You are on page 1of 265

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.

HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ THẢO

VĂN HỌC VÀ PHẬT HỌC


TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TRƯỚC NĂM 1945

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ THẢO

VĂN HỌC VÀ PHẬT HỌC


TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TRƯỚC NĂM 1945

CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM


MÃ SỐ : 62.22.34.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS TS. LÊ GIANG
Phản biện độc lập:
1. GS.TS. Huỳnh Như Phương
2. PGS.TS. Hà Văn Đức
Phản biện:
1. PGS.TS. Đoàn Thị Thu Vân
2. PGS.TS. Nguyễn Công Lý
3. PGS.TS. Trần Hồng Liên

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 3 năm 2014
Tác giả luận án

Nguyễn Thị Thảo


KÝ HIỆU VÀ NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

1. TK. : Thế kỷ
2. VH&KHNV : Văn học và Khoa học Nhân văn
3. HT. : Hòa thượng
4. Nxb : Nhà xuất bản
5. TP. : Thành phố
6. tr. : Trang
7. Ví dụ [115, tr.339] : Tài liệu số 115 ở mục tài liệu tham khảo, trang 339
MỤC LỤC

DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................. 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 8
5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 8
6. Đóng góp mới của luận án .................................................................................... 9
7. Cấu trúc luận án .................................................................................................. 10

Chương 1: PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO VÀ BÁO CHÍ PHẬT
GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC 1945 ............................................. 11

1.1. Phong trào Chấn hưng Phật giáo từ cuối thập niên 1920
đến trước 1945 ............................................................................................ 11
1.1.1. Tình hình Phật giáo Việt Nam đầu thế kỷ XX .......................................... 11
1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến phong trào Chấn hưng Phật giáo ........................... 13
1.1.3. Hoạt động của phong trào Chấn hưng Phật giáo ...................................... 18
1.1.3.1. Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Nam Kỳ .................................... 18
1.1.3.2. Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Trung Kỳ ................................. 23
1.1.3.3. Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kỳ ..................................... 26
1.1.4. Những thành tựu chung của phong trào Chấn hưng Phật giáo .................. 28
1.1.5. Những nhân vật tiêu biểu trong phong trào Chấn hưng Phật giáo ............ 33
1.2. Tình hình báo chí Phật giáo Việt Nam trước 1945 ....................................... 40
1.2.1. Báo chí Phật giáo ở Nam Kỳ ..................................................................... 41
1.2.2. Báo chí Phật giáo ở Trung Kỳ ................................................................... 47
1.2.3. Báo chí Phật giáo ở Bắc Kỳ....................................................................... 50
Tiểu kết ..................................................................................................................... 54

Chương 2: PHẬT HỌC TRÊN BÁO CHÍ


PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC 1945 .................................. 56

2.1. Thế giới quan Phật giáo trên báo chí Phật giáo trước 1945 ......................... 56
2.1.1. Vấn đề Thượng đế sáng tạo muôn vật ....................................................... 58
2.1.2. Vấn đề linh hồn bất tử ............................................................................... 66
2.1.3. Vấn đề cảnh giới cực lạc và địa ngục ........................................................ 74
2.1.4. Vấn đề tồn tại của ngoại giới ..................................................................... 82
2.2. Tư tưởng đạo đức Phật giáo trên báo chí Phật giáo trước 1945 ................. 91
2.2.1. Khuyến thiện và Nhân quả - nghiệp báo ................................................... 92
2.2.2. Từ bi .......................................................................................................... 97
2.2.3. Hiếu đạo ................................................................................................... 101
2.2.4. Lợi tha ...................................................................................................... 104
2.3. Phật giáo với vấn đề dân tộc và đại chúng ................................................... 108
2.3.1. Phật giáo với dân tộc ............................................................................... 108
2.3.2. Phật giáo với đại chúng ........................................................................... 116
Tiểu kết ................................................................................................................... 123

Chương 3: VĂN HỌC TRÊN BÁO CHÍ


PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC 1945 ............................... 125
3.1. Tổng quan về văn học trên báo chí Phật giáo trước 1945 .......................... 125
3.2. Dịch kinh Phật - một loại hình dịch văn học đặc biệt ................................. 130
3.3. Giá trị nội dung của thơ văn trên báo chí Phật giáo trước 1945 ............... 148
3.3.1. Giáo dục tư tưởng đạo đức Phật giáo ...................................................... 148
3.3.2. Thể hiện tinh thần dân tộc ....................................................................... 159
3.3.3. Thể hiện tinh thần nhân đạo .................................................................... 169
3.4. Giá trị nghệ thuật của thơ văn trên báo chí Phật giáo trước 1945 ............ 175
3.4.1. Giá trị nghệ thuật của thơ ........................................................................ 175
3.4.1.1. Thể thơ ............................................................................................ 175
3.4.1.2. Ngôn ngữ thơ................................................................................... 177
3.4.2. Giá trị nghệ thuật của văn xuôi................................................................ 184
3.4.2.1. Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật ........................................ 184
3.4.2.2. Kết cấu tác phẩm............................................................................. 192
3.4.2.3. Ngôn ngữ kể chuyện và đối thoại .................................................... 197
Tiểu kết ................................................................................................................... 204
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 205

DANH MỤC BÁO CHÍ PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC 1945 .................. 208
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................ 209
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ ............................ 219
PHỤ LỤC 1: Bìa báo chí Phật giáo trước 1945 ..................................................... 220
PHỤ LỤC 2: Một số trang thơ văn trên báo chí Phật giáo trước 1945 ................. 235
PHỤ LỤC 3: Danh mục thơ trên báo chí Phật giáo trước 1945 ............................ 245
PHỤ LỤC 4: Danh mục văn xuôi trên báo chí Phật giáo trước 1945 ................... 253
DẪN NHẬP

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Có thể nói, báo chí Việt Nam kể từ khi ra đời cho tới cuối thế kỷ XIX là
phương tiện thông tin đại chúng quan trọng nhất trong xã hội Việt Nam. Đến hôm
nay, tuy đã có hàng loạt các phương tiện thông tin đại chúng khác liên tục xuất hiện,
nhưng báo chí vẫn không mất đi địa vị và giá trị quan trọng của nó trong đời sống
xã hội Việt Nam.

Theo sự phát triển của lịch sử dân tộc, bước sang những thập niên đầu của
thời kỳ hiện đại, báo chí Việt Nam đã từng tác động đến dư luận xã hội trên cả hai
lĩnh vực chính trị và văn học. Về chính trị, báo chí dĩ nhiên là sự kết nối, truyền
thông về các mặt thời sự, xã hội, nhiều tờ báo có khuynh hướng yêu nước đã góp
phần đáng kể vào công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Về văn học, báo
chí là nhân tố quan trọng giúp cho văn học Quốc ngữ ra đời, góp phần to lớn trong
việc xây dựng và phát triển nền văn học Việt Nam hiện đại. Thiếu Sơn trong bài
diễn thuyết Báo giới và văn học quốc ngữ năm 1933 tại Hội Nam Kỳ Khuyến học
Sài Gòn, đã nhận thấy mối quan hệ đặc biệt của văn học và báo chí ở Việt Nam:
“Trong những nước văn minh, văn học ra đời trước báo chí, nhưng ở Việt Nam,
chính báo chí đã tạo nên nền văn học hiện đại” [95, tr.115].

Trong tình hình đó, từ những năm đầu TK.XX, những tư tưởng muốn chấn
hưng Phật giáo thỉnh thoảng được đăng trên các báo chí Quốc ngữ, nội dung chủ
yếu là đặt vấn đề chỉnh đốn và phát triển Phật giáo Việt Nam. Từ đó, các Hội
Nghiên cứu Phật học ra đời, cùng với nó là các tạp chí, tờ báo chuyên về Phật học
như: Từ bi âm, Duy tâm Phật học, Viên âm, Đuốc tuệ, Tiếng chuông sớm v.v.. góp
phần quan trọng tạo nên phong trào Chấn hưng Phật giáo đầu TK.XX. Tuy nhiên,
có thể nói, báo chí Phật giáo lúc bấy giờ dù phổ biến còn hạn chế, không gây tiếng
vang lớn như báo chí thế tục, nhưng những vấn đề nó đặt ra rất gần gũi với văn hóa
dân tộc, với tâm linh người Việt, để từ đó có thể nuôi dưỡng một niềm tin sâu xa
cao quý trong lòng người dân Việt Nam.
2

Ngày nay, với sự phát triển không ngừng của xã hội hiện đại, những tạp chí,
tờ báo Phật giáo ấy đã ít được quan tâm và đề cập đến. Sẽ đáng tiếc, nếu tình hình
này cứ kéo dài.

Với số lượng hàng chục tờ báo, báo chí Phật giáo trước 1945 thực sự là một
hiện tượng quan trọng trong đời sống tinh thần dân tộc. Có thể qua những tờ báo
này giúp ta hiểu được lịch sử và văn học Phật giáo trong giai đoạn quan trọng: nửa
đầu TK.XX. Chọn đề tài Văn học và Phật học trên báo chí Phật giáo Việt Nam
trước năm 1945 để nghiên cứu, chúng tôi hy vọng có thể tìm về cội nguồn báo chí
Phật giáo, hiểu được văn học và tư tưởng Phật học giai đoạn này, từ đó hy vọng có
thể khơi dậy những giá trị tinh hoa của Phật giáo và dân tộc đã được tạo nên từ xưa.

2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Từ trước đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về báo chí Việt
Nam trước 1945. Trong đó có không ít công trình đề cập về sự hình thành và phát
triển của báo chí Phật giáo. Điều này đã giúp cho chúng tôi rất nhiều ý tưởng,
đường hướng để thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.

- Năm 1972, Nguyễn Văn Ẩn (Ban Báo chí học, phân khoa VH&KHNV,
Viện Đại học Vạn Hạnh) hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài Báo chí tôn
giáo tại Việt Nam. Trong chương III [2, tr.23], tác giả nhắc đến quá trình hình thành
và phát triển của báo chí Phật giáo giai đoạn 1920-1945 như Pháp âm, Phật hóa
Tân Thanh niên, Từ bi âm, Bát nhã âm, Tiến hóa, Duy tâm Phật học, Bồ đề, Viên
âm, Tam bảo, Đuốc tuệ, Tiếng chuông sớm. Tác giả cho rằng báo chí Phật giáo
những năm 1920-1945 là phương tiện chính của công cuộc canh tân đất nước và
góp phần quan trọng vào công cuộc chung này. Giai đoạn này, dù đã có những đáng
tiếc xảy ra giữa các báo, như cuộc bút chiến, thậm chí có lúc mạt sát lẫn nhau bằng
những lời quá đáng giữa Từ bi âm và Tiến hóa về các vấn đề quản lý nội bộ của Hội
Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học, nhưng người ta cũng dễ dàng thông cảm vì đó là
những khuyết điểm khó tránh khỏi của báo chí Phật giáo trong giai đoạn đầu. Ngoài
ra, tác giả còn đề cập đến những cuộc trao đổi khá sôi nổi về sự hiện hữu của Tây
phương cực lạc, giữa một bên nhận là có Tây phương cực lạc (Từ bi âm) và một bên
phủ nhận (Tiến hóa); về vấn đề canh tân Phật giáo giữa Tiến hóa và Duy tâm Phật
3

học; về giáo lý nhà Phật giữa Tiến hóa và Viên âm. Tác giả nhận định: các cuộc trao
đổi ấy cho thấy đã đến lúc phải thẳng thắn đặt ra nhiều vấn đề của Phật học âm ỉ lâu
nay. Tuy nhiên, với những vấn đề này, tác giả chỉ nêu vài ý kết luận khái quát mà
không phân tích, dẫn chứng cụ thể.

- Năm 1985, Nguyễn Lang công bố tập 3, cuốn Việt Nam Phật giáo sử luận ở
Paris. Cho đến nay, công trình gồm cả ba tập đã được Nhà xuất bản Văn học (Hà
Nội) tái bản lần thứ ba (năm 2000). Trong tập 3, khi viết về phong trào Chấn hưng
Phật giáo Việt Nam, Nguyễn Lang có đề cập đến một số tờ báo và tạp chí Phật giáo,
như: Pháp âm, Phật hóa Tân Thanh niên, Từ bi âm, Viên âm, Đuốc tuệ, Tiếng
chuông sớm, Duy tâm Phật học, Tiến hóa, Pháp âm Phật học, Tam bảo, Bát nhã âm,
Quan âm, Tinh tiến. Về báo chí Phật giáo, tác giả chỉ trình bày tổng quát quá trình
hình thành, tôn chỉ hoạt động và những đóng góp chung của các tạp chí, tờ báo Phật
giáo đối với Phật giáo và dân tộc nửa đầu TK.XX. Ngoài ra, tác giả còn nhắc đến
vài nét những cuộc tranh luận, thảo luận giữa các tạp chí lúc bấy giờ về tư tưởng
Phật học và đường hướng chấn hưng Phật giáo. Nhìn chung, theo tác giả đúc kết, sự
ra đời của báo chí Phật giáo lúc bấy giờ đã làm Phật học trở nên dễ dàng phổ biến
hơn đối với đại chúng. Ai cũng có thể đọc hiểu Phật pháp bằng chữ Quốc ngữ. Cho
nên có thể nói sự thành công của báo chí Phật giáo cũng là sự thành công của chữ
Quốc ngữ [67, tr.771-772]. Có thể nói Việt Nam Phật giáo sử luận (tập III) là công
trình nghiên cứu sâu về báo chí và Phong trào chấn hưng Phật giáo. Tuy nhiên
trong công trình này còn một số tạp chí chưa được đề cập đến (Bồ đề, Phật pháp chỉ
Niết bàn) và nhất là văn học Phật giáo hầu như chưa được quan tâm nghiên cứu.

- Công trình Triết học và tư tưởng của Giáo sư Trần Văn Giàu (Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh, 1988) đã dành một chương quan trọng cho việc nghiên cứu Phật
giáo nửa đầu TK.XX: Phong trào Chấn hưng Phật giáo và các vấn đề tư tưởng triết
học mà phong trào ấy đã nêu lên ở nước ta trong thời kỳ lịch sử giữa hai cuộc chiến
tranh thế giới [44, tr.320]. Trong chương này, tác giả đã khảo sát nhiều tờ báo, tạp
chí Phật giáo nổi tiếng như: Từ bi âm, Viên âm, Duy tâm Phật học, Đuốc tuệ…¸để
tìm hiểu tình hình Phật giáo trước 1945. Trong mục Mấy vấn đề tư tưởng cuộc vận
động Chấn hưng Phật giáo đã đề ra, Trần Văn Giàu đã chỉ ra những điểm tiến bộ
4

đặc biệt của Phật giáo đương thời thông qua cuộc thảo luận sôi nổi trên báo về
Thượng đế, linh hồn, Thiên đường, địa ngục… Có thể nói đây là công trình nghiên
cứu sớm nhất, công phu nhất của một nhà nghiên cứu mác-xít về báo chí Phật giáo
nửa đầu TK.XX. Trần Văn Giàu đã đánh giá cao tư tưởng yêu nước, khoa học của
nhiều tờ báo, tạp chí, sách vở Phật giáo giai đoạn này. Tuy nhiên công trình cũng
chưa dành sự quan tâm tới mảng văn học trên báo chí ấy.

- Báo chí Phật giáo với phong trào Chấn hưng Phật giáo (1930-1945), khóa
luận tốt nghiệp đại học ngành Lịch sử (Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1994)
của Thích Thanh Đạt đã giới thiệu khái quát một số tạp chí, tờ báo Phật giáo và
những vấn đề tư tưởng triết học Phật giáo thể hiện qua báo chí Phật giáo thời kỳ
1930-1945. Tuy nhiên, trong phạm vi một khóa luận tốt nghiệp đại học, tác giả chưa
có điều kiện sưu tập tư liệu đầy đủ, cũng như chưa phân tích sâu những đặc điểm và
giá trị nội dung, nghệ thuật của Phật học và văn học thể hiện trên báo chí Phật giáo
lúc bấy giờ.

- Công trình Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945 (Nxb. TP. Hồ Chí Minh,
2000) của Huỳnh Văn Tòng đã nêu rõ sự hình thành, phát triển và những đóng góp
của làng báo chí Việt Nam trên các lĩnh lực văn hóa, giáo dục, chính trị, kinh tế, xã
hội của Việt Nam. Trong phần Những tờ báo chuyên biệt, tác giả có đề cập đến quá
trình ra đời của tạp chí Pháp âm [116, tr.345], Viên âm [116, tr.339] và báo Đuốc
tuệ [116, tr.306], là những tạp chí, tờ báo Phật giáo đầu tiên ở Nam Kỳ, Trung Kỳ
và Bắc Kỳ giai đoạn trước 1945. Ngoài ra, phần phụ lục cuối tập sách với nhan đề
Mục lục báo chí Việt ngữ từ 1865-1945, tác giả đã liệt kê hầu như gần đủ những tạp
chí, tờ báo Phật giáo trước 1945 và ghi cả thông tin về năm xuất bản, đình bản, như:
Từ bi âm (1932-1941), Viên âm (1933-1936), Đuốc tuệ (1935-1939), Tiếng chuông
sớm (1935-1936), Duy tân (tâm) (1935-1943), Bồ đề (1936), Bát nhã âm (1936-
1943), Pháp âm Phật học (1937-1938), Tam bảo (1937-1939), Tiến hóa (1938-
1939), Phật pháp chỉ Niết bàn (1941). Đây là công trình nghiên cứu tổng quát về
báo chí, trong đó có đề cập chi tiết đến những tạp chí, tờ báo Phật giáo đã ra đời
trước 1945. Tuy nhiên, khi khảo sát trực tiếp tư liệu báo chí Phật giáo hiện có,
chúng tôi thấy trong công trình này còn có rất nhiều lầm lẫn về năm đình bản một
5

số tờ báo, tạp chí Phật giáo, như: Từ bi âm (đình bản năm 1945, không phải năm
1941), Viên âm (đình bản năm 1945, không phải năm 1936), Đuốc tuệ (đình bản
năm 1945, không phải năm 1939), Tam bảo (đình bản năm 1938, không phải năm
1939), Tiến hóa (đình bản năm 1941, không phải năm 1939). Ngoài ra, tên chủ
nhiệm một số tạp chí cũng ghi không chính xác: chủ nhiệm tạp chí Tiến hóa là Đỗ
Kiết Triệu, chứ không phải Đỗ Kiết Tuân; tạp chí Duy tâm Phật học, chủ nhiệm là
Nguyễn Văn Ân, chứ không phải là Nguyễn Văn An.

- Công trình Lịch sử báo chí Việt Nam 1865-1945 (Nxb. Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2000) do Đỗ Quang Hưng chủ biên cũng có phần đề cập đến thời điểm ra
đời của báo chí Phật giáo trước 1945. Theo các tác giả (Đỗ Quang Hưng, Dương
Trung Quốc, Nguyễn Thành), báo chí Phật giáo Việt Nam ra đời từ phong trào
Chấn hưng Phật giáo. Phần phụ lục cuối sách, các tác giả đã thống kê, giới thiệu
ngắn gọn về quá trình xuất hiện và hoạt động của một số tạp chí, tờ báo Phật giáo
Việt Nam đương thời như: Viên âm, Đuốc tuệ, Quan âm, Tinh tiến v.v..

- Công trình Báo chí ở Thành phố Hồ Chí Minh (100 câu hỏi đáp về Gia
Định - Sài Gòn TP. Hồ Chí Minh, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, năm 2007, Trương Ngọc
Tường, Nguyễn Ngọc Phan biên soạn) cho biết tạp chí Quốc ngữ Phật giáo đầu tiên
được xuất bản ở Sài Gòn là Pháp âm và trình bày khá đầy đủ về diện mạo, nội dung
của tạp chí này [121, tr.112]. Ngoài ra, công trình còn cho thấy vai trò của nhà báo
Xích Liên (sư Thiện Chiếu) đối với sự nghiệp chấn hưng và sự nghiệp báo chí Phật
giáo [121, tr.115]. Có thể nói, dù công trình này không nhấn mạnh nhiều đến báo
chí Phật giáo, nhưng các tác giả cũng đã góp phần khẳng định thêm cho chúng ta
thấy sự hiện hữu đầu tiên của báo chí Phật giáo Việt Nam giai đoạn trước 1945 và
những đóng góp của nhà báo Xích Liên đối với Phật giáo và dân tộc.

- Công trình Lược khảo Báo chí Phật giáo Việt Nam (1929-2008) của
Nguyễn Đại Đồng (Nxb. Tôn giáo, 2008) đã cho thấy rõ nét tình hình báo chí Phật
giáo Việt Nam từ khi ra đời năm 1929 (theo tác giả) cho đến năm 2008. Phần thứ
nhất, tác giả trình bày Báo chí Phật giáo từ khi ra đời đến Toàn quốc kháng chiến
(1929-1946) [34, tr.7]. Trong mục này, tác giả đã trình bày khá đầy đủ hoàn cảnh ra
đời, nhân sự lãnh đạo, các hoạt động và nội dung khái quát của báo chí Phật giáo
6

trước 1945. Tuy nhiên, chúng tôi thấy công trình vẫn còn thiếu tạp chí Phật pháp
chỉ Niết bàn. Nói chung, công trình đã cho chúng tôi cái nhìn tổng thể, hệ thống,
toàn diện về báo chí Phật giáo Việt Nam và tầm ảnh hưởng của báo chí Phật giáo
trong đời sống xã hội.

- Công trình Phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam (Tư liệu báo chí Việt
Nam từ 1927-1938) của Nguyễn Đại Đồng và Nguyễn Thị Minh (Nxb. Tôn giáo,
2008) đã trình bày rõ ràng các hoạt động cụ thể của báo chí Phật giáo trong giai
đoạn đầu TK.XX, trong đó có nhấn mạnh vai trò của báo chí đối với phong trào
Chấn hưng Phật giáo nói riêng, đối với sự duy trì và bảo vệ nền độc lập dân tộc nói
chung. Công trình đã đem đến cho chúng tôi nhiều thông tin hữu ích về báo chí Phật
giáo lúc bấy giờ.

- Bên cạnh đó, Nguyễn Đại Đồng còn có các bài: “Tạp chí Viên âm”, “Tạp
chí Đuốc tuệ” trên tạp chí Nghiên cứu Phật học (2009) và “Tạp chí Duy tâm Phật
học” trên nguyệt san Giác ngộ (2011). Cả ba bài viết đều trình bày tổng quát về
diện mạo, nội dung của các tạp chí Phật giáo này.

- Những công trình: Việt Nam: Những sự kiện lịch sử (1919-1945) của
Dương Trung Quốc (2005), Báo chí Phật giáo tại Việt Nam: Thực trạng và vấn đề
(Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường ĐH KHXH & NV, ĐHQG Hà Nội) của Lê Thị
Hồng Hạnh (2010),… đã giới thiệu khái quát về nội dung và sự ảnh hưởng của báo
chí Phật giáo trong đời sống xã hội. Luận văn Thạc sĩ trên còn cho thấy điểm nổi
bật của báo chí Phật giáo hiện nay là làm rõ các vấn đề tín ngưỡng xã hội, tạo điều
kiện cho những người đang trăn trở với đức tin có cách nhìn đúng đắn, khách quan
hơn về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng. Bộ phận báo chí này cũng phát
huy ý thức, truyền thống dân tộc, góp phần xây dựng nền kinh tế quốc gia vững
mạnh, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân và sự đoàn kết giữa các tôn giáo.

