều
kiện hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở thành
phố Hội An, tỉnh Quảng Nam hiện nay, bao gồm: tín ngƣỡng thờ thần, thờ
cúng tổ tiên, thực hành nghi lễ, lễ hội dân gian, … ở trong gia đình và cộng
đồng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung nghiên cứu của luận án chỉ tập trung vào hiện trạng
tín ngƣỡng và những giá trị cơ bản trong tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Hội An
hiện nay; sự biến đổi của tín ngƣỡng và những vấn đề đặt ra đối với bảo tồn
và phát huy các giá trị tín ngƣỡng của ngƣời Hoa nơi đây. Tuy nhiên, tín

3
ngƣỡng của ngƣời Hoa rất đa dạng, thể hiện ở nhiều cấp độ quy mô nhƣ cộng
đồng, dòng họ, gia đình, nhóm nghề nghiệp, cá nhân, ... Do đó, trong khuôn
khổ đề tài luận án, chúng tôi chủ yếu đề cập đến tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở
Hội An trong phạm vi cộng đồng và gia đình, đồng thời có kết hợp trình bày
về tín ngƣỡng dòng họ khi nói về tín ngƣỡng trong gia đình.
- Đối với phạm vi không gian, đề tài chủ yếu nghiên cứu về tín ngƣỡng
của ngƣời Hoa ở thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
- Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu về tín ngƣỡng của ngƣời
Hoa ở thời điểm hiện tại là chính, đồng thời lấy mốc thời gian từ năm 1986
đến 2021 để so sánh về biến đổi. Bên cạnh đó, cũng chú ý xem xét các vấn đề
liên quan trong tiến trình lịch sử hình thành và phát triển của cộng đồng
ngƣời Hoa ở Hội An nói riêng và ở Việt Nam nói chung, vì đến nay đã có
nhiều đợt di cƣ và những thay đổi tại các địa bàn cƣ trú của dân tộc này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Thứ nhất, luận án dựa trên quan điểm lý luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để hệ thống, đánh giá các vấn đề liên
quan đến tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Hội An trong bối cảnh hiện nay. Từ
quan điểm này, chúng tôi vận dụng nghiên cứu tín ngƣỡng của ngƣời Hoa
trong bối cảnh và không gian cụ thể với những sự vận động và tác động qua
lại của nhiều thành tố nhƣ chính trị - xã hội, văn hóa, môi trƣờng,… của Hội
An; coi tín ngƣỡng nhƣ một hiện tƣợng xã hội khách quan với những tồn tại
và vận động mang tính lịch sử và biện chứng.
Thứ hai, khi nghiên cứu tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Hội An trong giai
đoạn hiện nay, chúng tôi dựa trên quan điểm lý luận của Dân tộc học và Nhân
học văn hóa - xã hội để nhìn nhận tín ngƣỡng và thực hành tín ngƣỡng của
ngƣời Hoa ở Hội An trong quá trình tồn tại và biến đổi, trong mối liên hệ
giữa chủ thể văn hóa với các điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể tại địa phƣơng.

4
Thứ ba, vận dụng quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc ta về
vấn đề liên quan tới văn hóa tín ngƣỡng và tôn giáo, cụ thể là Nghị quyết
Trung ƣơng V khóa VIII về “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc”; tƣ duy lý luận của Đảng về phát triển văn hóa các dân tộc góp phần
vào sự nghiệp văn hóa toàn dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII cũng nhấn mạnh: “Nâng cao chất
lƣợng, hiệu quả hoạt động văn hóa: huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm
bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, khích lệ sáng tạo
các giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu văn hóa
dân tộc. Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy
di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội” [10; tr.129];… Đến Đại hội
Đảng lần thứ XIII đã cụ thể hóa hơn nữa về công tác phát triển văn hóa trong
đó Đảng ta đã khẳng định nhiệm vụ, giải pháp thực hiện về công tác tín
ngƣỡng, tôn giáo là “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức
sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo
quy định của pháp luật và hiến chƣơng, điều lệ đƣợc Nhà nƣớc công nhận.
Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn
giáo cho sự phát triển đất nƣớc. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh
những đối tƣợng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nƣớc, chế độ xã hội
chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối đại đoàn kết toàn dân
tộc”. [42; tr.171].
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp tiếp cận văn hóa vùng
Trong luận án, phƣơng pháp tiếp cận văn hóa vùng có vai trò quan
trọng để nhìn ra các vấn đề về kinh tế, văn hóa, xã hội của ngƣời Hoa trên địa
bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Khái niệm vùng nhằm chỉ một khu
vực lịch sử - văn hóa có các tộc ngƣời cùng sinh sống, ảnh hƣởng qua lại tạo
nên một mã văn hóa chung; bởi vì xuất phát từ một môi trƣờng địa lý, sinh

5
thái tự nhiên, những biến động trong các giai đoạn lịch sử,... Từ điểm nhìn
không gian lịch sử - văn hóa có thể thấy đƣợc đặc điểm tộc ngƣời, nhận thức
rõ môi trƣờng tác động và ảnh hƣởng mật thiết đến tín ngƣỡng của ngƣời
Hoa trong giai đoạn hiện nay.
- Phƣơng pháp điền dã dân tộc học
Sử dụng phƣơng pháp điền dã dân tộc học, luận án nhằm khảo sát đặc
điểm tín ngƣỡng của ngƣời Hoa, với mục đích có đƣợc các số liệu, thông tin
chi tiết phục vụ cho việc trình bày luận cứ, đồng thời kiểm nghiệm độ chính
xác để kết quả nghiên cứu có tính thuyết phục. Trong quá trình làm luận án,
chúng tôi đã đi điền dã nhiều lần tại thành phố Hội An và áp dụng các kỹ
thuật nhƣ quan sát tham dự, phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm, chụp ảnh,...
+ Quan sát - tham dự: Trong quá trình sống và trải nghiệm cùng với
ngƣời Hoa ở Hội An, bằng những khảo sát định tính, chúng tôi đã quan sát,
tham dự đƣợc các hoạt động tín ngƣỡng hàng ngày của ngƣời Hoa nơi đây để
cố gắng tìm hiểu một cách tƣơng đối đầy đủ về cảnh quan nơi thờ cúng, quan
niệm, tƣ duy, tâm lý và hành vi của ngƣời Hoa liên quan đến vấn đề tín
ngƣỡng. Theo đó, nghiên cứu sinh (NCS) thu thập dữ kiện bằng cách sống
gần gũi, tham dự nhiều sự kiện liên quan đến tín ngƣỡng, trong một thời gian
dài với cộng đồng ngƣời Hoa tại Hội An. Do địa bàn nghiên cứu cũng chính
là nơi NCS sinh sống nên có những thuận lợi nhất định cho việc quan sát -
tham dự các nghi lễ của cộng đồng ngƣời Hoa tại Hội An. Qua quan sát -
tham dự các nghi lễ, NCS đã thu thập đƣợc những thông tin về trình tự nghi
lễ, thái độ, hành vi của những ngƣời thụ lễ và những ngƣời liên quan.
+ Phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm: NCS đã kết hợp với các cuộc
phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm đối với các thông tín viên đa dạng nhƣng
phù hợp, nhất là những ngƣời am hiểu và có uy tín (cán bộ, trƣởng tộc, thầy
cúng, ngƣời già, ...) tại Hội An để thu thập đƣợc thông tin đa chiều. Một số
các thông tín viên tham gia phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm đã đƣợc liệt kê
trong danh sách ở Phụ lục 1 trong phần Phụ lục của luận án. Nội dung phỏng

6
vấn đƣợc chuẩn bị trƣớc với hệ thống câu hỏi mở để ngƣời trả lời có nhiều
lựa chọn khi đƣa ra ý kiến của mình. Còn trong mỗi cuộc thảo luận nhóm
thƣờng chọn 6 - 7 ngƣời, thƣờng là những ngƣời cùng giới, dân tộc hoặc
nhóm hỗn hợp có nhiều lứa tuổi, cũng có khi là nhóm chỉ bao gồm cán bộ địa
phƣơng,... Hƣớng phỏng vấn sâu và thảo luận chủ yếu tập trung vào những vấn
đề nhƣ đời sống kinh tế, văn hóa, giáo dục, tình hình thực hành các nghi lễ tín
ngƣỡng của ngƣời Hoa và sự biến đổi, các giá trị tín ngƣỡng cần phát huy, những
mong muốn kiến nghị của chính quyền và ngƣời dân để bảo tồn các đặc điểm văn
hóa tộc ngƣời Hoa, đặc biệt là các giá trị tín ngƣỡng,...
+ Các công cụ hỗ trợ khác nhƣ quay phim, chụp ảnh, ghi âm,... luận án
cũng vận dụng tối đa trong quá trình điền dã để có đƣợc những tƣ liệu cần
thiết nhằm tăng thêm tính thuyết phục cho các kết quả nghiên cứu.
- Phƣơng pháp điều tra xã hội học
NCS cũng áp dụng phƣơng pháp nghiên cứu định lƣợng bằng cách
điều tra bảng hỏi theo mẫu đƣợc thiết kế sẵn đối với các đối tƣợng đƣợc lựa
chọn trên cơ sở bám sát từng nội dung luận án. Các mẫu lựa chọn để tiến
hành phƣơng pháp điều tra mẫu với 120 đơn vị mẫu cá nhân, kết hợp phƣơng
pháp chọn mẫu khu vực điển hình, đảm bảo về lứa tuổi, nghề nghiệp, giới
tính, thành phần, học vấn, ... (Xin xem Phụ lục 2). Trên cơ sở đó, có thể đánh
giá về mức độ tín ngƣỡng các đối tƣợng đƣợc thờ cúng tại cộng đồng, trong
gia đình ngƣời Hoa ở Hội An.
- Phƣơng pháp thống kê phân loại, so sánh đối chiếu
Để hoàn thành đƣợc công trình luận án này, chúng tôi đã sử dụng rất
nhiều nguồn tƣ liệu và tài liệu khác nhau. Đối với tƣ liệu thành văn nhƣ các
công trình về hoạt động kinh tế và văn hóa trong đó có các hoạt động về tín
ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Việt Nam nói chung và Hội An nói riêng đƣợc dịch
từ các thứ tiếng khác nhau sang tiếng Việt và đƣợc tái bản nhiều lần nên rất
khó xác định đƣợc tƣ liệu gốc; ngoài ra để làm nổi bật vấn đề nghiên cứu,
NCS sử dụng phƣơng pháp so sánh, đối chiếu giữa cách thức tổ chức, nơi thờ

7
cúng, số lƣợng các hình thức tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Hội An nói riêng
với ngƣời Hoa ở các tỉnh thành khác ở Việt Nam nhƣ thành phố Hồ Chí
Minh, Cần Thơ, Hà Nội, Lâm Đồng,… trong giai đoạn trƣớc đây với hiện
nay. Đồng thời, còn kết hợp với việc phân tích, tổng hợp các tƣ liệu, thông tin
liên quan đến đề tài giúp khái quát hóa và góp phần giải quyết các vấn đề
nghiên cứu đã đƣợc đặt ra trong luận án.
- Phƣơng pháp nghiên cứu lịch sử
Luận án đƣợc nghiên cứu theo lịch đại và đồng đại. Theo lịch đại, đề
tài xem xét tín ngƣỡng của ngƣời Hoa trong lịch sử qua quá trình hình thành,
phát triển từ quá khứ cho đến hiện tại. Về đồng đại, trong một khu vực không
gian cụ thể là thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, đề tài khảo sát các sinh
hoạt tín ngƣỡng, thực trạng biến đổi của tín ngƣỡng hiện tại; trên cơ sở đó,
rút ra những tƣơng đồng và khác biệt về tính chất, hiện trạng giá trị sinh hoạt
tín ngƣỡng của ngƣời Hoa trong bối cảnh giao lƣu văn hóa và hội nhập.
- Phƣơng pháp liên ngành
Đây là phƣơng pháp quan trọng để vận dụng cách tiếp cận của nhiều
ngành khoa học là văn hóa học, xã hội học, tôn giáo học, ... vào thực hiện đề
tài. Bởi nghiên cứu vấn đề tín ngƣỡng và đề xuất giải pháp bảo tồn cần một
cái nhìn tổng thể, toàn diện. Phƣơng pháp này giúp tiếp cận và giải quyết vấn
đề trên cơ sở nắm bắt đƣợc lịch sử tồn tại, phát triển của văn hóa xã hội, điều
kiện kinh tế, đặc trƣng cƣ dân gắn với tín ngƣỡng ngƣời Hoa ở Hội An.
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp
Phƣơng pháp phân tích - tổng hợp là việc lựa chọn, sắp xếp các nguồn
tài liệu thứ cấp và sơ cấp nhằm định hƣớng chính xác và đầy đủ phục vụ cho
mục đích điều tra và nghiên cứu, từ đó tổng hợp thành các quan điểm, nhận
xét để đƣa ra cái nhìn khái quát về tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở thành phố
Hội An, tỉnh Quảng Nam hiện nay, bao gồm: tín ngƣỡng thờ thần, thờ cúng
tổ tiên, thực hành nghi lễ, lễ hội dân gian, … ở trong gia đình và cộng đồng.
Từ đó tiến hành phân tích và tổng hợp những thông tin từ các nguồn thu thập

8
tài liệu đã tìm kiếm, định hƣớng từ thực tế thông qua việc phát bảng hỏi cho
du khách và khảo sát thực địa tại Hội An để hoàn thiện từng phần về tín
ngƣỡng của ngƣời Hoa trong toàn bộ luận án này.
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ
thống về tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Hội An. Qua đó, các vấn đề về tín
ngƣỡng đƣợc luận giải mang tính toàn diện hơn.
Luận án góp phần làm rõ những đặc điểm và hình thức sinh hoạt tín
ngƣỡng cộng đồng và gia đình của ngƣời Hoa qua các mối quan hệ với những
vấn đề kinh tế - xã hội trong vùng, giữa truyền thống và biến đổi hiện nay,
phân tích làm rõ các yếu tố tác động đến quá trình biến đổi tín ngƣỡng và
đánh giá những giá trị cốt lõi của tín ngƣỡng trong đời sống của ngƣời Hoa ở
Hội An.
Kết quả của luận án góp thêm tƣ liệu tham khảo bổ ích về tín ngƣỡng
của ngƣời Hoa ở Hội An nói riêng. Đồng thời, cung cấp các luận cứ khoa học
cho việc xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo tín
ngƣỡng đối với ngƣời Hoa ở Hội An trong bối cảnh hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận án đã đặt ra và giải quyết một vấn đề chuyên sâu, đó là nhận
diện các hình thức và giá trị tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Hội An. Đây là cơ
sở để so sánh sự giống nhau và khác nhau về tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở
Hội An với tín ngƣỡng của tộc ngƣời Hoa ở một số khu vực khác.
- Đề tài góp phần làm rõ thêm về mối quan hệ giữa sự phát triển của
ngƣời Hoa ở Hội An với việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống nói chung, các giá trị tín ngƣỡng truyền thống nói riêng trong đời sống
hiện nay của tộc ngƣời này.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

9
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu toàn diện và có tính hệ thống về
các tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở thành phố Hội An hiện nay, góp phần bảo tồn
dƣới dạng tài liệu lƣu trữ về tín ngƣỡng của ngƣời Hoa nơi đây.
Thông qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, tác giả luận án đề xuất một
số giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị tín ngƣỡng của ngƣời Hoa
nhằm góp phần phát triển du lịch ở Hội An trong thời kỳ hội nhập hiện nay.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
chính của luận án đƣợc chia ra làm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và địa bàn
nghiên cứu.
Chƣơng 2: Các hình thức tín ngưỡng và thực hành nghi lễ của người
Hoa ở Hội An hiện nay.
Chƣơng 3: Giá trị, xu hướng biến đổi và giải pháp bảo tồn, phát huy
giá trị tín ngưỡng của người Hoa ở Hội An.

10
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ
ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu


1.1.1. Tình hình nghiên cứu về người Hoa và tín ngưỡng người Hoa
ở Việt Nam
* Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Những nghiên cứu sớm về ngƣời Hoa đƣợc thực hiện chủ yếu tại khu
vực Thành phố Hồ Chí Minh. Với công trình Cholon ville chinoise (Ngƣời
Hoa ở Chợ Lớn) của J.M.de Kermadec (1955) đã mô tả trình tự, quang cảnh,
những kiêng kỵ trong lễ tang của ngƣời Hoa ở Chợ Lớn. Công trình quan
trọng đầu tiên mang tính khái quát là của Bộ quân lực Hoa Kỳ xuất bản năm
1966 với nhan đề Minority groups in the Republic of Viet Nam, trong đó
chƣơng 22 có tựa đề “Ngƣời Hoa”. Đây là một trong những tƣ liệu hiện đƣợc
lƣu giữ tại Thƣ viện Viện Dân tộc học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam. Công trình này đã khảo sát và thống kê dân số ngƣời Hoa di cƣ vào
Việt Nam gắn với nhiều giai đoạn biến động lịch sử của Việt Nam. Các tác
giả đã phân tích những chính sách của chính quyền Việt Nam đối với ngƣời
Hoa trong từng giai đoạn, đồng thời chỉ ra những đặc điểm cơ bản của ngƣời
Hoa ở Việt Nam nhƣ: tập quán sinh sống, đời sống văn hóa, xã hội, đặc biệt
là hoạt động kinh doanh buôn bán dƣới nhiều thể chể chính trị khác nhau từ
trong Nam ra ngoài Bắc qua các thời kỳ lịch sử. Bên cạnh đó, còn những
công trình nghiên cứu trong thời kỳ Ngụy quyền Sài Gòn nắm chính quyền
miền Nam nhƣ: Chính sách đối với dân Trung Hoa di cư của các triều đại
Việt Nam (Fujiwara Ruchiro, 1974); Người Hoa ở miền Nam Việt Nam (Tsai
Mau Kuay, xuất bản tại Pháp, 1968); Mấy điều nhận xét về Minh Hương xã
và các cổ tích tại Hội An (Chen Ching Ho, 1960),... đều đƣa đến cái nhìn về

11
cộng đồng ngƣời Hoa khi lập nghiệp ở vùng đất mới và thành công với kinh
doanh buôn bán.
Năm 1971, Trung tâm nghiên cứu Đông Á và Đại học Harvard đã tiến
hành nghiên cứu một số khía cạnh của cộng đồng ngƣời Hoa ở Việt Nam
(Some aspects of the Chinese community in Việt Nam 1650-1850), nêu ra
những vấn đề ngƣời Hoa ở Việt Nam qua hai thế kỷ nhƣ: vấn đề Minh
Hƣơng xã ở Hội An và Huế, vấn đề Hoa kiều ở đồng bằng Sông Cửu Long,
vấn đề định cƣ của ngƣời Hoa ở Hà Tiên,... Nguyễn Ngọc Kim Khôi với
nghiên cứu A study of the socialist republic of VietNam's changing definition
of the ethnic Chinese from 1975-1979 (xuất bản ở Mỹ, 1994) đã phân tích về
sự thay đổi khái niệm ngƣời Hoa ở Việt Nam giai đoạn 1975 đến 1979.
Sang giai đoạn đầu thế kỷ XXI, nhiều nhà nghiên cứu đã công bố
những công trình về ngƣời Hoa một cách phong phú và chi tiết hơn. Có thể
kể đến công trình mang tính mở đƣờng là Thế lực khách trú và vấn đề di dân
vào Nam Kỳ của Đào Trinh Nhất trong Bút ký Trung Hoa (Nhà in Thụy Ký,
1924). Tác giả đã lý giải nguồn gốc tên gọi của những ngƣời Trung Hoa.
Đây là một công trình có giá trị bởi nó đã bƣớc giải thích về nguồn gốc,
tên gọi của những ngƣời Trung Hoa sinh sống trên đất nƣớc Việt Nam, quá
trình di cƣ và các chính sách của nhà cầm quyền lúc bấy giờ đối với thế
lực khách trú này.
Một số công trình xuất bản tại Singapore đề cập đến các vấn đề trong
kinh tế, xã hội, văn hóa của ngƣời Hoa; Chinese muslims in Indonesia
(Zhuang Wubin, 2011) nói đến ngƣời Hoa Hồi giáo; Fock Siew Tong với
công trình Dynamics of family business (2009) phân tích về kinh tế kiểu tập
đoàn gia đình của ngƣời Hoa; Leo Suryadinata với công trình Understanding
the ethnic Chinese in Southeast Asia (2007) tìm hiểu về ngƣời gốc Hoa ở
Đông Nam Á;...
Khảo sát một cách tổng quan, chúng tôi nhận thấy đã có nhiều công
trình nghiên cứu của tác giả ngoài nƣớc về ngƣời Hoa nói chung, văn hóa

12
ngƣời Hoa tại Việt Nam nói riêng. Trong quá trình di cƣ sang Việt Nam,
hành trang ngƣời Hoa mang theo là những tín ngƣỡng trong gia đình, cá
nhân. Hòa nhập và định cƣ trong một môi trƣờng mới, việc chung sống và
thích nghi về tín ngƣỡng, cộng đồng ngƣời Hoa ở Việt Nam giữ lại một số
đối tƣợng thờ cúng có quyền năng đủ lớn, đủ mạnh để làm điểm tựa về tinh
thần, những dấu vết xƣa cũ tại quê hƣơng đã mờ nhạt dần. Trong những năm
gần đây, việc nghiên cứu ngƣời Hoa trở nên cởi mở và đa chiều hơn, nên có
cả những công trình của ngƣời Hoa nghiên cứu về Hoa kiều tại Việt Nam
nhƣ: Chee Kiong Tong với cuốn Identity and ethnic relation in Southeast
Asia - Racializing Chineseness năm 2010 [153]. Tác giả đặt vấn đề quan hệ
yêu - ghét ngƣời Hoa ở Việt Nam cặn kẽ và thú vị từ góc độ nghiên cứu,
thoát ra khỏi ảnh hƣởng do thế giới quan chính trị đem lại. Qua phân tích quá
trình di cƣ của ngƣời Hoa đến Việt Nam, hoạt động của ngƣời Hoa khi chiến
tranh Trung - Nhật bùng nổ tại Trung Quốc cho đến Việt Nam thời kỳ đƣơng
đại, một số vấn đề chính cần đƣợc làm rõ nhƣ: bản sắc ngƣời Hoa và vấn đề
tộc ngƣời, sự tƣơng đồng và khác biệt về văn hóa, nghề nghiệp, ...
* Các nghiên cứu ở trong nước
Trong cuộc Hội thảo Việt Nam học lần thứ nhất đƣợc tổ chức tại Hà
Nội vào tháng 7 năm 1998, Ramses Amer (nhà nghiên cứu ngƣời Thụy Điển)
khái quát những khuynh hƣớng, vấn đề và các thách thức của ngƣời Hoa ở
Việt Nam. Tác giả mô tả khái quát về sự phát triển của Việt Nam liên quan
đến ngƣời Hoa; trọng tâm và các khuynh hƣớng trong những tài liệu hiện có
về ngƣời Hoa ở Việt Nam; bàn về các lý do sâu xa của việc chuyển trọng tâm
chú ý ở các tƣ liệu trong và giữa các thời kỳ khác nhau; đồng thời so sánh
việc nghiên cứu về ngƣời Hoa ở Việt Nam và ngƣời Hoa ở các nƣớc
ASEAN. Theo Ramses Amer, các khuynh hƣớng nghiên cứu về ngƣời Hoa
gồm: tác động của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tác động quan hệ giữa
Trung Quốc và Việt Nam, các chính sách của Nhà nƣớc Việt Nam đối với
ngƣời Hoa, vai trò kinh tế của ngƣời Hoa và các thay đổi dân số, ... Trong hội

13
thảo Việt Nam học lần thứ nhất, tháng 7 năm 1998, Châu Thị Hải đặt vấn đề
tìm hiểu quá trình tiếp xúc và giao lƣu văn hóa Việt - Hoa trong lịch sử. Theo
tác giả, khác với nhiều thành phần dân tộc cƣ trú ở Việt Nam, cộng đồng
ngƣời Hoa là một dân tộc “phi nguyên trú”, họ di cƣ từ các tỉnh phía Nam
Trung Hoa sang. Đến nay, ngƣời Hoa ở Hội An thực sự đã trở thành một lực
lƣợng buôn bán chính và là một lực lƣợng môi giới quan trọng trong quá trình
giao lƣu thƣơng mại giữa Việt Nam và các nƣớc trong khu vực và trên thế giới;
góp phần vào quá trình định hình bộ mặt đô thị thƣơng mại Hội An [123].
Giai đoạn sau 1986, một số công trình nghiên cứu sớm về ngƣời Hoa có
thể kể đến: Lã Văn Lô, Nguyễn Hữu Thấu, Mạc Đƣờng, “Dân tộc Hoa” in trong
sách Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Nxb. Văn hóa, H, 1959; Mạc Đƣờng,
“Ngƣời Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Dân tộc học, số 2-1987;
Phan Xuân Biên, Phan An, “Về vị trí ngƣời Hoa trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội, số 1-1989;… Trong đó Mạc Đƣờng với
chuyên khảo Xã hội người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh sau năm 1975 (tiềm
năng và phát triển) (Nxb. KHXH, 1994) là công trình phân tích xã hội đầu tiên
nói về những quá trình biến đổi xã hội sau năm 1975 ở vùng ngƣời Hoa, sự hình
thành xã hội công dân và sự phát triển ý thức công dân của ngƣời Hoa qua
những thời gian lịch sử đƣơng đại. Tác giả phân tích theo quan điểm những
nhân tố nội sinh và ngoại sinh, những bối cảnh xung đột tâm lý, quá trình xây
dựng, ổn định và phát triển ý thức công dân Việt Nam đối với ngƣời Hoa trong
khoảng thời gian 20 năm. Mạc Đƣờng đã phân tích những khó khăn trở ngại của
việc phát triển văn hóa mang bản sắc riêng của ngƣời Hoa những năm đầu sau
1975. Sự phát triển bản sắc văn hóa của ngƣời Hoa cũng gặp phải những nhận
thức định kiến ngăn trở. Do những hậu quả của các chính sách đối với ngƣời
Hoa trƣớc năm 1975 trong xã hội cũ và do những hoạt động lôi cuốn ngƣời Hoa
vào cộng đồng kiều dân Trung Hoa ở nƣớc ngoài sau năm 1975 với một mục
đích chính trị đề cao tƣ tƣởng dân tộc lớn và bành trƣớng lãnh thổ càng làm cho
tâm lý kỳ thị dân tộc gia tăng [45; tr. 86].

14
Bên cạnh đó là công trình của các tác giả Ngô Văn Lệ và Nguyễn Duy
Bính, Người Hoa ở Nam Bộ, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2005.
Cuốn sách cung cấp những nét khái quát và cập nhật (cho đến thời điểm xuất
bản của công trình) về cộng đồng ngƣời Hoa ở vùng đất đầy tiềm năng của
Việt Nam, đi sâu vào nghiên cứu các khía cạnh tiêu biểu của cộng đồng năm
nhóm Hoa: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Hẹ. Ngƣời
Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, ở Nam Bộ nói chung đƣợc các tác
giả phân tích từ nhiều góc độ: lịch sử hình thành, hoạt động kinh tế, những
thiết chế và nghi lễ trong hôn nhân gia đình của ngƣời Hoa trong truyền
thống cũng nhƣ ở hiện đại, qua đó thấy đƣợc tính kế thừa và tính thích nghi
của họ trong điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa ở một vùng đất mới.
Khi nghiên cứu về tín ngƣỡng ngƣời Hoa, các công trình đã xuất bản
phần nhiều đề cập đến vai trò tín ngƣỡng trong đời sống tinh thần ngƣời Hoa,
đặc biệt khi di cƣ đến vùng đất mới. Tác giả Trần Hồng Liên đã quan tâm đến
văn hóa tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Việt Nam với công trình Văn hóa người
Hoa ở Nam bộ, Tín ngưỡng và Tôn giáo (2005). Trong phần “Hội nhập và
giao lƣu văn hóa của ngƣời Hoa ở Việt Nam (trên lĩnh vực tín ngƣỡng - tôn
giáo)”, những vấn đề khái quát về quá trình du nhập và định cƣ của ngƣời
Hoa ở Việt Nam; những điều kiện lịch sử, xã hội, văn hóa tác động đến quá
trình hội nhập; hội nhập văn hoá trên lĩnh vực tín ngƣỡng tôn giáo,... đã đƣợc
tác giả nêu bật và có những nhận xét xác đáng. Riêng tín ngƣỡng tôn giáo, tác
giả khẳng định rằng: trong đời sống của ngƣời Hoa ở Việt Nam, vấn đề tín
ngƣỡng khá phong phú và đa dạng. Ngƣời Hoa tin có linh hồn và con ngƣời
sau khi chết sẽ bị phạt hay khen thƣởng tùy vào hành động, công đức của
ngƣời đó trong cuộc sống hiện tại. Vì vậy, ngƣời Hoa đã tích cực thờ phụng
những thần linh trú ngụ thuộc các cảnh giới để cầu mong đƣợc nhiều sự hỗ
trợ. “Tín ngƣỡng trong đời sống cộng đồng ngƣời Hoa ở Nam bộ phong phú,
thể hiện qua nhiều cung, miếu, điện, đàn, đƣờng, từ đƣờng, đền thờ họ”; “Đa
số cơ sở đƣợc hình thành do từng nhóm Hoa thuộc một hoặc nhiều ngôn ngữ

15
lập nên, nhƣ miếu của nhóm Hoa Quảng Đông, Miếu Nhị Phủ (thuộc hai phủ
của ngƣời Hoa tỉnh Phúc Kiến là phủ Chƣơng Châu và Tuyền Châu); Thất
Phủ miếu (của cộng đồng Hoa thuộc 7 phủ lập nên)” [211].
Thầy thuốc ƣu tú Bác sĩ Nguyễn Võ Hinh ngƣời dân tộc Hoa ở Việt
Nam cho biết: “Ngƣời dân tộc Hoa tại Việt Nam là những ngƣời gốc Trung
Quốc định cƣ ở Việt Nam và đa số có quốc tịch Việt Nam. Họ còn có các tên
gọi khác là Khách, Hán, Tàu và có các nhóm dân khác nhau nhƣ Quảng
Ðông, Quảng Tây, Hải Nam, Triều Châu, Phúc Kiến, Sang Phang, Xìa
Phống, Thoòng Nhằn, Minh Hƣơng, Hẹ,... Dân tộc Hoa sử dụng tiếng nói
thuộc nhóm ngôn ngữ Hán, ngữ hệ Hán - Tạng. Nếu xếp theo phân loại của
nƣớc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì họ đƣợc gọi là dân tộc Hán. Đây là
một trong hai dân tộc duy nhất tại Việt Nam có dân số giảm trong vòng 10
năm, từ năm 1999 đến năm 2009 theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt
Nam” [71]. Nội dung bài viết đã khái quát sơ lƣợc về lịch sử dân tộc Hoa tại
Việt Nam; dân số, địa bàn cƣ trú, ngôn ngữ; các tên gọi của dân tộc Hoa; đặc
điểm kinh tế, tổ chức cộng đồng; hôn nhân gia đình, tục lệ ma chay, thờ
cúng; văn hóa, phong tục tập quán.
Nghiên cứu về ngƣời Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh còn có bài viết
của Vũ Lê là “Văn hóa người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh” (2004) đã sƣu
tầm khá đầy đủ các giá trị văn hóa của ngƣời Hoa ở nơi đây. Bài viết đã làm
nổi bật quá trình ngƣời Hoa gia nhập vào cộng đồng dân tộc Việt Nam; khái
quát về ngƣời Hoa và văn hóa ngƣời Hoa với sự phát triển kinh tế - xã hội:
“Có thể nói, văn hóa ngƣời Hoa với những giá trị ƣu trội của nó có vai trò to
lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của TP. Hồ Chí Minh và Nam
Bộ nói riêng, cả nƣớc nói chung. Việc nghiên cứu văn hóa và giải pháp phát
huy vai trò của nó là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn” [198].
Nghiên cứu về tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Bắc Giang, tác giả Ngô Thu
Hƣờng có bài viết “Đôi nét về văn hóa, tín ngưỡng của người Hoa ở Bắc
Giang” đã giới thiệu khái quát về văn hóa, tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở tỉnh:
“Bắc Giang là tỉnh có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, trong đó có

16
ngƣời Hoa (hay còn gọi là dân tộc Hán). Ngƣời Hoa cƣ trú chủ yếu ở các
huyện Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam và một số xã miền núi ở các huyện
khác trong tỉnh. Ngƣời Hoa ở Bắc Giang đã có từ lâu đời, hình thành một nền
văn hóa riêng với những bản sắc đặc trƣng. Trải qua nhiều biến đổi của lịch
sử, xã hội, thời gian,... nhƣng những bản sắc văn hóa của ngƣời dân tộc Hoa
đến nay vẫn còn lƣu giữ, cần đƣợc bảo tồn và phát huy” [185]. Trong bài
viết, một số tín ngƣỡng cũng đƣợc đề cập đến nhƣ tín ngƣỡng thờ cúng trong
gia đình, tín ngƣỡng thờ cúng ở cộng đồng, các yếu tố tín ngƣỡng khác.
Nguyễn Ngọc Thơ với bài viết “Tín ngưỡng Thiên Hậu tại Nam Bộ
Việt Nam” [211] cho rằng: tín ngƣỡng thờ Bà Thiên Hậu (Bà Ma Tổ, Bà Mã
Châu) gốc Hoa Nam đã theo bƣớc di dân ngƣời Hoa đến Nam Bộ Việt Nam
từ thế kỷ XVII-XIX, trở thành một dạng tín ngƣỡng thờ Mẫu khá phổ biến tại
đồng bằng Nam Bộ. Tục thờ này cùng các hoạt động văn hóa - nghệ thuật và
những khía cạnh văn hóa vật thể gắn liền với nó đã sớm trở thành một “kho
tàng” văn hóa dân gian, ở đó ngƣời ta gìn giữ linh hồn của truyền thống,
đồng thời cũng là một kênh giáo dục đạo đức, lối sống hiệu quả và sâu sắc
của ngƣời Hoa nói riêng, của các tộc ngƣời Nam Bộ nói chung. Trong mối
tƣơng quan với văn hóa các dân tộc Việt, Khơ-me, Chăm trong vùng, tín
ngƣỡng Thiên Hậu đã góp phần tạo nét đặc trƣng mang bản sắc ngƣời Hoa -
một bộ phận của đại gia đình các dân tộc Việt Nam, ngày càng có giá trị
trong quá trình dung hợp đa văn hóa để tạo nên diện mạo văn hóa Nam Bộ
Việt Nam trong suốt 300 năm qua. Bài viết đã hệ thống về nguồn gốc, quá
trình phát triển và truyền bá tín ngƣỡng Thiên Hậu đến Việt Nam; hiện trạng
tín ngƣỡng Thiên Hậu tại Nam Bộ Việt Nam; tác giả Nguyễn Ngọc Thơ trong
bài viết “Đặc trƣng tín ngƣỡng thờ Thiên Hậu ở đồng bằng sông Cửu Long”
[157] cho biết ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay với khoảng hơn 50
miếu Thiên Hậu do ngƣời Hoa và ngƣời Việt xây dựng và tổ chức sinh hoạt
tín ngƣỡng. Trong tâm thức ngƣời dân vùng đồng bằng sông Cửu Long,
Thiên Hậu vừa là hải thần, thần bảo vệ, mà còn là phúc thần, vị thánh mẫu từ
bi, đƣợc ngƣời Việt tiếp nhận qua ngả Phật giáo và tín ngƣỡng thờ Mẫu dân

17
gian. Có thể thấy rằng, sinh hoạt tín ngƣỡng Thiên Hậu tại vùng đồng bằng
sông Cửu Long vừa thể hiện đặc trƣng mang tính bản sắc văn hóa ngƣời Hoa
vừa là một minh chứng sống động cho quá trình hỗn dung đa văn hóa của cƣ
dân vùng đất này. Do đó, bài viết này đã khảo sát hiện trạng tổ chức sinh hoạt
tín ngƣỡng Thiên Hậu để làm nổi bật các đặc trƣng cơ bản của tục thờ này tại
vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Vũ Văn Chung với bài viết “Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngƣỡng
thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu ở Nam Bộ” [29]. Trong bài viết này, tác giả đã tập
trung phân tích và làm sáng tỏ sự dung hợp của Phật giáo với tín ngƣỡng thờ
Thiên Hậu Thánh Mẫu - một dạng thức tiêu biểu trong tín ngƣỡng thờ Mẫu
của cƣ dân Nam Bộ. Qua đó, cho thấy những yếu tố Phật giáo kết hợp với tín
ngƣỡng thờ nữ thần của ngƣời Hoa và tục thờ Bồ Tát Quan Âm của ngƣời
Việt, đặc biệt là hình tƣợng Thiên Hậu Thánh Mẫu và Bồ Tát Quan Âm Nam
Hải đều là những vị nữ thần biển đƣợc tôn thờ trong đời sống văn hóa tâm
linh của cƣ dân sông nƣớc vùng Nam Bộ. Bài viết “Ảnh hƣởng của tam giáo
trong tín ngƣỡng thờ Thiên Hậu ở Nam Bộ” của Phạm Ngọc Hƣờng trong Kỷ
yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ VI: Việt Nam chủ động hội nhập
và phát triển bền vững, 2021 cho thấy lòng từ bi, bác ái, hài hòa giữa con
ngƣời và thiên nhiên của Thiên Hậu đều xuất phát từ các giá trị đạo đức của
Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo. Bài viết tập trung tìm hiểu ảnh hƣởng của
Tam giáo qua kiến trúc miếu, phối thờ thần trong miếu Thiên Hậu, tƣ tƣởng
Tam giáo dung hợp trong hình tƣợng Thiên Hậu, từ đó làm rõ thêm đời sống
tín ngƣỡng của ngƣời dân cũng nhƣ nội hàm văn hóa trong tín ngƣỡng thờ
Thiên Hậu ở vùng Nam Bộ.
Nghiên cứu về ngƣời Hoa ở Quảng Ngãi, Nguyễn Văn Đăng có bài
viết “Góp thêm vài tƣ liệu về sự hình thành cộng đồng ngƣời Hoa ở Quảng
Ngãi” [43]. Kết quả cho thấy, việc nghiên cứu về ngƣời Hoa ở một số đô thị
miền Trung trong các thế kỷ XVII - XIX đã đƣợc đề cập ít nhiều trong một
số công trình. Tuy nhiên, nghiên cứu ngƣời Hoa ở Quảng Ngãi nói chung,
đặc biệt là phố cảng Thu Xà, nơi ngƣời Hoa có vai trò quan trọng trong quá

18
trình đô thị hóa ở Quảng Ngãi chƣa đƣợc quan tâm nghiên cứu. Mặc dù trong
nhiều tƣ liệu khác đã đề cập đến việc do tác động của hoàn cảnh lịch sử, kinh
tế, xã hội Trung Quốc khi nhà Minh bị Mãn Thanh lật đổ, ngƣời Hoa từ các
tỉnh ven biển Đông Nam Trung Quốc đã xuôi theo đƣờng biển về phƣơng
Nam tìm vùng đất phù hợp sinh sống và họ đã theo các cửa biển vào định cƣ
ở Quảng Ngãi. Trong đó, 2 cửa biển Sa Kỳ và Đại Cổ Lũy đều là những “cửa
biển lớn, nước sâu, tàu thuyền ra vào đều do đấy…”. Chính vì vậy, nghiên
cứu này dựa trên kết quả điền dã tại địa phƣơng nhằm góp thêm tƣ liệu về sự
hình thành cộng đồng ngƣời Hoa ở Quảng Ngãi nói riêng và ở Việt Nam nói
chung.
Nghiên cứu về ngƣời Hoa ở Tây Nguyên (cụ thể là tỉnh Lâm Đồng) có
bài viết “Tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Lâm Đồng” của Lê Thị Nhuấn [126].
Công trình đã cung cấp nguồn tài liệu về vấn đề tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở
Lâm Đồng nhằm góp phần cung cấp thêm những thông tin về văn hóa cổ
truyền của ngƣời Hoa ở một địa bàn cụ thể. Ngoài ra, nghiên cứu về ngƣời
Hoa ở Lâm Đồng còn có bài viết “Các nhóm dân cƣ ngƣời Hoa ở Lâm Đồng”
của Lê Thị Nhuấn, Nguyễn Thị Hà Giang [127]. Bài viết sử dụng phƣơng
pháp nghiên cứu điền dã dân tộc học cộng đồng để cung cấp nguồn tƣ liệu về
lịch sử di cƣ, định cƣ cũng nhƣ quá trình phát triển của mỗi nhóm dân cƣ
ngƣời Hoa, đồng thời đề cập một số đặc điểm về đời sống kinh tế, văn hóa và
xã hội của họ trong cộng đồng cƣ dân ở Lâm Đồng. Trong đó, yếu tố tín
ngƣỡng văn hóa của cộng đồng ngƣời Hoa ở Lâm Đồng đƣợc đề cập đến và
thể hiện đƣợc sự khác biệt rõ nét. Từ kết quả này góp phần nhận diện tính đa
dạng trong thành phần tộc ngƣời cũng nhƣ những đóng góp về văn hóa của
cộng đồng ngƣời Hoa ở Lâm Đồng.
Có thể khẳng định, các công trình nghiên cứu trên ít nhiều đã đề cập
đến những vấn đề liên quan tới đề tài luận án, song chủ yếu và mới chỉ dừng
ở những nội dung khái quát hay một vài miêu tả về đối tƣợng nghiên cứu của
đề tài. Những công trình này là tài liệu tham khảo quan trọng cho NCS trong
quá trình hoàn thành luận án.

19
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về người Hoa và tín ngưỡng của người
Hoa ở thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
Với địa bàn là thành phố Hội An, việc nghiên cứu về tín ngƣỡng truyền
thống của ngƣời Hoa còn chƣa thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều tác giả.
Một số công trình dành một vài tiểu mục đề cập đến những nội dung khá rời
rạc về các vấn đề liên quan đến đề tài luận án, đó là:
Võ Thị Ánh Tuyết với Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Khảo cổ học
Hội quán của người Hoa ở Hội An - Quảng Nam (2011) đã giới thiệu về các
hội quán của ngƣời Hoa, sự giao lƣu và hội nhập văn hóa Việt - Hoa tại các
hội quán. Trong đó, vấn đề tín ngƣỡng cũng đƣợc tác giả nhắc đến nhƣng chỉ
là những nét khái quát chung, chƣa đi sâu vào từng vấn đề cụ thể nhƣ nhân
thần (Quan Công, Thiên Hậu, 108 vị anh linh, Lục Tánh, Mã Viện), thần bảo
sanh (Ba bà Chúa sanh thai cùng 12 Bà mụ, Quan Âm,...); thần kiết
tƣờng (Phúc, Lộc, Thọ, Thần tài,...), thần động vật (Hổ, Ngựa,...); Tiền hiền,
danh nhân, cô bác và những đối tƣợng thờ cúng khác. Trong công trình này
đã đề cập đến vấn đề giao lƣu văn hóa Việt - Hoa: “Ngày nay không chỉ
ngƣời Hoa mà ngƣời Việt cũng đến cầu tài lộc, con cái,... ở các hội quán. Các
lễ hội đƣợc tổ chức ở các hội quán đã trở thành lễ hội chung của thành phố,
thỏa mãn nhu cầu tín ngƣỡng - tâm linh không chỉ có ý nghĩa đối với ngƣời
Hoa mà còn cả với ngƣời Việt, thu hút rất đông ngƣời Việt và các du khách
nƣớc ngoài tham gia, tạo không khí tăng cƣờng tình đoàn kết gắn bó cộng
đồng Việt - Hoa và trở thành nét văn hóa chung của dân tộc Việt Nam” [213].
Công trình Cư dân Faifo - Hội An trong lịch sử do Nguyễn Chí Trung
chủ biên (năm 2010) [173] đã hệ thống cƣ dân Faifo - Hội An trong lịch sử
qua các chƣơng mục rất cụ thể nhƣ: lịch sử hình thành cộng đồng dân cƣ và
tính chất kết cấu xã hội, đời sống kinh tế, đời sống văn hóa. Trong đó, có một
vài tiểu mục liên quan đến ngƣời Hoa nhƣ ở chƣơng 1, phần II mục 2.3 viết
về ngƣời Hoa trên hành trình nhập cƣ ở Hội An [173; tr. 81]; chƣơng 3, phần
I, có các mục 3.1 về tín ngƣỡng thờ cúng dân gian; 3.2 về tín ngƣỡng trong

20
cộng đồng dân cƣ [158; tr. 271]; 3.3 về tín ngƣỡng trong phạm vi gia đình và
dòng họ [173; tr. 283]. Các tiểu mục trên ít nhiều đã đề cập đến tín ngƣỡng
của ngƣời Hoa nhƣ: nhà thờ Tiền hiền, Hậu hiền; miếu âm linh, âm hồn,
miếu Quan Công, miếu thờ thần Bắc Đế Trấn Võ, các hội quán của ngƣời
Hoa: “Trong cộng đồng cƣ dân ngƣời Hoa có một bộ phận dân cƣ trƣớc đây
không nhập quốc tịch Việt Nam và hầu hết nhập cƣ vào Hội An muộn hơn so
với ngƣời Minh Hƣơng, đƣợc nhà nƣớc phong kiến quản lý và cho phép
những ngƣời cùng gốc quê hƣơng tỉnh/địa phƣơng ở Trung Quốc lập thành 5
bang (Hoa Kiều): Phúc Kiến, Quảng Đông, Hải Nam, Triều Châu, Gia Ứng.
Mỗi bang đều thiết lập một hội quán riêng. Hội quán với chức năng trƣớc hết
tôn thờ vị thần linh phù hộ cho cộng đồng mình theo tín ngƣỡng của từng bang
ở trên quê hƣơng/vùng đất mới. Và đây còn là một điểm sinh hoạt của bà con
trong cộng đồng bang (có tính chất câu lạc bộ) nhằm động viên, giúp đỡ lẫn
nhau trong cuộc sống, nhất là lúc ban đầu mới nhập cƣ tại Hội An” [173; tr. 281].
Công trình Nghiên cứu vai trò của xã Minh Hương ở thương cảng Hội
An thế kỷ XVII - XIX của nhiều tác giả (năm 1999) [172] đã sƣu tầm, tập hợp,
xử lý, hệ thống hóa các nguồn tƣ liệu về xã Minh Hƣơng nhằm làm cơ sở cho
công tác nghiên cứu, trùng tu tôn tạo, phát huy giá trị di tích tại địa phƣơng
trƣớc mắt và lâu dài. Ngoài ra, công trình này đã giải quyết đƣợc các vấn đề
tồn tại về xã Minh Hƣơng trong các bài viết trƣớc đây, bổ sung thông tin; rút
ra những kết luận khách quan, khoa học về xã Minh Hƣơng với đặc điểm là
một làng xã thƣơng nghiệp tiêu biểu cũng nhƣ vai trò của xã Minh Hƣơng và
ngƣời Minh Hƣơng ở thƣơng cảng Hội An thế kỷ XVII - XIX và hơn nữa,
công trình đã cung cấp những bằng chứng xác thực liên quan đến quá trình
hình thành, phát triển của Cộng đồng ngƣời Hoa Kiều ở Hội An nói riêng và
khu vực Đàng Trong nói chung.
Công trình Người Hoa Người Minh Hương với văn hóa Hội An của
Nguyễn Ngọc Thơ (năm 2018) [158] bao gồm 4 phần chính (1) Ngƣời Hoa
và ngƣời Minh Hƣơng ở Hội An; (2) Văn hóa phi vật thể; (3) Văn hóa vật

21
thể; (4) Đặc điểm văn hóa ngƣời Hoa và ngƣời Minh Hƣơng trong quá trình
giao lƣu văn hóa ở Hội An. Với đặc trƣng văn hóa ngƣời Hoa và ngƣời Minh
Hƣơng ở Hội An dung hòa giữa thần quyền, cộng đồng phƣơng ngữ (bang
hội) và quan hệ thân tộc làm nên cấu trúc nền tảng chuyển tải mối quan hệ
nông - sâu của các diễn ngôn văn hóa, công trình đã lựa chọn việc tiếp cận
hƣớng nghiên cứu từ trong ra ngoài, từ hình thái ý thức đến sắc thái văn hóa
đƣợc biểu thị, do vậy trong công trình này đã sắp xếp nội dung Văn hóa phi
vật thế trƣớc nội dung Văn hóa vật thể. Ngoài ra, công trình dựa trên các
phƣơng pháp chủ yếu nhƣ phƣơng pháp thực nghiệm, phƣơng pháp so sánh,
phƣơng pháp hệ thống - cấu trúc và thủ pháp phân tích tổng hợp tài liệu thành
văn và các nguồn tài liệu về Hội An nhƣ Các ghi chép chính sử của chính
quyền Đàng Trong và triều đình nhà Nguyễn; Các ghi chép của các nhà
truyền giáo, các thƣơng nhân phƣơng Tây, Trung Hoa và Nhật Bản; Các tài
liệu Hán Nôm và Các công trình nghiên cứu khoa học của các nhà nghiên
cứu khoa học xã hội và nhân văn đƣơng đại (trong và ngoài nƣớc). Dựa trên
các phƣơng pháp và nguồn sử liệu trên, công trình các cung cấp thêm nguồn
tƣ liệu nhằm bổ sung cho nghiên cứu về hoạt động kinh tế cũng nhƣ đời sống
văn hóa, xã hội của ngƣời Hoa, ngƣời Minh Hƣơng ở Hội An trong suốt
chiều dài lịch sử.
Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Dân tộc học với đề tài Đời sống tín
ngưỡng của người Việt ở Quảng Nam (Nghiên cứu trường hợp tại TP. Hội
An) của Lê Thu Huyền (năm 2019) [79] gồm 3 nội dung chính: (1) Những
vấn đề lý luận và tổng quan lịch sử ngƣời Việt ở Quảng Nam; (2) Đặc điểm
của tín ngƣỡng ngƣời Việt ở Quảng Nam; (3) Ảnh hƣởng của các lớp văn hóa
trong đời sống tín ngƣỡng, xu thế biến đổi và giá trị các loại hình tín ngƣỡng
của ngƣời Việt ở Quảng Nam. Thông qua những nội dung trên, luận án đã tập
hợp các nguồn tƣ liệu (tƣ liệu thành văn, tƣ liệu điền dã) thành hệ thống để
phân tích, làm rõ lịch sử và quá trình phát triển của các loại hình tín ngƣỡng
của ngƣời Việt ở Quảng Nam từ truyền thống đến hiện đại một cách đầy đủ

22
nhất so với những công trình đã công bố trƣớc đây. Trong đó, miêu tả các lễ
nghi sinh hoạt của các tín ngƣỡng trong đời sống xã hội của ngƣời Việt ở
Quảng Nam. Trên cơ sở đó chỉ ra đƣợc các yếu tố cấu thành tín ngƣỡng
ngƣời Việt ở Quảng Nam. Ngoài ra, kết quả của luận án đã đƣa ra bức tranh
so sánh/sự tiếp nhận/ảnh hƣởng của các lớp văn hóa Chăm, Hoa, Môn -
Khmer trong đời sống tín ngƣỡng của ngƣời Việt ở Hội An nói riêng, ngƣời
Việt ở Quảng Nam nói chung [79]. Hơn nữa, luận án còn cung cấp nguồn tƣ
liệu mới quan trọng cho ngành Dân tộc học, giúp cho giới nghiên cứu kế tiếp
có thể tìm hiểu thêm về tín ngƣỡng của ngƣời Việt ở Quảng Nam nói riêng và
ở Việt Nam nói chung. Từ đó, kết quả nghiên cứu của luận án đã cung cấp cơ
cở khoa học góp phần hoạch định và cụ thể hóa chính sách về tín ngƣỡng và
tôn giáo trong bối cảnh hiện nay.
Công trình Sự giao thoa văn hóa Việt - Hoa tại Miếu Quan Công - Hội
An - Quảng Nam của Bùi Thị Thu Linh (năm 2011) [94] với 3 nội dung chính
(1) Một số vấn đề lý luận về giao thoa văn hóa, di sản văn hóa và tổng quan
về đô thị cổ Hội An, Miếu Quan Công; (2) Những biểu hiện của sự giao thoa
văn hóa Việt - Hoa tại Miếu Quan Công; (3) Giải pháp bảo tồn và phát huy
các giá trị giao thoa văn hóa tại Miếu Quan Công. Công trình nhằm tìm hiểu
sự giao thoa và những giá trị của giao thoa văn hóa Việt - Hoa ở Việt Nam
nói chung và Hội An nói riêng (khảo sát tại Miếu Quan Công, hay còn gọi là
Chùa Ông).
Bài viết “Tín ngƣỡng thờ Môn thần của ngƣời Hoa ở Hội An” (2017)
của Vũ Văn Hoàng - Nguyễn Thái Hòa [64] đã đề cập đến Nguồn gốc của tín
ngƣỡng thờ Môn thần; Tổng quan về tín ngƣỡng thờ Môn thần của ngƣời
Hoa ở Hội An. Từ nội dung đƣợc trình bày trong bài viết có thể nhận định
rằng Tín ngƣỡng thờ Môn thần là một trong những tín ngƣỡng cổ xƣa nhất,
đồng thời, cũng đƣợc xem là một trong những hiện tƣợng văn hóa đặc sắc
của văn minh Trung Hoa. Từ ảnh hƣởng của loại hình tín ngƣỡng này, trong
dân gian đã dần hình thành nên nhiều tín ngƣỡng khác, trong đó, có Tín

23
ngƣỡng thờ Tài thần. Trong bài viết “Hải thần trong tín ngƣỡng của ngƣời
Hoa ở Hội An” (2017) của Vũ Hoài An [4] đã đề cập đến Một số hải thần
trong tín ngƣỡng của ngƣời Hoa nhƣ Mặc Nƣơng, Thiên Hậu Thánh Mẫu,
Hải Tiên Hoa, Hải Thần ở eo biển Hàng Châu; Tổng quan về tín ngƣỡng thờ
Hải thần của ngƣời Hoa ở Hội An. Từ nội dung bài viết có thể khẳng định
rằng Thiên Hậu Thánh Mẫu là vị Hải thần trong tín ngƣỡng dân gian của cƣ
dân Trung Hoa đƣợc thờ tự ở nhiều nơi trên thế giới trong đó Hội An cũng
không ngoại lệ điều này. Trải qua theo thời gian, tín ngƣỡng thờ thần ở Hội
An đã có những nét văn hóa mới, tạo nên sự phong phú đa dạng của quá trình
tiếp xúc và giao lƣu văn hóa giữa các cộng đồng tộc ngƣời cùng sinh sống
trên mảnh đất Hội An trong suốt những thế kỷ qua.
Nguyễn Văn Bằng có bài viết “Đối tƣợng thờ cúng trong hội quán của
ngƣời Hoa ở Hội An” [17] đề cập đến quá trình hình thành sớm và phát triển
của ngƣời Hoa ở Hội An, đồng thời làm nổi bật nên hội quán, một hình thức
tổ chức cộng đồng quan trọng của ngƣời Hoa ở Việt Nam nói chung và ở Hội
An nói riêng. Các hội quán của ngƣời Hoa ở Hội An có lịch sử tồn tại hàng
thế kỉ đã làm sáng tỏ tiến trình phát triển của đô thị - thƣơng cảng Hội An mà
còn góp phần thể hiện bản sắc văn hóa, cụ thể là sinh hoạt tín ngƣỡng của
ngƣời Hoa, thể hiện thông qua việc dấu ấn của văn minh Trung Hoa để lại
khá rõ nét tại Hội An. Hơn nữa, trong nội dung bài viết này đã chọn đối
tƣợng thờ cúng trong các Hội quán ở Hội An làm khía cạnh nghiên cứu chính
đã phần nào bộc lộ rõ nét đời sống tâm linh của ngƣời Hoa ở Hội An nói
riêng và của ngƣời Hoa di cƣ vào Việt Nam nói chung. Từ đó, góp phần làm
sâu sắc thêm quá trình giao lƣu văn hóa Việt - Hoa trong dòng chảy lịch sử
văn hóa Việt Nam.
Bên cạnh đó, có thể kể tới một số ấn phẩm khác có nội dung liên quan
nhƣ: cụm công trình của Nguyễn Xuân Hƣơng gồm: Tín ngưỡng cư dân ven
biển Quảng Nam - Đà Nẵng hình thái, đặc trưng và giá trị (2009) và Tín
ngưỡng thờ cô hồn - cô bác của cư dân ven biển xứ Quảng (Quảng Nam - Đà

24
Nẵng) (2009). Nguyễn Hữu Thông (chủ biên, 2011): Tín ngưỡng thờ Mẫu ở
miền Trung (2011); Trần Văn An: Di sản văn hóa văn nghệ dân gian Hội An
(2005); Lê Duy Anh: Lễ hội và văn hóa dân gian xứ Quảng (2009); Trần
Ngọc Thêm trong công trình: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam (2001) và Cơ
sở văn hóa Việt Nam (1999); Ngô Đức Thịnh: Tín ngưỡng và văn hóa tín
ngưỡng ở Việt Nam (2001); Ngọc Hà: Tín ngưỡng, phong tục và những kiêng
kỵ trong dân gian (TS. Trần Hồng Liên chủ biên, năm 2011);... Các công
trình này đã ít nhiều đề cập đến các hình thức tín ngƣỡng, lễ hội của cƣ dân
Quảng Nam (trong đó bao gồm cả cƣ dân vùng ven biển) nhƣ tục thờ cúng
Cá Ông, lễ hội Cầu Ngƣ, hát chèo đƣa linh, tục thờ Mẫu, tín ngƣỡng thờ cô
hồn, cô bác, tín ngƣỡng thờ tổ tiên, thờ Nữ thần,...
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu của tác giả ở nƣớc ngoài và trong
nƣớc về ngƣời Hoa và tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Việt Nam nói chung và ở
Hội An nói riêng, chúng tôi rút ra một số nhận xét bƣớc đầu nhƣ sau:
- Các công trình đã tiến hành nghiên cứu khái quát, tổng kết từ nhiều
góc độ khác nhau về đời sống xã hội, tín ngƣỡng, nghi lễ của ngƣời Hoa nói
chung và đề xuất một số giải pháp thiết thực với lễ hội, tín ngƣỡng ngƣời
Hoa. Đây là những công trình không chỉ mang tính chất cung cấp tƣ liệu mà
còn gợi mở những hƣớng tiếp cận quan trọng cho luận án của chúng tôi.
- Ở các công trình tập trung vào những vấn đề cụ thể về ngƣời Hoa tại
Hội An, hầu hết các bài viết, luận văn, luận án, chuyên luận,... đều tổng kết đƣợc
những đặc trƣng, có khi là ở một khía cạnh cụ thể nhƣ: Hội quán của người Hoa
ở Hội An - Quảng Nam (tác giả Võ Thị Ánh Tuyết), Di sản văn hóa văn nghệ
dân gian Hội An (tác giả Trần Văn An),... Đây là những công trình mang tính
chất tham khảo hữu ích về tƣ liệu trong quá trình chúng tôi triển khai đề tài luận
án; đồng thời giúp tìm hiểu sâu sắc hơn, toàn diện hơn và mang tính gợi mở về
những vấn đề mà chúng tôi quan tâm khảo sát, nghiên cứu.
- Những vấn đề tiếp tục nghiên cứu: Trong các công trình hiện có,
nghiên cứu về tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Việt Nam nói chung và ở Hội An

25
nói riêng tuy đã đề cập đến nhiều khía cạnh, nhƣng vẫn còn một số khoảng
trống cần đƣợc tiếp tục nhƣ trong bối cảnh hiện nay khi vấn đề tôn giáo tín
ngƣỡng ngày một biến động đa dạng, phức tạp thì nghiên cứu mang tính hệ
thống về chuyên sâu về những đặc trƣng, chỉ rõ thực trạng và xu hƣớng biến
đổi và đề xuất các giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị tín ngƣỡng của ngƣời
Hoa ở Hội An là cấp thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc.
1.2. Cơ sở lý thuyết
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
* Tín ngưỡng
Tín ngƣỡng xuất phát từ đời sống thực tiễn của con ngƣời trƣớc thiên
nhiên, xuất hiện từ thời tiền sử. Khi ngƣời tiền sử kiếm ăn, họ dần dần chế ra
đƣợc các dụng cụ và vũ khí hiệu nghiệm để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống.
Sống trong rừng, mƣa gió, thú giữ, họ còn nghĩ ra đƣợc những tấm lá cây hay
da thú để bao bọc giữ ấm cho cơ thể, biết dựng lên rào cản trƣớc hang động
để không cho thú dữ xâm nhập,... Song, có những việc xảy ra nhƣng ngƣời
tiền sử không biết làm cách nào để chinh phục, ví dụ nhƣ núi lửa, động đất,
mƣa bão, lũ lụt, hạn hán, bệnh tật, tai nạn, chết chóc, cá nhân sát hại lẫn
nhau, chiến tranh giữa bộ lạc,... Các vấn đề nhƣ thế cứ lặp đi lặp lại và họ bất
lực do kiến thức hạn hẹp về vũ trụ. Trong khi, bản năng sinh tồn của họ đòi
hỏi phải tìm ra giải đáp, rồi suy nghĩ và tƣởng tƣợng ra những sức mạnh siêu
nhiên ở ngoài khả năng điều khiển của họ, cho rằng tất cả những hiện tƣợng
không thể giải thích cùng những tai ƣơng đều xuất phát từ các sức mạnh vô
hình. Sau một thời gian suy nghĩ, đấu tranh nhƣng không thể chinh phục
đƣợc các mối hiểm nguy vô hình luôn rình rập quanh họ. Họ tìm cách ẩn nấp,
trốn tránh nhƣng tai họa vẫn đến, nên họ tin rằng muốn hạn chế nó thì chỉ có
cách thần phục và tôn thờ các sức mạnh siêu nhiên, ...
Từ đó các thần linh ra đời: thần núi lửa gây ra núi lửa; thần mƣa, thần
gió, thần sấm sét làm ra bão tố mƣa gió; thần sông, thần biển, thần rừng cai
trị và tạo ra những hiểm nguy trên sông, ngoài biển, trong rừng. Các thú dữ

26
cũng cho là thần linh: thần cọp, thần rắn, thần cá sấu,... Tiếp theo là thần cây,
thần đá, thần mùa màng, thần sinh sản, thần tình yêu, thần chiến tranh, thần
hòa bình,… Tựu chung lại có thể khái quát nhƣ: (i) Con ngƣời từ sự sợ hãi
dẫn đến niềm tin về thần linh. Họ suy đoán và dần dần “tin” rằng có những
sức mạnh huyền bí và thần linh sau lƣng những hiện tƣợng họ không giải
thích và kiểm soát đƣợc; (ii) Họ “tin” rằng có thể liên lạc và mua chuộc đƣợc
các thần linh nhằm tìm kiếm sự giúp đỡ bằng cách tôn thờ, dâng cúng các lễ
vật; (iii) Những niềm tin này phát triển thành nền tảng của tín ngƣỡng trong
nhân loại cho đến ngày nay; (iv) Tín ngƣỡng trở thành một nhu cầu cơ bản của
con ngƣời, là một phần của quá trình phát triển và đóng vai trò quan trọng trong
sự sinh tồn của nhân loại.
Hiện nay những vấn đề liên quan đến tín ngƣỡng đã và đang đƣợc
nhiều nhà khoa học nghiên cứu, lý giải. Đứng trên quan điểm và cách tiếp
cận khác nhau, mỗi nhà nghiên cứu đã đƣa ra những nhận định, cách lý giải
của riêng mình về tín ngƣỡng. Theo Bách khoa toàn thƣ: “Tín ngƣỡng là hệ
thống các niềm tin mà con ngƣời tin vào để giải thích thế giới và để mang lại
sự bình an cho cá nhân và cộng đồng” [207]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng
Duy cho rằng: “Tín ngƣỡng nảy sinh từ thực tế cuộc sống cộng đồng, con
ngƣời ý thức về một dạng thần linh nào đó, rồi cộng đồng con ngƣời ấy tin
theo, tôn thờ lễ bái, cầu mong cho hiện thực cuộc sống, gây thành một nếp
sống xã hội theo niềm tin thiêng liêng ấy” [35; tr. 7]. Theo Ngô Đức Thịnh:
“Tín ngƣỡng đƣợc hiểu là niềm tin của con ngƣời vào cái gì đó thiêng liêng,
cao cả, siêu nhiên, hay nói gọn lại là niềm tin, ngƣỡng vọng vào “cái thiêng”,
đối lập với cái “trần tục”, hiện hữu mà ta có thể sờ mó, quan sát đƣợc. Có
nhiều loại niềm tin, nhƣng ở đây niềm tin của tín ngƣỡng là niềm tin vào “cái
thiêng”.
Do vậy, niềm tin vào cái thiêng thuộc về bản chất của con ngƣời, nó là
nhân tố cơ bản tạo nên đời sống tâm linh của con ngƣời, cũng nhƣ giống đời

27
sống vật chất, đời sống xã hội tinh thần, tƣ tƣởng, đời sống tình cảm, ...”
[154; tr. 16].
Nếu tôn giáo có một hệ thống điều hành và tổ chức tƣơng đối chặt chẽ
thì tín ngƣỡng lại khá rời rạc. Chỉ khi tín ngƣỡng phát triển đến mức độ cao
thì mới có thể trở thành tôn giáo, vì vậy trong Đại Từ điển tiếng Việt do
Nguyễn Nhƣ Ý chủ biên (tái bản 2004) đã định nghĩa tín ngƣỡng là “lòng tin
và sự tôn thờ một tôn giáo” [199; tr. 1646]. Theo Đào Duy Anh, tín ngƣỡng
là “lòng ngƣỡng mộ, mê tín đối với một tôn giáo hoặc một chủ nghĩa” [5; tr.
283]. Trần Ngọc Thêm: “Tổ chức đời sống cá nhân là bộ phận thứ hai trong
văn hóa tổ chức cộng đồng. Đời sống mỗi cá nhân trong cộng đồng đƣợc tổ
chức theo những tập tục đƣợc lan truyền từ đời này sang đời khác (phong
tục). Khi đời sống và trình độ hiểu biết còn thấp, họ tin tƣởng và ngƣỡng mộ
vào những thần thánh do họ tƣởng tƣợng ra (tín ngƣỡng). Tín ngƣỡng cũng là
một hình thức tổ chức đời sống cá nhân rất quan trọng. Từ tự phát lên tự giác
theo con đƣờng quy phạm hóa thành giáo lý, có giáo chủ, thánh đƣờng, ... tín
ngƣỡng trở thành tôn giáo” [147; tr. 262]. Vì vậy khác biệt giữa tín ngƣỡng
và tôn giáo là: tín ngƣỡng mang tính dân tộc, dân gian nhiều hơn tôn giáo;
tôn giáo có tính tổ chức và chặt chẽ hơn so với tín ngƣỡng.
Giữa thế kỷ XIX, E. B. Tylor đã xác định: „Tín ngƣỡng là cơ sở hình
thành nên đời sống con ngƣời, chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa tín
ngƣỡng và thuyết vật linh nguyên thủy, theo đó những tín ngƣỡng và tập
quán khác nhau đều có những nền tảng vững chắc trong thuyết vật linh
nguyên thủy, nhƣ thể chúng đã thực sự mọc lên từ đó. Trong thuyết vật linh
phức tạp, chúng trở thành sản phẩm của sự ngu dốt hơn là của nhà triết học
và tồn tại nhƣ những tàn tích của cái cũ hơn là những sản phẩm của đời sau,
khi chuyển từ sức sống đầy đủ sang trạng thái tàn tích” [188; tr.939]. Nhiều
nhà nghiên cứu cũng khẳng định tính chất bảo thủ của tín ngƣỡng, bởi đó là
“ngƣỡng tâm lý đặc thể do con ngƣời sáng tạo ra, mục đích là cầu nối liên thông
với thế giới nội tâm (siêu linh). Ở nhiều mức độ khác nhau, tín ngƣỡng đạt tới

28
trạng thái ecstasy (ngây ngất), điểm đặc dị trong tâm lý tộc ngƣời nhƣ lên đồng
của ngƣời Việt, then của ngƣời Tày. Điều này lý giải vì sao tín ngƣỡng luôn gắn
bó với hình thức shaman, thầy tế trên thế giới và hiện diện thành nhiều nghi lễ
phức tạp trong đời sống văn hóa tộc ngƣời ở Việt Nam” [166; tr. 227].
Đối với các nhà nghiên cứu trong nƣớc, quan niệm về tín ngƣỡng cũng
có những điểm tƣơng đồng. Đặng Nghiêm Vạn cho rằng, thuật ngữ “tín
ngƣỡng” có thể đồng nhất với cụm từ “niềm tin tôn giáo”. Lý Tùng Hiếu
dƣới góc độ tôn giáo học đã đƣa ra định nghĩa: “Tín ngƣỡng là lòng tin vào
tôn giáo và các lực lƣợng siêu tự nhiên nói chung, là yếu tố cơ bản cấu thành
tôn giáo, …” [59; tr. 13].
Ở nƣớc ta, “tín ngƣỡng của ngƣời Việt phản ánh rõ những đặc trƣng
nông nghiệp lúa nƣớc của nền văn hóa Việt Nam, thể hiện ở các mặt: tín
ngƣỡng phồn thực, tín ngƣỡng sùng bái tự nhiên và tín ngƣỡng sùng bái con
ngƣời hình thành trên nền tảng xã hội nông nghiệp cổ truyền, lƣu truyền
trong quần chúng từ đời này qua đời khác nên tín ngƣỡng Việt Nam chƣa
chuyển thành tôn giáo” [24; tr. 18]. Những tín ngƣỡng này đã trở thành thói
quen lâu đời, đƣợc cộng đồng thừa nhận và thực hành sẽ trở thành tục thờ.
Ngƣời Việt có tục thờ cúng Tổ tiên, thờ Mẫu, thờ thành Hoàng, ... có ý nghĩa
quan trọng đối với cuộc sống của ngƣời dân, đặc biệt trong các làng xã.
Có thể thấy rằng, việc tìm hiểu các khái niệm về “tín ngƣỡng” đã đƣợc
đề cập bởi nhiều học giả trong nƣớc và nƣớc ngoài. Tuy nhiên, thuật ngữ “tín
ngƣỡng” mặc dù đã đƣợc khẳng định bởi các giới nghiên cứu, song vẫn
thƣờng bị đánh đồng với thuật ngữ “tâm linh”. Khác với thuật ngữ tín
ngƣỡng đã đƣợc học thuật hóa (hoặc luật hóa) và đƣợc trình bày ở trên, thuật
ngữ “tâm linh” là cụm từ mới xuất hiện gần đây nhƣng đƣợc phổ biến vô
cùng nhanh chóng trong xã hội Việt Nam. Thuật ngữ “Tâm linh” đƣợc dùng
chung cho tôn giáo, tín ngƣỡng, đức tin, tính thiêng, … Sự cộng gộp mọi yếu
tố liên quan (và cả không liên quan) đến tôn giáo và tín ngƣỡng chỉ trong một
thuật ngữ “tâm linh” nhƣ vậy đã khiến cho ý nghĩa của cụm từ này, trở nên

29
quá rộng, quá mơ hồ và quá ít tính học thuật. Hơn nữa, thuật ngữ “tâm linh”
đã có trong bộ từ điển Hán - Việt đã có từ hàng thế kỷ trƣớc, nhƣng ý nghĩa
và cách dùng từ này so với hiện nay hoàn toàn khác biệt [55; tr. 80-81].
Chẳng hạn, Đào Duy Anh trong Hán Việt từ điển giải thích “tâm linh” là “Trí
tuệ tự có trong lòng ngƣời” (tr. 562). Trong khi Hán Việt từ điển của Thiều
Chửu và Đại nam Quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của chỉ có chữ
“linh” mà không có tâm linh. Ngoài ra, có một số bộ từ điển đƣợc soạn trong
khoảng nửa đầu thế kỷ XX có mục từ “tâm linh” nhƣng nghĩa của từ hoàn
toàn khác với cách dùng hiện nay. Nhƣ vậy, từ những dẫn chứng trên có thể
thấy rằng, thuật ngữ “tâm linh” với ý nghĩa bao trùm tôn giáo và tín ngƣỡng
chỉ mới xuất hiện gần đây, trong giai đoạn bùng nổ kinh tế, đặc biệt là sự
phát triển của nền du lịch Việt Nam. Do đó, để tránh hiểu nhầm và cung cấp
thông tin chuẩn xác trong sử dụng thuật ngữ “tín ngƣỡng”, Luật Tín ngƣỡng,
tôn giáo của Quốc hội ban hành năm 2016, đã đƣa ra khái niệm về “tín
ngƣỡng” là “niềm tin của con ngƣời đƣợc thể hiện qua những lễ nghi gắn liền
với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho
cá nhân và cộng đồng”. Từ những quan điểm trên, theo quan điểm của chúng
tôi, thuật ngữ “tín ngƣỡng” đƣợc hiểu là “hệ thống những niềm tin của con
người được thể hiện thông qua cách thức bộc lộ đức tin đối với những hiện
tượng tự nhiên hay xã hội, nhân vật lịch sử hay huyền thoại có liên quan đến
cuộc sống của họ với mong muốn cầu mong sự che chở, giúp đỡ từ những đối
tượng siêu nhiên mà người ta tôn kính và thờ thờ phụng. Trong đó, niềm tin
này được biểu lộ thông qua nhiều hình thức nhưng chủ yếu được biểu hiện
thông qua các hoạt động tín ngưỡng, cơ sở tín ngưỡng và các hoạt động tín
ngưỡng”.
* Nghi lễ tín ngưỡng
Khái niệm “nghi lễ” bắt nguồn từ tiếng Latin là ritus, tức hành vi có trật
tự. Có nhiều cách giải thích khái niệm này nhƣng chủ yếu ở một số khía cạnh
cơ bản nhƣ: hoạt động thƣờng nhật mang tính ma thuật; phƣơng tiện giao tiếp

30
với những lực lƣợng siêu nhiên; hành vi đƣợc tổ chức vào những dịp nhất
định có tính nghi thức trang trọng, chủ yếu là cầu nguyện, hiến tế, nhịn ăn,
định hƣớng và tẩy uế [183; tr. 948],... Theo Nguyễn Văn Minh, nghi lễ là
“một tập hợp các yếu tố cơ bản gồm hành động, lễ nhạc, cầu khấn, hiến tế,
nhịn ăn, định hƣớng và tẩy uế,... mang tính lặp đi lặp lại từ đời này qua đời
khác, con ngƣời thực hành chúng và mang truyền thống về hiện tại. Nghi lễ là
quá trình xuyên thời gian và không gian theo đúng chu trình của nó. Nghi lễ
không chỉ là quá khứ, mà còn là hiện tại và tƣơng lai” [103; tr. 363]. Thực tế
cho thấy, tín ngƣỡng không tồn tại biệt lập mà đƣợc biểu hiện thành nhiều
hình thức văn hóa nhƣ lễ hội, sinh hoạt văn hóa, lễ vật, ... để thể hiện niềm tin
của cộng đồng và cá nhân đối với các lực lƣợng siêu nhiên. Nghi lễ đƣợc
thực hiện trong tín ngƣỡng thƣờng là các bài tán tụng, đƣợc phụ họa bằng các
khí cụ âm nhạc, nên gọi là nghi lễ tín ngƣỡng.
E.B. Tylor cho rằng “tôn giáo phải mang sự tín ngƣỡng đối với thần linh
tối cao hay sự phán xét sau khi chết, phải có sự thờ cúng các thần tƣợng, có
tập tục hiến tế, hay có những học thuyết hoặc nghi thức nào tƣơng đối phổ
biến, thì tất nhiên phải loại bỏ nhiều bộ lạc ra khỏi phạm trù các bộ lạc có tôn
giáo. Nhƣng vì định nghĩa chật hẹp này có khuyết điểm là nó đồng nhất tôn
giáo trƣớc hết với những biểu hiện tín ngƣỡng riêng hơn là với một quan
niệm sâu sắc làm cơ sở của chúng. Vì thế tốt hơn cả là nên dừng lại ở nguồn
gốc chủ yếu này và chấp nhận sự tín ngƣỡng đối với những thực thể tâm linh
là mức tối thiểu của tôn giáo” [183; tr. 508]. Qua phân tích một trƣờng hợp là
Đạo Mẫu đã sản sinh/tích hợp nhiều yếu tố nhƣ văn học, diễn xƣớng, kiến
trức, lễ hội, ... Ngô Đức Thịnh đã khái quát rằng, bản thân các tín ngƣỡng đã
là một hình thức văn hoá đặc thù, bởi thế, trong quá trình vận động và biến
đổi thì “tín ngƣỡng bao giờ cũng sản sinh, tích hợp trong nó những hiện
tƣợng, những sinh hoạt văn hoá nghệ thuật” [154; tr. 765]. Luật Tín ngƣỡng,
Tôn giáo số 02/2016/QH14 của nƣớc ta giải thích: tín ngƣỡng là niềm tin của
con ngƣời đƣợc thể hiện thông qua những nghi lễ gắn liền với phong tục, tập

31
quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng
đồng. Hoạt động tín ngƣỡng là hoạt động thờ cúng tổ tiên, các biểu tƣợng
linh thiêng; tƣởng niệm và tôn vinh ngƣời có công với nƣớc, với cộng đồng;
các nghi lễ dân gian tiêu biểu cho những giá trị văn hóa, lịch sử, đạo đức xã
hội. Ở ngƣời Hoa, tâm thức sùng bái các vị thần linh, các thế lực huyền bí
cũng đƣợc biểu hiện thành các phong tục tập quán và nghi lễ thờ cúng. Các
nghi lễ tín ngƣỡng này khá đa dạng, có khi làm sinh động hơn cho các sự
tích, có khi để giải thích lại các hành động nghi lễ, ... Do vậy, luận án chỉ giới
hạn một số nghi lễ tín ngƣỡng để nghiên cứu, đó là các hình thức tín ngƣỡng
và thực hành nghi lễ của cộng đồng và trong gia đình.
* Văn hóa tín ngưỡng
Tín ngƣỡng và văn hóa tín ngƣỡng là hai vấn đề đã và đang đƣợc nhiều
nhà khoa học nghiên cứu, lý giải. Ngô Đức Thịnh đề cập đến khái niệm văn
hóa tín ngƣỡng trong các công trình Tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng ở Việt
Nam (Chủ biên, 2001), Tín ngưỡng lễ hội cổ truyền (2007); bài viết Các dạng
thức văn hoá ở Việt Nam (2006);... Theo Ông: “Tƣơng ứng với các cộng
đồng tôn giáo tín ngƣỡng nhƣ Phật giáo, Kitô giáo, Hồi giáo, Nho giáo, đạo
Mẫu,... đều có các dạng thức văn hoá tƣơng ứng: văn hoá Phật giáo, văn hoá
Kitô giáo, văn hoá Nho giáo, văn hoá Hồi giáo, văn hoá đạo Mẫu,... Bản thân
các tôn giáo tín ngƣỡng đã là một hình thức văn hoá đặc thù. Đấy là chƣa kể,
trong quá trình hình thành và phát triển, mỗi tôn giáo tín ngƣỡng bao giờ
cũng sản sinh, tích hợp trong nó những hiện tƣợng, những sinh hoạt văn hoá
nghệ thuật” [154; tr. 28]. Patrick B. Mullen nhận định: “tín ngƣỡng dân gian
không chỉ tồn tại ở dạng trừu tƣợng mà nó còn tồn tại trong thực tiễn và các
ứng xử thực tế. Văn hoá dân gian vốn không chỉ là sự phản ánh một thế giới
quan văn hoá trừu tƣợng, mà nó còn tồn tại trong cuộc sống hằng ngày của
chúng ta nhƣ là một phƣơng tiện sáng tạo văn hoá tinh thần”. Nguyễn Tri
Nguyên đã đƣa ra quan điểm: “Tín ngƣỡng là một hình thái biểu thị đức tin,
niềm tin của con ngƣời và của cộng đồng ngƣời ở một trình độ phát triển xã

32
hội và nhận thức nhất định vào một cái thiêng liêng, cái cao cả, cái đáng sùng
kính trong thế giới ngƣời hoặc thế giới siêu nhiên nào đó” [115; tr. 28].
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tín ngƣỡng, tôn giáo. Do điều kiện
địa lý nƣớc ta là nơi thuận lợi cho việc giao lƣu của nhiều luồng tƣ tƣởng,
văn hóa khu vực và thế giới, lại chịu ảnh hƣởng sâu sắc của hai nền văn minh
lớn là Trung Hoa và Ấn Độ, đồng thời là một nƣớc có 54 dân tộc cƣ trú ở nhiều
vùng miền với điều kiện tự nhiên, khí hậu, lối sống, phong tục, tín ngƣỡng, tôn
giáo khác nhau, nên Việt Nam là nơi du nhập nhiều tín ngƣỡng, tôn giáo lớn
trên thế giới. Hơn nữa, bản tính ngƣời Việt vốn cởi mở, khoan dung nên cùng
một lúc có thể tiếp nhận nhiều hình thức tín ngƣỡng, tôn giáo khác biệt, cùng
tồn tại với tín ngƣỡng dân gian của nhiều dân tộc, có thể chia làm 3 nhóm: (1)
Nhóm tín ngƣỡng phồn thực là thờ cúng sự sinh sôi, nảy nở, giao phối, tức
thờ cơ quan sinh dục nam, nữ, thờ nghi thức lễ hội phồn thực; (2) Nhóm tín
ngƣỡng sùng bái tự nhiên, thờ tam phủ và tứ phát; (3) Nhóm tín ngƣỡng sùng
bái con ngƣời, thờ những vị thần và những ngƣời có công với nƣớc.
Có thể thấy, tín ngƣỡng là niềm tin, sự ngƣỡng mộ đối với một đối
tƣợng siêu nhiên nào đó có ảnh hƣởng, chi phối đến đời sống sinh hoạt của
con ngƣời. Nói cách khác, tín ngƣỡng là một sản phẩm văn hoá do con ngƣời
quan hệ với tự nhiên, xã hội và chính bản thân mà hình thành, là niềm tin về
những điều linh thiêng, những sức mạnh huyền bí mà con ngƣời chỉ cảm
nhận đƣợc, khó có thể nhận thức đƣợc. Do tín ngƣỡng luôn mang trong mình
những đặc trƣng văn hóa tƣơng ứng, nên gọi là văn hóa tín ngƣỡng.
* Giá trị và giá trị tín ngưỡng
Giá trị là một phạm trù triết học, chỉ sự đánh giá những thành quả lao
động sáng tạo vật chất và tinh thần của con ngƣời qua quá trình phát triển lâu
dài của lịch sử. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về giá trị nhƣng đa phần
đều có điểm gặp gỡ chung là chỉ ra những đặc tính quan trọng nhất về mối
quan hệ giữa chủ thể của hoạt động và đối tƣợng của nó, bởi giá trị sẽ mất đi
ý nghĩa thực sự khi tách rời khỏi hoạt động thực tiễn.

33
Thuật ngữ này lần đầu tiên đƣợc M. Weber đƣa ra với tƣ cách là một
phạm trù trong khoa xã hội học, cụ thể là hành động nào của cá nhân khi có ý
thức thì đều kèm theo một giá trị nào đó; tuy vậy hành động có ý thức ấy
chƣa đủ điều kiện để hình thành hành vi xã hội nếu không có định hƣớng.
Trong khi, theo E. Durkheim, các xã hội cổ xƣa, khi cá nhân tính tăng lên thì hệ
thống giá trị cơ bản trong xã hội luôn biểu thị cho lợi ích nhóm; giá trị có tính ép
buộc về mặt đạo đức vì bản thân nó phụ thuộc hiện thực khách quan, đồng thời
nó cũng là một phần của chính hiện thực khách quan đó. Nhƣ vậy, có thể hiểu,
hành động của con ngƣời bao giờ cũng bị chi phối bởi giá trị có tính hoàn cảnh
lịch sử, đồng thời thỏa hiệp với hiện thực khách quan.
Giá trị có khi đƣợc xem nhƣ những chuẩn mực cơ bản để điều chỉnh
hành vi trong xã hội. Theo Vũ Hào Quang, giá trị là hạt nhân của một nền
văn hóa, có các biểu hiện nhƣ: hiện trạng mong muốn của các mối liên hệ xã
hội, các nội dung tƣ tƣởng, các hình thức nghệ thuật,... của các chủ thể xã hội
(cá thể, cộng đồng, xã hội); những tiêu chuẩn để đánh giá các hiện tƣợng thực
tế; giá trị xác định mục đích của hoạt động; giá trị điều chỉnh các tƣơng tác
xã hội; giá trị kích thích hoạt động của chủ thể từ phía nội tâm.
Đào Duy Anh trong “Việt Nam văn hóa sử cương” từng nói đến 7 giá
trị có thể xem là bản sắc văn hoá Việt: (1) “Sức ký ức” [trí nhớ] tốt, thiên về
nghệ thuật và trực giác; (2) Ham học, thích văn chƣơng; (3) “Ít mộng tƣởng”
[thiết thực]; (4) “Sức làm việc khó nhọc” [cần cù] ở mức độ “ít dân tộc bì
kịp”; (5) “Giỏi chịu,… khổ và hay nhẫn nhục”; (6) “Chuộng hòa bình, song
ngộ sự thì cũng biết hy sinh vì đại nghĩa”; (7) Khả năng “bắt chƣớc, thích
ứng và dung hóa rất tài” [5]. Trần Văn Giàu nêu lên 7 giá trị mà ông cho là
đặc thù của văn hoá Việt: (1) Yêu nƣớc; (2) cần cù; (3) anh hùng; (4) sáng
tạo; (5) lạc quan; (6) thƣơng ngƣời; (7) vì nghĩa [47].
Trong khoa học về giá trị nói chung thƣờng nói tới 13 loại giá trị: giá
trị thẩm mỹ, giá trị môi trƣờng, giá trị cá thể, giá trị sức khỏe, giá trị chính trị,
giá trị tôn giáo, giá trị xã hội, giá trị văn hóa, giá trị giáo dục, giá trị đạo đức -

34
luân lý, giá trị luật lệ, giá trị giải trí, giá trị khoa học. Đoàn Văn Chúc định
nghĩa “giá trị là cái khả ao ƣớc trong đời sống của một cộng đồng xã hội, một
nhóm hay một cá nhân”. Phạm Minh Hạc với cách phân loại, quan tâm đến
các giá trị sau: (1) Giá trị loài ngƣời (và thế giới) và giá trị cá thể; (2) Giá trị
dân tộc và giá trị cá nhân; (3) Giá trị bản thân - giá trị nhân cách. Ông phân
loại ra hai nhóm lớn là: Giá trị vật chất bao gồm khái niệm giá trị trong kinh
tế học; Giá trị tinh thần trong khoa học về giá trị (giá trị học) [50]. Theo Trần
Ngọc Thêm, giá trị tinh thần bao gồm giá trị tín ngƣỡng là loại giá trị quan
trọng nhất, chi phối các loại giá trị khác; phẩm chất tinh thần là phẩm chất
quan trọng nhất, là hạt nhân cốt lõi của khái niệm “giá trị”. Ông còn cho rằng,
để phân biệt giá trị nào quan trọng hơn so giá trị khác thì dựa vào tiêu chí
đánh giá. Bởi vì, nếu theo I. Kant, giá trị đạo đức đứng ở hàng ƣu tiên số một
(tồn tại một số quan niệm đồng nhất “giá trị văn hoá” với “giá trị đạo đức”,
coi “giá trị văn hoá” thuộc lĩnh vực đạo đức) thì Max Scheler lại cho rằng giá
trị cảm xúc mới là loại nằm ở vị trí cao nhất trong bậc thang cấp hệ giá trị
(Giá trị cảm xúc > Giá trị đời sống > Giá trị tinh thần > Giá trị thiêng). Nhƣ
vậy, giá trị là một khái niệm rộng, chỉ có các giá trị định hƣớng mới gần
với chuẩn mực. Còn giá trị văn hoá và chuẩn mực là hai khái niệm giao nhau,
chúng phân biệt với nhau theo tiêu chí thời gian. Áp dụng phƣơng pháp hệ
thống - loại hình với thủ pháp “năm định” nêu trên, Trần Ngọc Thêm xác
định hệ thống 5 đặc trƣng bản sắc văn hoá Việt Nam: (1) Tính cộng đồng
(làng xã); (2) Tính ƣa hài hòa; (3) Tính trọng âm; (4) Tính tổng hợp; (5) Tính
linh hoạt. Theo ông, các đặc trƣng mà Đào Duy Anh, Trần Văn Giàu, Claude
Palazzoli, Nghị quyết TW 5 nói đến đều có thể quy về 5 giá trị này [8].
Nghị quyết 5 (khóa VIII) của BCH Trung ƣơng Đảng về “Xây dựng
một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” xác định 5 giá
trị bền vững, đƣợc vun đắp trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc là: (1)
Lòng yêu nƣớc nồng nàn, ý chí tự cƣờng dân tộc; (2) Tinh thần đoàn kết, ý
thức cộng đồng (gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - tổ quốc); (3) Lòng

35
nhân ái, khoan dung; trọng nghĩa tình, đạo lý; (4) Đức tính cần cù, sáng tạo
trong lao động; (5) Sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống [8; tr.
23]. Nghị quyết số 33-NQ/TW của BCH Trung ƣơng Đảng khóa XI, ngày
9/6/2014 xác định “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con ngƣời Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nƣớc” đã xác định mục tiêu “Xây
dựng nền văn hóa và con ngƣời Việt Nam phát triển toàn diện, hƣớng đến
chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa
học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là
sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Đây đƣợc xem là lần đầu tiên trong Nghị quyết của Đảng xác định
văn hóa là nền tảng cho sự phát triển bền vững, cùng với phát triển văn hóa là
phát triển con ngƣời Việt Nam toàn diện [9].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII xác định mục tiêu “Văn hóa thực
sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh
quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc”.
Sự đổi mới trong nhận thức của Đảng ở đây chính là gắn nhiệm vụ xây dựng
văn hóa, con ngƣời với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nƣớc, gắn xây
dựng môi trƣờng văn hóa với xây dựng con ngƣời, bƣớc đầu hình thành
những giá trị mới về con ngƣời với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý
thức công dân. [41]. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII tiếp tục khẳng định
vai trò, ý nghĩa đặc biệt của việc xây dựng, phát triển văn hóa, con ngƣời Việt
Nam trong định hƣớng phát triển đất nƣớc trong giai đoạn 2021-2030. Trong
đó, “Phát triển con ngƣời toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh,
động lực phát triển đất nƣớc và bảo vệ Tổ quốc”. Văn hóa là động lực phát
triển đất nƣớc và con ngƣời với “tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con ngƣời
Việt Nam là trung tâm, là mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của
đất nƣớc” [42]. Hơn nữa, trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII, vấn đề

36
phát triển con ngƣời đã đƣợc gắn kết chặt chẽ với xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Từ đó, có thể thấy Đảng ta đã kế thừa
và phát huy ngày càng sâu sắc tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát
triển văn hóa, con ngƣời, nhất là trong bối cảnh đổi mới, hội nhập và phát
triển. Hơn nữa, chúng ta cũng có thể khẳng định rằng, quan điểm xuyên suốt
của Đảng và Nhà nƣớc về phát triển bền vững nói chung, phát triển văn hóa
nói riêng chính là vì con ngƣời và do con ngƣời. Do đó, con ngƣời luôn là
mục tiêu, là động lực, là trung tâm cho sự phát triển của văn hóa và sự phát
triển bền vững của đất nƣớc.
Nhƣ vậy, giá trị văn hoá có tính chủ quan và tƣơng đối, có sự khác biệt
giữa các dân tộc và các nền văn hóa bởi chúng phụ thuộc vào niềm tin, các hệ
thống tín ngƣỡng tôn giáo. Khi nói đến giá trị truyền thống, nghĩa là ở đó đã
bao hàm những sự ổn định, những điều tích cực, biểu thị cái bản sắc của một
dân tộc. Vì thế, cần đề cao việc bảo tồn các giá trị trong phát triển, vì đó là
những cái “đáng giá” mà cộng đồng duy trì, lƣu truyền qua nhiều thế hệ, nên
có tính bền vững, trở thành sức mạnh cho đoàn kết, xây dựng một nền văn
hóa ở mỗi dân tộc.
Tín ngƣỡng không chỉ có giá trị tâm linh, văn hóa nghệ thuật mà còn
mang ý nghĩa về mặt lịch sử, xã hội. Những giá trị này thể hiện rõ qua các
hoạt động trong tín ngƣỡng của cộng đồng ngƣời Hoa tại Hội An, vào những
dịp cúng kỵ, lễ, tết, ngày vía, ... để thể hiện niềm tin, sự thành kính với những
đấng cao cả siêu nhiên. Ở đề tài này, chúng tôi giới hạn phạm vi giá trị tín
ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Hội An để khảo sát, cụ thể là tín ngƣỡng trong gia
đình và trong cộng đồng. Do đó, xem xét những giá trị tín ngƣỡng chính là
xem xét nó nhƣ một sản phẩm văn hóa đƣợc hình thành dựa trên các mối
quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời và con ngƣời với tự nhiên, xã hội.
* Cộng đồng
Khái niệm “Cộng đồng” đƣợc sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực
thuộc cả Khoa học xã hội, Khoa học Tự nhiên và Khoa học sự sống cụ thể

37
gồm các ngành nhƣ sử học, văn hóa học, xã hội học, tâm lý học, triết học,
nhân học, sinh học, nghiên cứu phát triển,… Khái niệm “Cộng đồng” có
nguồn gốc từ tiếng gốc Latin là “cummunitas”, với nghĩa là toàn bộ tín đồ
của một tôn giáo hay toàn bộ những ngƣời đi theo một thủ lĩnh nào đó. Hiện
nay, khái niệm “cộng đồng” đƣợc sử dụng phổ biến trong các ngôn ngữ Âu -
Mỹ nhƣ trong tiếng Pháp là “communité”, tiếng Anh là “community”, tiếng
Đức là “Gemeinschaft”. Ngoài ra, do có nhiều chuyên ngành khác nhau nên
khái niệm “cộng đồng” cũng đƣợc tiếp cận dƣới nhiều góc độ khác nhau dẫn
tới định nghĩa khái niệm “cộng đồng” cũng không giống nhau.
Trong lĩnh vực sử học, các nhà sử học lại quan tâm chủ yếu đến dạng
thức cộng đồng ngƣời trong quá khứ, nhƣ làng bản, thành bang, nhà nƣớc hay
mandalas, … trong đó các mối tƣơng tác bên trong cộng đồng và giữa các
cộng đồng đƣợc mô tả thông qua các sự kiện và quá trình lịch sử, nhƣ tổ chức
sản xuất, quản lý nguồn nƣớc, đê điều, hôn nhân, xây dựng các liên minh và
chiến tranh, …
Đối với lĩnh vực triết học, cộng đồng không chỉ còn giới hạn trong
những địa vực hiện hữu nhƣ nơi cƣ trú, hình thức tổ chức xã hội,… mà trong
số của sự cố kết lại rơi vào sự gắn kết, tƣơng đồng về quan niệm về thế giới
tự nhiên, xã hội và tƣ duy. Còn các nhà khoa học chính trị hiện đại lại quan
tâm đến cộng đồng nhƣ một hình thức tổ chức trong quá trình chính trị, bao
gồm từ các nhóm lợi ích (interest group) đến các chính đảng (political party),
các dạng công xã (commune) cho đến nhà nƣớc - dân tộc (nation-state).
Với nhiều lĩnh vực quan trọng liên quan đến cộng đồng, có thể thấy
rằng dù tiếp cận từ những góc độ khác nhau, dựa trên những lý thuyết khoa
học khác nhau và hƣớng sự quan tâm học thuật tới những dạng thức cụ thể
không giống nhau của cộng đồng, nhƣng nhìn chung, để có thể nhận biết
đƣợc khái niệm về cộng đồng có thể dựa trên các yếu tố sau:
- Cộng đồng phải là tập hợp của một số đông ngƣời.
- Mỗi cộng đồng phải có một bản sắc/bản thể riêng (identity).

38
- Các thành viên của cộng đồng phải tự cảm thấy có sự gắn kết với
cộng đồng và với các thành viên khác của cộng đồng.
- Có thể có nhiều yếu tố tạo nên bản sắc và sức gắn kết cộng đồng,
nhƣng quan trọng nhất chính là sự thống nhất về ý chí và chia sẻ về tình cảm,
tạo nên ý thức cộng đồng.
- Mỗi cộng đồng đều có những tiêu chí bên ngoài để nhận biết về cộng
đồng và có những quy tắc chế định hoạt động, ứng xử chung của cộng đồng
[174].
Dựa trên những yếu tố nội hàm bên trong và bên ngoài của cộng đồng,
có thể đi đến một khái niệm chung nhất về “cộng đồng” đó là “Khái niệm
cộng đồng đƣợc hiểu là một tập hợp ngƣời có sức bền kết nối nội tại cao, bao
gồm những tiêu chí nhận biết và quy tắc hoạt động, ứng xử chung dựa trên sự
đồng thuận về ý chí, tình cảm, niềm tin và ý thức cộng đồng, nhờ đó các
thành viên trong cộng đồng có khả năng gắn kết đƣợc nhiều thành viên thành
một cộng đồng”.
* Đời sống tín ngưỡng
Thuật ngữ “Đời sống tín ngƣỡng” đƣợc xem là một lát cắt của đời sống
xã hội cho nên khi các nhà nghiên cứu tập trung nghiên cứu về đời sống tín
ngƣỡng thì nó cần đƣợc đặt trong môi trƣờng tín ngƣỡng (bao gồm môi
trƣờng tự nhiên, môi trƣờng lịch sử, văn hóa); hoạt động tín ngƣỡng (các nghi
lễ, lễ hội tín ngƣỡng diễn ra định kỳ trong khoảng thời gian nhất định) và cơ
sở tín ngƣỡng (là nơi diễn ra các nghi lễ, lễ hội tín ngƣỡng) của từng cộng
đồng trong bối cảnh và đời sống xã hội khác nhau.
Dựa theo Luật Tín ngƣỡng, tôn giáo năm 2016 của Quốc hội, cụ thể
trong Điều 2, Chƣơng 1 của Luật đã định nghĩa rất rõ về hoạt động tín
ngƣỡng, lễ hội tín ngƣỡng và cơ sở tín ngƣỡng nhƣ sau:
- Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thờ cúng tổ tiên, các biểu tƣợng
linh thiêng; tƣởng niệm và tôn vinh ngƣời có công với đất nƣớc, với cộng

39
đồng; các lễ nghi dân gian tiêu biểu cho những giá trị lịch sử, văn hóa, đạo
đức xã hội [134; tr. 1].
- Lễ hội tín ngưỡng là hoạt động tín ngƣỡng tập thể đƣợc tổ chức theo
lễ nghi truyền thống nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của cộng đồng [134; tr.
1].
- Cơ sở tín ngưỡng là nơi thực hiện hoạt động tín ngƣỡng của cộng
đồng nhƣ đình, đền, miếu, nhà thờ dòng họ và những cơ sở tƣơng tự khác
[134; tr. 1].
Ngoài ra, trong phạm vi đề tài luận án, chúng tôi còn sử dụng một số
khái niệm liên quan về tín ngƣỡng nhƣ Thực hành tín ngƣỡng và sinh hoạt tín
ngƣỡng.
- Sinh hoạt tín ngưỡng là việc bày tỏ niềm tin tín ngƣỡng, thực hành
những nghi lễ liên quan đến tín ngƣỡng trong sinh hoạt tín ngƣỡng với mục
đích là thể hiện nhu cầu của đời sống tinh thần, đời sống tâm linh. Ngoài ra,
sinh hoạt tín ngƣỡng còn bao gồm những hoạt động liên quan đến tín ngƣỡng
của cá nhân hay của một nhóm ngƣời (cộng đồng). Những sinh hoạt này bị
quy định hoặc bị ràng buộc bởi tục lệ mà họ phải tuân theo [79; tr. 47].
Điển hình, trong các Hội quán ở Hội An, để thực hiện nghi lễ thƣờng
phải bầu ra một vị Chánh tế trong thực hiện nghi lễ, trong đó, vị Chánh tế này
phải đáp ứng đƣợc những yêu cầu nghiêm ngặt do cộng đồng ngƣời ở Hội An
tin theo tín ngƣỡng đặt ra nhƣ sau: Phải là nam có tuổi đời chững chạc (cao
tuổi); gắn bó lâu năm và có uy tín trong cộng đồng; gia đình hòa thuận, con
cháu hiếu thảo và đặc biệt trong năm đó gia đình của vị này không có tang
ma xảy ra, …
- Thực hành tín ngưỡng là thuật ngữ thƣờng sử dụng liên quan chủ yếu
đến những nghi thức, nghi lễ mà cá nhân hay nhóm ngƣời nào đó thực hiện
trong không gian thờ tự. Việc thực hiện nghi lễ của cá nhân hay nhóm ngƣời
thực hiện những nghi thức, nghi lễ thƣờng hoặc đôi khi đƣợc cộng đồng của
tín ngƣỡng đó lựa chọn theo quy định riêng của nơi thờ tự đó. Ví dụ nhƣ lựa

40
chọn dựa theo độ tuổi, hình dáng hay đạo đức. Tuy nhiên, việc thực hiện thực
hành tín ngƣỡng này thƣờng có sự tham gia của nhiều ngƣời, song không
phải ai cũng đƣợc cộng đồng lựa chọn. Chính vì vậy, việc thực hành tín
ngƣỡng thƣờng chú trọng về nghi thức tế lễ, …
* Hội quán, miếu, chùa
Khái niệm “chùa” đƣợc hiểu theo nghĩa chung nhất là cơ sở tôn giáo
phục vụ mục đích tôn giáo, đáp ứng nhu cầu tâm linh của con ngƣời. Ở đây,
chùa là cơ sở thờ tự chính của Phật giáo. Chùa ở Việt Nam nói chung, Hội
An nói riêng thƣờng có mặt ở rộng khắp, mật độ nhiều với quy mô lớn nhỏ
khác nhau, đa dạng các kiến trúc, dành cho tất cả mọi tầng lớp nhân dân trong
xã hội đều có thể đến thăm viếng, lễ bái, ...
Miếu là cơ sở tín ngƣỡng mang đậm tính đa thần dân gian với đối
tƣợng thờ cúng đa dạng, đáp ứng nhu cầu tâm linh của con ngƣời. Cũng nhƣ
chùa, miếu có chức năng là cơ sở thờ tự, xuất hiện rộng khắp trên địa bàn. Về
đối tƣợng thờ phụng: miếu thờ các nhân vật lịch sử, nhân vật truyền thuyết,...
thậm chí là những ngƣời vô danh nhƣng có ảnh hƣởng lớn đến đời sống tâm
linh của cộng đồng. Miếu của ngƣời Hoa thƣờng thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu,
Quan Thánh Đế Quân và nhiều vị nhiên thần, nhân thần khác. Miếu cũng
dành cho mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội đến phụng thờ, thăm viếng.
Hội quán là một mô hình đặc trƣng của ngƣời Hoa, mang sắc thái của
một xã hội thu nhỏ. Hội quán vừa đáp ứng nhu cầu tâm linh của ngƣời dân
địa phƣơng vừa phục vụ nhu cầu gắn kết cộng đồng xã hội. Hiện tồn tại 5
bang (phân theo nhóm tộc ngƣời - ngôn ngữ), do đó hội quán chính là nơi
liên lạc, sinh hoạt văn hóa của những ngƣời đồng hƣơng, đồng ngôn ngữ với
sự quy tụ tập trung, tổ chức bài bản, nền nếp. Khác với chùa, miếu, thì hội
quán chủ yếu tập trung ở những nơi nhiều ngƣời Hoa sinh sống.
Ở Hội An có khi cũng vẫn tồn tại những cách gọi mang tính chất
không phân định rõ các khái niệm chùa, miếu, hội quán. Ví nhƣ Hội quán
Triều Châu (còn gọi là chùa Triều Châu, chùa Âm Bổn, chùa Ông Bổn tọa lạc

41
ở số 157 Nguyễn Duy Hiệu), Hội quán Quỳnh Phủ (hội quán Hải Nam, chùa
Hải Nam, chùa Giải Oan tọa lạc ở số 10 Trần Phú),... hay miếu Quan Công,
tức Chùa Ông nằm ở trung tâm khu phố cổ, số 24 đƣờng Trần Phú. Đây là
công trình tâm linh của cộng đồng ngƣời Hoa ở Hội An, đƣợc ngƣời Minh
Hƣơng và ngƣời Việt khởi công xây dựng năm 1653.
Ngƣời Hoa ở Hội An nói riêng và cộng đồng ngƣời Hoa nói chung,
những hội quán là không gian văn hóa tâm linh mang tính quy tụ và cố kết
cộng đồng. Hội quán với các nghi lễ hiện tồn là môi trƣờng văn hóa tập trung
của ngƣời Hoa ở Hội An giúp cho những cƣ dân ở đây đƣợc giao lƣu, gắn kết
một cách sâu sắc.
Cùng với bang, hội, trong cộng đồng ngƣời Hoa còn liên kết bởi các
dòng họ, tổ chức thân tộc trên nguyên tắc cùng huyết thống. Trong môi
trƣờng di trú, tổ chức này phát triển thành hội những ngƣời cùng họ hàng
gồm cả ngƣời có quan hệ anh em gần cùng họ và ngƣời có quan hệ bà con xa
bên ngoại khác họ, thậm chí cả ngƣời không phải họ hàng nhƣng chấp nhận
quan hệ thân quen cũng gia nhập vào dòng họ. Sự đổi mới này cho phép hội
những ngƣời cùng họ hay gia tộc tăng nhanh về số thành viên và địa vị xã hội
của mình. Nếu so với bang thì tổ chức dòng họ khá biệt lập, khép kín vào
đẳng cấp nhiều hơn và nó phân chia rõ ràng về hệ thống các chi nhánh của
mỗi thân tộc. Ngƣời Hoa thƣờng sử dụng nhà thờ họ không chỉ để làm lễ thờ
cúng tổ tiên, kết hôn mà còn là địa điểm hội họp, bàn công việc làm ăn. Cùng
với sự phát triển của các mối quan hệ kinh tế và nghề nghiệp của ngƣời Hoa,
tổ chức dòng họ và bang đồng hƣơng của họ nhiều khi cũng hòa trộn vào
nhau, nhất là thời điểm ngƣời Hoa mới đến định cƣ ở vùng đất mới.
1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu
* Lý thuyết chức năng
Thuyết chức năng (functionalism) đƣợc đề xuất bởi nhà nhân học
ngƣời Anh gốc Ba Lan - Bronislaw Malinowski (1884-1942), đƣợc các nhà
xã hội học, nhân học, dân tộc học phát triển thêm. Ở đây, xã hội đƣợc xem

42
nhƣ một cơ thể sống có các chức năng riêng để tạo nên sự toàn vẹn, chúng có
mối quan hệ hữu cơ, liên quan chặt chẽ trong sự thống nhất. Do đó, khi
nghiên cứu về xã hội nói chung và về tín ngƣỡng nói riêng, cũng cần xem xét
nó nhƣ một đối tƣợng khách quan, có những mối liên hệ qua lại, các nhân tố
tạo thành trong một chỉnh thể thống nhất; bởi mỗi nền văn hóa của từng tộc
ngƣời là sự tổng hợp từ nhiều yếu tố sinh hoạt, tín ngƣỡng, phong tục, tập
quán, ... có chức năng riêng.
Theo Từ điển Nhân học, nghi lễ là những hành động nghi thức diễn ra
trong bối cảnh thờ cúng tôn giáo - ví dụ một đại lễ Thiên chúa giáo hay một
buổi hiến tế cho tổ tiên... Nhiều nhà nhân học cho rằng, nghi lễ có bốn yếu tố
chính: là một hoạt động xã hội lặp đi lặp lại, gồm một loạt các động tác có
tính chất biểu tƣợng dƣới dạng ca hát, múa, lời nói, điệu bộ...; tách riêng khỏi
hoạt động xã hội thƣờng ngày; theo đúng một mô hình nhất định; liên quan
đến một số tƣ tƣởng về bản chất cái xấu, cái ác, về quan hệ giữa con ngƣời và
thế giới thần linh [137; tr. 222-223]. Chính bởi thế, tôn giáo, tín ngƣỡng tuy
biến đổi theo nhiều chiều hƣớng, nhƣng nó vẫn có những chức năng xã hội
cần thiết mà các nhân tố, tổ chức xã hội khác không thể thay thế đƣợc. Có thể
kể một số chức năng là: chức năng thế giới quan; chức năng bù đắp nhờ sự
hƣ ảo; chức năng điều chỉnh hành vi, ứng xử của con ngƣời; chức năng liên
kết, phân hoá; chức năng giao tiếp; chức năng sản sinh, tích hợp và chuyển
giao văn hoá...
Đặt trong mối quan hệ với xã hội văn hóa mà nghi lễ nảy sinh, những ý
nghĩa biểu tƣợng hay hành động nghi thức bao giờ cũng có những chức năng
quan trọng riêng biệt. Tín ngƣỡng tác động đến nhiều mặt đời sống xã hội
trên cả hai bình diện, tích cực và tiêu cực, và đƣợc tiếp cận từ nhiều góc độ
khác nhau; trong đó có thể kể đến hai mặt song trùng; thứ nhất luôn góp phần
sáng tạo các giá trị văn hoá nghệ thuật, phản ánh khát vọng của con ngƣời,
hƣớng con ngƣời tới cái chân thiện mỹ; nhƣng cũng có khi tạo ra những hệ lụy
khó lƣờng. Khi bàn về chức năng của nghi lễ, Đặng Nghiêm Vạn cho rằng,

43
“nghi lễ tôn giáo đƣợc thực hành thƣờng gắn liền với một thực thể siêu linh
hay một thế giới vô hình nào đó liên quan đến niềm tin tôn giáo hoặc do tôn
giáo quy định và thƣờng biểu hiện chức năng tâm lý trong đời sống của tín
đồ. Nghi lễ có thể dùng để giải tỏa những nỗi bất an của con ngƣời ở cuộc
sống trần tục, cũng có thể đƣa con ngƣời đến gần hơn với thế lực siêu nhiên
mà họ tin tƣởng” [187; tr. 130].
Tiếp cận các quan điểm lý thuyết về chức năng và vai trò của tôn giáo,
tín 55ngƣỡng để thực hiện đề tài nghiên cứu cụ thể về tín ngƣỡng của ngƣời
Hoa ở thành phố Hội An, chúng tôi mong muốn có thể phân tích làm rõ đƣợc
những giá trị về kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trƣờng của tín ngƣỡng đối với
đời sống thực tiễn của ngƣời ngƣời Hoa tại địa bàn nghiên cứu. Luận án cố
gắng chỉ ra đƣợc một cách sâu sắc hơn, đề xuất những giải pháp cụ thể hơn
nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị của tín ngƣỡng; khắc phục những hạn
chế bất cập trong bối cảnh giao lƣu, hội nhập quốc tế giai đoạn hiện nay.
* Lý thuyết giao lưu tiếp biến văn hóa (Acculturation)
Vốn là khái niệm do các nhà nhân học Pháp và phƣơng Tây đƣa ra vào
cuối thế kỷ XIX, giao lƣu tiếp biến chỉ sự tiếp xúc trực tiếp, lâu dài giữa hai
hoặc hơn hai nền văn hóa khác, với hệ quả là thay đổi một số loại hình văn
hóa của một hoặc cả hai nền văn hóa đó, làm tăng đặc tính của nền văn hóa
này trong nền văn hóa kia. Theo các nhà nhân học Mỹ, giao lƣu tiếp biến văn
hóa là quá trình trong đó một nền văn hóa thích nghi, ảnh hƣởng một nền văn
hóa khác bằng vay mƣợn nhiều nét đặc trƣng của nền văn hóa ấy. Tiếp biến
văn hóa gồm nhiều quá trình nhƣ truyền bá, thích nghi, phản ứng lại.
Sự giao lƣu tiếp biến văn hóa cũng là một cơ chế khác của biến đổi văn
hóa, đó là sự trao đổi những đặc tính văn hóa nảy sinh khi các cộng đồng tiếp
xúc trực diện và liên tục. Theo Herskovits, các hình mẫu văn hóa nguyên
thủy của một cộng đồng hoặc hai cộng đồng có thể bị biến đổi qua quá trình
tiếp xúc này. Sự giao lƣu và tiếp biến văn hóa không có nghĩa là các nền văn

44
hóa đó sẽ bị đồng hóa hoàn toàn mà chỉ là biến đổi các thành tố của nền văn
hóa đó cho phù hợp, các nền văn hóa vẫn giữ đƣợc tính riêng của mình.
Con ngƣời là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, qua các quan hệ này với
quá trình tồn tại, loài ngƣời đã tạo nên các giá trị văn hóa. Vì vậy, không thể có
một nền văn hóa tiên tiến khi nó phát triển trong một nơi khép kín, tách rời tiếp
xúc với các nền văn hóa khác. Giao lƣu văn hóa rất ý nghĩa cho sự phát triển
một nền văn hóa, nhất là trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập hiện nay.
Từ thuyết giao lƣu và tiếp biến văn hóa, chúng tôi có thể sử dụng
những yếu tố hợp lý của nó cho nghiên cứu của mình, nhất là quan điểm: các
thành tố của những nền văn hóa tiếp xúc với nhau có thể biến đổi, song mỗi
nền văn hóa vẫn giữ đƣợc bản sắc và làm giàu thêm cho nền văn hóa của
mình. Qua lý thuyết này cho thấy, giao lƣu và tiếp biến trong văn hóa là quy
luật tất yếu mà mỗi một khu vực, quốc gia - dân tộc, tộc ngƣời, thậm chí từng
nhóm địa phƣơng tộc ngƣời không thể không vận hành theo.
Ngƣời Hoa ở Việt Nam và tại thành phố Hội An cũng chịu tác động
của quy luật đó, nhất là do các dân tộc ở nƣớc ta sống xen kẽ nhau, có quan
hệ tộc ngƣời trên các phƣơng diện. Do đó, lý thuyết giao lƣu tiếp biến văn
hóa giúp tác giả có cơ sở xem xét đối tƣợng trong trạng thái động; nhận diện,
phân tích những yếu tố văn hóa của ngƣời Hoa đã và đang chịu ảnh hƣởng,
tiếp thu qua giao lƣu và tiếp biến có tác dụng bổ sung, làm phong phú văn
hóa tín ngƣỡng của cộng đồng ngƣời Hoa ở thành phố Hội An. Đồng thời, từ
đó xác định đƣợc nguyên nhân và tác động của sự biến đổi đến đời sống tâm
linh và việc bảo lƣu các giá trị văn hóa tín ngƣỡng của ngƣời Hoa,...
1.3. Khái quát về thành phố Hội An và ngƣời Hoa ở Hội An
1.3.1. Khái quát về thành phố Hội An
Hội An là tên gọi đã có từ lâu trong lịch sử nhƣng khó xác định thời
điểm xuất hiện. Làng Minh Hƣơng đƣợc thành lập vào thời Chúa Nguyễn
Phúc Lan, bên cạnh làng Hội An đã có từ trƣớc. Căn cứ văn bản của dinh trấn
Quảng Nam thời Minh Mạng, Hội An gồm 6 làng: Minh Hƣơng, Hội An, Cổ

45
Trai, Đông An, Diêm Hộ và Hoa Phô, trong đó Hội An là làng tạo nên quần
cƣ Hội An cổ. Ngƣời phƣơng Tây gọi Hội An là Faifo, theo thuyết khác thì
sông Thu Bồn có tên cũ là sông Hoài nên Hội An còn đƣợc gọi là Hoài Phô,
sau thành Phai Phố, rồi là Faifo. Nhiều giả thuyết cũng cho rằng sơ khai là
nói đến vùng sông Hoài (Hoài giang, Hoài phố) đến khi ổn định lâu dài mới
đặt cái tên Hội An phố - nghĩa là những điều an lành hội tụ về đây.
* Đặc điểm tự nhiên
Theo Cổng thông tin điện tử thành phố Hội An và số liệu từ Trung tâm
quản lý bảo tồn di sản văn hóa Hội An, thành phố Hội An thuộc tỉnh Quảng
Nam, có diện tích tự nhiên là 61,71 km², nằm bên bờ Bắc hạ lƣu sông Thu
Bồn, ở vị trí địa lý 15015‟26” đến 15055‟15” vĩ độ Bắc 10807‟08” đến
108023‟10” kinh độ Đông; cách quốc lộ 1A khoảng 9 km về phía Đông, cách
thành phố Đà Nẵng 25 km về phía Đông Nam, cách thành phố Tam Kỳ
khoảng 50 km về phía Đông Bắc. Với vị trí này, Hội An có điều kiện thông
thƣơng với các địa phƣơng khác của tỉnh Quảng Nam. Từ Hội An xuôi theo
các con sông và tuyến đƣờng quốc lộ để ra Huế, vào Quảng Ngãi, Quy Nhơn.
Những địa bàn này thuận lợi về tự nhiên do đó góp phần hỗ trợ Hội An trong
quá trình phát triển. Phía Đông Hội An giáp với biển Đông, có Cửa Đại rất
thuận lợi cho thƣơng thuyền ra vào. Đây chính là điều kiện để Hội An sớm có
thể quan hệ thông thƣơng với bên ngoài (Xem thêm Phụ lục 3, mục 1).
Do nằm ở hạ lƣu sông Thu Bồn, Hội An có hệ sông ngòi, đầm, bàu dày
đặc tạo thành hệ thống giao thông nội vùng, cung cấp nƣớc, thủy sản có giá
trị. Hơn nữa, sông Cổ Cò cũng đóng vai trò trong lịch sử phát triển Hội An.
Từ sông Cổ Cò có thể xuôi ra Đà Nẵng, nối liền Đà Nẵng với Hội An, góp
phần vào sự phát triển thịnh đạt của Hội An. Song, vào cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX, do bồi đắp nên đi lại giao thông trên sông Cổ Cò gặp khó khăn và
do khi thông tuyến đƣờng sắt Đà Nẵng - Faifo, vì thế vai trò của sông Cổ Cò
cũng nhƣ Hội An ngày càng suy giảm, nhƣờng chỗ cho Đà Nẵng.

46
Về khí hậu, theo các tài liệu, Hội An có hai mùa: mùa khô, mùa mƣa.
Nhiệt độ trung bình của mùa đông khoảng 23 - 240 C, còn các tháng mùa hạ
là khoảng 280 - 300C. Trong năm số giờ nắng trung bình là 2.158 giờ. Độ ẩm
không khí mùa đông 82 - 84%, mùa hạ giảm còn 75 - 78%. Lƣợng mƣa trung
bình hàng năm 2.069 mm, phần lớn tập trung vào mùa đông, trung bình mỗi
năm có 120 - 140 ngày mƣa, nên Hội An thƣờng phải chịu cảnh lụt lội, ngập
nƣớc gây ảnh hƣởng đến sản xuất, sinh hoạt của nhân dân.
Đất đai ở Hội An rất đa dạng, gồm đủ các loại hình sông, biển, đầm
lầy, hồ, đất phần lớn thƣờng bị chua, mặn, bạc màu,... nhƣng chủ yếu vẫn là
địa hình có nguồn gốc sông và biển. Tuy không có những đồng bằng rộng lớn
nhƣ các vùng khác trong tỉnh, song ở đây lại có một số vùng đất bồi rất màu
mỡ, phù hợp với nhiều loại cây lƣơng thực và rau màu. Hơn nữa, do đất đai
bị chia nhỏ thành nhiều loại ở những khu vực không tập trung đã khiến cho
nông nghiệp ở Hội An khó có thể tổ chức trồng trọt quy mô lớn với một loại
cây nhất định, nhƣng bù lại cây trồng ở đây lại có sự phong phú về chủng loại
và đa dạng các hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Hội An là thành phố vào tháng 1/2008 với toàn bộ diện tích tự nhiên,
dân số, các đơn vị hành chính thuộc thị xã Hội An, gồm 6.146,88 ha đất,
98.599 ngƣời (theo số liệu thống kê năm 2019). Theo Kết quả toàn bộ Tổng
điều tra dân số và nhà ở của Tổng cục Thống kê năm 2019, Hội An có 13
phƣờng với tổng số dân là 98.599 ngƣời (bao gồm Thành thị 72.898 ngƣời và
Nông thôn 25.701 ngƣời). Qua báo cáo của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành
phố Hội An, đến tháng 04/2019, ngƣời Hoa ở đây có 398 hộ, 1.477 khẩu
(chiếm 0,4% dân số Hội An), sinh sống ở hầu hết các xã phƣờng, đặc biệt là
phƣờng Minh An. Sau ngƣời Kinh, ngƣời Hoa ở Hội An có dân số đứng thứ
hai, góp phần phát triển thƣơng cảng Hội An, đóng vai trò lớn cho việc hình
thành bản sắc văn hóa cộng đồng dân cƣ Hội An trong lịch sử.
Bảng 1.1: Bảng dân số theo giới tính của người Hoa ở các xã, phường
thuộc thành phố Hội An (tính đến ngày 1/4/2019)

47
STT Đơn vị Tổng số Nam Nữ

1 Phƣờng Minh An 259 143 116


2 Phƣờng Tân An 48 28 20
3 Phƣờng Cẩm Phô 41 22 19
4 Phƣờng Thanh Hà 3 1 2
5 Phƣờng Sơn Phong 6 2 4
6 Phƣờng Cẩm Châu 11 8 3
7 Phƣờng Cửa Đại 1 0 1
8 Phƣờng Cẩm An 1 0 1
9 Phƣờng Cẩm Nam 11 8 3
10 Xã Cẩm Hà 17 9 8

(Nguồn: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hội An)


Có thể nói, tài nguyên thiên nhiên và nhân văn của phố cổ Hội An là
điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, du lịch của địa phƣơng.
* Đặc điểm kinh tế
Hội An là vùng đất khá thuận lợi cho gieo trồng nên ban đầu, những cƣ
dân Hội An đã phát triển kinh tế nông nghiệp kết hợp các ngành thủ công,
thƣơng nghiệp,... Đó là ngƣời Chăm, ngƣời Việt khi đến sống ở Hội An đã
làm ruộng trồng lúa, đặc biệt là ngƣời Việt đã trồng lúa hai vụ lúa/năm. Họ
đầu tƣ làm thủy lợi, xây dựng hệ thống các kênh, mƣơng dẫn nƣớc từ sông
Thu Bồn, các đầm, kênh rạch để thau chua, rửa mặn và tƣới tiêu phục vụ cho
sản xuất nông nghiệp. Ngoài cây lúa là sản phẩm chủ đạo, họ còn trồng khoai
lang, các cây rau màu,... mà một trong những địa chỉ nổi tiếng về trồng rau ở
đây là làng Trà Quế. Họ cũng phát triển chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm
nhƣ vịt, lợn, trâu, bò và các hoạt động khai thác thủy hải sản, hình thành nên
các làng chài nổi tiếng nhƣ An Bàng, Phƣớc Trạch, Thanh Châu, Thanh Hà.
Từ đó, đã hình thành ở Hội An một nền nông nghiệp toàn diện.

48
Bên cạnh nghề nông là chủ đạo, cƣ dân Hội An còn phát triển các nghề
thủ công và đã hình thành nhiều nghề nổi tiếng nhƣ: đan lát, làm nhà tre ở
Sơn Mỹ, Sơn Phô, Thanh Hà; dệt vải, dệt chiếu, thêu ở Cẩm Phô, Kim Bồng,
Thanh Châu; nghề gƣơng lƣợc ở Thanh Hà; nghề thuốc Bắc, làm vàng mã,
kim hoàn ở làng Minh Hƣơng,... Trong đó, hai làng nghề trở thành đặc trƣng
của Hội An: làng gốm Thanh Hà và làng mộc Kim Bồng. Các nghề thủ công
vừa trở thành đặc trƣng của Hội An, vừa đóng góp vào phát triển du lịch,
kinh tế, xã hội. Cụ thể, làng mộc Kim Bồng xã Cẩm Kim, mỗi năm đón hàng
trăm lƣợt khách quốc tế ghé thăm rồi mua mang về nƣớc những vật lƣu niệm
đồ mộc mỹ nghệ tinh xảo; làng gốm Thanh Hà có từ thế kỷ XV-XVI là nơi
nhiều khách nƣớc ngoài hoặc những ngƣời mê gốm sứ thƣờng ghé qua. Hơn
nữa, làng rau du lịch Trà Quế xã Cẩm Hà đã có hàng trăm năm tuổi, là điểm
hấp dẫn du khách đến tham quan, thử làm nông dân trồng rau.
Ngoài ra, trong các thế kỷ XVI-XVIII, do chính sách của Chúa Nguyễn
chú trọng về kinh tế thƣơng mại, nên Hội An nhanh chóng phát triển, trở
thành trung tâm buôn bán của xứ Đàng Trong, là thƣơng cảng quốc tế trên
biển. Tất cả hàng hóa từ các nơi tập trung về Hội An và từ đây đem ra nƣớc
ngoài. Các khu phố ngƣời Hoa, ngƣời Nhật theo đó đƣợc hình thành nhƣ là
một minh chứng cho phát triển thịnh đạt của nền thƣơng nghiệp nơi đây.
Kể từ năm 2008, khi trở thành thành phố trực thuộc tỉnh Quảng Nam,
Hội An đƣợc định hƣớng trở thành một thành phố “văn hóa - sinh thái - du
lịch”, là một trung tâm kinh tế - xã hội quan trọng của tỉnh Quảng Nam.
* Đặc điểm văn hóa
Thành phố Hội An với vị trí địa lý nằm bên hạ lƣu sông Thu Bồn, cách
thành phố Đà Nẵng 30km. Đây là thành phố từng là một thƣơng cảng quốc tế
sầm uất, là trung tâm buôn bán nối liền ba miền Bắc, Trung, Nam. Sự tồn tại
của trung tâm buôn bán đã tạo điều kiện cho Hội An hình thành nên những
công trình kiến trúc và giá trị văn hóa của phố cổ với sự hội tụ của nhiều nền
văn hóa khác nhau. Những công trình kiến trúc, tôn giáo, tín ngƣỡng và di
sản văn hóa tại Hội An là vật chứng sống động nhất cho quá trình hình thành,

49
phát triển và cả sự suy tàn của đô thị cổ xƣa. Mặc dù có sự suy tàn của đô thị
cổ, song Hội An vẫn còn tồn tại các hội quán, đền miếu, đây là những công
trình tiêu biểu cho dấu tích của cƣ dân nƣớc ngoài đến Hội An buôn bán và
sinh sống. Đặc biệt, ngƣời Hoa đến Hội An buôn bán sinh sống và buôn bán
khoảng hơn 2 thế kỷ, đã để lại nhiều công trình kiến trúc, nhà cổ tiêu biểu
nhƣ: Hội quán Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu,… đây chính là nơi lƣu
giữ nhiều giá trị văn hóa tiêu biểu trong đó có hoạt động tín ngƣỡng, thờ
cúng. Hơn nữa, đặc điểm văn hóa của thành phố Hội An còn nằm ở nền văn
hóa phi vật thể rất phong phú và đa dạng. Trải qua nhiều sự biến động của
thời cuộc, nét văn hóa ở thành phố Hội An vẫn còn giữ nguyên nét đẹp ban
đầu với sự tồn tại của những phong tục tập quán, thói quen sinh hoạt, tín
ngƣỡng, nghệ thuật dân gian, lễ hội văn hóa vẫn đang đƣợc lƣu giữ, bảo tồn
và phát triển. Hiện nay, ở Hội An vẫn còn nhiều loại hình văn hóa đặc sắc
nhƣ hát bài chòi, thả đèn lồng trên sông Hoài lung linh huyền ảo,… Cùng với
đó là những gian hàng lƣu niệm, ăn uống,… thu hút đông đảo nhiều ngƣời.
Ngoài ra, trong sự phát triển của cuộc sống hiện đại, những làng nghề truyền
thống vẫn đang đƣợc ngƣời dân gìn giữ và phát triển. Trong đó, làng mộc
Kim Bồng, làng rau Trà Quế, làng gốm Thanh Hà, những ngôi làng này vốn
đã đƣợc hình thành lâu đời, những công việc tại những nơi này đã gắn liền
với biết bao nhiêu thế hệ, nuôi sống biết bao nhiêu con ngƣời và là niềm tự
hào của mỗi ngƣời dân nơi đây. Do đó, ngày nay những nơi này chính là nơi
lƣu giữ những giá trị văn hóa của phố cổ Hội An và thu hút khách du lịch đến
thăm quan để hiểu hơn về những ngành nghề truyền thống đã có từ hàng thế
kỷ của dân tộc.
1.3.2. Khái quát về người Hoa ở thành phố Hội An
1.3.2.1. Tộc danh người Hoa ở Việt Nam và lịch sử hình thành, phát
triển cộng đồng cư dân người Hoa
* Tộc danh người Hoa
Theo nhiều nghiên cứu hiện có, khi nói đến sự có mặt của ngƣời Hoa ở
Việt Nam, các tài liệu thƣờng chỉ ra giai đoạn cuối thế kỷ XVII với cuộc di
50
dân lớn khi triều đình nhà Minh bị chính quyền Mãn Thanh lật đổ, những
ngƣời Hoa trung thành đã rời bỏ quê hƣơng đến các quốc gia Đông Nam Á,
trong đó có Việt Nam. Song, sự có mặt của ngƣời Hoa tại Việt Nam có thể
tính từ thế kỷ II trƣớc Công nguyên, với sự kiện Âu Lạc bị Triệu Đà thôn tính
và chia nƣớc ta thành các quận, huyện [96; tr. 137]. Tuy thế, về cơ bản những
giá trị văn hóa tín ngƣỡng quan trọng nhất của ngƣời Hoa hiện tại là kết quả
trực tiếp những đợt di cƣ vào Việt Nam từ thế kỷ XVII đến nay. Theo một số
nhà nghiên cứu, “có thể nói việc di trú của ngƣời Hoa qua Việt Nam từ thế kỷ
XVII trở lại là bộ phận quan trọng nhất trong lịch sử hình thành và phát triển
của cộng đồng ngƣời Hoa ở Việt Nam” [182; tr. 14].
Quá trình định cƣ của ngƣời Hoa ở Việt Nam đã kéo dài nhiều thế kỷ,
do đó tộc danh “ngƣời Hoa” là từ phổ thông mà Việt Nam hay dùng để chỉ
ngƣời Trung Hoa di cƣ sang. Theo thời gian, ngƣời Trung Hoa qua lại làm
ăn, sinh sống cộng cƣ cùng ngƣời Việt, họ tự gọi mình bằng nhiều danh
xƣng, cũng nhƣ ngƣời Việt gọi họ (ngƣời Hoa, ngƣời Tàu, ngƣời Khách,
ngƣời Hán,...). Theo thói quen của nhiều địa phƣơng, những ngƣời di cƣ từ
Trung Hoa sang thì gọi theo tên các triều đại phong kiến thống trị: ngƣời
Hán, ngƣời Tùy, ngƣời Thanh,... song chỉ phù hợp với từng thời điểm lịch sử
tƣơng ứng, không đại diện cho mọi thời kỳ lịch sử. Cách gọi “ngƣời Hoa” là
biểu trƣng một nền văn hóa chứ không có ý nghĩa về tộc ngƣời, bởi trong đất
nƣớc Trung Hoa không có tộc ngƣời mang tên là “Hoa”, từ này chỉ xuất hiện
trong sử sách Trung Quốc với hàm nghĩa văn hóa và văn minh.
Sau trào lƣu duy tân và cách mạng dân chủ, trong ngôn ngữ chính thức
hoặc phi chính thức của ngƣời Trung Hoa xuất hiện những tên gọi mới để chỉ
tên nƣớc và tên ngƣời dân nƣớc ấy thay cho các tên gọi truyền thống của các
triều đại phong kiến xƣa. Những ngƣời trí thức ở nƣớc ngoài thƣờng dùng
chữ “Hoa” để chỉ ngƣời dân Trung Quốc thay cho ngƣời Thanh ngày càng
phổ biến. Sau đời Tống và Nguyên, các cuộc chiến tranh xảy ra thì ngƣời
Trung Hoa di cƣ ra nƣớc ngoài càng nhiều, ngoài tên gọi quen thuộc là

51
Đƣờng nhân, họ còn đƣợc gọi là ngƣời Trung Hoa hay ngƣời Hoa. Cuối đời
Thanh còn có cách gọi là Hoa dân, Hoa công,... Năm 1878, trong tờ trình của
Trịnh Quan Ứng gửi cho Lý Hồng Chƣơng, từ “Hoa kiều” lần đầu tiên đƣợc
sử dụng, sau đó trong tờ tấu của Bộ Ngoại vụ triều Thanh về việc thiết lập
lãnh sự quán tại nƣớc ngoài cũng dùng cách gọi Hoa kiều. Do vậy, cách gọi
này đã có hơn một thế kỷ xuất hiện và chính thức đƣợc thừa nhận [53; tr. 30].
Nhóm ngƣời Hoa đến Việt Nam vào khoảng thế kỷ XVII-XVIII đƣợc gọi là
“ngƣời Minh Hƣơng” (chỉ những ngƣời Hoa thuộc chính quyền nhà Minh,
sau khi bị ngƣời Mãn Thanh thống nhất và cai quản Trung Hoa thì họ rời bỏ
quê hƣơng). Trong công trình Người Hoa Việt Nam và Đông Nam Á: hình
ảnh hôm qua và vị thế hôm nay, Châu Thị Hải xác định 5 tiêu chí để định
danh “ngƣời Hoa”: (1) Có nguồn gốc Hán hoặc đã bị Hán hóa; (2) Sống ổn
định và thƣờng xuyên ngoài lãnh thổ Trung Hoa; (3) Đã nhập quốc tịch và trở
thành công dân của các nƣớc sở tại; (4) Vẫn còn bảo lƣu các đặc trƣng văn
hóa Trung Hoa truyền thống; (5) Vẫn tự nhận mình là ngƣời Hoa [53].
Từ khái niệm Hoa kiều đến cách gọi ngƣời Hoa cũng trải qua biến đổi
lâu dài, theo từng làn sóng di cƣ. Ở Việt Nam, nhiều ý kiến thống nhất cách
gọi “ngƣời Hoa” là chỉ những ngƣời di cƣ từ nƣớc Trung Hoa, mang sắc thái
văn hóa Trung Hoa truyền thống. Về nghĩa chung nhất, đó là những ngƣời di
cƣ từ đất nƣớc Trung Hoa đến, con cháu họ cũng sinh ra và lớn lên ở những
vùng đất này, họ đã mang quốc tịch và trở thành công dân của đất nƣớc sở tại
nhƣng vẫn lƣu giữ những giá trị văn hóa Trung Hoa truyền thống nhƣ chữ
viết, tiếng nói, phong tục tập quán và luôn tự nhận mình là ngƣời Hoa.
* Lịch sử hình thành, phát triển cộng đồng cư dân người Hoa ở Hội An
Vấn đề di dân là một hiện tƣợng phổ biến ở nhiều nƣớc trên thế giới. Ở
Việt Nam cũng vậy, di dân của ngƣời Trung Hoa vào nƣớc ta diễn ra khá
mạnh và thƣờng xuyên trong thời gian khá dài, từ nhiều thế kỉ trƣớc, đặc biệt
là vào các thời điểm mà ở Trung Quốc có các biến động chính trị.