- Bên cạnh đó, những bài viết trên báo mạng như “Báo chí Phật giáo: Vấn đề
hội nhập và phát triển” của Thích Thiện Bảo (2000) đăng trên website
daophatngaynay.com và giacngo.vn đã đề cập đến vai trò của báo chí Phật giáo
trong công cuộc chấn hưng cho đến hiện nay. Khi nói về vai trò của báo chí Phật
giáo trước 1945, tác giả chỉ nhấn mạnh đến tạp chí Pháp âm, Từ bi âm, Duy tâm
7

Phật học, Viên âm và báo Đuốc tuệ. Ngoài ra, tác giả cũng đề cập vài nét đến cuộc
tranh luận giữa các tạp chí về vấn đề Thượng đế sáng tạo, vấn đề linh hồn bất tử…
Qua bài viết, tác giả nhận định rằng báo chí Phật giáo trước 1945 đã làm sáng tỏ
trắng đen, phản bác những luận điểm sai lầm của một số người chưa hiểu rõ về đạo
Phật.

Trần Kiêm Đạt (2008) với bài viết “Sơ lược lịch sử báo chí Phật giáo Việt
Nam” đăng trên website phattuvietnam.net, cũng đã trình bày khái lược diện mạo
một số tạp chí, tờ báo Phật giáo trước 1945. Trong đó, tác giả khẳng định báo chí
Phật giáo Việt Nam thực sự khai sinh và phát triển từ khi có phong trào Chấn hưng
Phật giáo vào thập niên 1930. Nội dung bài viết phản ảnh thực tế Phật giáo trong
từng giai đoạn, đồng thời cũng đề cập đến những cuộc tranh luận giữa các tạp chí,
mà tiêu biểu là Duy tâm Phật học và Tiến hóa.

Bài viết “Báo xuân Phật giáo xưa” của Nguyễn Ngọc Phan (2012) đăng trên
website khoavanhoc-ngonngu.edu.vn đã trình bày những giai phẩm xuân mà báo chí
Phật giáo giai đoạn đầu TK.XX từng thể hiện, như Duy tâm Phật học, Đuốc tuệ, Từ
bi âm, Bát nhã âm v.v.. Tác giả cho rằng báo chí Phật giáo trong sự nghiệp xiển
dương Phật pháp và chấn hưng Phật giáo luôn gắn liền với nhân sinh thời cuộc, bộc
lộ những ưu tư trăn trở trước hoàn cảnh mất nước và sự cùng khổ của đồng bào.

Những bài viết qua báo mạng trên ít nhiều cũng đã chỉ ra được vai trò và giá
trị của báo chí Phật giáo đối với phong trào Chấn hưng Phật giáo và đối với dân tộc,
đồng thời cũng đề cập đến một vài vấn đề mà báo chí đương thời tranh luận sôi nổi.
Tuy nhiên, các bài viết chỉ dừng lại ở điểm khái quát sơ lược mà chưa đi sâu phân
tích về những tác động tư tưởng nhiều mặt của báo chí.

Nhìn chung, trên thực tế dù đã từng có một số nhà nghiên cứu viết về lịch sử
báo chí Việt Nam, trong đó có đề cập đến báo chí Phật giáo, thậm chí có những nhà
nghiên cứu đề cập chuyên biệt về báo chí Phật giáo Việt Nam, nhưng các công trình,
bài viết ấy mới chỉ dừng lại ở một vài khía cạnh riêng biệt, chưa bao quát hết các
tạp chí, tờ báo Phật giáo. Chưa có công trình nào đề cập cụ thể và toàn diện về diện
mạo, giá trị và đặc điểm của báo chí Phật giáo giai đoạn trước 1945 trên các lĩnh
vực Phật học, văn học, văn hóa tư tưởng, chính trị, kinh tế, xã hội v.v..
8

ủa những người đi trước, trong luận án


này, chúng tôi hy vọng có thể nghiên cứu sâu hơn về đặc điểm, giá trị của Phật học
và văn học trên báo chí Phật giáo Việt Nam trước 1945.

3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Với đề tài Văn học và Phật học trên báo chí Phật giáo Việt Nam trước năm
1945, chúng tôi muốn giới thiệu một cách hệ thống về báo chí Phật giáo trước 1945.
Trên cơ sở đó luận án sẽ trình bày, luận giải những vấn đề Phật học và văn học trên
bộ phận báo chí ấy. Về Phật học, luận án sẽ trình bày các phương diện: thế giới
quan Phật giáo, tư tưởng đạo đức, quan hệ Phật giáo với dân tộc và đại chúng… Về
văn học, luận án trình bày những giá trị đặc điểm nội dung, nghệ thuật của văn học
Phật giáo Việt Nam trong giai đoạn này qua các thể loại thơ, văn xuôi, dịch văn học.

4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tượng chủ yếu chúng tôi chọn khảo sát là báo chí Phật giáo Việt Nam
trước 1945. Chúng tôi cố gắng khảo sát tất cả những tư liệu có thể tìm được. Hiện
nay còn 13 tạp chí và 2 tờ báo là: Tạp chí: Pháp âm (1929), Phật hóa Tân Thanh
niên (1929), Từ bi âm (1932-1945), Viên âm (1933-1945), Tiếng chuông sớm
(1935-1936), Duy tâm Phật học (1935-1943), Bồ đề (1936), Bác (Bát) nhã âm
(1936-1943), Pháp âm Phật học (1937-1938), Tam bảo (1937-1938) (Theo như
hình ảnh thì bản tiếng Hoa chỉ đề Tam bảo, nhưng bản tiếng Việt đề là Tam bảo chí,
Nguyễn Đại Đồng cũng viết là Tam bảo chí), Tiến hóa (1938-1941), Quan âm
(1938-1943), Phật pháp chỉ Niết bàn (1941) và báo: Đuốc tuệ (1935-1945), Tinh
tiến (1945).

Các tờ báo, tạp chí này hiện nay đang lưu trữ chủ yếu ở Thư viện Quốc gia
(Hà Nội), bên cạnh đó là ở một số chùa và tủ sách tư nhân.

Từ những tờ báo, tạp chí Phật giáo này, chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu đặc
điểm, giá trị của tư tưởng Phật học và văn học.

5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để thực hiện đề tài, chúng tôi tiến hành sưu tầm những tác phẩm, bài viết, tờ
báo, tạp chí và những công trình từ trước đến nay có liên quan đến mảng báo chí
9

Phật giáo Việt Nam trước 1945. Đồng thời, chúng tôi cũng sưu tầm tất cả những tạp
chí, tờ báo Phật giáo trước 1945. Đây là những tài liệu làm nền tảng cho việc nghiên
cứu một cách trung thực và chính xác.

Trong luận án này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu
sau:

5.1. Phƣơng pháp thống kê - phân loại

Dùng các phương pháp bổ trợ này nhằm mục đích thống kê, phân loại những
tài liệu có liên quan đến luận án đã sưu tầm được, từ đó góp phần tìm hiểu, thẩm
định giá trị đích thực của báo chí Phật giáo trước 1945.

5.2. Phƣơng pháp phân tích - so sánh - tổng hợp

Để đáp ứng nhu cầu của đề tài, luận án sử dụng xuyên suốt các phương pháp
chủ đạo: phân tích - so sánh - tổng hợp nhằm tìm ra những đặc điểm về nội dung tư
tưởng của các vấn đề Phật học, những giá trị nghệ thuật đặc sắc trong giáo lý nhà
Phật cùng những đặc điểm nội dung và giá trị nghệ thuật của thơ ca, văn xuôi đã thể
hiện trên báo chí Phật giáo trước 1945. Qua đó chứng minh sự đóng góp đích thực
của báo chí Phật giáo đương thời đối với Phật giáo và dân tộc. Trên cơ sở này, luận
án còn xác định sự ra đời và phát triển của báo chí Phật giáo trước 1945 đã phát huy
được gì cho nền văn hóa, văn học của dân tộc trong chặng đầu hiện đại hóa.

5.3. Phƣơng pháp lịch sử xã hội

Vận dụng thêm phương pháp này để xác định những tiền đề hình thành và
phát triển của báo chí Phật giáo trước 1945. Nghiên cứu báo chí Phật giáo trong mối
liên hệ chặt chẽ với lịch sử - xã hội đương thời.

6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN

Hoàn thành luận án Văn học và Phật học trên báo chí Phật giáo Việt Nam trước
năm 1945, chúng tôi mong muốn có những đóng góp sau:

- Giới thiệu một cách có hệ thống tình hình báo chí Phật giáo trước 1945. Xác
định lại năm ra đời, năm kết thúc, mục đích tôn chỉ, ban biên tập của từng tờ báo, tạp
chí Phật giáo.
10

- Trình bày một cách có hệ thống, tường minh về các vấn đề chủ yếu của Phật
học và văn học trên báo chí Phật giáo trước 1945.

Luận án có thể góp phần vào việc tìm lại giá trị của báo chí Phật giáo trước
1945, những đóng góp của báo chí Phật giáo đối với đời sống tinh thần của dân tộc.

7. CẤU TRÚC LUẬN ÁN

Ngoài phần Dẫn nhập, luận án gồm 3 chương:

Chƣơng 1: Phong trào Chấn hƣng Phật giáo và báo chí Phật giáo Việt
Nam trƣớc 1945: Trình bày khái quát về phong trào Chấn hưng Phật giáo và tình
hình báo chí Phật giáo Việt Nam trước 1945 (từ trang 11 đến trang 55).

Chƣơng 2: Phật học trên báo chí Phật giáo Việt Nam trƣớc 1945: Trình
bày thế giới quan Phật giáo, tư tưởng đạo đức Phật giáo, vấn đề Phật giáo đối với
dân tộc và đại chúng, nhằm rút ra những giá trị cơ bản của Phật giáo giai đoạn này
(từ trang 56 đến trang 124).

Chƣơng 3: Văn học trên báo chí Phật giáo Việt Nam trƣớc 1945: Trình
bày khái quát về mảng văn học trên báo chí Phật giáo, phân tích giá trị nội dung,
nghệ thuật của thơ và văn xuôi trên những tờ báo ấy (từ trang 125 đến trang 204).

Đề tài luận án là “Văn học và Phật học trên báo chí Phật giáo Việt Nam
trước năm 1945”. Luận án phải đặt từ “Văn học” trước là để cho phù hợp với mã
ngành Văn học Việt Nam, nhưng trong khi triển khai thì Phật học (chương 2) được
trình bày trước Văn học (chương 3). Làm như vậy vì trên báo chí Phật giáo, tư
tưởng Phật học là vấn đề trung tâm, quan trọng nhất, phải nghiên cứu Phật học
(chương 2) trước rồi mới đến Văn học (chương 3). Văn học vẫn là vấn đề đi sau tư
tưởng và chủ yếu là phương tiện truyền bá tư tưởng Phật học.

Cuối luận án là phần Kết luận (từ trang 205 đến trang 207), Danh mục báo chí
Phật giáo (trang 208), Thư mục tài liệu tham khảo (từ trang 209 đến trang 218) và
Danh mục các công trình của tác giả đã công bố (trang 219). Người viết có chuẩn bị
thêm phần Phụ lục (từ trang 220 đến trang 258), giới thiệu một số hình ảnh báo chí,
tổng danh mục thơ và văn trên báo chí Phật giáo trước 1945.
11

Chƣơng 1
PHONG TRÀO CHẤN HƢNG PHẬT GIÁO
VÀ BÁO CHÍ PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƢỚC 1945

1.1. PHONG TRÀO CHẤN HƢNG PHẬT GIÁO TỪ CUỐI THẬP NIÊN 1920
ĐẾN 1945

1.1.1. Tình hình Phật giáo Việt Nam đầu thế kỷ XX

Đầu TK.XX, sau khi bình định được Việt Nam, Pháp thực hiện chính sách
nâng đỡ, tạo điều kiện cho đạo Công giáo phát triển. Chính quyền Pháp vì muốn
loại trừ ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo, nên đã quyết tâm loại bỏ chữ Hán mà
thay bằng chữ Pháp [84, tr.474].

Lúc bấy giờ, kinh sách Phật toàn là chữ Hán, do vậy dân chúng học tiếng
Pháp hoặc ít học không đọc được kinh điển. Từ đó, tín đồ không thấu hiểu giáo lý
của Phật và đây là tiền đề khiến người dân cách xa dần đạo Phật, khiến đạo Phật
ngày càng suy vi. Đạo Phật đã suy đến mức toàn quốc không có một ngôi trường
Phật học nào cho người dân đến tham học [51, tr.20].

Thực dân Pháp đã cố tình loại trừ dần văn hóa dân tộc và thay vào đó là văn
hóa của phương Tây. Các khái niệm yêu nước, trung quân, đạo đức tôn giáo, phong
tục tập quán, tín ngưỡng… đều bị phê phán là lạc hậu, lỗi thời. Đạo Phật hầu như bị
gạt ra ngoài lề của đời sống xã hội đương thời. Dẫu biết rằng cả nước Việt Nam lúc
bấy giờ, mỗi làng đều có chùa thờ Phật, thậm chí có làng có đến ba ngôi chùa. Thế
nhưng, những ngôi chùa đó chỉ là nơi dành riêng cho phái nữ, những bà cụ… mỗi
tháng vào những ngày Rằm, mồng Một đến chùa lễ Phật. Đạo Phật thời kỳ đã trở
thành một tôn giáo tiêu cực, chán đời, mê tín dị đoan. Người dân tôn kính Đức Phật
như một bậc Thượng đế toàn năng có quyền ban phước giáng họa.

Cụ thể là chính quyền thực dân thực hiện chính sách kỳ thị, đàn áp Phật giáo
như: kiểm tra đời sống sinh hoạt của tăng chúng trong chùa, những chùa nào muốn
xây dựng, sửa chữa thì phải xin giấy phép và được chính quyền cấp giấy phép mới
được xây cất. Chúng dùng chính sách hủ hóa dân tộc ta bằng cách cho phép tự do
12

hoạt động mê tín dị đoan, nhưng hạn chế con đường giáo dục văn hóa truyền thống
của dân tộc. Mục đích của chúng là làm cho dân ta ngu dốt để dễ bề sai khiến,
không muốn cho dân tộc ta trở nên lớn mạnh và đạo Phật từ đó cũng bị đồng hóa
với những tà thuyết ngoại đạo. Ngoài ra, một số ngôi chùa lớn đã bị chính quyền
Pháp phá hủy dần [84, tr.475].

Việt Liên với bài Phật giáo không phải là đạo hữu thần đã ghi rất rõ về sự
kiện này:

Nhưng xét cho kỹ, phần đông người mình chưa hiểu cái yếu nghĩa của Phật
giáo, cho là một đạo hữu thần, cũng cầu xin, cũng chuộc tội, chẳng khác chi
những kẻ ỷ lại thần quyền. Hoặc cho là một đạo hoang đường mê tín, chứa
những việc huyễn hoặc dị đoan, không hiểu Phật giáo có một cái triết lý rất
thâm thiết. Trải qua bao nhiêu thế kỷ đã bị chôn sâu trong cái não mê tín
của bọn ngu dân và bị khuất sau tấm lòng lợi dụng của một hạng tín đồ vô
học... Nếu chẳng chấn hưng Phật giáo, chỉnh đốn Phật giáo lại, thì Phật giáo
cũng như các tôn giáo khác, sẽ theo một công lệ đào thải mà tiêu diệt trước
khi thế giới đại đồng [E, số 2, tr. 6-8].

Thời gian bị kìm hãm kéo dài cho đến năm 1920, giới tăng sĩ và trí thức
trong nước mới có cơ hội đứng ra hô hào, phát khởi phong trào Chấn hưng đạo Phật
Việt Nam. Từ đó, báo chí Phật giáo mới có cơ hội ra đời và được phổ biến rộng rãi
khắp nơi, đồng thời các kinh sách Phật giáo, nhờ phương tiện in ấn tiên tiến nên
cũng được xuất bản và lưu hành nhiều hơn.

Nhờ sự khởi sắc từ những thập niên đầu TK.XX mà sau này, việc đào tạo
tăng ni tại Việt Nam dần dần trở nên có quy củ. Hệ thống giáo dục được hình thành
và đi theo thứ bậc từ hệ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng đến đại học.

Quả thật, giai đoạn những năm đầu thế kỷ XX, dù đất nước bị chia làm ba kỳ,
dưới ba hình thức cai trị khác nhau, nhưng sự thống nhất về dân tộc, văn hóa và tôn
giáo lúc bấy giờ vẫn được duy trì và gìn giữ. Sự hiện diện của đạo Phật xuyên suốt
từ Bắc chí Nam đã là một yếu tố góp phần to lớn, nhằm đối kháng với việc chia cắt
đất nước để cai trị theo chủ trương của người Pháp. Hơn nữa, dù chịu ảnh hưởng
13

mạnh của quá trình Âu hóa, nhưng Phật giáo Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ qua
phong trào Chấn hưng Phật giáo.

Ðạo Phật trong giai đoạn kháng Pháp nửa đầu thế kỷ XX đã gắn kết với quần
chúng, đã hòa chung với lòng yêu nước của muôn dân, thể hiện bằng mục đích Tu
là tìm hạnh phúc cho tha nhân và góp phần thực thi sứ mệnh đem lại hòa bình cho
quê hương đất nước. Lúc này có nhiều vị tăng sĩ đã cởi áo cà sa để khoác chiến bào,
hòa mình cùng dân tộc đấu tranh chống Pháp, đã có nhiều vị hy sinh anh dũng trong
cuộc kháng chiến gian khổ của dân tộc.

1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến phong trào Chấn hƣng Phật giáo

Đầu TK.XX, sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), nền kinh tế
tư bản lâm vào cuộc khủng hoảng. Giai đoạn 1920-1930, khủng hoảng kinh tế bắt
đầu và kéo dài, các đế quốc tăng cường chính sách bóc lột ở các nước thuộc địa.
Đông Dương trở thành nạn nhân trong chính sách khai thác tàn nhẫn của Pháp. Việt
Nam cũng lâm vào tình trạng khốn khổ, “một cổ hai tròng” - vừa phát xít Nhật và
vừa thực dân Pháp đè nặng lên đôi vai người dân thuộc địa, dẫn đến mâu thuẫn và
phân hóa giai cấp trong xã hội Việt Nam. Điều này đã tác động mạnh mẽ đến mọi
lĩnh vực trong đời sống từ kinh tế, chính trị, văn hóa và cả tín ngưỡng tâm linh.

Nhờ tiếp thu những trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản qua các tân thư, tân văn
của Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi cùng cuộc vận động cách mạng ở Trung
Quốc; các thuyết về nhân đạo, nhân quyền của những nhà khai sáng Pháp thế kỷ
XVIII như J. Rousseau, S. Montesquieu, F. Voltaire mà các trí thức yêu nước Việt
Nam đã có sự thay đổi sâu sắc về tư tưởng. Bên cạnh đó, tấm gương Nhật Bản nhờ
Duy Tân mấy chục năm mà đánh bại đế quốc Nga đã làm tăng thêm niềm tin của
các nhà trí thức yêu nước Việt Nam. Phong trào Duy Tân ở Việt Nam phát sinh từ
những nguyên nhân trên. Mục đích của phong trào là xây dựng một đất nước Việt
Nam độc lập, thống nhất, giàu mạnh. Hình thức hoạt động của phong trào Duy Tân
ở Việt Nam diễn ra vừa công khai, vừa bí mật nhưng khá toàn diện, phổ biến rộng
khắp 3 miền của đất nước.
14

Chính những biến động lịch sử đó đã tác động mạnh mẽ vào phong trào
Chấn hưng Phật giáo thời kỳ này. Nhiều nhà nho chí sĩ đã đánh giá cao vai trò của
Phật giáo đối với sự phát triển của xã hội, sự tự cường của dân tộc. Trong bối cảnh
đó, báo chí Quốc ngữ có khuynh hướng duy tân ra đời như: Nông cổ mín đàm
(1901), Lục tỉnh tân văn (1907), Đăng cổ tùng báo (1907), Đông Dương tạp chí
(1913), Nam phong tạp chí (1917), An Nam tạp chí (1926), Phụ nữ tân văn
(1929)… Những tờ báo này đã góp phần “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”
như khẩu hiệu của phong trào Duy Tân đầu TK.XX. Chính những tờ báo này cũng
góp phần thúc đẩy cho phong trào Chấn hưng Phật giáo diễn ra nhanh chóng và
phát triển mạnh trong đời sống xã hội.

Các nhà cách mạng tiêu biểu của phong trào Duy Tân, trong đó có Phan Chu
Trinh đã từng nhận định rằng Phật giáo hưng thịnh thì đất nước cũng sẽ hưng thịnh.
Có thể nói Phan Chu Trinh là người đặt niềm tin rất lớn vào sự đóng góp của một
nền Phật giáo phục hưng đối với nền hòa bình dân tộc, cho nên ông thường hô hào
việc chấn hưng đạo Phật để hỗ trợ cách mạng. Trong một buổi diễn thuyết, ông đã
từng nói:

Nước Đại Nam chúng ta ngày nay sở dĩ yếu hèn là vì thiếu tinh thần tôn
giáo, chúng ta không biết cương cường xả thân vì nghĩa, chỉ bo bo giữ cái
lối riêng của mình. Nay bà con thử xét, đời Trần sao dân tộc ta hùng dũng
như vậy: quân Nguyên thắng cả Á cả Âu, nuốt trọn Trung Hoa mà qua đến
nước ta thì bại tẩu; nào bị cướp sáo ở Chương Dương Độ, nào bị bắt trói ở
Bạch Đằng, như vậy chẳng phải là nhờ đạo Phật ở ta thời đó rất thịnh ư?
Nhờ cái tinh thần tôn giáo của ta ư? [67, tr.750].

Giai đoạn giữa năm 1935, có nhiều bài viết trên báo Tràng an lấy tên là H.T
luận bàn về Phong trào Phật giáo chấn hưng. Tác giả đã cho rằng có ba nguyên
nhân của sự phục hưng Phật giáo, đó là do lòng tự ái của dân tộc, niềm khát ngưỡng
một lý tưởng để theo và do nạn kinh tế khủng hoảng.

Thế nhưng lại còn có ý kiến cho rằng phong trào Chấn hưng Phật giáo ra đời
là do ý đồ mỵ dân của thực dân Pháp: chúng muốn đẩy dân ta đắm chìm trong tín
ngưỡng mê tín của tôn giáo, để họ quên đi sự chống đối ngoại bang. Theo Nguyễn
15

Lang, sự nghi ngờ đó được xuất phát từ hai sự kiện: thứ nhất là do việc Nhà nước
bảo hộ đã dễ dàng ký giấy cho phép thành lập các Hội Phật giáo; thứ hai là do có
một vài người được xem như là “người của chính quyền” đã hoạt động trong các
Hội Phật giáo, như Trần Nguyên Chấn trong Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học,
Nguyễn Năng Quốc và Lê Dư trong Hội Phật giáo Bắc Kỳ [67, tr.762]. Nhưng các
sĩ phu yêu nước ngay từ đầu đã không nghĩ như thế, các học giả có uy tín như
Nguyễn Lang [67], Trần Văn Giàu [44] đều thẳng thắn bác bỏ quan điểm sai trái ấy.