52
Theo ông Phạm Hoàng Hải tác giả cuốn Người bạn đường du lịch văn
hóa Hội An [54], việc hình thành cộng đồng ngƣời Hoa ở Hội An xuất phát từ
nhiều khía cạnh. Từ thế kỉ XV, triều đình nhà Minh ở Trung Quốc thực hiện
chính sách đóng cửa hà khắc nhằm kiểm soát mọi hoạt động thƣơng mại đối
ngoại và khống chế vùng biển Nam Trung Hoa. Trong khi, các cƣờng quốc
châu Âu đang phát triển rực rỡ và họ háo hức tìm đến vùng đất Châu Á. Vì
những thuận lợi nhƣ vậy mà nhà Minh buộc phải mở cửa với phƣơng Tây
nhƣng vẫn cấm đoán buôn bán với Nhật Bản. Do đó, những thƣơng nhân
ngƣời Hoa, ngƣời Nhật đã lặng lẽ tìm những địa điểm ở vùng biển Đông
Nam Á, nhất là dọc bờ biển Việt Nam để vừa buôn bán với nhau, vừa thu
mua lâm thổ sản và buôn bán với Việt Nam, nên vùng này xuất hiện rất nhiều
thƣơng cảng. Đây cũng là thời kỳ các thế lực phong kiến Việt Nam đang tìm
cách phát triển kinh tế, nên tạo mọi ƣu đãi cho buôn bán, giao thƣơng của các
nƣớc khác với Việt Nam. Thời kỳ đó, Hội An đƣợc cho là một khu vực có vị
trí địa lý và giao thông thuận lợi, vì thế đã nhanh chóng trở thành “đặc khu
kinh tế” của khu vực Đông Nam Á và là một đô thị sầm uất.
Việc các thƣơng nhân Trung Quốc đến với Hội An là vì lý do kinh tế.
Bởi Hội An có rất nhiều mặt hàng nhƣ muối, vàng, quế,... đều là những hàng
hóa mà ngƣời Trung Quốc, đặc biệt là các tỉnh khu vực phía Nam rất cần.
Khoảng thời gian đầu họ trở về quê hƣơng chứ không ở lại định cƣ lập phố
xá, nhƣng từ giữa thế kỉ XVI thì hoạt động di cƣ của ngƣời Hoa vào Việt
Nam bắt đầu rầm rộ hơn. Họ đã lập phố, xây nhà và lấy vợ Việt Nam. Đây là
đợt sóng di cƣ đầu tiên của ngƣời Hoa ở Việt Nam [47; tr. 153-154].
Làn sóng di cƣ thứ hai của cƣ dân Trung Hoa đến Hội An xuất phát từ
hoàn cảnh kinh tế và biến động chính trị vào đầu thế kỉ XVII mà Hội An là
một trong các địa điểm chính. Đó là thời điểm nhà Minh suy tàn, loạn lạc,
khởi nghĩa xảy ra khắp nơi, thế lực phong kiến Mãn Thanh đã tràn xuống
xâm chiếm. Một bộ phận ngƣời Hoa đã dấy lên phong trào “Phản Thanh
Phục Minh” mà đứng đầu là 6 vị Lục tánh Vƣơng gia dƣới triều Mãn Thanh

53
nhƣng không thành. Các quan lại, thần dân của triều Minh phải rời bỏ đất
nƣớc để tránh sự đàn áp của nhà Thanh, họ đã chọn Hội An là nơi cƣ trú lý
tƣởng. Hơn nữa, các chúa Nguyễn đã rất cởi mở, đƣa ra những quy chế để thành
lập một kiểu tổ chức hành chính dân sự đặc biệt vừa để quản lý vừa tạo điều
kiện cho những ngƣời Hoa này định cƣ, hòa nhập vào cuộc sống địa phƣơng.
Những yếu tố này đã thúc đẩy sự hình thành tổ chức Minh Hƣơng xã - cộng
đồng ngƣời Hoa đầu tiên ở Hội An vào nửa sau thế kỷ XVII [54; tr. 155].
Sau những làn sóng di cƣ trên, còn có các đợt di cƣ khác của ngƣời
Trung Hoa đến Việt Nam và đến Hội An trong các thế kỷ tiếp theo, mà hầu
hết là vì lý do chính trị. Những đợt di cƣ mạnh nhất vào thời gian này là các
năm: năm 1715 có đợt di dân ào ạt của ngƣời Minh dƣới sự chỉ huy của Mạc
Cửu; năm 1840 có đợt di dân sau thất bại bởi chiến tranh nha phiến của nhà Thanh;
sau phong trào Thái Bình Thiên Quốc thất bại, có thêm đợt di dân của ngƣời
Hoa vào Hội An vào năm 1851; cuộc di dân năm 1911 của ngƣời Hoa vào
Hội An sau Cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc [54; tr.156].
Trong cuốn sách Cư dân Faifo - Hội An trong lịch sử, tác giả Nguyễn
Chí Trung (2010) có những lập luận logic về việc di dân của ngƣời Trung
Hoa đến Hội An. Với những điều kiện thuận lợi của Hội An, từ cuối thế kỉ
XVI nhiều thƣơng nhân Trung Quốc đã đến xứ Quảng - Đàng Trong và tập
trung chủ yếu ở Hội An để trao đổi buôn bán. Mặt khác, do chế độ gió mùa,
thƣơng nhân Trung Hoa phải “lƣu đông”, lấy vợ Việt làm cơ sở lƣu trú, buôn
bán lâu dài và đƣợc phép của các chúa Nguyễn - Đàng Trong nên họ đã tụ cƣ,
lập phố. Nhƣ vậy, một tổ chức xã hội của cộng đồng ngƣời Hoa đầu tiên
đƣợc hình thành ở Hội An vào đầu thế kỉ XVII xuất phát từ hoạt động thƣơng
nghiệp. Cũng đầu thế kỉ XVII, khi triều đình nhà Minh suy tàn, lũng đoạn,
phong trào nông dân diễn ra khắp nơi, nên thƣơng nhân, thợ thủ công và cả
nông dân Trung Quốc ồ ạt đi tìm con đƣờng “tha phƣơng cầu thực” chủ yếu ở
phƣơng Nam, trong đó Hội An là một trong những lựa chọn của họ (do nơi
đây vốn dĩ đã có ngƣời Hoa cƣ trú). Sau đó, triều đình nhà Minh thất bại

54
trƣớc sự xâm chiếm của Mãn Thanh nên một bộ phận lớn ngƣời nhà Minh ồ
ạt di cƣ xuống phƣơng Nam và họ đã dừng chân ở Hội An. Đƣợc sự cho phép
của chúa Nguyễn: cho tập hợp, lập làng, cƣ trú ổn định nhƣ những làng xã -
thần dân của chúa Nguyễn Đàng Trong đã hình thành nên tổ chức Minh
Hƣơng xã ở Hội An vào khoảng giữa thế kỉ XVII [173].
Nhƣ vậy, những cuộc di dân ngƣời Trung Quốc do hoạt động thƣơng
mại ở Hội An từ những năm thế kỉ XVI và sau này, rồi qua quá trình sinh
sống lâu dài, sinh con đẻ cái, giao thoa văn hóa, đến nay những ngƣời con
cháu của họ đã trở thành nhóm ngƣời Hoa sinh sống ở Hội An hiện nay.
1.3.2.2. Đặc điểm cộng đồng cư dân người Hoa ở Hội An
Hội An là nơi lƣu giữ nhiều nền văn hóa, nhất là văn hóa Trung Hoa.
Văn hóa Trung Hoa ảnh hƣởng đến Hội An trên hai khía cạnh: vật thể và phi
vật thể. Văn hóa vật thể của ngƣời Hoa ở đây đƣợc chính quyền và ngƣời
Hoa lƣu giữ cẩn thận. Tiêu biểu là các công trình kiến trúc, các hội quán
mang phong cách Trung Hoa. Hội quán đƣợc xem là sản phẩm sinh hoạt
cộng đồng của những ngƣời Hoa xa quê, là nơi để những ngƣời Hoa tha
hƣơng gặp gỡ, trao đổi làm ăn, gửi gắm tình cảm,... Hội An hiện có 5 hội
quán tƣơng ứng 5 bộ phận ngƣời Hoa sinh sống, gồm các bang Triều Châu,
Phúc Kiến, Quảng Đông, Hải Nam. Riêng bang Gia Ứng sinh hoạt tại Hội
quán chung của 5 bang (Hội quán Ngũ bang). Đây cũng là nơi thể hiện rõ nét
đời sống tín ngƣỡng của ngƣời Hoa. Mỗi hội quán mang một nét riêng về
kiến trúc, đối tƣợng thờ cúng, di vật, niên đại,... mang đặc trƣng cho từng
cộng đồng ngƣời Hoa ở đây. Đến nay, các hội quán đã đƣợc trùng tu nhiều
lần nhƣng về cơ bản bộ khung gỗ chính của các hội quán vẫn giữ nguyên gốc.
Lúc dựng các hội quán, ngƣời Hoa đem vật liệu từ quê gốc, đƣa lên tàu vận
chuyển đến Hội An và ráp lại. Các hội quán này đều phân bổ trên dãy số chẵn
của đƣờng Trần Phú, riêng Hội quán Triều Châu nằm trên đƣờng Nguyễn
Duy Hiệu, nhƣng vẫn tuân thủ nguyên tắc mặt quay ra sông Thu Bồn.

55
 Hội quán Trung Hoa (Dương Thương Hội quán, Hội Quán Ngũ
Bang, Chùa Bà, Chùa Ngũ Bang, trường Lễ Nghĩa - số 64 Trần Phú): Tọa lạc
tại trung tâm khu phố cổ Hội An, đƣợc xây dựng từ năm 1714 do các thƣơng
khách viễn dƣơng gốc Phúc Kiến, Triều Châu, Quảng Đông, Hải Nam, Gia
Ứng góp tiền. Đây là nơi sinh hoạt tín ngƣỡng và hội họp chung của cả 5
bang ngƣời Hoa. Vì của chung 5 bang nên về sau thƣờng gọi là chùa Ngũ
bang. Trong chùa này, ngƣời Hoa dựng một tấm bia có tên là “Dƣơng
Thƣơng Công nghị Điều lệ” ghi 10 điều bắt buộc cộng đồng ngƣời Hoa tại
Hội An phải tuân thủ với mục đích đoàn kết tƣơng thân tƣơng ái, hỗ trợ giúp
đỡ lẫn nhau trong cuộc sống (Xem Phụ lục 3, ảnh 2.1, 2.2).
 Hội quán Phước Kiến (chùa Kim Sơn, chùa Phúc kiến - số 46 Trần
Phú): Đây là một trong những hội quán bề thế nhất Hội An, do Hoa kiều
bang Phƣớc Kiến xây dựng vào thế kỉ XVIII (1972). Hiện nay, Hội quán
ngoài mục đích tâm linh còn mang ý nghĩa giáo dục, giúp cho mọi ngƣời có
một cái nhìn toàn diện về hạnh phúc: Hạnh phúc là có tổ tiên (thờ 6 vị lục
tánh), có con cái kế nghiệp (thờ 12 Bà Mụ) và có tiền tài (thần Tài). Vì lẽ ấy,
Hội quán Phƣớc Kiến thu hút đƣợc rất nhiều khách thập phƣơng. Rất nhiều
du khách trong và ngoài nƣớc tìm đến đây chiêm ngƣỡng, cảm nhận, để cầu
tài, cầu lộc và cầu tự (Xem Phụ lục 3, ảnh 3.1 đến 3.4).
 Hội quán Triều Châu (còn gọi là chùa Triều Châu, chùa Âm Bổn,
chùa Ông Bổn - số 157 Nguyễn Duy Hiệu): Nằm cuối dãy phố chính (đầu là
Chùa Cầu cuối là Âm Bổn) do Hoa kiều bang Triều Châu xây dựng năm
1845. Đây là nơi hội họp của những ngƣời đồng hƣơng, hỗ trợ lẫn nhau trong
kinh doanh buôn bán. Đặc biệt, khi đến với hội quán du khách trong và ngoài
nƣớc ai cũng thích thú quan sát vẻ đẹp của nghệ thuật điêu khắc gỗ, thể hiện
qua những họa tiết, hoa văn, hƣơng án trang trí bằng gỗ đƣợc trình bày theo
các cốt tích cổ và những tác phẩm đắp nổi khảm sứ lóng lánh dƣới ánh nắng
mặt trời miền Trung (Xem Phụ lục 3, ảnh 4.1, 4.2).

56
 Hội quán Quỳnh Phủ (còn gọi là hội quán Hải Nam, chùa Hải Nam,
chùa Giải Oan - số 10 Trần Phú): Do Hoa kiều bang Hải Nam (Quỳnh phủ)
ở Hội An xây dựng năm 1875 trong một hoàn cảnh đầy thƣơng tâm. Ngày
16/7/1851 (18/6 năm Tân Hợi) một số thƣơng nhân Hoa Kiều tại Thừa Thiên
Huế, Quảng Ngãi,... đi trên 3 tàu về quê Hải Nam khi đến đảo Chiêm Dƣ
(Thu Xà - Quảng Ngãi) thì gặp tàu tuần của kinh phái do Lang trung Tôn
Thất Thiều và Chƣởng vệ Phạm Xích bắn đại bác vào. Quá hoảng sợ cả ba
thuyền bỏ chạy về hƣớng đông, nhƣng có một thuyền chở 108 ngƣời trúng
đạn nên bị quan quân bắt lại. Qua kiểm tra biết họ không phải cƣớp biển,
nhƣng do lòng tham muốn chiếm đoạt tài sản trên thuyền, nên Tôn Thất
Thiều lệnh cho Hiệp quản Lƣơng Cù giết hết ngƣời trên thuyền. Sự việc sau
đó vua Tự Đức biết và cho đăng đàn lễ ban chiếu sắc phong cho 108 vong
linh. Từ đó, Hoa kiều Hải Nam khắp nƣớc cùng lập đền, miếu lấy danh hiệu
Hải Nam Hội Quán Chiêu Ứng Từ và chọn ngày Rằm tháng 6 hàng năm để tế
giỗ. Ngoài ra, vua Tự Đức còn cấp tiền cho bang Hải Nam mở mang hội quán
để đời đời cúng tế cầu cho vong linh các anh đƣợc siêu thoát, nên ngƣời dân
Hội An còn gọi đây là Chùa giải oan (Xem Phụ lục 3, ảnh 5.1, 5.3).
 Hội quán Quảng Triệu (hội quán Quảng Đông - số 176 Trần Phú):
Đƣợc khởi công xây dựng năm 1984 với lối kiến trúc đƣờng bệ, đƣợc kết hợp
hài hòa giữa chất liệu gỗ và đá. Quảng Triệu chính là tên ghép của Quảng
Châu và Triệu Khánh, hai phủ của tỉnh Quảng Đông, Trung Hoa (Xem Phụ
lục 3, ảnh 6.1, 6.2).
Ngƣời Hoa ở Hội An thƣờng đến các hội quán để thể hiện tín ngƣỡng
của mình, vì thế đối tƣợng thờ cúng khá phong phú, tùy theo tín ngƣỡng của
từng cộng đồng. Cụ thể nhƣ: tại Hội quán Phƣớc Kiến ngƣời Hoa thờ Thiên
Hậu Thánh mẫu, vị thần có nguồn gốc từ Phƣớc Kiến; Hội quán Quỳnh Phủ
thờ 108 ngƣời dân Hải Nam đi buôn bán trên biển; Hội quán Triều Châu thờ
thần Phục Ba tƣớng quân; Hội quán Dƣơng Thƣơng hay Hội quán ngũ ban
thờ Bà Thiên Hậu Thánh Mẫu, Quan Thế Âm Bồ Tát, Thiên Lý Nhãn và

57
Thƣợng Phong Nhĩ hai vị thần phụ tá cho Thiên Hậu cứu giúp các thuyền
buôn ngƣời Hoa gặp nạn, ngoài ra còn thờ 6 vị tƣớng nhà Minh; ngƣời Phúc
Kiến thờ thần Tài, bà chúa Sinh Thai và 12 Bà Mụ.
Có thể nói, hệ thống cơ sở tôn giáo, đình làng,... kết hợp với tín
ngƣỡng tại các hội quán ở Hội An đáp ứng gần nhƣ triệt để nhu cầu tâm linh
của ngƣời dân bản xứ. Bởi tín ngƣỡng tôn giáo của ngƣời Hoa phổ biến là
Phật giáo. Chùa Phật đầu tiên ở Hội An đƣợc xây dựng năm Kỷ Mùi 1679
dƣới thời trị vì của chúa Nguyễn Phúc Tần. Chùa tọa lạc tại số 7 đƣờng
Nguyễn Huệ, do ngƣời Minh Hƣơng xây dựng nên có tên là chùa Minh
Hƣơng. Nay đa số các chùa ở đây thuộc dòng Lâm Tế của Tịnh Độ Tông từ
Trung Hoa truyền vào thế kỉ XVII. Ngƣời Hoa nơi đây thƣờng tổ chức sinh
hoạt tín ngƣỡng vào các ngày tết Nguyên Tiêu (16/1 âm lịch), Trung Thu
(15/8 âm lịch), Trùng Cửu (9/9 âm lịch), Hạ Nguyên (15/10 âm lịch).

58
Tiểu kết Chƣơng 1

Để nghiên cứu về tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Hội An, nghiên cứu
sinh thực hiện trên quan điểm triết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan điểm dân tộc học và nhân học văn hóa xã hội,
quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về tôn giáo, tín ngƣỡng; từ đó nhìn
nhận, đánh giá các vấn đề liên quan đến tín ngƣỡng của ngƣời Hoa nơi đây.
Bên cạnh làm rõ một số khái niệm liên quan tới nội dung luận án. Bởi vì hiểu
rõ các khái niệm này mới có thể đi vào phân tích một cách đầy đủ các vấn đề
liên quan đến luận án. Trong quá trình nghiên cứu của chƣơng này, nghiên
cứu sinh tập trung làm rõ một số vấn đề về lý thuyết có sử dụng trong luận án
đó là hai lý thuyết cơ bản là: lý thuyết chức năng; lý thuyết giao lƣu tiếp biến
văn hoá.
Sử dụng lý thuyết chức năng, nghiên cứu sinh đã phân tích làm rõ đƣợc
những giá trị về kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trƣờng của tín ngƣỡng đối với
đời sống thực tiễn của ngƣời ngƣời Hoa tại địa bàn nghiên cứu. Luận án đã
chỉ ra đƣợc một cách sâu sắc hơn, đề xuất những giải pháp cụ thể hơn nhằm
bảo tồn và phát huy các giá trị của tín ngƣỡng; khắc phục những hạn chế bất
cập trong bối cảnh giao lƣu, hội nhập quốc tế giai đoạn hiện nay.
Sử dụng lý thuyết giao lƣu tiếp biến văn hóa đã giúp tác giả có cơ sở
xem xét đối tƣợng trong trạng thái động; nhận diện, phân tích những yếu tố
văn hóa của ngƣời Hoa đã và đang chịu ảnh hƣởng, tiếp thu qua giao lƣu và
tiếp biến có tác dụng bổ sung, làm phong phú văn hóa tín ngƣỡng của cộng
đồng ngƣời Hoa ở thành phố Hội An. Đồng thời, lý thuyết này giúp nghiên
cứu sinh xác định đƣợc nguyên nhân và tác động của sự biến đổi đến đời
sống tâm linh và việc bảo lƣu các giá trị văn hóa tín ngƣỡng của ngƣời Hoa
trong giai đoạn hiện nay.
Tại Hội An, cộng đồng ngƣời Hoa đã tạo dựng nhiều công trình kiến
trúc mang giá trị cao, tiêu biểu là các Hội quán - nơi sinh hoạt cộng đồng, thờ

59
cúng các vị thần bảo trợ, bậc tiền hiền. Qua quá trình định cƣ, hòa nhập tại
một môi trƣờng mới, cộng đồng ngƣời Hoa ở Hội An giữ lại một số đối
tƣợng thờ cúng có quyền năng đủ mạnh để làm điểm tựa về tinh thần, song
song với đó là một số dấu vết xƣa cũ tại quê hƣơng đã mờ nhạt dần. Hiện
nay, ngƣời Hoa ở thành phố Hội An ngày một hội nhập vào cộng đồng ngƣời
Việt, hội nhập khu vực và thế giới. Song, đời sống văn hóa, tín ngƣỡng của
họ vẫn đƣợc lƣu giữ khá đậm nét. Đó là những tín hiệu đáng trân trọng để
đƣa cộng đồng ngƣời Hoa ngày càng có những đóng góp thiết thực, hiệu quả
vào quá trình bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, phát triển
văn hóa, xã hội của thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.

60
Chƣơng 2
CÁC HÌNH THỨC TÍN NGƢỠNG VÀ THỰC HÀNH TÍN NGƢỠNG
CỦA NGƢỜI HOA Ở HỘI AN HIỆN NAY

2.1. Khái quát về tín ngƣỡng và thực trạng tín ngƣỡng của ngƣời
Hoa ở Hội An
2.1.1. Khái quát về tín ngưỡng của người Hoa
Tín ngƣỡng truyền thống là hạt nhân văn hóa của cộng đồng, có vai trò
quan trọng không thể phủ nhận. Qua kết quả thảo luận nhóm cho thấy, trong
một năm, ngƣời Hoa ở Hội An thực hành khá nhiều lễ tết nhƣ: Tết Nguyên
Đán, Nguyên tiêu, Thanh minh, Đoan ngọ, Trung nguyên, Trung thu, Trùng
cửu, Đông chí,... Ngoài ra, họ còn thực hành các nghi lễ vòng đời nhƣ mang
thai, sinh nở, hôn nhân, mừng thọ, tang ma. Các nghi lễ này của ngƣời Hoa
vừa có sự khác biệt vừa tƣơng đồng với nhiều tộc ngƣời khác. Cơ sở của
niềm tin và thực hành tín ngƣỡng đƣợc xuất phát từ mong ƣớc của con ngƣời,
thỉnh cầu những điều tốt đẹp, bình an, tranh thủ sự phù hộ của các thần linh,
giúp họ gặp những sự may mắn trong công việc làm ăn và đời sống. Hiện
nay, các nghi lễ tín ngƣỡng của ngƣời Hoa đã có sự biến đổi theo chiều
hƣớng tích cực, một số nghi lễ đƣợc đơn giản hóa về quy mô và cách thức
tiến hành, giảm chi phí; các lễ hội cũng có xu hƣớng giảm nhƣng không làm
mất đi tính trang nghiêm, long trọng.
Tín ngƣỡng của ngƣời Hoa nói chung rất đa dạng và phong phú, một
mặt do xuất phát từ niềm tin có linh hồn, vạn vật đều đƣợc ký thác những
linh hồn mà khi chết đi sẽ biến thành ma. Con ngƣời cũng vậy, đều có linh
hồn và khi chết đi thì sẽ về với tổ tiên. Họ phân chia các loại ma thành hai
loại chính là: ma lành và ma ác. Ma lành luôn phù hộ và giúp đỡ con ngƣời,
bảo vệ mùa màng; tuy nhiên nếu không đƣợc thờ cúng đầy đủ, ma lành cũng
phật ý, gây ảnh hƣởng đến sức khỏe và đời sống của con ngƣời. Ma ác
thƣờng quấy phá, làm hại cuộc sống con ngƣời. Vì vậy, khi trong cuộc sống

61
gặp những điều không nhƣ ý hay ốm đau bệnh tật, ngƣời Hoa cho đó bị ma
ám, cần mời thầy cúng về cúng chữa bệnh, điều khiển âm binh, làm lễ xin ma
lành, thánh Thần, Phật giúp đỡ giải hạn,... Mặt khác, ngƣời Hoa còn chịu ảnh
của các tôn giáo tín ngƣỡng truyền thống khác ở Trung Quốc nhƣ Đạo giáo,
Khổng giáo, Phật giáo,... Vì vậy, họ có niềm tin đối với các thần linh không
chỉ là tổ tiên, nhân thần,... mà có cả nhiên thần nhƣ Thiên thần, Địa thần,
Thủy thần, Sơn thần,...; đồng thời, có niềm tin về sự đậu thai, thuyết nhân
quả, thuyết luân hồi của đạo Phật. Giống nhƣ nhiều tộc ngƣời, tín ngƣỡng
truyền thống của ngƣời Hoa là một thành tố của văn hóa, thể hiện niềm tin
vào một lực lƣợng siêu nhiên, phản ánh nhận thức của con ngƣời về các hiện
tƣợng tự nhiên và xã hội; nó là điểm tựa tinh thần cho con ngƣời trƣớc những
khó khăn, tai họa của cuộc sống và bộc lộ khát vọng về một cuộc sống hạnh
phúc, bình an. Sự đa dạng trong tín ngƣỡng của ngƣời Hoa biểu hiện ở nhiều
khía cạnh, mà độc đáo nhất là ở hệ thống các đối tƣợng đƣợc thờ cúng. Đó là
hệ thống thần linh nhƣ: thần tự nhiên (thần thiên tƣợng, thần địa giới, thần
thủy giới, thần âm giới,...); nhân thần, tổ tiên, dòng họ và gia đình;... Trong
đó, có thể tham khảo cách phân loại của Võ Thanh Bằng trong Tín ngưỡng
dân gian ở Thành phố Hồ Chí Minh (2008), hay Nguyễn Thị Thùy đã phân
loại tín ngƣỡng của ngƣời Hoa thành 4 nhóm: (1) Tín ngƣỡng trong cộng đồng;
(2) Tín ngƣỡng trong gia đình; (3) Tín ngƣỡng trong dòng họ; (4) Tín ngƣỡng cá
nhân. Song, nhiều công trình hiện có thƣờng thống nhất với quan điểm phân loại
theo hai nhóm chính là: (1) Thờ cúng trong gia đình, dòng họ; (2) Tín ngƣỡng
trong cộng đồng. Cách phân chia theo hai cấp độ quy mô này đƣợc chúng tôi áp
dụng trong trong quá trình thực hiện đề tài luận án.
Theo đó, trong các gia đình ngƣời Hoa ở Hội An không chỉ thờ cúng tổ
tiên ông bà, mà còn có tập quán thờ Quan Công, Quan Bình và Châu
Thƣơng, bởi theo họ thì Quan Công là vị tƣớng nổi tiếng thời Tam Quốc,
biểu tƣợng của trung hiếu, tiết nghĩa đƣợc xem nhƣ vị thánh linh thiêng. Hơn
nữa, ngƣời Hoa còn quan niệm thờ Quan Công là thờ thần hộ mệnh, bảo hộ

62
cho sự bình an của gia đình. Trên khám thờ Quan Công ngƣời ta thƣờng đặt
bộ tƣợng hoặc tranh Quan Công, Quan Bình cùng Châu Thƣơng là con nuôi
cũng là hai võ quan trung thành của Quan Công.
Đặc biệt, ngƣời Hoa ở Hội An có rất nhiều nhà thờ tộc gắn với tín
ngƣỡng thờ cúng tổ tiên, dƣới dạng kiến trúc nhà ở đặc biệt của những dòng
họ lớn có công lập làng hoặc dựng phố từ thời kì sơ khai và truyền lại cho
con cháu làm nơi thờ tự tổ tiên. Riêng dòng họ nhỏ thì nhà thờ kết hợp với
nhà ở của vị trƣởng tộc có nguồn gốc từ Trung Hoa. Trách nhiệm hƣơng khói
và tu sửa những ngôi nhà này thuộc về con cháu, các thế hệ tiếp sau. Phần lớn
các nhà thờ tộc tập trung ở hai đƣờng Phan Châu Trinh và Lê Lợi, một số ít
phân bố rải rác trên đƣờng Nguyễn Thị Minh Khai và đằng sau những ngôi
nhà phố trên đƣờng Trần Phú. Các nhà thờ tộc có niên đại sớm nhất do ngƣời
Hoa Kiều xây dựng đầu thế kỷ XVII, một số có niên đại thế kỉ XVIII. Nhà
thờ tộc rất quy mô với kiến trúc đẹp, điển hình nhƣ nhà thờ tộc Trần, nhà thờ
tộc Trƣơng, nhà thờ tộc Nguyễn hay nhà thờ Tiền hiền Minh Hƣơng.
Bên cạnh tục thờ cúng tổ tiên, ngƣời Hoa còn thờ Ngũ tự gia đƣờng
gồm 5 vị thần Táo Quân, Môn thần, Hộ thần, Tỉnh thần và Trung thần. Khám
thờ Ngũ tự gia đƣờng đƣợc đặt trang trọng ngay giữa nhà, trên bàn thờ gia
tiên. Đặc biệt, trong các gia đình ngƣời Hoa ở Hội An, thay vì thờ Táo Quân
trong bếp thì họ lại đặt khám thờ Táo Quân ở không gian sân trời, bên cạnh
khám thờ thần Thiên Quan Tứ Phƣớc.
Ngoài ra, ở thành phố Hội An còn có các đình nhƣ: Đình Hội An hay
còn gọi là đình ông Voi, tọa lạc tại số 27 đƣờng Lê Lợi để thờ Thành Hoàng
cùng các vị thần sông nƣớc nhƣ thần Thu Bồn, bà Đại Càn Nam Hải, cô
Thuyền chai, cô Vọng Phu, cô Cát; Đình Sơn Phong (đƣờng Nguyễn Duy
Hiệu) thờ Đại Càn tứ vị Thánh Nƣơng và vị nữ thần gốc Chăm Thiên Y A
Na. Đại Càn tứ vị Thánh nƣơng là các vị thần của ngƣời Hoa, còn Thiên Y A
Na là nữ thần của ngƣời Chăm đƣợc ngƣời Việt và ngƣời Hoa thờ cúng cho
thấy sự giao lƣu hòa hợp tín ngƣỡng giữa ngƣời Việt, ngƣời Hoa, ngƣời

63
Chăm láng giềng. Đáng chú ý là nhiều ngôi nhà cổ của ngƣời Hoa ở Hội An,
trƣớc nhà bao giờ cũng có mắt cửa. Theo quan niệm của ngƣời dân thì vạn
vật hữu linh nên gắn mắt cho ngôi nhà cũng giống nhƣ gắn mắt cho tàu
thuyền khi ra khơi để tránh rủi ro.
Hàng năm vào ngày Rằm tháng Giêng tại Hội quán Triều Châu và Hội
quán Quảng Triệu, ngƣời Hoa tổ chức tết Nguyên tiêu. Đây là một trong
những lễ tết quan trọng trong cộng đồng cƣ dân ngƣời Hoa ở Hội An. Vào
ngày này ngƣời dân tiến hành nghi thức rƣớc đèn lồng rất long trọng nên
ngƣời Hội An gọi tết Nguyên tiêu là Lễ hội đèn lồng. Đối với cộng đồng cƣ
dân ngƣời Hoa tại Hội An, nhất là ngƣời Minh Hƣơng và các bang Triều
Châu (Quảng Đông), tết Nguyên Tiêu không chỉ là tết mang thú vui thƣởng
ngoạn mà còn mang ý nghĩa tâm linh lớn lao: họ cúng các vị Tiền hiền, cầu
mong cuộc sống no đủ, buôn bán phát tài. Theo điều tra phỏng vấn của chúng
tôi, ngƣời Hoa ở Hội An đặc biệt coi trọng các dịp này, hầu nhƣ tất cả mọi
ngƣời đều cố gắng hạn chế đến mức tối đa công việc để tham dự lễ hội. Bởi
theo quan niệm của họ, ngày này các quan trên trời thƣờng ban phúc lành cho
mọi ngƣời trên thế gian. Vì thế cộng đồng cƣ dân ngƣời Hoa tại Hội An tổ
chức lễ Nguyên tiêu rất linh đình, quy mô, kéo dài từ hai đến ba ngày.
Sau lễ Nguyên tiêu là lễ Vu lan cũng đƣợc tổ chức rất quan trọng đối
với ngƣời Hoa và ngƣời Việt tại Hội An. Đây là lễ “Xá tội vong nhân” hay là
ngày “Báo hiếu” của một trong những lễ hội phật giáo. Theo truyền thống, từ
ngày 15 - 30/7 âm lịch, ngƣời Hoa tổ chức lễ Vu lan. Họ quan niệm rằng,
trong những ngày ấy, cửa địa ngục sẽ mở cho các vong linh về thăm ngƣời
thân, đến ngày 30/7 cửa ngục sẽ đóng lại. Vì thế, thời gian này ngƣời Hoa
làm các việc thiện nhƣ bố thí, cúng dƣờng, phóng sinh,... để hồi hƣớng công
đức cho cha mẹ, ngƣời thân. Trong lễ đó, cộng đồng ngƣời Hoa tại Hội An
thƣờng thăm viếng phần mộ của ngƣời thân đã quá cố để sửa sang, quét dọn
lăng mộ, cúng thực phẩm, tiền giấy, vàng mã cho những ngƣời đã khuất.
Ngày lễ Vu lan ở Hội An thƣờng đƣợc tổ chức tại khu phố cổ, có treo đèn
lồng lớn nhất và diễn ra nhiều lễ hội vui nhất. Đặc biệt, số đèn đƣợc treo bao

64
giờ cũng là số chẵn bởi theo quan niệm số chẵn là số may mắn và cũng chỉ
treo loại đèn màu đỏ do màu đỏ là màu may mắn.
Hàng năm Hội quán Phƣớc Kiến tổ chức lễ giỗ tổ Tiền hiền, vía Quan
Công, vía Thiên Hậu, vía Lục tánh Vƣơng Gia,... vào ngày 16/2 âm lịch rất
linh đình. Đây là dịp để họ tƣởng nhớ tới công cao đức dày của các bậc tổ
tiên, đồng thời cũng là dịp gặp mặt của đồng hƣơng gốc Phúc Kiến ở Hội An
nói riêng, miền Trung nói chung nên thu hút đông đảo ngƣời về từ thành phố
Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng, ... tham gia.
Ngày 23/3 âm lịch là ngày vía Bà. Đây cũng là lễ hội quan trọng của
cộng đồng ngƣời Hoa ở Hội An. Trong ngày lễ vía Bà, vía Ông, mọi ngƣời
trong Bang và ngoài Bang đem lễ vật cùng nhang đèn đến cúng rất đông. Đây
đƣợc xem là dịp để cộng đồng ngƣời Hoa gặp gỡ nhau, ôn lại những chuyện
đã qua, đồng thời nhắc cho lớp trẻ nhớ đến nguồn gốc quê hƣơng dân tộc,
đồng thời bàn bạc phƣơng hƣớng giúp đỡ những ngƣời trong Bang, Hội đang
gặp hoàn cảnh khó khăn.
Ở Hội An hiện nay, ngƣời Hoa đi lễ hầu hết các tháng trong năm. Bởi
các hội quán tổ chức cúng lễ lớn vào dịp Tết Nguyên Đán, Tết Nguyên Tiêu,
Tết Thanh minh, Tết Đoan Ngọ, Tam triều (đƣa Ông bà), Tết Trung thu, Rằm
tháng 10, Đông chí, Tất niên, các “ngày vía” tức ngày sinh của các vị thần
đƣợc thờ (Xem thêm Phụ lục 3, ảnh 8.1, 8.4, 8.5, 8.6, .8.7). Vào những dịp
cúng lễ, các hội quán thu hút đông đảo bà con ngƣời Hoa ở Hội An và ngƣời
Hoa từ các nơi khác quy tụ về đây để gặp mặt, làm lễ tƣởng niệm và cúng bái,
cầu nguyện. Ngoài lễ hội, phong tục tập quán của ngƣời Hoa đã có sự hỗn dung
với ngƣời Việt. Cụ thể nhƣ ngày tết họ có tục dán môn thần lên cửa, có tục dán
bùa, treo bát quái nhằm cầu mong bình yên, tránh đƣợc bệnh tật.
Bên cạnh đó, vào ngày tết ngƣời Hoa còn có tục dán câu đối tết mang ý
nghĩa chúc may mắn, chúc phúc thọ, chúc khang ninh. Nội dung các câu đối
thƣờng cầu phát tài, phát lộc, buôn may bán đắt, một vốn bốn lời và các chữ
phúc, lộc, thọ, đại cát, khang ninh hảo vận. Tại phòng khách trong nhà, bên
cạnh lọ hoa tƣơi nhƣ hoa mai hoặc hoa cúc, còn một bình sứ lớn để cắm cành
trúc treo chùm pháo nhỏ với ý nghĩa cành trúc thông báo về sự bình an, nhằm

65
cầu chúc cả năm an khang thịnh vƣợng. Bàn thờ ngày tết có dán liễn thờ,
tranh thờ, hoa quả. Liễn thờ là những câu có nội dung về sự biết ơn của con
cháu đối với ông bà tổ tiên, qua đó cầu mong ông bà tổ tiên phù hộ. Mâm quả
thƣờng là quả đào biểu trƣng cho sự sống lâu trƣờng thọ, quả lựu tƣợng trƣng
cho con cháu đầy đàn, sinh nhiều quý tử, quả quýt trên dán chữ “đại cát”
mang ý nghĩa tốt lành, ... Trong dịp tết năm mới, ngƣời Hoa còn có tục chứa
nƣớc đầy chum, gạo đầy hũ để trong năm sẽ đƣợc no đủ dƣ thừa. Bên cạnh
đó có một số gia đình còn dùng giấy đỏ viết chữ “mãn” có nghĩa là “đầy” dán
trên những vật dụng chứa đựng đồ đạc trong gia đình nhƣ tủ, rƣơng, chum,...
Trong 3 ngày tết, ngƣời Hoa kiêng quét nhà vì cho rằng làm nhƣ vậy là hốt
của cải, tài lộc đổ đi, sang năm sẽ làm ăn thất bại; kiêng cho lửa, không làm
vỡ đồ đạc hoặc ngƣời có tang đến nhà chúc xuân, bởi vì quan niệm đó là
những điều không tốt, gia đình sẽ gặp chuyện không hay.
Tục cúng tất niên cuối năm của ngƣời Hoa khác với ngƣời Việt, vì
ngoài lễ vật hoa quả, bánh trái, ... còn thêm món cá luộc. Trong tiếng Hoa
chữ “ngƣ” đồng âm với chữ “dƣ”, tức “dƣ dả”. Nên ngƣời Hoa cúng món cá
luộc để cầu mong sang năm mới làm ăn phát tài, phát lộc, quanh năm đầy đủ
sung túc. Họ cúng cá để nguyên con, không cắt vây, đánh vảy hay chặt đầu
chặt đuôi, vì quan niệm chặt đầu và đuôi cá có nghĩa là chặn đầu, hớt đuôi
tức quanh năm suốt tháng sẽ làm ăn thất bát, thiếu thốn tiền bạc.
Trong những ngày tết, ngƣời Hoa thƣờng ăn thịt gà vì gà trong tiếng Hoa
là “kê”, đồng âm với chữ cơ tức là “cơ hội‟‟, “thời cơ”. Nên ngƣời Hoa quan
niệm ăn thịt gà sẽ đƣợc may mắn, sang năm sẽ gặp vận đỏ, gặp thời cơ tốt, tấn tài
tấn lộc, gia quan tấn tƣớc, ... Trong dịp đó họ làm bánh da lợn, bánh ú Tàu, bánh
tổ Tàu hay các loại bánh nƣớng bằng bột mì, nhân lạp xƣởng, trứng gà, hạt mỡ,
hạnh nhân,... cùng với các món ăn chế biến từ mì sợi có ý nghĩa là cầu may, chúc
phúc, tiền tài nhƣ nƣớc. Chữ “mì” trong tiếng Hoa đồng âm với chữ “miên” có
nghĩa lâu dài, vì vậy ăn mỳ để cầu mong phúc thọ.
Ngƣời Hoa có quan niệm ngày mùng Một tết có nhện chăng dây đu
xuống, đó là điều tốt, tức “hỷ tòng thiên giáng” hay “tri chu báo hỷ” - nhện
báo niềm vui. Chó đến nhà cũng đƣợc xem là điều may mắn, năm tới sẽ gặp

66
vận tốt, gặp ngƣời tín nghĩa, làm ăn phát đạt. Ngoài ra, hƣơng đang thắp cháy
thành lửa ngọn đƣợc xem là vận đỏ, lòng thành đã động đến thần linh, thần
linh đã chứng giám. Hay nhƣ dơi vào nhà là điều tốt sang năm mới phúc lộc
dồi dào, tiền tài nhƣ nƣớc. Cây mai, cây cảnh nở lộc, nở nhiều hoa, thƣờng
gọi là hoa khai phú quý, năm mới sẽ phát tài phát lộc, buôn may bán đắt.
Qua nghiên cứu, thờ cúng của ngƣời Hoa ở Việt Nam khác với ngƣời
Hoa Đại lục. Bởi di cƣ và sinh sống ở Việt Nam, cộng đồng ngƣời Hoa chỉ
giữ lại một số đối tƣợng thờ cúng phù hợp với tâm lý và thiết thực với đời
sống tinh thần của mình, đôi khi cần một quyền năng đủ lớn để làm điểm tựa
về tinh thần, giúp họ an cƣ ở vùng đất mới. Điều này phù hợp với quan điểm
của Ngô Đức Thịnh: “Tôn giáo mang tính lịch sử và kế tục lịch sử”.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay, việc duy trì thực
hành tín ngƣỡng dân gian cho thấy đƣợc sức thu hút không hề nhỏ đối với
nhiều tầng lớp xã hội. Nhìn chung, “từ năm 1986 đến nay, hoạt động tín
ngƣỡng tôn giáo của ngƣời Hoa khá ổn định. Giới chức sắc tôn giáo tu sĩ
ngƣời Hoa làm đúng chức trách và nhiệm vụ của mình. Trong một hai thập
niên gần đây, hoạt động từ thiện, xã hội đƣợc các tổ chức tôn giáo ngƣời Hoa
đẩy mạnh. Họ phối hợp cùng chính quyền chăm lo cải thiện đời sống cho tín
đồ, mở các cơ sở dịch vụ y tế, xây dựng nếp sống văn hóa, bảo trợ việc học
hành của con em ngƣời Hoa” [165; tr. 83].
2.1.2. Thực trạng tín ngưỡng của người Hoa ở thành phố Hội An
2.1.2.1. Thực trạng tín ngưỡng cộng đồng
Để tìm hiểu về hiện trạng tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở thành phố Hội
An hiện nay, chúng tôi đã tiến hành khảo sát trong phạm vi cƣ trú của ngƣời
Hoa thuộc phƣờng Minh An, thành phố Hội An (do khuôn khổ của luận án
nên chúng tôi chƣa có điều kiện khảo sát toàn bộ các phƣờng xã của thành
phố Hội An). Đối tƣợng khảo sát là những cƣ dân ngƣời Hoa có độ tuổi từ 25
đến 88 với những nghề nghiệp, địa vị khác nhau ở trong phƣờng, số phiếu
phát ra là 120 phiếu (Xem mẫu phiếu, danh sách những cá nhân đƣợc phỏng
vấn ở phần Phụ lục 1 và Phụ lục 2).
67
Trong quá trình phát phiếu điều tra cũng nhƣ phỏng vấn sâu, chúng tôi
tập trung vào một số vấn đề chính nhƣ: việc duy trì sinh hoạt tín ngƣỡng tại
các Hội quán; khảo sát về sự tiếp biến văn hóa (qua việc thờ cúng các vị thần
theo truyền thống của ngƣời Hoa); phỏng vấn về thực hành tín ngƣỡng trong
cộng đồng; hình thức tín ngƣỡng đƣợc ngƣời dân tin và tham gia nhiều nhất;
quan niệm về việc biện lễ hiện nay; ý nghĩa của các lễ hội hiện nay; các quan
điểm về đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn thành phố; xu hƣớng phát triển
ngành du lịch, đánh giá về tiềm năng du lịch của các Hội quán, Chùa, Miếu.
Kết quả thu đƣợc qua việc khảo sát hiện trạng tín ngƣỡng của cộng đồng cƣ
dân ngƣời Hoa tại Hội An nhƣ sau:
Bảng 2.1: Số lượng người tin theo tín ngưỡng trong cộng đồng
người Hoa tại Hội An
Số lƣợng ngƣời tham Tỷ lệ
Tín ngƣỡng cộng đồng
gia (trên tổng số 120) (%)
Tín ngƣỡng thờ Tiền hiền, Hậu hiền 120 100
Tín ngƣỡng thờ Thiên Hậu Thánh
102 85
Mẫu
Tín ngƣỡng thờ Môn thần 60 50
Tín ngƣỡng thờ Quan Thánh Đế
108 90
Quân (Quan Công)
Tín ngƣỡng Thờ Bắc Đế Trấn Vũ
12 10
(Huyền Thiên Đại Đế)
Tín ngƣỡng thờ Thần Phục Ba 96 80
Tín ngƣỡng thờ Âm linh - Âm hồn 90 75

(Kết quả điều tra điền dã của nghiên cứu sinh năm 2019)
Kết quả ở bảng 2.1 cho thấy, thờ Tiền hiền, Hậu hiền là tín ngƣỡng
quan trọng nhất mà hiện nay hầu hết mọi ngƣời Hoa đều tham gia. Bởi vì,
ngƣời Hoa quan niệm “Uống nƣớc nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”,
không có ông bà tổ tiên, các bậc tiền nhân,... thì không có mình ngày hôm
nay. Do đó, hình thức tín ngƣỡng này đƣợc sự quan tâm và tham gia của tất

68
cả cƣ dân trong phƣờng. Bên cạnh tín ngƣỡng thờ Tiền hiền, Hậu hiền thì thờ
Quan Thánh Đế Quân, thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu, thờ Thần Phục Ba cũng
đƣợc ngƣời Hoa nơi đây coi trọng, bởi vì số ngƣời tham gia với tỉ lệ phần
trăm lần lƣợt là 90%, 85% và 80%. Điều này có thể giải thích đƣợc vì ngày
xƣa ngƣời Hoa di cƣ đến Hội An bằng đƣờng biển. Mặc dù trên đƣờng đi gặp
nhiều sóng gió nhƣng nhờ đƣợc Thiên Hậu Thánh Mẫu, thần Phục Ba giúp
đỡ nên đi đến nơi về đến chốn, mọi chuyện bình an. Khi thuyền cập bến Hội
An, ngƣời Hoa bắt đầu xây dựng hội quán, nhà cửa, làm ăn buôn bán; trong
kinh doanh ngƣời Hoa luôn lấy chữ tín làm đầu cho nên họ thờ Quan Công
để thể hiện lòng trung tín. Ngoài ra Quan Công cũng đƣợc xem là vị thần bảo
vệ, mang may mắn và tài lộc đến cho mọi ngƣời. Chính vì vậy, ngƣời Hoa rất
tôn thờ ba vị thần trên.
Đối với cộng đồng ngƣời Hoa ở Hội An, thờ Âm linh - Âm hồn cũng là
một trong các hình thức tín ngƣỡng phổ biến và quan trọng, chiếm tỉ lệ 75%.
Hiện nay họ vẫn luôn thờ phụng chu đáo các vị thần này để cầu mong đƣợc
phù hộ, che chở, đồng thời tránh đƣợc sự trừng phạt của các vong hồn đối với
những ngƣời sống.
Tín ngƣỡng thờ Môn thần cũng đƣợc cộng đồng ngƣời Hoa nơi đây coi
trọng và tham gia với tỉ lệ là 50%, bởi vì mắt cửa đƣợc xem là một vị thần có
thể nhìn thấu tất cả, soi đƣờng chỉ lối, bảo vệ che chở cho mọi ngƣời. Hiện
nay, tín ngƣỡng cộng đồng thờ Bắc Đế Trấn Vũ (Huyền Thiên Đại Đế) ít phổ
biến hơn trong cộng đồng ngƣời Hoa, do chỉ chiếm tỉ lệ 10%.
Thành phần tham gia thƣờng xuyên các tín ngƣỡng vừa đề cập chủ yếu
là những ngƣời lớn tuổi, những ngƣời giữ vai trò quan trọng trong việc thực
hiện và tham gia các lễ hội - nghi lễ cúng kính của làng, của hội quán nhƣ
trƣởng, phó ban trị sự, hay những ngƣời thuộc ủy viên ban trị sự. Lý do tham
gia các tín ngƣỡng cộng đồng ngƣời Hoa tại Hội An chủ yếu là kế thừa
truyền thống của tổ tiên, tiếp nối những thế hệ đi trƣớc trong phƣờng; đồng

69
thời, tin tƣởng vào sự linh thiêng, sự giúp đỡ, chở che của các vị thần đối với
bản thân họ và gia đình để có đƣợc một cuộc sống an lành, hạnh phúc.
Qua phỏng vấn sâu, ông Hứa Quảng - Trƣởng ban trị sự hội quán Triều
Châu cho biết: “Một số tín ngƣỡng trong cộng đồng ngày xƣa đƣợc thờ cúng
rộng rãi nhƣng hiện nay đã không còn nhƣ thờ cúng bà Mụ tại chùa Bà Mụ;
lễ tế Huyền Thiên Đại Đế tại Chùa Cầu hiện tại chỉ còn thắp hƣơng chứ
không còn tế lễ”. Một phụ nữ 48 tuổi buôn bán quần áo trên đƣờng Trần Phú
- Phƣờng Minh An cũng cho biết thêm: “Một số tín ngƣỡng không còn thờ
cúng nhƣ xƣa nhƣng có không ít tín ngƣỡng nhƣ thờ Tiền Hiền, Hậu hiền,
Quan Công vẫn đƣợc ngƣời Hoa chúng tôi chú trọng, duy trì thƣờng xuyên
tại các Hội quán”.
Bảng 2.2. Những dịp thường đến thăm viếng và lễ vật dâng cúng
tại các cơ sở thờ tự của cộng đồng
Lễ vật cúng
Tiền Hoa, Heo, Xôi, Không Lễ vật
(dƣơng) quả bò chè có khác
Thời gian
Ngày kỵ  
Ngày rằm   
Ngày lễ, tết    
Khi có việc   

(Kết quả điều tra điền dã của nghiên cứu sinh năm 2019)
Kết quả ở bảng 2.2 đã chỉ ra rằng, cộng đồng ngƣời Hoa nơi đây không
thƣờng xuyên thăm viếng, cúng kính các cơ sở thờ tự chung, mà chỉ đến vào
những ngày có sự kiện, có công việc quan trọng của làng và của hội quán nhƣ
vào ngày kỵ, ngày lễ hội hay những dịp rằm, tết, kể cả những khi có việc
riêng trong gia đình mà không giải quyết đƣợc, cần sự giúp đỡ, phù hộ của
các vị thần trong làng, của hội quán,... Cộng đồng ngƣời Hoa đến đây thắp
hƣơng, cúng kính và cầu khấn nhằm cầu mong thần linh giúp đỡ. Nội dung

70
lời khấn của mọi ngƣời thƣờng là cầu phù hộ để có sức khỏe tốt, công danh
đƣợc toại nguyện, gia đình hạnh phúc và ấm êm, làm ăn phát đạt,... Tùy vào
mỗi dịp mà ngƣời dân dâng cúng những lễ vật khác nhau: các ngày kỵ, lễ, tết,
thì lễ vật dâng cúng thƣờng là heo, bò, tiền, hoa quả; ngoài ra, tùy thuộc vào
điều kiện mỗi ngƣời và mỗi gia đình mà dâng cúng thêm các lễ vật khác nhƣ
gà, vịt, bánh trái,... Những dịp nhƣ rằm hay khi gia đình có công việc hệ
trọng thì chỉ cần bày hoa quả, xôi, chè, rồi thắp hƣơng. “Một m² đất ở
Phƣờng Minh An hiện nay có giá giao động từ 300 - 500 triệu đồng nên
nhiều con cháu ngƣời Hoa đã bán nhà chuyển đi nơi khác sinh sống hoặc cho
ngƣời từ nơi khác đến thuê để kinh doanh. Do đó, việc đến các cơ sở thờ tự,
các Hội quán để thăm viếng, cúng kính không còn thƣờng xuyên nhƣ xƣa”
(Nam 43 tuổi, tổ 14 phƣờng Minh An).
Theo kết quả khảo sát của nghiên cứu sinh, do phần lớn ngƣời Hoa
buôn bán kinh doanh tại khu vực phố cổ và một số làm ngƣ nghiệp hoặc công
nhân, nên việc thờ cúng Thần Tài, Thổ địa đều là tín ngƣỡng phổ biến trong
đời sống của một bộ phận cộng đồng cƣ dân ngƣời Hoa ở thành phố Hội An.
Tuy nhiên, trong số 120 gia đình đƣợc khảo sát bằng phiếu hỏi thì số lƣợng
tham gia tín ngƣỡng này ngày một tăng lên, bởi vì hiện nay thành phố đang
đầu tƣ cho phát triển du lịch, nên việc buôn bán kinh doanh của ngƣời Hoa
cũng phát triển theo, nhiều cơ sở dịch vụ đƣợc mở ra để phục vụ du khách
(Xem Phụ lục 1, danh sách II, số 1,2,3). Kết quả thảo luận nhóm cán bộ lãnh
đạo phƣờng Minh An vào tháng 5/2019 cũng cho thấy, tín ngƣỡng thờ Thần
Tài, thần Thổ địa trên địa bàn phƣờng rất đƣợc những ngƣời kinh doanh buôn
bán sùng bái.
Có thể nói, tín ngƣỡng cổ truyền của ngƣời Hoa ở Hội An là một hệ
thống đa dạng bao gồm nhiều nhân tố gắn bó mật thiết với đời sống cộng
đồng, thể hiện trong sinh hoạt gắn với vòng đời ngƣời từ khi sinh, lão, bệnh,
tử; đến cƣới hỏi hay thờ cúng trong nhà, cúng ở miếu, đi lễ chùa,... Qua kết

71
quả khảo sát thực trạng tín ngƣỡng cộng đồng hiện nay của ngƣời Hoa ở
thành phố Hội An, chúng tôi nhận thấy đƣợc vai trò quan trọng của các hình
thức tín ngƣỡng này trong đời sống ngƣời dân, do đó cần có giải pháp bảo tồn
bền vững bên cạnh phát huy tối đa các giá trị của tín ngƣỡng truyền thống.
2.1.2.2. Thực trạng tín ngưỡng trong gia đình
Khi tiến hành điều tra khảo sát cùng với phỏng vấn sâu giống nhƣ ở
phần về thực trạng tín ngƣỡng trong cộng đồng, chúng tôi tập trung vào một
số vấn đề chính liên quan tới các hình thức tín ngƣỡng trong gia đình nhƣ:
những biến đổi nghi lễ thờ cúng trong gia đình; tín ngƣỡng đƣợc duy trì
thƣờng xuyên nhất; các tín ngƣỡng mới ảnh hƣởng từ văn hóa/cộng đồng cƣ
dân khác; những tín ngƣỡng nào ở các gia đình không đƣợc duy trì? lý do?;
quan điểm của thế hệ trẻ về tín ngƣỡng trong gia đình; những biến đổi trong
mục đích tín ngƣỡng của hộ gia đình; các lễ vật đƣợc sử dụng trong tín
ngƣỡng gia đình,...
Kết quả điều tra khảo sát về tín ngƣỡng trong gia đình của ngƣời Hoa
tại thành phố Hội An đƣợc thể hiện trong bảng 2.3 nhƣ sau:
Bảng 2.3. Các hình thức tín ngưỡng trong gia đình
Số lƣợng ngƣời tham gia (trên Tỷ lệ
Các hình thức tín ngƣỡng
tổng số 120 phiếu phát ra) (%)
Thờ cúng tổ tiên 120 100

Thờ Ngũ Tự Gia Đƣờng 120 100

Thờ Thần Tài, Thổ Địa 60 50


Thờ Táo Quân 120 100
Tín ngƣỡng khác 12 10

(Kết quả điều tra điền dã của nghiên cứu sinh năm 2019)

72
Dựa vào các số liệu đƣợc thể hiện trong bảng 2.3 cho thấy, nếu nhƣ
trong tín ngƣỡng cộng đồng, việc thờ Tiền hiền, Hậu hiền là tín ngƣỡng quan
trọng nhất của cộng đồng ngƣời Hoa thì trong gia đình, thờ cúng tổ tiên có
truyền thống lâu đời của họ, dù giàu nghèo, sang hay hèn đều tôn thờ với
lòng thành kính sâu sắc nhất. Cùng với thờ cúng tổ tiên, tín ngƣỡng thờ Ngũ
Tự Gia Đƣờng và thờ Táo Quân mà cƣ dân nơi đây thƣờng gọi là Ông Táo
cũng đƣợc thờ tự phổ biến trong các gia đình ngƣời Hoa. Ngũ tự gia đƣờng là
5 vị thần trông coi, cai quản và sắp đặt vận mệnh cho một gia đình. Táo Quân
trông coi nhà cửa, bếp núc; đối với cộng đồng ngƣời Hoa tại Hội An, ngƣời
giữ ngọn lửa hạnh phúc gia đình luôn đóng vai trò rất quan trọng.
2.2. Thực hành tín ngƣỡng trong cộng đồng
2.2.1. Thờ Tiền hiền, Hậu hiền
Truyền thống đạo lý của con ngƣời nói chung và của ngƣời Hoa nói
riêng là nhớ ơn tổ tiên, những ngƣời có công với làng xã, cộng đồng, đất
nƣớc. Trong quá trình sinh cƣ lập nghiệp tại Hội An, mỹ tục này đƣợc thể
hiện rõ nét qua việc thờ Tiền hiền và Hậu hiền ở các hội quán. Ngày nay, trải
qua nhiều giai đoạn phát triển, nhƣng tục thờ ấy vẫn còn bảo lƣu mạnh mẽ
trong đời sống của ngƣời Hoa tại thành phố Hội An.
Qua các số liệu trong bảng 2.1 cho thấy, tín ngƣỡng thờ Tiền hiền, Hậu
hiền là hình thức tín ngƣỡng cộng đồng quan trọng nhất của ngƣời Hoa tại
Hội An mà hiện nay vẫn đƣợc duy trì. Gắn với tín ngƣỡng này, hàng năm vào
các ngày 11 - 12/2 âm lịch và ngày 14 - 15/6 âm lịch đều diễn ra lễ cúng Tiền
hiền, Hậu hiền. Lễ hội luôn mang tầm ảnh hƣởng lớn, chứa đựng nhiều ý
nghĩa sâu sắc đối với cuộc sống và sinh hoạt văn hóa của cộng đồng cƣ dân
ngƣời Hoa nơi đây. Để làm sáng tỏ thêm ý nghĩa của lễ hội cúng Tiền hiền,
Hậu hiền đối với đời sống tinh thần của cộng đồng, chúng tôi đã tiến hành
điều tra khảo sát và thu đƣợc kết quả sau:

73
Bảng 2.4. Ý nghĩa của lễ thờ Tiền hiền, Hậu hiền (Nguồn tác giả)
Ý kiến tán thành
Ý nghĩa lễ thờ
(trên tổng số 120 Tỷ lệ (%)
Tiền hiền, Hậu hiền
phiếu phát ra)
Cầu cho mƣa thuận gió hòa, cuộc sống
120 100
dân làng đƣợc no đủ
Tƣởng nhớ những vị Tiền hiền đã có
120 100
công khai hoang, lập làng
Cố kết cộng đồng 108 90
Tổ chức cho vui 6 5
Ý kiến khác 0 0

(Kết quả điều tra điền dã của nghiên cứu sinh năm 2019)
Qua các số liệu thể hiện trong bảng 2.4 có thể thấy, hầu hết ngƣời Hoa
khi tham gia lễ cúng Tiền hiền, Hậu hiền đều hiểu một cách sâu sắc về ý
nghĩa, tầm quan trọng và mục đích của lễ hội. Từ đó có thể biết rằng, tín
ngƣỡng thờ Tiền hiền, Hậu hiền đƣợc cộng đồng ngƣời Hoa rất quan tâm và
xem trọng. Đây chính là cội nguồn, nền tảng để giữ gìn và phát huy những giá
trị văn hóa và tín ngƣỡng truyền thống của ngƣời Hoa thông qua lễ hội này.
Hiện nay, Tiền hiền, Hậu hiền của ngƣời Hoa đƣợc thờ ở hai nơi chính,
đó là Từ đƣờng của làng Minh Hƣơng và Hội quán Hải Nam. Từ đƣờng của
làng Minh Hƣơng xây dựng năm 1725, nằm ở số 14 đƣờng Trần Phú; đƣợc
xây dựng bằng vật liệu gỗ, lợp ngói âm dƣơng, đặc biệt với lối kiến trúc có lộ
thiên (sân ở giữa gian nhà) để lấy khí trời tạo nên sự hài hòa về âm dƣơng
(Xem Phụ lục 3, ảnh 10.1). Đối tƣợng thờ gồm Tiền hiền, Hậu hiền và những
ngƣời có công lập làng, lập đình trên nhiều phƣơng diện lúc còn sống. Sau
khi mất đi, để ghi nhớ công ơn, uy tín và đạo đức, ngƣời dân địa phƣơng tổ
chức thờ cúng trong Từ đƣờng. Dƣới các bậc Tiền hiền, Hậu hiền là những
ngƣời tiền bối, hậu bối, ... có công với làng.

74
Từ đƣờng có hai gian, gian trƣớc thờ thánh, gian sau thờ thần. Gian
trƣớc bố trí theo kiểu ngƣời Việt nhƣng mang âm hƣởng ngƣời Hoa, thờ các
thánh của ngƣời Việt nhƣ ông Dƣợc Vƣơng (một thầy thuốc hiển linh phù hộ
cho dân làng); bên trái thờ bà Thiên Hậu Thánh Mẫu, bên phải thờ Mẫu Sanh
Đại Đế. Ngoài ra, còn thờ thêm hai bài vị của Thiên Hoa Nƣơng Nƣơng (bà
Mụ) và Phƣớc Đức Chánh Thần (Thành hoàng).
Gian sau ngay chính giữa của Từ đƣờng đƣợc bài trí bàn thờ Tiền hiền
Khổng Thiên Nhƣ (Tƣớc hầu) và 19 vị họ tộc đầu tiên từ Trung Hoa di cƣ
sang Hội An. Trong đó, chỉ có 3 họ tộc sang sau cùng là có tên tuổi chính xác
về ngƣời đƣợc thờ bao gồm: họ Ngô - Đẩy - Trƣơng. Bàn thờ bên phải thờ bà
Ngô Thị Lằng (ngƣời Minh Hƣơng) đã có công mua đất cúng cho làng và
ông Huệ Hƣờng một vị cha tu tại gia từng cúng tiền cho làng. Bàn thờ bên
trái chánh điện thờ lý trƣởng, hƣơng trƣởng, làng trƣởng, ấp trƣởng và những
ngƣời trong làng Minh Hƣơng không nơi nƣơng tựa.
Hội quán Hải Nam đƣợc thiết kế theo kiến trúc hình chữ “quốc” với
quy mô rộng lớn, gồm: nhà tiền điện, chính điện và hai nhà đông lang, tây
lang. Chính điện đƣợc tạo dựng khá quy mô với các hàng cột lớn đứng trên
chân những tảng đá cẩm thạch. Các khám thờ trong chánh điện đƣợc điêu
khắc tinh vi thể hiện sự tài tình giàu nghệ thuật trong kỹ thuật điêu khắc
truyền thống. Đặc biệt, án thờ gian giữa chạm khắc nổi, mạ vàng cảnh sinh
hoạt tam giới “trời, đất, thuỷ cung” hết sức lộng lẫy, uy nghi. Đối tƣợng thờ
chính trong Hội quán là các vị Tiền Hiền; bên cạnh đó còn thờ Thần tài và
vong linh của 108 vị Nghĩa Liệt Chiêu ứng (Xem thêm Phụ lục 3, ảnh 10.2).
Trong tâm thức của cộng đồng ngƣời Hoa ở Hội An, các bậc Tiền hiền
luôn hiện diện ở mọi lúc, mọi nơi của cuộc sống hàng ngày, phù hộ cho họ tai
qua nạn khỏi, làm ăn phát tài phát lộc. Chính yếu tố này là sợi dây liên kết
bền chặt các thành viên, các thế hệ trong làng với nhau, đồng thời cũng quy
định cách ứng xử của cộng đồng ngƣời Hoa theo triết lý: “Trong nhà bênh
họ, ngoài ngõ bênh làng”.

75
Ngày kỵ Tiền hiền là một trong những ngày lễ lớn của cộng đồng
ngƣời Hoa ở Hội An, mang tính chất lễ giỗ Tổ chung của cả làng. Trƣớc khi
tổ chức lễ, Ban trị sự của làng và Hội quán họp cử đại diện đứng ra cúng tế
(chủ tế). Chủ tế phải ăn chay trƣớc đó 3 ngày, ngƣời chủ tế phải toàn vẹn, có
vợ và con cái, gia đình hạnh phúc.
Hiện nay, Ban trị sự của Minh Hƣơng Tụy Tiên Đƣờng gồm có 6
ngƣời, trong đó: Trƣởng ban là ông Tăng Xuyên; Phó ban là ông Lý Minh An
và ông Trang Thanh Liêm; Ủy viên gồm có các ông Trƣơng Duy Tuấn, Lƣu
Đình Phát, Lý Duy Hải và Huỳnh Quang Thuyền. Theo ông Sƣ Chấn Quên -
Trƣởng ban trị sự Hội quán Hải Nam thì lễ cúng Tiền hiền, Hậu hiền diễn ra
trong hai ngày 14 - 15/6 âm lịch. Còn Minh Hƣơng Tụy Tiên Đƣờng diễn ra
sớm hơn là ngày 11 - 12/2 âm lịch hàng năm. Song, lễ cúng của Hội quán Hải
Nam và Minh Hƣơng Tụy Tiên Đƣờng đều giống nhau, gồm lễ túc và lễ
chánh. Lễ túc (cúng âm linh) diễn ra vào buổi chiều ngày 11/2 và 14/6 nhằm
báo cáo trƣớc với các vị âm linh, ông bà trong khuôn viên đất đai; lễ chính
diễn ra vào lúc 10 - 11 giờ ngày 12/2 và 15/6 âm lịch.
Lễ vật dâng cúng của lễ túc gồm: bình bông, hoa quả, ngũ cốc, cùng
nhiều đồ mã (áo giấy, tiền vàng để cúng Âm hồn). Lễ túc diễn ra vào lúc 4
giờ chiều, chánh tộc đứng vái và cúng tế. Sau khi chánh tộc khai chiêng trống
thì đọc lời tế: “Cô hồn tứ phƣơng, tám hƣớng hội tụ để hƣởng ngoạn của
ngƣời sống, con cháu của tộc phát nguyện trong tộc,...”. Đọc xong 3 lần thì
chánh tộc cắm hƣơng, rót rƣợu, trà. Đợi cho hết một tuần hƣơng (một cây
hƣơng) thì chủ tế tế lạy ba lần đọc lời tế, rồi đốt áo giấy.
Riêng lễ chánh kỵ đƣợc tiến hành vào sáng sớm ngày hôm sau, lễ vật
dâng cúng gồm có hoa, ngũ quả. Đặc biệt, lễ này phải có một con heo quay
toàn sắc (con heo phải đẹp, không bệnh tật) để dâng cúng. Đến giờ cúng, chủ
tộc khai trống, chiêng và đọc văn tế với nội dung chính là,… (Xem Phụ lục 4,
phần 4.1)

76
Sau nửa tuần hƣơng (khoảng 10 phút), chủ tế rót trà rƣợu và khấn lễ:
Kính mong những bậc Tiền hiền, Hậu hiền chứng kiến cho buổi chính lễ hôm
nay, ban phúc lành, cầu cho mƣa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Hết tuần
hƣơng (khoảng 20 phút), chủ tế khấn lại lần cuối rồi đốt áo giấy, miệng đọc:
Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát (3 lần), các bậc Tiền hiền, Hậu Hiền chứng
kiến cho buổi chính lễ này của chúng tôi thành kính đƣợc dâng lên.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, điểm khác biệt duy nhất giữa Hội quán
Hải Nam với Minh Hƣơng Tụy Tiên Đƣờng là chỉ có phần lễ không có phần
hội. Sau khi kết thúc phần lễ, các con cháu của Hội quán Hải Nam tập trung
lại ăn uống. Còn Minh Hƣơng Tụy Tiên Đƣờng thì có thêm phần hội nhƣ:
chúc thọ các vị cao niên trong làng từ 85 tuổi trở lên, tổ chức xổ số đầu năm,
tiệc giao lƣu với bà con làng Minh Hƣơng và các hội quán của ngƣời Hoa ở
Hội An cùng với con cháu của ngƣời Minh Hƣơng ở Quảng Ngãi, Tam Kỳ,
Đà Nẵng về dự. Những dịp sinh hoạt văn hóa này đã góp phần gắn kết các
thành viên trong cộng đồng ngƣời Hoa, giúp họ xích lại gần nhau.
2.2.2. Thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu
Ngƣời Hoa di cƣ đến Hội An chủ yếu bằng đƣờng biển, để đến đƣợc
Hội An họ đã trải qua những tháng ngày vƣợt biển đầy khó khăn và nguy
hiểm. Trên đƣờng vƣợt biển “lành ít dữ nhiều” gặp không ít thiên tai sóng
gió, nhƣng mỗi khi gặp phải tai ƣơng trên biển họ thƣờng đƣợc một vị nữ
thần cứu vớt - đó là Thiên Hậu Thánh Mẫu, nên tàu bè thoát nạn, thuận buồm
xuôi gió. Để tri ân nữ thần đó, ngƣời Hoa ở Hội An tiến hành xây dựng Hội
quán Ngũ Bang và Hội quán Phƣớc Kiến. Đối tƣợng thờ chính ở hai hội quán
này là Thiên Hậu Thánh Mẫu. Việc thờ cúng Thiên Hậu của ngƣời Hoa ở đây
đƣợc duy trì từ trƣớc đến nay tại Hội quán Ngũ Bang và Hội quán Phúc Kiến
cũng nhƣ tại nhà riêng của một số gia đình ngƣời Hoa.
Nhƣ đã trình bày, Hội quán Ngũ Bang và Hội quán Phƣớc Kiến đƣợc
xây dựng năm 1741 - 1792, ở số 64 và 46 đƣờng Trần Phú. Công trình xây

77
dựng bằng vật liệu gỗ, lợp ngói âm dƣơng. Hiện nay Ban trị sự của hội quán
gồm có: Trƣởng ban là ông Trần Tế Quý và Phó ban là ông Trần Tế Thông.
Tại Hội Quán Ngũ Bang và Hội quán Phƣớc Kiến, ngƣời ta thờ Thiên
Hậu Thánh Mẫu trang trọng ở gian chính giữa (Xem Phụ lục 3, ảnh 11.1,
11.2). Nơi thờ Bà đƣợc trang trí lộng lẫy, sơn son thếp vàng và chạm trổ hoa
văn tinh xảo, bên trong đặt tƣợng của Bà. Tƣợng của Bà thể hiện hình dáng
của một ngƣời phụ nữ đang ngồi, khuôn mặt đầy đặn phúc hậu, bên ngoài
khoác chiếc áo choàng màu đỏ, thêu kim tuyến, đầu đội mũ, tay cầm bài vị.
Hai bên Bà có tƣợng của hai thuộc hạ là “Thiên lý nhãn” và “Thuận phong
nhĩ”, để giúp Bà nhìn xa ngàn dặm, nghe thấy tiếng kêu cứu từ xa xôi để kịp
thời ứng cứu. Phía sau lƣng Bà thờ Lục Tánh Vƣơng Gia, bên phải chánh
điện thờ bà chúa sanh thai và 12 bà mụ. Bên cạnh còn thờ các vị thần bảo hộ
về sông nƣớc, tiền của, các vị hiền nhân.
Tại Hội quán Ngũ Bang và Hội quán Phƣớc Kiến, ngƣời Hoa đi lễ hầu
hết các ngày trong tháng. Nhƣng ngày vía Bà (ngày 23 tháng 3 âm lịch) đƣợc
xem là ngày hội lớn của cộng đồng ngƣời Hoa nơi đây. Vào ngày này, mọi
ngƣời trong và ngoài Bang Hội đem lễ vật và nhang đèn đến cầu cúng rất
đông. Đây đƣợc xem là dịp để cộng đồng ngƣời Hoa gặp gỡ nhau, ôn lại
những chuyện đã qua, đồng thời nhắc cho lớp trẻ nhớ đến nguồn gốc quê
hƣơng, rồi bàn bạc phƣơng hƣớng giúp đỡ những ngƣời trong Bang Hội đang
gặp cảnh khó khăn,... Ngay từ chiều ngày 22 tháng 3 âm lịch, trong khuôn
viên của Hội quán Phƣớc Kiến và Hội quán Ngũ Bang, ngƣời dân trang
hoàng hàng trăm chiếc đèn lồng, cờ hiệu của ngày vía với nhiều kiểu dáng và
màu sắc rực rỡ từ trong ra ngoài. Quan trọng nhất là lễ mộc dục (tắm Bà) và
dâng lên Bà những bộ trang phục, các đồ trang sức mới. Trong lễ tắm Bà,
ngƣời ta dùng một chiếc khăn mới, mềm, sạch nhúng vào nƣớc rồi lau bụi
bám trên thân tƣợng. Sau đó, thay cho Bà bộ áo mới đẹp nhất đƣợc chọn
trong số những bộ quần áo mà những ngƣời đem tới dâng cúng. Sau lễ mộc
dục ngƣời dân tổ chức cúng chay để trình báo với Bà và các vong linh [62].

78
Sáng ngày 23 tháng 3 âm lịch, khoảng 9 - 10 giờ ngƣời dân tổ chức lễ
chính theo nghi thức cổ truyền gắn với tập quán của ngƣời Hoa Phƣớc Kiến.
Lễ vật dâng cúng Bà gồm có: trái cây, xôi, chè, vàng mã, cơm chiên Dƣơng
Châu, vịt tiềm bát bửu,... Ngoài ra còn phải có cá, giò heo, gà, vịt, cua đã
đƣợc nấu chín, đặc biệt là phải kèm theo một con heo quay. Khi buổi lễ bắt
đầu, tất cả những ngƣời tham dự đều đứng trang nghiêm, ngƣời chủ tế và bồi
tế bƣớc vào vị trí của mình. Lúc này chiêng trống đƣợc đánh vang, ngƣời dân
dâng lên hƣơng, rƣợu, heo quay và sau đó hƣớng về điện thờ Bà vái lạy 3 lạy.
Lúc này ngƣời chủ tế đọc văn tế (Xem Phụ lục 4, phần 4.2)
Khi đọc văn tế xong, chờ hết một tuần hƣơng, chủ tế tiến hành đốt vàng
mã rồi lại hƣớng về điện thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu vái tạ ba lạy. Nghi lễ hoàn
thành, ngƣời dân xin xăm, xin lộc, vay vốn Bà để làm ăn, cầu tự, cầu tài,...
Điểm khác biệt duy nhất của Hội quán Ngũ Bang với Hội quán Phúc
Kiến là Hội quán Ngũ Bang chỉ có phần lễ không có phần hội. Tác giả Vũ
Hoài An trong bài viết “Thần trong tín ngưỡng của người Hoa ở Hội An” đã
khảo sát khá kỹ những nghi lễ thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu ở Hội quán Ngũ
Bang và Phúc Kiến cho biết: “Sau khi kết thúc phần lễ các con cháu của Hội
quán Ngũ Bang tập trung lại ăn uống, trò chuyện. Còn Hội quán Phúc Kiến
sau phần lễ là phần hội diễn ra, tiệc chiêu đãi tân khách đƣợc dọn ra trong
khuôn viên của Hội quán Phúc Kiến, đồng thời cũng diễn ra các hoạt động
khác nhƣ liên hoan văn nghệ, xổ số cầu may, bán đấu giá lồng đèn, biểu diễn
múa lân sƣ, rồng,... để thu tiền làm những công việc từ thiện nhƣ là: phát gạo,
quyên góp cứu trợ,...”. Đây là những việc đƣợc thƣờng xuyên diễn ra vào
những ngày lễ cúng hàng năm, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Ngày lễ vía của
Hội quán Ngũ Bang và Hội quán Phúc Kiến đều có sự pha trộn giữa tín
ngƣỡng dân gian và Phật giáo. Vào ngày lễ cúng, có sự xuất hiện của các nhà
sƣ tụng kinh, đọc chú và điều hành nghi thức cúng. Việc kết hợp giữa tín
ngƣỡng dân gian và Phật giáo là minh chứng về một thành phố Hội An xƣa

79
đã có tính dung hợp tín ngƣỡng trong tôn giáo - một đặc trƣng của văn hóa
Việt Nam và nhiều quốc gia khác.
Lễ vía Bà Thiên Hậu không chỉ thu hút cộng đồng ngƣời Hoa, ngƣời
Việt ở Hội An mà còn thu hút đông đảo bà con đồng hƣơng của ngƣời Hoa ở
các địa phƣơng lân cận đến tham dự. Đây là một lễ tục truyền thống của cộng
đồng ngƣời Hoa ở Phố cổ Hội An, góp phần làm phong phú thêm những hoạt
động lễ hội ở Hội An, tăng cƣờng tình đoàn kết gắn bó cộng đồng và trở
thành nét văn hóa chung của ngƣời dân Hội An.
2.2.3. Thờ Môn thần
Thờ Môn thần là một trong những hình thức tín ngƣỡng cổ xƣa nhất,
đồng thời cũng đƣợc xem là một trong những hiện tƣợng văn hóa đặc sắc của
văn minh Trung Hoa. Trong tín ngƣỡng dân gian của ngƣời Hoa, Môn thần là
vị thần có khả năng ngăn chặn, đe dọa và khống chế các oan hồn, ma quỷ rất
kỳ diệu. Vị thần này có nhiệm vụ không cho tà ma xâm nhập vào gia cƣ, gây
tai họa cho con ngƣời sinh sống trong nhà nhƣ ốm đau, chết chóc, việc làm
ăn bị thất bại,... Cho nên từ xa xƣa, trong tín ngƣỡng dân gian của ngƣời Hoa,
thần Cửa chiếm một vị trí rất quan trọng. Các vị thần này đƣợc thể hiện dƣới
nhiều hình thức thờ tự khác nhau, đôi khi chỉ là bức tranh, bức tƣợng, hình
mặt hổ phù ngậm chiếc vòng thiếc, hình nhân bằng gỗ đào, chiếc gƣơng soi
hình tròn, hình bát giác ở trên đó vẽ hình bát quái hoặc chỉ một vài câu bùa
chú gắn trên các cánh cửa ra vào. Ở Hội An, tín ngƣỡng thờ Môn thần của
ngƣời Hoa đƣợc thể hiện khá rõ qua hình thức thờ hai vị thần là Tần Thúc
Bảo và Uất Trì Kính Đức tại các di tích tín ngƣỡng tôn giáo và kiến trúc dân
dụng của ngƣời Hoa. Có khi hai vị này đƣợc vẽ trên cánh cửa ra vào của Hội
quán, hoặc dƣới hình thức trang trí Mắt cửa trên các ngôi nhà. Ở cửa ra vào
của hai Hội quán Triều Châu và Hội quán Quảng Triệu có vẽ hai vị thần Tần
Thúc Bảo và Uất Trì Kính Đức (Xem Phụ lục 3, ảnh 12.1, 12.2).
Nhƣ đã đề cập, Hội quán Triều Châu tọa lạc tại số 157 đƣờng Nguyễn
Duy Hiệu, đƣợc ngƣời Hoa bang Triều Châu xây dựng vào năm 1845 làm nơi

80
sinh hoạt cộng đồng và tín ngƣỡng riêng của những ngƣời Triều Châu ở Hội
An. Hội quán thờ Phục Ba Tƣớng Quân là vị thần chế ngự sóng gió, nhằm
cầu mong việc đi lại buôn bán trên biển đƣợc thuận buồm, xuôi gió. Hội quán
là một công trình kiến trúc với bộ khung gỗ chạm trổ tinh xảo, cùng những
họa tiết, trang trí bằng gỗ theo các truyền thuyết dân gian và những tác phẩm
đắp nổi bằng sành sứ tuyệt đẹp [56; tr. 99]. Còn Hội quán Quảng Triệu tọa
lạc tại số 176 đƣờng Trần Phú, do ngƣời Hoa bang Quảng Đông xây dựng
năm 1885, thoạt đầu để thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu và Đức Khổng Tử, sau
năm 1911 chuyển sang thờ Quan Công và Tiền Hiền. Tại hai hội quán này,
hình ảnh Tần Thúc Bảo râu hùm, khuôn mặt màu đen, Uất Trì Kính Đức
khuôn mặt màu trắng, mặc nhung phục võ tƣớng, tay cầm binh khí đứng gác.
Cả hai đƣợc vẽ bằng sơn màu rất đẹp.
Ngƣời Hoa ở Hội An quan niệm rằng, con ngƣời và con vật đều có mắt
để nhìn đời và nhìn lòng mình, thì đồ vật gắn với con ngƣời cũng phải có
mắt. Cái thuyền là nhà nổi trên sông phải đƣợc vẽ mắt trƣớc khi hạ thủy, cái
nhà trên đất cũng phải có mắt để tránh cho chủ nhà những tai nạn. Nên tại các
cánh cửa ra vào những ngôi nhà cổ, hội quán, đền miếu, nhà thờ tộc, đình,
chùa tại khu phố cổ Hội An, đều có gắn hai khoanh gỗ hình tròn, hình lục
giác, hình bát giác,... đƣợc chạm khắc khá công phu và đôi khi đƣợc sơn son
thếp vàng, đó chính là “Mắt cửa”. Mắt cửa là một dạng trang trí khá đặc sắc
cho ngôi nhà, nó thực chất là núm khóa chốt cửa, có hình dáng chiếc đinh,
phần tán ở đầu dày 10cm, đƣờng kính khoảng 20cm, phần chốt đục liền với
tán tiết diện hình chữ nhật dài khoảng 30cm, có chức năng liên kết “đố cửa”
và “khung cửa” giữ không cho cánh cửa rời ra [139].
Mắt cửa của ngƣời Hoa ở Hội An có nhiều kiểu khác nhau. Phần lớn
các mắt cửa có dạng hình tròn, hình lục giác, hình bát giác, hoặc cắt khấc
thành 6 hoặc 8 đầu cánh hoa cúc; một số ít mắt cửa có dạng hình vuông. Tán
mắt cửa thƣờng đƣợc chia thành hai phần: phần tâm và phần vành bao quanh
mắt cửa. Phần tâm của mắt cửa đa số thƣờng trang trí hình lƣỡng nghi đƣợc

81
sơn hai màu đen trắng - biểu tƣợng của âm dƣơng, hình nhụy hoa, hình chữ
triện, chữ Phúc, chữ Thọ,... Còn phần vành bao quanh bên ngoài tâm, tạo
dáng hoa cúc 6 hoặc 8 cánh mà cánh của nó xoáy hình lá đề, hình bát quái,
hình hồi văn, hình giao long, hình bốn hoặc năm con dơi bao quanh chữ
Phúc. Có mắt cửa chỉ có một chữ Thọ, hoặc tạo một gờ chỉ nổi phía bên
ngoài vây lấy tâm,... Một số mắt cửa hình vuông thì phần vành của nó không
đƣợc trang trí. Ngoài ra ở một số đền miếu, hội quán, mắt cửa có trang trí
khác: nhƣ mắt cửa ở Miếu Quan Công (số 24 Trần Phú) có dạng hình tròn,
phần tán đƣợc chạm nổi mặt con lân miệng đang há to, mắt trắng, mi xanh,
mũi đỏ, râu bạc trông rất dữ tợn; mắt cửa ở hậu cung Hội quán Phúc Kiến sơn
son thếp vàng mà phía trên chạm đôi rồng chầu mặt trời, phía dƣới là đôi giao
long chầu mặt trăng, ở chính giữa là vòng tròn âm dƣơng; còn ở Chùa Cầu
mắt cửa cũng sơn son thếp vàng, trên tán mắt cửa ngƣời ta chạm nổi hình bốn
hoa cúc dây bao bọc xung quanh, xoáy lƣỡng nghi nằm ở chính giữa,... [139].
Ở phố cổ Hội An, mắt cửa chỉ tập trung trong những di tích kiến trúc
dân dụng và kiến trúc tôn giáo tín ngƣỡng của ngƣời Hoa, những ngôi nhà,
đình, chùa của ngƣời Việt rất hiếm thấy điều này. Môn thần của ngƣời Hoa ở
Hội An đƣợc cúng bái hằng đêm bằng cách cắm hai bên cánh cửa một cây
nhang mục đích thể hiện lòng tôn kính của gia chủ đối với Môn thần.
Nhƣ vậy việc thờ Môn thần trong các công trình kiến trúc của ngƣời
Hoa ở Hội An đã góp phần làm phong phú thêm văn hóa cho vùng đất mới -
Hội An. Ngƣời Hoa thờ Môn thần với ý niệm về sự bình yên, cầu mong
những điều tốt đẹp, xua tà ma, bệnh tật, ... Đây không chỉ là những ƣớc mong
hết sức thiết thực và chính đáng mà qua đó còn thể hiện đƣợc nét bản sắc độc
đáo của ngƣời Hoa ở vùng đất nhiều kỳ thú.
2.2.4. Thờ Quan Thánh Đế Quân (Quan Công)
Thờ Quan Công của ngƣời Hoa ở thành phố Hội An nổi bật tại Chùa
Ông số 24 đƣờng Trần Phú và Hội quán Quảng Đông số 176 đƣờng Trần
Phú. Chùa Ông còn đƣợc gọi là Quan Công miếu, tên chữ là Trừng Hán

82
Cung, đƣợc ngƣời Minh Hƣơng định cƣ ở Hội An và ngƣời Việt cùng xây
dựng vào khoảng giữa thế kỷ XVII. Nơi đây thờ vị tƣớng tài ba thời Tam
Quốc là Quan Vân Trƣờng (Quan Vũ), nhằm kính ngƣỡng, ca tụng, tán
dƣơng lòng nghĩa khí, tiết trung liệt của Ông.
Cấu trúc ngôi chùa gồm 4 tòa nhà, một tiền đình, 2 tả, hữu vu và một
chính điện rộng. Bốn tòa cất xây theo kiểu chữ khẩu, kiến trúc kiểu chồng
tránh, ngói lợp và nóc rất độc đáo; có trang trí Rồng, Giao. Chính điện đặt
pho tƣợng Quan Vân Trƣờng tƣớng quân mặc thanh bào thêu rồng nổi kim
tuyến, nét mặt oai nghiêm tƣơi sáng, đôi mắt sắc, lung linh nhìn về phía
trƣớc. Chính điện có hai pho tƣợng Châu Thƣơng - ngƣời nô tì dũng cảm,
trung thành của Quan Công và tƣợng Quan Bình nghĩa tử của ông; hai con
ngựa thờ cao bằng ngựa thật, bên tả là ngựa trắng, bên hữu ngựa xích thố -
con ngựa mà Vân Trƣờng rất quý khi đƣợc Tào Tháo ban cho.
Còn Hội quán Quảng Đông đƣợc chia làm ba gian, gian giữa thờ Quan
Công và ngựa Bạch, Xích thố; hai gian còn lại thờ Tài Bạch tinh quân và
Phƣớc Đức Chánh thần. Toàn bộ công trình đƣợc kiến trúc theo kiểu hình
chữ “quốc” trên một nền đất rộng, cao ráo. Nhà tiền điện khá quy mô với các
mảng tƣờng đƣợc lắp dựng bằng đá, hệ cột kèo cao to, chạm trổ tinh xảo,
lộng lẫy, mái tạo dáng cong vút, nhiều tầng, khoảng cách giữa các tầng gắn
nhiều tƣợng ngƣời, tƣợng thú theo các điển tích xƣa. Chính điện rộng lớn
thoáng đãng với hệ cột kèo đồ sộ vững chắc. Giữa sân có hồ nƣớc lớn đắp nổi
hình rồng uốn lƣợn uyển chuyển [202].
Quan Công tên khai sinh là Quan Vũ, theo nhiều tƣ liệu hiện còn, ông
sinh năm 160, mất năm 220. Ông là một nhân vật lịch sử thời Tam Quốc. Ở
Trung Quốc, ông đƣợc xem là ngƣời giỏi võ nghệ và đƣợc tôn là vị “tƣớng
thần”. Quan Công với tƣ cách là một trong những nhân vật chính đã đi vào
nhiều tác phẩm sử học, văn học của các nhà văn, nhà viết sử nổi tiếng khi họ
viết về thời kỳ Tam Quốc, trong đó có nhắc đến Quan Công với tƣ cách là
một trong những nhân vật chính. Trần Thọ - một ngƣời viết sử thời Tấn đã

83
viết cuốn sử Tam Quốc Chí và Bùi Tùng Chí (thời Nam Bắc Triều) viết cuốn
Tam Quốc Chí Chú. Vào thời Nguyên có quyển Tam Quốc Chí Bình Thoại
khá nổi tiếng. Bên cạnh đó, Quan Công cũng nhƣ nhiều nhân vật lịch sử thời
Tam Quốc khác, đƣợc lƣu truyền trong khá nhiều giai thoại của ngƣời đời
sau. Nổi bật nhất trong số này chính là bộ tiểu thuyết Tam Quốc chí diễn
nghĩa của nhà văn La Quán Trung (1330-1400). Trong bộ tiểu thuyết này,
nhà văn La Quán Trung đã kế thừa toàn bộ thành tựu của những nhà văn
trƣớc, kể cả những câu truyện dân gian, để viết nên cuốn tiểu thuyết của
mình. “Tam Quốc chí diễn nghĩa” đƣợc đánh giá là một trong Bát Đại Kỳ
Thƣ của tiểu thuyết Trung Quốc thời kỳ Minh - Thanh nói riêng và của lịch
sử văn học Trung Quốc nói chung. Từ những giai thoại dân gian cho đến các
tác phẩm văn học, sử học đều ca ngợi Quan Công với các phẩm chất: trung
nghĩa, thẳng thắn, hiên ngang, chính trực, văn võ toàn tài, có tiết tháo của
ngƣời quân tử,... Những phẩm chất đó phù hợp với truyền thống văn hoá
Trung Quốc - vốn dĩ chịu ảnh hƣởng Nho giáo khá sâu đậm.
Ngoài ra, theo quan niệm của ngƣời Trung Quốc, có 2 vị thánh đƣợc
tôn kính là Văn Thánh (Khổng Tử) và Võ Thánh (Quan Công). Hai vị này
biểu trƣng cho quan niệm văn võ luôn song hành để phục vụ các triều đại
phong kiến. Quan Công đƣợc thần thánh hóa và trở thành vị thần của tín
ngƣỡng dân gian Trung Quốc, đƣợc thờ cúng ở nhiều nơi, kể từ thời Tống trở
đi (962 - 1279). Đặc biệt, vào năm 1828, đời nhà Thanh, vua Đạo Quang
(Thanh Nghị Tông) đã phong Quan Công một tƣớc vị cao quý: “Trung Nghĩa
Thần Vũ Linh Hựu Nhân Dũng Uy Hiển Quan Thánh Đại Đế”. Việc phong
tƣớc vị đại đế nhằm cổ vũ cho tinh thần “Mãn - Hán một nhà”, tạo tiền đề ổn
định xã hội Trung Quốc dƣới triều đại này. Quan Công đƣợc các thƣơng gia
Trung Quốc thờ cúng vào cuối đời nhà Minh, nhà Thanh và thời Dân Quốc
(1911 - 1949). Giai đoạn này với sự phát triển của kinh tế thƣơng mại, cho
nên tầng lớp thƣơng nhân thờ cúng Quan Công nhằm biểu trƣng cho chữ

84
“Tín” trong buôn bán. Ngoài ra, ông còn đƣợc xem là vị Thần tài để bảo vệ
và mang đến sự may mắn, tiền bạc cho họ.
Khi di cƣ đến Hội An, ngƣời Hoa lập miếu thờ Quan Công với mục
đích đề cao tinh thần trung nghĩa; đồng thời thể hiện cho tấm lòng luôn
hƣớng về quê hƣơng cố quốc, không để bị mất truyền thống, mai một văn hoá
truyền thống của mình ở nơi cƣ trú mới. Điều này đƣợc xem là một vấn đề
quan trọng trong tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Hội An. Đến những ngày vía,
ngày kỵ của Ông, ngƣời dân thƣờng tổ chức cúng tế linh đình và nó đã trở thành
ngày hội của không những cƣ dân địa phƣơng mà cả nhiều nơi khác nhƣ Đà
Nẵng, Tam Kỳ, Quảng Ngãi. Trong đó, bộ phận ngƣời theo tín ngƣỡng này
đông đảo nhất vẫn là giới thƣơng nhân.
Ở nƣớc ta, tại nhiều thành phố, huyện thị của ba miền đất nƣớc nhƣ Hà
Nội, Nam Định, Hƣng Yên, Thanh Hóa, Huế, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí
Minh,... đều lập chùa, miếu để thờ Quan Công, nhƣng nơi cổ xƣa và uy nghi
nhất có lẽ vẫn là thành phố Hội An với Miếu Quan Công, mà nhân dân ở đây
quen gọi là Chùa Ông.
Miếu Quan Công là một trong bảy loại hình kiến trúc lịch sử của đô thị
cổ Hội An (gồm cầu, miếu, chùa, hội quán, đình, nhà ở, thành), đồng thời là
di tích điển hình của loại hình đền miếu ở đây. Miếu Quan Công ở đô thị cổ
Hội An đƣợc ngƣời Minh Hƣơng xây dựng với sự giúp sức đóng góp của
ngƣời Việt. Miếu gồm tiền sảnh, sân trời và hậu sảnh. Tiền sảnh đặt bàn thờ
các vệ binh của Quan Công, ở hai bên phía trƣớc treo các biển cờ lệnh của vị
danh tƣớng với bốn chữ Hán “Hiệp Thiên Đại đế” có nghĩa là vị đại đế hợp
với lẽ trời. Hai bên bàn thờ dựng đôi lỗ bộ - vũ khí và dụng cụ thờ đƣợc dùng
trong các đám rƣớc của lễ hội.
Trên cao sát mái ngói, đối diện với bàn thờ là bức hoành phi ghi hai
chữ Hán “Nghĩa khí” để nêu cao đạo đức của vị dũng tƣớng muôn đời con
cháu cần noi gƣơng. Ở phía trên cao của bàn thờ là một bức trƣớng dài và
rộng màu đỏ mang bốn chữ Hán màu vàng “Quan Thánh Đế quân”. Dƣới bức

85
trƣớng đó là bức hoành phi màu đỏ rất lớn với bốn chữ Hán màu đen “Hạo
khí Lăng Tiêu” có nghĩa là chí khí ngay thẳng lan tỏa tới tận trời, chỉ uy danh
của vị thần. Phía cuối điện thờ, sau lớp kính chắn phần cuối điện là bức tƣợng
lớn cao gần ba mét của Quan Thánh Đế quân. Vị thần đang tọa trên mình một
con bạch hổ ở thế quỳ mà đầu của nó lộ ra ở giữa đôi chân mang hia của vị
thần. Quan Công là hiện thân của Bạch Hổ và Thanh Long theo huyền thoại
dân gian. Quan Công mặc chiếc cẩm bào màu xanh lục có hình long cuộn
thêu chỉ vàng, chiếc đầu rồng nổi rõ ở phía trƣớc ngực. Ngài đội mũ giáp trụ,
ở phía trƣớc chạm hình lƣỡng long tranh châu và đƣợc gắn một chùm lông
vàng. Mặt ngài đỏ nhƣ mặt trời, mày ngài, mắt phƣợng, râu dài, hai tay chắp
lại, đang nhìn xuống hai ngƣời con nuôi với nét mặt uy nghiêm nhƣng trung
hậu (Xem Phụ lục 3, ảnh 13.2).
Chùa Ông là một di tích lịch sử, công trình tín ngƣỡng tiêu biểu của
nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và tạo hình mang phong cách nghệ thuật độc
đáo của Hội An và sắc thái nghệ thuật thời Nguyễn ít nhiều khác với nghệ
thuật thời Lý - Trần ở miền Bắc [159]. Lễ hội Chùa Ông đƣợc tổ chức long
trọng vào ngày 24/6 âm lịch. Cứ ba năm một lần (tam niên lệ), ngƣời Hoa lại
tổ chức lễ hội truyền thống trong các năm Thìn, Tuất, Sửu và Mùi kéo dài
trong ba ngày 23 - 25 tháng 6.
Đây là một trong những lễ hội lớn ở Hội An, một sinh hoạt tín ngƣỡng
thu hút đại đa số nhân dân không chỉ ở trung tâm khu phố mà còn ở nhiều địa
phƣơng khác. Trƣớc ngày vía chính (23/6), Tổ quản lý di tích Quan Công
miếu và Ban trị sự Hội quán Quảng Đông tổ chức trang trí, trƣng bày cờ hội,
cờ hoa. Ngay trƣớc cửa chính treo 2 cờ đại trên có thêu dòng chữ Hán “Hiệp
Thiên Đại Đế, Quan Thánh Đế Quân”. Nhiều hoa, quả của bà con dâng cúng
đƣợc bày biện trên các bàn thờ vào dịp này. Riêng ngày 23/6 phải cúng chay,
còn các ngày khác thì cúng mặn.
Ngày 24/6 là ngày chính thức diễn ra lễ tế quan trọng. Sáng tinh mơ tại
Chùa Ông và Hội quán Quảng Đông, đội kèn nhạc đã tề tựu xếp hàng hai bên

86
tả, hữu vu, trong điện khói hƣơng trầm nghi ngút, chuông trống vang lừng, để
chuẩn bị bƣớc vào lễ tế. Ngay giữa chính điện bày nguyên một con heo quay,
trên lƣng heo có cắm một con dao với ngụ ý là mời các vị thần dùng dao xẻ
thịt ăn, 1 mâm xôi vò, 1 mâm bánh bao, tôm, cua, cá, trứng, vịt và nhiều hoa
quả, áo giấy. Ở bàn thờ của ngựa Bạch Mã, Xích Thố, khám thờ Khổng Tử,
Chúa Tiên cũng bày nhiều hoa quả, bánh trái và đồ vàng mã. Ngoài Ban tổ
chức buổi tế lễ còn có Ban tiếp dẫn (đội gia lễ) và Ban tế lễ (chánh tế, đông
tây xƣớng và đọc văn tế). Bƣớc vào lễ tế, mở đầu 3 hồi chiêng trống, tiếp
theo là dàn cổ nhạc cất lên, đội gia lễ hƣơng đèn sẵn sàng tiếp dẫn, dâng hoa
quả lên điện theo lời xƣớng của đông, tây xƣớng. Ngƣời chủ tế mặc lễ phục
một cách chỉnh tề, rồi quỳ lạy trƣớc trƣớc điện Quan Công theo lời xƣớng tế,
trƣớc sự tham gia chứng kiến của hàng trăm ngƣời dân tham dự hai bên điện.
Tất cả những ngƣời tham gia trong buổi lễ đều phải thành kính, trang nghiêm
trong suốt thời gian diễn ra buổi tế lễ. Văn tế Quan Thánh đƣợc viết bằng chữ
Hán trên một tấm giấy màu vàng, đính lên giá văn và bên trên dán thêm một
tờ vàng bạc, để đến bao giờ có lời xƣớng “Tuyên độc chúc” thì giá văn đƣợc
đƣa từ bàn thờ xuống, chuyển cho ngƣời đọc. Bên cạnh ngƣời đọc có hai học
trò lễ, một ngƣời đỡ giá văn, ngƣời kia cầm đèn để soi sáng cho ngƣời
đọc (đây chỉ là hình thức). Nội dung tế xem Phụ lục 4, phần 4.3).
Văn tế đọc xong là phần “Đồng Bái” (cùng lạy) của những thiện nam
tín nữ và ngƣời dân. Sau đó là lễ “Phần Chúc” tức là đốt văn tế và hóa vàng
mã, rồi kết thúc nghi lễ tế. “Cuối cùng là phần múa lân để làm tăng khí thế
sôi động của buổi lễ” [205].
Tất cả khách đến tham dự buổi lễ đều đƣợc mời dùng bữa cơm thân
mật hoặc nán lại bên bàn trà, cùng trò chuyện dăm ba câu, bàn chuyện làm
ăn, thời sự, thế thái nhân tình,...
Hiện nay, miếu thờ Quan Công thuộc sự quản lí của Trung tâm Bảo tồn
di tích Hội An. Lễ vía Quan Thánh Đế Quân là một lễ hội mang đậm tính văn

87
hóa và nhân văn sâu sắc trong cộng đồng ngƣời Hoa ở Hội An, góp phần gìn
giữ bản sắc văn hóa phong phú và đa dạng cho thành phố Hội An.
2.2.5. Thờ Bắc Đế Trấn Vũ (Huyền Thiên Đại Đế)
Bắc Đế Trấn Vũ (còn đƣợc gọi Huyền Vũ Thánh Quân, Huyền Thiên
Đại Đế, Chân Vũ Thánh Quân, Bắc Cực Hữu Thánh Chân Nhân) là một trong
những vị thần lớn đƣợc tôn sùng trong Đạo giáo của Trung Quốc. Từ thời cổ
xƣa, ngƣời ta đặt ra Thƣợng đế là Chúa tể của trời và của thế giới. Dƣới
Thƣợng đế có năm vị chúa, mỗi vị làm chủ một vùng trời và đƣợc gọi tên
theo màu sắc tƣơng ứng với hƣớng cai quản của mình: màu xanh gọi là
Thanh đế, cai quản vùng trời ở hƣớng Đông của thế giới; màu đỏ gọi là Xích
đế, cai quản vùng trời ở hƣớng Nam; màu đen gọi là Huyền đế, làm chủ vùng
trời phƣơng Bắc; màu trắng gọi là Bạch đế cai quản vùng trời phía Tây; màu
vàng gọi là Hoàng đế nằm ở Trung tâm. Về sau, trong tín ngƣỡng dân gian,
Huyền đế - vị thần ở hƣớng Bắc đã tồn tại dƣới một hình thức mới, ngài cai
quản phần phía Bắc của trời và của thế giới, đồng thời cũng cai quản cả Thủy
trong Ngũ hành (Kim, Mộc, Thổ, Thủy, Hỏa) và xua đuổi tà ma.
Ở Hội An, Huyền Đế (tức Bắc Đế Trấn Vũ) đƣợc ngƣời Hoa thờ trang
trọng tại di tích Chùa Cầu (Xem Phụ lục 3, ảnh 14.1). Đây là một công trình
kiến trúc độc đáo, gồm hai phần: Cầu và Chùa. Cầu đƣợc xây dựng bắt ngang
qua một lạch nƣớc rộng gần 10m nối liền hai phố Trần Phú và Nguyễn Thị
Minh Khai. Tƣơng truyền, cầu do ngƣời Nhật cất lên vào đầu thế kỷ XVII,
còn ngôi Chùa do ngƣời Minh Hƣơng xây dựng năm 1653 để thờ Bắc Đế
Trấn Vũ. Tại đây, Bắc Đế Trấn Vũ đƣợc thờ ở vị trí trung tâm của chánh
điện. Tƣợng của ngài tạc bằng gỗ mít, không sơn màu, cao 0,5m, phong thái
uy nghi, khuôn mặt vuông vức nghiêm nghị, ngực ƣỡn về phía trƣớc, đầu đội
mũ, chân để trần, thân mặc một áo dài buông xuống sát đất, bên ngoài mặc
một áo giáp có trang trí hoa văn tinh xảo và nơi bụng có đeo một vòng đai.
Nhiều thế kỷ trôi qua, bức tƣợng đƣợc tạc bằng gỗ mít, lại nằm trên một lạch
nƣớc, hàng năm phải hứng chịu bão lụt thƣờng xuyên ở Hội An, cộng thêm

88
các loài côn trùng gặm nhấm làm hƣ hại một số mảng ở trên thân tƣợng. Để
bảo tồn bức tƣợng, ngành bảo tồn ở Hội An đã phục chế một bức tƣợng khác
để thờ tự tại Chùa Cầu, còn bức tƣợng gốc đƣợc đƣa về trƣng bày và bảo
quản tại Nhà trƣng bày truyền thống lịch sử - văn hóa Hội An. Bức tƣợng
phục chế có vài điểm khác so với bức tƣợng gốc của di tích, cụ thể là: tƣợng
phục chế đƣợc sơn màu, thể hiện rõ những màu sắc tƣơng ứng với chi tiết
trên thân tƣợng. Bắc Đế Trấn Vũ đứng với phong thái uy nghi, tóc dài buông
xõa, đầu đội mũ vàng nạm ngọc, râu năm chòm phất phơ bay, áo dài màu
xanh buông sát đất, ngoài mặc áo giáp, chân không giày dép, đứng trên lƣng
của một con rùa có rắn quấn quanh, hai tay cầm thanh bảo kiếm đang trong tƣ
thế ấn xuống mặt biển; mặt biển là một trôn đế hình tròn, thể hiện sóng nƣớc
đang cuộn dâng.
Bức tƣợng của Bắc Đế Trấn Vũ không mang giày dép, chân đạp rùa và
rắn, đƣợc lý giải theo nhiều cách. Một số ngƣời cho rằng, con rùa và con rắn
chính là những thiên tƣớng trên trời, dƣới quyền cai quản của ngài. Còn một
số ngƣời khác lại cho rằng con rùa và con rắn đều là những con quỷ thù địch,
đã bị ngài đánh bại và chà dƣới chân. Thực ra, con rùa và con rắn chính là
hình thức đầu tiên của Thần. Ngƣời ta thấy nó xuất hiện từ thời Hán, khi phân
chia ra các phƣơng cai trị của thần linh. Lúc đó, rùa rắn màu đen làm chủ
phƣơng Bắc; còn chim đỏ ở phƣơng Nam; hổ trắng tƣợng trƣng cho phía Tây
và rồng lục tƣợng trƣng cho phía Đông của thế giới; còn hình ngƣời thì về
sau này mới thấy xuất hiện [203].
Còn hình ảnh “Bắc Đế Trấn Vũ chân không giày dép, đứng trên hai
con rùa và rắn” đƣợc giải thích theo những huyền thoại vào đời nhà Minh,
khi Đạo giáo ở Trung Quốc phát triển mạnh mẽ. Tƣơng truyền rằng, ngài là
linh hồn của Ngọc Hoàng thƣợng đế hóa thân xuống trần gian để tu đạo. Ngài
đã bốn lần hóa kiếp ngƣời và tu ở bốn nƣớc khác nhau (một lần ở núi Linh
Thứ, hai lần ở núi Bồng Lai và lần thứ tƣ ở nƣớc Tịnh Lạc). Trong ba lần
đầu, ngài chƣa đủ trí lực để điều khiển các thiên tƣớng dƣới trƣớng, cũng nhƣ

89
chƣa đủ phép thuật để hàng ma phục yêu, nên lần thứ tƣ ngài lại xuống trần
gian đầu thai làm Thái tử của nƣớc Tịnh Lạc. Khi vừa sinh ra, đƣợc 9 con
rồng phun nƣớc cho ngài tắm; khi lớn lên thái tử rất thông minh, tinh thông
võ nghệ. Đến năm 14 tuổi, thái tử dứt bỏ cuộc sống nơi hoàng cung tìm đến
núi Vũ Đang tu đạo. Suốt 42 năm ngài một mình ngồi trên phiến đá tập trung
trí lực, chăm chú tu luyện. Ngài không ăn cơm, không uống nƣớc, làm cho dạ
dày và ruột đói cồn cào, nên chúng cứ sinh sự cãi vã nhau làm cho ngài
không thể ngồi yên; ngài liền mổ bụng móc hết dạ dày và ruột ném xuống
đống cỏ sau lƣng. Ở trong đống cỏ, dạ dày và ruột ngày đêm nhìn ngài tu
luyện, ngài đã trở thành một con ngƣời thần thông quảng đại, biến hóa khôn
lƣờng. Một hôm, ruột bỗng chui vào ống quần ngài và biến thành một con rắn
lớn, toàn thân mang đầy vẩy rồng; còn dạ dày thì nắm lấy giày của ngài, thoát
lên lƣng, lăn ba vòng và biến thành một con rùa đen, có mai cứng nhƣ sắt. Từ
đó ngài không còn giày để mang mà phải đi chân đất. Rùa và rắn bò xuống
núi, chúng ra sức ăn thịt gà, lợn, trâu, bò, dê và cả con ngƣời dƣới chân núi
Vũ Đang. Nhìn thấy cảnh tƣợng nhƣ vậy, ngài liền cƣỡi mây, đạp gió, khoác
bảo kiếm đi thu phục chúng. Cuộc chiến diễn ra vô cùng khốc liệt, cuối cùng
rùa, rắn bị ngài dùng phép thuật đè dƣới chân mình. Lúc này bọn chúng van
xin ngài tha mạng. Ngài thuận cho và thu phục chúng làm hai tƣớng của
mình.
Niên đại xây dựng Chùa Cầu cho đến nay vẫn chƣa đƣợc xác định
chính xác. Ngày trƣớc, ngƣời Nhật và ngƣời Phƣơng Tây gọi nó là Cầu Nhật
Bản, còn ngƣời Việt gọi là Cầu Ngói - tên ban đầu, nhƣng về sau tên này mất
đi và thay thế bằng tên gọi Chùa Cầu. Trong thƣ tịch cổ, cầu này còn đƣợc
gọi là Hội An Kiều. Trên cửa chùa có bức hoành màu đỏ chạm nổi ba chữ
Hán sơn vàng “Lai Viễn Kiều” do chúa Nguyễn Phúc Chu ban sắc vào năm
1719. Dƣới bức hoành là mắt cửa, những chốt gỗ của cửa chạm khắc hình
hoa cúc đƣợc bao quanh bởi các đƣờng xoáy lƣỡng nghi. Trên đôi cánh cửa
có chạm khắc nổi hình con sƣ tử và chiếc quạt xòe rộng mang phong cách

90
Nhật Bản (nay đã không còn) (Xem thêm Bảng giới thiệu sơ lược về Chùa
Cầu ở Phụ lục 3, ảnh 14.4)
Trƣớc đây Chùa Cầu đƣợc xây dựng trên địa phận làng Minh Hƣơng
nên việc sửa chữa, trùng tu, bảo tồn và tổ chức lễ hội đều do làng Minh
Hƣơng đảm nhiệm. Hiện nay chùa Cầu thuộc sự quản lý của Trung tâm Bảo
tồn di tích Hội An nên ngày 20 tháng 7 âm lịch hàng năm không còn tổ chức
lễ hội nhƣ xƣa.
Nhƣ đã đề cập, Bắc Đế Trấn Vũ là vị Thần chiếm vị trí quan trọng
trong tín ngƣỡng của ngƣời Hoa. Hình ảnh của Bắc Đế gắn liền với công
cuộc chống ngoại xâm của dân tộc ta. Bên cạnh đó, Ngài còn hiển linh giúp
chính quyền phong kiến trừ diệt yêu ma, yên ổn trong quá trình xây dựng các
công trình kiến trúc thành quách, dinh thự. Còn ở Hội An, việc thờ tự Bắc Đế
gắn liền với việc trị thủy, vì khu phố cổ Hội An nằm trên nền địa chất có
nguồn gốc của vùng đất bồi hạ lƣu sông Thu Bồn. Đây là một vùng đất mà
địa chất có nhiều biến động và đƣợc bao quanh bởi các con sông. Trong khi
đó, sông Thu Bồn có lƣợng nƣớc lớn nhất miền Trung, lại nằm gần một trong
những trung tâm mƣa lớn của cả nƣớc; nên hàng năm sông Thu Bồn đổ ra
biển khoảng 20km3 nƣớc (20 tỷ m3 nƣớc), do lƣợng nƣớc lớn dồn dập trong
một thời gian ngắn, cửa sông lại hẹp, làm cho bờ sông có lúc lở lúc bồi, lúc bị
cắt xé từng mảng trong mùa mƣa lũ. Ở Hội An, từ tháng 9 đến tháng 12 âm
lịch thƣờng xảy ra lũ lụt. Mỗi năm, Hội An phải hứng chịu rất nhiều đợt lũ
kèm theo giông bão, mỗi khi lũ dâng, những dãy nhà ven sông thƣờng ngập
chìm trong biển nƣớc, phải đến 3 - 4 ngày sau, thậm chí cả tuần nƣớc mới rút.
Chính vì điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt nhƣ vậy, nên những cƣ dân ở nơi
đây không có khả năng chống đỡ trƣớc sự tàn phá của tự nhiên. Kể từ khi đến
Hội An, những thƣơng nhân ngƣời Hoa đã trải qua các chặng đƣờng đầy gian
nan vất vả, đến vùng đất mới lại có nhiều biến động về địa chất, đối đầu với
thiên nhiên khắc nghiệt càng làm cho họ thêm lo sợ, nên họ đặt niềm tin của
mình vào một thế lực siêu nhiên, có khả năng ngăn chặn triều cƣờng, điều

91
hoà phong thổ, giúp họ thuận lợi trong việc cƣ trú và buôn bán. Do đó, họ thờ
cúng thần Bắc Đế Trấn Vũ làm chỗ dựa về mặt tinh thần trong quá trình định
cƣ tại vùng đất mới, giúp họ yên lòng vƣợt qua những khó khăn và có thêm
niềm tin trong công cuộc mƣu sinh.
Tín ngƣỡng thờ Bắc Đế Trấn Vũ tại Chùa Cầu chứa đựng nhiều giá trị
độc đáo, thể hiện cho thời kỳ Đạo giáo phát triển mạnh mẽ ở Trung Quốc và
lan tỏa ra nhiều quốc gia trên thế giới, ảnh hƣởng mạnh mẽ đến đời sống của
ngƣời dân. Khi con ngƣời bất lực trƣớc những tai họa của thiên nhiên, họ
phải dựa vào một lực lƣợng siêu nhiên là các vị Thần linh. Trong đó, Bắc Đế
Trấn Vũ là vị thần có khả năng trị thủy, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi những cơn
địa chấn diễn ra ở Hội An, ổn định về mặt phong thổ, giúp cho cƣ dân làm ăn
buôn bán đƣợc thuận buồm xuôi gió. Hiện nay tại Chùa Cầu, vào các ngày
rằm, ngày mồng một, ngày tết,… Trung tâm Bảo tồn di tích Hội An và cƣ
dân trên địa bàn đến thắp nhang trƣớc tƣợng Bắc Đế, thể hiện sự tôn trọng,
sùng bái và cầu mong sự che chở của Thần.
2.2.6. Thờ âm linh, âm hồn
Làng Minh Hƣơng là một trong ba làng buôn cổ và lớn nhất tại Hội An
trƣớc đây, tuy nhiên trƣớc khi an cƣ lạc nghiệp tại Hội An, cƣ dân ngƣời Hoa
nơi đây đã nhiều lần di chuyển khắp các vùng trên địa bàn Quảng Nam. Về
đến Hội An, họ cùng với những ngƣời dân sở tại lập miếu Âm Hồn ở số 76/9
đƣờng Trần Phú, hiện nay miếu đƣợc giao cho ông Trƣơng Duy Tuấn và ông
Hứa Văn Lộc (ngƣời làng Minh Hƣơng) quản lý.
Thuật ngữ “âm hồn” có nhiều cách giải thích khác nhau. Theo Việt
Nam tự điển thì âm hồn có nghĩa là hồn ngƣời chết [191]. Nhƣ đã trình bày,
từ lâu ngƣời Hoa có niềm tin rằng con ngƣời có hai phần: hồn và xác. Khi
chết, hồn lìa khỏi xác, xác bị phân hủy còn hồn sẽ tiếp tục tồn tại. Hồn có thể
về trời hoặc đầu thai kiếp khác (làm ngƣời hoặc vật), hay bị đày xuống địa
ngục tùy theo những điều lành hay dữ mà ngƣời đó làm khi còn sống. Dân
gian cũng tin rằng, nếu một ngƣời bị chết oan, chết bất thƣờng, không có

92
ngƣời nhà thờ cúng hoặc do tác động của những nghiệp xấu, các cô hồn
không (hoặc chƣa) đƣợc cõi nào tiếp nhận, vong linh không ngƣời hƣơng
khói, phụng thờ thì sau khi chết “hồn ma bóng quế dật dờ”, phải lang thang
và chịu đói rét, có ngƣời đã hóa thành ma quỷ nên hung dữ, quấy rối ngƣời
sống. Vì vậy, dân gian lập miếu thờ làm nơi tế tự các vong linh này, có thể
thờ cúng ở phạm vi gia đình và rộng hơn nữa là xóm làng. Nếu gạt bỏ quan
niệm cho rằng miếu là biểu tƣợng tập trung của sự thờ cúng ma quỷ thì vào
thời kỳ trƣớc đây vẫn hàm chứa một khía cạnh nhân đạo sâu sắc, đó là sự
biểu lộ mặt tình cảm, lòng thành kính của nhân dân với tất cả các vị thánh
thần đƣợc phong tƣớc hiệu đến những kẻ vô danh, là những liệt sĩ đã hy sinh
nơi chiến trận cho đến những ngƣời rủi ro chết ở xó chợ, đầu đƣờng. Nguyện
vọng chung của dân làng là cầu xin lực lƣợng này giúp đỡ, hộ trì cho làng
xóm đƣợc yên ổn mọi bề, làm ăn, nông tang cày cấy đƣợc mùa, no đủ, đẩy lùi
các loại bệnh tật, ôn dịch làm thiệt hại đến xóm làng.
Đối với cộng đồng ngƣời Hoa ở thành phố Hội An, thờ âm hồn là một
tín ngƣỡng phổ biến và quan trọng đối với những ngƣời tha phƣơng cầu thực.
Vì vậy, họ thờ phụng chu đáo để cầu mong đƣợc phù hộ, chở che, đồng thời
cũng tránh đƣợc sự trừng phạt do sự thờ ơ của cộng đồng ngƣời sống đối với
các vong hồn.
Miếu Âm hồn của ngƣời Hoa có điều đặc biệt so với những miếu âm
hồn của ngƣời Việt đó là miếu âm hồn nhƣng thờ chính ở đây lại là Quan
Công (Xem Phụ lục 3, ảnh 15.2). Miếu Âm hồn ngày trƣớc gồm có ba gian,
qua thời gian giờ chỉ còn có hai gian. Gian chính thờ Quan Công, sau lƣng
quan công là chánh ban trị sự, bên trái thờ tả ban trị sự, bên phải thờ hữu ban
trị sự. Hai bên thờ những kí tự của những âm hồn không nơi nƣơng tựa.
Ngày 20 - 21/1 âm lịch hằng năm đƣợc cƣ dân làng Minh Hƣơng chọn
làm ngày lễ tế âm linh hay còn gọi là lễ tế cô hồn, âm hồn. Lễ tế thƣờng diễn
ra trong hai ngày. Ngày đầu gọi là lễ túc; hôm sau là lễ chánh. Lễ túc diễn ra
vào buổi chiều tối ngày 20/1, lễ vật gồm có hƣơng đèn, hoa quả để trình cáo

93
với các vị thần linh, âm binh, âm hồn. Lễ chánh đƣợc cử hành vào sáng ngày
21/1 với các lễ vật dâng cúng nhƣ hoa quả, hƣơng đèn, rƣợu trà, xôi chè và
một con heo quay hoặc một đầu heo quay. Đến giờ hành lễ, chủ tế đứng vái
và cúng tế (xem Phụ lục 4, phần 4.4)
Sau khi chủ lễ khấn xong thì mời các vong hồn dùng cỗ, hoa quả.
Ngƣời làng Minh Hƣơng quan niệm, lễ vật dâng cúng nhƣ xôi chè, hoa quả,...
trong ngày cúng âm hồn với số lƣợng phải nhiều để các vong hồn đƣợc
hƣởng đầy đủ mà không giành giật, tranh giành lẫn nhau. Khi thực hiện nghi
lễ này, ngƣời ta cho rằng các cô hồn sẽ đến nhận lễ vật, chén cháo cho no
bụng ấm lòng, và để hƣởng ơn “cầu siêu” cho mau chóng đƣợc đầu thai sang
kiếp khác. Từ đó họ sẽ không quấy phá mà phù hộ, bảo trợ cho dân làng đƣợc
sống bình yên, hạnh phúc.
Gắn bó mật thiết với miếu Âm hồn là “nghĩa trũng”, tức là mộ/mả âm
linh. Vào trƣớc ngày tế chính, lễ giẫy mả âm hồn đƣợc tiến hành vào buổi
sáng sớm với sự tham gia của phần đông chủ yếu là trai tráng trong làng, do
ông chánh tế và một số bô lão hƣớng dẫn. Công việc gồm giẫy cỏ, vun lại
những ngôi mộ, sau đó thắp hƣơng. Nghĩa trũng chính là biểu tƣợng của tình
cảm yêu thƣơng, tôn quý con ngƣời nên việc giữ gìn và chăm sóc là trách
nhiệm của cả cộng đồng.
Có thể nhận thấy, tín ngƣỡng thờ âm hồn của ngƣời Hoa tại Hội An là
một nét đẹp văn hóa, chứa đựng tinh thần nhân văn sâu sắc, truyền thống tốt
đẹp của cộng đồng ngƣời Hoa. Nhất là biểu hiện tình cảm yêu thƣơng và tôn
quý con ngƣời, phản ánh nguyện vọng của cƣ dân mong luôn đƣợc phù hộ,
giúp đỡ để có một cuộc sống ấm no, an lành.
2.2.7. Thờ thần Phục Ba
Thần Phục Ba là một vị thần có khả năng chắn sóng gió, giúp cho
thƣơng nhân thoát khỏi đƣợc những nguy hiểm khi đi biển, vƣợt qua sóng gió
trên con đƣờng buôn bán ở biển khơi. Thần Phục Ba đƣợc thờ cúng tại Hội
quán Triều Châu, số 157 đƣờng Nguyễn Duy Hiệu (Xem Phụ lục 3, ảnh

94
17.1). Hội quán này đƣợc xây dựng theo lối kiến trúc nội công ngoại quốc,
mặt quay theo hƣớng Nam - Tây Nam. Phần trƣớc hội quán là nhà tiền điện
đƣợc làm chủ yếu bằng gỗ và đá. Mặt tiền đƣợc lắp dựng bằng nhiều mảng
đá lớn có chạm trổ các đồ án trang trí nhƣ: lý ngƣ hoá long, long mã, hồ điệp,
tứ linh, hoa điểu,... Nội thất tiền điện đƣợc kiến trúc theo kiểu chồng rƣờng,
thân các vì kèo chạm trổ hết sức tinh vi, lộng lẫy. Ngoài ra, bên các rƣờng
chính còn gắn nhiều mảng chạm lộng, chạm lủng theo các mô típ bức bình
phong, long mã, chim muông,... Bờ nóc, bờ hồi đƣợc tạo dáng cong vút, mềm
mại với kết cấu đa tầng, khoảng cách giữa các tầng đắp nổi nhiều hình hoa
điểu, nhân vật.
Chính điện rộng lớn gồm 3 gian, kết cấu chủ yếu là các cột gỗ to và
những vì chồng rƣờng giả thủ đặc trƣng. Đặc biệt, các con ke trang trí đƣợc
điêu khắc thành những hình thân rồng đầu cá, rồng dây, long mã,... Các cánh
cửa chính đều đƣợc làm bằng gỗ, chạm trổ nhiều đồ án cát tƣờng nhƣ: thái
bình hữu tƣợng, thái sƣ thiếu sƣ, sƣ tử hí tiền,... Gian giữa chính điện có
khám thờ chạm trổ lộng lẫy thờ tƣợng Phục Ba tƣớng quân, hai gian bên thờ
Tài Bạch tinh quân và Phƣớc Đức chánh thần. Nối liền giữa nhà tiền điện với
chánh điện là tả vu và hữu vu, nơi đây dùng để tiếp khách, chuẩn bị phẩm vật
để hiến cúng trong các dịp đại lễ của hội quán.
Hàng năm, vào dịp tết Nguyên tiêu (15-16/1 âm lịch), Hội quán tổ
chức lễ cúng thần Phục Ba và cúng giỗ Tiền hiền. Lễ cúng thƣờng diễn ra
trong hai ngày. Ngày đầu tiên gọi là lễ túc hoặc lễ chƣng thƣờng, hôm sau là
lễ chánh. Lễ túc đƣợc diễn ra trong ngày 15/1 âm lịch, ngƣời Hoa thƣờng mời
thầy chùa về tụng kinh cầu an cho ngƣời còn sống, cầu siêu cho ngƣời đã
khuất. Lễ vật gồm có hƣơng đèn, hoa quả, xôi, chè, đồ chay,... để trình cáo
với thần Phục Ba và các vị thần linh. Lễ chánh (ngày vía) đƣợc cử hành vào
10-11 giờ trƣa ngày 16/1 với các lễ vật dâng cúng nhƣ hoa quả, hƣơng đèn,
rƣợu trà, dê, ngỗng,... và không thể thiếu một con heo quay. Về thành phần
tham dự, ngoài dân làng ra còn có trên hàng trăm ngƣời đồng hƣơng và bà

95
con ở Hội An và các nơi khác về tham gia. Sau khi cúng xong chủ tế vãi
muối gạo và đồ vàng mã là kết thúc lễ tế. Sau phần lễ là chuyển sang phần
hội nhƣ bốc thăm trúng thƣởng, giao lƣu văn nghệ,... và thƣởng thức ẩm thực
để mọi ngƣời có cơ hội giao lƣu gần gũi nhau hơn.
Nhìn chung, tín ngƣỡng thờ thần Phục Ba rất có ý nghĩa đối với ngƣời
Hoa tại thành phố Hội An, thể hiện một ƣớc nguyện cầu xin thần Phục Ba hộ
trì cho ngƣời dân sinh sống ở vùng ven biển, những ngƣời kinh doanh buôn
bán có cuộc sống bình an. Nhờ thế, tín ngƣỡng thờ thần Phục Ba ngày càng
đƣợc củng cố chặt chẽ hơn so với trƣớc đây.
2.3. Thực hành tín ngƣỡng trong gia đình
2.3.1. Thờ cúng tổ tiên
Ngoài những tín ngƣỡng về các thánh thần, nhân thần, thần linh,... diễn
ra tại các ngôi miếu, các hội quán, các chùa, đình,... mang tính cộng đồng thì
ngƣời Hoa ở Hội An còn thể hiện sinh hoạt tinh thần đa dạng qua các hoạt
động tín ngƣỡng diễn ra trong từng gia đình. Trong đó, nét văn hóa truyền
thống nổi bật nhất của tín ngƣỡng trong gia đình là lòng hiếu kính đối với tổ
tiên. Đây đƣợc xem là một trong những chuẩn mực để đánh giá gia phong, nề
nếp của một gia đình, tộc họ. Đối với ngƣời Hoa ở Hội An, gia đình tính theo
dòng họ bên đàn ông, nên tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên là sinh hoạt tâm linh
của một nhóm ngƣời cùng huyết thống. Thờ cúng ông bà tổ tiên của dòng họ
và gia đình để tỏ lòng hiếu thảo, thƣơng nhớ ngƣời đã khuất và làm gƣơng
cho con cháu noi theo.
Ngƣời Hoa ở Hội An từ lâu đời luôn có niềm tin về sự bất tử của linh
hồn sau khi con ngƣời chết. Họ tin rằng con ngƣời chết đi là về với tổ tiên nơi
chín suối. Vì vậy, cƣ dân ngƣời Hoa rất coi trọng ngày mất (kỵ, nhật) nên vào
ngày đó hàng năm họ tổ chức lễ cúng tƣởng nhớ ngƣời chết, gọi là ngày giỗ.
Ngoài ra, cúng tổ tiên còn thực hiện vào những ngày sóc (mùng một), vọng
(ngày rằm), dịp lễ tết hay khi trong nhà có sự kiện quan trọng nhƣ sinh đẻ,
cƣới hỏi, thăng quan tiến chức, thậm chí khi phải báo cáo và cầu khấn với tổ

96
tiên phù hộ cho con cháu trong nhà đi xa, thi cử,... hoặc để tạ ơn ông bà, tổ
tiên khi thi cử đỗ đạt, đi xa trở về bình yên,...
Bàn thờ tổ tiên đặt ở nơi trang trọng nhất trong nhà, trang thờ đƣợc sơn
son thếp vàng, ở đó có một bài vị màu đỏ ghi tên ông tổ của dòng họ, gia
đình. Trên bàn thờ bày bát hƣơng, chân đèn, bài vị hay hình ảnh những ngƣời
quá cố (Xem Phụ lục 3, ảnh 18.1, 18.2, 18.3). Tùy điều kiện của mỗi gia đình,
bàn thờ có thể to hoặc nhỏ, song cách bày trí đều giống nhau, gồm 3 lớp: lớp
trong cùng là nơi đặt di ảnh hoặc bài vị, bát hƣơng của những ngƣời đã mất;
lớp giữa để đặt bình trà, rƣợu, bình hoa,... và khi cúng tế thì đây là nơi đặt lễ
vật; lớp ngoài cùng có đặt bát hƣơng chung, lƣ, đèn, nồi giác, ly đựng nƣớc,
rƣợu khi cúng. Trƣớc bàn thờ có bức màn, hai bên thƣờng có câu đối, bên
trên là bức hoành phi, hoặc bức vải nhung thêu chữ. Các câu chữ đều mang
nội dung ca ngợi công đức của ông bà tổ tiên. Đặc biệt là hƣớng bàn thờ của
ngƣời Hoa ở Hội An đều quay vào trong nhà, không nhìn ra đƣờng với ý
nghĩa không để ngƣời khác đi thẳng hay nhìn thẳng vào bàn thờ. Họ đốt
nhang vào buổi sáng và tối mỗi ngày. Riêng ngày rằm, giỗ, tết thì trên bàn
thờ đƣợc trang hoàng với bình hoa rực rỡ, đĩa trái cây để dâng lên ông bà.
Việc cúng giỗ tổ tiên do ngƣời con trai trƣởng đảm nhiệm.
Lễ giỗ kỵ trong gia đình thƣờng diễn ra trong hai ngày. Trƣớc ngày
chính, con cháu tiến hành lau dọn bàn thờ, chƣng hoa, quả,... Đến chiều tối tổ
chức cúng trong nhà và ngoài sân; lễ vật gồm hƣơng đèn, hoa quả, gạo muối,
cháo thánh và những món ăn ngƣời quá cố thích. Mục đích là thông báo và
thỉnh mời ngƣời mất về dự giỗ, báo cáo với các thần linh rằng khuôn viên đất
đai ngày mai sẽ là ngày giỗ (của ai nêu tên ngƣời đó) để các vị thần biết mà
cho linh hồn ngƣời quá cố vào nhà. Ngày giỗ chính bắt đầu từ 9 - 10 giờ sáng
hôm sau, mọi ngƣời thân đƣợc mời về nhân ngày tƣởng niệm. Bên cạnh con
cháu và họ hàng trong dòng tộc, ngày này chủ nhà còn mời thêm những
ngƣời hàng xóm có quan hệ quen thân đến tham dự. Nhân ngày giỗ, con cháu
chuẩn bị hƣơng, trầu, rƣợu, bánh, trái cùng hai mâm cơm (một mâm trong