Huỳnh Thúc Kháng trên báo Viên âm, Phan Khôi trên báo Tràng an đã gạt
bỏ ra ngoài những quan điểm sai lầm về Phật giáo và phong trào Chấn hưng Phật
giáo. Các vị đã đưa ra ý kiến tán đồng với quan điểm của Phan Chu Trinh khi cho
rằng, chấn hưng Phật giáo là một việc làm có ích cho quốc dân như đã dẫn ở trên.

Đặc biệt, Huỳnh Thúc Kháng vừa phát biểu ý kiến tán đồng vấn đề chấn
hưng Phật giáo trên tạp chí Viên âm, vừa khuyên Viên âm nên cố gắng:

Viên âm hãy gắng lên. Người ta nói khoa học với tôn giáo không cùng đi
với nhau, là nói ở xứ văn minh nào kia, chứ ở xứ khai thông chậm trễ dân
trí mơ mù như xứ ta, tôn giáo còn là phương thuốc chữa bệnh chung cho
người mình có hiệu nghiệm. Huống là cái thuyết từ bi cứu khổ, độ tha, giác
tha và nhân quả luân hồi của Phật giáo thông cả các giai cấp trong xã hội,
mà ai thực hành theo có bổ ích cho chúng sanh không phải là ít, chưa nói
đến “Niết bàn” là chỗ thượng thừa cao xa kia [D, số 3].

Những quan điểm trên cho chúng ta hiểu được, phong trào Chấn hưng Phật
giáo tại Việt Nam đã nhận được sự đồng tình của nhiều chí sĩ yêu nước đầu TK.XX.

Nhìn rộng ra châu Á, phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam diễn ra
trong bối cảnh chung của phong trào Chấn hưng Phật giáo ở các nước châu Á: Tích
Lan, Ấn Độ, Trung Quốc… nhằm khôi phục lại các giá trị của Phật giáo, phát triển
Phật học.

Bắt đầu từ cư sĩ David Hewavitarane, người Tích Lan, sau này xuất gia thành
đại đức Dharmapala. Để chấn hưng Phật giáo, Dharmapala đã thành lập Hội Đại Bồ
đề Ấn Độ và xuất bản tạp chí Bồ đề, thành lập các trung tâm Phật học và tu viện
16

Phật giáo. Dharmapala thường hun đúc tinh thần chấn hưng Phật giáo của tín đồ
Phật giáo Ấn Độ bằng những lời kêu gọi trong mỗi thời thuyết pháp ở Ấn Độ: “Phật
giáo ở Ấn Độ đã bị truy phóng một thời gian dài 800 năm. Ngày nay, họ đã và đang
quay trở về Tổ quốc. Tất cả chúng ta hãy thức tỉnh siêu vượt chế độ, giai cấp và tín
điều, với mục đích duy nhất của Hội Đại Bồ đề là đem giáo lý của Đấng Phật đà
tặng mọi người dân Ấn Độ” [64, tr. 201].

Năm 1908, đại đức Dharmapala đã viết thư liên lạc với cư sĩ Dương Nhân
Sơn ở Trung Quốc để mời cộng tác và từ đó phong trào lan rộng nhanh chóng.

Tại Trung Quốc, cư sĩ Dương Nhân Sơn đã đứng lên thiết lập Kỳ Hoàn Tịnh
xá, triệu tập những học giả nghiên cứu Phật học bằng Hán văn, Anh văn và Pali.
Tiếp đó, năm 1912, HT. Thái Hư lập Phật học viện Vũ Xương, ra tạp chí Giác xã
năm 1918, sau đổi thành Hải triều âm, làm tiền đề cho nhiều Phật học viện ra đời.
Các hiệp hội Tăng Giáo dục, Phật giáo Hợp Tiến, Phật giáo Tổng hội, Phật giáo
Liên hiệp, Phật giáo Cư sĩ lâm... liên tiếp ra đời khắp mọi nơi.

Những hoạt động tích cực để chấn hưng Phật giáo của các nhân vật Phật giáo
xuất chúng từ Tích Lan, Ấn Độ, Trung Quốc đã tác động đến các nước ở châu Á
khác như: Miến Điện, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Việt Nam v.v.. Phong trào
đổi mới Phật sự từ các nước này cũng được diễn ra nhanh chóng và có hiệu quả. Có
thể nói, phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp và
mạnh mẽ từ phong trào Chấn hưng Phật giáo Trung Quốc, đặc biệt là những tư
tưởng cải cách Phật giáo của HT. Thái Hư.

Mặt khác, ở Việt Nam đầu TK.XX, do nhiều nguyên nhân về kinh tế, văn
hóa, xã hội và tư tưởng đã xuất hiện nhiều phong trào tôn giới mới. Những phong
trào tôn giáo này bắt nguồn từ Phật giáo, từ tín ngưỡng dân gian, hoặc từ “Tam
giáo” (Phật - Lão - Nho) rồi cải biên, trong đó có đạo Cao Đài do các ông Ngô
Minh Chiêu (1878-1930), Lê Văn Trung (1875-1934), Phạm Công Tắc (1893-
1959),… thành lập năm 1926; Phật giáo Hòa Hảo do ông Huỳnh Phú Sổ (1920-
1946) thành lập năm 1939,… Sự phát triển của các tôn giáo đương thời đã tạo ra
sức cạnh tranh mạnh mẽ đối với Phật giáo. Đây cũng là nhân tố tác động đến sự ra
đời của phong trào Chấn hưng Phật giáo.
17

Ngoài những nguyên nhân từ quốc tế, nguyên nhân chính trị - xã hội và tôn
giáo trong nước, sự ra đời của phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam còn do
những nguyên nhân nội tại trong giới Phật giáo. Trước đó và ngay cả giai đoạn này,
có lúc có nơi, sự suy giảm uy tín của Phật giáo đối với dân chúng khá rõ.

Nguyên nhân chủ yếu là do một bộ phận của giới tăng sĩ đã đi sai lạc con
đường chính pháp, không chuyên tâm tu hành mà chỉ chuyên lo “ứng phó” đạo
tràng để thu tài vật, lợi dụng tín ngưỡng dân gian để cầu danh cầu lợi cho bản thân.
Cư sĩ Khánh Vân đã trực tiếp lên án tình hình này trên tạp chí Duy tâm Phật học số
18 năm 1926: “Có kẻ mượn Phật làm danh, cũng ngày đêm hai buổi công phu, thọ
trì, nhập sóc vọng, cũng sám hối như ai, nhưng lại luyện bùa học ngải, luyện roi
thần, khi lên ông, lúc gặp bà, gọi là cứu nhân độ thế, nhưng thực ra lợi dụng lòng
mê muội của thiện nam, tín nữ, rộng túi tham vơ vét cho sạch sành sanh”.

Cư sĩ Thanh Quang cũng nói về tình trạng này trên báo Đuốc tuệ bằng những
lời lẽ phê phán gay gắt: “Đau đớn thay xứ ta, những hạng xuất gia vào chùa phần
nhiều chỉ học đặng vài bộ kinh, lo luyện hơi cho hay, tập nhịp tán cho già, nay lãnh
đám này, mai lãnh đám kia; cũng tràng hạt, cũng cà sa, thử lật mặt trái của họ ra mà
xem thì có khác nào người trần tục” [F, số 178-179, tr.3-5].

Rõ ràng, vấn đề “tha hóa đạo đức” của một bộ phận trong giới tu sĩ đã làm
ảnh hưởng đến sự suy đồi của Phật giáo. Điều đó đã khiến cho nhiều nhà lãnh đạo
Phật giáo, người có tâm huyết với Phật giáo trăn trở, lo lắng. Sư Thiện Chiếu, nhà
trí thức trẻ đầy nhiệt huyết không thể ngồi yên, đã mạnh dạng chỉ trích trên tờ Đông
Pháp thời báo số 532, ra ngày 14.1.1927: “Xét lại tăng giới hiện thời ở nước ta mà
nhất là ở Nam Kỳ, phần nhiều không chuyên tâm về đường học vấn, kẻ hảo tâm
thời lo độc thiện, có khi lạc vào cái chủ nghĩa yếm thế nên không biết nghĩa vụ và
trách nhiệm của mình; mình đã chẳng biết thời làm sao truyền bá ra cho người khác
biết được?”.

Nhìn chung, trước bối cảnh trong và ngoài nước như thế, nhiều tăng sĩ cùng
nhân sĩ trí thức yêu nước có nhiệt tâm, có tín tâm với đạo Phật đã tìm mọi cách chấn
hưng Phật giáo để khôi phục lại truyền thống tín ngưỡng, đạo lý và phong tục tập
quán của dân tộc, đồng thời qua đó đoàn kết tập hợp lực lượng để chống Pháp,
18

giành độc lập cho dân tộc. Công cuộc này đã làm thay đổi rất nhiều về nội dung và
hình thức hoạt động của Phật giáo Việt Nam.

1.1.3. Hoạt động của phong trào Chấn hƣng Phật giáo

Có thể nói, phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam được khởi đầu từ các
đô thị Nam Kỳ với những đóng góp quan trọng của HT. Khánh Hòa và sư Thiện
Chiếu, để sau đó lan ra Trung và Bắc Kỳ.

1.1.3.1. Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Nam Kỳ

Từ năm 1920, mặc dù trong cả nước, tình hình Phật giáo không có gì sáng
sủa nhưng tại Nam Kỳ, rải rác ở các nơi, nhiều vị có tâm huyết vẫn duy trì các đạo
tràng tu học Phật pháp và thuyết giảng tại các chùa lớn, như: HT. Thích Từ Phong
giảng dạy Phật pháp cho tăng sĩ tại chùa Giác Hải. Hòa thượng còn tổ chức khắc
bản in kinh và khuyến khích việc phiên dịch kinh Phật ra chữ Quốc ngữ. Từ năm
1922, Hòa thượng đã cho xuất bản bộ Quy Nguyên Trực Chỉ do chính mình phiên
dịch ra Quốc ngữ. HT. Khánh Hòa thì thuyết giảng Phật pháp cho chư tăng tại chùa
Tiên Linh. HT. Chí Thành quy tụ tăng sĩ về giảng dạy Phật pháp hàng năm tại chùa
Phi Lai. Hòa thượng còn tổ chức thành lập trường Phật học dành cho ni giới tại
chùa Giác Hoa (Bạc Liêu) và đã thu hút được trên một trăm học ni về tham học. Tại
Trà Vinh, HT. Huệ Quang giảng dạy Phật pháp tại chùa Long Hòa; HT. Khánh Anh
giảng tại chùa Long An. Cả hai đạo tràng đều có từ bốn mươi đến một trăm học
tăng tham học. Ngoài ra còn có HT. Tâm Thông chùa Trường Thọ (Gò Vấp - Gia
Định), HT. Hoằng Nghĩa chùa Giác Viên (Chợ Lớn), HT. Huệ Tịnh chùa Linh
Thuyền (Gò Công)… cũng thể hiện nhiệt huyết truyền bá Phật pháp ngay tại trú xứ
của chính các vị đó.

Năm 1923, trong một buổi họp của đại diện các Tổ đình tại chùa Long Hòa,
Trà Vinh, HT. Khánh Hòa đã khởi xướng thành lập tổ chức Lục Hòa Liên hiệp
nhằm mục đích tạo điều kiện cho các vị có tâm huyết, lo lắng về sự suy đồi của Phật
giáo Việt Nam có cơ hội gặp gỡ nhau để bàn bạc việc Chấn hưng Phật giáo, qua ba
nỗ lực: chỉnh đốn tăng già, kiến lập Phật học đường, diễn dịch và xuất bản kinh sách
19

Việt ngữ. Các vị Tổ sư tiền bối của phong trào này là HT. Huệ Quang, Khánh Hòa
và Khánh Anh.

Năm 1926, sau khi nghe cư sĩ Huỳnh Thái Cửu trình bày lời thỉnh cầu, đề
nghị thành lập Hội Phật giáo để khởi xướng phong trào nghiên cứu giáo lý, chấn
chỉnh Tăng già, HT. Khánh Hòa đã đem chuyện này bàn với HT. Huệ Quang, trú trì
chùa Long Hòa, Trà Vinh, đồng thời còn đề xuất chương trình chấn hưng, bao gồm
4 điểm:

- Lập hội Phật giáo.

- Thỉnh ba tạng kinh điển dịch ra chữ Quốc ngữ.

- Lập trường Phật học để đào tạo tăng tài.

- Xuất bản tạp chí phổ biến giáo lý, kêu gọi tăng đồ thức tỉnh, chấn hưng quy
củ thiền môn.

Tuy nhiên, khi bắt tay vào thực hiện thì không đủ kinh phí và còn nhiều vấn
đề phức tạp xảy ra, nên HT. Khánh Hòa cũng chưa thể thực hiện mong ước của
mình.

Tiếp đó, trên lĩnh vực truyền thông, các tờ báo liên tục đăng tải về tình hình
suy yếu của Phật giáo và kêu gọi chư tăng, Phật tử cùng giới trí thức yêu nước cần
có thái độ, quan điểm, lập trường chấn hưng nền Phật học nước nhà. Ngày 5.1.1927,
ông Nguyễn Mục Tiên, một nhà báo quen thuộc của nhân dân Sài Gòn trên tờ Đông
pháp thời báo số 529 đã viết bài kêu gọi Nên chấn hưng Phật giáo ở nước nhà.

Sư Thiện Chiếu, trú trì chùa Linh Sơn, Sài Gòn đã viết bài đăng trên Đông
Pháp thời báo số 532 ra ngày 14.1.1927 với nhan đề: Chấn hưng Phật giáo ở nước
nhà. Ngoài việc nêu lên những nguyên nhân khiến cho Phật giáo suy đồi, sư Thiện
Chiếu đã đề xuất những nội dung cụ thể cho phong trào Chấn hưng Phật giáo, gồm
3 điểm căn bản sau:

- Lập Phật học báo quán để truyền bá Phật lý, khi Phật lý được vãn hồi sẽ
xóa bỏ những điều mê tín.
20

- Lập Phật gia công học để đào tạo ra những bậc hoằng pháp mô phạm
truyền giáo về sau.

- Dịch kinh Phật ra tiếng ta để cho Phật giáo nước ta sau này khỏi sợ thất
truyền.

Cũng từ năm 1927, từ bài báo của nhà sư Tâm Lai tại Bắc Kỳ đề xuất chấn
hưng và thống nhất Phật giáo trên tờ Khai hóa nhật báo số 1640, ra ngày 16.1.1927
với chủ đề Sớm thành lập Việt Nam Phật giáo Hội cho cả ba miền, HT. Khánh Hòa
đã cử sư Thiện Chiếu ra gặp sư Tâm Lai để xúc tiến thành lập Phật giáo Tổng hội,
nhưng không đạt được sự đồng thuận do nhiều biến động trong cả nước.

Năm 1928, sau mùa an cư tại Quy Nhơn, HT. Khánh Hòa trở về Nam đề
nghị khởi xướng phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Nam Kỳ và được sự ủng hộ của
HT. Huệ Quang (chùa Long Hòa, Tiểu Cần, Trà Vinh), HT. Khánh Anh (chùa
Thiên Phước, Trà Ôn, Cần Thơ). Đó là những bậc tu sĩ đạo cao đức trọng, học vấn
uyên thâm và đặc biệt là đầy nhiệt huyết với sự nghiệp hoằng dương chính pháp.
Học hỏi kinh nghiệm từ tình hình Phật giáo thế giới, chư vị Hòa thượng đã đồng
tâm hiệp lực, nhất trí khởi xướng phong trào Chấn hưng Phật giáo Nam Kỳ, để từ
đó tạo tiền đề chấn hưng Phật giáo, chấn hưng Quốc học Việt Nam. HT. Khánh Hòa
đã cùng ba vị tăng sĩ Từ Nhẫn, Chơn Huệ và Thiện Niệm lo tổ chức việc xây dựng
Thích Học đường và Phật học Thư xã tại chùa Linh Sơn, Sài Gòn.

Năm 1929, HT. Khánh Hòa và Thiện Chiếu lại vận động giới cư sĩ hữu tâm ở
Trà Vinh gửi mua cho Thư xã một bộ Tục Tạng kinh gồm 750 tập và lưu giữ tại
chùa Linh Sơn. Đồng thời, HT. Khánh Hòa còn cho ấn hành tạp chí Pháp âm. Đó là
tờ báo Phật giáo đầu tiên bằng Quốc ngữ tại Việt Nam.

Năm 1931, tại Sài Gòn, Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học được thành lập,
trụ sở đặt tại chùa Linh Sơn, Hội trưởng là HT. Từ Phong. Hội đã xuất bản tạp chí
Từ bi âm do HT. Khánh Hòa làm chủ nhiệm. Hội đã lập Pháp Bảo Phường, thỉnh
Tam tạng kinh Trung Hoa làm tài liệu nghiên cứu, với hoài bão là làm sao cho Phật
pháp được sáng tỏ trong đương thời. Hội cũng đã cất được một Phật học đường,
trang bị nội thất đầy đủ để nhận học tăng nội trú. Tuy nhiên, vì sự bất hòa trong nội
21

bộ nên Phật học đường không được khai giảng và công việc hoằng pháp bị đình trệ.
Từ đó phát sinh ra hai Hội Phật giáo khác nhau, một Hội tên là Lưỡng Xuyên Phật
học tại Trà Vinh do HT. Khánh Hòa và Huệ Quang lãnh đạo và một Hội lấy tên là
Phật học Kiêm Tế ở Rạch Giá, do HT. Trí Thiền sáng lập, với sự cộng tác của sư
Thiện Chiếu.

Năm 1932, Đoàn Trung Còn đã thành lập Nhà xuất bản Phật học Tùng thư.
Nhờ đó mà giai đoạn này, nhiều kinh sách đã được xuất bản, như sách Phật giáo sơ
học, Phật giáo vấn đáp, Phật học giáo khoa thư. Cả những bộ kinh bằng chữ Quốc
ngữ cũng được xuất bản rộng rãi, như kinh Kim Cương, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm…

Năm 1933, với nhiệt huyết đào tạo tăng tài, HT. Khánh Hòa đã về chùa Long
Hòa, tổ chức Phật học đường lưu động, lấy tên là Liên Đoàn Phật học xã, với mục
đích đào tạo tăng tài và hoằng dương chính pháp. Đây là một Phật học đường hoạt
động theo lối tuần hoàn và liên tục, tức là quy cho mỗi chùa đài thọ chi phí ba tháng,
đồng thời ban ngày là để dạy học, ban đêm thì thuyết pháp. Từ khi lớp học được
khai giảng, đã có khoảng năm mươi vị học tăng được thu nhận vào liên đoàn. Pháp
sư giảng dạy thường xuyên có HT. Khánh Anh và HT. Pháp Hải. Khởi điểm đài thọ
được bắt đầu từ chùa Long Hòa ở Tiểu Cần - Vĩnh Bình, tiếp đến chùa Thiên Phước
(Trà Ôn). Cuối cùng đến chùa Viên Giác (Bến Tre) thì hội bị tan rã do thiếu tài
chính.

Năm 1934, HT. Khánh Hòa tiếp tục cùng các pháp hữu thành lập Hội Lưỡng
Xuyên Phật học, trụ sở tại chùa Lưỡng Xuyên, Trà Vinh (trước kia tên là chùa Long
Phước) và HT. An Lạc, chùa Vĩnh Tràng, Mỹ Tho được bầu làm Hội trưởng. Công
việc đầu tiên của hội là tổ chức Phật học đường và đã có nhiều học tăng đến cầu học.
Lưỡng Xuyên Phật học đường được khai giảng vào cuối năm 1934 và HT. Huệ
Quang, Khánh Anh được mời đến giảng dạy. HT. Khánh Hòa đảm nhiệm chức vụ
đốc giáo.

Năm 1935, Hội xuất bản sách Phật học Giáo khoa bằng hai thứ chữ Quốc
ngữ và Hán, đến tháng 10 cùng năm, Hội đã xuất bản tạp chí Duy tâm Phật học.
Tạp chí đã khởi dịch kinh Ưu Bà Tắc Giới và Quán Vô Lượng Thọ. Sau đó, Hội
Lưỡng Xuyên Phật học cũng mời thêm các HT. Mật Thể và Như Ý từ Thừa Thiên
22

vào để giảng dạy Phật pháp. Nhưng đến cuối năm 1941, trường lại bị đóng cửa vì
thiếu tài chính. Từ đó, Hội Lưỡng Xuyên Phật học chỉ còn đủ sức duy trì những lớp
tiểu học tại các chi hội địa phương như Sa Đéc, Phú Nhuận và Kế Sách.

Tuy nhiên, liền hai thập niên 1930-1940, khởi điểm từ Phật học đường
Lưỡng Xuyên, một phong trào Chấn hưng Phật giáo Nam Kỳ đã ra đời và hoạt động
đạt hiệu quả, lan rộng đến khắp các tỉnh Nam Kỳ. Nhiều thế hệ tăng sinh từ miền
Đông, miền Tây Nam Bộ đều về đây để tu học, nghiên cứu Phật pháp. Chính nơi
này đã đào tạo được nhiều người trở thành những danh tăng, đóng góp lợi ích rất
lớn cho đạo pháp và dân tộc. Người có công nhất trong việc đào tạo thế hệ tăng sinh
có thể nói là HT. Huệ Quang - Chánh Tổng quản Hội Lưỡng Xuyên Phật học kiêm
Giảng sư chính Lưỡng Xuyên Phật học đường. Trong kháng chiến chống Pháp, Hòa
thượng là Ủy viên Xã hội thuộc Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Trà Vinh,
kiêm Chủ tịch Hội Phật giáo kháng chiến miền Tây Nam Bộ. Đặc biệt vào năm
1947, Lưỡng Xuyên Phật học đường đã mở ra một trang sử sáng đẹp, đáp lại lời kêu
gọi của Tổ quốc lúc lâm nguy, 47 vị tăng sinh đang theo học tại đây đã gửi áo cà sa
lại nhà chùa, lên đường tham gia kháng chiến và nhiều người trong số họ đã anh
dũng hy sinh trên các chiến trường chống thực dân Pháp khắp Nam Kỳ.

Có thể nói, chùa Lưỡng Xuyên là một trung tâm Phật giáo lớn ở Nam Kỳ,
đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp Chấn hưng Phật giáo, chấn hưng quốc học nước
ta trong nửa đầu TK.XX và là tiền đề cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam hình thành,
phát triển sau này.

Năm 1934, Tịnh Độ Cư sĩ Phật hội do đức tôn sư Minh Trí thành lập tại Tân
Hưng Long, xã Phú Định, Chợ Lớn và xuất bản tạp chí Pháp âm Phật học năm
1937. Tuy trong Hội không có hội viên là tăng sĩ nhưng Hội đã tôn sư Minh Trí làm
thầy Chứng minh. Hội này chủ trương Phật giáo nhập thế, phước huệ song tu, sử
dụng y thuật làm phương tiện cứu nhân độ thế, do đó, mọi tín đồ đều cần phải biết
về đông y và cách sử dụng thuốc nam.