97
nhà và một mâm ngoài sân) kính dâng lên tổ tiên và các vong linh cô hồn.
Đến giờ cúng, chủ lễ thắp hƣơng lên bàn thờ, rồi đọc văn cúng nhƣ sau: (xem
Phụ lục 4, phần 4.5). Đọc xong văn khấn, chủ lễ rót rƣợu, trà và đợi hết nửa
tuần hƣơng (khoảng 10 phút) thì tế lại lần 2, rồi vãi muối gạo, đốt áo giấy và
nghi lễ kết thúc.
Vào những ngày lễ tết và ngày giỗ, lễ vật dâng cúng ông bà thƣờng
nhiều hơn, còn các dịp khác thì lễ vật đơn giản. Tuy nhiên, những món cúng cổ
truyền thì không đƣợc thiếu nhƣ: cơm chiên Dƣơng Châu, bánh bao, thịt heo
quay ... Hiện nay, có những gia đình chuyển sang cúng chay thì lễ vật đơn giản
hơn, không cầu kỳ nhƣ cúng mặn, miễn lễ vật dâng cúng đồ chay là đƣợc.
Cách bài trí, sắp đặt đồ cúng trên bàn thờ phải theo đúng nguyên tắc:
“Đông bình, Tây quả‟‟, trầu rƣợu, 12 cặp vàng bạc hàng mã trải trƣớc bát
hƣơng. Vào ngày Tết Đoan Ngọ, trên bàn thờ ông bà có thêm vài đĩa bánh tổ;
lễ Vu Lan thì có chè, xôi.
Bên cạnh việc thờ phụng, cúng lễ, để thể hiện lòng hiếu thảo, nhớ công
ơn trời biển của tổ tiên, con cháu còn phải chăm sóc phần mộ chu đáo. Hàng
năm, vào tiết Thanh minh tháng 3 âm lịch (sau ngày lập xuân 45 ngày và sau
ngày xuân phân), ngƣời Hoa quan niệm rằng đây là ngày chung của âm phần
(mồ mả, tế tự) để thể hiện lòng biết ơn với ông bà tổ tiên. Vào những ngày
này, mọi thành viên, con cháu nội - ngoại trong gia đình, kể cả những ngƣời
làm ăn xa cũng phải tụ tập về nhà thờ tộc phái hoặc chi để thắp hƣơng, sau đó
mới về nhà mình thắp hƣơng tại bàn thờ tổ tiên. Lễ vật của những ngày này
chủ yếu là hƣơng, hoa, trà, quả,... Điều quan trọng nhất trong những ngày đó
là tất cả mọi ngƣời phải cùng nhau đi thăm mộ ông bà tổ tiên, sửa sang mồ
mả, dọn cỏ, quét vôi,... Theo tục lệ ngƣời Hoa, chỉ có duy nhất vào dịp tết
Thanh minh mới đƣợc phép tiến hành sửa sang mồ mả tổ tiên.
Cũng vào dịp tết Thanh minh, các thành viên trong tộc họ thƣờng cùng
nhau ôn lại nguồn cội, công lao của ông bà đối với con cháu; đồng thời nhắc
nhở con cháu phải đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, không gây những điều sai trái

98
làm ô danh tộc họ. Những gƣơng “ngƣời tốt, việc tốt” trong tộc họ cũng đƣợc
nêu lên để cho con cháu học tập và noi theo.
Không chỉ ngƣời Hoa mà nhiều tộc ngƣời khác ở Việt Nam nói chung
cùng thực hành thờ cúng tổ tiên, vì đây là hình thức tín ngƣỡng xuất phát từ ý
thức hƣớng về cội nguồn, biết ơn sự sinh thành của ông bà, bố mẹ. Về ý
nghĩa, tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên là “quan niệm giữa tồn tại và vĩnh hằng,
giữa ngƣời sống với ngƣời đã khuất. Hầu hết, 54 tộc ngƣời ở nƣớc ta đều coi
trọng ngày đƣa tiễn ngƣời đã mất về với tổ tiên. Nhận thức chung coi cái chết
nhẹ nhàng, là sự chuyển hóa linh hồn (chuyển kiếp hay hóa kiếp). Nhƣ vậy,
tổ tiên là cội nguồn, tạo sinh thế hệ sau, do đó mọi ngƣời phải ghi nhớ, biết
ơn tổ tiên” [164; tr. 236]. Có thể nói, thờ cúng tổ tiên là một tín ngƣỡng dân
gian mang đạo lý nhân ái uống nƣớc nhớ nguồn. Trải qua bao thăng trầm,
biến cố lịch sử, nét đẹp truyền thống này luôn đƣợc cộng đồng cƣ dân ngƣời
Hoa nói riêng và ngƣời Việt nói chung trân trọng, gìn giữ và phát huy trong
mọi thời đại, góp phần tô đậm thêm truyền thống văn hóa tốt đẹp tồn tại từ
lâu đời.
2.3.2. Thờ Ngũ tự gia đường
Tại Hội An, bên cạnh tục thờ cúng tổ tiên, ngƣời Hoa còn thờ Ngũ tự
gia đƣờng. Theo quan niệm của ngƣời dân, nƣớc có vua nhà có chủ, thần chủ
nhà chính là Ngũ tự gia đƣờng. Ngƣời Hoa cho rằng, Ngũ tự gia đƣờng là 5
vị thần trông coi cai quản và sắp đặt vận mệnh cho một gia đình, gồm thần
Định phƣớc Táo quân, thần Cửa, thần Ngõ, thần Giếng, thần Trung lƣu (tức
là: Môn, Hộ, Táo, Tỉnh, Trung lƣu thi vị Ngũ tự). Khám thờ Ngũ tự gia
đƣờng đƣợc đặt trang trọng ngay giữa nhà, trên bàn thờ gia tiên. Ngoài khám
thờ chung, mỗi vị thần trong Ngũ tự gia đƣờng lại có nơi thắp hƣơng riêng,
nhƣ thần Táo đƣợc thờ ở bếp, thần Cổng đƣợc thắp nhang nơi cổng, thần
Giếng có ban thờ gần giếng,... (Xem Phụ lục 3, ảnh 19.1, 19.2).
Lễ cúng Ngũ tự gia đƣờng diễn ra vào dịp đầu năm và cuối năm. Lễ vật
đầu năm gồm có 3 bàn: bàn thƣợng, bàn trung và bàn hạ. Mỗi bàn đều có

99
hƣơng đèn, hoa quả, cau, trầu, rƣợu, vàng mã. Bàn thƣợng đặt bộ áo thổ thần,
một con gà, bát xôi, heo quay, xung quanh là xôi chè. Bàn trung đặt hai bộ áo
bà, năm bộ áo ngũ phƣơng, một miếng thịt heo luộc, đĩa xôi, ba đĩa cua,
trứng luộc chín, miếng thịt sống đặt lên trên mâm cỗ cúng cơm, đặc biệt phải
có đĩa rau khoai luộc, chén mắm cái và xâu cá, tôm nƣớng. Bàn hạ đặt áo
giấy, cháo thánh, gạo muối, bánh tráng, bột nổ, khoai, sắn, đậu lạc,... Ba bàn
đặt trƣớc nhà, gia chủ đứng từ trong nhà lạy ra, rồi khấn nhƣ sau: (xem Phụ
lục 4, phần 4.6). Khi nghi lễ kết thúc, chủ nhà lấy một ít lễ vật bỏ vào cái bẹ
chuối gập thành hình cái đãy nhỏ cùng ít áo giấy âm binh, cháo thánh, sau đó
đem treo ở góc vƣờn. Vàng mã, áo giấy thì đốt đi, gạo muối, rƣợu cúng, bột
nổ đem vãi tung tóe xuống đất, xung quanh sân. Lễ cúng đầu năm thể hiện
nét đẹp trong tâm thức của cƣ dân ngƣời Hoa tại Hội An nhằm cầu nguyện
âm siêu, dƣơng thái, cuộc sống an lành.
Lễ cúng vào dịp cuối năm nhằm tạ các vị thần Ngũ tự gia đƣờng đã che
chở phù hộ cho gia đình trong một năm qua. Đầu tiên chủ nhà lau chùi, trang
hoàng bàn thờ Ngũ tự gia đƣờng, bày mâm ngũ quả, hƣơng, hoa tƣơi, đèn
nến đầy đủ. Sáng hôm sau tổ chức cúng chính với lễ vật gồm: mâm ngũ quả,
hƣơng hoa, giấy tiền vàng mã, đèn nến, trầu cau, rƣợu, trà, bánh bao, bánh
chƣng, bánh tổ. Ngoài ra còn chuẩn bị một mâm cúng trời, đất, âm linh, cô
hồn ở khoảng sân trƣớc nhà. Cỗ cúng tùy theo gia cảnh mà sắm, không có
quy định bắt buộc. Căn bản là thành tâm, trang trọng chứ không nhất thiết
phải linh đình, rƣợu chè quá mức. Cỗ mặn hoặc chay tùy từng nhà nhƣng nếu
cúng mặn thì phải có một con gà trống. Khi gia chủ đọc xong văn khấn thì
đốt vàng mã và kết thúc lễ.
Trong ngày này, ngoài con cháu trong gia đình, chủ nhà còn mời thêm
những ngƣời láng giềng có quan hệ thân quen đến tham dự chia vui. Đây cũng
là dịp gặp gỡ bạn bè, anh em thân thuộc sau một năm làm ăn.
Lễ cúng Ngũ tự gia đƣờng là phong tục mang nét đẹp văn hóa của
ngƣời Hoa tại Hội An, có ý nghĩa nhằm tri ân, tạ ơn trời đất, thần linh cùng

100
các âm hồn cô hồn đã gia hộ độ trì cho việc làm ăn của gia đình trong một
năm suôn sẻ. Sau đó, mọi ngƣời trong gia đình cùng ngồi lại với nhau, vui vẻ
chuyện trò, tổng kết năm cũ đón năm mới với niềm hy vọng tràn đầy.
2.3.3. Thờ Thần Tài, Thổ Địa
Tín ngƣỡng thờ Thần Tài, Thổ Địa cũng rất quan trọng đối với ngƣời
Hoa, đặc biệt là những gia đình buôn bán, kinh doanh. Bởi đó là vị thần có
nhiệm vụ bảo hộ, độ trì cho buôn may bán đắt, làm ăn phát tài phát lộc. Do
đó, tất cả ngƣời Hoa tại Hội An làm nghề kinh doanh, buôn bán đều lập khám
thờ thần Tài. Khám thờ đƣợc đặt tại cửa hàng hay tại nhà và ở dƣới đất, mặt
quay theo hƣớng nhà. Bên trên khám thờ đặt bài vị ghi danh hiệu các vị thần
Tài, Thổ địa: Ngũ phƣơng Ngũ thổ long thần, Tiền hậu địa chủ Tài thần với
hai câu đối: “Kim chi sơ phát diệp”; “Ngân thọ chính khai hoa” (Cành vàng
vừa hé nụ; cây bạc đã khai hoa). Hiện nay, có một số gia đình, ngoài thờ bài
vị Thần Tài, Thổ Địa còn thờ thêm tƣợng của hai ông, Trong khám thờ thần
Tài và ông Địa, sở dĩ thờ thần Tài mà thờ thêm thổ địa vì theo quan niệm dân
gian: đất đai có yên ổn thì tài lộc mới nảy sinh; đất vƣợng tài mới vƣợng
(Xem thêm Phụ lục 3, ảnh 20.2).
Theo truyền thuyết xƣa kể rằng: có một ngƣời lái buôn tên là Âu Minh,
khi đi qua hồ Thanh Thảo đƣợc thủy thần cho một con hầu tên là Nhƣ
Nguyệt. Âu Minh đem Nhƣ Nguyệt về nuôi, trong nhà làm ăn phát đạt, chỉ
vài năm là giàu to. Về sau, trong ngày Tết, bị Âu Minh đánh nên Nhƣ Nguyệt
sợ hãi chui vào đống rác và biến mất. Từ đó, nhà Âu Minh sa sút dần, chẳng
mấy lúc trở thành nghèo kiệt, vì vậy con ngƣời coi Nhƣ Nguyệt là “Thần Tài”
và lập bàn thờ. Từ đó, ngày Tết có tục kiêng hốt rác ba ngày đầu năm vì sợ
hốt mất Thần Tài ẩn trong đống rác đổ đi thì sự làm ăn sẽ không phát đạt. Do
đó, tín ngƣỡng thờ Thần Tài, Thổ Địa đã ăn sâu vào cuộc sống của ngƣời
Hoa tại Hội An. Vào ngày tết cũng nhƣ ngày thƣờng, ngƣời ta đều cúng Thần
Tài, Thổ Địa để xin tài, xin lộc đến với mình. Những gia đình buôn bán tin
rằng chỉ khi nào thờ hai vị Thần này chu đáo thì mới đƣợc “phù hộ”, tài lộc

101
mới “gõ cửa”. Sáng sớm khi mở cửa bán hàng hay mở cửa tiệm, gia chủ thắp
hƣơng cầu khấn Thần Tài, Thổ Địa “độ” cho mua may, bán đắt, rồi cúng cho
ông Địa một ly cà phê đen kèm theo một điếu thuốc để ông “độ” cho trong
ấm ngoài êm. Thời gian thắp hƣơng khoảng 6 - 7 giờ và chiều tối 7- 8 giờ,
mỗi lần thắp 5 nén hƣơng, thay nƣớc uống khi thắp hƣơng, tránh để các con
vật nhƣ chó mèo, chuột quậy phá làm ô uế bàn thờ Thần Tài, Thổ Địa. Hàng
tháng, gia chủ lau bàn thờ, tắm cho Thần Tài, Thổ Địa vào những ngày mùng
2 và 16 âm lịch bằng nƣớc lá bƣởi hay rƣợu pha nƣớc. Khăn lau và tắm cho
Thần Tài, Thổ Địa phải sạch và không đƣợc dùng vào việc khác.
Ngày vía lớn nhất của Thần Tài là ngày mùng 10 tháng giêng âm lịch.
Ngoài ra, vào các ngày mùng 2 và ngày 16 âm lịch hàng tháng gia đình
thƣờng cúng Thần Tài, Thổ Địa. Vào ngày Tết, vai trò của Thần Tài, Thổ Địa
càng đƣợc xem trọng hơn, gia đình lo trang hoàng nhà cửa, sửa soạn cho hai ông
“sạch sẽ”, nếu tƣợng của vị Thần Tài, Thổ Địa đã quá cũ hay bị hƣ thì “thỉnh” vị
mới về thay. Họ tin rằng, trong năm mới mọi sự ngăn nắp, Thần Tài, Thổ Địa
“sạch sẽ” thì gia đình sẽ làm ăn phát tài, năm mới tốt hơn năm cũ.
Lễ cúng Thần Tài, Thổ Địa đƣợc ngƣời Hoa chăm chút rất kỹ. Đa
phần, các vị thần của họ đều dùng mặn, nhƣng chỉ có Thần Tài, Thổ Địa
dùng cả đồ mặn và đồ chay. Lễ cúng mặn từ tháng 1 đến tháng 6 âm lịch
gồm: 1 bình bông, 1 con tôm, 1 con cá lóc nƣớng, 1 con cua, 1 miếng heo
quay, 1 bộ giấy tiền vàng mã, 1 đĩa ngũ quả, rƣợu, gạo và muối hột để cúng
lấy vía Thần Tài, Thổ Địa cầu xin năm mới làm ăn phát đạt. Lễ cúng chay từ
tháng 7 đến tháng 12 âm lịch gồm: 1 bình bông, 1 đĩa ngũ quả, 1 bộ giấy tiền
vàng, nƣớc, gạo, muối hột, bánh tét, bánh ít. Về cách cúng xem Phụ lục 4,
phần 4.7. Cúng xong, gia đình giữ gạo và muối để dùng cho có lộc, vàng mã
đem ra ngoài sân đốt, rƣợu hay nƣớc thì đứng ngoài cửa tƣới vào nhà có ý
nghĩa là đem lộc vào, bộ tam sên hay bánh trái chia nhau cho tất cả thành
viên trong gia đình dùng không bao giờ cho ngƣời ngoài.

102
Đặc biệt, trong tín ngƣỡng thờ Thần Tài, Thổ Địa của ngƣời Hoa ở Hội
An có một điều hết sức độc đáo đƣợc lƣu truyền từ xƣa đến nay mà ở các địa
phƣơng khác trên cả nƣớc không có, đó là tục cho thần tài “hƣởng” nhũ hoa
phụ nữ trƣớc mỗi ngày làm việc để cầu may. Vào buổi sáng, những ngƣời
phụ nữ trong nhà cho Thần Tài “hƣởng” nhũ hoa phải tắm rửa sạch sẽ, ăn
mặc gọn gàng trƣớc khi làm tục này. Đầu tiên, ngƣời thực hiện đặt hƣơng xin
ngài (tức tƣợng thần tài) về chứng giám, rồi nhẹ nhàng đƣa ngài vào nơi vắng
của nhà để cho ngài hƣởng “nhũ hoa” theo trình tự: đầu tiên ngƣời phụ nữ
một tay cầm tƣợng ngài quay mặt vào ngực mình, tay kia từ từ cởi cúc áo ra
áp mặt ngài vào ngực, di chuyển đều từ trái qua phải rồi ngƣợc lại ba lần. Lễ
diễn ra chƣa đầy 10 phút nhƣng là phần không thể thiếu của ngƣời Hoa tại
Hội An trong một ngày. Theo họ, thờ Thần Tài, Thổ Địa có ý nghĩa rất quan
trọng trong đời sống nên phải giữ kỹ Thần Tài, Thổ Địa vì sợ kẻ trộm lấy đi
thì công việc làm ăn sẽ gặp rủi ro. Nhƣ vậy, việc thờ Thần Tài, Thổ Địa và để
tƣợng thần tài hƣởng “nhũ hoa” của ngƣời phụ nữ trƣớc một ngày buôn bán
là biểu hiện ƣớc mơ mọi thứ đƣợc sinh sôi nảy nở, ăn nên làm ra. Đây là một
nét văn hóa độc đáo trong tín ngƣỡng phồn thực của ngƣời Hoa tại Hội An.
2.3.4. Thờ Táo Quân
Thờ Táo Quân là một trong những tín ngƣỡng dân gian phổ biến nhất
của ngƣời Hoa. Hầu nhƣ gia đình ngƣời Hoa nào cũng thờ cúng Táo Quân -
vị thần trông coi bếp núc và định phúc họa cho gia đình. “Táo” là bếp,
“Quân” là vua, “Táo Quân” là Vua bếp. Táo Quân chính là hiện thân của sự
no ấm, sung túc của gia đình thông qua công việc bếp núc.
Hằng năm cứ đến ngày 23 tháng Chạp âm lịch, ngƣời Hoa tại Hội An
trở nên rộn ràng chuẩn bị lễ cúng đƣa ông Táo về Trời và đó cũng là mở đầu
cho chuỗi ngày chuẩn bị Tết Nguyên Đán hằng năm.
Táo quân còn có tên chữ là “Đông trù tƣ mạng, Táo phủ thần quân”.
Đây là một trong năm vị thần đƣợc thờ ở Ngũ tự gia đƣờng, trong đó Táo
quân tham gia cai quản việc sinh hoạt bếp núc, ăn uống, không khí gia đình,...

103
Theo truyền thuyết lƣu truyền ở Hội An cũng nhƣ dị bản ở nhiều vùng: ngày
xƣa có hai vợ chồng nọ ăn ở với nhau đã lâu mà không có con, sinh ra buồn
phiền, cãi cọ nhau. Ngƣời vợ bỏ nhà ra đi và lấy một ngƣời chồng mới. Khi
ngƣời chồng đầu hết giận vợ, nghĩ lại mình cũng có lỗi nên đi tìm vợ, trên
đƣờng đi đã tiêu hết tiền bạc và trở thành ngƣời ăn xin rồi đến đúng nhà của
vợ cũ, hai bên nhận ra nhau. Hai vợ chồng cũ hàn huyên tâm sự, tỏ ra nuối
tiếc khi trót xa nhau. Khi ngƣời chồng mới trở về nhà, sợ bị bắt gặp nên vợ đã
bảo chồng cũ nấp vào đống rơm ở bếp, chồng mới về đến nhà cảm thấy buồn
bực, liền vào bếp đốt rơm làm phân khiến chồng cũ bị chết cháy. Thấy chồng
cũ bị cháy vì mình, vợ nhảy luôn vào lửa để chết theo. Ngƣời chồng mới thấy
vợ chết cũng liền nhảy vào đống rơm để chết theo vợ. Linh hồn của ba vị
đƣợc đƣa lên Thƣợng Đế. Thƣợng Đế thấy ba ngƣời đều có nghĩa, nên sắc
phong cho làm Táo Quân. Từ đó, ngƣời Hoa làm bếp có ba chân và thờ Táo
quân ở bếp để mong gia sự êm ấm, bếp núc luôn đỏ lửa, gia cảnh sung túc.
Việc thờ Táo quân của ngƣời Hoa ở Hội An cũng khá đa dạng, hầu hết
đều thờ Táo quân ở hƣớng Đông hoặc bên phải của nhà, hƣớng của mặt trời
mọc, ấm áp. Tuy nhiên cũng có nhiều gia đình do vị trí đặc thù mà thờ Táo
quân ở các hƣớng khác nhau trong nhà (Xem Phụ lục 3, ảnh 21.1, 21.2). Trên
án thờ Táo quân thƣờng có bài vị bằng gỗ hoặc giấy điều hay thờ bức tranh
vẽ hình ba táo quân có đề các chữ Hán: “Đông trù tƣ mạng, Táo phủ thần
quân”. Dƣới bài vị là tƣợng ông Táo (làm bằng gốm) và ba ly nƣớc. Đặc biệt,
trong một số nhà cổ của ngƣời Hoa, Táo quân đƣợc thờ chung với Phƣớc
Đức chính thần trong một trang thờ trang trọng không phải ở bếp mà ở giữa
gian nhà chính nối liền với gian nhà sau.
Tƣợng ông Táo bằng gốm ở Hội An làm từ làng gốm Thanh Hà do hai
gia đình chuyên làm, chủ yếu là gia đình bà Nguyễn Thị Lan, một nghệ nhân
đã trên 90 tuổi. Theo bà Lan: “tƣợng ông Táo mô phỏng kiểu tƣợng ông Táo
của làng gốm Phƣớc Tích, do bà học, tiếp thu kỹ thuật chế tác rồi làm từ cách
đây hàng chục năm”. Hiện nay, tƣợng ông Táo đƣợc bày bán phổ biến ở chợ

104
Hội An và các chợ ven Hội An. Theo tập tục, sau lễ đƣa ông Táo về Trời
ngày 23 tháng Chạp hàng năm, tƣợng ông Táo cũ sẽ đem ra để ở các gốc đa,
bụi cây linh thiêng của xóm làng và rƣớc tƣợng ông Táo mới về thờ.
Lễ cúng Táo quân (Lễ đƣa ông Táo về Trời) ở Hội An tiến hành vào
khuya ngày 22 để ông Táo hƣởng trƣớc khi về chầu Trời vào đúng ngày 23,
nhƣng cũng có nhà cúng vào ngày 23 vì nghĩ ngày đó ông Táo mới chầu
Trời. Nhƣng tựu chung lại, đây là lễ tạ ơn Táo quân sau một năm phù trợ bếp
núc sung túc, gia sự đƣợc êm ấm, cầu năm sau sẽ tốt đẹp hơn. Cuối cùng là
việc chuẩn bị phƣơng tiện, tiễn Tam vị Táo quân về ăn Tết ở Thiên đình kèm
theo lời nhắn gửi Táo quân về trời nói những điều tốt để Ngọc Hoàng tiếp tục
phù trợ cho gia đình năm sau, cụ thể nhƣ sau: (xem Phụ lục 4, phần 4.8)
Lễ vật cúng Táo quân là xôi, chè, mũ, áo mới, vàng mã làm lộ phí để
Táo quân ăn no, mặc đẹp, vui vẻ về Trời, nếu nhà khá giả thì cúng thêm đồ
mặn. Song, trong lễ cúng này ở Hội An còn có những lễ vật đặc trƣng của
Phố Hội, đó là có Bánh Tổ hoặc đƣờng tán chặt thành cục và bánh tráng để
ngon miệng cho Táo quân về Trời nói chuyện tốt lành của gia đình trong năm
vừa qua, nhƣng khác với miền Bắc, ở Hội An không phóng sinh cá chép.
Nhƣ vậy, lễ đƣa ông Táo về Trời là một tín ngƣỡng mang tính nhân
văn, thể hiện ƣớc mong về một cuộc sống êm ấm, sung túc; phản ánh nhiều
nét đặc trƣng về đời sống văn hóa phong phú của ngƣời Hoa ở Hội An.

105
Tiểu kết Chƣơng 2
Nội dung chƣơng này cho thấy, tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở thành phố
Hội An hiện nay khá đa dạng trong đó từ việc phân loại các loại hình tín
ngƣỡng nhƣ Tín ngƣỡng ở trong cộng đồng (bao gồm các hình thức thờ cúng
nhƣ Tín ngƣỡng thờ Tiền hiền và Hậu hiền; Thiên Hậu Thánh Mẫu, Môn
thần, Quan Công, Bắc Đế Trấn Vũ; Thần Phục Ba; Âm linh - Âm hồn) và Tín
ngƣỡng ở trong gia đình (bao gồm các hình thức thờ cúng nhƣ Tín ngƣỡng
thờ cúng tổ tiên; Ngũ tự Gia Đƣờng; Thần Tài, Thổ Địa; Táo Quân và các tín
ngƣỡng khác). Qua đó, chúng tôi đã có cơ sở để phân tích làm rõ những đặc
điểm về cơ sở thờ tự và đặc điểm về hoạt động thực hành tín ngƣỡng liên
quan đến các loại hình tín ngƣỡng. Các cơ sở thờ tự liên quan đến các loại
hình tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Quảng Nam nói chung và ngƣời Hoa ở Hội
An nói riêng không chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử vì đó là nơi lƣu giữ những
giá trị lịch sử của vùng đất mà còn có ý nghĩa về mặt tinh thần đối với ngƣời
dân nói chung. Đó đƣợc xem là biểu tƣợng của tình đoàn kết, của lòng biết
ơn, tri ân đối với các bậc tiền hiền. Hơn nữa, những giá trị này nhằm giáo dục
cao trong đời sống hiện nay. Qua những phân tích trên, chúng tôi đã rút ra
đƣợc những đặc điểm chung của nghi lễ liên quan đến tín ngƣỡng của ngƣời
Hoa ở Hội An.
Thứ nhất, tiến trình thực hành tín ngƣỡng của ngƣời Hoa rất chỉnh chu
và có sự tham gia đông đảo của cộng đồng cƣ dân ngƣời Hoa nói chung và cƣ
dân ngƣời Việt nói riêng. Thời gian thực hành tín ngƣỡng thƣờng diễn ra vào
dịp xuân hoặc thu nhị kỳ. Quy trình thực hành tín ngƣỡng đƣợc thực hiện rất
kỹ lƣỡng từ khâu chuẩn bị nhân sự cho buổi tế lễ, chuẩn bị văn tế, cho đến
khâu phân công chuẩn bị lƣơng thực cúng tế.
Thứ hai, sau khi thực hiện nghi lễ trong hoạt động tín ngƣỡng ngƣời
Hoa bao giờ cũng diễn ra phần Hội sôi nổi để cho cộng đồng ngƣời Hoa nói
chung và ngƣời Việt nói riêng có đƣợc sự thoải mái nhất về tinh thần để bắt
đầu một năm sản xuất kinh tế hiệu quả.

106
Để đánh giá thực trạng tín ngƣỡng ngƣời Hoa ở Hội An, chúng tôi đã
điều tra 120 phiếu hỏi tại phƣờng Minh An. Kết quả thu đƣợc cho thấy, hiện
nay ngƣời Hoa vẫn duy trì hầu hết các tín ngƣỡng trong gia đình và cộng
đồng tuy với mức độ khác nhau, trong đó gia tăng thờ Thần Tài vì nhu cầu
buôn bán, kinh doanh của các hộ dân. Tín ngƣỡng cộng đồng nhƣ thờ Tiền
hiền, Hậu hiền hay ngày vía Bà,... vẫn duy trì và trở thành ngày hội ở đây.
Hiện nay, tín ngƣỡng vẫn đƣợc ngƣời Hoa giữ những nếp xƣa, nhƣ thờ
cúng tổ tiên để thể hiện lòng hiếu kính với ông bà, cha mẹ, dòng họ. Tuy chỉ
giữ lại những hình thức tín ngƣỡng cơ bản nhất so với ngƣời Hoa đại lục,
song ngƣời Hoa ở Hội An vẫn luôn bảo tồn, phát huy những giá trị truyền
thống phù hợp với vùng đất cƣ trú mới và bối cảnh mới, nhằm giáo dục thế
hệ sau biết gìn giữ và trân trọng những tập tục tốt đẹp của thế hệ cha ông.

107
Chƣơng 3
GIÁ TRỊ, XU HƢỚNG BIẾN ĐỔI VÀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN,
PHÁT HUY GIÁ TRỊ TÍN NGƢỠNG CỦA NGƢỜI HOA Ở HỘI AN
TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY

3.1. Giá trị tín ngƣỡng trong đời sống ngƣời Hoa
Giống nhƣ các dân tộc ở nƣớc ta, tín ngƣỡng có vị trí rất đặc biệt trong
đời sống tinh thần của ngƣời Hoa tại Hội An, là một trong các thành tố không
chỉ tạo nên bản sắc văn hóa tộc ngƣời, chứa đựng nhiều giá trị thiết thực đối
với đời sống con ngƣời, mà còn giúp bảo tồn và phát huy có hiệu quả những
nét văn hóa tốt đẹp, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Bởi vậy, khai thác các giá trị văn hóa truyền thống trong đó có tín
ngƣỡng cùng với lễ hội - nghi lễ của cƣ dân ở Hội An là cấp thiết, góp phần
to lớn vào việc phát triển hơn nữa các hình thức du lịch văn hóa tâm linh.
3.1.1. Giá trị thể hiện thế giới quan dân gian và giải tỏa tâm linh
Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi di cƣ đến Việt Nam lập nghiệp, tín
ngƣỡng của cộng đồng ngƣời Hoa ở Hội An tuy chỉ giữ lại một số đối tƣợng
thờ cúng có quyền năng đủ lớn, đủ mạnh để làm điểm tựa về tinh thần, song
vẫn luôn phản ánh rõ nét và thiết thực về thế giới quan dân gian của tộc
ngƣời Hoa. Do đó thông qua tín ngƣỡng có thể thấy đƣợc kho tàng tri thức
truyền thống mà đại diện còn lƣu giữ đƣợc là tầng lớp tinh hoa của tộc ngƣời
Hoa về thế giới xung quanh con ngƣời; về sự sống và các hiện tƣợng tự
nhiên; về sức khỏe, bệnh tật và cái chết; về sự phù hộ của thánh thần và tổ
tiên đối với các hoạt động của con ngƣời;... Đó là cơ sở để hình thành, duy trì
và thực hành các hình thức tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên và các nhân thần, thờ
cúng các loại nhiên thần,... để cầu mong phù hộ sự bình an và sức khỏe con
ngƣời; tín ngƣỡng trong các hoạt động sản xuất, chăn nuôi, trao đổi mua bán,
làm nghề thủ công, bốc thuốc chữa bệnh,... Đây cũng là nguyên nhân, mục
đích và nhu cầu đối với việc tổ chức và tham dự các lễ hội - nghi lễ diễn ra

108
trong năm và hàng năm của ngƣời Hoa tại các hội quán hoặc trong dòng họ,
gia đình nhằm thể hiện tấm lòng sùng kính với đức tin mà mình đã chọn và
giải tỏa các vấn đề liên quan tới tâm linh.
Trên cơ sở duy trì và thực hành các hình thức tín ngƣỡng, thể hiện qua
việc trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào lễ hội - nghi lễ diễn ra tại các hội
quán và trong gia đình, đời sống tinh thần của ngƣời Hoa đƣợc giải tỏa, mọi
ngƣời trong cộng đồng cảm thấy thỏa mãn nhu cầu về mặt tâm linh, gắn với
nhận thức cũng nhƣ đƣợc trải nghiệm về sự thiêng liêng, nghiêm cẩn của tổ
tiên và các thánh thần đƣợc tôn thờ trong các hội quán hoặc trong gia đình,
do đó giúp họ có cảm giác “thăng hoa”, toại nguyện ƣớc muốn trong cuộc
sống đời thực. Bởi vì, không gian thiêng, thời gian thiêng, thần tƣợng
thiêng,... của quá trình diễn biến lễ hội - nghi lễ luôn đƣợc cho là thời điểm
chính gây nên cảm xúc mang tính tâm linh, góp phần tạo ra sự đối lập và cân
bằng cho ngƣời dân vốn gắn nhiều với nhu cầu thực dụng của đời sống hiện
thực hàng ngày. Do tạo ra sự cân bằng đời sống tâm linh, nên việc tham gia lễ
hội - nghi lễ tín ngƣỡng luôn đem lại niềm phấn khởi, khát vọng tốt đẹp
không chỉ cho cộng đồng ngƣời Hoa, mà còn cho ý chí vƣơn lên của mỗi cá
nhân ngƣời Hoa trong đời sống hàng ngày.
Có thể nói, nhờ duy trì tín ngƣỡng cùng các lễ hội, nghi lễ, ngƣời Hoa
ở Hội An mới có dịp thỏa mãn đời sống tâm linh, có đƣợc những giây phút
thiêng liêng, giao cảm, hồ hởi đầy tinh thần cộng đồng, cộng cảm. Việc tiếp
tục bảo tồn và phát huy giá trị các hình thức tín ngƣỡng phù hợp với bối cảnh
hiện nay sẽ góp phần giải tỏa yếu tố tâm linh, hiện thực hóa niềm tin tín
ngƣỡng truyền thống của đồng bào Hoa ở Hội An, với mục đích chính là
đƣợc tạ ơn tổ tiên và các thánh thần đã phù hộ trong thời gian qua, cầu mong
tiếp tục phù hộ những điều tốt đẹp cho cuộc sống của mỗi ngƣời, mỗi gia
đình và cả cộng đồng nhƣ sức khỏe, bình an, mùa màng bội thu,...

109
3.1.2. Giá trị cố kết cộng đồng cư trú và tộc người
Điểm chung của tín ngƣỡng là giúp quây tụ những ngƣời cùng niềm tin
vào một khối gắn kết; giúp củng cố quan hệ tƣơng tác giữa con ngƣời trong
một cộng đồng, mang đến giá trị nhân văn không thể phủ nhận. Khi những
ngƣời cùng tôn giáo tín ngƣỡng trong một cộng đồng rộng lớn an ủi, chia sẻ
nhau, động viên và lan tỏa những năng lƣợng tinh thần tích cực thì vai trò
thiết thực của tôn giáo, tín ngƣỡng đƣợc khẳng định và phát huy. Đức tin của
một cộng đồng thƣờng giữ cho những chuẩn mực đạo đức không bị xô lệch,
có vai trò ngăn ngừa cái ác, hƣớng thiện và tạo ra những nét văn hóa có khả
năng lan tỏa. Tuy nhiên, ảnh hƣởng của tôn giáo tín ngƣỡng với cộng đồng,
dòng họ, gia đình thể hiện trên phƣơng diện, một mặt “thắt chặt quan hệ họ
hàng và cộng đồng giữa những ngƣời cùng tôn giáo, tín ngƣỡng nhƣng mặt
khác mối quan hệ giữa các thành viên không chung đức tin trong cộng đồng
và gia đình thƣờng diễn tiến theo chiều hƣớng tiêu cực” [103; tr. 275].
Trong đời sống của ngƣời Hoa ở Hội An, hai loại hình di sản văn hóa
vật thể và phi vật thể luôn đƣợc duy trì và tạo ra những đóng góp thiết thực
đối với sự phát triển của kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị - khối đại đoàn kết
dân tộc. Các hội quán là không gian văn hóa tâm linh mang tính quy tụ và cố
kết cộng đồng ngƣời Hoa và những ngƣời cùng niềm tin tín ngƣỡng. Những
lễ hội - nghi lễ cầu may, cầu an,... đƣợc duy trì nhƣ một sự khẳng định mạnh
mẽ của tín ngƣỡng dân gian tồn tại đến ngày nay, góp phần quy tụ ngƣời dân
tham gia, tạo điều kiện cho ngƣời dân cởi mở giao tiếp, chia sẻ kinh nghiệm
sản xuất,... Có thể nói, các hội quán với các nghi lễ hiện tồn là môi trƣờng
văn hóa mang tính tập trung của ngƣời Hoa ở Hội An, giúp cho những cƣ dân
ở đây đƣợc giao lƣu, gắn kết với nhau một cách tự nguyện, theo sở thích,...
Chính điều này đã tạo ra một cộng đồng có chung niềm tin và mục tiêu, khát
vọng với sự hài hòa về lợi ích, do đó sẽ đem đến sự đồng thuận cao - một yếu
tố quan trọng để xây dựng và phát triển đời sống kinh tế, đảm bảo sự ổn định
về an ninh, trật tự xã hội trong cộng đồng.

110
Đối với ngƣời Hoa, có một thực tế là ý thức về gia tộc rất chặt chẽ.
Những biến động của đời sống, sự di tản hay hòa nhập vào một môi trƣờng
khác sẽ không phá vỡ, xóa nhòa truyền thống này. Sau chiến tranh, loạn lạc,
việc khôi phục lại gia tộc nổi lên nhƣ một phong trào mạnh mẽ và rộng rãi
trong cộng đồng ngƣời Hoa. Điều đó cho thấy sức sống bền bỉ của ý thức gia
tộc, ý thức cộng đồng của ngƣời Hoa, không chỉ riêng ở Hội An. Các làng
ngƣời Hoa đầu tiên hình thành cũng một phần dành cho mục tiêu tụ họp gia
tộc. Họ tập hợp nhau để gia tăng sức mạnh cố kết, để tự vệ và phát triển trong
một môi trƣờng mới. Song, thông qua sinh hoạt tín ngƣỡng, cộng đồng ngƣời
Hoa cùng hoặc khác gia tộc đều có cơ hội xích lại gần nhau, thông cảm và
giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Giá trị xã hội thể hiện rõ qua các hoạt động
tín ngƣỡng của cộng đồng ngƣời Hoa tại Hội An: vào những dịp cúng kỵ, lễ,
tết, ngày vía, cộng đồng ngƣời Hoa tạm gác mọi công việc, những bộn bề, lo
toan của cuộc sống để hòa vào không khí vui tƣơi, náo nhiệt của lễ hội. Họ
sum họp, tề tựu bên nhau tại các hội quán hay nhà thờ Tiền hiền, Hậu hiền,...
để tham gia và thực hiện những nghi lễ cúng kính cũng nhƣ gặp gỡ, hỏi thăm
sức khỏe, động viên, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Hiện nay sau phần lễ,
phần hội cũng đƣợc tổ chức linh đình với sự hƣởng ứng và tham gia nhiệt
tình của nhiều ngƣời. Trong đó, con cháu, cộng đồng ngƣời Hoa đã không
còn khoảng cách nữa, mọi xích mích, hiềm khích, va chạm trong cuộc sống
hàng ngày đều đƣợc san lấp, vì vậy chỉ hiện hữu một tinh thần đoàn kết.
“Sự liên kết cộng đồng ngƣời Hoa tồn tại hai loại hình tổ chức chủ
yếu: hình thức tổ chức theo loại hội kín mang tính chất tôn giáo cực đoan
thƣờng có nguồn gốc từ Trung Quốc trƣớc đây xâm nhập vào xã hội các nƣớc
Đông Nam Á; có loại hình tổ chức do nhu cầu trực tiếp của cuộc sống ngƣời
Hoa ở chính các nƣớc họ đang cƣ trú mà hình thành” [53; tr. 74]. Loại hình tổ
chức xã hội thứ hai đó có liên quan mật thiết với đặc trƣng kết cấu làng xã cổ
truyền, tụ cƣ theo quan hệ thân tộc, huyết thống đã hình thành hàng nghìn
năm ở Trung Quốc. Hình thức kết cấu này xuất phát từ nhu cầu cạnh tranh để

111
sinh tồn, nhu cầu gìn giữ những bản sắc văn hóa truyền thống trong đó có tín
ngƣỡng của mình đã thôi thúc những ngƣời Trung Hoa di cƣ liên kết lại với
nhau thành từng tổ chức xã hội dựa trên các mối quan hệ thân tộc, huyết
thống, đồng hƣơng, đồng họ, đồng nghiệp,... Có thể nói, giá trị xã hội lớn
nhất, dễ nhận thấy nhất trong tín ngƣỡng của cộng đồng ngƣời Hoa là vai trò
cố kết cộng đồng, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Vì vậy, các hoạt động
tín ngƣỡng chính là sợi dây liên kết kéo cộng đồng ngƣời Hoa ở Hội An xích
lại gần nhau, hiểu nhau và sống tốt hơn.
Chỉ cần phân tích tín ngƣỡng thờ Thiên Hậu cũng cho thấy một minh
chứng về sự kết nối cộng đồng, không chỉ trong nội bộ tộc ngƣời Hoa mà là
một cộng đồng rộng lớn gắn kết cả ngƣời Hoa và ngƣời Việt cùng sinh sống
ở Hội An. Tính liên kết cộng đồng là lợi thế cạnh tranh của ngƣời Hoa: với
đặc điểm dân ngụ cƣ, ngƣời Hoa luôn có tâm lý “hải ngoại cô nhi” và luôn
tìm về cội nguồn, tìm đến sự che chở và giúp đỡ của những ngƣời cùng dòng
họ, gia đình và quê hƣơng. Những yếu tố ấy tạo ra một sự liên kết, cố kết tự
nhiên trong các tổ chức cộng đồng xã hội truyền thống cũng nhƣ các tổ chức
xã hội mang đặc trƣng thời đại của ngƣời Hoa. Những tổ chức này tạo cho họ
sức mạnh cạnh tranh để mở rộng dần các công ty, tập đoàn kinh tế xuyên
quốc gia, khu vực và quốc tế [53; tr. 332].
3.1.3. Giá trị giữ gìn và thể hiện lịch sử, bản sắc văn hóa tộc người
Trong xã hội hiện đại, tín ngƣỡng có vai trò quan trọng đối với sự cân
bằng xã hội, bởi nó có khả năng đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần
của đông đảo cƣ dân, đồng thời còn ảnh hƣởng nhất định đến quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của cộng đồng, đất nƣớc. Hiện nay, tín ngƣỡng cũng
“muôn màu muôn vẻ” và tồn tại, vận hành theo chiều hƣớng gia tăng cả về
hình thức thực hành lẫn số ngƣời tham gia. Ở Hội An nói riêng, khu vực
ngƣời Hoa trong cả nƣớc nói chung, các giá trị văn hóa đặc sắc vẫn đƣợc bảo
lƣu khá thống nhất do giá trị tín ngƣỡng truyền thống của họ mang lại, mặc
dù bối cảnh xã hội hiện nay có những động lực đồng thời cũng có nhiều áp
lực cho sự tồn tại của tín ngƣỡng truyền thống.

112
Với tƣ cách là một bộ phận của văn hóa, tín ngƣỡng của cộng đồng
ngƣời Hoa ở Hội An là môi trƣờng nảy sinh, tiếp nối, tích hợp và bảo tồn
nhiều nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật nơi đây. Trong bài viết
“Tôn giáo và văn hóa” Đỗ Quang Hƣng (2009) đã bàn về khái niệm
“religion”. Theo ông, mối quan hệ giữa tôn giáo, tín ngƣỡng và văn hóa đƣợc
đề cập với nhiều góc độ khác nhau, nhƣng phổ biến nhất là cách tiếp cận về
bản thể và chức năng của tôn giáo. Theo lối nhìn chức năng của tôn giáo, có
thể thấy “tôn giáo không thể tồn tại nếu chỉ đáp ứng một cách hƣ ảo khát
vọng của con ngƣời,... Niềm tin tôn giáo, cảm xúc tôn giáo, đạo đức tôn giáo,
một khi đƣợc hình thành và nâng cao, có thể trở thành một động lực cực
mạnh, thúc đẩy con ngƣời biểu lộ lòng nhiệt thành của mình bằng hành động
cụ thể, đƣợc thể hiện trong các công trình kiến trúc, hội họa, âm nhạc, thơ
văn, nghệ thuật,... trác tuyệt, những di sản văn hoá tôn giáo không thua kém
gì những công trình văn hóa xuất phát từ nhu cầu phục vụ đời thƣờng” [80].
Vì vậy, các hình thức tín ngƣỡng thể hiện qua quan niệm và việc thực hành lễ
hội, nghi lễ không chỉ giúp duy trì các đặc trƣng văn hóa tộc ngƣời Hoa từ
vật thể đến phi vật thể, mà còn là môi trƣờng để thể hiện và sáng tạo các đặc
trƣng hoặc dị bản văn hóa mới, đặc biệt là các loại hình nghệ thuật, những trò
chơi dân gian, ca, múa, nhạc phù hợp với bối cảnh mới,...
Giá trị văn hóa tín ngƣỡng của cộng đồng ngƣời Hoa thể hiện không
chỉ ở sự giữ gìn bản sắc mà còn thể hiện qua việc giao lƣu văn hóa. Hệ thống
tín ngƣỡng nơi đây đã có sự tiếp nhận, pha trộn giữa các nền văn hóa Việt -
Chăm - Hoa. Thực tế cho thấy, nhiều tín ngƣỡng của cộng đồng ngƣời Hoa
có nguồn gốc ngoại lai nhƣ tín ngƣỡng thờ Nữ thần Thiên Y A Na bắt nguồn
từ cộng đồng ngƣời Chăm. Trên cơ sở tiếp nhận các tín ngƣỡng truyền thống
của các dân tộc địa phƣơng nhƣ tín ngƣỡng thờ Thành Hoàng,... cộng đồng
ngƣời Hoa đã “dung hợp” với sinh hoạt văn hóa truyền thống của mình để
góp phần tạo nên sự đa dạng, đặc sắc trong hệ thống tín ngƣỡng của ngƣời
Hoa tại Hội An.

113
Hội quán không chỉ là nơi sinh hoạt và thực hành tín ngƣỡng của ngƣời
Hoa, mà còn là nơi thể hiện đặc trƣng văn hóa nghệ thuật, đồng thời hiện thực
việc hoạt động văn hóa của ngƣời Hoa. Nếu nhƣ tổ chức xã hội của ngƣời Hoa ở
Nam Bộ hiện nay với hội quán là một không gian văn hóa thỏa mãn nhu cầu
nhiều mặt của ngƣời Hoa: sinh hoạt tín ngƣỡng tôn giáo, nơi gặp gỡ trao đổi,
bàn chuyện làm ăn,... thì ở thành phố Hội An cũng có đặc trƣng tƣơng tự khi các
hội quán chính là nơi hội tụ tập trung nhất những sắc thái văn hóa của cộng
đồng ngƣời Hoa nơi đây. Một minh chứng về Hội quán Phƣớc Kiến - nơi tổ
chức lễ vía Thiên Hậu Thánh Mẫu, là một trong những địa chỉ quy tụ các
hoạt động văn hóa tín ngƣỡng của cộng đồng ngƣời Hoa ở Hội An, giúp nhìn
ra một số điều lý thú về đời sống tâm linh cũng nhƣ nghệ thuật truyền thống
của ngƣời Hoa thông qua đặc trƣng về kiến trúc và cách trang trí, bài trí trong
Hội Quán. Hội quán Phƣớc Kiến là một trong những kiến trúc điển hình của
mô hình hội quán ở Hội An, nơi sinh hoạt của cộng đồng các thƣơng nhân
quê ở tỉnh Phƣớc Kiến, Trung Hoa vào thế kỷ XVIII-XIX, thờ Thiên Hậu
Thánh Mẫu - vị thần cứu hộ các thuyền buôn của ngƣời Hoa gặp nạn trên
biển. Ở Tiền điện là những bức phù điêu nổi bật, có bức mô tả cảnh Thiên
Hậu Thánh Mẫu đi cứu hộ thuyền bị đắm: cận cảnh là thuyền gỗ ngả nghiêng
trong cơn bão, hình ảnh Thiên Hậu cƣỡi mây bay tới tay cầm chiếc đèn lồng
soi đƣờng,... Hơn nữa, lễ hội - nghi lễ đƣợc tổ chức hàng năm tại Hội quán
không chỉ thể hiện lòng thành kính, sự trân trọng và tri ân sâu sắc đối với các
vị thần linh đã giúp đỡ, phù hộ cho cuộc sống của ngƣời Hoa, mà qua đó còn
phản ánh một cách cụ thể và sinh động về lối sống, phong tục tập quán,
những nét đẹp của ngƣời Hoa trong sinh hoạt văn hóa tín ngƣỡng.
3.1.4. Giá trị giáo dục truyền thống
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, rất nhiều lễ thức, nội dung của các
hình thức tín ngƣỡng, đặc biệt là các bài tế cũng nhƣ diễn trình mỗi nghi lễ và
những yếu tố liên quan nhƣ lễ vật dâng cúng, nghệ thuật trang trí,... của các
nghi lễ tín ngƣỡng đều là những thông tin, tín hiệu, dữ liệu,... về nguồn gốc,

114
lịch sử và cách thức ứng xử với môi trƣờng tự nhiên và xã hội của mỗi tộc
ngƣời trong đó có tộc ngƣời Hoa. Do vậy, thông qua các hình thức tín
ngƣỡng, các nghi lễ, đặc biệt là những nghi lễ lớn,... không chỉ giúp nhận biết
đƣợc nguồn gốc lịch sử tộc ngƣời Hoa ở Hội An cũng nhƣ quá trình giao lƣu
và di chuyển di cƣ, sự thích ứng với môi trƣờng tự nhiên và xã hội tại nơi ở
mới của cộng đồng ngƣời Hoa trong quá trình hình thành, tồn tại và phát triển
tại thành phố Hội An, mà còn mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc.
Các hình thức tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Hội An, đặc biệt là những
lễ hội - nghi lễ liên quan là quá trình tái hiện sinh động các nhân vật, sự kiện
lịch sử, văn hóa đã diễn ra trong quá khứ của cộng đồng ngƣời Hoa. Do đó,
giá trị giáo dục quan trọng nhất của tín ngƣỡng cùng các lễ hội - nghi lễ liên
quan là hƣớng về cội nguồn, nhắc nhở mọi ngƣời trong cộng đồng những bài
học về đạo lý, truyền thống cha ông, lịch sử hình thành nơi cƣ trú hiện nay;
qua đó giáo dục đạo đức, lòng tự hào về truyền thống lịch sử của các hội
quán và thành phố Hội An. Nhƣ đã đề cập, lễ hội, nghi lễ trên cơ sở thực
hành các hình thức tín ngƣỡng là một hoạt động văn hóa tinh thần, thể hiện
tình cảm của cả cộng đồng và mỗi ngƣời đối với tổ tiên, các thánh thần để
cầu mong đƣợc che chở, phù hộ,... Do đó, ngƣời dân nói chung, ngƣời Hoa ở
Hội An nói riêng đến với các hình thức tín ngƣỡng thông qua tham gia vào
các lễ hội, nghi lễ là đến với lòng thành kính tổ tiên cùng các bậc tiền nhân,
nhắc nhở mọi ngƣời nhớ đến bổn phận và trách nhiệm của mình với ông bà,
tổ tiên, dòng tộc; đồng thời, hƣớng con ngƣời tích cực làm việc thiện, luôn
chăm lo vun đắp cho cuộc sống gia đình và cộng đồng ngày càng no đủ để
xứng đáng với công sức sinh thành của ông bà, tổ tiên, ...
Rõ ràng, tín ngƣỡng truyền thống cùng các lễ hội, nghi lễ liên quan có
giá trị giáo dục rất cao, uốn nắn con ngƣời tự giác điều chỉnh các mối quan hệ
và đặc biệt là cách ứng xử cho phù hợp với đạo lý làm ngƣời, nhằm tự hoàn
thiện hơn nữa phẩm chất tốt đẹp của con ngƣời. Đặc biệt, tình hình thực hành
tín ngƣỡng thông qua việc tổ chức các lễ hội và nghi lễ, đóng góp lễ vật, tham

115
gia của các gia đình cũng nhƣ ngƣời dân trong cộng đồng còn thể hiện đƣợc
cơ chế giám sát về việc thực hiện phong tục, hƣơng ƣớc/quy ƣớc của cộng
đồng liên quan tới sự đoàn kết, tƣơng trợ nhau, trách nhiệm của các gia đình
và thành viên cho quá trình thực hành tín ngƣỡng, sự thành công tổ chức lễ
hội, nghi lễ cũng nhƣ các công việc chung của cộng đồng.
3.2. Xu hƣớng biến đổi tín ngƣỡng
Đến nay, những biến đổi trong tín ngƣỡng của ngƣời Hoa nói riêng, tín
ngƣỡng các dân tộc nói chung là một thực trạng thay đổi cấu trúc, đang phát
triển theo xu hƣớng hội nhập. Bởi vậy, bảo tồn những di sản văn hóa truyền
thống tốt đẹp trong đó có tín ngƣỡng dân gian của các dân tộc trở thành một
đòi hỏi cấp thiết, vừa đáp ứng yêu cầu thích nghi với bối cảnh mới vừa gìn
giữ đƣợc những di sản truyền thống mà các thế hệ cha ông để lại. Trong xu
thế đó, cộng đồng ngƣời Hoa ở Hội An cùng đứng trƣớc những áp lực và
thách thức của sự bảo tồn và biến đổi.
Cùng với sự chuyển mình của thành phố Hội An nói riêng và cả nƣớc
nói chung, dƣới tác động của đô thị hóa cùng quá trình công nghiệp hóa -
hiện đại hóa, vùng đất khô cằn và nắng gió này ngày một thay da đổi thịt. Và
một trong những hệ quả tất yếu do sự tác động của quá trình đô thị hóa là
nhiều yếu tố văn hóa của ngƣời Hoa tại Hội An đã dần biến đổi, trong đó có
sự biến đổi của tín ngƣỡng truyền thống.
3.2.1. Biến đổi tín ngưỡng
3.2.1.1. Biến đổi tín ngưỡng cộng đồng
* Về không gian thờ tự
Hệ thống tín ngƣỡng cộng đồng của ngƣời Hoa ở Hội An khá phong
phú, gồm: thờ Tiền hiền, Hậu hiền, Thiên Hậu Thánh Mẫu, Môn thần, Quan
Thánh Đế Quân, Huyền Thiên Đại Đế, Âm linh Âm hồn, thờ Bà Mụ, thần
Phục Ba,... Ứng với mỗi tín ngƣỡng nhƣ vậy là một cơ sở, công trình thờ tự
riêng. Nói cách khác, mỗi loại hình tín ngƣỡng có một không gian thờ tự
chuyên biệt. Trong khi, các công trình này đều đƣợc xây dựng từ lâu đời tại

116
những khu vực dân cƣ của làng, sau này mới hình thành khu di tích lịch sử -
văn hóa phố cổ Hội An nhƣ hiện nay. Từ khi đƣợc xây dựng đến nay, kiến
trúc của những công trình tín ngƣỡng tại thành phố Hội An vẫn đƣợc giữ
nguyên, những lần tu bổ của cộng đồng ngƣời Hoa và của chính quyền thành
phố Hội An đều chỉ mang tính trang trí, bảo vệ nhằm tôn thêm vẻ uy nghiêm,
đồng thời chống lại sự xuống cấp theo thời gian. Hiện nay, các khu di tích
đƣợc ngƣời Hoa cũng nhƣ chính quyền thành phố Hội An, mà trực tiếp là
Trung tâm Quản lý bảo tồn di tích Hội An quan tâm trông nom, bảo vệ, giữ
gìn và ngày càng phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp.
Tuy nhiên, cảnh quan bên ngoài các cơ sở thờ tự đã có sự biến đổi
nhanh chóng do sự phát triển của đô thị hóa. Trƣớc đây, diện tích bên ngoài
các cơ sở thờ tự không có tƣờng rào che chắn, không có nhiều nhà cửa nên
rất thoáng đãng. Nhƣng hiện nay, không gian cảnh quan bên ngoài các cơ sở
thờ tự đó bị thu hẹp, hiện tại khuôn viên của các khu thờ tự di tích này đã có
tƣờng rào bao bọc (Xem Phụ lục 3, ảnh 5.1 - Hội quán Quỳnh Phủ, ảnh 4.1-
Hội quán Triều Châu).
* Về nghi thức thờ cúng
Kết quả khảo sát cho thấy, nghi thức thực hành tín ngƣỡng và thờ cúng
của ngƣời Hoa ở Hội An gần nhƣ chƣa có sự thay đổi nhiều vì những nghi
thức này đƣợc ông bà, tổ tiên truyền dạy lại, xƣa nay vẫn vậy, con cháu đời
sau ghi nhớ mà làm theo. Do đó, nghi thức thờ cúng về cơ bản vẫn giữ
nguyên với hai lễ là: lễ vọng và lễ chánh trong ngày kỵ thần. Dẫu vậy, cũng
không phải hoàn toàn không có sự thay đổi, ví nhƣ trƣớc đây lễ cúng tại các
cơ sở thờ tự đƣợc thực hiện đầy đủ hơn, cụ thể nhƣ lễ cúng Tiền hiền, Hậu
hiền ngày xƣa thì ngƣời chủ tế phải ăn chay trƣớc đó ba ngày, gia đình chủ tế
phải toàn vẹn, con cái thành đạt, vợ chồng hạnh phúc,… nhƣng bây giờ
không còn khắt khe nhƣ trƣớc nữa.
Lễ Nguyên tiêu tại Hội Quán Triều Châu diễn ra vào ngày 15/2 âm
lịch, trƣớc đây đƣợc tổ chức rất linh đình và khá nhiều lễ vật dâng cúng gồm

117
có dê, ngỗng, heo sống hoặc heo quay phải toàn sắt (còn trinh, không bệnh
tật), đốt pháo,... Còn hiện nay đã có sự thay đổi, chẳng hạn nhƣ heo quay
không còn yêu cầu toàn sắt nhƣ ngày xƣa, không còn tục đốt pháo.
Lễ cúng Tiền hiền, Hậu hiền của Minh Hƣơng Tụy Tiên Đƣờng trƣớc
đây không có phần hội, nhƣng hiện nay lại có thêm phần hội nhƣ chúc thọ
các vị cao niên từ 85 tuổi trở lên, tổ chức xổ số đầu năm,... nhằm gắn kết tất
cả mọi ngƣời trong cộng đồng lại với nhau.
Lễ cúng Thiên Hậu Thánh Mẫu ở Hội quán Phƣớc Kiến ngày xƣa thì
phần hội rất đơn sơ, chỉ là giao lƣu ca hát, múa lân,... nhƣng hiện nay có thêm
xổ số cầu may, bán đấu giá lồng đèn, phát gạo làm từ thiện,... (Xem Phụ lục
3, ảnh 8.1, 8.3).
Nhƣ vậy, tín ngƣỡng của cộng đồng ngƣời Hoa tuy đóng vai trò quan
trọng trong đời sống tinh thần, là nét đẹp văn hóa qua nhiều thế hệ, nhƣng do
nhiều nguyên nhân đã dẫn đến những biến đổi về không gian và cơ sở thờ tự,
nghi thức thờ cúng và lễ hội gắn với tín ngƣỡng. Trong đó, có những biến đổi
rõ nét, cũng có những biến đổi chƣa thật sâu sắc. Điều này chứng tỏ yếu tố
truyền thống trong tín ngƣỡng vẫn đƣợc cƣ dân nơi đây trân trọng, giữ gìn;
đồng thời, thể hiện sự quan tâm của các cấp chính quyền và sự nỗ lực của
ngƣời dân địa phƣơng trong vấn đề bảo tồn vốn văn hóa cổ truyền trƣớc tác
động mạnh mẽ không ngừng của đô thị hóa.
* Về cơ sở thờ tự, hiện đại hóa các pháp khí
Hiện nay, mức sống của các gia đình ngƣời Hoa ngày càng đƣợc nâng
cao, nhiều cơ sở thờ tự đã đƣợc cộng đồng ngƣời Hoa góp tiền trùng tu.
Ngoài ra còn nhận đƣợc sự đầu tƣ của chính quyền thành phố Hội An, nên
khá nhiều cơ sở thờ tự đƣợc đầu tƣ với nguồn kinh phí lớn nhƣ Hội quán
Phúc Kiến, Hội quán Quảng Đông. Xét về diện tích, kiến trúc, điêu khắc
cũng nhƣ bố cục, cách bài trí trong mỗi cơ sở thờ tự tín ngƣỡng của cộng
đồng ngƣời Hoa ở Hội An sau khi trùng tu không thay đổi, mà vẫn giữ
nguyên những nét truyền thống vốn có, với kiến trúc lộ thiên, chất liệu gỗ,

118
lợp ngói âm dƣơng, điêu khắc rồng phƣợng,... Bên cạnh việc trùng tu và sửa
sang nơi thờ tự, các pháp khí cũng đƣợc thay đổi. Các loại đèn điện đã đƣợc
thay thế cho đèn dầu, nhiều vòng hào quang điện tử đã làm cho khung cảnh
các cơ sở thờ tự mất đi nét hài hòa, trang nghiêm vốn có trƣớc kia. Các loại
trái cây bằng nhựa với kỹ thuật tinh xảo đã đƣợc đƣa vào thờ cúng quanh
năm,...
* Quan niệm và thực hành tín ngưỡng
Ở Hội An trong giai đoạn những năm đầu thế kỷ XXI, nhịp sống hiện
đại hóa diễn ra ngày một rõ rệt, kéo theo những biến đổi trong quan niệm về
tín ngƣỡng của cộng đồng và các thành viên cũng đã diễn ra dần dần. Bởi vì,
trong cộng đồng và gia đình ngƣời Hoa, số lƣợng ngƣời tham gia vào các
hoạt động tín ngƣỡng không chỉ đa phần là những ngƣời lớn tuổi, có vai vế
nhƣ trƣớc kia; mà ngày càng đa dạng hơn ở những ngƣời cùng tham gia nghi
lễ, bao gồm thƣơng nhân, công nhân, viên chức, học sinh, sinh viên,... Trong
khi ở phạm vi gia đình, do cơ cấu gia đình hạt nhân chiếm chủ yếu, nên nếp
sinh hoạt “tứ đại đồng đƣờng” nhiều thế hệ đã giảm đi, phần nào ảnh hƣởng
nhất định tới việc thực hành tín ngƣỡng.
Nhƣ đã trình bày, ngƣời Hoa khi định cƣ ở nơi mới thƣờng duy trì các
hoạt động tín ngƣỡng để làm dịu bớt những nỗi sợ, trấn an tâm lý mà tiêu
biểu là việc thờ các thần Quan Công, Bảo sanh, Tiền hiền, ... Không chỉ có
vậy, những bất ổn hiện nay do đời sống phức tạp mang lại, rủi ro tăng cao,
nhiều biến động về xã hội, ... cũng đã kéo theo những thay đổi về quan niệm
liên quan tới hoạt động tâm linh trong cộng đồng ngƣời Hoa.
Ở diện rộng là trong cộng đồng dân cƣ, ở quy mô nhỏ hơn là dòng tộc
và gia đình ngƣời Hoa, các mối quan hệ giữa các thành viên hiện nay cũng đã
nảy sinh nhiều vấn đề hơn, nhất là việc truyền đạt văn hóa giữa các thế hệ.
Đây cũng là biến đổi tất yếu của xu thế chung, bởi thế việc duy trì sinh hoạt
dòng họ và cộng đồng cũng có những ảnh hƣởng, mâu thuẫn nhất định, ví dụ
nhƣ việc coi trọng giỗ họ nhƣng lại quá bận rộn với công việc làm ăn mà

119
không thể đến tham dự. Hơn nữa, kinh tế là một thế mạnh của cộng đồng
ngƣời Hoa, nó giúp cho nhiều hoạt động tín ngƣỡng đƣợc khôi phục, duy trì
thƣờng xuyên việc thực hành tín ngƣỡng. Không thể phủ nhận vai trò thúc
đẩy của kinh tế bởi thu nhập nâng cao, ngƣời dân có điều kiện tiến hành
những nghi thức và hoạt động thờ cúng hơn. Thêm vào đó, nhiều cơ hội làm
ăn thuận lợi, nhiều thành tựu khiến cho con ngƣời ngày một củng cố niềm tin
là đƣợc sự giúp đỡ, che chở của thần linh.
Riêng việc thực hành các hình thức tín ngƣỡng, những biến đổi chủ
yếu là ở các nghi thức rƣớc, phần lễ có khi đƣợc giản lƣợc và rút bớt về thời
gian,... Các bƣớc diễn trình trong hành thực hành nghi lễ truyền thống hầu hết
vẫn đƣợc tuân thủ, đặc biệt là những nghi thức bắt buộc; tuy nhiên bản thân
của các nghi lễ tín ngƣỡng cũng phần nào có sự biến đổi nhƣng không quá
đột biến. Bởi vậy có thể thấy, văn hóa truyền thống vừa đƣợc dung hòa vừa
đƣợc phát huy trong đời sống đô thị hóa ngày nay diễn ra mạnh mẽ, làm cho
thành phố Hội An trở thành một đại diện độc đáo cho đô thị vừa giữ gìn đƣợc
vốn cổ vừa phát triển đƣợc ngành kinh tế mũi nhọn là thƣơng mại - du lịch.
Tuy nhiên, xu hƣớng này là một thực trạng không hiếm, nhất là những biến
đổi ngày một rộng hơn sẽ trở thành một thách thức không nhỏ cho việc bảo
tồn và phát huy các giá trị di sản, trong đó có tín ngƣỡng truyền thống cùng
với các lễ hội, nghi lễ của ngƣời Hoa nơi đây.
* Mục đích tín ngưỡng và lễ vật thờ cúng
Tín ngƣỡng truyền thống nói chung không chỉ là dấu hiệu nhận biết
cộng đồng, quy tụ và gắn kết con ngƣời, mà còn có những tác động đến quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của cộng đồng đó. Hiện nay, ngƣời Hoa ở Hội
An ngày càng khẳng định đƣợc tính chất độc đáo của văn hóa truyền thống,
đi đôi với đó là sự cởi mở để dung hòa với văn hóa Việt. Với ngƣời Hoa nơi
đây, chú trọng việc gìn giữ bản sắc không đi ngƣợc lại với nhu cầu đảm bảo
về kinh tế trong thời hội nhập ngày một sâu rộng. Những hoạt động tín
ngƣỡng nhƣ cúng tế vào các dịp nhƣ Tết Nguyên Đán, Tết Nguyên Tiêu, Tết