Tuy tạp chí Pháp âm Phật học không được duy trì lâu dài, nhưng Tịnh Độ
Cư sĩ Phật hội vẫn tiếp tục hoạt động và đem đến những thành quả đáng kể. Tại
Nam Kỳ, tỉnh nào cũng có chùa của Hội, nhất là tại các tỉnh Cần Thơ, Ba Xuyên,
23

An Xuyên và Gia Định. Phần lớn những chùa này không có tăng sĩ trú trì và hướng
dẫn nghi lễ tụng niệm. Đặc biệt, các chùa thuộc Tịnh Độ Cư sĩ Phật hội đều mở
phòng thuốc nam và chữa bệnh, cung cấp thuốc miễn phí cho dân chúng.

Năm 1936, Hội Phật học Kiêm Tế được thành lập tại Rạch Giá, trụ sở đặt tại
chùa Tam bảo, do HT. Trí Thiền (Nguyễn Văn Đồng) làm Chánh Tổng lý. Hội xuất
bản tạp chí Tiến hóa, sau đó sư Thiện Chiếu điều hành với những tư tưởng cách
mạng tiến bộ. Chủ trương của Hội Phật học Kiêm tế là đấu tranh chính trị, vừa
chuyển tải Phật học vừa trị nước giúp đời.

Có thể kể thêm nhiều Hội khác như: Hội Phật giáo Liên hữu do sư trú trì
chùa Bình An, tỉnh Long Xuyên thành lập (1932); Hội Phật giáo Tương Tế do HT.
Phước Chí (Lê Phước Chí) thành lập ở Sóc Trăng (1934), trụ sở đặt tại chùa Thiên
Phước và đến năm 1936 xuất bản tạp chí Bồ đề; Hội Thiên Thai Thiền giáo tông
liên hữu ở Bà Rịa do Tổ Huệ Đăng lập (1934), trụ sở tại chùa Thiên Thai, Vũng Tàu
và xuất bản tạp chí Bát nhã âm v.v.. Những Hội này tuy không hoạt động sôi nổi
nhưng cũng đã tạo được tiếng vang cho phong trào Chấn hưng Phật giáo lúc bấy giờ.

1.1.3.2. Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Trung Kỳ

Vào khoảng năm 1920, cũng như Nam Kỳ, các chùa ở Trung Kỳ đã có
những Hòa thượng tâm huyết vẫn duy trì các đạo tràng tu học Phật pháp rất mạnh
mẽ, như HT. Tuệ Pháp là người uyên thâm giáo điển, thường giảng dạy kinh luận
tại chùa Thiên Hưng (Bình Định). Ngoài ra còn có HT. Thanh Thái chủ trì và hướng
dẫn đạo tràng tại chùa Từ Hiếu (Huế); HT. Đắc Ân tại chùa Quốc Ân (Huế); HT.
Tâm Tịnh tại chùa Tây Thiên (Huế); HT. Phước Huệ tại chùa Thập Tháp (Bình
Định)…

Từ Nam Kỳ, phong trào Chấn hưng Phật giáo đã lan đến Trung Kỳ và có thể
nói, HT. Giác Tiên là người khởi xướng phong trào Chấn hưng Phật giáo tại Trung
Kỳ.

Năm 1932, tại Huế, HT. Giác Tiên đã tập họp các tăng sĩ và với sự cộng tác
của cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, Nguyễn Khoa Tân v.v.. thành lập Hội An Nam
Phật học, trụ sở đặt tại chùa Trúc Lâm (nơi HT. Giác Tiên trú trì) do cư sĩ Lê Đình
24

Thám làm Hội trưởng, HT. Giác Tiên làm Chứng minh đạo sư và bắt đầu tổ chức
thuyết pháp tại chùa Từ Quang. Hội còn mở nhiều chi hội ở các tỉnh, quận, xã.

Chữ “học” trong danh từ An Nam Phật học, theo Lê Đình Thám còn có nghĩa
là “hành”. Hội An Nam Phật học đã liên tiếp mời các HT. Giác Tiên (chùa Diệu Đế),
Giác Nhiên (chùa Báo Quốc) và Tịnh Hạnh (chùa Tường Vân) làm Chứng minh đạo
sư. Ngoài ra Hội còn được sự hỗ trợ của các bậc tôn túc ở các Tổ đình và sự cộng
tác của các vị tăng ni xuất sắc thời đó như: Mật Khế, Mật Nguyện, Đôn Hậu, Trí Độ,
Trí Thủ, Mật Thể, Diệu Hương và Diệu Viên.

Năm 1933, Hội đã mở trường An Nam Phật học tại chùa Trúc Lâm, về sau,
trường được dời về chùa Báo Quốc.

Năm 1934, Hội An Nam Phật học đã khuyến khích mở các Phật học đường
Sơ đẳng tại các tỉnh.

Hội An Nam Phật học đã thỉnh Đại tạng kinh để làm tài liệu nghiên cứu và
xuất bản tạp chí Viên âm (1934) để hoằng dương chính pháp. Hội còn là nơi khởi
xướng thành lập Gia đình Phật Hóa Phổ đầu tiên (1940) và lập Trường Bồ Đề. Gia
đình Phật Hóa Phổ là hình thức đầu tiên của tổ chức Gia đình Phật tử Việt Nam,
được tổ chức theo từng gia đình, lấy tên gia trưởng làm tên đơn vị. Mục đích của
Gia đình Phật Hóa Phổ là phổ biến Phật pháp trong giới trẻ, dạy các em xây dựng
lòng tin chân chính, thực hành theo đạo lý một cách đúng đắn, không mê tín dị đoan.
Sau đó, đến năm 1935, Hội đã tiếp tục mở Phật học đường tại chùa Báo Quốc để
đào tạo Tăng tài.

Sơn môn Huế và Hội An Nam Phật học rất chú trọng việc đào tạo tăng tài và
chỉnh lý tăng giới. Cho nên, ngoài việc thành lập các lớp Phật học cho tăng sĩ trẻ tại
các chùa, Hội đã đề ra một chương trình chỉnh lý tình trạng tăng sĩ, gồm hai điểm:

- Thành lập một hội đồng luật sư gồm có những bậc tăng già tinh thông giới
luật để giám sát giới hạnh của tăng chúng.

- Tổ chức những ban thầy cúng, là những người biết tán, tụng, cầu an, cầu
siêu và hướng dẫn tang lễ [D, số 14].
25

Cũng trong thời kỳ hưởng ứng phong trào Chấn hưng Phật giáo, tại tỉnh Bình
Định, những bậc đống lương thạch trụ: HT. Phước Huệ (chùa Thập Tháp) (1920-
1945), Pháp sư Phổ Huệ (1920-1935), HT. Vĩnh Khánh… đã nhiệt tình cho ấn hành
các pháp bảo: Liên tôn thập niệm yếu lãm, Tịnh nghiệp văn và Mông sơn thập loại
diễn nghĩa... Chư Hòa thượng viện chủ, trú trì các chùa Long Khánh, Thiên Đức,
Bạch Sa, Minh Tịnh thì hợp tác sáng lập, giảng dạy và duy trì các trường Gia giáo
tại những chùa này. Sau đó, các vị họp nhau thành lập Hội Phật học Bình Định từ
năm 1932 đến năm 1945.

Cuối năm 1934, gặp lúc phong trào chấn hưng Phật giáo đang phát triển
mạnh mẽ ở miền Trung, thầy Trí Thủ đã cùng một số bạn đồng môn tại Huế vận
động tổ chức trường Phật học Tây Thiên. Các thầy đã mời HT. Giác Nhiên, Phước
Huệ, Thánh Duyên, Quốc Ân, Tường Vân dạy nội điển; mời bác sĩ Tâm Minh Lê
Ðình Thám, các ông Nguyễn Khoa Toàn và Cao Xuân Huy dạy các môn văn hóa
ngoại điển. Trường xây dựng học trình mười năm, gồm: ba năm sơ đẳng, ba năm
trung đẳng, hai năm cao đẳng và hai năm siêu đẳng. Lớp Sơ đẳng do Tổ Thập Tháp
chủ giảng, phần nội điển gồm: Luật Sa di, kinh Vô lượng thọ, kinh Ðịa tạng, kinh
Thủy sám.

Năm 1935, Hội Đà Thành Phật học được thành lập tại Đà Nẵng và cơ quan
ngôn luận là tạp chí Tam bảo xuất bản năm 1937. Bản ý và chủ đích hành động của
hội Đà thành Phật học, theo Tam bảo số 1 là:

- Phò khởi tăng giới, nguyện cùng chư tôn Nam Bắc liên đoàn bảo tồn Tăng
bảo.

- Nguyện cùng chư tôn chấn chỉnh tôn phong, thi hành chung một điều lệ và
cần phải giữ giới hạnh đoan nghiêm.

Năm 1935, tại Huế đã long trọng tổ chức Đại lễ Phật đản trong hai ngày 7 và
8 tháng 4 âm lịch. Chiều ngày 7 tháng 4 âm lịch, tại chùa Diệu Ðế, Ban Ðồng ấu
gồm 52 em trong đồng phục áo the xanh quần trắng, đeo giải băng màu vàng chữ
nâu: Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, hát bản nhạc Mừng Phật đản (sau này
được phổ biến dưới tên Trầm Hương Ðốt). Ðây là bản nhạc Phật giáo đầu tiên, được
26

ghi theo ký âm phương Tây của nhạc sĩ Bửu Bác, ở giai đoạn nền tân nhạc Việt
Nam còn phôi thai.

Sự thành công của lễ Phật Ðản này đã tạo ra một số bài báo công kích đạo
Phật trên các báo Tràng an và Ánh sáng (Huế). Các bài viết cho rằng đạo Phật ru
ngủ quần chúng, nên phục hưng Phật giáo là việc làm không hợp thời. Tuy nhiên,
các cư sĩ Nguyễn Xuân Thanh và Tâm Minh Lê Ðình Thám đã phản bác lại bằng
những lập luận có sức thuyết phục cao.

Năm 1940, Hội An Nam Phật học đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục thanh
thiếu niên, đã mở một lớp học chuyên dạy về Phật học, Lão học và Khổng học cho
thanh niên tân học. Từ đó mà Đoàn Thanh niên Phật học Đức Dục được thành lập,
dưới sự hướng dẫn của bác sĩ Lê Đình Thám. Vì đoàn là sự kết hợp của những
người vừa có tân học, vừa vững chãi về Phật học, nên đã tiến bộ rất nhanh chóng về
mọi mặt.

Đoàn Phật học Đức Dục còn tổ chức Phật học tùng thư, xuất bản sách dành
riêng cho tuổi trẻ. Những tác phẩm Phật giáo sơ học (Đoàn Phật học Đức Dục
soạn), Phật giáo và Đức Dục (Đinh Văn Vinh), Đời vui (Ngọc Thừa), Nghĩa chữ
Cho (Nguyễn Hữu Quán), Thanh niên Đức Dục (Đinh Văn Nam), Phật giáo và
Thanh niên Đức Dục (Phạm Hữu Bình) v.v.. được liên tục xuất bản. Đồng thời
những lớp thiếu niên Phật tử gọi là Đồng ấu được thành lập dưới sự hướng dẫn của
đoàn và tính đến năm 1942, đã có 12 đoàn Đồng ấu ra đời, mỗi đoàn khoảng 40 em.

Ngày Phật đản năm 1943, Đại hội Thanh thiếu niên Phật tử đã quy tụ trên
400 đoàn sinh tại đồi Quảng Tế, gần chùa Từ Hiếu. Sự kiện này đã đánh dấu bước
đầu thành công trong việc phát động phong trào thanh niên Phật tử tại đất Việt.

Năm 1943, Thượng tọa Mật Thể (Tâm Nhất, Nguyễn Hữu Kế, 1912-1961)
công bố Việt Nam Phật giáo sử lược, Tân Việt xuất bản tại Hà Nội. Tác phẩm được
tái bản nhiều lần.

1.1.3.3. Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kỳ

Từ năm 1920, tại Bắc Kỳ, HT. Thanh Hanh đã duy trì việc giảng dạy Phật
pháp tại chùa Vĩnh Nghiêm; chùa Bà Đá cũng duy trì được một đạo tràng lớn, mỗi
27

năm có hàng trăm tăng sĩ an cư kiết hạ và học tập giáo điển. HT. Thanh Thao (Đỗ
Văn Hỷ) thì in ấn kinh sách rất nhiều, kể cả những bộ kinh lớn như Đại Bảo tích.

Năm 1927, sau cuộc hội ngộ giữa hai nhà lãnh đạo là sư Thiện Chiếu và Tâm
Lai về việc thành lập Tổng hội Phật giáo Việt Nam bất thành, phong trào Chấn
hưng tại Bắc Kỳ tạm lắng xuống, nhưng ở Nam Kỳ, phong trào lại khởi lên khá
mạnh mẽ. Thông qua cửa ngõ tuyên truyền bằng phương tiện truyền thông báo chí,
cộng với sự nhiệt tâm tinh cần của HT. Khánh Hòa, sư Thiện Chiếu… phong trào
Chấn hưng Phật giáo đã lan ra Trung Kỳ và Bắc Kỳ, như lời khẳng định trên tạp chí
Tiếng chuông sớm:

Trước Từ bi âm ta chớ nên quên hai cuốn Pháp âm và Phật giáo Tân
Thanh niên làm quân tiên phong dọn đường đi trước. Ông Đoàn Trung
Còn, người có lòng với đạo Phật thay! Một mình dịch theo sách Tây tra
sang sách Ta, bao nhiêu là quyển nói về Phật giáo. Ấy cũng nhờ những cái
nhân duyên từ trước ấy, cho nên Trung Kỳ, Bắc Kỳ lần lượt theo sau mà
đứng lên hoằng tuyên Phật pháp… [E, số 1, tr. 45-47].

Từ đó, năm 1934, tại Hà Nội, Hội Phật giáo Bắc Kỳ được thành lập, do cư sĩ
Nguyễn Năng Quốc làm Hội trưởng, tôn HT. Thanh Hanh (Tổ Vĩnh Nghiêm) làm
Thiền gia Pháp chủ. Tuy thành lập muộn hơn các Hội ở Nam Kỳ và Trung Kỳ,
nhưng Hội Phật giáo Bắc Kỳ đã phát triển rất nhanh chóng. Chỉ trong vòng một
năm mà các chi hội đã được thành lập khắp nơi trên đất Bắc.

Hội xuất bản tuần báo Đuốc tuệ (1935) để hoằng dương chính pháp, đồng
thời mở trường đào tạo tăng sinh ở chùa Quán Sứ, trường ni tại chùa Bồ Đề và chùa
Bát Tháp. Khóa học bắt đầu từ bốn năm sơ cấp lên ba năm trung cấp.

Năm 1934, Hội Bắc Kỳ Cổ sơn môn được thành lập, do HT. Thanh Tường
(Đinh Xuân Lạc) đứng đầu. Cơ quan ngôn luận là tạp chí Tiếng chuông sớm (1935).

Năm 1940, Hội Phật giáo Bắc Kỳ qua nỗ lực của các nhà sư Quang Minh,
Thanh Thạnh, Doãn Hài và Thanh Tích phối hợp với Trường Viễn Ðông Bác Cổ đã
bắt đầu thực hiện bộ Đại Nam Phật điển tùng san. Công trình này có ý nghĩa lớn lao
là đã góp phần bảo tồn văn hóa Phật giáo và giữ gìn văn hóa dân tộc. Đến năm 1943,
28

bộ này đã thực hiện theo lối in dập lại được 8 tập các tác phẩm Phật giáo Việt Nam
bằng chữ Nôm và chữ Hán: Chư kinh nhật tụng, Thụ giới nghi phạm, Thiền uyển kế
đăng lục, Pháp hoa đề cương, Bát nhã trực giải, Khóa Hư lục, Trần Triều dật tồn
Phật điển lục và Lễ tụng hành trì yếu tập. Ðây là những tài liệu tham khảo hiếm hoi,
quý giá về các tác phẩm xưa của Phật giáo Việt Nam.

Ngoài ra, Hội cũng thực hiện thêm bộ Hải triều âm văn khố, giới thiệu các
tác phẩm tân thư dễ hiểu về Phật giáo Trung Hoa cận đại của các tác giả như Ðại sư
Thái Hư, Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, Châu Tự Ca, Âu Dương Kiến Vô... giúp
cho giới cư sĩ cựu học và tân học được dễ dàng hơn trong việc học Phật của mình.

Hội Phật giáo Bắc Kỳ còn tổ chức thành lập nhiều ban Đồng ấu ở các tỉnh
hội, thể thức hoạt động cũng giống như các ban Đồng ấu ở Trung Kỳ. Nghi thức lễ
Phật dành cho các em đã được Hội biên soạn bằng chữ Quốc ngữ. Cư sĩ Công Chân
là người có công nhất trong sự dạy dỗ và huấn luyện giới trẻ.

Năm 1943, Hội Thanh Niên Phật tử Việt Nam thành lập, do bác sĩ Nguyễn
Hữu Thuyết làm Hội trưởng. Hội chủ trương lấy tinh thần từ bi cứu độ và làm công
tác xã hội.

Có thể nói, từ năm 1934 đến 1945, Hội Phật giáo Bắc Kỳ đã tạo được nhiều
thành tích to lớn, đồng thời sự có mặt đông đảo của giới trí thức làm cho Hội thêm
khởi sắc. Các HT. Tâm Băng, Tâm Lĩnh, Tâm Bác, Thọ Cầu, Tâm Bảo, Thanh
Hoán, Thanh Hậu, Tâm Tấn, Trí Hải, Tố Liên, Tuệ Chiếu v.v.. đều là những người
đã hoạt động đắc lực cho phong trào Chấn hưng Phật giáo tại Bắc Kỳ lúc bấy giờ.

1.1.4. Những thành tựu chung của phong trào Chấn hƣng Phật giáo

Những năm đầu TK.XX, phong trào Chấn hưng Phật giáo đã lần lượt dấy lên
ở nhiều nơi. Hàng tăng sĩ với nhiệt tâm mạnh mẽ, bấy lâu ẩn dật, đến lúc thể hiện
tinh thần nhập thế tích cực của người đệ tử Phật.

Ngoài ra, ở cả ba miền đất nước còn có những cư sĩ trí thức cựu học lẫn tân
học, uyên thâm về cả thế học và Phật học. Họ là những cư sĩ có tâm huyết, đã tích
cực góp phần trong việc đổi mới cách thuyết giáo và giảng dạy cổ truyền trong chốn
Phật đường. Nhân vật trí thức đầy nhiệt huyết tiêu biểu lúc bấy giờ có: Thiều Chửu
29

Nguyễn Hữu Kha (1902-1954). Ông là đông y sĩ, người sáng lập Hội Phật học Bắc
Kỳ, trụ sở đặt tại chùa Quán Sứ (Hà Nội); phụ trách báo Đuốc tuệ của Hội. Bên
cạnh còn có Tâm Minh Lê Đình Thám (1897-1969), là bác sĩ tây y; sáng lập viên và
là Hội trưởng Hội Phật học Trung Kỳ (tức là An Nam Phật học hội), trụ sở đặt tại
chùa Trúc Lâm (Huế); chủ nhiệm kiêm chủ bút nguyệt san Viên âm, cơ quan hoằng
pháp của Hội. Người tiêu biểu thứ ba không thể không đề cập đến là Chánh Trí Mai
Thọ Truyền (1905-1973). Ông là Đốc phủ sứ, sáng lập chùa Xá Lợi (Sài Gòn) và
Hội Phật học Nam Việt, đóng góp rất nhiều cho tạp chí Từ quang của Hội.

Những thành tựu nổi bật của phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam là:

(1) Chấn hưng Phật học:

Các Hội Phật giáo được thành lập ở ba miền. Tuy mỗi Hội đều đề ra phương
thức hoạt động khác nhau tùy theo khả năng và điều kiện của từng vùng miền,
nhưng cùng hướng về mục tiêu chung là cải cách từ nội dung Phật học cho đến mô
hình sinh hoạt, tu học. Mục đích là chấn chỉnh tăng già, nâng cao trình độ Phật học
cho tăng ni, phổ cập giáo lý đến mọi tầng lớp quần chúng Phật tử. Do vậy, kinh
sách đã được chư tăng, học giả uyên thâm Phật học sưu tầm, biên dịch ra chữ Quốc
ngữ và ấn tống rộng rãi các nơi. Mỗi Hội đều có cơ quan ngôn luận để tuyên truyền
đường lối chấn hưng, đã tạo nên sức thu hút mạnh mẽ đối với quần chúng.

Các tạp chí Phật học được xuất bản làm phương tiện chấn chỉnh giáo lý và sự
tu hành của tăng sĩ, tín đồ, chuyển hóa được phần nào đức tin của quần chúng đối
với đạo Phật từ mê tín thành chánh tín. Sự ra đời của báo chí Phật giáo bằng chữ
Quốc ngữ và kinh sách Phật học phổ thông đã tạo nên một phong trào học Phật dễ
dàng cho đại chúng. Hơn nữa, vấn đề mở rộng đạo tràng thuyết pháp tại các cơ sở
tự viện đã tạo cơ hội cho nhiều người biết đến Phật pháp. Chính những hoạt động
của báo chí Phật giáo đã tạo điều kiện cho phong trào Chấn hưng Phật giáo càng
lang rộng và lớn mạnh trong cả nước, nhất là trên diễn đàn văn hóa dân tộc, văn hóa
Phật giáo cũng như các lĩnh vực khác liên quan đến Phật giáo nước nhà.

Từ phong trào Chấn hưng, đã tạo nên nhiều cuộc trao đổi, tranh luận về các
tư tưởng Phật học trên diễn đàn báo chí Phật giáo, với nhiều chủ đề được đặt ra liên
30

quan đến thế giới quan và nhân sinh quan Phật giáo. Điều này đã thu hút sự quan
tâm của các giới từ những người nghiên cứu Phật học cho đến những nhà trí thức
không thuộc Phật giáo. Nó có tác động mạnh mẽ trong cả nước về tình hình sinh
hoạt Phật giáo, đồng thời còn thể hiện tinh thần hội nhập Phật giáo thế giới theo xu
hướng phát triển.

Trước kia, kinh điển rất hiếm có, tín đồ muốn đọc kinh Phật phải tìm đến
chùa mượn nhưng cũng rất ít. Từ lúc phong trào Chấn hưng Phật giáo lan rộng thì
kinh sách Phật giáo bằng chữ Quốc ngữ khá nhiều và được bán rộng rãi tại các chùa
thuộc Hội Phật giáo, đồng thời các tạp chí Phật học cũng có thể gửi bằng đường bưu
điện đến tận nhà.

Các Hội Phật học đã quy tụ được nhiều học giả đến tìm hiểu Phật pháp. Tại
Hội Phật giáo Bắc Kỳ, nhiều nhân sĩ đã tham gia vào Ban Khảo cứu Phật học:
Nguyễn Văn Tố, Trần Trọng Kim, Trần Văn Giáp, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Văn
Ngọc, Dương Bá Trạc, Nguyễn Trọng Thuật, Bùi Kỷ v.v.. Tại tòa soạn Tiếng
chuông sớm ở chùa Bà Đá ta thấy cả Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Nguyễn Mạnh
Bổng, Nguyễn Tiến Lãng v.v..

(2) Bước đầu hình thành nền báo chí, văn học Phật giáo Việt Nam bằng chữ
Quốc ngữ. Đây chính là tiền đề dẫn đến việc hình thành Đại tạng kinh Việt Nam
bằng chữ Quốc ngữ sau này.

(3) Đào tạo được đội ngũ tăng tài kế thừa để phục vụ đạo pháp và dân tộc:

Xuất phát từ các Hội, nhiều trường Phật học được thành lập. Chương trình
giảng dạy giáo lý của mỗi trường đều được biên soạn cụ thể, riêng biệt theo các cấp
độ khác nhau. Đây là đường hướng giáo dục có cơ sở, theo một hệ thống từ thấp
đến cao, nhằm nâng cao trình độ Phật pháp, phát triển dân trí, cũng là lần đầu tiên
quá trình đào tạo tăng tài cho hiện tại và tương lai của Phật giáo được thực hiện có
tổ chức. Như lời nhận xét của Phạm Quỳnh trong dịp viếng thăm Phật học đường
Báo Quốc ngày 29.05.1937: “Trường Sơ đẳng Phật học lập ra chưa đầy ba năm mà
học sinh đã làm được bài chữ Hán, học kinh tiểu thừa, lý nghĩa đều đã rõ nhiều lắm.
31

Trong các điệu (học tăng trẻ) lên nói, có điệu mới có mười, mười hai tuổi mà thôi,
thật đáng khen công đức các ngài dạy dỗ” [D, số 25, tr.51].

Nhờ sự củng cố, trưởng thành về tổ chức đó mà phong trào Chấn hưng Phật
giáo của các Hội ở ba miền đã xây dựng được một số cơ sở đào tạo gọi là Phật học
đường để đào tạo tăng ni một cách quy củ.

Tại Nam Kỳ có trường Tăng sĩ ở Chợ Lớn, các lớp Phật học ở các chùa Tiên
Linh (Bến Tre), chùa Phi Lai (Châu Đốc), chùa Giác Hoa (Bạc Liêu), chùa Long
Hòa (Trà Vinh), chùa Thiên Phước (Vĩnh Long). Đặc biệt vào năm 1934, Phật học
đường Lưỡng Xuyên khai giảng và đào tạo được một số tăng tài: HT. Thiện Hòa,
Thiện Hoa, Hành Trụ, Hiển Thụy, Chánh Quang v.v..

Tại Trung Kỳ có trường Sơ đẳng Tăng, Phật học đường Trúc Lâm và Tây
Thiên, Phật học đường Báo Quốc và Kim Sơn (Huế).

Đặc biệt, trường An Nam Phật học đã đào tạo được năm mươi học tăng nội
trú. Sau khi học xong sáu năm tiểu học và ba năm trung học, lớp này được thi lên
đại học. Về sau, lớp đã có mười vị Tăng sĩ xuất sắc như HT. Trí Quang, Thiện Siêu,
Trí Thuyên v.v.. Từ năm 1922, HT. Giác Tiên đã rước HT. Phước Huệ từ chùa
Thập Tháp (Bình Định) về chùa Trúc Lâm (Huế) để mở trường Sơn Môn Phật học
với tư cách là một trường Đại học. Trường đã đào tạo được những vị tài đức như
HT. Mật Thể, Trí Thủ, Quảng Huệ, Mật Hiển, Mật Khế, Thiện Trí v.v.. Sau đó bốn
năm, HT. Mật Khế lại mở một lớp tiểu học để đào tạo bốn mươi học tăng tại chùa
Tường Vân và một lớp tại chùa Từ Đàm cho hai mươi học ni.

Năm 1937, tại chùa Long Khánh (Bình Định) đã khai giảng trường Trung
đẳng Phật học, chùa Tây Thiên (Phan Rang) mở được một lớp tiểu học. Riêng Phật
học đường của Hội Đà Thành Phật học ở Đà Đẵng đã khai giảng được hai lớp cấp
tiểu học và trung học.

Hội Phật giáo Bắc Kỳ đã tổ chức được hai lớp tiểu học cho tăng ni sinh tại
chùa Cao Phong ở Phúc Yên và chùa Côn Sơn ở Hải Dương. Một lớp trung học
được khai giảng tại chùa Quán Sứ và một lớp đại học được duy trì tại chùa Sở (Hà
Đông). Tổng số các học tăng nội trú của bốn lớp là 69 vị [C, số 159].
32

Có thể nói, các cơ sở đào tạo của Phật giáo lúc bấy giờ không chỉ đào tạo
được đội ngũ tăng ni trí thức để hỗ trợ cho phong trào Chấn hưng Phật giáo mà còn
định hình được một phương hướng, nề nếp mới trong việc đào tạo tăng tài ở những
giai đoạn về sau.

Ngoài ra, hệ thống chùa chiền đều được chấn chỉnh, từ việc thờ tự cúng bái
cho đến hình thức lễ nghi và các sinh hoạt trong chùa đều được tổ chức trang
nghiêm. Chùa được xem là cơ sở quan trọng nhất của việc phát triển Sơn môn pháp
phái và của Hội. Đây không chỉ là cơ sở tín ngưỡng tâm linh của cộng đồng người
Việt mà còn là cơ sở đại diện cho nền văn hóa dân tộc.

Quả thật, phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam giai đoạn nửa đầu
TK.XX có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng không những trong giới Phật giáo mà
còn ngoài xã hội. Chấn hưng Phật giáo đã đưa Phật giáo trở lại đúng với truyền
thống, vai trò và vị trí vốn có trong xã hội Việt Nam. Đặc biệt, phong trào đã xóa bỏ
sự mê tín dị đoan, bỏ đi những hủ tục tín ngưỡng cúng vái không thích hợp trong
cuộc sống, đồng thời đem giáo pháp vào đời để ban vui cứu khổ cho chúng sinh
đúng theo tinh thần nhập thế tích cực của đạo Phật. Xem tiếp lời của Phạm Quỳnh
trong dịp viếng thăm Phật học đường Báo Quốc ngày 29.05.1937, chúng ta sẽ thấy
rõ hơn ý nghĩa này:

“Cái tinh thần Việt Nam của chúng ta đây tất phải nhờ các học thuyết tạo
thành, mà xét về đức dục thì một phần lớn là do công nghiệp của Phật học.
Phật học đã có ảnh hưởng về luân lý đạo đức trong dân tộc ta như vậy, thì ai
là người muốn bảo tồn tinh thần dân tộc Việt Nam tất phải tán thành cho
Phật học… Tôi xin khuyên các thầy học sinh nên mở mang đạo lý của Phật
rõ ràng cho công chúng dễ hiểu. Xin chúc các Hội Phật học và Tăng già đạt
mục đích chấn hưng Phật học” [D, số 25, tr.54-55].

Nhìn chung, phong trào Chấn hưng Phật giáo trong những năm đầu TK.XX
đã có nhiều hội Phật học ra đời, nhiều tạp chí xuất bản và nhiều trường lớp Phật học
v.v.. liên tục hình thành. Tất cả đều cùng chung ý tưởng hướng về mục đích đào tạo
tăng tài để hoằng dương chính pháp, đồng thời còn khơi dậy, hun đúc tinh thần yêu
33

nước, giữ gìn truyền thống văn hóa của dân tộc và vươn lên vì hòa bình, độc lập, tự
do, thống nhất Tổ quốc Việt Nam.

Với những ý nghĩa trên mà phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam đến
hôm nay đã được xem là nền tảng để xây dựng một ngôi nhà Phật giáo Việt Nam
vững mạnh, luôn đồng hành cùng với Dân tộc trong sự nghiệp phát triển đất nước
và đạo pháp trong thời hiện đại.

1.1.5. Những nhân vật tiêu biểu trong phong trào Chấn hƣng Phật giáo

Lịch sử cho thấy, phong trào Chấn hưng Phật giáo được khởi xướng từ HT.
Khánh Hòa tại Nam Kỳ, HT. Giác Tiên tại Trung Kỳ và HT. Thanh Hanh tại Bắc
Kỳ. Đó chính là ba vị được tôn là Tổ sư của phong trào Chấn hưng Phật giáo lúc
bấy giờ.

Để tìm hiểu về tiểu sử của các nhân vật tiêu biểu này, chúng tôi đã căn cứ
vào tài liệu Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang [67] và Tiểu sử danh tăng
Việt Nam thế kỷ XX của Thích Đồng Bổn [3].

HT. Khánh Hòa pháp danh Thích Như Trí, sinh ngày 22 tháng 4 năm Mậu
Dần (1877) tại làng Phú Lễ, tổng Bảo An, quận Ba Tri, nay là xã Phú Lễ, huyện Ba
Tri, tỉnh Bến Tre. Hòa thượng xuất gia năm 19, thọ giáo ở chùa Kim Cang và chùa
Long Triều (Tân An). Vốn là người thông minh lại hiếu học, cho nên sau mười năm
theo thầy học đạo, nghiên cứu kinh sách, ngài đã nổi tiếng là một nhà sư tinh thông
về Phật học. Hòa thượng được cử làm trú trì ở các chùa Khải Tường, Long Phước,
Hàng Lâm… Năm 1907, Hòa thượng về trú trì chùa Tiên Linh và tổ chức việc
truyền giảng giáo lý nhà Phật, đào tạo tăng sinh, rồi dần dần mở rộng tầm hoạt động
ra các tỉnh khác ở Nam Kỳ.

Hòa thượng còn hiểu biết nhiều về Nho học, đã đi đến nhiều nơi và giao
thiệp rộng với các nhân sĩ, trí thức, cư sĩ Phật giáo, đặc biệt sống gần gũi với quần
chúng tín đồ nên Hòa thượng có sự hiểu biết sâu sắc về đời sống của nhân dân,
nguyện vọng, ước mơ của họ cùng tình hình xã hội của Nam Kỳ trong những thập
niên đầu TK.XX. Từ đó, Hòa thượng cùng với một số nhà sư có tinh thần yêu nước,
tiến bộ như HT. Huệ Quang, sư Thiện Chiếu… tiến hành một cuộc vận động Chấn
34

hưng đạo Phật. Chính Hòa thượng là người sáng lập Hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật
học và quy tụ nhiều vị cao tăng, nhân sĩ Phật giáo có tiếng tăm lúc bấy giờ.

Từ năm 1930, Hòa thượng được bầu làm Hội trưởng Hội Nam Kỳ nghiên
cứu Phật học, chủ bút tạp chí Từ bi âm kiêm Giám đốc Phật học tùng thư và là
người lãnh đạo tinh thần có uy tín lớn đối với Phật tử Nam Kỳ và Trung Kỳ. Cũng
trong khoảng thời gian này, Hòa thượng đã đi đến nhiều nơi để vận động đổi mới
hoạt động của đạo Phật. Về Trà Vinh, Hòa thượng cùng HT. Huệ Quang thành lập
Hội Lưỡng Xuyên Phật học và xuất bản tạp chí Duy tâm Phật học.

Khi Cách mạng tháng Tám 1945 bùng nổ, Hòa thượng kêu gọi các Phật tử
trong tỉnh và trong miền ủng hộ chính quyền cách mạng, tham gia vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong buổi đầu độc lập. Cũng trong thời gian này, do
tuổi cao sức yếu, Hòa thượng ở hẳn tại chùa Tiên Linh, ít đi đâu xa. Năm Đinh Hợi
(1947), Hòa thượng lâm bệnh nặng, biết mình không qua khỏi, nên đã cẩn thận sắp
xếp lại những tổ chức trong Phật giáo, căn dặn học trò, tín đồ tham gia phục vụ đạo
pháp và dân tộc rồi từ giã cõi đời ngày 19 tháng 6 năm Đinh Hợi.

Với lòng kính trọng một vị cao tăng uyên thâm về mặt triết học Phật giáo, có
công xây dựng Giáo hội, giàu lòng yêu nước, năm 1951, Hội Tăng già Giáo hội và
Lục hòa Phật tử suy tôn HT. Khánh Hòa làm Tổ của Phật giáo Nam Kỳ. Sinh ra trên
mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, HT. Khánh Hòa đã tiếp thu và phát huy tinh
thần đó trong việc tu thân hành đạo một cách tích cực và sáng tạo. Cuộc đời của
Hòa thượng là một tấm gương cao đẹp về tinh thần yêu nước, lòng vị tha cho hàng
vạn tín đồ Phật giáo noi theo.

Ở Nam Kỳ, ngoài HT. Khánh Hòa còn có những Hòa thượng đầy nhiệt huyết
và đã đóng góp công sức không nhỏ cho phong trào Chấn hưng Phật giáo như: HT.
Liên Tôn, Bích Liên, Trí Thiền…

Người tiêu biểu trong phong trào Chấn hưng Phật giáo Trung Kỳ là HT. Giác
Tiên. Hòa thượng thế danh là Nguyễn Duy Quyển, sinh năm Canh Thìn, niên hiệu
Tự Ðức đời thứ 33 (1879). Chính quán thuộc làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương,
huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
35

Năm 1883, khi Hòa thượng được bốn tuổi thì song thân đều qua đời. Ngài
được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Thấy Hòa thượng có bẩm chất thông
minh nên ông bà cho theo Nho học. Sau một thời gian, nhận thấy giáo lý Phật đà
mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát, ngài xin hai bác đi xuất gia đầu Phật.

Năm 11 tuổi, ngài cầu thọ giáo với Tổ Tâm Tịnh và đến tu học tại Tổ đình
Từ Hiếu. Nơi đây, ngài Hải Thiệu đang là trú trì và ngài Tâm Tịnh làm Giám tự.

Năm 14 tuổi, ngài được Tổ Tâm Tịnh cho thọ Sa di. Năm 28 tuổi (1907),
ngài được bổn sư cho đăng đàn thọ Cụ túc giới và đỗ Thủ khoa. Sau khi đắc giới,
ngài vừa chuyên tinh hành trì giới luật và nghiên cứu những bộ kinh cao sâu, vừa
hầu cận bên cạnh sư phụ.

Năm 1913, sư bà Diên Trường xây dựng xong chùa Trúc Lâm ở làng Dương
Xuân Thượng và mời HT. Giác Tiên làm trú trì. Năm 1920, khi HT. Huệ Pháp mở
giảng đường tại chùa Thiên Hưng, HT. Giác Tiên đã cùng các đệ tử đến cầu học.
Năm Giáp tý (1924), đời vua Ðồng Khánh thứ 9, ngài vân tập đại tăng và tổ chức an
cư kiết hạ.

Năm 1925, Hòa thượng nhận được chiếu chỉ của triều đình phong làm trú trì
chùa Diệu Đế. Năm 1928, sau khi trùng tu Phật điện và tăng xá chùa Trúc Lâm,
Hòa thượng mở Phật học đường tại đây. Từ đó, Trúc Lâm thành nơi đào tạo tăng tài
và cũng là khởi điểm đầu tiên cho Ðại học Phật giáo tại cố đô Huế nói riêng và
Trung Kỳ nói chung. Năm Canh Ngọ (1930), ngài khuyến khích và giúp đỡ cho sư
bà Diệu Hương mở ni trường Diệu Ðức.

Năm Tân Mùi (1931), Hòa thượng đứng ra vận động thành lập Hội An Nam
Phật học. Một mình ngài tự đi cung thỉnh chư vị Hòa thượng, Thượng tọa có tài đức
ra chung lo Phật pháp. Năm Quý Dậu (1933), ngài ủy thác cho HT. Mật Khế, vị đệ
tử lớn và xuất sắc nhất của ngài mở một trường Tiểu học Phật học tại chùa Vạn
Phước để cho lớp Sa di của các chùa có nơi đến học.

Ngoài vị đệ tử lớn là HT. Mật Khế, còn có một vị đệ tử lớn thọ tại gia Bồ tát
giới đã theo học với ngài từ năm 1928 là bác sĩ Tâm Minh Lê Ðình Thám. Tâm
Minh vâng lời sư phụ để lo cho Hội An Nam Phật học, lo soạn thảo chương trình
36

giáo dục thanh thiếu nhi và kết hợp thành lập Đoàn Phật tử tinh tấn tu học. Hạnh
nguyện của ngài là làm thế nào để đưa Phật giáo vào lòng dân tộc một cách trong
sáng và hữu hiệu. Tuy nhiên, việc làm vừa mới được một đoạn đường thì ngài thọ
bệnh.

Ngày 15 tháng 11 năm 1936, ngài cho vân tập tăng chúng lại để nghe ngài
giảng kinh Pháp Bảo Ðàn. Hai hôm sau, khi giảng xong phẩm Bát Nhã, ngài đã
nhìn từng vị đệ tử để truyền kệ. Vào lúc 20 giờ ngày 17.11.1936, niên hiệu Bảo Ðại
thứ 11, ngài im lặng và từ từ đi vào cõi tịnh. Ngài thọ thế 57 tuổi.

Chư Tôn đức Tăng già, quần chúng Phật tử và Hội An Nam Phật học tề tựu
về Trúc Lâm Ðại Thánh tự để lo lễ cúng dường cũng như phò nhục thân ngài nhập
bảo tháp rất trọng thể.

Ngài là vị đệ tử xuất sắc nhất của Tổ Tâm Tịnh (Khai sơn Tổ đình Tây Thiên
Di Ðà). Ngài không những là vị xuất trần thượng sĩ, mà còn là một thi sĩ đã để lại
những áng thơ hay, những di bút xuất thần mà các Tổ đình Tường Vân, Từ Quang,
Tra Am v.v.. vẫn còn tôn thờ trong hậu tổ hay nơi chánh điện. Những vị đệ tử xuất
gia của ngài có: Mật Tín, Mật Khế, Mật Hiển, Mật Nguyện, Mật Nhơn, Mật Thể,
Diệu Huệ và Diệu Không. Tại gia thì có: Ðại thần Hồ Ðắc Trung, bác sĩ Tâm Minh
Lê Ðình Thám và bác sĩ Trương Xướng. Những vị ấy đều đóng vai trò quan trọng
trong phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam.

Những vị Hòa thượng tiêu biểu cho phong trào Chấn hưng Phật giáo Trung
Kỳ lúc bấy giờ còn có HT. Phước Huệ. Hòa thượng tên đời là Nguyễn Tấn Giao,
sinh năm 1869 tại xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài xuất gia
năm 13 tuổi tại chùa Thập Tháp, theo học với các HT. Châu Long chùa Tịnh Lâm
(Phù Cát), HT. Luật Truyền chùa Từ Quang (Phú Yên). Hòa thượng thọ Đại giới
năm 1889 và đắc pháp năm 1892 cùng với HT. Luật Truyền. Bước đường hoằng
pháp của Hòa thượng bắt đầu từ năm 1894 khi nhận làm trú trì chùa Phổ Quang
(Tuy Phước, Bình Định).

Năm 1901, Hòa thượng được triều đình Huế lúc này là vua Thành Thái ban
giới đao độ điệp làm Tăng cang chùa Thập Tháp. Năm 1908, Hòa thượng được mời
37

ra Kinh đô Huế làm chủ lễ cho một khóa giảng kinh tại chùa Trúc Lâm và được
thỉnh vào Hoàng cung giảng pháp cho vua, quan cùng hoàng gia. Các vua Thành
Thái, Duy Tân, Khải Định đều từng được nghe Hòa thượng giảng kinh và danh hiệu
Quốc sư đã được tôn xưng trong hoàn cảnh này.

Chùa Thập Tháp là một trong số các ngôi Tổ đình nổi tiếng của đất Bình
Định. Nếu như lúc khởi đầu, ngôi Tổ đình ấy được chú ý nhiều do vị khai sơn là HT.
Nguyên Thiều, người có công lớn trong sứ mạng truyền bá Phật giáo ở Đàng Trong
thời Nam Bắc phân tranh, hậu bán thế kỷ XVII; thì vào thời hiện đại, Tổ đình Thập
Tháp được cả nước biết đến vì sự có mặt của Quốc sư Phước Huệ.

Năm 1920, trong ý hướng đào tạo tăng tài cho sứ mạng hoằng dương chính
pháp, HT. Phước Huệ đã đứng ra tổ chức các lớp Phật học tại chùa Thập Tháp và
chùa Long Khánh (Quy Nhơn). Chính trong thời gian này, hai thầy Mật Khế (1904-
1935) và Đôn Hậu (1904-1993) đã vào tận chùa Thập Tháp để cầu học.

Từ năm 1930-1937, Quốc sư Phước Huệ thường xuyên ra kinh đô Huế để


giảng dạy Phật pháp cho các lớp cao đẳng, trung đẳng ở các chùa Trúc Lâm, Tường
Vân, Tây Thiên. Trong số các tăng sĩ từng theo học với Quốc sư, đáng chú ý nhất là
HT. Mật Thể (1912-1961), tác giả sách Việt Nam Phật giáo sử lược. Sách này được
Quốc sư đề tựa bằng chữ Hán.

Từ năm 1938, với cương vị là Đốc giáo của Phật học đường cấp trung đẳng
do Hội Phật học Bình Định tổ chức tại chùa Long Khánh - Quy Nhơn, Quốc sư
Phước Huệ đã đóng góp nhiều cho công tác đào tạo tăng tài. Các HT. Thiện Hòa
(1907-1978), Thiện Hoa (1918-1973) cũng từng theo học tại đây.

Sư bà Thích nữ Diệu Không, trong lời tựa bản dịch kinh Lăng Già tâm ấn
của mình đã nhắc lại kỷ niệm từng theo học với Quốc sư Phước Huệ.

Bộ Lăng Già tâm ấn tôi học theo cách đây hơn ba mươi năm với HT. Thập
Tháp khai dạy ở chùa Trúc Lâm, tỉnh Thừa Thiên vào năm 1932. Lớp Đại
học ấy gồm có các vị Hòa thượng, Thượng tọa và cư sĩ Tâm Minh. Được
dự thính kinh này, tôi như người mê sực tỉnh, nhờ vậy tôi bỏ được cái tập
quán phú quý, ô trược, tiến thân vào con đường đạo [62, tr.7].
38

Nói chung, sự đóng góp lớn lao của Quốc sư Phước Huệ là ở lĩnh vực giảng
dạy, đào tạo lớp hậu học, đúng như nhận xét của Nguyễn Lang: “Khả năng giáo hóa
của HT. Phước Huệ rất vĩ đại, vì vậy người đương thời đã tặng cho ông mỹ hiệu
“Phật pháp thiên lý câu”, nghĩa là “Con ngựa ngàn dặm của Phật pháp” [67, tr.846].
Hòa thượng viên tịch năm 1945 tại chùa Thập Tháp.

Tại Bắc Kỳ, người khởi xướng phong trào Chấn hưng Phật giáo là HT.
Thanh Hanh. Hòa thượng thế danh là Nguyễn Thanh Ðàm, pháp hiệu Thanh Hanh,
sinh năm 1840 trong một gia đình thi lễ tại làng Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, tỉnh
Hà Ðông (nay thuộc Hà Nội). Năm lên 7 tuổi, ngài được gia đình cho học chữ Hán.
Nhờ có sẵn thiên tư, lại được cha rèn thầy dạy, nên việc học của ngài tiến bộ nhanh
chóng.