120
Thanh minh, Tết Đoan Ngọ, Tam triều (đƣa Ông bà), Tết Trung thu,... hay
việc thờ Tiền hiền, Hậu hiền, Thiên Hậu Thánh Mẫu, Quan Thánh Đế Quân
(Quan Công),... vẫn đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của ngƣời
dân, nâng cao đạo đức, lối sống của cộng đồng. Do đó, việc thực hành tín
ngƣỡng dù đã có những biến đổi khác đi phù hợp hơn với điều kiện sống hiện
tại thì mục đích chung nhất là vẫn chứa đựng những khát vọng và là nơi giúp
con ngƣời bày tỏ những ƣớc mong, xoa dịu những tổn thƣơng trong cuộc
sống. Theo Nguyễn Văn Minh, vai trò của tôn giáo, tín ngƣỡng trong đời sống
xã hội thể hiện ở chỗ, tôn giáo, tín ngƣỡng góp phần sáng tạo các giá trị văn hóa
nghệ thuật; một mặt hƣớng con ngƣời tới giá trị đạo đức và xã hội tốt đẹp,
nhƣng cũng làm tăng tính thụ động vào các tín điều có sẵn; vừa phản ánh khát
vọng của con ngƣời, nhƣng cũng kìm hãm quá trình hiện thực hóa khát vọng đó:
“Một thực tại đã và đang diễn ra ở rất nhiều cộng đồng trong cả xã hội hiện đại
hay thôn dã, phƣơng Đông hay phƣơng Tây, là nhờ có tác dụng của tôn giáo, tín
ngƣỡng mà những khía cạnh tốt đẹp về đạo lý sống, trật tự xã hội, tài nguyên
môi trƣờng đƣợc đảm bảo và duy trì” [103; tr. 27].
Ở thành phố Hội An nói riêng và Việt Nam nói chung, hiện nay tín
ngƣỡng góp phần đáp ứng nhu cầu kinh tế của một bộ phận dân cƣ. Những tổ
chức bang hội trong cộng đồng ngƣời Hoa là nét văn hóa đặc thù thể hiện
tính cố kết, gắn bó của cộng đồng rất mật thiết. Theo đó, tín ngƣỡng không
chỉ giúp ngƣời Hoa quần tụ bên nhau và trợ giúp đỡ nhau về tinh thần, mà
còn giúp nhau mƣu sinh, buôn bán. Giai đoạn đầu “lƣu vong” đến nơi định cƣ
mới, tuy kinh tế có thể chƣa ổn định, nhƣng dần dần một bộ phận ngƣời Hoa
đã có những phát triển mạnh trong hoạt động kinh tế, đặc biệt với khả năng
kinh doanh, buôn bán. Thay vì cầu mong sức khỏe, an cƣ lạc nghiệp ở nơi
định cƣ mới nhƣ trƣớc kia, thời gian gần đây nhiều ngƣời Hoa ở Hội An đã
có những thành tựu nhất định trong kinh doanh buôn bán, ổn định chất lƣợng
cuộc sống, đảm bảo an toàn và bình yên; vì vậy, mục đích thờ cúng của họ

121
lúc này thƣờng hƣớng đến những nhu cầu về làm ăn ngày một mở rộng, cầu
mong đạt đƣợc ƣớc nguyện trong đời sống tình cảm lẫn công danh.
Sinh hoạt tín ngƣỡng dòng họ ngƣời Hoa ở Hội An tuy vẫn đƣợc duy
trì thƣờng xuyên nhƣ trƣớc đây, nhƣng hiện nay do con cháu đóng góp để tổ
chức, thậm chí có sự tài trợ khá lớn cả về lễ vật, kinh phí bởi vì nhiều thành
viên có điều kiện khá giả hơn, giữ chức vụ cao trong xã hội. Bởi vì hoạt động
thờ cúng tổ tiên thể hiện tình cảm con cháu hƣớng về cội nguồn, thể hiện
lòng thành kính, biết ơn với sự chở che, bảo hộ,... do xuất phát từ quan niệm
truyền thống của ngƣời Hoa là thờ cúng tổ tiên không chỉ hoạt động tâm linh
mà còn chứa đựng ý nghĩa triết lý. Với ngƣời Hoa ở Hội An hiện nay, chữ
hiếu đã đƣợc nâng lên thành đạo hiếu. Qua kết quả nghiên cứu có thể thấy,
tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Hội An qua thời gian từ trƣớc đến nay hầu nhƣ
không biến đổi mà chỉ có thực hành tín ngƣỡng là biến đổi, cụ thể là có sự
biến đổi từ quan niệm, mục đích đến việc tổ chức các lễ hội - nghi lễ liên
quan, đặc biệt là một số lễ vật thờ cúng. Theo đó, xu hƣớng “phú quý sinh lễ
nghĩa” thể hiện khá rõ trong những thay đổi về lễ vật thờ cúng của ngƣời Hoa
ở Hội An. Ngày trƣớc, có khi chỉ là quan niệm truyền thống “tùy tiện biện
lễ”, “con giàu một bó, con khó một nén”,... Nhƣng ngày nay, do chất lƣợng
cuộc sống khấm khá hơn, hoạt động kinh tế thuận lợi và thu nhập cao hơn,
nên lễ vật thờ cúng cũng đƣợc biện cầu kỳ hơn, đắt tiền hơn. Sự “thành tâm”
luôn đi cùng với sự đủ đầy của lễ vật thờ cúng. Do vậy, trong bối cảnh đời
sống kinh tế khấm khá nhƣ hiện nay, quan điểm biện lễ không còn đơn giản
với “lòng thành”, mà có xu hƣớng “tốt lễ - dễ kêu” bởi một phần do ảnh
hƣởng của tâm lý cầu cúng với mục đích thực dụng hơn so với trƣớc đây.
Thực tế đã chỉ ra rằng, để dâng cúng tổ tiên và các thánh thần, ngƣời
Hoa gần đây đã ƣa thích sử dụng nhiều loại thực phẩm có sẵn đƣợc chế biến
và bày bán thay cho việc chế biến kiểu truyền thống nhƣ: xôi, chè, cơm chiên
Dƣơng Châu, vịt tiềm,... Bên cạnh đó là những dịch vụ đi kèm, các hoạt động

122
thƣơng mại cũng từ đó mà phát triển hơn, tuy nhiên đa phần vẫn dung hòa hài
hòa giữa không gian thiêng và hoạt động du lịch.
3.2.1.2. Biến đổi tín ngưỡng gia đình
Dƣới tác động của nhiều nguyên nhân, đặc biệt là quá trình đô thị hóa
ở thành phố Hội An cũng nhƣ sự biến đổi của tín ngƣỡng cộng đồng, tín
ngƣỡng trong gia đình của ngƣời Hoa hiên nay cũng đã ít nhiều có sự biến
đổi để phù hợp với cuộc sống hiện tại.
Đến nay, thờ cúng tổ tiên vẫn là tín ngƣỡng giữ vai trò quan trọng nhất
trong gia đình ngƣời Hoa ở Hội An. Hầu hết các gia đình đều có bàn thờ tổ
tiên và cúng lễ trong những ngày rằm, mồng một và ngày lễ tết. Tuy nhiên,
dƣới tác động của quá trình phát triển đô thị hóa, tín ngƣỡng này cũng có
nhiều thay đổi so với truyền thống. Ngày nay, với sự xuất hiện của những
ngôi nhà cao tầng thay cho những ngôi nhà truyền thống đã phần nào ảnh
hƣởng tới vị trí đặt bàn thờ tổ tiên. Đa phần nơi cao nhất trong ngôi nhà
ngƣời ta dành để thờ cúng tổ tiên, nhƣng không phải gia đình nào cũng đƣợc
nhƣ vậy. Có nhà thì bàn thờ tổ tiên vẫn để ở tầng một, nơi phòng khách và là
trung tâm của ngôi nhà. Ngƣời ta quan niệm đặt bàn thờ tổ tiên ở phòng
khách là để tổ tiên luôn đƣợc ấm cúng, gần gũi con cháu. Nếu để ở trên cao
thì một tháng đôi ba lần con cháu mới lên đó thắp hƣơng cúng bái. Hơn nữa,
đặt bàn thờ ở tầng 1 là để giáp với đất, nhƣ thế âm dƣơng hòa hợp mới tốt.
Tuy còn nhiều lý giải khác nhau nhƣng tựu chung lại, chúng ta có thể thấy
việc đặt bàn thờ thực ra không theo một quy định thành văn nào mà về cơ bản
tùy thuộc vào quan niệm của gia chủ. Do đó, sự thay đổi kiến trúc ngôi nhà
kéo luôn theo sự thay đổi trong việc đặt bàn thờ, nên đã phần nào phản ánh
sự tác động của đô thị hóa vào trong đời sống tâm linh của ngƣời Hoa nói
chung và ngƣời dân thành phố Hội An nói riêng. Bên cạnh đó, bàn thờ ngày
nay đƣợc sản xuất đóng sẵn và bán trên thị trƣờng là những hƣơng án sơn son
thếp vàng, đƣợc ngƣời Hoa mua về để thờ cúng tổ tiên. Quá trình công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nƣớc cùng với tốc độ đô thị hóa đang diễn ra

123
sôi động tại thành phố Hội An, đời sống của ngƣời Hoa dần dần đƣợc nâng
cao. Theo đó, lễ vật dâng cúng ông bà trong những ngày cúng kỵ, lễ tết cũng
có phần biến đổi. Trƣớc đây, lễ vật dâng cúng chủ yếu là những thứ có sẵn
trong gia đình nhƣ heo, bò, gà, vịt,... nếu là gia đình tƣơng đối khá giả; còn
những gia đình khó khăn thì cúng có các món bình thƣờng, dân dã phù hợp
với điều kiện kinh tế của gia đình nhƣ: rau củ, xôi, chè, hoa quả,... Ngƣợc lại,
ngày nay hầu nhƣ mọi thứ dâng cúng tổ tiên đều đƣợc mua ở ngoài thị
trƣờng, thậm chí có những gia đình còn mời cả ngƣời nhà hàng về nấu
nƣớng, chuẩn bị chu đáo cho ngày cúng kỵ. Vì vậy, mâm cúng ma nhà rất
sang trọng với đầy đủ các món hiện đại, thức uống không còn là rƣợu gạo mà
thay vào đó là bia các loại, rƣợu ngoại, nƣớc ngọt,...
Ngoài việc thờ cúng tổ tiên trong phạm vi gia đình, những sinh hoạt
văn hóa và tín ngƣỡng dòng họ của ngƣời Hoa ở Hội An hiện nay đang có xu
hƣớng phục hồi mạnh mẽ. Hầu hết các dòng họ lớn của cộng đồng ngƣời Hoa
nhƣ tộc Trần, tộc Trƣơng, tộc Nguyễn,... đều đã xây dựng nhà thờ họ và tổ
chức ngày giỗ tổ hàng năm. Những dịp này, các con cháu trong dòng tộc
không thể vắng mặt bởi họ coi đó là sự kiện quan trọng với dòng tộc, gia
đình. Các dòng họ của ngƣời Hoa ở Hội An ngày càng quan tâm giữ gìn kiến
trúc cơ sở thờ tự và duy trì đều đặn tổ chức các nghi lễ tín ngƣỡng của dòng
họ. Không chỉ những cá nhân có điều kiện về kinh tế, bản thân mỗi thành
viên luôn có ý thức đóng góp vào việc giỗ họ. Nhìn chung, việc trở lại mạnh
mẽ các sinh hoạt dòng họ của ngƣời Hoa là phù hợp với xu thế chung của
thời đại, đồng thời là một dấu hiệu đáng mừng. Bởi vì, đây là một sinh hoạt
có ý nghĩa quan trọng, là chất keo gắn kết các thành viên trong họ tộc với
nhau, thể hiện ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá truyền thống của cha ông để lại
trong cộng đồng ngƣời Hoa ở thành phố Hội An.
Từ khi đổi mới năm 1986, với sự phát triển kinh tế và giàu lên nhanh
chóng của con cháu trong dòng họ ngƣời Hoa, các cơ sở thờ tự của dòng họ
đƣợc nâng cấp, tu bổ ngày càng khang trang, sạch đẹp với nhiều đồ thờ đắt

124
tiền, hiện đại. Nếu nhƣ trƣớc kia việc tu sửa nhà thờ họ, tổ chức giỗ họ chủ
yếu do con cháu trong dòng họ đóng góp, thì ngày nay có thêm sự hỗ trợ của
chính quyền thành phố Hội An. Nhờ đó, nhà thờ họ đã trở thành một không
gian thiêng liêng, nơi gặp gỡ, giao lƣu văn hoá của con cháu trong dòng họ
và khách du lịch. Qua đây, có thể thấy rằng, dẫu có nhiều biến chuyển thì
sinh hoạt văn hoá tín ngƣỡng của dòng họ vẫn là một nhu cầu quan trọng của
đông đảo ngƣời Hoa ở thành phố Hội An.
Nhƣ vậy, trong guồng quay của sự phát triển theo hƣớng đô thị hóa và
hội nhập, ngƣời Hoa ở Hội An nói riêng cũng nhƣ các tộc ngƣời Việt ở Hội
An nói chung đã và đang trong quá trình chuyển mình mạnh mẽ về mọi mặt
bao gồm bản sắc văn hóa và tín ngƣỡng. Họ luôn tìm mọi cách làm sao có thể
dung hòa đƣợc các giá trị văn hoá truyền thống với những ảnh hƣởng ngày
càng gia tăng của lối sống hiện đại. Rất nhiều yếu tố văn hoá mới đƣợc du
nhập tạo nên diện mạo mới và ít nhiều làm biến đổi cuộc sống tín ngƣỡng
truyền thống của ngƣời Hoa nơi đây. Cũng nhƣ các sinh hoạt văn hoá cộng
đồng, những sinh hoạt tín ngƣỡng trong gia đình ngƣời Hoa ở Hội An tuy vẫn
đƣợc duy trì và giữ đƣợc những nét đẹp truyền thống của cha ông, nhƣng
cũng đã có sự biến đổi cho phù hợp với cuộc sống hiện đại.
3.2.2. Xu hướng biến đổi
* Xu hướng biến mất một số nghi lễ tín ngưỡng
Qua khảo sát bằng quan sát, phỏng vấn bằng bảng hỏi, tiếp xúc với
những ngƣời dân địa phƣơng cũng nhƣ một số cá nhân có vai trò trong các
hội quán, chùa,… chúng tôi nhận thấy những biến đổi phần nào của thực
hành tín ngƣỡng trong cộng đồng ngƣời Hoa tại Hội An hiện tại. Các nghi lễ
trong sinh hoạt tín ngƣỡng của ngƣời Hoa hiện nay đã có những thay đổi so
với chỉnh thể vốn có từ truyền thống. Từ khi xuất hiện và định cƣ ở Hội An
đến nay, cộng đồng ngƣời Hoa đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, và sự
tiếp xúc sâu rộng với những tín ngƣỡng khác tại địa phƣơng cũng là một thực
trạng và xu hƣớng tất yếu. Tuy hệ thống tín ngƣỡng trong gia đình và cộng

125
đồng ngƣời Hoa ở Hội An nói chung vẫn giữ đƣợc những nét đặc trƣng
chính, nhƣng một số nghi lễ truyền thống đƣợc giản tiện, đặc biệt là các bƣớc
thực hành nghi thức cúng hay tổ chức lễ hội. Các lễ giỗ tổ Tiền hiền, vía
Thiên Hậu nhiều khi không còn tổ chức linh đình nhƣ trƣớc; tín ngƣỡng thờ
Môn thần cũng không đƣợc tất cả các gia đình tham gia; hay tục dán câu đối
tết, tục chứa nƣớc đầy chum, gạo đầy hũ ngày Tết cũng có một số gia đình
không thực hiện nữa,…
Việc giản tiện trong các hoạt động tín ngƣỡng nhƣ thờ cúng trong hộ
gia đình, dòng họ có thể thấy khá rõ ở một số gia đình; chủ yếu ở các yếu tố
nhƣ linh hoạt hơn trong thời gian thực hành nghi lễ; lựa chọn vật phẩm, đọc
lời cúng không hoàn toàn tuân thủ cung cách truyền thống,… Thậm chí tùy
vào mức sống và điều kiện của từng gia đình, dòng họ mà có thể ghép chung
một số sinh hoạt tín ngƣỡng trong gia đình ngƣời Hoa tại Hội An. Đây cũng
là một đặc trƣng mang tính hai mặt, khi vừa làm thay đổi thời gian nghi lễ
truyền thống vừa muốn đáp ứng/ thích ứng với nhịp sống của con ngƣời trong
xã hội hiện đại nhiều biến động.
* Xu hướng đan xen, đa dạng hóa tín ngưỡng
Ở Hộ i An hiệ n nay, tín ngư ỡ ng củ a ngư ờ i Hoa đã và
đang đứ ng trư ớ c mộ t thự c trạ ng là sự mai mộ t và đan
xen tín ngư ỡ ng. Có thể thấ y, đa dạ ng hóa tín ngư ỡ ng
không phả i là mộ t xu hư ớ ng mà là mộ t quá trình đã và đang
diễ n ra trong đờ i số ng xã hộ i hiệ n đạ i. Xu hƣớng đan xen,
đa dạng hóa tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Hội An tồn tại song song giữa hai
hiện tƣợng nổi bật là sự xuất hiện những tín ngƣỡng mới, bên cạnh đan xen
với những tín ngƣỡng cũ đã tồn tại từ xa xƣa.
Giai đoạn trƣớc năm 1986 ở nƣớc ta có ba loại hình tôn giáo: tôn giáo,
tín ngƣỡng bản địa; tôn giáo du nhập từ nƣớc ngoài vào Việt Nam và tôn giáo
nội sinh. Hiện nay xuất hiện loại hình tôn giáo mới, còn gọi là đạo lạ, gây ra

126
không ít những hệ lụy. Trong tín ngƣỡng của ngƣời Hoa nói chung, dù hiếm
khi gây ra những tác động lớn một phần do niềm tin và tính cố kết cộng đồng
cao; tuy nhiên thực trạng này không phải không tiềm ẩn những nguy cơ phát
triển ngày một rõ rệt. Biểu hiện rõ nhất của sự đan xen, đa dạng hóa tín
ngƣỡng chính là sự dung hòa chấp nhận đối tƣợng thờ cúng.
Không chỉ ngƣời Hoa ở Hội An mà còn ở hầu hết các vùng khác, chính
bởi dung hòa giữa sự gắn kết cộng đồng và đề cao xu hƣớng hội nhập giữa
các nền văn hóa, do đó, họ luôn có ý thức về sự chấp nhận đa dạng văn hóa
tín ngƣỡng. Kiến trúc chùa Minh Hƣơng có thể xem nhƣ tiêu biểu cho tinh
thần này. Chính điện thờ Quan Công, hai bên là khán thờ Bà Cửu Thiên
Huyền Nữ, Thần Tài, Thổ địa, phía ngoài thờ Phật Bà Quan Âm, Phật Di
Lặc,… Có thể thấy, cách bố trí của chùa Minh Hƣơng nhƣ một triết lý sống
của ngƣời Hoa, trong nhà là ngƣời ruột thịt hãy sống trung thực, nghĩa khí
nhƣ Quan Công; ngoài nhà phải từ bi bác ái nhƣ Quan Âm, rủi có gặp nạn
hãy cứ trông nụ cƣời Phật Di Lặc mà hiểu, tiền bạc ái tình danh vọng thực
chất là ảo ảnh, biết cƣời nhƣ Phật Di Lặc thì biển khổ sẽ hóa ra Niết Bàn,…
* Xu hướng thương mại hóa tín ngưỡng
Hội An là vùng đất nhiều tiềm năng và thế mạnh để phát triển du lịch,
đặc biệt là du lịch tâm linh. Do đó, xu hƣớng này bao gồm cả mặt tích cực là
sự chú trọng phục hồi một số tín ngƣỡng cũ đi đối với sự phô trƣơng gây lãng
phí có tác động tiêu cực không nhỏ đến quan niệm và thực hành tín ngƣỡng.
Việc gắn sinh hoạt tín ngƣỡng với các hoạt động thƣơng mại du lịch,
dịch vụ, nhƣ công đức, cúng tiến tiền của vào các cửa chùa, nhà thờ của cá
nhân và tổ chức; đây không đơn thuần chỉ là vấn đề tâm linh mà còn là sự
đầu tƣ để thu lợi. Bên cạnh những hoạt động mang tính dịch vụ tâm linh, một
yếu tố để tín ngƣỡng gần với quan niệm là “mặt hàng” đó là việc tồn tại phổ
biến tâm lý “trao đổi” trong thực hành nghi lễ. Có một số ngƣời quan niệm
biện lễ vật cầu kỳ, tốn kém để xin cầu những món lợi lớn cho bản thân,… Đó

127
là một trong những biểu hiện, biến tƣớng của tâm lý, nhận thức sai lệch về tín
ngƣỡng truyền thống.
Có thể thấy, xu hƣớng thƣơng mại hóa tín ngƣỡng giúp nhận thức rõ
tính chất hai mặt của tôn giáo tín ngƣỡng. Một mặt giúp chăm lo xây dựng
cuộc sống, đề cao cái thiện; mặt khác dễ trở thành công cụ để các thế lực
phản động kích động, lợi dụng, dụ dỗ, mua chuộc vào mƣu đồ chính trị nhằm
phá vỡ khối đoàn kết dân tộc và sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân;
bởi dần dà sẽ biến những hoạt động thực hành tín ngƣỡng mang đậm bản sắc
tộc ngƣời thành những hoạt động dịch vụ “buôn thần bán thánh”, sai lạc đi
mục đích đích thực của tín ngƣỡng đối với đời sống tinh thần cộng đồng
ngƣời Hoa ở Hội An nói riêng, đời sống tín ngƣỡng nói chung hiện nay.
3.2.3. Nguyên nhân biến đổi
* Những nguyên nhân khách quan
Một trong những nguyên nhân khách quan quan trọng dẫn tới những
biến đổi tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Hội An hiện nay chính là bởi tác động
của thể chế chính trị, cụ thể là một số chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về
dân tộc, văn hóa, văn hóa với phát triển du lịch. Bên cạnh đó là việc triển khai
những Nghị quyết, chỉ thị mới nhằm đƣa Hội An trở thành thành phố du lịch
sinh thái,… Những Luật Di sản văn hóa; Pháp lệnh Tôn giáo tín ngƣỡng nay là
Luật Tôn giáo tín ngƣỡng,... cũng có những ảnh hƣởng nhất định phần nào đến
việc biến đổi của tín ngƣỡng ngƣời Hoa ở Hội An hiện nay.
Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 7 khẳng định,
bảo đảm cho ngƣời Hoa hƣởng mọi quyền lợi và nghĩa vụ công dân. Tôn
trọng văn hóa, chữ viết, tạo điều kiện để bà con ngƣời Hoa yên tâm làm ăn,
góp phần xây dựng đất nƣớc Việt Nam và vun đắp quan hệ hữu nghị giữa
nhân dân hai nƣớc Việt – Trung [8; tr. 35].
Tín ngƣỡng và tôn giáo của ngƣời Hoa còn là điều kiện gắn liền văn
hóa dân tộc với nội dung giáo dục nhân cách và tâm lý cộng đồng. Đó cũng là
biểu hiện tinh thần đƣợc thiết lập trên hai mặt, một mặt là nội dung tín

128
ngƣỡng tôn giáo nhằm định hƣớng cho những chuẩn mực nhân cách cá nhân
và cộng đồng; hai là mặt lễ nghi để tạo ra môi trƣờng thiêng liêng nhằm tác
động đến tâm lý cá nhân [45; tr. 101]. Đảng và Nhà nƣớc ta chủ trƣơng thực
hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tƣơng trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều
kiện để các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam đƣợc phát triển
thống nhất. Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nƣớc hiện nay
cũng nhấn mạnh: vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lƣợc
lâu dài trong sự nghiệp cách mạng; tăng trƣởng kinh tế phải kết hợp hài hòa
với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát triển kinh
tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hoá của các dân tộc; chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc,...
[10]. Theo đó, hiện nay tuy đã có những biến đổi cho phù hợp với sự giao lƣu
và hội nhập văn hóa, nhƣng sự đùm bọc và tƣơng trợ nhau trong đời sống
tinh thần ngƣời Hoa là một biểu hiện rõ rệt của sự coi trọng những giá trị
truyền thống. Từ hiện trạng tín ngƣỡng, xu hƣớng biến đổi tín ngƣỡng của
ngƣời Hoa ở Hội An hiện nay có thể thấy bên cạnh những mặt trái, hệ lụy là
những thay đổi theo chiều hƣớng tích cực hơn, hiện đại hơn, nhìn chung
không làm mất đi bản sắc riêng của tộc ngƣời Hoa.
* Nguyên nhân chủ quan
- Do phát triển của đời sống xã hội, đặc biệt là sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế
Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 10/1/2018 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực
hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa
IX về công tác tôn giáo trong tình hình mới đã chỉ rõ, Đảng và Nhà nƣớc cần
phải tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo để phát huy, khai
thác tốt nguồn lực tôn giáo, nhất là trên phƣơng diện từ thiện - nhân đạo, an
sinh xã hội, bảo trợ xã hội cũng nhƣ trong lĩnh vực giáo dục nâng cao dân trí,
đào tạo nguồn nhân lực xã hội, y tế chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, góp
phần phát triển bền vững đất nƣớc trong thời đại toàn cầu hóa và CMCN 4.0

129
hiện nay. Bởi vậy, tín ngƣỡng là một trong những động lực, nguồn lực góp
phần phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc. Tuy nhiên, hiện nay sự biến đổi
ngày một nhanh chóng và sâu rộng đã tác động đến mọi mặt của đời sống
không chỉ cá nhân mà kéo theo đó là sự biến đổi của gia đình; sự thay đổi
trong quan hệ cộng đồng; sự biến đổi trong giá trị, triết lý sống của cá nhân
và các nhóm xã hội. Tất cả những điều này cũng xuất phát từ sự biến đổi của
nền kinh tế thị trƣờng, sự chuyển đổi từ cơ cấu xã hội truyền thống sang cơ
cấu xã hội hiện đại.
Hội nhập ở Việt Nam trong nhiều năm qua kéo theo nhiều yếu tố: sự
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Chính bởi mức sống tăng cao, nhu cầu
sinh hoạt và giải trí cũng thay đổi nhanh chóng. Hội nhập cũng mở ra nhiều
cơ hội hơn đối với các dân tộc thiểu số ít ngƣời, đặc biệt với những loại hình
văn hóa độc đáo mang bản sắc riêng. Chủ trƣơng khôi phục và bảo tồn các
giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc với nghị quyết TW 5 đã tạo ra cú
hích lớn cho việc khôi phục lại các hoạt động văn hóa. Cùng với quá trình
thay đổi trên nhiều phƣơng diện của kinh tế, xã hội, tín ngƣỡng truyền thống
của ngƣời Hoa ở Hội An cũng đã và đang diễn ra nhiều thay đổi trên nhiều
phƣơng diện. Sự thay đổi này là một xu hƣớng và quy luật tất yếu.
- Do giao lưu tiếp biến văn hóa trong thời kỳ hội nhập
Hội An là vùng đất có sự tiếp xúc sâu rộng đối với các luồng văn hóa
bên ngoài không chỉ bởi vị trí địa lý thuận lợi hay có những tiềm năng lớn
trong phát triển du lịch. Tín ngƣỡng ngƣời Hoa ở Hội An có những biến động
và thích ứng cũng một phần do sự tác động của xu thế toàn cầu hóa cũng nhƣ
sự tác động của những thay đổi khác trong xã hội đƣơng đại; bởi thế đời sống
tín ngƣỡng có sự thay đổi theo nhiều xu hƣớng khác nhau. Điều này cũng
trùng khớp với các xu hƣớng đƣợc nhiều nhà nghiên cứu khái quát nhƣ xu
hƣớng thế tục hóa, toàn cầu hóa, dân tộc hóa, đa dạng hóa, cá nhân hóa tôn
giáo… [187].

130
Ở cộng đồng ngƣời Hoa, sự gắn kết lúc nào cũng đƣợc đặc biệt đề cao.
Có thể nói, tính cộng đồng của tín ngƣỡng thể hiện mạnh mẽ ở việc lấy đức
tin làm yếu tố gắn kết các nhóm sắc tộc. Michael Hammer tác giả của Tư duy
lại tương lai cho rằng chúng ta cần phải hiểu rõ rằng xã hội mà chúng ta đang
sống hiện nay đang vận động và biến đổi rất mạnh mẽ: “chúng ta đang sống
trong một môi trƣờng liên tục bị oanh tạc bởi sự biến đổi – điều này nay đã
trở thành sáo ngữ, thế nhƣng nó là sự thực – và chúng ta thậm chí chƣa hề
tìm cách thích nghi với sự thực này” [56; tr. 5]. Sự biến đổi của xã hội hiện
đại kéo theo những thay đổi lớn lao trong quan niệm, thực hành tín ngƣỡng
của ngƣời Hoa tại Hội An. Dù ý thức đƣợc rằng “một nền văn hóa thích ứng
với sự thay đổi luôn đòi hỏi sự tái tạo và đổi mới chính mình. Nó chiêm
nghiệm lại mình, so sánh mình với sự phát triển, đứng vững trƣớc các đợt
sóng mạnh mẽ của sự biến đổi” [57; tr. 163] nhƣng cũng phải thừa nhận một
thực trạng, Hội An là vùng đất giữ đƣợc nhiều nét độc đáo trƣớc quy luật tiếp
biến văn hóa của thời kỳ hội nhập: “Ở Quảng Nam nơi quá trình đô thị hóa
diễn ra rõ rệt và mạnh mẽ nhất là Đà Nẵng, nhƣng cũng chính trong quá trình
này Hội An một lần nữa lại chứng tỏ khả năng và bản lĩnh tiếp biến văn hóa
đặc sắc của mình, Trong một chừng mực nào đó có thể nói trong suốt thời
Pháp thuộc, chịu ảnh hƣởng của quá trình Âu hóa, Hội An tuy nhỏ hơn Đà
Nẵng, lại là trung tâm văn hóa của Quảng Nam. Hội An đã tiếp thu, Việt hóa
một cách nhẹ nhàng và nhuần nhuyễn những phần ảnh hƣởng tốt đẹp nhất
của văn minh Âu hóa, tạo thành một thứ văn hóa mới của riêng Hội An, “tân
thời” mà điềm đạm, vẫn bé nhỏ nhƣng sâu sắc, và lấp lánh tài hoa” [105; tr.
266].
Ngày nay, giao lƣu và tiếp biến văn hóa đƣợc nhìn nhận nhƣ một quá
trình, tất yếu và trở thành một làn sóng không ngừng gia tăng mạnh mẽ.
Chúng thúc đẩy mối quan hệ, ảnh hƣởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc vào
nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới. Trong
đó, có sự biến động mạnh mẽ về dân cƣ, đô thị,... tạo nên nhiều thuận lợi

131
nhƣng cũng không ít những thách thức, bắt buộc các khu vực, quốc gia, dân
tộc phải đối mặt. Đây là tất yếu, trong đó có cả các đô thị di sản văn hóa và
thiên nhiên nhƣ thành phố Hội An. Cơn lốc đô thị với nhiều nguyên nhân
khác đã kéo theo nhiều biến đổi trong quan niệm cũng nhƣ cách thức thực
hành tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở nơi đây. Từ những phân tích trên có thể
thấy, những biến đổi diễn ra trong tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở thành phố Hội
An có sự tác động rất lớn của nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể khái quát
tập trung trên một số phƣơng diện nhƣ: các chính sách của Đảng và Nhà
nƣớc ta về dân tộc và đại đoàn kết dân tộc; tác động mạnh mẽ của quá trình
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở thành phố Hội An, đặc biệt là sự phát triển
của đô thị hóa dẫn tới nhu cầu về văn hóa, tín ngƣỡng, giải trí,... cũng tăng
theo; ảnh hƣởng của các tín ngƣỡng, tôn giáo khác ngoài cộng đồng ngƣời
Hoa, có thể đến từ giao lƣu văn hóa, hôn nhân hỗn hợp,...; những yếu tố chủ
quan của chủ thể văn hóa - cộng đồng ngƣời Hoa ở Hội An cũng tạo nên
những biến đổi dần trong quá trình phát triển, trong đó có sự biến đổi tín
ngƣỡng; nhận thức của mỗi cá nhân ngƣời Hoa ở Hội An về các chuẩn mực
văn hóa cũng có những thay đổi trong đời sống hiện đại, chủ yếu thuộc về thế
hệ trẻ. Tuy vậy, có thể nhận thấy việc hội nhập và phát triển trong điều kiện
hiện nay, nhìn chung cộng đồng ngƣời Hoa nơi đây vẫn giữ đƣợc sự hài hòa
giữa truyền thống và đổi mới, bởi vì việc biến đổi các hình thức tín ngƣỡng
vẫn chƣa quá lớn, do các giá trị truyền thống về cơ bản vẫn đƣợc bảo lƣu
đậm nét.
Hơn nữa, xu hƣớng đề cao các giá trị tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Hội
An trong bối cảnh tác động của cơ chế thị trƣờng và phát triển du lịch thƣờng
đi đôi với việc tích cực xây dựng mới và trùng tu các cơ sở tín ngƣỡng ngày
càng khang trang cùng với việc thực hành các lễ hội - nghi lễ cộng đồng thật
hoành tráng nhƣng vẫn đảm bảo những nét cơ bản của truyền thống, nhằm
thu hút đƣợc nhiều ngƣời dân và du khách tham gia. Đồng thời, coi trọng
việc tín ngƣỡng thờ phụng trong gia đình nhằm phát huy đạo hiếu trong bối

132
cảnh tác động ngày càng mạnh mẽ của cơ chế thị trƣờng, cạnh tranh trong
phát triển kinh tế, phân hóa thu nhập và mức sống.
- Do sự cộng sinh của người Hoa và các dân tộc khác, đặc biệt là
người Việt
Ngƣời Hoa ở Hội An hiện sống xen kẽ với các nhóm dân tộc khác, và
đông nhất là ngƣời Việt, do đó quá trình cộng cƣ dẫn đến cộng sinh văn hóa
ở Hội An là một quy luật tất yếu. Các thực hành tín ngƣỡng khác nhƣ lễ hội,
sinh hoạt văn hóa, thờ cúng… cũng có khá nhiều thay đổi. Nhiều lễ hội cổ
truyền do thời gian dài không đƣợc tổ chức đã mai một đi rất nhiều, ngày nay
với chủ trƣơng khôi phục lại tín ngƣỡng truyền thống gần đây không chỉ tạo
ra liên kết trong cộng đồng gia tộc mà còn là sợi dây níu giữ quá khứ với hiện
tại của cộng đồng ngƣời Hoa ở Hội An.
Xu hƣớng này cũng cho thấy, cùng với quá trình toàn cầu hóa thì các
đặc trƣng văn hóa thể hiện qua các dạng thức vật chất có thể dần bị cào bằng.
Nhiều nhóm dân tộc thiểu số ở Việt Nam đã có những tiếp xúc sâu rộng, giao
lƣu và tiếp biến văn hóa, do đó có sự biến đổi với tốc độ ngày càng nhanh
chóng hơn. Theo D. Lehmann: “Trong khuynh hƣớng chung của toàn cầu hóa
là toàn cầu hóa kinh tế (đồng đều hóa và lôi cuốn các khu vực xa xôi vào thị
trƣờng thế giới đang cạnh tranh), ngƣợc lại, toàn cầu hóa tôn giáo lại là sự
phá vỡ các biên giới, đồng thời tạo nên các biên giới mới” [219; tr. 301].
Chính việc tiếp xúc sâu rộng và lâu bền với những tín ngƣỡng khác khiến cho
việc biến đổi trở thành một xu thế tất yếu và cũng chính là nguyên nhân tác
động trực diện tới những thay đổi của thời kỳ hiện đại.
- Do sự suy nghĩ và lựa chọn lối sống của cá nhân, rộng hơn là gia
đình, dòng họ
Ở cộng đồng ngƣời Hoa tại Hội An, qua những điền dã phỏng vấn mà
chúng tôi ghi nhận, sự biến đổi về tín ngƣỡng xuất phát ngay trong phạm vi
gia đình, nhỏ hơn nữa là từ những cá nhân. Sự lựa chọn và quyết định của
mỗi cá nhân, mỗi gia đình góp phần không nhỏ vào sự biến đổi chung của tín

133
ngƣỡng cộng đồng. “Tín ngƣỡng vốn đƣợc thiết lập trên bình diện xã hội nói
chung, nay lại nhƣờng chỗ cho sự giải thích của cá nhân” [187; tr. 157]. Bởi
cá nhân mỗi ngƣời không chỉ có quyền quyết định tín ngƣỡng cho mình mà
còn có thể sáng tạo ra những tín ngƣỡng mới, thay vì việc phục tùng những
tín ngƣỡng đã có, họ có thể tự mình trải nghiệm những kinh nghiệm mới;
đồng thời cho thấy sự ra đời của các “hiện tƣợng tôn giáo mới” là hệ quả tất
yếu của xu hƣớng cá thể hóa tôn giáo.
Không chỉ ở Hội An mà là quy luật vận hành chung của xã hội hiện
đại, tôn giáo tín ngƣỡng ngày càng đóng vai trò to lớn trong kiến trúc thƣợng
tầng của các quốc gia, và những xu hƣớng biến đổi tôn giáo tín ngƣỡng hiện
nay ở nƣớc ta đều có những tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội nói
chung. Bởi nó đã “tạo nên hệ thống những chuẩn mực giá trị đạo đức. Những
chuẩn mực ấy không chỉ duy trì trong quá trình thực hiện các nghi thức tôn
giáo mà còn điều chỉnh cả hành vi của con ngƣời trong đời sống thƣờng nhật
khi ứng xử với con ngƣời trong gia đình cũng nhƣ ngoài xã hội. Qua những
điều cấm kỵ, răn dạy đã điều chỉnh hành vi của mỗi tín đồ trong đời sống
cộng đồng” [99; tr. 22]. Đây là một trong những nguyên nhân tƣởng nhƣ đơn
lẻ nhƣng về lâu dài lại có những tác động không nhỏ đến sự biến đổi chung
của tín ngƣỡng cộng đồng.
Thực tế còn cho thấy, cố kết tộc ngƣời vẫn là đặc điểm nổi bật ở cộng
đồng ngƣời Hoa ở Hội An, thông qua mối quan hệ gia đình, dòng họ và tổ
chức bang hội. Tuy nhiên, dƣới tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa và hội
nhập hiện nay, với tập quán cố kết này, sự duy trì việc thực hành tín ngƣỡng
không chỉ dừng ở Hội An và trong nƣớc mà còn mở rộng trên bình diện quốc
tế, do đặc điểm ngƣời Hoa và do bối cảnh lịch sử của họ tạo nên. Bởi thế,
trong bối cảnh hội nhập hiện nay, mạng lƣới xã hội của ngƣời Hoa rất phát
triển, dựa trên cơ sở cố kết ở trong nƣớc và xuyên quốc gia. Bên cạnh sự cố
kết đó, ngƣời Hoa cũng có xu hƣớng thích ứng và hội nhập vào xã hội nơi cƣ
trú mới, bởi vì tỷ lệ hôn nhân hỗn hợp dân tộc ngày càng tăng ở một số địa

134
phƣơng là một biểu hiện rõ nét. Riêng ở lĩnh vực văn hóa nói chung, tôn giáo
tín ngƣỡng nói riêng, ngƣời Hoa luôn chủ động gìn giữ những giá trị truyền
thống kết hợp tiếp thu sự biến đổi cho phù hợp với biến động của thời đại và
xu hƣớng giao lƣu hội nhập. Các giá trị nhƣ trọng chữ tín, chế độ gia trƣởng
coi trọng nguồn cội, ... vẫn luôn đƣợc đề cao, mặc dù có sự tiếp thu và tác
động của văn hóa tộc ngƣời Chăm láng giềng.
Nhìn chung, ở thành phố Hội An, trong thời kỳ đổi mới và mở cửa,
thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nƣớc, nhất là sau khi Hội An
đƣợc công nhận là “Di sản Văn hóa Thế” giới năm 1999, đô thị - thành phố
loại 3 thuộc tỉnh Quảng Nam năm 2008, Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù
Lao Chàm - Hội An năm 2009,... đã tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở Hội An, với nhóm ngành kinh tế mũi nhọn là
du lịch - dịch vụ - thƣơng mại. Theo đó, xu hƣớng kinh tế mở, thời đại thế
giới phẳng luôn cần sự hội nhập và chọn lọc, sự tiếp biến luôn là một quy luật
khó tránh, chính bởi vậy, chủ động định hƣớng một cách cụ thể và thiết thực
trong việc gìn giữ những tinh hoa văn hóa truyền thống trong đó có tín
ngƣỡng của tộc ngƣời luôn là một yêu cầu cấp bách không thể xem nhẹ.
3.3. Những vấn đề đặt ra và giải pháp bảo tồn, phát huy các giá trị
tín ngƣỡng
3.3.1. Những vấn đề đặt ra
3.3.1.1. Vấn đề tác động không mong muốn của tín ngưỡng
Tín ngƣỡng ngƣời Hoa ở Hội An có những ảnh hƣởng tích cực, thiết
thực đến đời sống cộng đồng ngƣời dân nơi đây bởi sự liên kết, tập hợp cộng
đồng rõ nét. Thêm vào đó, nó giúp bảo lƣu những giá trị tốt đẹp trao truyền
cho thế hệ sau. Hiện nay, đô thị hóa là một quá trình có ảnh hƣởng lớn đến sự
phát triển không chỉ kinh tế - xã hội - văn hóa,… mà đời sống tín ngƣỡng tôn
giáo cũng chịu những tác động rõ nét. Đời sống vật chất tăng lên khiến nhiều
mặt của sinh hoạt tín ngƣỡng biến đổi mạnh mẽ ở cả ba cấp độ: cấp độ gia
đình, cấp độ dòng họ và cấp độ cộng đồng. Dƣới tác động của kinh tế thị

135
trƣờng, sự giao lƣu buôn bán và va chạm giữa các nền văn hóa là một thực
trạng không thể tránh khỏi. Do đó, ngƣời Hoa ở Hội An nói riêng, các tộc
ngƣời nói chung, giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa tộc ngƣời luôn là một
thách thức không nhỏ. Đặc biệt quá trình đổi mới, hội nhập và giao lƣu đã
hình thành những động lực đáng kể để văn hóa tộc ngƣời phát triển đa dạng,
xuất hiện nhiều loại hình, trong đó có cả những thiết chế văn hóa mới. Sự
hình thành ngành công nghiệp văn hóa có ảnh hƣởng không nhỏ và gây khó
khăn cho quản lý xã hội.
Bên cạnh việc gia tăng về chất lƣợng cuộc sống cũng hình thành những
tƣ tƣởng hƣởng thụ lệch lạc, lối “sống gấp” dẫn đến nhiều giá trị truyền thống
dần trở nên mai một. Những nét đẹp của đời sống tâm linh truyền thống của
ngƣời Hoa ở Hội An đứng trƣớc nguy cơ bị lấn lƣớt bởi tƣ tƣởng tiêu dùng.
Ngành công nghiệp hàng hóa biến những sinh hoạt tín ngƣỡng thành nơi thu
lợi nhuận, mang tính dịch vụ mua bán,… Khi đời sống đƣợc tăng lên, việc
thực hành nghi lễ cũng có những biến đổi, sự biện sửa lễ vật cầu kỳ thể hiện
sự lãng phí không cần thiết; thêm vào đó là tâm lý hơn thua trong cúng tế,…
cũng là một thực trạng tuy không phổ biến nhƣng gây ảnh hƣởng đến giá trị
tín ngƣỡng truyền thống của ngƣời Hoa ở Hội An.
Cũng giống nhƣ bang hội của ngƣời Hoa, tổ chức thân tộc, dòng họ
ngày nay mở rộng mối liên kết ra khu vực và thế giới. Sự kết hợp giữa chức
năng văn hóa với xã hội và kinh tế đã và đang làm tổ chức dòng họ, gia tộc,
bang hội của ngƣời Hoa trở nên hữu ích cho mỗi thành viên trong cộng đồng.
Bởi chúng không chỉ là phƣơng tiện lƣu giữ, chuyển tải những giá trị văn hóa
truyền thống Trung Hoa từ thế hệ này sang thế hệ khác mà quan trọng hơn là
một công cụ để bảo vệ và phát triển kinh tế, an sinh xã hội của họ nơi đất
khách [87; tr.104]. Ngƣời Hoa với tính cố kết cộng đồng mạnh, cùng chung
một niềm tin tín ngƣỡng, bởi vậy có khả năng gắn kết các thành viên trong
cộng đồng. Tuy thế, xu hƣớng mở của đời sống hiện tại, đặc biệt là hôn nhân
với những thành viên tộc ngƣời khác cũng tạo ra sự phân ly vì khác biệt tín

136
ngƣỡng. Chính điều này cũng phần nào tạo ra sự khó khăn trong kết nối xã
hội, gây trở ngại cho quản lý xã hội.
3.3.1.2. Vấn đề biến đổi giá trị tín ngưỡng trong bối cảnh mới
Biến đổi văn hóa xảy ra ở hầu hết các tộc ngƣời, nhƣng không có một
mô hình chung cho tất cả. Sự biến đổi nhanh hay chậm, rộng hay hẹp, theo
chiều hƣớng tích cực hay tiêu cực,… phụ thuộc vào những nhân tố chủ quan
và khách quan (nguyên nhân nội sinh và ngoại sinh) khác nhau. Trong những
quốc gia đa tộc ngƣời, biến đổi văn hóa tộc ngƣời thƣờng do những chính
sách phát triển kinh tế - xã hội dẫn đến những biến đổi sâu sắc về văn hóa.
Khi dân cƣ trên một địa bàn tăng lên thì thành phần dân cƣ thuộc các tộc
ngƣời cũng biến đổi khác nhau, đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến
những biến đổi văn hóa tộc ngƣời.
Biến đổi văn hóa là một kết quả tất yếu khi xảy ra sự giao lƣu, hội
nhập giữa các nền văn hóa tộc ngƣời. Ngƣời Hoa ở Hội An bên cạnh những
“cái đƣợc” cũng phải đối mặt với không ít những thách thức. Tuy không đến
mức báo động nhƣ hiện tƣợng gọi vong, báo oán ở Chùa Ba Vàng (Quảng
Ninh) thời gian qua, nhƣng việc các ngành nghề kinh doanh dịch vụ phát
triển kéo theo sự tăng trƣởng trong đời sống vật chất nói chung, thì tiếp biến
văn hóa cũng đặt ra nhiều vấn đề mang tính thử thách bản lĩnh gìn giữ bản
sắc của ngƣời Hoa ở Hội An.
Các xu hƣớng biến đổi tín ngƣỡng trên cơ sở cơ chế thị trƣờng trong
cộng đồng ngƣời Hoa ở Hội An hiện nay chủ yếu theo các chiều hƣớng nhƣ:
mất đi một số nghi lễ truyền thống; linh hoạt giản tiện trong thực hành tín
ngƣỡng; thế tục hóa sinh hoạt tín ngƣỡng; phục hồi tiếp thu những yếu tố mới
trong thực hành tín ngƣỡng;… Những xu hƣớng vận động này có sự hợp lý
khi nhìn vào quy luật phát triển của văn hóa nói chung. Bởi “trong tiến trình
phát triển của mình, nhƣ là một quy luật, sự sáng tạo văn hóa của một tộc
ngƣời thƣờng ít hơn rất nhiều những gì mà chính tộc ngƣời đó sáng tạo. Ví
dụ, có nhiều tộc ngƣời hoặc nhóm tộc ngƣời tiếp nhận một tôn giáo nào đó

137
đƣợc du nhập từ nơi khác đến thông qua hoạt động buôn bán, truyền giáo do
các cuộc chiến tranh. Nhƣng tất cả các tôn giáo, dù là tôn giáo thế giới hay
khu vực, đều ra đời ở một địa điểm cụ thể, sau đó nhờ các hoạt động kinh tế -
xã hội, nhất là nhờ các nhà truyền giáo; tôn giáo đó đến với các cộng đồng
dân cƣ khác nhau” [95; tr. 330]. Ngƣời Hoa ở Hội An trong quá trình tồn tại
và phát triển của mình đã kế thừa và sáng tạo ra một phức hợp văn hóa phù
hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội của họ; bởi văn hóa tộc ngƣời cũng
là phức hợp của sự đa dạng, tích lũy và tiếp nhận từ các tộc ngƣời khác trong
quá trình giao lƣu, hội nhập. Với ngƣời Hoa, những ngƣời cùng địa phƣơng,
cùng phƣơng ngữ khi đến sinh sống tại các miền đất mới, họ thƣờng lập nên
các bang, hội. Hai yếu tố quan trọng là đồng hƣơng, đồng ngữ; tuy nhiên
cũng có những bang đƣợc tạo nên bởi những ngƣời cùng quê, có quan hệ họ
hàng gần gũi; ví nhƣ những bang của ngƣời Triều Châu, Quảng Đông;…
Hiện ở thành phố Hồ Chí Minh, 5 nhóm ngƣời Hoa phân theo phƣơng ngữ là
ngƣời Hoa Phúc Kiến, ngƣời Hoa Triều Châu, ngƣời Hoa Quảng Đông,
ngƣời Hoa Hải Nam và ngƣời Hẹ. Ngƣời Hoa Phúc Kiến có ba hội quán đồng
thời là 3 ngôi miếu là hội quán Hà Chƣơng của nhóm ngƣời Chƣơng Châu;
hội quán Tam Sơn của nhóm ngƣời Phúc Châu; hội quán Ôn Lăng của nhóm
ngƣời Tuyền Châu. Ngƣời Triều Châu có hội quán Nghĩa An cũng nằm trên
quận 5. Ngƣời Quảng Đông có hội quán Tuệ Thành – đồng thời là chùa Bà
Tuệ Thành, và hội quán Quảng Triệu. Ngƣời Hải Nam có hội quán Quỳnh
Phủ đồng thời là chùa Bà Hải Nam. Ngƣời Hẹ có hội quán Quần Tần. Điều
đáng nói là trong số những hội quán của ngƣời Hoa thì tất cả Hội quán đều là
miếu thờ và trong số 8 hội quán thì chỉ có 2 hội quán không nằm ở quận 5
(hội quán Quảng Triệu của ngƣời Quảng Đông và Hội quán Quần Tần của
ngƣời Hẹ). Trong số 6 hội quán - 6 miếu chính của tín ngƣỡng dân gian
ngƣời Hoa, chỉ có một hội quán thờ Quan Công là hội quán Nghĩa An của
ngƣời Triều Châu, hay còn gọi là chùa Ông; 5 hội quán còn lại đều thờ Thiên
Hậu Thánh Mẫu. Các hội quán thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu nhìn chung đều có

138
tổ chức điển lễ gần giống nhau, đều có bái đoàn, ban trị sự, sau đó ngƣời dân
tự vào lễ bái [87; tr. 102].
Để thích ứng đƣợc những biến đổi của cuộc sống ngày một mạnh mẽ,
phức tạp, cộng đồng ngƣời Hoa ở Hội An chọn cho mình những phƣơng thức
mang đậm dấu ấn văn hóa tộc ngƣời, biểu hiện thành một lối sống, một cách
ứng xử riêng. Sự biến đổi này một phần lớn có thể lý giải chính từ chiều sâu
văn hóa tộc ngƣời, khi cộng đồng Hoa kiều di dân đến những vùng đất mới
để lập nghiệp. Do chính nhu cầu của tộc ngƣời, ngƣời Hoa đã dần tìm ra
những phƣơng cách tốt nhất để thích ứng trong những điều kiện sống mới/
khác. Quá trình này không phải là ngẫu nhiên mà chính là sự tích lũy và thử
nghiệm lâu dài để những tri thức của cộng đồng trở thành giá trị chung truyền
dẫn từ thế hệ này sang thế hệ khác.
3.3.1.3. Vấn đề ngày càng gia tăng sự ảnh hưởng của nhiều tôn giáo
tín ngưỡng mới với việc bảo tồn tín ngưỡng truyền thống của người Hoa ở
Hội An
Đối với ngƣời Hoa, vấn đề tín ngƣỡng có vai trò quan trọng đặc biệt,
nhất là tín ngƣỡng thánh nhân nhƣ thờ cúng Quan Công, Thiên Hậu Thánh
Mẫu,… Trong mối giao thoa với các dân tộc thiểu số khác trong vùng, đặc
biệt là với văn hóa ngƣời Việt; văn hóa ngƣời Hoa ở Hội An nói chung vẫn
thực hiện đƣợc việc gìn giữ bản sắc riêng biệt nhƣng dần đã có một vài thay
đổi trong quan niệm và thực hành tín ngƣỡng. Điển hình là việc thờ cúng các
vị thần bảo trợ của ngƣời Hoa và ngƣời Việt trong cùng một không gian tâm
linh.
Trong toàn bộ quá trình định hƣớng nhân cách của hệ thống tín ngƣỡng
và lễ nghi đều tập trung vào sự củng cố gia đình và xây dựng ý thức cộng
đồng mạnh mẽ. Nhân cách con ngƣời bao gồm những cách ứng xử trong
quan hệ cha con, thầy trò, bằng hữu,…; đƣợc quy tụ và thiết lập trên ƣớc
vọng, lòng biết ơn, nghĩa khí cƣơng trực, tính xả thân cứu ngƣời,… Đó là
những tiềm năng có sức mạnh tinh thần để gắn kết gia đình, cộng đồng và

139
dân tộc. Dần dà, những yếu tố độc đáo này cũng có sự dung hòa cởi mở hơn.
Nguyên nhân cũng bởi sự thích nghi và tiếp biến văn hóa trong cùng một
không gian sống; bởi “bản tính của ngƣời Việt Nam là cởi mở, bao dung chứ
không bị hẹp hòi, kỳ thị, khép kín. Dù là tín ngƣỡng nào, tôn giáo gì, từ đâu
đến, thì cộng đồng ngƣời ở đây cũng sẵn sàng chấp nhận - miễn là không vi
phạm đến lợi ích quốc gia và đi ngƣợc lại truyền thống văn hóa dân tộc.
Khổng giáo và Đạo giáo từ Trung Hoa lan xuống, Phật giáo từ Ấn Độ truyền
sang nƣớc ta từ rất sớm, vẫn song song tồn tại cùng nhau một cách hòa bình
cùng với tín ngƣỡng bản địa mà không xảy ra những cuộc chiến tranh tôn
giáo nào. Kể cả về sau một số tôn giáo phƣơng Tây nhập vào Việt Nam, tuy
có xa lạ với truyền thống văn hóa dân tộc, nhƣng vẫn đƣợc chấp nhận” [99;
tr. 79]. Điều này cũng có những ảnh hƣởng nhất định tác động qua lại đối với
bộ phận ngƣời Hoa ở Hội An nói riêng.
GS. Léopold Sédar Senghor khi nói về sự đối thoại giữa các nền văn
hóa đã nói một câu rất nổi tiếng rằng, về bản chất chúng ta đều là những
ngƣời lai và mỗi ngƣời đều lai theo cách riêng của mình. Điều đó có nghĩa
rằng, chúng ta nếu không bị lai phối về dòng máu và chủng tộc thì cũng bị lai
phối về văn hóa và trên thực tế không thể có một nền văn hóa nào lại đƣợc
coi là thuần chủng, là biệt lập hoàn toàn với những nền văn hóa khác [136; tr.
56]. Có thể thấy việc dự báo một số xu hƣớng phát triển văn hóa nhƣ: “Xu
hƣớng trở về cội nguồn khiến sự tái tạo văn hóa cổ truyền sẽ phát triển mạnh
hơn trong sự phát triển quốc tế, trong bối cảnh toàn cầu hóa. Tuy nhiên, sự tái
tạo văn hóa cổ truyền trong một xã hội phát triển, trong bối cảnh công nghiệp
hóa sẽ không tránh khỏi tình trạng biến dạng trong văn hóa cổ truyền” [57; tr.
49] cũng là một thực trạng đáng suy ngẫm trong xu thế phát triển chung của
tình hình tôn giáo tín ngƣỡng hiện nay.
3.3.1.4. Vấn đề tiếp tục phát huy vai trò của những người có uy tín
trong cộng đồng và chính quyền địa phương đối với việc bảo tồn các giá trị
tín ngưỡng của người Hoa ở Hội An

140
Hiện nay, việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể từ thế hệ
này sang thế hệ khác rất cần vai trò của các nghệ nhân. Bởi họ là những
ngƣời giữ lửa, là “linh hồn”, “báu vật sống” trực tiếp tham gia sáng tạo, lƣu
giữ, truyền dạy thế hệ trẻ những giá trị truyền thống của dân tộc. Riêng ở Hội
An, cộng đồng những ngƣời Hoa xa xứ từ vài thế kỷ nay đã kế tiếp nhau để
lƣu giữ vốn văn hóa quê hƣơng, mang đến một tiếng nói độc đáo trong diện
mạo chung của nền văn hóa Việt Nam thống nhất mà đa dạng. Hiện nay,
trƣớc xu thế chung là công cuộc hội nhập diễn ra nhanh chóng, tốc độ ngày
một gia tăng, có một thực tế là thế hệ trẻ nhiều khi không mấy “mặn mà” với
việc gìn giữ và bảo tồn văn hóa dân tộc.
Hội An những năm qua đã quan tâm đến vai trò, trách nhiệm của các
nghệ nhân, có những chính sách để các nghệ nhân tham gia truyền dạy văn
hóa cho cộng đồng, đặc biệt là các thế hệ trẻ. Tuy nhiên sự cần thiết lắng
nghe trực tiếp các ý kiến đóng góp quý báu cho công tác văn hóa dân tộc thực
hiện chƣa tỷ lệ thuận với sự tổn thất “nguồn tài nguyên” quý báu bởi hầu hết
những ngƣời “giữ lửa” cho di sản đều đã cao tuổi, sức yếu. Hội An không chỉ
chú trọng đến đội ngũ những nghệ nhân, những ngƣời am hiểu và có uy tín
(cán bộ, trƣởng tộc, thầy cúng, ngƣời già,...) tại Hội An; song song với đó
còn tích cực chuẩn hóa đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, nghiên cứu khoa
học, hoạt động sự nghiệp văn hóa, thông tin, thể thao; trong đó chú ý quan
tâm đội ngũ cán bộ văn hóa ở cơ sở. Việc phát huy vai trò của những nghệ
nhân cao tuổi đi đôi với xây dựng chế độ, phƣơng thức đặc thù để phát hiện,
thu hút, tập hợp, phát huy, hỗ trợ, tạo điều kiện khuyến khích đội ngũ làm
công tác nghiên cứu văn hóa, văn nghệ sĩ có đời sống ổn định, có môi trƣờng
hoạt động thƣờng xuyên để sáng tạo và cống hiến. Bởi việc trọng dụng, tôn
vinh, đãi ngộ trí thức, nghệ nhân, phát triển năng khiếu và tài năng trẻ sẽ tạo
ra những hiệu quả đáng kể trong chiến lƣợc lâu dài.
Trong Nghị quyết về xây dựng và phát triển văn hóa, con ngƣời Hội
An đáp ứng yêu cầu xây dựng Thành phố sinh thái, văn hóa, du lịch đã chỉ rõ

141
hạn chế và thách thức của Hội An hiện tại, bởi tuy đã có nhiều nỗ lực phấn
đấu và đã đạt đƣợc những thành quả đáng mừng, song đặt trong bối cảnh yêu
cầu của thời kỳ mới, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con ngƣời Hội
An chƣa tƣơng xứng và thiếu đồng bộ,... Nhiệm vụ xây dựng con ngƣời văn
hóa chƣa đƣợc quan tâm chỉ đạo triển khai hiệu quả. Nguồn nhân lực trong
các lĩnh vực văn hóa suy giảm, thƣa dần những ngƣời làm công tác nghiên
cứu, trao truyền, thực hành văn hóa nghệ thuật.
3.3.1.5. Vấn đề tiếp tục gắn giá trị tín ngưỡng với phát triển du lịch
nhằm mang lại ngày càng nhiều thu nhập cho người dân và cộng đồng
Đến nay, Hội An đã và đang là điểm sáng trong du lịch của Quảng Nam
cũng nhƣ cả nƣớc bởi nhiều lý do khách quan và chủ quan. Hội An là cửa sông
lớn, tạm gọi là cảng biển của vùng thuận lợi cho giao thƣơng, nằm trên trục
giao lƣu đông tây, thuận lợi cả giao lƣu đồng bằng và biển,... Hội An là đầu
mối giao lƣu văn hóa và giao thƣơng, chính nơi đây cũng là điểm nhấn khi thời
Chúa Nguyễn đã từng gây dựng cơ đồ. Nơi đây có di tích từ thời đại đá cũ, đá
mới, tìm thấy nhiều bằng chứng khảo cổ học. Do đó, các nhà hoạch định chính
sách cũng nhƣ khai thác tiềm năng du lịch luôn chú trọng khai thác Hội An
cho xứng với tầm vóc và tiềm năng sẵn có.
Ngay từ sớm, trong Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ Hội An tại
Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XI (1991) đã nhấn mạnh việc thực hiện tốt
nhiệm vụ: “Tiếp tục nghiên cứu, giữ gìn, phát huy đô thị cổ; giữ gìn khôi phục
truyền thống, di sản văn hóa tốt đẹp của cộng đồng ngƣời Hội An, trong đó có
đồng bào ngƣời Hoa; tiếp tục vận động xây dựng nếp sống mới và gia đình văn
hóa mới”. Tiếp đó, Chƣơng trình hành động của Thị ủy Hội An thực hiện
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng lần thứ 3 (khóa VII)”
ban hành ngày 06/11/1992 cũng đề ra các bƣớc thực hiện: “Phát triển mạnh
du lịch phải gắn liền với việc bảo vệ bản sắc, phát huy vốn văn hóa và truyền
thống văn hóa Hội An; quản lý chặt chẽ những cổ vật quý, khuyến khích sản
xuất các mặt thủ công mỹ nghệ, hàng lƣu niệm phục vụ khách tham quan”.

142
Công tác phát triển du lịch và dịch vụ trên địa bàn Hội An luôn nhấn mạnh
phát triển du lịch phải đảm bảo hiệu quả kinh tế và xã hội, tạo đƣợc nguồn
thu tại chỗ ngày càng nhiều thông qua việc tổ chức thật tốt các dịch vụ phục
vụ khách; mở ra thị trƣờng tiêu thụ cho các ngành sản xuất- kinh doanh của
thị xã và các vùng lân cận; thúc đẩy sự khôi phục và phát triển các ngành thủ
công mỹ nghệ; giải quyết nhiều lao động có việc làm; phát triển du lịch dịch
vụ phải trên cơ sở giữ gìn bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá trị lịch
sử- văn hóa Hội An; bảo vệ cho đƣợc môi trƣờng xã hội, môi trƣờng tự nhiên
và bảo đảm giữ vững an ninh trật tự xã hội,...
Đại hội Đảng bộ Hội An lần thứ XVI (2010) đã đề ra phƣơng hƣớng,
mục tiêu và nhiệm vụ xây dựng Hội An phát triển bền vững theo định hƣớng
Thành phố sinh thái - văn hóa - du lịch. Trong đó nhấn mạnh: “Văn hóa và
sinh thái là hai nền tảng cơ bản trong tiến trình phát triển kinh tế của thành
phố; phát triển kinh tế trên nền tảng và động lực của văn hóa, đồng thời nhằm
mục tiêu phát triển văn hóa và bồi đắp sinh thái. Đó là sự phát triển biện
chứng và là con đƣờng phát triển bền vững của Hội An. Trên cơ sở nắm vững
và vận hành đúng đắn mối quan hệ kinh tế - văn hóa - sinh thái, tiếp tục
chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế với nhóm ngành Du lịch - Dịch vụ -
Thƣơng mại giữ vai trò chủ đạo,...”.
Quá trình phát triển của Hội An luôn chịu sự tác động mạnh mẽ, liên
tục cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực đến những giá trị nhân văn, sinh thái, cảnh
quan, môi trƣờng. Đô thị hóa và hội nhập, phát triển du lịch, cùng với những
biến động về cơ cấu dân cƣ, nghề nghiệp, môi trƣờng sống, tâm lý xã hội,…
đặt ra rất nhiều vấn đề nan giải cho Hội An vốn “đất chật ngƣời đông”. Thành
phố đang đối diện với sự quá tải trên nhiều lĩnh vực, nhất là về giao thông, hạ
tầng, ô nhiễm môi trƣờng, gia tăng rác thải. Áp lực luôn thƣờng trực từ nhiệm
vụ bảo vệ nghiêm ngặt quần thể kiến trúc và không gian, trật tự, an toàn của
khu phố cổ, của các làng quê - làng nghề truyền thống, của hệ đa dạng sinh
học vùng cửa sông và biển đảo. Các tình huống, vụ việc nảy sinh trong hoạt

143
động kinh doanh - dịch vụ - du lịch và những yêu cầu về dân sinh là những
vấn đề nóng hổi hàng ngày, thậm chí hàng giờ. Sức ép từ những yêu cầu về
nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo, quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện
của hệ thống chính trị; cùng những áp lực từ bảo tồn di tích, bảo vệ môi
trƣờng, nhu cầu về đất đai, nhà cửa, đi lại, chữa bệnh, học hành,... đang đặt ra
rất nhiều thách thức gay gắt. Những yếu tố đó tác động và ảnh hƣởng trực
tiếp đến môi trƣờng du lịch Hội An.
3.3.2. Giải pháp bảo tồn, phát huy các giá trị tín ngưỡng của người
Hoa ở Hội An trong bối cảnh hiện nay
Hội An là vùng đất gặp gỡ giao thoa của nhiều nền văn hóa. Trong quá
trình phát triển lại đối mặt với nhiều biến đổi, đặc biệt ở thời điểm hiện tại
tốc độ đô thị hóa, hội nhập diễn ra sâu rộng thì những thay đổi của thành phố
và các vùng phụ cận có những tác động không nhỏ lên một đô thị cổ nhƣ Hội
An. Khi liên kết toàn cầu đƣợc mở rộng không ngừng, vốn là một cộng đồng
mạnh về kinh doanh buôn bán, cộng thêm tinh thần cộng sinh tƣơng thân
tƣơng ái, những ngƣời Hoa ở Hội An nói riêng, trên các địa bàn di cƣ nói
chung luôn đứng trƣớc một lợi thế về phát triển kinh tế nhƣng cũng là một
thách thức đối với việc bảo tồn văn hóa.
Tín ngƣỡng là nhu cầu tinh thần của ngƣời dân, do đó đƣợc tôn trọng
và đảm bảo tự do tín ngƣỡng. Văn kiện Đại hội Đảng XII khẳng định: “Tiếp
tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngƣỡng, tôn giáo, phát huy những
giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện
cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chƣơng, điều lệ của tổ chức tôn
giáo đã đƣợc Nhà nƣớc công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp
tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nƣớc. Đồng thời chủ động
phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngƣỡng, tôn
giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc hoặc những hoạt
động tín ngƣỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật” [10; tr. 165].