Năm lên 10 tuổi (1850), ngài đã đến xuất gia với vị Hòa thượng họ Nguyễn ở
chùa Hòe Nhai - Hà Nội. Năm 18 tuổi (1858), ngài được về chùa Vĩnh Nghiêm, tỉnh
Bắc Giang, tiếp tục tu học dưới sự chỉ dẫn của HT. Tâm Viên. Năm 20 tuổi (1860),
ngài thọ Cụ túc giới tại Ðại giới đàn chùa Vĩnh Nghiêm. Sau đó ngài vẫn tiếp tục ở
lại chùa tu hành nghiên cứu giáo lý. Ngài tu học rất tinh tấn và trở thành một nhân
vật rường cột của Tổ đình này.

Năm 30 tuổi (1870), ngài được cử vào tỉnh Ninh Bình giảng dạy Phật pháp
cho tăng ni ở các chùa: Phượng Ban, Hoàng Kim, Phúc Tỉnh v.v.. Ðến chỗ nào,
ngài cũng chỉ thiết tha một niềm: lấy việc hoằng dương chính pháp, giáo hóa tăng ni
làm phận sự. Ngài luôn tâm niệm làm mọi việc lợi lạc cho tín đồ là sứ mệnh của
người xuất gia và thời gian làm Pháp sư truyền đạo ròng rã là 30 năm. Tăng ni và
thập phương thiện tín, ai cũng được thấm nhuần Phật pháp do ngài truyền trao.

Năm Canh Tý (1900), lúc ngài 60 tuổi, sư huynh của ngài là HT. Thanh
Tuyền viên tịch. Ngài trở về Tổ đình Vĩnh Nghiêm và được sơn môn suy cử vào
ngôi kế đăng. Từ đó tăng chúng và tín đồ thường gọi ngài là Tổ Vĩnh Nghiêm.

Trong cương vị đứng đầu một ngôi Tổ đình lớn vào bậc nhất Bắc Kỳ, công
việc điều hành đa đoan, nhưng ngài vẫn không xao lãng việc hoằng dương chính
pháp, đào tạo tăng tài, bồi dưỡng lớp kế thừa. Ngài thường xuyên lui tới trường
39

Viễn Ðông Bác Cổ ở Hà Nội, tìm tòi tam tạng kinh điển đại thừa, rồi xin phép ban
Giám đốc cho đồ chúng đem bút giấy vào sao chép về cho khắc ván, ấn hành nhiều
bản. Bước đi tiên phong của HT. Thanh Hanh đã tạo nên phong trào các sơn môn
lớn trên đất Bắc đua nhau sao chép và in ấn kinh sách, giúp tăng ni và cư sĩ có tài
liệu Phật học tham cứu. Nhờ đó mà các thiền môn có được những bộ kinh quý hiếm
như kinh Hoa Nghiêm Sớ Tấu, kinh Ðại Bát Nhã, kinh Ðại Bảo Tích, kinh Duy Ma
Cật, kinh Trường A Hàm, luật Tứ Phần Tu Trì, luật Trừng Trị Tục Khắc và các bộ
luận về môn Duy Thức với bộ Phụ Giáo Biên v.v.. Các bộ kinh, luật, luận ấy được
khắc ván và in, đều có mang lời tựa và lời bạt của Hòa thượng.

Hòa thượng luôn quan tâm đến việc Chấn hưng Phật giáo, quy tụ các sơn
môn về một mối. Ngày 05 tháng 12 năm 1934, Hội Phật giáo Bắc Kỳ mới chính
thức được thành lập. Hội đã thỉnh cầu HT. Thanh Hanh làm Thiền gia Pháp chủ.
Tuy tuổi đời lúc đó đã 94, sức khỏe giảm sút nhiều, nhưng vì ước nguyện mấy chục
năm nay của Hòa thượng đã thành sự thật, nên ngài vẫn vui vẻ nhận lãnh nhiệm vụ
nặng nề ấy. Trong lễ suy tôn được tổ chức rất long trọng tại chùa Quán Sứ ngày 23
tháng 12 năm 1934, Hòa thượng đã kêu gọi tăng sĩ theo nguyên tắc lục hòa của Phật
dạy mà bỏ hết những dị biệt của tông nọ phái kia để dốc lòng chấn hưng Phật giáo.

Sau bao năm tận tụy phục vụ Ðạo pháp, Hòa thượng đã đào tạo được nhiều
tăng tài, góp sức cho phong trào Chấn hưng Phật giáo, hòa giải những ý kiến dị biệt,
đưa các sơn môn Bắc Kỳ về chung một mái nhà Phật giáo. Công đức của Hòa
thượng thật vô cùng to lớn. Ngày mồng 8 tháng 12 năm Bính Tý (1936), Hòa
thượng đã viên tịch tại chùa Vĩnh Nghiêm, hưởng thọ 96 tuổi đời, 86 tuổi đạo. Có
thể nói, ý nguyện hòa hợp tăng già, hưng thịnh Phật đạo để làm mẫu mực cho đời
và hy vọng giải thoát chúng sinh của Hòa thượng vẫn còn sáng mãi.

Ngoài Tổ Thanh Hanh, từ 1932 trở đi, ở Bắc Kỳ cũng xuất hiện nhiều bậc
tăng sĩ, cư sĩ đóng góp công sức rất lớn cho phong trào Chấn hưng Phật giáo tại nơi
này, như HT. Tuệ Tạng, Mật Ứng, Tố Liên, Trí Hải... cùng các cư sĩ: Nguyễn Năng
Quốc, Thiều Chửu, Trần Trọng Kim, Nguyễn Can Mộng, Nguyễn Trọng Thuật,
Phan Kế Bính...
40

Tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp của một vài vị Hòa thượng tiêu biểu trong
phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam đã cho chúng ta thấy được những cống
hiến, hy sinh cao cả của chư vị Tổ sư nửa đầu TK.XX đối với quá trình phát huy
Phật giáo và duy trì nền hòa bình dân tộc. Họ đã vì lợi ích chung của nhân dân mà
đem cả tinh thần lẫn vật chất của mình để cống hiến, phụng sự cho các Hội Phật
giáo, nhằm tạo điều kiện cho các Hội hoạt động truyền bá chính pháp. Vị nào cũng
đều hết lòng lo xây dựng, mở trường Phật học để đào tạo tăng tài, hun đúc cho thế
hệ tương lai tinh thần vì đạo pháp và dân tộc; đồng thời còn quan tâm in ấn kinh
điển cho quần chúng có cơ hội tiếp cận Phật pháp mà nương theo tu tập, làm mọi
điều lành. Những tấm gương sáng ấy đã tạo nên trang sử huy hoàng của Phật giáo
nửa đầu TK.XX và cả đến ngày nay.

1.2. TÌNH HÌNH BÁO CHÍ PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƢỚC 1945

Báo chí Phật giáo Việt Nam ngay từ những năm đầu của TK.XX chưa xuất
hiện nhiều. Mãi đến khi có phong trào Chấn hưng Phật giáo vào thập niên 1930, báo
chí Phật giáo mới thực sự khai sinh và phát triển. Như nhà nghiên cứu Huỳnh Văn
Tòng đã viết: “Phong trào Chấn hưng Phật giáo với việc thành lập nhiều hội đoàn,
tổ chức nghiên cứu Phật giáo, cũng có những tờ báo riêng như Từ bi âm, Đuốc tuệ,
Đuốc chân lý, v.v.. [116, tr.295].

Vì báo chí Phật giáo là một trong những phương tiện chính yếu làm lan tỏa
tư tưởng chấn hưng Phật giáo, do đó sự phát triển báo chí Phật giáo gắn liền với
diễn trình chấn hưng Phật giáo tại Việt Nam. Những tạp chí Phật giáo lần lượt được
xuất bản, đã đóng góp sức mạnh to lớn cho phong trào Chấn hưng Phật giáo lúc bấy
giờ. Cho nên, khi đề cập đến báo chí Phật giáo, những nhà nghiên cứu đều lấy mốc
thời gian thập niên 1930-1945 làm khởi điểm và phong trào Chấn hưng Phật giáo
Việt Nam làm nền cho hoạt động của báo chí Phật giáo.

Ngoài ra, trong quá trình phục vụ cho việc đẩy mạnh phong trào Chấn hưng
Phật giáo, báo chí Phật giáo còn thực hiện nhiệm vụ hoằng pháp, xây dựng nền văn
học Phật giáo trong văn học chữ Quốc ngữ. Trong giai đoạn này, giáo lý của Đức
Phật được những học giả, nhà nghiên cứu quan tâm truyền bá bằng chữ Quốc ngữ
và thậm chí tranh luận rất nhiều trên diễn đàn ngôn luận.
41

Lịch sử cho thấy, từ sau năm 1929, các Hội nghiên cứu Phật học từ ba miền:
Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ tiếp nối ra đời, nhằm tu chỉnh những sai lạc trong
Phật giáo, do hoàn cảnh lịch sử dưới chế độ thực dân Pháp tạo nên. Ngôn luận cho
các Hội Phật học chính là những tờ báo Phật giáo. Lịch sử ra đời và quá trình tiến
triển của báo chí Phật giáo lúc này quả thật có ý nghĩa, đã kịp thời nói lên được
phần nào giáo nghĩa tích cực, truyền thống tốt đẹp của Phật giáo và dân tộc, góp
phần vào công cuộc đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc Việt Nam.

1.2.1. Báo chí Phật giáo ở Nam Kỳ

Năm 1929, HT. Khánh Hòa kết hợp với HT. Huệ Quang, Từ Nhẫn, Chơn
Huệ và Thiện Chiếu đã vận động giới cư sĩ hữu tâm cho ấn hành tạp chí Pháp âm,
với số đầu ra ngày 31.8.1929. Trụ sở tạp chí đặt tại chùa Xoài Hột (Mỹ Tho) và
được sự ủng hộ, đóng góp của Phật tử tại chùa. Đây là tạp chí Phật giáo đầu tiên
bằng chữ Quốc ngữ, mục đích chính là kêu gọi tăng ni đoàn kết chấn hưng, học
Quốc ngữ để giải quyết nạn thất học trong tăng già.

Nội dung tạp chí gồm có 9 yếu mục. Mục đầu tiên là những lời bày tỏ và lời
kêu gọi Phật tử tham gia viết bài, ủng hộ tài chính để tổ chức Thư xã và thành lập
Phật học viện để giảng dạy giáo lý. Những mục tiếp theo nói về Phật học, Phật giả,
Tự trần, Những điều cần thiết cho người tại gia tín ngưỡng Phật giáo, Phật giáo
luân lý học, Ai tri âm đó biết cho ai, Văn uyển và mục cuối cùng là hành trình nhựt
ký. Đặc biệt, thông qua mục Tự trần của HT. Khánh Hòa, giúp chúng ta hiểu được
những thông tin về đường hướng chấn hưng Phật giáo ở Nam Kỳ lúc giờ. Pháp âm
chỉ ra được một số duy nhất thì đình bản.

Ngay sau đó, Thiện Chiếu đã vận động xuất bản một tạp chí khác lấy tên là
Phật hóa Tân Thanh niên, nhắm tới giới thanh niên trí thức. Nội dung trong tạp chí
này gồm tám “yếu mục”: Ai là người lo đời thương đời muốn làm việc cho đời?,
Nước ta ngày nay cần phải chấn hưng Phật giáo, Kính cáo các sư cụ, Kính cáo các
tín đồ, Phật học vấn đáp, Bài diễn thuyết của ông Lương Khải Siêu tại Phật giáo
tổng hội nước Tàu, Một buổi hội nghị tại chùa Linh Sơn, Chương trình chùa của
“Phật hóa Tân Thanh niên” sẽ lập. Cụ thể, bài viết của tác giả Huệ Thanh về Một
42

buổi hội nghị tại chùa Linh Sơn đã giúp chúng ta phỏng đoán được có lẽ tạp chí
Phật hóa Tân Thanh niên ra đời trong khoảng tháng 10 hay tháng 11 năm 1929.

Tuy nhiên, thật đáng tiếc, tạp chí tiếp sức cho Pháp âm cũng chỉ mới ra được
một số thì bị đình bản vì lý do tài chính.

Kế đến, Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học xuất bản tạp chí Từ bi âm, ra số
đầu tiên ngày 01.01.1932 do HT. Khánh Hòa làm chủ nhiệm, HT. Bích Liên làm
chủ bút, Đại đức Liên Tôn làm phó chủ bút. Trụ sở đặt tại chùa Linh Sơn, số 149
đường Douaumont (ngày nay là đường Cô Giang, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh).

Nội dung trong Từ bi âm ở hai số đầu tiên gồm 7 yếu mục, nhưng từ số 3 trở
về sau hầu như đề cập đến 8 yếu mục, có số lên đến 9, 10 yếu mục. Tuy nhiên, nội
dung đều xoay quanh các chủ đề: Luận về triết lý Phật giáo, Phật pháp căn bản,
phiên dịch kinh Phật, lịch sử Phật Thích Ca và chư vị Bồ tát, thời sự, chuyện vui,
tiểu thuyết và văn uyển.

Chủ đề Luận về triết lý Phật giáo chủ yếu đăng những bài triết lý Phật giáo
qua nhân sinh quan và vũ trụ quan; những bài giải nghĩa về lời Phật dạy, nhằm giúp
tín đồ nắm bắt được giáo lý đạo Phật từ cơ bản đến nâng cao. Mục Thời sự phê phán
nhiều đến việc mê tín dị đoan, hướng cho quần chúng nhân dân đi đúng con đường
chính pháp của Phật. Mục Văn uyển đa phần đăng các sáng tác thơ, thỉnh thoảng có
những bài ca, phú... Nói chung đều hướng về mục tiêu khuyến thiện, hướng con
người sống theo tinh thần đạo đức Phật giáo.

Những tác giả đầu đóng góp nhiều công sức cho tạp chí Từ bi âm trong thời
kỳ đầu có: HT. Giác Nhiên, Bích Liên, Trí Độ, Liên Tôn, Thiện Dụng, Giác Nhựt,
Nhựt Chánh... Sau này có thêm sự cộng tác của thầy Thiện Minh, sư cô Diệu Minh,
Giảng Trai, Đạo Tế, Kim Xuân, Chánh Niệm, Nguyên Bản v.v..

Từ bi âm được xem là diễn đàn đầu tiên có sự góp mặt của Ni giới. Các tác
giả và tác phẩm tiêu biểu: Ni sư Diệu Tịnh với các Lời than phiền của mộ cô vãi (số
27), Cái án nguỵ truyền Chánh pháp (số 73), Ni sư Diệu Ngôn đóng góp bài Đối
với nữ lưu hiện thời - chị em chúng ta có nên ghé mắt đến không (số 100), sư cô
Diệu Tu với bài Đôi lời thỏ thẻ (110), sư cô Diệu Minh với bài Bàn về vấn đề hoằng
43

dương Phật pháp về bên nữ giới (số 115, 116, 117). Thông qua các bài viết, các tác
giả kêu gọi chấn hưng Ni giới, đấu tranh cho sự bình đẳng của nữ giới trong xã hội.

Sau khi HT. Khánh Hòa thôi làm chủ nhiệm, Từ bi âm không còn giữ được
tôn chỉ, mục đích đã đề ra. Số mục, số trang giảm dần, số người viết bài cũng ít, có
lúc hai tháng mới xuất bản một kỳ. Từ đó, Trần Nguyên Chấn lấy Từ bi âm làm
diễn đàn để công kích các tổ chức khác như Hội Phật học Kiêm Tế, Hội Lưỡng
Xuyên Phật học… Về sau, HT. Chánh Tâm ở chùa Thiên Phước, quận Trà Ôn được
mời giữ chức chủ nhiệm Từ bi âm. Nhờ sự hợp tác của HT. Bích Liên và Liên Tôn
mà Từ bi âm đã được duy trì liên tục mười năm và đóng góp đáng kể trong vai trò
hoằng pháp của mình, đồng thời thành công trong việc phổ thông hóa Phật học bằng
chữ Quốc ngữ. Tạp chí đình bản vào tháng 8 năm 1945.

Tháng 10 năm 1935, Hội Lưỡng Xuyên Phật học cho ra mắt Duy tâm Phật
học, do Huệ Quang làm chủ nhiệm và bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe làm quản lý. Tòa
soạn được đặt tại chùa Long Phước. Đến số 13, ra tháng 10 năm 1936, Duy tâm
Phật học đổi thành tạp chí Duy tâm Phật học [Phụ lục 1, tr.227]. Điểm nổi bật của
Duy tâm Phật học là bên cạnh những bài viết về ni giới, tạp chí có nhiều bài viết
góp phần vào việc Chấn hưng Phật giáo: Thích tử Thiện Quả với bài Luận về Chấn
hưng Phật giáo, Lê Văn Xuân với bài Chấn hưng và tương lai Phật giáo; Nguyễn
Văn Khỏe với bài Phật giáo vì sao phải chấn hưng...

Vì lúc bấy giờ phong trào Phật học lan rộng nhiều nơi, nên báo Lục tỉnh tân
văn tại Sài Gòn cũng mở “Trang Phật học”. Vì vậy mà tạp chí Duy tâm Phật học
cũng thường lên tiếng kêu gọi thành lập một Phật giáo Tổng hội để thống nhất tổ
chức Phật giáo Việt Nam.

Thế là từ cuối năm 1937 trở đi, trong số nào tạp chí Duy tâm Phật học cũng
cho đăng bài viết bàn về vấn đề thành lập Tổng hội Phật giáo, nhưng vì mối liên hệ
giữa Hội Lưỡng Xuyên Phật học và Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học không được tốt
đẹp, nên tạp chí có lần bị kích bác. Tuy nhiên, Duy tâm Phật học vẫn là tạp chí tạo
được nhiều uy tín trong giới Phật giáo miền Hậu Giang với các cây bút nổi tiếng
như: HT. Khánh Hòa, Huệ Quang, Võ Khánh Anh; Tỳ kheo Thích Mật Thể, Trần
44

Huỳnh, Việt Liên Tử, Trần Văn Giác, Nguyễn Văn Khỏe… Tạp chí xuất bản đến số
53-54 ra ngày 6.7.1943 là số cuối cùng, sau đó phải đình bản vì không có giấy in.

Có thể nói, Duy tâm Phật học là tạp chí tiêu biểu của Phật giáo Nam Kỳ, đã
có những đóng góp xứng đáng cho việc truyền bá Phật pháp. Cụ thể, tạp chí đã hỗ
trợ cho Hội Lưỡng Xuyên Phật học đào tạo nhiều tăng tài cho các thế hệ sau.

Từ khi Hội Phật học Kiêm Tế thành lập năm 1936 đến đầu năm 1938 đã cho
ra đời tạp chí Tiến hóa, do Phan Thanh Hà làm chủ bút, Đỗ Kiết Triệu làm chủ
nhiệm, sư Thiện Chiếu làm cố vấn. Tạp chí là cơ quan truyền bá Phật pháp và cứu
tế xã hội của Hội.

“Tạp chí Tiến Hoá số ra mắt đã đăng hình cô nhi viện Kiêm Tế, một cô nhi
viện có thể gọi là cô nhi viện Phật giáo đầu tiên tại Việt Nam tổ chức theo kiểu Tây
phương. Tiến Hoá số 1 cũng đăng hình (chụp ngày 26.9.1937) Hội Phật học Kiêm
tế cứu trợ nạn nhân bão lụt tại Rạch Giá và cho biết rằng hội đã nuôi ăn từ 200 đến
300 nạn nhân bão lụt tại trụ sở của hội trong thời gian hai tháng” [34, tr. 91].

Điều này cho thấy Hội Phật học Kiêm Tế đã thực hiện đúng phương châm
“lời nói đi đôi với việc làm”, tức là Hội đã thực hiện bằng hành động cụ thể, nhằm
giúp người, giúp xã hội ngày một tiến triển tốt đẹp.

Với chí hướng học theo cách hoạt động tôn giáo của các nước trên thế giới,
Tiến hóa đã đưa ra nhiều quan niệm táo bạo về việc cải cách Phật giáo, phê bình lối
“đầu tròn áo vuông” trong hình tướng của người xuất gia:

Cải cách tăng già (tăng ni bình đẳng): Về mặt tinh thần, tăng già đã nhờ có
nền giáo dục phổ thông ở các trường sơ đẳng của nhà chùa, sau nầy ai
muốn học những chức nghiệp chuyên môn như canh nông hoặc kỹ nghệ,
hoặc muốn đeo đuổi đến bực trung học hoặc cao đẳng thì cũng học ở các
trường nhà nước. Còn về mặt hình thức? Cứ phải “đầu trọc áo vuông” hay
phải cải cách một cách triệt để?... [L, số 3, tr. 67-69].

Tiến hóa còn có nhận định rằng Đức Phật không phải là bậc sáng suốt hoàn
toàn trong mọi thời đại. Ngoài những điều đúc kết, răn dạy của nhà Phật, con người
cần có những hiểu biết về khoa học trong thời đại mà mình đang sống. Tiến hóa
45

cũng ca ngợi tinh thần vô úy của các tăng sĩ Trung Quốc gia nhập quân đội kháng
Nhật và kêu gọi Phật tử Việt Nam cũng phải hăng hái nhập thế trong tinh thần ấy.

Các nhà nghiên cứu cho rằng nội dung Tiến hóa phản ánh quan điểm của sư
Thiện Chiếu là chính. Có lẽ sư Thiện Chiếu chịu ảnh hưởng tư tưởng ban đầu của
Đại sư Thái Hư, và khi đã chấp nhận ảnh hưởng đó, ông vạch cho mình một con
đường thẳng. Ông cũng không theo dõi để thấy rằng từ sau thập niên 1920, chính
Đại sư Thái Hư đã nhìn nhận có lúc mình quá cực đoan và trở lại với lối trung đạo
của nhà Phật. Từ đó, các nhà nghiên cứu kết luận do gốc rễ Phật học của các nhà lý
thuyết trong Hội Phật học Kiêm Tế chưa sâu vững.

Tiến hóa xuất bản mỗi tháng một số. Nội dung thể hiện các tiêu đề Xã luận,
Phê bình, Nghiên cứu Phật học và Triết học, Bách khoa thưởng thức, Tin thế giới...

Tiến hóa mang màu sắc vận động chính trị chống Pháp, mặc dù các bài đều
viết về chủ đề Phật giáo nhưng bên trong chứa đựng những ý tưởng cách mạng.
Tiến hóa còn kêu gọi xây dựng xã hội, là một việc làm mà các báo chí Phật giáo
thời đó ít đề cập đến.

Tiến hóa tuyên bố đình bản năm 1941. Nguyên nhân là do các nhân vật chủ
chốt của Hội như “HT. Trí Thiền, sư Thành Đạo, một số cư sĩ trong Ban Biên tập và
cây bút chủ lực là Thiện Chiếu bị bắt hoặc có người bị cầm tù vì tham gia khởi
nghĩa Nam Kỳ, nên Hội Phật học Kiêm Tế cũng bị tan rã” [34, 98].

Báo chí ở Nam Kỳ còn có sự hiện diện của Bồ đề tạp chí, xuất bản số đầu
tiên vào ngày 15.8.1936 tại Sóc Trăng, do HT. Phước Chí làm Tổng Biên tập. Tạp
chí là cơ quan truyền bá của Hội Phật học Tương Tế, sáng lập ngày 11.6.1934. Hội
quán đặt tại chùa Thiên Phước, quận Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Tạp chí Bồ đề mỗi
tháng xuất bản được một số. Nội dung chủ yếu đề cập mảng Phật học và phụ trương
các tiêu đề diễn đàn, xã luận... tạp chí cho biết:

Mục đích của tạp chí này, nguyện đem hết năng lực mà tuyên truyền chủ
nghĩa của Phật giáo cho xứng với thời cơ, hiệp với chân lý, cho quý vị
thiện tín rõ được lý thuyết trong Tam tạng giáo hải của Phật tổ ban truyền,
46

hầu một ngày kia chứng được nhất chân pháp giới… Vả lại, Bồ đề tạp chí
này cốt để phổ thông chánh giáo và bảo tồn trường Phật học [H, số 1, tr.1].

Ngày 15.3.1936, Hội Thiên Thai Thiền giáo tông xuất bản tạp chí Bát nhã
âm, tòa soạn đặt tại chùa Thiên Bửu (Thiên Thai), tỉnh Bà Rịa, do Đỗ Phước Tâm
làm chủ nhiệm. Bát nhã âm là cơ quan truyền bá Phật pháp của Thiên Thai Thiền
giáo tông, xuất bản vào ngày 15 mỗi tháng. Bên cạnh những bài viết mang nội dung
Chấn hưng Phật giáo, tạp chí chủ yếu chuyển tải những giáo pháp, bài thơ mang ý
nghĩa khuyến tấn người bỏ ác làm lành, xây dựng nền đạo đức Phật giáo tiến bộ.
Cuối năm 1943, Bát nhã âm đình bản do không có giấy in.

Hưởng ứng phong trào Chấn hưng Phật học, ở Nam Kỳ còn xuất hiện Tịnh
Độ Cư sĩ Phật hội. Hội đã cho xuất bản tạp chí Pháp âm Phật học vào tháng 1.1937
để làm phương tiện truyền bá. Chủ nhiệm là ông Lê Văn Hậu, chủ bút là cư sĩ Trần
Huỳnh.

Pháp âm Phật học chủ trương chấn hưng Phật giáo, “lên án chiến tranh”, tôn
trọng hiện tại. Ngay từ lúc thành lập, tạp chí đã có sự cộng tác của nhiều cây bút
tiến bộ như Trần Huỳnh, Phan Hiển Đạo, Phạm Đình Vinh…

Tạp chí Pháp âm Phật học được xem là một tờ báo tiến bộ nhưng nó cũng có
phần cực đoan. “Từ số 7 ra tháng 7 năm 1937 Pháp âm ủng hộ lập trường của Thiện
Chiếu và bắt đầu công kích đường lối phục hưng của các tổ chức Phật giáo lúc bấy
giờ. Từ số 13 trở đi, Pháp âm lên tiếng ủng hộ lập trường thiên tả của Tiến hóa,
“hết sức ủng hộ việc bỏ cái lối đầu trọc áo vuông” do Tiến hóa đề nghị” [34, tr. 79].

Về lý luận, Pháp âm Phật học kêu gọi thủ tiêu hết các chế độ tài sản tư hữu
mới có thể tạo được tinh thần vô ngã của nhà Phật một cách hữu hiệu. Tình hình
kinh tế khó khăn, độc giả Pháp âm Phật học ngày một ít đi. Tạp chí xuất bản thưa
dần, không đủ điều kiện xuất bản phải tự đình bản vào tháng 8 năm 1938.

Ngày 18.12.1941, tạp chí Phật pháp chỉ Niết bàn xuất bản số đầu tiên tại Sài
Gòn, do Hồ Ngọc Sung làm Tổng Biên tập. Khuynh hướng chính của tạp chí cũng
nhằm để truyền bá Phật pháp: “Chúng tôi có lòng sùng tu Phật pháp nên mới xây
dựng ra tạp chí Phật pháp chỉ Niết bàn, đem ra chơn lý của Phật pháp thuở xưa, là
47

một cái nền văn chương cũ phô bày chỗ hay, chỗ khéo, văn xưa cũng có giá trị vậy.
Chúng tôi muốn cống hiến cho đời đặng mà diệt lần các thống khổ ưu sầu, thảm não
của mỗi người…” [N, số 1, tr.1].

Có thể nói, cho đến năm 1945, riêng ở Nam Kỳ đã có 9 tạp chí ra đời - một
số lượng không nhỏ. Nội dung chủ yếu là cổ xúy phong trào Chấn hưng Phật giáo
và thể hiện tinh thần yêu nước, giải phóng dân tộc. Từ mục tiêu đó, các tạp chí liên
tục đăng tải những bài Phật học từ căn bản đến nâng cao, lý giải những triết lý thực
tế và khoa học của đạo Phật nhằm bài trừ mê tín dị đoan v.v.. Đồng thời còn đăng
những tin tức xã hội trong và ngoài nước để giúp cho tín đồ hiểu thêm về thời cuộc
cũng như hun đúc tinh thần yêu quê hương, đất nước. Như vậy, sự ra đời của báo
chí Phật giáo ở Nam Kỳ trong giai đoạn này, quả thật đã đóng góp công sức rất lớn
cho phong trào Chấn hưng Phật giáo và sự nghiệp giải phóng dân tộc.

1.2.2. Báo chí Phật giáo ở Trung Kỳ

Trước phong trào sôi nổi của các tạp chí Phật giáo ở Nam Kỳ, ngày
1.12.1933, ở Trung Kỳ, Hội An Nam Phật học đã xuất bản tạp chí Viên âm. Tòa
soạn đặt tại số 113 đường Champeau - Huế (nay là số 5, đường Hà Nội). Trong thời
gian đầu, Lê Đình Thám đảm nhiệm chức vụ hội trưởng, nhưng sau đó Nguyễn
Khoa Tân, Ưng Bàng v.v.. đã thay nhau làm Hội trưởng. Lê Đình Thám lúc này
đảm nhiệm phần chủ bút, chuyên lo kiểm duyệt các bài giáo lý. Cho nên có thể nói,
ông là linh hồn của tạp chí Viên âm.

Phần nội dung, trong hai số đầu tiên, tạp chí chỉ đề cập đến bốn mục chính:
Như thị pháp, Biệt khai phương tiện, Sự tích và Tiêu tức. Nhưng từ số 3 trở về sau,
tạp chí đã tăng cường thêm mục thứ năm là Quyển đầu ngữ. Tiêu đề năm mục lớn
này được duy trì xuyên suốt, không thay đổi.

Quyển đầu ngữ chuyển tải những giáo pháp căn bản về đạo Phật. Như thị
pháp thì giải nghĩa về Luận, diễn đàn, chư kinh giảng nghĩa… Mục Biệt khai
phương tiện đăng lại những bài pháp đã được các thầy thuyết giảng tại các đạo tràng,
triển khai phần Phật học dị giải và đăng thơ ca, truyện mang nội dung chuyển tải
giáo lý nhà Phật. Mục Sự tích thì chủ yếu đăng nhiều kỳ về sự tích Đức Phật Thích
48

Ca cùng chư vị Bồ tát. Mục Tiêu tức đăng những tin tức Phật sự các chùa, các Hội
Phật học… cũng như thư từ hỏi đáp giữa người đọc và tạp chí Viên âm.

Những tác giả chủ lực ban đầu giúp duy trì Viên âm có Thích Mật Khế,
Thích Giác Nhiên, Tâm Minh Lê Đình Thám, Chỉnh Túc... Mỗi người đều phụ trách
một mảng khác nhau trên tạp chí.

Trong các số đầu của Viên âm, ở mục Biệt khai phương tiện, Lê Đình Thám
đã viết truyện ngắn (lấy tên T.M), truyện dài (lấy tên Châu Hải) và cả truyện hài
hước (lấy tên Ba Rảm) trong tiểu mục Phiền não tức Bồ đề. Nhưng từ số 4 trở đi, vì
muốn tăng cường thêm giáo lý, ông đã giảm bớt phần truyện, chỉ giữ lại tiểu mục
Phiền não tức Bồ đề, đồng thời ông cũng viết thêm những bài Phật pháp bằng Pháp
văn trên Viên âm, nhằm chuyển tải đạo lý đến nhiều người đọc.

Viên âm được xem là một tạp chí có nhiều nhà biện tài như Lê Đình Thám,
Nguyễn Xuân Thanh v.v.. đã mạnh dạng đối chất với các học giả đương ở các tạp
chí Phật giáo khác. Đặc biệt, Nguyễn Xuân Thanh đã góp phần mở ra hướng đi tích
cực cho Phật giáo đối với thế hệ trẻ. Ông cho rằng đạo Phật có thể trui luyện cho
con người một tinh thần tự lập, bền chí, biết hy sinh và thanh niên của đạo Phật là
những người biết phát bồ đề tâm, nên có thể thực hiện được tinh thần ấy. Ông còn
đăng nhiều bài viết chứng minh Phật học rất cần thiết để bổ túc cho khoa học.

Từ số 48 trở đi, do có sự tham gia của thành viên Đoàn Phật học Đức Dục,
cụ thể là Võ Văn Cường với bài viết “Tâm hồn dân tộc Việt Nam với Phật giáo” và
bài viết bằng tiếng pháp “Thực hành thiền” (Practique de la Méditation) đã giúp cho
Viên âm thêm phần khởi sắc. Từ đó, rất nhiều đoàn viên của Đoàn Phật học Đức
Dục như: Lê Hữu Hoài, Phạm Hữu Bình, Lê Bối, Trần Đỗ Cung, Ngô Điền,
Nguyễn Năng Viên, Nguyễn Hữu Quán, Võ Đình Cường, Đinh Văn Vinh, Ngô Đồi,
Nguyễn Duy Như, Hoàng Kim Hải, Trực Hiên, Phạm Văn Quang, Phan Văn Hùng,
Hướng Trai… đã đóng góp bài thường xuyên cho Viên âm.

Về sau, thấy Đoàn Phật học Đức Dục làm việc có nhiệt tâm với Phật pháp và
đạt hiệu quả cao, Lê Đình Thám đã giao cho Đoàn việc biên tập Viên âm và sử dụng
tạp chí này để trẻ hóa đội ngũ Phật tử. Hầu hết mọi bài vở đều do các đoàn viên
49

trong Đoàn viết với lối cách tân, súc tích, giúp người đọc dễ tiếp thu và nội dung
chủ yếu hướng về tuổi trẻ.

Tạp chí Viên âm được truyền bá rộng rãi ra các tỉnh thành như Hà Nội, Sài
Gòn... đã giúp cho việc hoằng pháp càng được phổ biến nhanh hơn. Từ năm 1943,
do gặp khó khăn về giấy, Tâm Minh Lê Đình Thám đã nhờ Thiều Chửu ở Hà Nội
giúp đỡ, nên từ đó việc in ấn Viên âm là do nhà in Đuốc Tuệ của Hội Phật giáo Bắc
Kỳ đảm nhận. Kể từ ngày ra số đầu tiên đến ngày đình bản vào tháng 8 năm 1945,
Viên âm đã ra được 78 số, trong đó có những số ghép, tức là hai tháng xuất bản một
lần (số 55-56, 60-61, 75-76).

Có thể nói, Viên âm là cơ quan ngôn luận chính của chư sơn môn Trung Kỳ
và Hội An Nam Phật học. Viên âm đã quy tụ được những cây bút sắc sảo, đưa ra
những luận cứ sắc bén và đặc biệt là có những chương trình hoạt động thiết thực.

Năm 1937, tiếp nối có tạp chí Tam bảo (Ngoài bìa ghi là Tam bảo chí, nhưng
bên trong ghi Tam bảo tạp chí) [Phụ lục 1, tr.231] được xuất bản, do HT. Trí Hải,
chùa Bích Liên, Bình Định làm chủ bút. HT. Giác Chánh, chùa Giác Phong, Quảng
Trị làm phó chủ bút. Ông Trần Văn Uyển làm chủ nhiệm. Tạp chí Tam bảo là cơ
quan truyền bá phong trào Chấn hưng Phật giáo của Hội Đà Thành Phật học tại Đà
Nẵng.

Đầu tiên, Tam bảo ra mỗi tháng một số, sau đó hai tháng, ba tháng ra một số,
số trang cũng giảm từ khoảng 60 trang lúc đầu xuống còn 50 trang. Nội dung chủ
yếu trong Tam bảo tạp chí thường gồm 7 đến 9 yếu mục: Phật học vấn đáp, Phật
giáo sử lược, Luận về vấn đề lập chương trình tổ chức Hội Việt Nam Phật giáo liên
hiệp, Kinh diễn nghĩa, Diễn đàn, Truyện cao tăng Việt Nam, tin tức, văn uyển...

Với Hội Phật giáo liên hiệp thống nhất, Tam bảo đề nghị tổ chức hai cơ quan:
cơ quan Hoằng Pháp do chư tăng chủ động, gồm có các trách vụ nghi lễ, tổ chức,
truyền bá và giáo dục. Cơ quan Hộ Pháp do cư sĩ phụ trách, gồm các trách vụ cứu tế,
ngoại giao, kiểm sát, kiến trúc và kinh tế.

Cũng giống như Viên âm, đội ngũ cộng tác ngày một thưa dần, điều kiện
kinh tế khó khăn, Tam bảo phải đình bản vào giữa năm 1938.
50

Nhìn chung, so với Nam Kỳ thì số lượng tạp chí của Trung Kỳ không nhiều,
chỉ có hai tờ là Viên âm và Tam bảo. Tuy nhiên, đây là những tạp chí chủ lực của
Trung Kỳ, đồng thời cũng là những tạp chí tiêu biểu của báo chí Phật giáo Việt
Nam giai đoạn này.

1.2.3. Báo chí Phật giáo ở Bắc Kỳ

Nhằm đẩy mạnh phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kỳ, các Hội Phật
học ở đây cũng đã quan tâm rất nhiều đến việc xuất bản báo chí Phật giáo.

Trong lúc tuần báo Đuốc tuệ còn đang chuẩn bị ra mắt thì HT. Thanh Thao,
trú trì chùa Linh Quang (Bà Đá) đã cho phát hành số đầu tiên của tạp chí Tiếng
chuông sớm vào ngày 15.6.1935 do chính ngài làm chủ nhiệm, HT. Thanh Tường,
trú trì chùa Trầm ở Hà Đông, chùa Vũ Thạch ở Hà Nội và HT. Đặng Văn Lợi, tăng
trưởng chùa Trấn Quốc làm quản lý. HT. Bảo Giám (Bùi Xuân Dục), trú trì chùa
Đông Lâm ở Bắc Ninh làm chủ bút. HT. Xuân Lan (Nguyễn Quang Độ), trú trì chùa
Bảo Phúc ở Hà Đông làm phó chủ bút.

HT. Thanh Tường mời được nhiều vị cao tăng làm cố vấn và nhiều danh sĩ
viết bài cho Tiếng chuông sớm. Số ra mắt của tạp chí Tiếng chuông sớm đăng bài
Tình hình Phật giáo trong nước của ký giả H.S đã nhắc đến công trình chấn hưng
Phật giáo ở Nam Kỳ, Trung Kỳ và sự thành lập Hội Phật giáo Bắc Kỳ tại chùa Quán
Sứ với ý mỉa mai, đã gây được tiếng vang trong giới Phật học, khiến Hội Phật giáo
Bắc Kỳ không vui: “Hiện nay nhờ thế lực của các quan đại thần và của các bậc
thượng lưu, hội đã lan ra hầu khắp Bắc Kỳ, đâu đâu cũng có chi bộ, lại được Tổ
Vĩnh Nghiêm, một vị trưởng lão trong Tùng Lâm Bắc Kỳ chủ trương mọi việc ở
Hội chính. Tiếng chuông sớm này do Cổ sơn môn Hồng Phúc và Bà Đá cũng xin
góp phần phục vụ...”.

Tuy nhiên, ngài Thanh Hanh mặc dù tuổi đã rất cao, nhưng vẫn khéo léo hòa
giải, khiến các dị biệt lần lần được thay chỗ cho tinh thần cộng tác hòa hợp. Tuần
báo Đuốc tuệ phát hành số đầu tiên vào ngày 10.12.1935, sau đó, Tiếng chuông sớm
số 14 ra ngày 26.12.1935 ngỏ lời chào mừng và đăng bài thể hiện sự hòa giải.
51

Ngoài ra, trong nhiều số của tạp chí Tiếng chuông sớm có dành một chuyên
mục riêng với tên Dư luận, với mục đích là “Hoan nghênh ý kiến các bạn độc giả
đối với việc chấn hưng Phật giáo trong nước” [E, số 16, tr.13]. Từ chuyên mục này
cho thấy Tiếng chuông sớm thường xuyên có những bài viết thảo luận hay công
kích tạp chí Từ bi âm, như trong số 16 ra ngày 14.1.1936, Tiếng chuông sớm đã lên
tiếng công kích: “Ngoài bìa thấy ba chữ “Từ bi âm” mà ở trong thì đem những
chuyện hoang đường, những câu vô lý để bày biện, khích bác. Hình như một cái
trường ngôn luận để phân tranh chuyện phải quấy của người. Vậy thì sai hẳn với tôn
chỉ “Từ bi âm”, trên mặt tạp chí của Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học lại còn mất
hết cái giá trị của Hội, còn làm cho mất hết lòng tín ngưỡng của quốc dân”.

Trong số 19, ra ngày 8.3.1936, cũng trong mục Dư luận, Tiếng chuông sớm
đã có ý trao đổi với Từ bi âm về những hoạt động của tạp chí:

Chúng tôi vì công lý mà đăng các bài xét ra có ích cho công chúng, đối với
Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Sài Gòn, chúng tôi rất có lòng liên lạc và
quý mến, lại mong cho được hoàn toàn. Chỉ tiếc không hiểu làm sao Hội
Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học ra đời trước có Từ bi âm làm cơ quan, sao
không cổ động cho liên lạc chư sơn lại làm một, để đến nỗi sau này lắm Hội
ra đời, quay ra công kích lại Hội cả.

Tiếng chuông sớm cũng muốn mở rộng và làm phong phú thêm tờ báo nên
đã mời thêm một số nhà văn vào ban biên tập, như Nguyễn Mạnh Bổng và Nguyễn
Trung Như. Tuy nhiên, vì tài chính eo hẹp, nên Tiếng chuông sớm cũng chỉ phát
hành được 24 số, đến cuối tháng 5 năm 1936 thì tạp chí đình bản.

Tạp chí Tiếng chuông sớm ra đời, tuy đóng góp không nhiều cho phong trào
Chấn hưng Phật giáo và cho dân tộc, nhưng nó cũng nhen chút lửa hồng cho đường
lối phát triển Phật giáo, trong tinh thần duy trì truyền thống sinh hoạt cổ điển của
thiền môn.

Năm 1935, báo Đuốc tuệ đã ra đời vào đầu tháng Chạp, do ông Nguyễn
Năng Quốc làm chủ nhiệm. HT. Trung Thứ, trú trì chùa Bằng Sở làm chủ bút. HT.
Doãn Hài (Dương Văn Hiển), trú trì chùa Tế Cát làm phó chủ bút và ông Cung
52

Đình Bính làm quản lý. Trụ sở báo được đặt tại chùa Quán Sứ, đường Richard, Hà
Nội (nay là số 73 phố Quán Sứ, Hà Nội).

Từ năm 1937, tờ báo mỗi tháng xuất bản hai kỳ vào ngày 1 và ngày 15.
Những cây bút như Thái Hòa, Thanh Đặc, Tố Liên, Đỗ Trần Bảo, Phạm Văn Côn,
Đinh Gia Thuyết, Đỗ Đình Nghiêm, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ v.v.. tuy có đóng góp
công sức rất lớn cho báo nhưng có thể nói, chỉ có Đồ Nam Tử Nguyễn Trọng Thuật
và Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha là hai cây bút bền bỉ nhất.

Nội dung Đuốc tuệ xoay quanh các yếu mục: Phật học, Dịch kinh Phật, Lịch
sử Phật giáo, Giới thiệu danh lam thắng cảnh, Tiểu thuyết, Văn uyển, Thời sự trong
và ngoài nước, Phương danh các mạnh thường quân... Tinh thần hoạt động của
Đuốc tuệ cũng hướng về củng cố, phát huy phong trào Chấn hưng Phật giáo. Nhiều
bài viết được đăng với nội dung nhấn mạnh tinh thần “Đạo Phật vì cuộc đời, vì nhân
sinh”, mà không phải là đạo chạy trốn cuộc đời. Điều này thể hiện cụ thể qua bài
viết“Đạo Phật có quan thiết với sự sống của đời người” của Phan Đình Hòe đăng ở
số đầu tiên.

Trưởng ban biên tập đầu tiên của Đuốc tuệ là Trần Trọng Kim. “Trước khi
đến với đạo Phật, ông đã là một học giả uyên bác về sử học và văn học. Tuy mới
tiếp xúc với đạo Phật nhưng ông đã nắm bắt được những điểm cơ bản của giáo lý
nhà Phật và có những bài diễn thuyết nổi tiếng tại chùa Quán Sứ như Phật giáo đối
với cuộc nhân sinh (17.3.1935), Thập nhị nhân duyên (11.1.1936)…” [34, tr. 56].

Ông Nguyễn Trọng Thuật với truyện Cô con gái Phật hái dâu, kể lại cuộc
đời Ỷ Lan, một cô gái thôn quê làm nghề hái dâu ở làng Thổ Lỗi (sau này là làng
Siêu Loại) được vua Lý Thánh Tông chọn làm Nguyên phi. Đây là câu chuyện dài
có tính nghệ thuật cao, được đăng nhiều kỳ trên Đuốc tuệ, với ý nghĩa chính là lấy
tinh thần nhập thế tích cực của đạo Phật để dựng nước và cải tổ những bất công ở xã
hội nông thôn…

Nhờ có nội dung phong phú, Đuốc tuệ được độc giả khắp nơi đón đọc. Ngoài
công việc của nhà Phật, Đuốc tuệ còn góp phần vào việc xây dựng nền văn hóa Việt
Nam mang đậm bản sắc dân tộc.
53

Đuốc tuệ được xem là tờ báo Phật giáo có những đóng góp lớn lao trong việc
hoằng dương Phật pháp về nhiều mặt. Suốt 10 năm hoạt động, Đuốc tuệ đã mang lại
nhiều công trình có giá trị về các mặt khảo cứu, dịch thuật, sáng tác văn học. Mối
quan hệ chặt chẽ giữa Đuốc tuệ với Trường Viễn đông Bác Cổ cũng góp phần quan
trọng giúp Đuốc tuệ giới thiệu với quần chúng những tác phẩm văn học cổ của Phật
giáo Việt Nam.