144
Mặc dù có một vai trò rất lớn trong hơn hai thế kỷ làm chỗ dựa tinh
thần và vật chất cho sự tồn tại và phát triển của cộng đồng ngƣời Hoa ở nƣớc
ngoài, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á, nhƣng tính chất khép kín, cục bộ
của các tổ chức bang, hội truyền thống trƣớc đây không còn phù hợp với tính
hiện đại của nền kinh tế toàn cầu hiện nay [40; tr. 86] do đó cần có những
biện pháp phù hợp để duy trì sự tồn tại của bang hội ở những điều kiện hợp
lý. Dù sao, thực trạng tồn tại này cũng là một trong những đặc trƣng cơ bản
và quan trọng để giúp gắn kết cộng đồng ngƣời Hoa trên nhiều lãnh thổ suốt
một thời gian dài và chƣa có dấu hiệu dừng lại. Khi mà nó không chỉ góp
phần duy trì bản sắc mà còn mang đến những lợi ích thiết thực: “Tinh thần thị
tộc đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi thành viên ngƣời Hoa. Mỗi thành viên
cảm thấy hãnh diện khi họ đƣợc làm một việc nghĩa với dòng họ, với cộng
đồng. Vì vậy, việc hoạt động của tổ chức tộc họ thông qua nhà thờ, họ không
mấy khó khăn khi mà kinh phí của sự hoạt động đó do các nhà kinh doanh
đảm nhiệm” [44; tr. 98-99]. Xuất phát từ những đặc trƣng chung nhƣ vừa
phân tích, chúng ta có thể nghĩ đến một số giải pháp bảo tồn và phát huy các
giá trị tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Hội An dƣới đây.
3.3.2.1. Tăng cường vai trò chính quyền địa phương, các cấp quản lý
Việc giữ gìn, bảo lƣu giá trị các tín ngƣỡng truyền thống không chỉ là
nhiệm vụ riêng của ngƣời Hoa ở Hội An mà cần có sự phối hợp hành động,
sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của chính quyền địa phƣơng và các cấp quản lý.
Điều này tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa trong việc phát huy mạnh mẽ giá trị
các tín ngƣỡng trong thời đại ngày nay - thời đại công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nƣớc. “Cần coi tôn giáo, tín ngƣỡng là một sản phẩm của lịch sử, là
một hiện tƣợng văn hóa, xã hội và ngày càng đa dạng, phức tạp. Mọi nhận
thức giản đơn và ý muốn chủ quan nhanh chóng quản lý và xóa bỏ nó đều
không thể giải quyết tận gốc các vấn đề của tôn giáo, tín ngƣỡng” [103; tr.
47].

145
Nhận thức đƣợc một đặc trƣng quan trọng là “Tôn giáo có khả năng
liên kết những ngƣời cùng tín ngƣỡng. Họ có chung một niềm tin cùng bị
ràng buộc bởi giáo lý, giáo luật, cùng thực hiện một số nghi thức tôn giáo và
những điểm tƣơng đồng khác. Sự liên kết giữa các cộng đồng cùng tôn giáo
rất chặt chẽ và lâu bền. Tuy nhiên, đôi khi tôn giáo cũng bị lợi dụng để phục
vụ cho âm mƣu chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc” [89; tr. 23]. Do vậy,
Đảng và Nhà nƣớc ta luôn chú trọng đến những biện pháp duy trì sự ổn định
mà không làm mất đi cái độc đáo của từng tộc ngƣời nói chung, các tín
ngƣỡng dân gian nói riêng; bởi “Văn hóa các dân tộc thiểu số là tài sản vô
giá, góp phần làm nên vẻ đẹp phong phú đa dạng của nền văn hóa Việt Nam
thống nhất về mục tiêu định hƣớng phát triển cũng nhƣ các tính chất đặc
trƣng cơ bản” [57; tr. 53]. Nghị quyết Trung ƣơng V khóa VIII về “Xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Qua đó cho thấy tƣ duy lý
luận một cách toàn diện và sâu sắc trong giai đoạn cách mạng mới, là nền
tảng vững chắc cho sự nghiệp bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc nói
chung, văn hóa ngƣời Hoa ở Hội An nói riêng, góp phần vào sự nghiệp văn
hóa toàn dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.
Thực tế cho thấy, sự quan tâm của chính quyền địa phƣơng, các ban
ngành liên quan nhƣ hỗ trợ về kinh phí để trùng tu các cơ sở thờ tự đƣợc thực
hiện thƣờng xuyên. Chính quyền cử ngƣời tham gia tiếp quản và quản lí các
cơ sở thờ tự, những việc làm đó là cần thiết nhƣng chƣa đủ mạnh để có thể
duy trì, phát huy một cách tối đa giá trị các tín ngƣỡng. Chính quyền địa
phƣơng, các cấp quản lý cần tập trung quan tâm hơn nữa để giá trị các tín
ngƣỡng đƣợc bảo tồn và phát huy một cách tốt nhất, cụ thể nhƣ:
- Chính quyền địa phƣơng, các sở ban ngành liên quan cũng nhƣ
Phòng Văn hóa Thông tin thành phố Hội An, Trung tâm Quản lý bảo tồn di
tích Hội An, Ủy ban Nhân dân thành phố Hội An, Ủy ban Nhân dân phƣờng
Minh An cần thực hiện công tác sƣu tầm và lƣu giữ những tài liệu về hệ
thống các tín ngƣỡng của ngƣời Hoa trên địa bàn. Bên cạnh những phƣơng

146
pháp, phƣơng tiện truyền thống nhƣ: chụp ảnh, ghi âm, ghi chép tƣ liệu,
phỏng vấn,… cần sử dụng các phƣơng tiện hiện đại nhƣ quay phim tài liệu và
lƣu trữ bằng những phƣơng tiện kỹ thuật số để bảo quản tƣ liệu đƣợc tốt hơn.
Đặc biệt cần xuất bản nhiều sách báo, tài liệu về tín ngƣỡng của ngƣời Hoa
nói riêng và của ngƣời Hội An nói chung. Điều này sẽ giúp cho các thế hệ
con cháu, những học giả muốn tìm hiểu về văn hóa, phong tục, tập quán của
ngƣời Hoa trở nên dễ dàng, thuận lợi hơn, từ đó có thể hiểu hơn, có cái nhìn
sâu sắc hơn về đời sống sinh hoạt văn hóa của ngƣời Hoa nơi đây.
- Thƣờng xuyên đề cập đến vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa ở địa phƣơng, trong đó có các giá trị tín ngƣỡng tại những buổi họp, các
buổi gặp mặt, những sự kiện quan trọng, những ngày hội, ngày lễ của ngƣời
Hoa, nhằm tạo nên ý thức giữ gìn, trân trọng những nét đẹp văn hóa này.
- Cần vận động, tuyên truyền và tạo điều kiện để đông đảo ngƣời Hoa,
đặc biệt là thế hệ trẻ tham gia vào các hoạt động lễ hội thƣờng kỳ tại khu di
tích, các cơ sở thờ tự. Có nhƣ thế, quá trình thẩm thấu giá trị văn hóa truyền
thống sẽ diễn ra một cách tự nhiên cho tất cả mọi ngƣời. Qua đó, khả năng tự
ý thức để ứng xử một cách hợp lý đối với di tích của ngƣời dân đƣợc phát
huy tốt.
Trong quá trình thực hiện luận án, nghiên cứu sinh đã trực tiếp thu thập
một số ý kiến của một số cá nhân đại diện cho các tổ chức tại thành phố Hội
An nhƣ ông Trần Tấn Dũng - Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố
Hội An, ông Tạ Tuấn Vũ - Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hội
An (Xem Phụ lục 1, mục I). Các ý kiến cũng đồng tình thống nhất ở quan
điểm, chính sách, biện pháp bảo tồn giá trị tín ngƣỡng tại thành phố Hội An.
Muốn đạt đƣợc hiệu quả tốt trong việc duy trì, bảo tồn và phát huy giá trị các
tín ngƣỡng trong thời đại ngày nay và cho mai sau để chúng không bị mai
một, mất đi thì chính quyền địa phƣơng, các cấp quản lý cần thực hiện lồng
ghép, kết hợp đồng bộ những nội dung trên để các giá trị văn hóa đặc sắc, tốt
đẹp trong tín ngƣỡng của ngƣời Hoa đƣợc trƣờng tồn với thời gian.

147
3.3.2.2. Giáo dục truyền thống về ý thức, trách nhiệm giữ gìn và phát
huy các giá trị tín ngưỡng đối với thế hệ trẻ
Công tác bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống giàu
bản sắc của ngƣời Hoa ở Hội An có ý nghĩa thiết thực trong việc phát triển
đời sống kinh tế - xã hội. Do đó, để thu đƣợc hiệu quả cần có hệ thống chính
sách phù hợp, đồng bộ để việc thực hiện đi vào thực tiễn, nhất là phát huy
đƣợc sức mạnh cộng đồng. Bởi bên cạnh vai trò, trách nhiệm của chính
quyền và các cấp quản lý thì cộng đồng có một sức ảnh hƣởng quan trọng,
đƣa ra những quyết định về yếu tố văn hóa cần bảo tồn, sử dụng và khai thác
để thỏa mãn nhu cầu hƣởng thụ cá nhân và cộng đồng. Nhận thức các giá trị
văn hóa dân tộc cần bảo tồn gìn giữ, ý thức trách nhiệm xây dựng môi trƣờng
văn hóa lành mạnh, bảo vệ di tích, kiến trúc,… là trách nhiệm của từng cá
nhân và của cả cộng đồng ngƣời Hoa ở Hội An, từ đó góp phần duy trì và
phát huy sức mạnh của tri thức dân gian, văn hóa truyền thống trong bối cảnh
phát triển hiện nay khi mà tiếp biến văn hóa luôn ngày một mạnh mẽ.
Việc duy trì, phát huy các giá trị tín ngƣỡng là biểu hiện của truyền
thống “Uống nƣớc nhớ nguồn” từ xƣa đến nay của ngƣời Hoa nói riêng và
của dân tộc Việt Nam nói chung. Vì vậy, ông bà, cha mẹ, các thế hệ đi trƣớc
có trách nhiệm giáo dục, nhắc nhở con cháu có ý thức trong vấn đề bảo lƣu
nét đẹp văn hóa này. Có một thực tế của thời kỳ hội nhập là “tình trạng nhập
khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nƣớc ngoài
đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là
lớp trẻ” [10; tr. 125].
Do đó, trƣớc hết phải nhắc lại lịch sử, truyền thống của cộng đồng
dòng họ, những bậc Tiền hiền, Hậu hiền đã có công trong việc khai hoang lập
làng và đã có những đóng góp, công lao to lớn đối với làng. Mặc khác, phải
nhắc nhở con cháu những ngày giỗ kỵ của gia đình, dòng họ. Dù bận rộn thế
nào nhƣng trong những ngày quan trọng này phải cố gắng sắp xếp đến tham
dự. Đặc biệt, vào những ngày giỗ lớn, con cháu tập trung đông đủ để lo

148
hƣơng khói cho ông bà, tổ tiên, đồng thời qua những dịp này, mọi ngƣời
trong gia đình, dòng tộc có cơ hội đƣợc gặp gỡ, tiếp xúc, mối quan hệ theo đó
mà trở nên thắm tình, tốt đẹp và gần gũi hơn; tình cảm anh em đƣợc thắt chặt,
gắn kết, truyền thống gia đình, dòng họ đƣợc xây đắp, bền chặt. Hơn nữa, các
thế hệ đi trƣớc phải chỉ dẫn cho con cháu cách thức cúng kính, đặc biệt là
những ngƣời có vai trò quan trọng trong gia đình, dòng họ để những nghi
thức truyền thống mãi đƣợc duy trì, tiếp nối không bị mai một hay pha tạp
theo thời gian, làm mất đi sự linh thiêng và tôn kính đối với ông bà, tổ tiên,
những vị thần linh.
Việc nhắc nhở, giáo dục con cháu có ý thức trong việc giữ gìn những
truyền thống tốt đẹp, các nét đẹp văn hóa của gia đình, dòng họ là rất quan
trọng. Qua kết quả khảo sát thực tế cho thấy, 100% số ngƣời đƣợc hỏi đều
đồng ý rằng việc thực hiện các tín ngƣỡng truyền thống có ý nghĩa rất quan
trọng đối với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Điều này là một thuận lợi
lớn để thế hệ những ngƣời đi trƣớc truyền dạy lại cho các thế hệ sau, bởi lẽ
họ đã nhận thức đƣợc tầm quan trọng của các tín ngƣỡng truyền thống đối
với văn hóa dân tộc. Và từ đó, những nét đẹp truyền thống này sẽ luôn đƣợc
nâng niu và gìn giữ (Cụ thể qua một số điều tra phỏng vấn - Phụ lục 1, mục
II, số 23, 24, 25, 26).
Tác giả Phạm Xuân Nam (2008) đã nêu lên ba cách tiếp cận văn hóa
nhƣ sau: thứ nhất, xét theo con đƣờng và phƣơng thức hình thành, văn hóa là
hệ hoạt động có ý thức của con ngƣời; thứ hai, xét theo thuộc tính và đặc
trƣng cơ bản, văn hóa là một quá trình sáng tạo; thứ ba, xét theo kết quả và
vai trò định hƣớng cho phát triển, văn hóa là giá trị - hệ giá trị [94]. Việc định
hƣớng, giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ không thể xem nhẹ bởi đó là thế
hệ kế cận và duy trì những giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hóa mỗi dân
tộc. Ở cộng đồng ngƣời Hoa tại Hội An, vào những ngày rằm, ngày kỵ, đặc
biệt là dịp lễ, tết, các thế hệ trƣớc cần khuyến khích con cháu, đặc biệt là
những thế hệ trẻ đến các cơ sở thờ tự để thắp hƣơng, viếng mộ ông bà tổ tiên.

149
Nhờ vậy, con cháu sẽ hình thành ý thức trân trọng, giữ gìn truyền thống gia
đình, dòng họ mình ngay từ tấm bé. Đồng thời, các gia đình, dòng họ nên lập
gia phả, viết sách báo về truyền thống gia đình, dòng họ mình lƣu giữ lại cho
con cháu đời sau học tập, noi theo.
Tính cách khá đặc trƣng của ngƣời Hoa là sự tƣơng trợ trong cộng
đồng. Họ coi trọng những mối quan hệ cộng đồng, dòng tộc. Trong phạm vi
cộng đồng, mặc dù Hội An còn có những loại hình kiến trúc cổ khác nhƣ nhà
thờ tộc, miếu, lăng mộ,... tất cả hợp thành một quần thể kiến trúc của đô thị
cổ Hội An. Hiện nay, Hội An có 1.360 di tích, danh thắng, riêng các di tích
đƣợc phân thành 11 loại gồm: 1.068 nhà cổ, 19 chùa, 43 miếu thờ thần linh,
23 đình, 38 nhà thờ tộc, 5 hội quán, 11 giếng nƣớc cổ, 1 cầu, 44 ngôi mộ cổ.
Trong khu vực đô thị cổ có hơn 1.100 di tích. Tháng 12 năm 1999, UNESCO
đã công nhận khu phố cổ Hội An là “Di sản văn hoá thế giới”. Tuy nhiên,
hiện tại các cơ sở thờ tự trong khu di tích này đang xuống cấp, phai màu sơn,
một số chi tiết chạm nổi trên các cơ sở thờ tự bị mất đi do tác động của thời
gian và điều kiện tự nhiên,... Vì thế, chính quyền địa phƣơng, cộng đồng
ngƣời Hoa cũng phải thực hiện chỉnh trang, trùng tu chỉnh sửa lại trên cơ sở
giữ gìn những nét truyền thống, cổ kính.
Chỉnh trang, tôn tạo các cơ sở thờ tự là biểu hiện cho việc giữ gìn, phát
huy các tín ngƣỡng truyền thống của thế hệ kế tục. Đây chính là nơi hƣơng
khói, thờ tự ông bà tổ tiên, các vị thần linh, là nơi tôn nghiêm và linh thiêng
nên rất đƣợc coi trọng. Mỗi năm, vào những dịp lễ tết, tiết thanh minh các gia
đình, dòng họ tiến hành dọn dẹp, lau chùi, quét vôi, sơn màu để làm mới các
cơ sở thờ tự, để ông bà, các vị thần linh phù hộ, giúp đỡ dân làng, gia đình,
mƣa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, có đƣợc cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Các bang, hội đồng hƣơng, đồng họ,… là những loại hình tổ chức đƣợc
hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu của những Hoa kiều khi di dân đến vùng đất
mới. Tạo ra những yếu tố tích cực không thể phủ nhận, tuy nhiên cũng tồn tại
nhiều mặt bất cập, nhƣ: ý thức gìn giữ bản sắc, truyền thống văn hóa rất mạnh đã

150
cản trở sự hòa nhập phần nào của họ vào cộng đồng cƣ dân tại chỗ; sức mạnh của
yếu tố thần quyền có tác dụng gắn kết ngƣời Hoa ở nơi định cƣ mới; tính thích
nghi với những thiết chế xã hội phần nào có những tồn tại khi giữ các Ban trị sự
chùa, Các hội tƣơng tế, Ban bảo trợ học đƣờng,… [53; tr. 124-125].
Các cơ sở thờ tự trong gia đình nhƣ bàn thờ gia tiên, Táo Quân, Thần
Tài, thổ Địa, Ngũ tự gia đƣờng cần đƣợc trông nom, giữ gìn cẩn thận hơn do
gần gũi và gắn với sinh hoạt hằng ngày tại gia đình. Tuy nhiên, phần mộ của
gia đình, dòng họ hiện nay ở xa so với nơi ở. Nên, vào những dịp cúng kỵ
hay ngày thanh minh, lễ tết, ngƣời Hoa dù bận rộn thế nào cũng phải đến các
cơ sở thờ tự để sửa sang, hƣơng khói các mộ phần, cầu mong sự phù hộ, chở
che của ông bà tổ tiên. Đặc biệt, nhà thờ tộc rất quan trọng đối với gia đình,
dòng họ, việc đóng góp kinh phí tôn tạo, sửa chữa, trùng tu nhà thờ là việc
nên làm của con cháu. Các trƣởng tộc cần tích cực kêu gọi sự đóng góp của
con cháu cũng nhƣ linh hoạt tranh thủ sự ủng hộ của các cơ quan chức năng,
chính quyền địa phƣơng để kinh phí dòng họ đƣợc dồi dào. Từ đó, việc chỉnh
trang, trùng tu nơi thờ tự cũng nhƣ tổ chức hoạt động trong họ đƣợc dễ dàng,
thuận lợi hơn.
Trong bối cảnh đổi mới và hội nhập hiện nay, vấn đề bảo tồn, phát huy
và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc và văn hóa của các tộc ngƣời ngày càng
đƣợc chú trọng và nhận thức sâu sắc hơn. Vấn đề bảo tồn các giá trị văn hóa
truyền thống của các tộc ngƣời không chỉ là bảo tồn nguyên vẹn mà cần phải
phát triển các giá trị văn hóa, làm giàu có và phong phú hơn. Điều này không
chỉ có ý nghĩa văn hóa mà còn mang lại những lợi ích kinh tế cho địa phƣơng
với tƣ cách là một nguồn lực văn hóa. Bởi di sản văn hóa là tài sản vô giá,
gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo
những giá trị mới và giao lƣu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa phát
huy những giá trị văn hóa truyền thống” [8; tr. 63]. Việc giải quyết hài hòa
giữa bảo tồn và phát triển văn hóa ngƣời Hoa ở Hội An luôn có vai trò then
chốt trong phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Do đó, việc tôn tạo, phục hồi

151
và bảo tồn các yếu tố văn hóa có nguy cơ xuống cấp, mai một nhƣ nhà cổ,
kiến trúc các hội quán, miếu,… cần đƣợc quan tâm hơn nữa.

3.3.2.3. Gắn các hoạt động tín ngưỡng và lễ hội với phát triển du lịch
Những năm gần đây, Hội An đã có những thay đổi căn bản về quy
hoạch đô thị, đƣợc xem là kiểu mẫu trong việc chỉnh trang phát triển thành
phố, mở rộng các khu dân cƣ theo định hƣớng thành phố/đô thị Sinh thái -
Văn hóa - Du lịch. Điều này đã tác động tích cực đến đời sống của đại đa số
ngƣời dân trên nhiều mặt, nhất là lối sống. Tuy nhiên, cũng cần phải thừa
nhận còn quá nhiều bất cập trong quy hoạch đô thị, nhất là công viên, khu
giải trí còn hạn chế, ảnh hƣởng trực tiếp đến đời sống ngƣời dân. Nơi ở của
ngƣời dân vùng ven, lân cận khu vực trung tâm còn nhiều bất cập, chƣa ngăn
nắp, lộn xộn trong kiến trúc và đang có xu hƣớng tùy tiện trong xây dựng,
với những gam màu pha trộn hỗn tạp.
Cộng đồng ngƣời Hoa ở Hội An có rất nhiều lễ lớn trong năm, đây là
dịp để kết nối, thắt chặt tình cảm của ngƣời Hoa với nhau, đồng thời để khai
thác phục vụ du lịch tại địa phƣơng. Văn kiện Đảng XII nhấn mạnh: “Nâng
cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động văn hóa: huy động sức mạnh của toàn xã
hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, khích lệ
sáng tạo các giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu
văn hóa dân tộc. Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn,
phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội” [10; tr. 129]. Nhìn
chung, Hội An đang đứng trƣớc nhiều áp lực về dân số, dân cƣ xuất phát từ
tính tất yếu của quá trình phát triển đô thị hóa. Tuy thế, Đảng bộ và Chính
quyền thành phố Hội An đã sớm nhận thức đƣợc nhiều vấn đề, đƣa ra chủ
trƣơng xây dựng Hội An trở thành thành phố Sinh thái - Văn hóa - Du lịch
với những tiêu chí cụ thể, xác thực. Đây là những chủ trƣơng lớn có ảnh
hƣởng đặc biệt quan trọng đến sự phát triển kinh tế, chất lƣợng cuộc sống và

152
bộ mặt của thành phố Hội An, hƣớng đến các mục tiêu: đảm bảo cho thành
phố Hội An bảo tồn đƣợc những giá trị văn hóa truyền thống, có không gian
xanh; không ô nhiễm; cảnh quan đẹp; giao thông thông suốt, không tắc
nghẽn; hệ thống cơ sở hạ tầng tốt nhất; có hệ thống thông tin môi trƣờng; quy
hoạch dân số cân bằng sự phát triển kinh tế - xã hội theo từng giai đoạn; bảo
tồn và phát triển đa dạng sinh học; quy hoạch sử dụng đất đa dạng hiệu quả
và phân bố hợp lý; phát triển du lịch bền vững; thiết kế các công trình gắn bó,
hài hòa; kinh tế thành phố hƣớng đến sự phát triển bền vững; bảo tồn và khai
thác tài nguyên thiên nhiên hợp lý; công tác bảo vệ môi trƣờng đƣợc xã hội
hóa rộng rãi. Hƣớng tiếp cận mô hình “thành phố sinh thái” là một giải pháp
hoàn toàn hợp lý để hoàn thành các mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, để thực hiện
đƣợc những mục tiêu trên tất yếu không thể không quan tâm đến một loạt
những áp lực đặt ra về mặt dân cƣ này [206].
Những ngƣời Hoa di cƣ đến vùng đất mới đã mang theo tín ngƣỡng
dân gian và chắt lọc những nét đặc trƣng để hòa nhập với nơi sinh sống.
Ngƣời Hoa chủ động thờ các vị thần phù hộ cho cuộc sống hàng ngày đƣợc
may mắn, thuận lợi. Họ thờ nhiều đối tƣợng nhƣ: nhân thần (Quan Công,
Thiên Hậu, 108 vị anh linh, Lục Tánh, Mã Viện); Thần bảo sanh (Bà chúa
sanh thai cùng 12 Bà Mụ, Quan Âm,…); Thần kiết tƣờng (Phúc, Lộc, Thọ,
Thần Tài,…); Thần động vật (Ngựa, Hổ,…); Tiền hiền, danh nhân,… Ngƣời
Việt vẫn đến cầu Thiên Hậu phù hộ cho sức khỏe, hanh thông và thuận lợi về
đƣờng con cái. Trong quá trình cộng cƣ, chính sự tiếp xúc sâu đã nảy sinh sự
giao thoa. Ngƣời Việt thờ thần Tài, ngƣời Hoa hành hƣơng lên núi Bà Đen
Tây Ninh cũng kính cẩn nhƣ đi lễ bà Thiên Hậu,… Nếu nhƣ Tản Viên Sơn
Thánh là biểu tƣợng của sức mạnh cộng đồng trong thích ứng với thiên
nhiên, Thánh Gióng là biểu tƣợng cho sức mạnh chống ngoại xâm,… thì
Quan Công là một vị tƣớng võ, đại diện cho sức mạnh và sự trung hiếu,
hƣớng về cố hƣơng. Miếu Quan Công là một trung tâm tín ngƣỡng của
thƣơng gia Hội An, mỗi dịp 13 tháng 1 và 24 tháng 6 âm lịch hàng năm, lễ

153
hội Chùa Ông lại thu hút hàng nghìn du khách về tụ hội. Do đó du lịch của
Hội An cũng thu hút không chỉ cƣ dân trong vùng, lân cận mà còn mở rộng
đến nhiều địa phƣơng trong nƣớc và đặc biệt thu hút lƣợng du khách quốc tế
đông đảo.
Từng là một đô thị thƣơng cảng phồn thịnh, Hội An ngày nay vẫn lƣu
giữ đƣợc những nét độc đáo về văn hóa kiến trúc. Sự giao lƣu văn hóa Việt –
Hoa đƣợc biểu hiện rõ ở các Hội quán nơi đây, thông qua hình thức kiến trúc
và đối tƣợng thờ cúng. Nhằm hƣớng đến việc khai thác hiệu quả nguồn tài
nguyên du lịch nhân văn này, góp phần khơi dậy và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống của ngƣời Hoa thông qua lễ hội, thành phố Hội An cần tiến
hành một số công việc sau đây:
- Các hoạt động lễ hội cần có sự đầu tƣ, tổ chức một cách quy mô hơn.
Bên cạnh đó cần phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa ngƣời Hoa với chính
quyền địa phƣơng, để việc tổ chức lễ hội đƣợc diễn ra an toàn chu đáo và
hiệu quả. Đặc biệt cần phải đề cao việc phối hợp với các cơ quan báo chí,
truyền thông, công ty du lịch nƣớc ngoài để các lễ hội này đƣợc quảng bá,
giới thiệu đến công chúng, khách du lịch quốc tế một cách rộng rãi và nhanh
chóng hơn.
- Lƣợng khách du lịch đến với thành phố Hội An rất lớn, vì vậy, các
cấp chính quyền nơi đây cần phải phối hợp với các công ty du lịch, công ty lữ
hành, các nhà điều hành tour, các hƣớng dẫn viên,… để xây dựng, thiết kế
các tour, tuyến du lịch tạo điều kiện để du khách tham gia các lễ hội này.
- Để thu hút du khách đến với các lễ hội tín ngƣỡng này thì phần hội
rất quan trọng. Tuy nhiên, hiện nay có một số phần hội nơi đây gần nhƣ bị
mai một dần, không còn sôi nổi, phong phú nhƣ trƣớc nhƣ lễ hội rƣớc long
chu hiện nay không còn. Vì vậy, bên cạnh phần lễ tôn nghiêm, trang trọng,
phần hội phải đƣợc tổ chức với nhiều trò chơi dân gian phong phú, đa dạng
mang đậm màu sắc văn hóa địa phƣơng. Đồng thời tạo điều kiện để du khách
tham gia trực tiếp vào những trò chơi này. Điều đó sẽ tạo hứng thú, sự thoải

154
mái cho du khách, mặt khác, qua đó phần nào sẽ giúp cho du khách hiểu hơn
cũng nhƣ khám phá nhiều nét đặc sắc, mới mẻ về văn hóa, phong tục tập
quán, sinh hoạt cộng đồng của cƣ dân nơi đây.
Khi phân tích về việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa thế giới ở
Quảng Nam, tác giả Nguyễn Thị Tuyết Nga đề xuất một số vấn đề cần giải
quyết để phát triển du lịch tại địa phƣơng. Khi Hội An là một trong số ít địa
điểm đƣợc ghi vào danh mục các di sản thế giới, đánh dấu bƣớc ngoặt quan
trọng trong sự nghiệp bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa của nhân dân ta, góp
phần nâng cao vị thế quốc tế của văn hóa Việt Nam, tôn vinh giá trị di sản
văn hóa Quảng Nam lên tầm cao mới; việc cần thực hiện là phải có quan
điểm đúng đắn và định hƣớng cho công tác bảo tồn. Nói đến việc bảo tồn di
tích, không những phải quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc
ta về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc mà còn phải hết sức tranh thủ công ƣớc
quốc tế về bảo tồn văn hóa nhân loại, bảo đảm những nguyên tắc bảo tồn và
quy định của UNESCO. Riêng về đóng góp của ngành du lịch đối với Hội
An, tác giả đã nhận định, từ sau khi Hội An trở thành di sản thế giới, lƣợng
du khách ngày càng đông, ngƣời ta đã nhận ra phố cổ Hội An đang dần trở
thành phố xá của các loại dịch vụ chủ yếu phục vụ khách du lịch, nhiều
gallery, cửa hàng, gian hàng kinh doanh các mặt hàng, quán ăn, khách sạn tƣ
nhân liên tục xuất hiện trên phố, thỉnh thoảng lại mọc lên những ngôi nhà mái
bê tông, tƣờng gạch phá mất sự hài hòa và cảnh quan một thành phố cổ [138].
Nguồn thu của du lịch phụ thuộc chủ yếu vào ba yếu tố: số lƣợng
khách đến, thời gian khách lƣu lại và sức mua của du khách. Khai thác du
lịch từ tín ngƣỡng truyền thống là một xu hƣớng ngày càng thu hút đƣợc sự
đầu tƣ. Bên cạnh đó cần phát huy các tiềm năng kết hợp nhƣ đầu tƣ cơ sở hạ
tầng đƣờng sá, điện nƣớc, phƣơng tiện giao thông, nhà hàng, các dịch vụ lƣu
trú, khu vui chơi giải trí,… Ông Hƣng - Phó trƣởng Phòng Văn hóa thông tin
của thành phố cho biết: “Thời gian qua Hội An có những khởi sắc trong phát
triển du lịch bởi lƣợng khách đến tham quan ngày càng đông. Ban ngày đi tới

155
các Hội quán, chùa, tham quan thắng cảnh,… Ban đêm du khách lƣu lại xem
và tham gia các sinh hoạt văn hóa truyền thống; đồng thời còn thƣởng thức
những món ăn đặc trƣng của Hội An” (danh sách phỏng vấn xin xem thêm tại
Phụ lục 1, mục I).
Trong 4 mục tiêu cơ bản của thập kỷ phát triển di sản văn hóa thế giới,
UNESCO đặc biệt đề cao vấn đề giữ gìn và phát huy di sản văn hóa của mỗi
quốc gia, mỗi dân tộc. Đó còn là những yếu tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế
xã hội nói chung, ngành du lịch nói riêng. Bởi vậy, ở Hội An rất cần một quy
chế chặt chẽ để ngƣời dân tuân thủ, đảm bảo hài hòa giữa lợi ích của ngành
du lịch đối với sự gìn giữ kiến trúc, văn hóa phố cổ. Hội An đã lựa chọn con
đƣờng xây dựng thành phố sinh thái - văn hóa - du lịch phát triển năng động,
toàn diện, hiện đại, giàu bản sắc và bền vững, dựa trên sự tổng hòa 3 yếu tố:
kinh tế bền vững, môi trƣờng bền vững, xã hội bền vững. Trên cơ sở định
hƣớng đó, xác định nền tảng và động lực của phát triển du lịch Hội An là văn
hóa, sinh thái và cộng đồng; không gian du lịch của thành phố trong những
năm qua tiếp tục phát triển theo hƣớng mở, có trọng điểm và mang tính
chuyên đề; hƣớng tới phát triển du lịch “xanh” và “sạch”, du lịch cộng đồng,
du lịch có trách nhiệm; gắn hoạt động du lịch với gìn giữ phát huy các giá trị
di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, con ngƣời và khu dự trữ sinh quyển thế
giới.
Trong công tác quản lý, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cần đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của
mọi ngƣời về việc bảo tồn các di sản văn hóa (văn hóa vật thể và văn hóa phi
vật thể) và tài nguyên sinh thái; tiếp tục nghiên cứu bổ sung hoàn chỉnh các
quy hoạch, quy chế, quy định về quản lý, bảo tồn và sử dụng Khu phố cổ, các
di tích vùng ven khu di sản và Khu dự trữ sinh quyển thế giới. Triển khai
thực hiện các dự án thành phần của đồ án “Quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn
tạo và phát huy giá trị Di sản văn hóa thế giới - Đô thị cổ Hội An gắn với
phát triển du lịch”. Tích cực huy động các nguồn kinh phí để đầu tƣ mạnh

156
hơn cho công tác nghiên cứu, quản lý, tôn tạo, tu bổ các di tích và bảo tồn
sinh thái.
Có thể nói, tín ngƣỡng và lễ hội là cầu nối quá khứ với hiện tại, bao
đời nay đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống văn hóa
cộng đồng, là sợi dây gắn kết cộng đồng, tạo dựng không gian văn hóa vừa
trang trọng, linh thiêng, vừa tƣng bừng, náo nức nhƣng gần đây, sự gia tăng
cả về quy mô và số lƣợng, cũng nhƣ sự nảy sinh một số hiện tƣợng bất
thƣờng từ lễ hội đã khiến việc quản lý văn hóa tại lễ hội trở thành một vấn đề
cần phải giải quyết và dƣờng nhƣ ý nghĩa thiêng liêng của lễ hội đã ít nhiều
suy giảm trƣớc sự xâm lấn của yếu tố xã hội hóa, thƣơng mại hóa và các hiện
tƣợng tiêu cực khác. Trƣớc thực trạng chung đó, đại diện cộng đồng ngƣời
Hoa, chính quyền địa phƣơng, các nhà chức trách tại thành phố Hội An, tỉnh
Quảng Nam cần lƣu ý, rút kinh nghiệm cũng nhƣ phối hợp chặt chẽ để thực
hiện tốt, khai thác có hiệu quả tài nguyên nhân văn của ngƣời Hoa tại Hội An
vào phát triển du lịch. Việc gắn các hoạt động tín ngƣỡng với lễ hội và phát
triển du lịch không những là một định hƣớng quan trọng trong việc giữ gìn,
bảo lƣu và phát huy giá trị các tín ngƣỡng truyền thống của ngƣời Hoa mà
còn là dịp, là cơ hội giới thiệu rộng rãi nét đẹp văn hóa này đến với du khách
gần xa.

157
Tiểu kết Chƣơng 3
Tộc ngƣời Hoa sau quá trình di cƣ đến Việt Nam nói chung và Hội An
nói riêng đã tạo nên những sắc thái văn hóa độc đáo của riêng mình. Bên
cạnh việc bảo tồn những sắc thái tín ngƣỡng của quê hƣơng, họ còn có sự
giao lƣu và hội nhập để sáng tạo ra những giá trị văn hóa mới, đa dạng hơn
và mang tính ứng biến hơn. Đặc trƣng nổi bật nhất hiện vẫn không mai một
đó là sự đoàn kết gắn bó mật thiết trong cộng đồng, tinh thần tƣơng trợ nhau
trong làm ăn buôn bán cũng nhƣ mọi mặt của đời sống. Quá trình cộng cƣ với
các cộng đồng các dân tộc Việt Nam, văn hóa ngƣời Hoa đã có hội nhập, tiếp
nhận và giao lƣu, khiến cho sự gắn bó của cộng đồng ngƣời Hoa và các cộng
đồng dân tộc khác trên đất nƣớc Việt Nam ngày càng mật thiết. Đó là lí do
khiến cho văn hóa ngƣời Hoa từ lâu đã trở thành 1 phần quan trọng trong tài
sản tinh thần của cộng cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Đời sống tinh thần của ngƣời Hoa ở Hội An hiện có nhiều tín ngƣỡng
cùng song hành, trên cơ sở đó đã hình thành nhiều lễ hội và duy trì ở mức độ
khác nhau. Sự sôi động của các hình thức sinh hoạt tín ngƣỡng đã góp phần
đáp ứng nhu cầu tinh thần của cộng đồng ngƣời Hoa, từ đó củng cố và bảo
tồn những giá trị truyền thống tốt đẹp, đã đƣợc duy trì qua nhiều thế kỷ. Tuy
nhiên, sự nhộn nhịp đó cũng đặt ra nhiều vấn đề trên các phƣơng diện nhƣ xu
hƣớng phụ thuộc vào sự cầu cúng thần linh ban tài lộc, may mắn; tục thờ
nhiều khi biến thành những hoạt động thực dụng do nhu cầu trần tục của
ngƣời dân; nảy sinh các mâu thuẫn và tranh chấp, sự bất đồng các khoản
đóng góp của nhiều gia đình;… Điều đó ảnh hƣởng không nhỏ đến tâm lý
của ngƣời dân hiện nay, gây tác động xấu đến xã hội và khó khăn cho công
tác quản lý của các tổ chức và nhà nƣớc.
Mặt khác, qua khảo sát thực trạng tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Hội An
có thể thấy nhiều điểm thú vị lý giải cho việc giữ gìn các giá trị truyền thống
bền vững của họ khi định cƣ ở một vùng đất mới. Bên cạnh các Hội quán
mang tính chất tôn giáo tín ngƣỡng, ngƣời Hoa Hội An nói riêng và ngƣời

158
Hoa ở Việt Nam nói chung thƣờng xuất hiện hình thức hoạt động dòng họ,
mang một số nét tƣơng đồng với hình thức hoạt động dòng họ ở Việt Nam.
Do đó những tổ chức nhƣ bang, hội đồng hƣơng, đồng họ, thân tộc,… giúp
sự kết nối cộng đồng ngƣời Hoa trở nên chặt chẽ hơn, tạo nên nhiều sự phát
triển có lợi, cả về mặt cố kết xã hội và thúc đẩy kinh tế. Đặc biệt khi những
ngƣời đứng đầu các tổ chức hội đoàn đều có tiềm lực kinh tế mạnh, có khả
năng chi phối hoạt động của những cá nhân và tổ chức này. Thêm vào đó,
tính thích nghi, ứng biến nhanh của ngƣời Hoa với các thiết chế xã hội luôn
giúp cho sự phù hợp của cộng đồng chung trở nên dễ dàng, nhanh chóng và
thuận lợi. Bởi thế, hiện nay thực trạng tín ngƣỡng ngƣời Hoa đã có ít nhiều
biến đổi, khi giao lƣu hội nhập văn hóa diễn ra mạnh mẽ nhƣng yếu tố truyền
thống vẫn đƣợc giữ gìn, bảo vệ và hiện tại đang có xu hƣớng đƣợc khôi phục
bằng những chủ trƣơng chính sách mang tính chất khu vực.
Với lợi thế nhiều mặt và bề dày truyền thống lịch sử văn hóa, Hội An
có điều kiện tốt để đẩy mạnh hơn nữa ngành dịch vụ du lịch, ngày càng tƣơng
xứng với tiềm năng, thế mạnh hiện tại. Tuy nhiên, một bài toán đặt ra là phát
triển, bảo tồn bao giờ cũng cần sự hài hòa với gìn giữ bản sắc và tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại, bởi không có một nền văn hóa tĩnh và thuần nhất.
Chính vì vậy, văn hóa ngƣời Hoa ở Hội An cần chủ động mở rộng, tiếp thu
có chọn lọc để làm phong phú thêm, tạo nên sức bật mới trên hành trình phát
triển từ một cái nền vững chắc là yếu tố truyền thống nhiều giá trị đƣợc bảo
lƣu.
Từ đó, có thể khẳng định rằng, một vấn đề cấp thiết trên cả phƣơng
diện lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay là định hƣớng bảo tồn, phát
triển văn hóa của ngƣời Hoa ở Hội An hiện nay. Chúng tôi cho rằng, nếu các
cấp chính quyền địa phƣơng, các nhà quản lý, các nhà chuyên môn, thế hệ trẻ
cùng chung tay trong công tác bảo tồn thì các loại hình tín ngƣỡng của ngƣời
Hoa chắc chắn sẽ phát huy tối đa giá trị của nó. Các giải pháp bảo tồn, phát
huy các giá trị tín ngƣỡng chủ yếu gồm: (1) Tăng cƣờng vai trò của chính

159
quyền địa phƣơng, các cấp quản lý; (2) Giáo dục truyền thống về ý thức, trách
nhiệm giữ gìn và phát huy các giá trị tín ngƣỡng đối với thế hệ trẻ; (3) Gắn
các hoạt động tín ngƣỡng với lễ hội và phát triển du lịch. Không chỉ chính
quyền địa phƣơng, mỗi cá nhân cũng cần có ý thức bảo vệ các di tích, không
gian kiến trúc đô thị cổ.
Tuy vậy, để thực hiện đƣợc hiệu quả, đồng bộ các giải pháp bảo tồn và
phát huy các giá trị tín ngƣỡng ngƣời Hoa ở Hội An, cũng cần chú ý tới
những vấn đề nhƣ: nhận thức rõ hơn vị thế và các mối quan hệ bên trong, bên
ngoài của cộng đồng ngƣời Hoa, nhất là mối quan hệ ngƣời Hoa với tổ quốc
Việt Nam và với quê hƣơng gốc; quán triệt phƣơng châm chủ đạo trong chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nƣớc: các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, hòa hợp, ổn định và cùng nhau phát triển.

160
KẾT LUẬN

1. Đô thị cổ Hội An là địa phƣơng có vai trò đặc biệt quan trọng đối
với sự phát triển của thành phố Hội An nói riêng và của tỉnh Quảng Nam nói
chung. Vai trò của Hội An là một thành phố “văn hóa - sinh thái - du lịch”, là
một trong những trung tâm kinh tế - xã hội quan trọng của tỉnh Quảng Nam
trải qua nhiều thế kỷ. Không chỉ đƣợc biết đến là một thƣơng cảng quốc tế
sầm uất, là trung tâm buôn bán của xứ Đàng Trong, Hội An hiện nay là di sản
văn hóa thế giới, là thành phố của du lịch. Do đó, những tín ngƣỡng, lễ hội,
sinh hoạt cộng đồng và gia đình nơi đây trở thành một yếu tố góp phần quan
trọng vào việc phát triển loại hình du lịch văn hóa lịch sử của Quảng Nam
cũng nhƣ của Việt Nam.
2. Cộng đồng ngƣời Hoa đƣợc hình thành, trải qua bao biến cố của lịch
sử đã hội nhập vào cộng đồng cƣ dân Hội An, hội nhập cùng với con ngƣời
và đất nƣớc. Tuy nhiên, những giá trị văn hóa, bản sắc dân tộc, phong tục tập
quán, tín ngƣỡng tộc ngƣời Hoa vẫn luôn đƣợc giữ gìn, phát huy trong mọi
hoàn cảnh, mọi thời đại. Điều kiện kinh tế - xã hội ngày càng ổn định, đời
sống của ngƣời Hoa nói riêng và của cƣ dân Hội An nói chung ngày một
nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần. Hoạt động văn hóa du lịch, kinh tế nơi
đây khá đa dạng, bao gồm nhiều loại hình du lịch nhƣ du lịch văn hóa lịch sử,
tâm linh, du lịch làng nghề,… Kinh tế nông nghiệp, ngƣ nghiệp, thƣơng
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong đó kinh doanh buôn bán đóng vai trò quan
trọng đối với đời sống của ngƣời Hoa tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
3. Tín ngƣỡng dân gian nói chung và thực hành tín ngƣỡng dân gian
nói riêng của ngƣời Hoa ở Hội An đa dạng và phong phú. Ngƣời Hoa tin có
linh hồn, vạn vật đều đƣợc ký thác những linh hồn mà khi chết đi sẽ biến
thành ma. Trong một năm, họ tổ chức nhiều lễ hội: Tết Nguyên Đán, Nguyên
tiêu, Thanh minh, Đoan ngọ, Trung nguyên, Trung thu, Trùng cửu, Đông
chí,... cùng với đó là các nghi lễ vòng đời nhƣ mang thai, sinh nở, hôn nhân,

161
mừng thọ, tang ma,... Tín ngƣỡng dân gian ngƣời Hoa thể hiện niềm tin vào
lực lƣợng thần thánh, có sức mạnh toàn năng; là điểm tựa tinh thần cho cộng
đồng ngƣời Hoa trƣớc những khó khăn tai họa của cuộc sống và bộc lộ khát
vọng về một cuộc sống hạnh phúc, bình an, đặc biệt khi di cƣ đến một vùng
đất mới.
Hệ thống tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở thành phố Hội An khá phong
phú bao gồm tín ngƣỡng cộng đồng và tín ngƣỡng gia đình. Trong đó, hệ
thống tín ngƣỡng cộng đồng gồm có thờ Tiền hiền, Hậu hiền; thờ Thiên Hậu
Thánh Mẫu; thờ Môn Thần; thờ Quan Thánh Đế Quân (Quan Công); thờ Âm
linh, Âm hồn; thờ Bà Mụ (chùa Bà Mụ); thờ thần Phục Ba;... Hệ thống tín
ngƣỡng trong gia đình gồm có: thờ cúng tổ tiên; thờ Ngũ Tự Gia Đƣờng; thờ
Thần Tài – Thổ Địa; thờ Táo Quân. Trong các tín ngƣỡng đó, thờ ông bà tổ
tiên và thờ Tiền hiền, Hậu hiền là hai tín ngƣỡng đƣợc đông đảo ngƣời Hoa ở
Hội An trân trọng và thực hiện với lòng thành kính sâu sắc nhất. Mỗi tín
ngƣỡng có nguồn gốc, đối tƣợng thờ cúng, nơi thờ tự và ý nghĩa tâm linh
khác nhau, nhƣng tựu chung lại tín ngƣỡng của ngƣời Hoa là một trong
những nét đẹp văn hóa truyền thống, là một trong những yếu tố đặt biệt quan
trọng góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây
còn là sợi dây vô hình liên kết cộng đồng ngƣời Hoa nói riêng và các cƣ dân
Hội An nói chung đến gần nhau, hiểu nhau và sống tốt hơn.
Ngƣời Hoa ở Hội An tiến hành nhiều hoạt động nghi lễ mang tính cộng
đồng, đặc biệt diễn ra vào các ngày lễ tết. Thực hành nghi lễ của ngƣời Hoa ở
Hội An khá đa dạng và có sự thống nhất dù trải qua một chặng đƣờng dài, tuy
đã có những biến đổi cho phù hợp với xu thế của thời kỳ hiện tại. Chúng tôi
đã khảo sát trên địa bàn thành phố và nhận thấy có sự duy trì sinh hoạt tín
ngƣỡng cộng đồng (đặc biệt tập trung tại các Hội quán), có sự tiếp biến văn
hóa (qua việc thờ cúng các vị thần theo truyền thống của ngƣời Hoa, thờ
Phật,…). Tuy có những biến đổi cho phù hợp với xu thế phát triển của hiện

162
tại, nhƣng nhìn chung các loại hình tín ngƣỡng ngƣời Hoa vẫn đƣợc cộng
đồng gìn giữ, bảo lƣu.
4. Ngƣời Hoa ở Hội An đã thể hiện đƣợc sự đa dạng trong đời sống
tâm linh khi đến định cƣ ở vùng đất mới. Tín ngƣỡng vốn chi phối nhiều mặt
của đời sống tinh thần cộng đồng ngƣời Hoa. Sự giao lƣu và tiếp biến văn
hóa là một thực tế nhƣng ngƣời Hoa ở Hội An vẫn bảo lƣu đƣợc nhiều nét
truyền thống, thích nghi với sự biến động để phù hợp đồng thời giữ đƣợc tính
riêng biệt của mình. Hòa mình cùng sự phát triển của đất nƣớc, thành phố
Hội An đang phát triển mạnh mẽ trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại
hóa, nhìn chung cũng có nhiều hệ quả từ quá trình này, nhiều giá trị văn hóa
của ngƣời Hoa ở thành phố Hội An đã biến đổi trong đó có tín ngƣỡng truyền
thống, nhất là về không gian thờ tự, nghi thức thờ cúng, biến đổi về cơ sở thờ
tự, hiện đại hóa các pháp khí,… Trong đó có những biến đổi rõ nét và cũng
có những biến đổi chƣa thật sâu sắc. Biến đổi rõ nhất và dễ nhận thấy đó là
không gian thờ tự. Trƣớc đây, diện tích cảnh quan bên ngoài các cơ sở thờ tự
không có tƣờng rào che chắn, không có nhiều nhà cửa nên cảnh quan rất
thoáng đãng, nhƣng hiện nay không gian bên ngoài các cơ sở thờ tự bị thu
hẹp, hiện tại khuôn viên các di tích đã có tƣờng rào bao bọc. Những biến đổi
khác nhƣ nghi thức thờ cúng, cơ sở thờ tự, pháp khí thì chỉ có giới chuyên
môn, những nhà nghiên cứu, những ngƣời am hiểu về tín ngƣỡng mới dễ
dàng nhận ra. Đối với tín ngƣỡng trong gia đình chủ yếu là biến đổi vị trí đặt
bàn thờ tổ tiên, lễ vật dâng cúng. Tuy vậy, những sinh hoạt văn hóa dòng họ
của ngƣời Hoa hiện nay đang có xu hƣớng phục hồi mạnh mẽ, nhất là về nhà
thờ họ tộc và sinh hoạt tín ngƣỡng dòng họ.
5. Trên cơ sở nhận thức về giá trị, vai trò của tín ngƣỡng xác định
những xu hƣớng biến đổi của tín ngƣỡng truyền thống ngƣời Hoa trong bối
cảnh hiện tại, luận án đề xuất một số giải pháp để bảo tồn và phát huy các giá
trị tích cực trong đời sống hiện nay tại Hội An, trong đó:

163
Để giữ gìn và phát huy các giá trị tín ngƣỡng của ngƣời Hoa trƣớc tốc
độ đô thị hóa đang diễn ra sôi động tại thành phố Hội An, các cơ quan chức
năng cùng ngƣời dân nơi đây phối hợp thực hiện đồng bộ các biện pháp nhƣ
tăng cƣờng sự quan tâm của chính quyền địa phƣơng, các cấp quản lý; giáo
dục, nhắc nhở thế hệ trẻ về ý thức, trách nhiệm duy trì, giữ gìn các tín
ngƣỡng; chỉnh trang, tôn tạo các cơ sở thờ tự cũng nhƣ gắn các hoạt động tín
ngƣỡng với lễ hội và phát triển du lịch. Thực hiện tốt các biện pháp này, tín
ngƣỡng truyền thống của ngƣời Hoa sẽ đƣợc bảo lƣu và phát huy trong bối
cảnh hiện nay.
Quá trình triển khai các chính sách, biện pháp bảo tồn, phát huy giá trị
tín ngƣỡng cần thực hiện đồng bộ; đội ngũ cán bộ triển khai nhất thiết phải
đƣợc trang bị về kiến thức, hiểu biết sâu sắc về văn hóa và tín ngƣỡng ngƣời
Hoa; đồng thời tuân thủ các nguyên tắc bảo tồn văn hóa tín ngƣỡng truyền
thống tộc ngƣời. Kết hợp với việc tìm hiểu, nghiên cứu những biến đổi của
nhiều yếu tố nhƣ kinh tế - xã hội - văn hóa môi trƣờng,… để có đƣợc những
giải pháp bảo tồn hợp lý và đúng đắn. Thực hiện đƣợc những điều này, các
biện pháp bảo tồn sẽ phát huy đƣợc tính khả thi, giảm đƣợc độ “vênh” giữa
sự đẩy mạnh phát triển đời sống kinh tế xã hội và giữ gìn bản sắc tộc ngƣời,
bảo lƣu giá trị văn hóa truyền thống. Đây cũng là một cách thiết thực vừa
củng cố thế mạnh độc đáo từng tộc ngƣời; vừa tăng cƣờng sự gắn kết của
khối đại đoàn kết dân tộc theo quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc.
6. Những kết quả nghiên cứu của luận án xuất phát từ nhận thức chủ
quan, sự bao quát tƣ liệu trong khả năng hạn chế của nghiên cứu sinh, do đó
không tránh khỏi phiến diện, thiếu sót. Khi toàn cầu hóa nhƣ một xu thế tất
yếu của sự phát triển nhân loại, tác động sâu rộng đến toàn bộ đời sống kinh
tế, văn hóa, xã hội của một tộc ngƣời, thì việc nghiên cứu văn hóa tộc ngƣời
không chỉ cung cấp những kiến thức, hiểu biết phong phú hơn, sâu sắc hơn
mà còn từ việc hiểu những giá trị văn hóa tạo nên sức mạnh có thể giúp tộc
ngƣời đó đủ bản lĩnh và sức mạnh hội nhập vào dòng chảy văn hóa của nhân

164
loại. Trong thời gian tới, từ kết quả đã thực hiện đƣợc của luận án - nghiên
cứu trƣờng hợp tín ngƣỡng ngƣời Hoa ở Hội An, Quảng Nam, nghiên cứu
sinh sẽ tiếp tục thâm nhập tìm hiểu và đào sâu phân tích hơn, hy vọng có thể
lý giải đƣợc cặn kẽ, gia tăng so sánh và bao quát toàn diện hơn về tín ngƣỡng
của ngƣời Hoa không chỉ ở thành phố Hội An mà còn ở các địa phƣơng khác.
Bởi từ sau 1986 đến nay, nghiên cứu về ngƣời Hoa ở miền Trung và miền
Bắc chƣa đƣợc chú ý nhiều nhƣ ngƣời Hoa ở Nam Bộ. Do đó, cần thiết phải
có những nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về đời sống ngƣời Hoa đƣơng
đại ở Việt Nam, phân tích đƣợc sự thay đổi khuôn mẫu văn hóa cũng nhƣ
chiến lƣợc thích ứng của ngƣời Hoa trong bối cảnh chuyển đổi ở Việt Nam
thời gian qua, để phát huy những tiềm lực mạnh mẽ của ngƣời Hoa nói chung
và ngƣời Hoa ở Hội An nói riêng.

165
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ

1. Võ Duy Nghĩa (2018), “Những điểm tƣơng đồng và khác biệt trong
phong tục Tang ma giữa ngƣời Việt gốc Hoa và ngƣời Việt ở thành phố Hội
An, tỉnh Quảng Nam”, Tạp chí Khoa học, Đại học Thủ đô Hà Nội, số 26,
tháng 10.
2. Võ Duy Nghĩa (2019), “Một số loại hình tín ngƣỡng tiêu biểu của
ngƣời Hoa ở Hội An, Quảng Nam”, Tạp chí Khoa học, Đại học Sƣ phạm Hà
Nội, số 2.
3. Võ Duy Nghĩa (2019), “Giá trị của tín ngƣỡng trong đời sống ngƣời
Hoa ở Hội An, Quảng Nam”, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, số 3.

166
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu tiếng Việt
1. Phan An, Trần Đại Tân, Lƣu Kim Hoa, Lê Quốc Lâm (2006), Góp
phần tìm hiểu văn hóa người Hoa ở Nam Bộ, Hội Văn học nghệ thuật các dân
tộc Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
2. Dƣơng Văn An (2001), Ô châu cận lục (Trần Đại Vinh, Hoàng Văn
Phúc dịch và hiệu đính) Nxb. Thuận Hóa, Huế.
3. Trần Văn An (2005), Di sản văn hóa - văn nghệ dân gian Hội An,
Trung tâm Quản lý và Bảo tồn di tích Hội An, Quảng Nam.
4. Vũ Hoài An (2017), “Hải thần trong tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Hội
An”, trong Đà Nẵng - Miền Trung: Những vấn đề lịch sử - văn hóa , Viện
Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - xã hội Đà Nẵng, Đà Nẵng.
5. Đào Duy Anh (1957), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
6. Lê Duy Anh, Lê Hoàng Vinh (2004), Lần giở lịch sử - văn hoá miền
Thuận - Quảng, Nxb. Đà Nẵng.
7. Lê Duy Anh (2009), Lễ hội và văn hóa dân gian xứ Quảng, Nxb.
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
8. Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn
kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Nghị
quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về
xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước.
10. Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn
kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
11. Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ƣơng (2010), Tổng
điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009: Kết quả toàn bộ, Nxb. Thống
kê, Hà Nội.

167
12. Đỗ Bang (1996), Phố cảng vùng Thuận - Quảng thế kỷ XVII-XVIII,
Nxb. Thuận Hóa, Huế.
13. Alan Barnard (2015), Lịch sử và lý thuyết nhân học (Dƣơng Tuấn
Anh, Đỗ Thị Thu Hà dịch), Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, H.
14. Hoàng Chí Bảo (2009), Bảo đảm bình đẳng và tăng cường hợp tác
giữa các dân tộc trong phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Nguyễn Trần Bạt (2005), Văn hóa và con người, Nxb. Hội Nhà văn, Hà
Nội.
16. Võ Thanh Bằng (2008), Tín ngưỡng dân gian ở Thành phố Hồ Chí
Minh, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
17. Nguyễn Văn Bằng (2015), “Đối tƣợng thờ cúng trong hội quán của
ngƣời Hoa ở Hội An”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2, tr. 62-66.
18. Phan Kế Bính (2014), Việt Nam phong tục, Nxb. Hồng Đức, Hà
Nội
19. Belik A.A. (2000), Văn hóa học - Những lý thuyết Nhân học văn
hóa (Tài liệu lƣu hành nội bộ), Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
20. Nguyễn Trúc Bình (1973), “Các nhóm Hoa và vấn đề thống nhất
tên gọi”, Thông báo Dân tộc học, (3), tr.95-98.
21. Phan Kế Bính (2011), Việt Nam phong tục, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà
Nội.
22. Cristophoro Borri (1999), Xứ Đàng Trong năm 1621, Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh.
23. Léopold Cadière (2015), Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn
giáo người Việt, Đỗ Trinh Huệ dịch, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
24. Nguyễn Thị Phƣơng Châm (2004), “Văn hoá truyền thống của
ngƣời Kinh ở Vạn Vĩ trong quá trình giao lƣu biến đổi”, Tạp chí Văn hóa dân
gian, số 3, tr.15-24, 11.

168
25. Nguyễn Thị Phƣơng Châm (2007), “Quá trình biến đổi văn hóa của
cộng đồng ngƣời Việt ở Vạn Vỹ, Quảng Tây, Trung Quốc”, Nghiên cứu
Đông Nam Á, số 2, tr.85-91.
26. Nguyễn Thị Phƣơng Châm (2008), “Phát triển kinh tế và gia tăng
đầu tƣ vào các hoạt động tín ngƣỡng (qua khảo sát thực tế làng Đình Bảng,
Từ Sơn, Bắc Ninh)”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 1, tr.44-54.
27. Nguyễn Từ Chi (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc
người, Nxb. Văn hóa thông tin - Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
28. Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hóa học, Nxb. Văn hóa thông tin -
Viện Văn hóa, Hà Nội.
29. Vũ Văn Chung (2018), “Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngƣỡng
thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu ở Nam Bộ”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 10
(178), tr. 66-79.
30. Phan Hữu Dật (1998), Một số vấn đề về dân tộc học Việt Nam,
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
31. Phan Hữu Dật (Chủ biên, 2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn
cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay (sách tham khảo), Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
32. Phan Đại Doãn (2010), Từ làng đến nước: một cách tiếp cận lịch
sử, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
33. Phan Du (1974), Quảng Nam qua các thời đại, Nxb. Cổ học tùng
thƣ, Đà Nẵng.
34. Trƣơng Minh Dục (2009), Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng
ở miền Trung, Tây Nguyên trong thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị - Hành
chính, Hà Nội.
35. Nguyễn Đăng Duy (2004), Nhận diện văn hóa các dân tộc thiểu số
Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
36. Nguyễn Đăng Duy (2011), Văn hóa tâm linh, Nxb. Văn hóa thông
tin, Hà Nội.

169
37. Lục Đức Dƣơng (2001), Lịch sử Lưu dân, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí
Minh.
38. Phạm Đức Dƣơng (2000), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông
Nam Á, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
39. Phạm Đức Dƣơng (2004), “Thế giới tâm linh”, Tạp chí Khoa học
xã hội Việt Nam, số 2, tr.123-128.
40. Huỳnh Ngọc Đáng (2005), Chính sách của các vương triều Việt
Nam đối với người Hoa, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Trƣờng Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII
của Đảng.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
43. Nguyễn Văn Đăng (2011), “Góp thêm vài tƣ liệu về sự hình thành
cộng đồng ngƣời Hoa ở Quảng Ngãi”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số
4, tr. 28-36.
44. Nguyễn Đình Đầu (2011), Quảng Nam – Đà Nẵng xưa và nay,
Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.
45. Mạc Đƣờng (1994), Xã hội người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh
sau năm 1975 (tiềm năng và phát triển), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
46. Lê Sĩ Giáo (Chủ biên, 2010), Dân tộc học đại cương, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội.
47. Trần Văn Giàu (1973), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ
thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám (Tập 1), Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội.
48. Trần Văn Giàu (1959), Lịch sử cận đại Việt Nam (Tập 1), Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
49. Ngọc Hà (2011), Tín ngưỡng, phong tục và những kiêng kỵ trong
dân gian, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.

170
50. Phạm Minh Hạc, Hồ Sĩ Quý (Đồng chủ biên, 2002), Nghiên cứu
con người - đối tượng và những hướng chủ yếu (Niên giám nghiên cứu số 1),
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
51. Châu Thị Hải (2006), Người Hoa Việt Nam và Đông Nam Á: hình
ảnh hôm qua và vị thế hôm nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
52. Châu Thị Hải (2000), “Ngƣời Hoa trong hợp tác kinh tế ASEAN -
Trung Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2, tr.24-31.
53. Châu Thị Hải (2006), “Văn hóa Hoa thƣơng và những đặc trƣng
của nó”, Tạp chí Dân tộc học, Số 3 (141), tr.58-66.
54. Phạm Hoàng Hải (2001), Người bạn đường du lịch văn hóa Hội
An, Nxb. Thế giới Hà Nội, Hà Nội.
55. Đinh Hồng Hải (2021), “„Tâm linh‟ và „Du lịch tâm linh‟ ở Việt Nam từ
góc nhìn lý thuyết về thị trƣờng tôn giáo”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Số 6
(208), tr. 78-92.
56. Michael Hammer (2006), Tư duy lại tương lai, Nxb. Trẻ, H.
57. Dƣơng Phú Hiệp (2010), Nghiên cứu văn hóa và con người Việt
Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
58. Nguyễn Trung Hiếu (2014), Đô thị cổ Hội An - Di sản văn hóa thế
giới, Nxb. Thời đại, Hà Nội.
59. Lý Tùng Hiếu (2013), “Tổng quan về tôn giáo của cƣ dân Nam
Bộ”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn sự
chuyển đổi tôn giáo của các dân tộc thiểu số ở vùng Nam Bộ, tr.11-32.
60. Chen Ching Ho (1960), “Mấy điều nhận xét về Minh Hương xã và
các cổ tích tại Hội An”, Việt Nam khảo cổ tập san, Số 1.
61. Trần Kinh Hòa (1960), Mấy điều nhận xét về Minh Hương xã và
các cổ tích tại Hội An, Việt Nam Khảo cổ tập san, Sài Gòn.
62. Võ Văn Hoàng (2012), Thiên Hậu Thánh Mẫu trong tín ngưỡng
của cộng đồng người Hoa ở Hội An, trên website:
http://dangiandanang.blogspot.com/2012/03/thien-hau-thanh-mau-trong-
cong-ong.html, truy cập ngày 22.6.2017.

171
63. Võ Văn Hoàng, Nguyễn Thái Hòa (2013), Tín ngưỡng thờ môn
thần của người Hoa ở Hội An, Văn hóa di sản, số 3 (44), tr. 98-101.
64. Võ Văn Hoàng, Nguyễn Thái Hòa (2017), “Tín ngƣỡng thờ Môn
thần của ngƣời Hoa ở Hội An”, trong Đà Nẵng - Miền Trung: Những vấn đề
lịch sử - văn hóa, Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - xã hội Đà Nẵng, Đà
Nẵng.
65. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1996), Văn hóa dân tộc
trong quá trình mở cửa ở nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
66. Võ Văn Hòe, Bùi Văn Tiếng, Hoàng Hƣơng Việt (2009), Tập tục lễ
hội đất Quảng, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.
67. Võ Văn Hòe (2011), Tết xứ Quảng, Nxb. Dân trí, Hà Nội.
68. Võ Văn Hòe, Bùi Văn Tiếng, Hoàng Hƣơng Việt (2011), Tập tục lễ
hội đất Quảng, Nxb. Lao động, Hà Nội.
69. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (2006), Những vấn đề nhân học
tôn giáo, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.
70. Ánh Hồng (2004), Tín ngưỡng, phong tục và những kiêng kỵ dân
gian Việt Nam, Nxb. Thanh Hóa, Thanh Hóa.
71. Nguyễn Quốc Hùng (2004), Phố cổ Hội An và việc giao lưu văn
hóa ở Việt Nam, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.
72. Dƣơng Văn Huy (2011), Người Hoa trong xã hội Việt Nam nửa đầu
thế kỷ XIX, Nxb. Thông tin, H.
73. Dƣơng Văn Huy (2008), Hoạt động thương mại của người Hoa ở
Đàng Trong, Luận văn Thạc sỹ khoa học chuyên ngành Lịch sử Thế giới.
74. Nguyễn Văn Huy, Người Hoa ở Việt Nam, Paris, 1993.
75. Nguyễn Văn Huy (chủ biên, 1998), Bức tranh văn hóa các dân tộc
Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
76. Nguyễn Văn Huyên (1995), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt
Nam, Tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
77. Nguyễn Văn Huyên (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt
Nam, Tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

172
78. Nguyễn Văn Huyên (2001), Toàn tập: Văn hóa và Giáo dục Việt
Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
79. Lê Thu Huyền (2019), Đời sống tín ngưỡng của người Việt ở Quảng
Nam (Nghiên cứu trường hợp tại TP. Hội An), Luận án Tiến sĩ chuyên ngành
Dân tộc học, Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc
gia TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
80. Đỗ Quang Hƣng (2009), “Tôn giáo và văn hóa”, Tạp chí Di sản văn
hóa, số 2.
81. Nguyễn Xuân Hƣơng (2004), “Một số nghi lễ cổ truyền liên quan
đến nghề biển của cƣ dân ven biển xứ Quảng”, Tạp chí Văn hoá dân gian, số
3, tr.50-54.
82. Nguyễn Xuân Hƣơng (2005), “Về tục thờ Mẫu của cƣ dân ven biển
xứ Quảng”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2, tr.39-45.
83. Nguyễn Xuân Hƣơng (2009), Tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng
Nam - Đà Nẵng (hình thái, đặc trưng và giá trị), Nxb. Từ điển bách khoa, Hà
Nội.
84. Nguyễn Xuân Hƣơng (2011), Tín ngưỡng thờ Nữ thần của người
Việt ở xứ Quảng (Quảng Nam - Đà Nẵng), Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.
85. Nguyễn Thừa Hỷ (2011), Văn hóa Việt Nam truyền thống - Một góc
nhìn, Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
86. Trần Khánh (1992), Vai trò người Hoa trong nền kinh tế các nước
Đông Nam Á, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.
87. Trần Khánh (2018), Cộng đồng người Hoa, Hoa kiều tại Châu Á,
Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
88. Vũ Khiêu, Phạm Xuân Nam, Cao Xuân Phổ (1993), Kỷ yếu hội
thảo khoa học: “Mấy vấn đề văn hoá và phát triển ở Việt Nam hiện nay”,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
89. Vũ Khiêu, Nguyễn Văn Truy (2002), Triết lý phát triển ở Việt Nam
- mấy vấn đề cốt yếu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

173
90. Mai Khôi (2006), Văn hóa ẩm thực Việt Nam, Nxb. Thanh niên, Hà
Nội.
91. Nguyễn Xuân Kính (2014), Con người, Môi trường và Văn hóa,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
92. Tsai Mau Kuay (1968) Người Hoa ở miền Nam Việt Nam. Paris.
93. Robert Layton (2007), Nhập môn lý thuyết nhân học, Phan Ngọc
Chiến dịch, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
94. Bùi Thị Thu Linh (2011), Sự giao thoa văn hóa Việt - Hoa tại Miếu
Quan Công - Hội An - Quảng Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trƣờng Đại học
Văn hóa, Hà Nội.
95. Ngô Văn Lệ, Huỳnh Ngọc Thu, Ngô Thị Phƣơng Lan (đồng chủ
biên, 2016), Tri thức bản địa của các tộc người thiểu số ở Đông Nam Bộ
trong tiến trình phát triển xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
96. Ngô Văn Lệ (2003), Một số vấn đề về văn hóa tộc người ở Nam Bộ
và Đông Nam Á, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
97. Trần Hồng Liên (2005), Văn hóa người Hoa ở Nam bộ, Nhà xuất
bản Khoa học xã hội.
98. Trần Hồng Liên (chủ biên, 2011), Tín ngưỡng, phong tục và những
kiêng kỵ trong dân gian, Nxb. Văn hóa thông tin.
99. Nguyễn Đức Lữ (2007), Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo
ở Việt Nam, Nxb. Tôn giáo Hà Nội, Hà Nội.
100. Trịnh Tiến Lƣu, Bùi Văn Thành (2009), Di sản văn hóa Yên Thế -
Lễ hội dân gian, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
101. Lê Hồng Lý, Vũ Quang Dũng (1999), Thư mục văn hoá dân gian,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
102. Mác, Ăngghen, Lênin (2001), Bàn về tôn giáo và chủ nghĩa vô
thần, Trần Khang và Lê Cự Lộc dịch, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
103. Nguyễn Văn Minh (2013), Tôn giáo, tín ngưỡng các dân tộc ở Việt
Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

174
104. Phạm Xuân Nam (2008), Sự đa dạng văn hóa và đối thoại giữa các
nền văn hóa. Một góc nhìn từ Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, H.
105. Nguyễn Ngạc (2005), Tìm hiểu con người Xứ Quảng, Nxb. Đà
Nẵng, Đà Nẵng.
106. Thích Minh Nghiêm (2010), Nghi lễ thờ mẫu, văn hóa và tập tục,
Nxb. Thời Đại, Hà Nội.
107. Hữu Ngọc (2007), Lãng du trong văn hoá Việt Nam, Nxb. Thanh
Niên, Hà Nội.
108. Hữu Ngọc (2012), Hội An - Hội An: Frequently asked questions
about Vietnamese culture, Nxb. Thanh Niên, Hà Nội.
109. Nguyên Ngọc (Chủ biên, 2005), Tìm hiểu con người xứ Quảng,
Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.
110. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb.
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
111. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
112. Phan Ngọc (1999), Một cách tiếp cận văn hóa, Nxb. Thanh niên,
Hà Nội.
113. Nguyễn Quang Ngọc (2009), Một số vấn đề làng xã Việt Nam,
Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
114. Đặng Việt Ngoạn (1991), Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
115. Nguyễn Tri Nguyên (2014), “Bản chất và đặc trƣng tín ngƣỡng dân
gian”, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 7, tr.27-32.
116. Hoàng Minh Nhân (2001), Hội An - Di sản văn hóa thế giới, Nxb.
Thanh Niên, Hà Nội.
117. Đào Trinh Nhất (2016), Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào
Nam Kỳ, Nxb. Hội Nhà văn, H.
118. Nhiều tác giả (1996), Giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn hóa các dân
tộc thiểu số Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

175
119. Nhiều tác giả (1997), Văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
120. Nhiều tác giả (2000), Việt Nam học, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế lần
thứ nhất, Hà Nội 15-17.7.1998, Nxb. Thế giới, H.
121. Nhiều tác giả (2009), Nghiên cứu văn học Việt Nam: những khả
năng và thách thức, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
122. Nhiều tác giả (2008), Nông thôn, Nông dân và Nông nghiệp:
Những vấn đề đang đặt ra, Nxb. Tri Thức, Hà Nội.
123. Nhiều tác giả (2010), Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt
Nam: những cách tiếp cận nhân học, 2 tập, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ
Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
124. Nhiều tác giả (2014), Di sản lịch sử và những hướng tiếp cận mới,
Nxb. Thế giới, Hà Nội.
125. Nhiều tác giả (2014), Di sản văn hóa trong xã hội Việt Nam đương
đại, Nxb. Tri thức, Hà Nội.
126. Lê Thị Nhuấn (2012), “Tín ngƣỡng của ngƣời Hoa ở Lâm Đồng”,
Tạp chí Dân tộc học, số 4, tr. 19-26.
127. Lê Thị Nhuấn, Nguyễn Thị Hà Giang (2020), “Các nhóm dân cƣ
ngƣời Hoa ở Lâm Đồng”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm thành
phố Hồ Chí Minh, số 17, tập 10, tr. 1725-1736.
128. Philippe Papin (2001), Việt Nam hành trình một dân tộc, Nguyễn
Khánh Long dịch, Nxb. Thời Mới, Canada.
129. Nguyễn Quốc Phẩm, Trịnh Quốc Tuấn (1999), Mấy vấn đề lý luận
và thực tiễn về vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
130. Nguyễn Hồng Phong (1963), Tìm hiểu tính cách dân tộc, Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
131. Trần Hạnh Minh Phƣơng (2017), Nghi lễ chuyển đổi của người
Hoa Quảng Đông ở thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, Nxb. Đại học quốc gia
Hà Nội.

176
132. Phạm Quỳnh Phƣơng và cộng sự (2013), Thiểu số cần tiến kịp đa
số: Định kiến trong quan hệ tộc người ở Việt Nam, Nxb. Giao thông vận tải, Hà
Nội.
133. Thạch Phƣơng, Trần Đình An (2010), Địa chí Quảng Nam - Đà
Nẵng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
134. Quốc hội (2016), Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo, số 02/2016/QH14
135. Fujiwara Riichiro (1974), “Chính sách đối với dân Trung Hoa di cƣ
của các triều đại Việt Nam”, Việt Nam khảo cổ tập san, (8), tr. 143-175.
136. Léopold Sédar Senghor (2007), Đối thoại giữa các nền văn hóa,
Nxb. Thế giới, Hà Nội.
137. Emily A. Schultz, Robert H. Lavenda (2001), Nhân học - một quan
điểm về tình trạng nhân sinh, Phan Ngọc Chiến và Hồ Liên Biện dịch, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
138. Sở Văn hóa, thể thao và du lịch Quảng Nam (2001), Văn hóa
Quảng Nam những giá trị đặc trưng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Tam Kỳ, Quảng
Nam.
139. Sở Văn hóa thông tin Quảng Nam (2002), Vai trò lịch sử thị trấn
Quảng Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Tam Kỳ, Quảng Nam.
140. Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong - Lịch sử kinh tế - xã hội
Việt Nam thế kỷ 17 và 18. Nxb Trẻ, H.
141. Nhất Thanh, Vũ Văn Khiếu (2005), Phong tục làng xóm Việt Nam:
Đất lề quê thói, Nxb. Phƣơng Đông, Cà Mau.
142. Lê Ngọc Thắng, Lâm Bá Nam (1993), Bản sắc văn hóa các dân tộc
ở Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
143. Bùi Quang Thắng (2005), Văn hóa phi vật thể ở Hội An, Nxb. Thế
Giới, Hà Nội.
144. Bùi Quang Thắng (Chủ biên, 2008), 30 thuật ngữ nghiên cứu văn
hóa, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
145. Trần Ngọc Thêm (1992), “Giao lƣu Quốc tế và việc giáo dục văn
hóa dân tộc”, Tạp chí thế giới mới, Tp Hồ Chí Minh, số 31.

177
146. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam: Cái
nhìn hệ thống loại hình, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
147. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb.
TP. Hồ Chí Minh.
148. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội.
149. Lê Thí (2011), Người xưa đất Quảng, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.
150. Phan Tấn Thiên (2014), “Văn hóa kinh doanh của ngƣời Hoa tại
Thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Nghiên cứu và phát triển, số 1 (108),
tr.13-20.
151. Ngô Đức Thịnh (1994), Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt
Nam, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
152. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên, 1997), Văn hóa vùng và phân vùng văn
hóa Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
153. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên) (2000), Văn hoá dân gian làng ven
biển, Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
154. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên, 2001), Tín ngưỡng và văn hóa tín
ngưỡng ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
155. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên, 2010), Bảo tồn, làm giàu và phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
156. Nguyễn Hữu Thông (2001), Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung,
Nxb. Thuận Hoá, Huế.
157. Nguyễn Ngọc Thơ (2014), “Đặc trƣng tín ngƣỡng thờ Thiên Hậu ở
Đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập
17, số 14, tr. 88-107.
158. Nguyễn Ngọc Thơ (2018), Người Hoa Người Minh Hương với văn
hóa Hội An, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.
159. Nguyễn Cẩm Thúy (2000), Định cư của người Hoa trên đất Nam
bộ (từ thế kỷ 17 đến năm 1945), Nxb. Khoa học Xã hội, H.

178
160. Đỗ Lai Thúy (1999), Từ cái nhìn văn hóa, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà
Nội.
161. Đỗ Lai Thúy (2005), Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn
hóa, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
162. Đỗ Thị Minh Thúy (1997), Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học,
Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
163. Hà Văn Thƣ (1996), Về văn hóa văn nghệ các dân tộc thiểu số,
Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
164. Trần Hoàng Tiến (2016), Nhân học văn hóa tộc người ở Việt Nam,
Nxb. Văn hóa dân tộc, H.
165. Vƣơng Xuân Tình (chủ biên, 2018), Các dân tộc ở Việt Nam (tập 4,
quyển 2: Nhóm ngôn ngữ Hán và Mã Lai – Đa Đảo), Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
166. Phạm Thanh Tịnh, Đào Duy Anh, Trần Quốc Vƣợng (2014), Tìm
hiểu lịch sử, văn hoá Việt Nam, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
167. Chee Kiong Tong (2012), Quan hệ yêu ghét người Hoa ở Việt
Nam, Thƣ viện Viện Dân tộc học, Hà Nội.
168. Lê Ngọc Trà (Tập hợp và giới thiệu, 2001), Văn hóa Việt Nam, đặc
trưng và cách tiếp cận, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
169. Đoàn Huyền Trang (2009), Lễ hội văn hóa và du lịch Việt Nam,
Nxb. Lao Động.
170. Nguyễn Thế Thiên Trang (2001), Hội An - Di sản thế giới, Nxb.
Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
171. Thùy Trang (2009), Văn hóa làng xã – tín ngưỡng, tục lệ và hội
làng, Nxb. Thời đại, Hà Nội.
172. Trung tâm Quản lý - Bảo tồn Di tích Hội An (Chủ biên) (1999),
Nghiên cứu vai trò của xã Minh Hương ở thương cảng Hội An thế kỷ XVII -
XIX, Hội An.
173. Nguyễn Chí Trung (2010), Cư dân Faifo - Hội An trong lịch sử,
Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.

179
174. Phạm Hồng Tung (2014), “Nghiên cứu về cộng đồng: Khái niệm,
cách tiếp cận và phân loại”, 25 năm Việt Nam học theo định hướng liên
ngành.
175. Nguyễn Phƣớc Tƣơng (2004), Hội An - Di sản thế giới, Nxb. Văn
nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
176. Đăng Trƣờng (2013), Đô thị thương cảng Hội An, Nxb. Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
177. Đăng Trƣờng (2013), Đô thị thương cảng Phố Hiến, Nxb. Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
178. Hoàng Tuệ (1984), Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam và
chính sách ngôn ngữ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
179. Trịnh Quốc Tuấn (Chủ biên, 1996), Bình đẳng dân tộc ở nước ta
hiện nay Vấn đề và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
180. Nguyễn Minh Tuệ (Chủ biên, 2009), Địa lý các vùng kinh tế Việt
Nam, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Tp. Hồ Chí Minh.
181. Võ Thị Ánh Tuyết (2011), Hội quán của người Hoa ở Hội An -
Quảng Nam luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Khảo cổ học, Trƣờng
ĐHKHXH&NV, ĐHQG TP Hồ Chí Minh.
182. Phan Thị Yến Tuyết, Cao Tự Thanh (2013), 100 câu hỏi đáp về
người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, Tp. Hồ Chí
Minh.
183. E.B. Tylor (2001), Văn hóa nguyên thủy, Huyền Giang dịch, Tạp
chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
184. Đàm Thị Uyên (2007), Chính sách dân tộc của các triều đại phong
kiến Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
185. Đặng Nghiêm Vạn (2001), Dân tộc, Văn hóa, Tôn giáo, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.
186. Đặng Nghiêm Vạn (2003), Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam,
Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.

180
187. Đặng Nghiêm Vạn (2012), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn
giáo ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
188. Tạ Thị Hoàng Vân (2007), Di tích kiến trúc Hội An trong tiến trình
lịch sử, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
189. Hoàng Hƣơng Việt, Bùi Văn Tiếng, Nguyễn Phƣớc Tƣơng (2006),
Tổng tập văn hóa văn nghệ dân gian, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.
190. Viện Dân tộc học (2011), Tổng hợp số dân và phân bố các dân tộc
của cả nước và theo tỉnh.
191. Hoàng Vinh (1986), Khái niệm và quan niệm về văn hóa, Viện Văn
hóa, Hà Nội.
192. Hồ Sĩ Vịnh (1998), Văn hóa và văn học một hướng tiếp cận, Nxb.
Văn học - Viện Văn hóa, Hà Nội.
193. Lê Trung Vũ (chủ biên, 1992), Lễ hội cổ truyền, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội.
194. Lê Trung Vũ, Lê Hồng Lý, Nguyễn Thị Phƣơng Châm (2014), Lễ
hội dân gian, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
195. Trần Quốc Vƣợng, Tô Ngọc Thanh, Nguyễn Chí Bền (1997), Cơ
sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc Gia, Hà Nội.
196. Trần Quốc Vƣợng, Nguyễn Q. Thắng, Võ Xuân Đàn (2001), Kỷ
yếu Hội thảo: Văn hóa Quảng Nam - Những giá trị đặc trưng, Sở Văn hóa -
Thông tin Quảng Nam xb., Quảng Nam.
197. Nguyễn Văn Xuân (2008), Hội An, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.
198. La Công Ý (1998), Bức tranh văn hóa các dân tộc Việt Nam, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
199. Nguyễn Nhƣ Ý (2004), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
200. Florence Weber (2018), Lược sử nhân học (Phạm Anh Tuấn dịch),
Nxb. Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
B. Website

181
201. http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/2667/Doi_net_ve
_van_hoa_tin_nguong_cua_nguoi_Hoa_o_Bac_Giang, truy cập ngày
10.4.2018.
202. http://dantocmiennui.vn/van-hoa/mat-cua-va-tuc-tho-than-cua-o-
hoi-an/140969.html, truy cập ngày 15.6.2018.
203. http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Ky-la-tuc-muon-ban-dat-hang-phai-
cho-than-tai-huong-nhu-hoa-phu-nu-post101419.gd, truy cập ngày 10.4.2018.
204. http://hoangcamchau.blogspot.com/2014/10/tin-nguong-bac-e-tran-
vu-o-hoi-bac-e.html, truy cập ngày 15.5.2018.
205. http://hoian.gov.vn/pages/chuyenmuc_view.aspx?idchuyenmuc-
660, truy cập ngày 20.6.2018.
206. https://hoianheritage.net/vi/trao-doi-chuyen-nganh/chuyen-de-
nghien-cuu-trao-doi/THUC-TRANG-BIEN-DONG-DAN-CU-VA-DO-THI-
HOA-O-HOI-AN-NHUNG-AP-LUC-VAN-DE-DAT-RA-38.html, truy cập ngày
20.6.2018.
207. http://hoiantourism.info/CMSPages/BaiViet/Default.aspx?IDBaiVi
et-12689, truy cập ngày 10.12.2017.
208. http://vietnamtudien.org/hanviet/, truy cập ngày 20.6.2016.
209. http://impe-qn.org.vn/impe-qn/vn/portal/InfoDetail.jsp?area-
58&cat-1106&ID-5365, truy cập ngày 15.6.2018.
210. http://kh-sdh.udn.vn/zipfiles/So24/24_19_huong%20ng.xuan.pdf,
truy cập ngày 5.1.2018.
211. http://khoavanhocngonngu.edu.vn/home/index.php?option-
com_content&view-article&id-1049:hi-nhp-va-giao-lu-vn-hoa-ca-ngi-hoa-
vit-nam-tren-lnh-vc-tin-ngng-ton-giao&catid-100:vn-hoa-lch-s-trit-
hc&Itemid-161, truy cập ngày 15.8.2018.
212. http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option-
com_content&view-article&id-3901%3Atin-ngng-thien-hu-ti-nam-b-vit-
nam&catid-100%3Avn-hoa-lch-s-trit-hc&Itemid-161&lang-vi, truy cập ngày
15.6.2017.

182
213. http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option-
com_content&view-article&id-2412:s-giao-lu-vn-hoa-vit-hoa-ti-cac-hi-quan-
ngi-hoa-hi-an-qung-nam&catid-121:ht-vit-nam-trung-quc-nhng-quan-h-vn-
hoa-vn&Itemid-187, truy cập ngày 15.4.2017.
214. http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-
nam-bo/1167-vu-le-van-hoa-nguoi-hoa-o-tp-ho-chi-minh.html, truy cập ngày
15.6.2018.
215. https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%ADn_ng%C6%B0%E1%BB
%A1ng, truy cập ngày 1.6.2017.
C. Tài liệu tiếng nƣớc ngoài
216. Amer Ramses (1991), The Ethnic Chinese in Vietnam and Sino -
Vietnamese Relation, Forum, Kualalumpur.
217. Nguyen Hoi Chan (1971), Some aspects of the Chinese community
in Vietnam, 1650-1850, Harvard University Paper on China, 24:104-124.
218. Department of the Army Pamphlet No.550-105 (1966), Minority
groups in the Republic of Vietnam, Thƣ viện Viện Dân tộc học - Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
219. D. Lehmann (2002), “Religion and Globalization”,
Religions in the Modern World, Routledge, New York.
220. Devos J. & Rmanucci-Ross L, Chicago (1982), Ethnic identity, L.
221. Fukui Hayao (1999), The Dry Areas in Southeast Asia - Harsh or
Benign Environment?, The Center for Southeast Asia Studies
(CSEAS), Kyoto University.
222. Herskovits M. (1955), Cultural anthropology, N.Y.
223. Hinde Robert A. (1987), Individuals relationships, culture, N.Y.
224. Kong Chin James (2004), “The Junk Trade between South China
and Nguyen Vietnam in the Late Eighteenth and Early Nineteenth Centuries”,
in Water Frontier: Commerce and the Chinese in the lower Mekong region,
1750-1880 (edited by Nola Cooke and Li Tana), Singapore.

183
225. Janse O. (1960), “Vietnam, carrefour de peuples et de
civilisations”, France-Asie, Vol. XVII, No.160.
226. Pagès Léon (1870), Histoire de la religion Chrétienne au Japan,
t.II, Paris.
227. Taboulet G. (1974), La Geste Fracaice en Indochine (texte 43).
Faifo en 1744 d’ après Pierre Poivre.
228. Voyage de Pierre Poivre en Cochinchine [Pierre Poivre Journey to
Cochinchina], in Southern Vietnam under the Nguyen: Documents on the
Economic History of Cochinchina [Dang Trong], 1602-1777, Edited by Li
Tana and Anthony Reid, Institute of Southeast Asian Studies, Singapore,
1993.
229. White Leslie A. (1949), The science of culture: a study of man and
civilization, N.Y.

184
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ DUY NGHĨA

PHỤ LỤC LUẬN ÁN

TÍN NGƢỠNG CỦA NGƢỜI HOA Ở THÀNH PHỐ


HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC

HÀ NỘI - 2022
PHỤ LỤC 1:
DANH SÁCH NHỮNG CÁ NHÂN THAM GIA PHỎNG VẤN

PHỤ LỤC 2:
MẪU PHIẾU KHẢO SÁT TÍN NGƢỠNG CỦA NGƢỜI HOA
TẠI THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM

PHỤ LỤC 3:
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ TÍN NGƢỠNG CỦA NGƢỜI HOA
TẠI THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM

PHỤ LỤC 4:
MỘT SỐ BÀI VĂN TẾ TRONG THỰC HÀNH TÍN NGƢỠNG CỦA
NGƢỜI HOA TẠI THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM

Pl.1
PHỤ LỤC 1:

DANH SÁCH NHỮNG CÁ NHÂN THAM GIA PHỎNG VẤN

(danh sách gồm 32 ngƣời)

I. Danh sách các cá nhân ngƣời Việt trên địa bàn thành phố Hội An:
1. Chủ tịch mặt trận phƣờng Minh An, anh Cảnh - điện thoại:
0905188136. Tìm hiểu về các Số liệu: Thống kê đến tháng 10 năm 2018 có
374 hộ trong đó có 1477 khẩu, chiếm 1,46% dân số. Tổng dân số hơn 95
triệu. Ngƣời Hoa sống chủ yếu ở phƣờng Minh An, …
2. Ông Tạ Tuấn Vũ - Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hội
An. Điện thoại: 0932.522.950. Thu thập thông tin về chính sách đại đoàn kết
toàn dân trên địa bàn thành phố, những chủ trƣơng và phong trào chính (đặc
biệt chú ý đến chính sách với cộng đồng ngƣời Hoa).
3. Ông Trần Tấn Dũng – Chủ tịch UBMT Tổ quốc thành phố Hội An.
Điện thoại: 0989.639724. Thu thập thông tin, các văn bản Nghị quyết về
chính sách đại đoàn kết toàn dân trên địa bàn thành phố, những thay đổi theo
quá trình lịch sử.
4. Anh Dũng - Chủ tịch Thành phố Hội An. Điện thoại: 0913457477.
Tìm hiểu những thông tin về các dấu mốc của Hội An (định hƣớng bảo tồn
Hội An với vai trò là di sản thế giới, xu hƣớng phát triển ngành du lịch…).
5. Anh Hƣng - Phó phòng Văn hóa Thông tin, thành phố Hội An. Điện
thoại: 0989.639.724. Thu thập các thông tin liên quan đến tiềm năng du lịch
gắn với quá trình đô thị hóa tại Hội An.
II. Danh sách các cá nhân ngƣời Hoa trên địa bàn thành phố Hội An:
1. Ông Trần Liên Nghị 57 tuổi, trú tại số 42 Nguyễn Thái Học -
Phƣờng Minh An. Làm nghề buôn đồ da, sinh hoạt tại hội quán Triều Châu.
Phỏng vấn về việc duy trì sinh hoạt tín ngƣỡng tại Hội quán. Điện thoại:
0779501939.

Pl.2
2. Phan Bửu Linh – 48 tuổi trú tại 48 Trần Phú – Phƣờng Minh An,
buôn bán quần áo, thờ Quan Công, thờ Thần Tài, thờ Phật (cung cấp một số
thông tin về việc có ảnh hƣởng của văn hóa Việt Nam tại Hội An nên hiện
nay có thờ thêm Phật. Thờ Phật thì có tụng kinh khi có ngƣời mất…). Điện
thoại: 0905192861.
3. Đặng Kế Cƣờng: sinh năm 1975 trú tại số 43 Trần Phú - Phƣờng
Minh An, kinh doanh phòng tranh. Khảo sát về sự tiếp biến văn hóa (qua việc
thờ ông bà Quan Thánh Đế Quân, thờ thần tài, mắt cửa, ngũ tự gia đƣờng,
thờ Phật…). Điện thoại: 0914.041.742.
4. Đặng Tử Chấn - 77 tuổi - trú tại 43 Trần Phú - Phƣờng Minh An,
tham gia hội quán Quảng Triệu. Khảo sát về sự tiếp biến văn hóa thờ (thánh
Đế quân, thờ ông bà tổ tiên, thờ Táo Quân). Điện thoại: 0922.297.989.
5. Hứa Nhuần Thành: 60 tuổi - 86 Trần Phú - Phƣờng Minh An, kinh
doanh buôn bán. Cung cấp các thông tin về nghi thức thờ cúng: Thờ phật,
Quan công, ông bà tổ tiên, thờ Táo Quân. Tham gia tế lễ tại hội quán Triều
Châu. Điện thoại: 0905.288.242.
6. Sử Chấn Quân - 80 tuổi, trú 83 Trần Phú. Khảo sát về sự biến đổi tín
ngƣỡng tại hội quán Hải Nam. Điện thoại: 0126.367.8837.
7. Nguyễn Bình - 1976 trú tại 125 Trần Phú - phƣờng Minh An: Tổ
trƣởng tổ 14 phƣờng Minh An. Phỏng vấn về các nghi thức thờ Phật, thờ
Thần tài Thổ địa, thờ Táo Quân, thờ ông bà tổ tiên. Tại phƣờng Minh An,
hiện nay kinh tế phát triển, giá bất động sản tăng cao, nên có một bộ phận
ngƣời Hoa bán nhà đi nơi khác, hoặc cho thuê. Vì vậy văn hóa tín ngƣỡng ở
một số hộ dân không đƣợc duy trì. Điện thoại: 0906406481.
8. Lê Phú Quang - sinh năm 1962, số 61 Trần Phú – Minh An. Thuộc
thế hệ thứ tƣ thờ Quan Thánh, ông bà tổ tiên, thờ Thần tài, thờ Táo Quân, thờ
Mắt cửa. Cung cấp thông tin hiện tại dòng họ ông vẫn duy trì hầu hết tín
ngƣỡng truyền thống. Điện thoại: 0935.193.611.

Pl.3
9. Ông Tăng Xuyên, Lý Minh An, Trang Thanh Liêm, Trƣơng Duy
Tuấn, Lƣu Đình Phát, Lý Duy Hải, Huỳnh Quang Thuyền (thuộc hội quán
Hải Nam): Phỏng vấn về thực hành tín ngƣỡng tại Hội quán.
10. Bảo tàng: Phỏng vấn anh Tiến (Điện thoại: 0935.319.449) về việc
duy trì thờ cúng tổ tiên, Quan Công.
11. Chùa Ông: Điện thoại: 0128.237.8165 anh Phƣớc. Phỏng vấn về
thực hành tín ngƣỡng tại Chùa Ông.
12. Trƣởng ban trị sự Hội quán Quảng Đông: Điện thoại: 0935.193.611.
Phỏng vấn về thực hành tín ngƣỡng tại Hội quán.
13. Nguyễn Chí Trung - Giám đốc trung tâm quản lí bảo tồn di sản văn
hóa Hội An. Phỏng vấn về việc bảo tồn di sản văn hóa tại Hội An giai đoạn
hiện nay.
14. Tăng Xuyên - Trƣởng ban trị sự của Minh Hƣơng Tụy Tiên Đƣờng.
Phỏng vấn về việc thờ cúng các bậc Tiền hiền khai lập làng Minh Hƣơng, vai
trò với sự phát triển của Hội An.
15. Trƣơng Duy Tuấn - ủy viên Ban trị sự của Minh Hƣơng Tụy Tiên
Đƣờng. Cung cấp thông tin sâu về vai trò của Minh Hƣơng Tụy Tiên Đƣờng
với sự phát triển của Hội An.
16. Sƣ Chấn Quên - Trƣởng ban trị sự Hội quán Hải Nam. Phỏng vấn về
thực hành tín ngƣỡng tại Hội quán.
17. Thế Tế Thông - Trƣởng ban trị sự Hội quán Phƣớc Kiến. Phỏng vấn
về thực hành tín ngƣỡng tại Hội quán. Điện thoại: 0235.3861.252.
18. Trần Thế Quý - Phó ban trị sự Hội quán Phƣớc Kiến. Phỏng vấn về
thực hành tín ngƣỡng tại Hội quán. Điện thoại: 0905.385.287.
19. Trần Tế Thông - Phó ban trị sự Hội quán Phƣớc Kiến. Phỏng vấn về
thực hành tín ngƣỡng tại Hội quán.
20. Hứa Quảng - Trƣởng ban trị sự Hội quán Triều Châu. Phỏng vấn về
thực hành tín ngƣỡng tại Hội quán.

Pl.4
21. Trần Anh Phú - ủy viên ban trị sự Hội Quán Quảng Đông. Phỏng
vấn về thực hành tín ngƣỡng tại Hội quán.
22. Trƣơng Minh Phƣớc - thành viên ban trị sự chùa Ông. Phỏng vấn về
lƣợng du khách đến tham quan tại Chùa Ông.
23. Trang Thanh Liêm - ngƣời dân làng Minh Hƣơng phƣờng Minh An
thành phố Hội An. Phỏng vấn về thực hành tín ngƣỡng trong gia đình.
24. Lƣu Đình Phát - ngƣời dân làng Minh Hƣơng phƣờng Minh An
thành phố Hội An. Phỏng vấn về thực hành tín ngƣỡng trong gia đình.
25. Huỳnh Quang Thuyền - ngƣời dân làng Minh Hƣơng phƣờng Minh
An thành phố Hội An. Phỏng vấn về biến đổi tín ngƣỡng trong gia đình.
26. Vƣơng Tây Thành - ngƣời Hoa hiện đang công tác tại trƣờng đại
học Phan Châu Trinh. Khảo sát về biến đổi mục đích tín ngƣỡng (tại gia
đình) của cá nhân ngƣời đƣợc phỏng vấn và một số sinh viên ngƣời Hoa.
27. Lê Huyển - thủ từ Chùa Ông thuộc làng Minh Hƣơng phƣờng Minh
An thành phố Hội An. Phỏng vấn về thực hành tín ngƣỡng tại Chùa Ông.

Pl.5
PHỤ LỤC 2

PHIẾU KHẢO SÁT TÍN NGƢỠNG CỦA CỘNG ĐỒNG CƢ DÂN


NGƢỜI HOA TẠI PHƢỜNG MINH AN THÀNH PHỐ HỘI AN

Họ tên: Nghề nghiệp:


Tuổi: Nơi ở:
Giới tính:
Để giúp chúng tôi có những thông tin, ý kiến và cái nhìn tổng quan
phục vụ cho việc thực hiện tốt đề tài luận án Tín ngưỡng của người Hoa ở
thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam hiện nay. Anh (chị) vui lòng đánh dấu
(x) vào ô vuông () ở những câu trả lời mà anh (chị) cho là phù hợp nhất với
những câu hỏi dƣới đây.
 Câu hỏi về tín ngƣỡng cộng đồng và tín ngƣỡng gia đình
1. Ông (bà) theo tín ngƣỡng cộng đồng nào dƣới đây?
Tín ngƣỡng thờ Tiền hiền, Hậu hiền
Tín ngƣỡng thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu
Tín ngƣỡng thờ Môn Thần
Tín ngƣỡng thờ Quan Thánh Đế Quân (Quan Công)
Tín ngƣỡng thờ Bắc Đế Trấn Võ (Huyền Thiên Đại Đế)
2. Theo ông (bà), tín ngƣỡng của cộng đồng cƣ dân ngƣời Hoa tại Hội
Anmang ý nghĩa gì?
Cầu cho mƣa thuận gió hòa, cuộc sống dân làng đƣợc no đủ
Tƣởng nhớ những vị tiền hiền đã có công khai hoang lập làng
Cố kết cộng đồng
Tổ chức cho vui
Ý kiến khác:………………………… ………………………

3. Những dịp ông (bà) thƣờng đến viếng thăm cơ sở thờ tự?

Pl.6
Ngày kỵ
Ngày rằm
Ngày lễ, tết
Khi có việc
4. Lễ vật dâng cúng của ông (bà) khi đến đây là gì?
Tiền
Hoa quả
Heo, bò
Xôi, chè
Không có
Lễ vật khác:…………………………………………………
5. Gia đình ông (bà) theo tín ngƣỡng nào dƣới đây?
Tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên
Tín ngƣỡng thờ Ngũ Tự Gia Đƣờng
Tín ngƣỡng thờ Thần Tài, Thổ Địa
Tín ngƣỡng thờ Táo Quân
Tín ngƣỡng khác:………… ……………………………………

Pl.7
KẾT QUẢ PHÂN TÍCH PHIẾU KHẢO SÁT TÍN NGƢỠNG CỦA
CỘNG ĐỒNG CƢ DÂN NGƢỜI HOA TẠI PHƢỜNG MINH AN
THÀNH PHỐ HỘI AN.
 Câu hỏi về tín ngƣỡng cộng đồng và tín ngƣỡng gia đình
1. Ông (bà) theo tín ngƣỡng cộng đồng nào dƣới đây?
Tín ngƣỡng thờ Tiền hiền, Hậu hiền 100%
Tín ngƣỡng thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu 85%
Tín ngƣỡng thờ mô thần 90%
Tín ngƣỡng thờ Quan Thánh Đế Quân (Quan Công) 50%
Tín ngƣỡng Thờ Bắc Đế Trấn Võ (Huyền Thiên Đại Đế ) 40%
2. Theo ông (bà), tín ngƣỡng của cộng đồng cƣ dân ngƣời Hoa tại
Hội An mang ý nghĩa gì?
Cầu cho mƣa thuận gió hòa, cuộc sống dân làng
100%
đƣợc no đủ
Tƣởng nhớ những vị tiền hiền đã có công khai
100%
hoang lập làng
Cố kết cộng đồng 90%
Tổ chức cho vui 10%
Ý kiến khác 0%
3. Những dịp ông (bà) thƣờng đến nơi này là gì?
Ngày kỵ 33,33%
Ngày rằm 10%
Ngày lễ, tết 50%
Khi có việc 6,67%
4. Lễ vật dâng cúng của ông (bà) khi đến đây là gì?
Tiền 33,33%
Hoa quả 83,33%
Heo, bò 3,33%

Pl.8
Xôi, chè 50%
Không có 0%
Lễ vật khác 6,67%

5. Gia đình ông (bà) theo tín ngƣỡng nào dƣới đây?
Tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên 100%
Tín ngƣỡng thờ Ngũ Tự Gia 100%
Đƣờng
Tín ngƣỡng thờ Thần Tài, Thổ Địa 50%
Tín ngƣỡng thờ Táo Quân 100%
Tín ngƣỡng khác 10%

Pl.9
PHỤ LỤC 3
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ TÍN NGƢỠNG CỦA CỘNG ĐỒNG CƢ DÂN
NGƢỜI HOA TẠI THÀNH PHỐ HỘI AN

Đây là nơi tập hợp những hình về tín ngƣỡng của cộng đồng cƣ dân
ngƣời Hoa tại thành phố Hội An. Nhằm minh chứng trực quan sinh động để
làm tăng tính thuyết phục cho đề tài, Phụ lục 3 đƣợc sắp xếp theo trình tự nội
dung xuyên suốt đề tài nghiên cứu, bao gồm hình ảnh về hội quán Trung
Hoa, Phúc kiến, Triều Châu, Quỳnh Phủ, Quãng Triệu, tín ngƣỡng, lễ hội,
phong tục, tín ngƣỡng thờ Tiền hiền, Hậu hiền, thờ môn thần, Quan Công,
thờ Huyền Thiên Đại Đế, thờ Âm linh, âm hồn, thờ bà Mụ, thờ thần Phục Ba,
thờ tổ tiên, thờ ngũ tự gia đƣờng, thờ Thần tài, Thổ địa, thờ Táo quân, bảo
tàng Văn hóa lịch sử, chùa Ông hiện nay.
1. Hình ảnh chi tiết đô thị cổ Hội An

Sơ đồ các điểm tham quan đô thị cổ Hội An (nguồn: Internet)

Pl.10
2. Một số hình ảnh về hội quán Trung Hoa (Dƣơng Thƣơng Hội
quán, Hội Quán Ngũ Bang, Chùa Bà, Chùa Ngũ Bang, trƣờng Lễ
Nghĩa số 64 đƣờng Trần Phú).

Ảnh 2.1. Cổng Hội quán Trung Hoa (nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2020)

Ảnh 2.2. Lối kiến trúc lộ thiên (sân ở giữa gian nhà) bên trong Hội
quán Trung Hoa (nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2020)

Pl.11
3. Hình ảnh Hội quán Phƣớc Kiến (chùa Kim Sơn, chùa Phúc Kiến
số 46 đƣờng Trần Phú)

Ảnh 3.1. Cổng Hội quán Phƣớc Kiến (nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2020)

Ảnh 3.2. Tiền sảnh Hội quán Phƣớc Kiến (nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2020)

Pl.12
Ảnh 3.3. Lối kiến trúc lộ thiên (sân ở giữa tiền sảnh và chánh điện) tại
Hội quán Phƣớc Kiến (nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2020)

Ảnh 3.4. Chánh điện Hội quán Phƣớc Kiến (nguồn: Tác giả chụp
tháng 10/2020)

Pl.13
4. Hội quán Triều Châu (chùa Triều Châu, chùa Âm Bổn, chùa Ông
Bổn số 157 đƣờng Nguyễn Duy Hiệu)

Ảnh 4.1. Cổng Hội quán Triều Châu (nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2020)

Ảnh 4.2. Chính điện Hội Quán Triều Châu


(nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2020)

Pl.14
Ảnh 4.3. Bảng thông báo các ngày lễ cúng trong năm
(nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2020)

Ảnh 4.4. Ban trị sự Hội quán Triều Châu


(nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2020)

Pl.15
5. Hội quán Quỳnh Phủ (còn gọi là hội quán Hải Nam, chùa Hải
Nam, chùa Giải Oan số 10 đƣờng Trần Phú)

Ảnh 5.1. Cảnh quan bên ngoài hội quán Hải Nam
(nguồn: Tác giả chụp tháng 4/2021)

Ảnh 5.2. Tiền sảnh hội quán Hải Nam


(nguồn: Tác giả chụp tháng 4/2021)

Pl.16
Ảnh 5.3. Chánh điện hội quán Hải Nam
(nguồn: Tác giả chụp tháng 4/2021)

Ảnh 5.4. Bên trong chính điện thờ 108 vị anh Linh
(nguồn: Tác giả chụp tháng 4/2021)

Pl.17
6. Hội quán Quảng Triệu (hội quán Quảng Đông - số 176 đƣờng
Trần Phú)

Ảnh 6.1. Cảnh quan bên ngoài hội quán Quảng Triệu
(nguồn: Tác giả chụp tháng 4/2021)

Ảnh 6.2. Toàn cảnh tiền sảnh hội quán Quảng Triệu
(nguồn: Tác giả chụp tháng 4/2021)

Pl.18
Ảnh 6.3. Giếng trời (sân ở giữa gian nhà) và chánh điện Hội quán
Quảng Triệu (nguồn: Tác giả chụp tháng 4/2021)

Ảnh 6.4. Bảng giới thiệu sơ lƣợc về hội quán Quảng Triệu
(nguồn: Tác giả chụp tháng 4/2021)

Pl.19
7. Hoạt động tín ngƣỡng của cộng đồng cƣ dân ngƣời Hoa tại thành
phố Hội An, tỉnh Quảng Nam

Ảnh 7.1. Chùa phật, Pháp Bảo - số 673 đƣờng Hai Bà Trƣng
(nguồn: Tác giả chụp tháng 4/2021)

Ảnh 7.2. Chùa Quan Âm tại bảo tàng văn hóa lịch sử thành phố Hội
An số 24 đƣờng Trần Phú (nguồn: Tác giả chụp tháng 4/2021)

Pl.20
Ảnh 7.3. Bộ văn hóa thông tin và thể thao cấp bằng Di tích Lịch sử - Văn
hóa quốc gia cho Chùa Quan Âm vào ngày 29/11/1991 (nguồn: Tác giả
chụp tháng 10/2020)

Ảnh 7.4. Nhà thờ tộc Trần nơi thờ tự tổ tiên - số 21 đƣờng Lê Lợi
(nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2020)

Pl.21
Ảnh 7.5. Bảng giới thiệu sơ lƣợc về nhà thờ tộc Trần
(nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2020)

Ảnh 7.6. Uỷ ban nhân dân thành phố Hội An khen tặng nhà thờ tộc
Trần trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Hội An
(nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2020)

Pl.22
Ảnh 7.7. Nhà thờ cổ tộc Nguyễn Tƣờng - số 8/2 đƣờng Nguyễn Thị Minh
Khai (nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2020)

Ảnh 7.8. Di tích kiến trúc nghệ thuật đƣợc xếp hạng di tích cấp tỉnh,
thành phố (nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2020)

Pl.23
Ảnh 7.9. Tủ sách của nhà văn Nhất Linh tại nhà thờ tộc Nguyễn Tƣờng -
nơi trƣng bày những cuốn sách thuộc vào hàng “hiếm” nhƣ tiểu thuyết
Đoạn Tuyệt (nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2020)

Ảnh 7.10. Tủ sách quý của bốn nhà văn Hoàng Đạo, Khái Hƣng, Thế Lữ,
Xuân Diệu tại nhà thờ tộc Nguyễn Tƣờng (nguồn: Tác giả chụp tháng
10/2020)

Pl.24
8. Hoạt động lễ hội của cộng đồng cƣ dân ngƣời Hoa tại thành phố Hội An

Ảnh 8.1. Lễ vu lan báo hiếu (nguồn: Tác giả chụp tháng 8/2018)

Ảnh 8.2. Lễ Nguyên Tiêu (nguồn: Tác giả chụp tháng 2/2017)

Pl.25
Ảnh 8.3. Lễ hội hoa đăng (nguồn: Tác giả chụp tháng 7/2019)

Ảnh 8.4. Hội thi đèn lồng (nguồn: Tác giả chụp tháng 8/2017)

Pl.26
Ảnh 8.5. Lễ vía Lục Tánh Vƣơng Gia ở hội quán Phƣớc Kiến (nguồn: Tác
giả chụp tháng 4/2018)

Ảnh 8.6. Lễ vía Thiên Hậu Thánh Mẫu tại hội quán Phƣớc Kiến (nguồn:
Tác giả chụp tháng 4/2017)

Pl.27
Ảnh 8.7. Lễ hội vía Quan Công tại chùa Ông (nguồn: Tác giả chụp tháng
2/2017)

Ảnh 8.8. Hội thi hô bài chòi (nguồn: Tác giả chụp tháng 5/2018)
Pl.28
9. Một số hình ảnh về tục dán Môn thần, câu đối, liễn

Ảnh 9.1. Dán Môn Thần, câu đối trƣớc cửa nhà (Nguồn: Tác giả chụp tháng
4/2020)

Ảnh 9.2. Treo câu đối trƣớc cửa nhà (nguồn: Tác giả chụp tháng
4/2017)

Pl.29
Ảnh 9.3. Treo liễn trƣớc bàn thờ tổ tiên
(nguồn: Tác giả chụp tháng 4/2017)

Ảnh 9.4. Hoành phi - câu đối đƣợc sơn son thiếp vàng ở hội quán Phƣớc
Kiến (nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2016)

Pl.30
10. Thờ tiền hiền, hậu hiền

Ảnh 10.1. Nhà thờ tiền hiền, hậu hiền Minh Hƣơng Tụy Tiên Đƣờng - số 14
đƣờng Trần Phú (nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2016)

Ảnh 10.2. Bài vị thờ tiền hiền, hậu hiền ở hội quán Hải Nam - số 10
Trần Phú (nguồn: Tác giả chụp tháng 5/2017)

Pl.31
11. Thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu

Ảnh 11.1. Bàn thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu tại hội quán Phúc Kiến
(nguồn: Tác giả chụp tháng 5/2017)

Ảnh 11.2. Bàn thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu tại hội quán Ngũ Bang (nguồn:
Tác giả chụp tháng 5/2017)

Pl.32
12. Thờ Môn Thần

Ảnh 12.1. Thần cửa Tần Thúc Bảo trên cửa ra vào hội quán Triều Châu
(nguồn: Tác giả chụp tháng 8/2017)

Ảnh 12.2. Thần cửa Uất Trì Kính Đức trên cửa ra vào hội quán Quảng
Triệu (nguồn: Tác giả chụp tháng 8/2017)

Pl.33
Ảnh 12.3. Mắt cửa đƣợc trƣng bày tại bảo tàng văn hóa lịch sử thành phố
Hội An (nguồn: Tác giả chụp tháng 8/2017)

Ảnh 12.4. Mắt cửa hình mặt trời (nguồn: Tác giả chụp tháng 8/2017)

Pl.34
Ảnh 12.5. Mắt cửa hình bát quái (nguồn: Tác giả chụp tháng 8/2017)

Ảnh 12.6. Mắt cửa hình bông cúc (nguồn: Tác giả chụp tháng 8/2017)

Pl.35
13. Tín ngƣỡng thờ Quan Thánh Đế Quân

Ảnh 13.1. Chùa ông Hội An (còn gọi là Quan Công Miếu) thờ Quan Vũ -
Số 24 đƣờng Trần Phú (nguồn: Tác giả chụp tháng 5/2017)

Ảnh 13.2. Bàn thờ Quan Công tại Chùa Ông (giữa Quan Công, bên phải
Quan Bình, bên trái Châu Thƣơng, hai nô tì của Quan Công) (nguồn: Tác
giả chụp tháng 5/2017)

Pl.36
Ảnh 13.3. Bộ Văn hóa thông tin và thể thao cấp bằng Di tích Lịch sử - Văn hóa
quốc gia cho Chùa Ông vào ngày 29/11/1991 (nguồn: Tác giả chụp tháng
5/2017)

Ảnh 13.4. Chánh điện hội quán Quảng Đông nơi thờ Quan Công (nguồn:
Tác giả chụp tháng 10/2016)

Pl.37
14.Tín ngƣỡng thờ Bắc Đế Trấn Võ (Huyền Thiên Đại Đế)

Ảnh 14.1. Bàn thờ Bắc Đế Trấn Võ tại chùa Cầu


(nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2016)

Ảnh 14.2. Bộ Văn hóa công nhận chùa Cầu là Di tích Lịch sử - Văn hóa
quốc gia vào ngày 17/02/1990 (nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2016)

Pl.38
Ảnh 14.3. Chùa Cầu nơi thờ vị thần Bắc Đế Trấn Võ (nguồn: Tác giả chụp
tháng 10/2016)

Ảnh 14.4. Bảng giới thiệu sơ lƣợc về chùa Cầu (nguồn: Tác giả chụp tháng
10/2016)

Pl.39
15. Hình ảnh về tín ngƣỡng thờ âm linh, âm hồn

Ảnh 15.1. Miếu âm hồn - số 76/9 đƣờng Trần Phú (nguồn: Tác giả
chụp tháng 8/2017)

Ảnh 15.2. Bàn thờ Quan Công tại miếu âm hồn (nguồn: Tác giả chụp
tháng 8/2017)

Pl.40
Ảnh 15.3. Bàn thờ những linh hồn không nơi nƣơng tựa (nguồn: Tác giả
chụp tháng 8/2017)

Ảnh 15.4. Bàn thờ những ngƣời có công xây dựng miếu âm hồn (nguồn:
Tác giả chụp tháng 8/2017)

Pl.41
Ảnh 15.5. Bài vị những những linh hồn không nơi nƣơng tựa (nguồn: Tác
giả chụp tháng 8/2017)

Ảnh 15.6. Miếu âm hồn đang bị dân lấn chiếm làm nhà hai bên (nguồn: Tác
giả chụp tháng 8/2017)

Pl.42
16.Tín ngƣỡng thờ Bà Mụ (chùa Bà Mụ)

Ảnh 16.1. UBND TP. Hội An triển khai tu bổ khu tam quan chùa Bà Mụ với
tổng kinh phí hơn 11 tỷ đồng (nguồn: Tác giả chụp tháng 5/2015)

Ảnh 16.2. Bài vị Kim Hoa Nƣơng Nƣơng (3 bà Chúa sanh thai và 12
bà Mụ) đƣợc thờ tại Tụy Tiên Đƣờng Minh Hƣơng (nguồn: Tác giả
chụp tháng 10/2016)

Pl.43
17. Tín ngƣỡng thờ thần Phục Ba

Ảnh 17.1. Thần Phục Ba đƣợc thờ tại chánh điện hội quán Triều Châu
(nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2016)

Ảnh 17.2. Tiền sảnh hội quán Triều Châu


(nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2016)

Pl.44
18. Hình ảnh về tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên

Ảnh 18.1. Bàn thờ tổ tiên của Tộc Trần - số 21 đƣờng Lê Lợi
(nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2016)

Ảnh 18.2. Di ảnh những ngƣời đã mất đƣợc treo theo thứ tự từ lớn đến nhỏ
trên bàn thờ của Tộc Trần - số 21 đƣờng Lê Lợi
(nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2016)

Pl.45
Ảnh 18.3. Bàn thờ ông bà tổ tiên của một nhà dân trên đƣờng Trần Phú (xin
giấu tên) (nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2016)

Ảnh 18.4. Bàn thờ tổ tiên nhà cổ Quân Thắng - số 77 Trần Phú
(nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2016)

Pl.46
19. Hình ảnh về tín ngƣỡng thờ Ngũ Tự Gia Đƣờng

Ảnh 19.1. Khám thờ Ngũ Tự Gia Đƣờng tại nhà cổ Quân Thắng - số 77 Trần
Phú (nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2016)

Ảnh 19.2. Khám thờ Thiên (trời) tại nhà số nhà 77 đƣờng Trần Phú
(nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2016)

Pl.47
20. Tín ngƣỡng thờ Thần Tài, Thổ Địa

Ảnh 20.1. Khám thờ Thần Tài, Thổ Địa (nguồn: Tác giả chụp tháng 4/2017)

Ảnh 20.2. Khám thờ Thần Tài, Thổ Địa tại số nhà 77 đƣờng Trần Phú
(nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2016)

Pl.48
21.Tín ngƣỡng thờ Táo Quân

Ảnh 21.1. Khám thờ ông Táo (nguồn: Tác giả chụp tháng 4/2017)

Ảnh 21.2. Khám ông Táo tại số nhà 77 đƣờng Trần Phú
(nguồn: Tác giả chụp tháng 10/2016)

Pl.49
22. Hình ảnh bảo tàng văn hóa lịch sử thành phố Hội An

Ảnh 22.1. Bảng giới thiệu về bảo tàng văn hóa lịch sử thành phố Hội An
(nguồn: Tác giả chụp tháng 4/2017)

Ảnh 22.2. Không gian bên trong bảo tàng văn hóa lịch sử thành phố Hội An
(nguồn: Tác giả chụp tháng 4/2017)

Pl.50
PHỤ LỤC 4
MỘT SỐ BÀI VĂN TẾ TRONG THỰC HÀNH TÍN NGƢỠNG CỦA
NGƢỜI HOA TẠI THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM

1. Văn tế Tiền hiền, Hậu hiền


Duy
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Tuế thứ Đinh Hợi niên, nhị nguyệt, thập lục nhật
Dƣơng lịch: Nhị linh thập cửu niên (2019)
Quảng Nam tỉnh, Hội An thành phố, Minh An phƣờng
Lễ lệ Xuân tế thƣờng niên, hiến cúng Tiền hiền
- Chánh bái: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
- Đông phân hiến: . . . . . . . . . . . . . . . .
- Tây phân hiến: . . . . . . . . . . . . . . . . .
hiệp nhân dân, nam phụ lão ấu Minh An cựu xã kính bái.
Cẩn dụng
Kim ngân, hƣơng đăng, minh y, trầm trà, hoa quả, thanh chƣớc, trƣ nhục, hào
soạn thứ phẩm chi nghi.
Cung thỉnh
- Lịch đợi Tiền hiền khai cơ tôn thần.
- Lịch đợi Hậu hiền khai canh tôn thần.
- Chƣ tộc tiền hiền liệt vị tôn linh
- Chƣ tộc hậu hiền liệt vị tôn linh
- Tiền Bối khai khẩn liệt vị tôn linh.
- Hậu Vãng khai cơ liệt vị tôn linh
- Tiền Chủ địa phận liệt vị tôn linh.
- Hậu Chủ địa giới liệt vị tôn linh.
- Chƣ Tộc phái hữu công liệt vị tôn linh.
- Hƣơng chức hữu công liệt vị tôn linh.

Pl.51
- Hƣơng dân hữu công liệt vị tôn linh.
- Vong linh trí tự tại Minh An hƣơng hiền liệt vị hƣơng linh
Phối thỉnh
- Cựu dân tha hƣơng vô tự liệt vị vong linh, đồng lai phối hƣởng
Kính cáo tôn linh Tiền hiền
1/ - Uy linh cổ phố
- Hiển hách cựu hƣơng
2/ - Tiền hiền Minh An, công cao-kiến cơ, định thổ
- Hậu hiền Minh An, đức lớn-lập ấp, khai cƣơng
3/ - Thênh thang điền thổ, Minh An, Trƣờng Lệ, Hòa Yên, Lâm
Sa trống giục định canh, quy dân tám hƣớng
- Rạng rỡ cơ đồ, Cẩm Nam, Chƣơng Phô, Trung Gian thƣợng hạ,
Chiêng vang lập nghiệp, mở đất bốn phƣơng
4/ - Hội An lúa chín xanh đồng, tiền hiền xây nền nông nghiệp
- Hoài Giang thuyền chen bến đậu, hậu hiền mở lối kinh thƣơng
5/ - Tụ địa linh, hƣơng hiền dƣơng cao chính khí
- Dƣỡng nhân kiệt, Minh An uy chấn cang thƣờng
6/ - Thuận thiên thời, hiếu hòa tộc phái
- Hợp địa lợi, đoàn kết phố phƣờng Hậu thế hôm nay:
7/ - Xuân kỳ Đinh Hợi, chiêng trống chiêu hồn hiến tế
- Thƣờng niên đáo lệ, nghinh thần lễ nhạc dâng hƣơng
8/ - Nhớ công đức xƣa, mở nền thái bình phố thị
- Tƣởng nghĩa ân trƣớc, khởi nghiệp thịnh vƣợng gia đƣờng
9/ - Ơn chiếu lòng son, Tiền hiền tôn thần, ngàn năm vĩnh tại
- Đức lƣu ngày tháng, Minh An phƣớc địa,vạn thuở cát tƣờng
10/ - Nguyện vật thịnh dân an, nhân dân hòa hiếu
- Cầu phong điều vũ thuận, chƣ tộc phú cƣờng
Kính xin thƣợng hƣởng, phục duy cẩn cáo

Pl.52
2. Văn tế Thiên Hậu Thánh Mẫu
Duy
Công nguyên nhị linh nhất cửu niên, tuế thứ Đinh Hợi, tam nguyệt nhị
thập tam nhật.
Thiên Hậu Thánh Mẫu bửu đản chi thời, Việt Nam Hội An Phúc Kiến
(Ngũ Bang), cập toàn thể đồng hƣơng đẳng cẩn cụ tiên hoa, sinh quả, thanh
tửu, bửu bạch, hƣơng lễ chi nghi trí tế vu Thiên Hậu Thánh Mẫu chi linh viết:
- Ê duy Thánh mẫu, khải hậu thừa tiền.
- Mẫu nghi xƣng hậu, thủy đức phối thiên.
- Thần linh hiển hách, đức bị vô biên.
- Thiên thu trở đậu, tứ hải hinh hƣơng.
- Đàm âm hạo đảng, huệ cập Nam biên.
- Kiều dân tao tị, hộ phƣớc vô cƣơng.
- Hải quốc ba bình, hóa vận mậu vu.
- Từ hàng hóa bị, bỉ ngạn an nhiên.
- Phƣớc Kiến (Ngũ Bang) quán vũ, kiều thành nhĩ kiên.
- Báo công sùng đức, điển lễ niên niên.
- Phục nguyện Thánh Mẫu, biến thiết tân lƣơng.
- Tiêu trừ tai nạn, phong yên tức thiên.
- Hân phùng thánh đản, khể thủ điện tiền.
- Hinh hƣơng phú trúc, bảo hựu ngô dân.
- Tiến dĩ sinh lễ, hiến dĩ tiêu hoa.
- Duy thần giám chi, lai hƣởng lai cách.
Thƣợng hƣởng.

3. Văn tế Quan Thánh Đế Quân (Quan Công)


Duy
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Quảng Nam tỉnh, Hội An thành phố, Trừng Hán cung, Quan Thánh Đế miếu

Pl.53
- Tuế thứ…. Niên lục nguyệt, nhị thập cửu nhật
- Tƣ niên, lục nguyệt nhị thập cửu nhật chính kỵ Quan Thánh đế quân
- Trạch trí chánh bái: … Hiệp toàn thể thiện nam tín nữ bổn hội
Thành tâm hiến cúng
Kim ngân, hƣơng trà, trà quả, kim ngƣ, bao bính, thanh chƣớc, minh y, phẩm
vật chi nghi
Thƣợng cung cáo vu
- Cung cáo: Quan Thánh Đế Quân, Hán Thọ Đình hầu, Phục ma đại đế, hiển
hách tôn thần
- Cung cáo: Quan Bình Thái tử Uy linh Hiển hóa
Đại thiên tôn thần
- Cung cáo: Châu Xƣơng Đại tƣớng quân Can trực, Trung dũng đại thiên tôn
thần
- Tả Xích Thố Quân hầu Thần mã tôn thần
- Hữu Bạch Mã Quân hầu Thần mã tôn thần
- Cửu Thiên Huyền Nữ HIển Hóa Đại Thiên tôn thần
- Khổng Tử Chí Thánh tôn thần
- Chủ Tiên Thánh Mẫu tiên nƣơng
- Tả Ban liệt vị - Hữu Ban liệt vị
Viết cung duy Thánh đế
1. Anh hùng quán thế
Hạo khí lăng tiêu
2. Sắc Phong: Tam giới phục ma đại đế
Thần uy viễn chấn thiên tôn
3. Đan tầm huyền nhật nguyệt
Thánh đức chiếu càn khôn
4. Hoàn đại tiết nhi đốc trung trinh, linh chiếu thiên cổ
Phù chính thống dĩ chƣơng tín nghĩa, uy chấn cửu châu
5. Minh minh hiển hách, dũng khí thiên thu vĩnh tại

Pl.54
Xử xử uy linh, trung can vạn đại trƣờng tồn
Ngƣỡng vọng Thánh đức khuông phò chi đại huệ dã.
Phục duy cẩn cáo.

4. Văn cúng âm linh/âm hồn


Việt Nam quốc, tuế thứ……. niên, chánh nguyệt, thập nhị nhật
Quảng Nam tỉnh, ....... huyện, ...... xã, ......... thôn
Lễ lệ Xuân (Thu) tế thƣờng niên, hiến cúng âm linh.
Bổn thôn trạch trí:
- Chánh bái: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
hiệp nhân dân nam, phụ, lão, ấu bổn thôn kính bái.
Cẩn dụng
Kim ngân, hƣơng đăng, trầm trà, hoa quả, phù lang,
thanh chƣớc, hào soạn thứ phẩm chi nghi.
Thƣợng thỉnh
- Đƣơng Cảnh Thổ Địa tôn thần.
- Ngũ Phƣơng Đạo Lộ tôn thần.
Đồng lai tiếp dẫn
Cung thỉnh
- Văn ban, võ bá liệt vị cô hồn.
- Sĩ, nông, công, thƣơng liệt vị cô hồn.
- Ngƣ, tiều, canh, mục liệt vị cô hồn.
- Thủy, lục, không, hành liệt vị cô hồn.
- Chiến sĩ trận vong, nạn nhân chiến tranh liệt vị cô hồn.
- Hà sa ngạ tử liệt vị cô hồn.
- Vô y, vô tự, cô mộ, thất mộ liệt vị cô hồn.
- Hữu danh vô vị, hữu vị vô danh liệt vị cô hồn.
- Ma Chàm, ma Mọi, ma Rợ đẳng chúng cô hồn.
Kính cáo Âm linh

Pl.55
1/ - Xƣơng tàn địa thổ;
- Hồn lạc u minh!
Nhớ âm linh xƣa:
2/ - Khi lên núi, đâu biết rừng sâu? Ảm đạm đầu non. Ôi! ảm
đạm;
- Lúc qua sông, nào hay sóng nổi? Linh đinh góc biển. Hỡi!
linh đinh!
3/ - Gạo muối cơ hàn, vong thân mấy đời hành khất;
- Đao binh trận mạc, cùng đƣờng một kiếp phù sinh.
4/ - Thân yểu tử bơ vơ, mả mồ hoang dã;
- Bóng cô nhi lận đận, duyên phận oan tình.
Thƣơng thay !
5/- Vãng lai hai cõi âm dƣơng, mịt mờ dấu tích;
- Ẩn hiện một vùng trời đất, dờ dật dáng hình.
6/ - Vạn thuở mây trôi, bốn phƣơng ẩn tàng thể phách;
- Trăm năm khói tỏa, ngàn dặm phiêu bạt hồn linh.
Thế thôi, thì:
7/ - Đình miếu phố xƣa, cô hồn bốn mùa thƣờng trú;
- Cảnh tình đất cũ, âm linh vạn hƣớng yên bình.
8/ - Sinh tử tƣơng đồng, cầu Âm linh độ trì phƣớc thọ;
- Âm dƣơng tƣơng ái, nguyện Cô hồn phù hộ khang ninh.
Cẩn cáo.

5. Văn cúng tổ tiên


- Việt Nam quốc.........niên,.......nguyệt,........nhật
- Quảng Nam tỉnh, . . . . . huyện, . . . . xã ........thôn
- Nhân nhật chính kị Tằng tổ (hoặc Nội tổ, thân phụ, thân mẫu), huý
danh: (xƣng tên ngƣời theo ngày giỗ). . . . . . . . . . . ., hiến cúng tiên linh.
Tằng tôn (hoặc Nội tôn, Thân tử) : . . . . . . . . . . .hiệp huynh, đệ, tỷ,

Pl.56
muội, tử, tôn, nội ngoại.
Cẩn dụng
Kim ngân, hƣơng đăng, trầm trà, hoa quả, thanh chƣớc, hào soạn thứ
phẩm chi nghi
Cung thỉnh
- Tằng tổ liệt vị tôn linh
- Nội tổ liệt vị tôn linh
- Phụ mẫu, bá, thúc, cô, liệt vị tôn linh
- Huynh, đệ, tỷ, muội, liệt vị vong linh
Phối thỉnh
- Tử tôn, hôn tế, tảo thƣơng, yểu tử, vô tự tùng tự đồng lai phối hƣởng
Kính cáo tiên linh
1/- Song thân công cúc dục
- Nội tổ đức cù lao
2/ -Giáo dƣỡng ân sâu nhƣ biển lớn
- Sinh thành nghĩa nặng tựa non cao
3/ - Cầu tiên linh ban phƣớc thiện
- Nguyện con cháu vững cơ đồ.
Cẩn cáo.

6. Văn cúng Ngũ tự gia đƣờng

Việt Nam quốc, tuế thứ… niên,... nguyệt,… nhật


Quảng Nam tỉnh, . . . huyện, . . . xã ,. . . thôn
Lễ lệ xuân tế thƣờng niên, hiến cúng Thổ Thần
Gia chủ : . . . hiệp toàn gia đình kính bái.
Cẩn dụng
Kim ngân, hƣơng đăng, trầm trà, hoa quả, thanh
chƣớc, hào soạn thứ phẩm chi nghi.

Pl.57
Cung thỉnh
- Đƣơng Cảnh Thổ Địa tôn thần.
- Ngũ Tự Gia Đƣờng tôn thần.
- Đông Trù Táo Phủ tôn thần.
- Tiền Hiền Khai Khẩn, Hậu Hiền Khai Cơ tôn thần
- Tiên Sƣ, Tổ sƣ tôn thần.
Phối thỉnh
- Cô hồn bổn xứ, đồng lai phối hƣởng
Kính cáo tôn thần
1/ - Thần tại địa giới
- Thánh hiện nhân gian
2/ - Ngũ Tự Gia Đƣờng diệu ứng
- Thổ Thần Bổn Xứ linh quang
3/ - Cầu toàn gia, phồn vinh khang thái
- Nguyện nam nữ, phƣớc thọ bình an
Cẩn cáo.

7. Văn cúng Thần Tài, Thổ Địa


Khấn vái
Nam mô A Di Đà Phật (đọc 3 lần)
Hôm nay ngày… tháng … năm…
Tín chủ tên là…
Ngụ tại…
Thành tâm sửa biện hƣơng hoa, lễ vật, kim ngân, trà quả và các
thứ cúng dâng bày ra trƣớc án.
Chúng con thành tâm kính mời
Bản gia Đông Trù Tƣ Mệnh Táo Phủ Thần Quân.
Bản gia Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần.
Bản gia Ngũ Phƣơng Ngũ Thổ Phúc Đức Chánh Thần.

Pl.58
Cúi xin các ngài thƣơng xót tín chủ, giáng lâm trƣớc án, chứng giám
lòng thành, thọ hƣởng lễ vật, phù trì tín chủ chúng con toàn gia an lạc, công
việc hanh thông. Ngƣời ngƣời đƣợc chữ bình an, tám tiết vinh quang thịnh
vƣợng, tài lộc tăng tiến, tâm đạo mở mang, sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng
tâm.
Lễ bạc tâm thành cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo.

8. Văn cúng Táo Quân


Việt Nam quốc, tuế thứ.... niên, thập nhị nguyệt, nhị thập tam nhật.
Quảng Nam tỉnh, Hội An thành phố, Minh An phƣờng,... khối phố.
Lễ lệ Táo Quân thƣờng niên, hiến cúng tôn thần.
Gia chủ:.......hiệp toàn gia nam nữ tử tôn đồng kính bái.
Cẩn dụng
Kim ngân, hƣơng đăng, trầm trà, hoa quả, thanh chƣớc, hào soạn thứ phẩm
chi nghi.
Cung thỉnh
- Đông Trù Táo Phủ tôn thần.
Phối thỉnh
- Đƣơng Cảnh Thổ Địa tôn thần.
- Ngũ Tự Gia Đƣờng tôn thần.
Kính cáo Táo thần
1/- Cung nghinh Táo Phủ
-Sùng kính Hỏa Thần
2/- Giám sát môn nhân gia chủ
- Quản thủ hỏa thực dƣơng trần
3/- Nguyện Hỏa Thần phù trợ
- Cầu Táo Phủ gia ân Cẩn cáo

Pl.59

You might also like