Tháng 3 năm 1942, HT. Trung Thứ (Phan Trung Thứ) viên tịch. HT. Tế Cát
lên làm chủ bút. Đuốc tuệ vẫn được xuất bản liên tục đến ngày 15.8.1945 mới đình
bản, tổng cộng là 258 số.

Năm 1938, tạp chí Quan âm được xuất bản, do Lương Văn Tuân làm chủ
nhiệm kiêm chủ bút, mỗi tháng ra hai số, trong đó thể hiện được các tiêu chí Xã hội,
Văn hóa, Phật học, Triết học, Văn chương, Quảng cáo... Mặc dù là tạp chí Phật
giáo nhưng các bài viết phần nhiều liên quan đến Khổng giáo và các vấn đề xã hội.

Riêng mảng Tin tức được Quan âm đăng tải liên tục, đáp ứng kịp thời các
nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống của xã hội đương thời. Như đưa tin việc có thể
giúp đỡ nhân dân về mặt pháp luật: “Ban cố vấn Pháp luật của Bản báo sẵn lòng
giúp đỡ độc giả dài hạn hầu hết các việc về pháp luật, bất cứ về việc hình hay việc
hộ...” [M, số 23, tr.8].

Với phần Quảng cáo, Quan âm tạp chí thể hiện rất nhiều, vừa tạo điều kiện
cho các nhà doanh nghiệp quảng bá thương hiệu, vừa giới thiệu cho người dân biết
những nhu yếu phẩm trong cuộc sống: “Chè Quan Âm (Hà Nội): Chè Thái Ninh
hiệu Quan Âm là một thứ chè rất thông dụng cho hết thảy các giới sĩ, nông, công,
thương dùng hàng ngày; tiếp khách rất nhã nhặn, vì sắc xanh, mùi thơm, ngọt giọng,
giá lại hạ hơn các thứ chè khác (0$07 một gói)” [M, số 22, tr.10].

Có thể nói, hình thức quảng cáo của tạp chí Quan âm lúc bấy giờ còn giản
đơn, mộc mạc, không có nhiều hình ảnh minh họa, nhưng cũng mang đến thuận lợi
lớn cho xã hội đương thời. Đến ngày 15 tháng 2 năm 1943, tạp chí đình bản.

Ngày 28.6.1945, Hội Phật giáo Bắc Kỳ đã ra số đầu tiên báo Tinh Tiến, phụ
trương của báo Đuốc tuệ, gồm 8 trang, khổ 130 x 190 mm và mỗi tuần xuất bản 3
54

số. Tờ báo này do ông Nguyễn Hữu Kha làm chủ nhiệm, Cung Đình Bính làm quản
lý, chuyên đăng các yếu mục: Giáo lý Đại thừa, Giáo dục, Y tế, Từ thiện và Thời sự.
Tờ báo tuy có ít trang, nhưng được sự cộng tác thường xuyên của Bát Nhã, Tịnh
Như, Thiều Chửu, Lạc Tu, Từ Trai… Tinh tiến ra được 24 số thì đình bản (tháng 9
năm 1945).

Nhìn chung, qua việc tìm hiểu tình hình báo chí Phật giáo trước 1945 cho
thấy báo chí ở Nam Kỳ ra đời sớm nhất và số lượng cũng chiếm nhiều nhất, gồm có
9 tạp chí. Ở Trung Kỳ chỉ có 2 tạp chí, còn Bắc Kỳ thì có 2 tạp chí và 2 tờ báo.

Việc duy trì báo chí Phật giáo ở ba miền đều nhờ vào sự ủng hộ tài chính của
quần chúng Phật tử và nhân sĩ trí thức là chủ yếu. Tài chính từ việc phát hành báo
chí chỉ là phần phụ. Do đó, có một vài tạp chí vì không đủ kinh phí nên phải sớm
đình bản.

Hoạt động của báo chí Phật giáo đương thời đều hướng vào mục tiêu chung
là truyền bá Phật học từ cơ bản đến nâng cao, trao đổi những triết lý Phật giáo và
tuyên truyền tư tưởng chấn hưng Phật giáo nước nhà. Đồng thời báo chí Phật giáo
cũng truyền tải những nội dung và giá trị nghệ thuật của thơ ca, văn xuôi mang tư
tưởng đạo đức, giáo dục Phật giáo.

TIỂU KẾT

Đất nước Việt Nam trong những năm đầu TK.XX dù gặp nhiều biến động về
các mặt từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội nhưng nhờ lòng yêu nước, đoàn kết
của toàn dân và sự đồng hành của đạo Phật nên đã không đánh mất đi linh hồn của
dân tộc. Đặc biệt, sự ra đời của phong trào Chấn hưng Phật giáo, của báo chí Phật
giáo đã góp sức mạnh mẽ cùng dân tộc đứng lên giành lại độc lập, chủ quyền cho
dân tộc Việt Nam.

Về báo chí Phật giáo, mặc dù kể từ tháng 8 năm 1945 đã nhất loạt đình bản
trên toàn quốc, nhưng trước đó là một phong trào sôi nổi, chứa đựng bề sâu tư
tưởng về Phật giáo, làm thăng hoa tinh thần Phật học, góp phần không nhỏ cho
phong trào Chấn hưng Phật giáo nói riêng và việc bảo tồn, phát huy nền văn hóa,
55

văn học đất nước nói chung. Vì vậy, có thể khẳng định rằng báo chí Phật giáo trước
1945 đã thể hiện được đường lối dân tộc và nhân bản của Phật giáo.

Hầu như tạp chí, tờ báo Phật giáo nào cũng nhận được sự cộng tác của nhiều
vị xuất gia, cư sĩ và các văn nghệ sĩ; nội dung phong phú với nhiều đề mục từ Phật
học đến thế học, mang lợi ích thiết thực cho cuộc sống và cho cả phong trào đấu
tranh vì nền hòa bình, độc lập dân tộc. Vì đây là thời kỳ Chấn hưng Phật giáo nên
báo chí đua nhau nở rộ và cũng là dịp để cho những người có tâm thao thức về tiền
đồ của Phật giáo thể hiện những ưu tư, trăn trở của mình. Đặc biệt là dịp tốt để họ
chuyển tải giáo lý Phật giáo và cả những tư tưởng tranh luận, thảo luận về đường
hướng chấn hưng Phật giáo bằng những kinh nghiệm tiếp thu được từ trong kinh
điển và thực tế cuộc sống, nhằm rút ra phương hướng đúng đắn cho con đường phát
triển Phật giáo và dân tộc.

So với Phật giáo và báo chí Phật giáo thời đại ngày nay, chúng ta thấy Phật
giáo và báo chí giai đoạn trước 1945 quả là còn hạn chế nhiều mặt về nội dung. Do
ảnh hưởng chung của xã hội đương thời, nền khoa học công nghệ chưa phát triển
nên báo chí Phật giáo lúc bấy giờ về hình thức trình bày còn sơ sài, không đẹp mắt.
Hơn nữa, vì các Hội cũng như báo chí Phật giáo giai đoạn này tập trung chủ yếu về
vấn đề chấn hưng Phật học, cho nên các tạp chí đã quan tâm đăng nhiều những
chuyên đề về Phật học mà ít quan tâm tới thời sự Phật giáo hoặc các thông tin khác.
Vì vậy, các ấn phẩm đã không được đa dạng để hình thành sự lựa chọn phong phú
cho độc giả.

Tuy nhiên, sự ra đời và hoạt động của báo chí Phật giáo giai đoạn trước 1945
đã làm cho phong trào Chấn hưng Phật giáo trở nên sôi nổi hơn và nung nấu trong
tâm tưởng những tăng ni, cư sĩ và Phật tử một ý thức về sự thống nhất Phật giáo
trên cả nước. Đây chính là thành quả quan trọng của phong trào Chấn hưng Phật
giáo Việt Nam và báo chí Phật giáo đã có những đóng góp tích cực mà theo Nguyễn
Lang đánh giá là “Quang cảnh phục hưng tưng bừng như chưa bao giờ có” [67, tr.
756]. Do vậy, có thể nói sự ra đời của phong trào Chấn hưng Phật giáo và báo chí
Phật giáo trước 1945 là dấu ấn lịch sử, là nền móng, là tiền đề cho sự hình thành và
phát triển Phật giáo và báo chí Phật giáo hôm nay và mai sau.
56

Chƣơng 2
PHẬT HỌC TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TRƢỚC 1945

2.1. THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO TRƢỚC
1945

Từ khi báo chí Phật giáo Việt Nam liên tục nối tiếp nhau ra đời trong khoảng
những năm 1930 đến những năm 1940, thì phong trào học Phật cũng ngày càng lớn
mạnh. Lý do chính yếu của sự xuất hiện báo chí Phật giáo trong giai đoạn này có
thể nói là nhằm phổ biến giáo lý bằng chữ Quốc ngữ, để truyền bá chính pháp, đồng
thời còn làm phương tiện thông tin nội bộ và cổ động lòng yêu nước trong quần
chúng nhân dân. Cho nên, báo chí Phật giáo luôn được khẳng định là nhân tố làm
sáng tỏ trắng đen, phải trái, đánh đổ những luận điểm sai lầm về giáo lý đạo Phật
của một số người. Ngoài biện luận về chân lý, báo chí Phật giáo còn nêu lên tinh
thần mang tính văn hóa dân tộc. Việc đấu tranh nội bộ Phật giáo thể hiện qua những
bài viết trên báo chí, càng cho thấy rõ hơn tinh thần nghiên cứu Phật học đã trở
thành công cụ sắc bén tấn công vào những tệ nạn trong nội tình Phật giáo. Như ở
tạp chí Duy tâm Phật học số 18, bài Phật giáo nước ta vì đâu chịu cái hiện trạng
suy đồi, cư sĩ Khánh Vân đã thẳng thắn chỉ trích: “Có kẻ mượn Phật làm danh, cũng
ngày đêm hai buổi công phu, thọ trì sóc vọng, cũng sám hối như ai nhưng lại thủ dị
cầu kỳ, học thêm bùa ngải, luyện roi thần làm bạn với thiên linh cái, đồng nhi, khi
ông lên lúc bà xuống... gọi là cứu nhân độ thế, vậy mà cũng lên mặt trú trì. Hiện
trạng như thế bảo sao chẳng suy đồi, làm tấm bia cho các nhà duy vật mỉa mai?”.

Khác với quan điểm của tạp chí Duy tâm Phật học, tạp chí Viên âm số 14 đã
nêu lên những mục tiêu chủ yếu của sự Chấn hưng Phật giáo qua phần trả lời Phong
trào Phật giáo chấn hưng của tác giả Hải Triều: “Vì sự tấn hóa của trí thức người
xứ ta về mặt luận lý; vì khoa học tuy đánh đổ sự mê tín nhưng tự mình không có
năng lực tạo thành hạnh phúc cho nhân loại; vì phải có một đạo lý vững vàng để
làm cho khoa học phục tỉnh, để đào tạo đức tính của loài người”.
57

Những quan điểm trên cho thấy, vấn đề đối thoại trên diễn đàn báo chí không
phải đến ngày nay mới có, mà ngay cả trong thời điểm trước đó cũng đã được các vị
chủ bút, chủ biên mạnh dạn đặt ra với dư luận quần chúng, tạo thành sự tranh luận
đầy lý thú trong nền văn hóa Phật giáo nói chung và báo chí Phật giáo nói riêng.
Nhiều tác giả như Phan Khôi, Huỳnh Thúc Kháng cũng đã từng viết bài nói lên tâm
tư tình cảm của mình và có lúc ông cũng bực mình phát biểu đăng trên Viên âm số 3,
ra ngày 1.2.1934: “Các hội Phật giáo xứ ta cứ im ỉm mà chẳng làm việc gì hết”.

Phải nhìn nhận, các báo và tạp chí Phật giáo lúc bấy giờ rất khách quan và
tiến bộ khi mở cuộc đối thoại ngay trên diễn đàn ngôn luận của hội mình, để mọi
người Phật tử hoặc những sĩ phu đứng ngoài Phật giáo có điều kiện tham gia góp ý
phát biểu, phê phán hoặc tranh luận.

Trước sự xâm nhập mạnh mẽ của văn hóa phương Tây, cụ thể là sự ảnh
hưởng của nền khoa học hiện đại, những triết lý của đạo Phật thể hiện trên báo chí
Phật giáo trước 1945 cũng theo xu hướng chuyển đổi từ đạo Phật cổ truyền sang
khuynh hướng thích ứng với thời đại khoa học, hay nói cách khác là cổ xúy cho tinh
thần “thay cũ đổi mới”. Từ đó đã làm nảy sinh ra nhiều cuộc tranh luận về tư tưởng
xoay quanh vấn đề triết học và nhận thức luận Phật giáo thật sôi nổi giữa các tạp chí
Phật giáo, nhằm mục đích là làm sáng tỏ tư tưởng của đạo Phật xưa cũng như nay.

Xuân Thanh trong Viên âm số 15 đã khẳng định rất rõ về tính khoa học của
Phật giáo trong lòng dân tộc qua bài luận Khoa học với Phật pháp. Tác giả khẳng
định: “Phật pháp chính nơi hiện trạng của sự tai nghe mắt thấy, của tâm trí loài
người mà thiết thực chỉ bày những lối tu tập chơn chính, nghĩa lý cũng có, thực
hành cũng có, chứng nghiệm cũng có, thiệt đủ làm cho khoa học phải khâm phục”.

Nói chung, trên diễn đàn báo chí Phật giáo lúc bấy giờ, những vấn đề thế
giới quan Phật giáo được thảo luận nhiều nhất có thể nói là vấn đề quan niệm về
Thượng đế, linh hồn, thế giới Cực lạc, địa ngục và về ngoại giới… Tuy nhiên, biện
pháp và phương thức thể hiện khác nhau, nhiều khi họ còn tranh luận gay gắt về
quan điểm của mình trên diễn đàn ngôn luận. Những cuộc tranh luận này thu hút
giới trí thức Phật giáo và cả không Phật giáo tham gia trong tinh thần thẳng thắn,
đối thoại. Nó có tác động lớn về tình hình sinh hoạt Phật giáo trong nước trước sự
58

đổi mới mạnh mẽ và thể hiện tinh thần hội nhập Phật giáo thế giới trong xu hướng
phát triển.

2.1.1. Vấn đề Thƣợng đế sáng tạo muôn vật

Theo học thuyết Duyên khởi của Phật giáo, vạn pháp do duyên sinh và cũng
do duyên diệt, nên không có một thực thể cố định thì hẳn nhiên niềm tin vào một vị
thần sáng tạo luôn luôn bị phản bác. Tư tưởng phủ nhận về một đấng toàn năng và
vĩnh cửu đã được thể hiện rất nhiều trong kinh tạng Phật giáo. Vấn đề này, xuyên
qua nhiều thế kỷ, triết học Phật giáo đã trình bày chi tiết các lập luận bác bỏ học
thuyết về một vị thần sáng thế. Nó đã được quan tâm để so sánh những việc này với
cách mà các triết gia phương Tây đã bác bỏ các thông tin chứng minh thần học về
sự tồn tại của đấng sáng tạo.

Ở Việt Nam, từ khi phong trào Chấn hưng Phật giáo ra đời thì vấn đề quan
niệm đạo Phật vô thần hay hữu thần, đạo Phật thừa nhận hay phủ nhận sự tồn tại
của Thượng đế mới được đem ra tranh luận sôi nổi trên diễn đàn báo chí Phật giáo
và điều đó đã thu hút sự chú ý của hàng vạn tín đồ và độc giả. Sự kiện này, phần
nhiều các tạp chí Phật giáo đều đồng ý với tư tưởng không có Thượng đế sáng tạo
muôn vật.

Tạp chí Viên âm số 5 - 1934 đã đề cập đến bài Muôn vật vì sao mà có. Ở đây,
Viên âm đã giải thích rõ muôn vật không có tự tính, tức là không thực có. Con
người do mê muội, trong thể tính bình đẳng không tự biết, nên chia ra có tâm có
cảnh, rồi hiện ra dường như là có muôn vật, chứ thật ra muôn vật không thực có.
Muôn vật đã không thực có thì khác gì cảnh giới trong chiêm bao, chỉ vì nhân
duyên nương nhau nên hiện ra hình trạng giả dối ở trong tính mê lầm của con người.
Sáng nương với tối mà có; tư tưởng, suy nghĩ nương theo cảm xúc mà có; nương
với nhau, đối đãi với nhau mà hóa ra cái tướng giả dối của vũ trụ này; cũng in tuồng
có sinh, nhưng thật ra không có cái gì đáng gọi là sinh; cũng in tuồng có diệt, nhưng
thật ra không có cái gì đáng gọi là diệt. Nếu suy xét cho cùng tột thì chỉ thấy những
tính giả dối nương với nhau, đối đãi với nhau mà thôi chứ không có muôn vật. Tính
nương nhau, đối đãi với nhau đó, trong đạo Phật gọi là “nhân duyên”. Khi các nhân
duyên hợp lại thì dường như là có, khi các nhân duyên chia rẽ thì dường như là
59

không. Nếu con người bỏ được tính chấp có, chấp không thì mới biết toàn cả vũ trụ
xưa nay vẫn một thể như nhau không khác.

Trên Viên âm số 8, ra tháng 7 năm 1934, đề cập tiếp theo tư tưởng muôn vật
vì sao mà có qua bài Phạm vương và tạo hóa. Bài này giải thích rõ ràng hơn về vấn
đề Thượng đế tạo vật. Mở đầu bài viết, Viên âm đã khẳng định: “Có người đạo Phật
coi sách Bà la môn thấy nói “Phạm vương sinh ra vạn vật”, rồi đến khi coi kinh
Phật, thấy nói có “Phạm vương thính pháp” lại tưởng lầm rằng đạo Phật cũng thừa
nhận có ông Tạo hóa. Điều này nên cải chính. Trong kinh điển đạo Phật, đã có
nhiều chỗ bác lý thuyết Tạo hóa”. Qua đó, Viên âm tiếp tục lược giải những luận
điểm đó rất cụ thể. Viên âm khẳng định Phạm vương không thể tự mình sinh ra, vì
những lý do sau: Thứ nhất, trước khi sinh ra thì không có cái chi đáng gọi là tự
mình, như thế thì làm sao còn sinh ra được. Thứ hai, vì tính thiêng liêng đã cho là
tính của Phạm vương thì trước khi Phạm vương sinh ra chưa có tính thiêng liêng,
chưa có tính thiêng liêng thì Phạm vương nương vào đâu mà tự sinh? Thứ ba, nếu
như không có tính thiêng liêng mà cũng tự sinh ra được thì cần gì phải tin rằng có
ông Tạo hóa? Thứ tư, vì tính thiêng liêng của Phạm vương chỉ do tư tưởng Bà la
môn tạo thành, không phải sự thật. Tính thiêng liêng là cái gì? Chẳng lẽ nói luẩn
quẩn như vậy: Phạm vương có tính thiêng liêng vì ông tự sinh, Phạm vương tự sinh
vì ông có tính thiêng liêng.

Tiếp đó, Viên âm lý giải thêm rằng phàm luận lý phải do nơi thực nghiệm,
không nên lấy sự tự tin riêng của mình làm bằng cớ mà bàn luận, huống chi không
đủ duyên cớ chứng minh chắc rằng có một ông nào sinh ra vạn vật, dầu là ông
Phạm vương. Vì sao? Vì những nguyên nhân sau: Thứ nhất, nếu trước không có gì
cả thì ông Phạm vương lấy duyên cớ gì mà tự sinh? Thứ hai, nếu trước khi có muôn
vật, chỉ có một mình ông Phạm vương thì vì cớ gì mà ông phải sinh ra muôn vật?
Nếu bản tính của Phạm vương là sinh ra muôn vật thì muôn vật với ông phải cùng
sinh ra một lần. Đã cùng sinh ra một lần thì Phạm vương không thể gọi là ông Tạo
hóa, còn nếu bản tính của Phạm vương không sinh ra muôn vật, thì ông cứ không
sinh ra luôn, vì trong khi chỉ có một mình ông, không có cái gì khác nữa, ông có thể
mượn duyên cớ gì khác đặng sinh ra muôn vật. Thứ ba, Phạm vương hữu hình hay
60

vô hình, có tri giác hay không có tri giác? Không thể có cái gì gồm cả hữu hình và
vô hình, hay gồm cả tri giác và không có tri giác được. Vậy, nếu Phạm vương vô
hình thì không thể sinh ra các món hữu hình, nếu Phạm vương có tri giác thì không
thể sinh ra các món không tri giác. Huống chi trong thế gian, người khôn kẻ dại,
người lành kẻ dữ, loài bay loài lặn, loài lanh lẹ loài chậm chạp, đều khác hẳn với
nhau, lẽ đâu một giống lại sinh ra nhiều thứ như vậy.

Viên âm số 27, ra tháng 8 năm 1937 có đăng bài giảng Đâu là con đường
hạnh phúc của nhà sư Đôn Hậu giảng tại Faifoo (Hội An) ngày 25.3.1937, đã một
lần nữa góp phần bác bỏ những thuyết khẳng định sự tồn tại của Thượng đế. Tác giả
lập luận rằng sự hạnh phúc của con người hẳn nhiên không phải do thờ phụng, cúng
bái hay cầu nguyện mà đạt được. Điều chính yếu là phải thực hành những pháp
chân chính. Đấng thiêng liêng mà con người tin tưởng, dù là có cũng chưa phải hẳn
tột đỉnh cao quý, không phải bình đẳng, từ bi, vì còn ban thưởng những ai cầu xin
mình và xử phạt ai không tôn kính mình. Như thế chẳng khác gì người có thế lực,
nếu ai biết cầu lụy mình thì ban cho chức này chức nọ, còn ngược lại thì bị đày đọa,
chém giết. Qua đó, tác giả khẳng định không có Thượng đế tạo vật bằng câu chất
vấn rất sắc bén: “Đã là thiêng liêng thì cái gì cũng sinh ra được, cái gì cũng cải lại
được, mà nay sinh ra để cho người ta không theo mình rồi bỏ vào địa ngục là lý làm
sao?”.

Phải nói, những tư tưởng bác bỏ Thượng đế tạo vật trong Viên âm rất lý thú,
chuẩn xác, đã tạo được sự đồng tình của các tín đồ Phật giáo.

Tạp chí Duy tâm Phật học cũng tham gia vào cuộc thảo luận phủ định sự tồn
tại của Thượng đế sáng tạo muôn vật. Tuy nhiên, với chủ đề này, Duy tâm Phật học
có ý muốn nghiêng về chủ trương gắn liền Phật giáo với khoa học.

Trên Duy tâm Phật học số 5, ra tháng 2.1936, An Giang cư sĩ đã viết bài
Phật giáo với thuyết Vũ trụ quan, thuật lại quan điểm của đức Phật là không quan
tâm đến chuyện ai là đấng sáng tạo ra vũ trụ. Đạo Phật chỉ xác tín rằng vũ trụ là vô
thủy vô chung và luôn “biến chuyển theo luật nhân quả vô cùng tận”. Sau đó, liên
tục những số 6, 7, 8, tạp chí cũng lần lượt đăng bài của HT. Khánh Hòa đã giảng tại
Hội Lưỡng Xuyên Phật học nhân dịp đại hội đầu năm. Bài giảng đã lý giải về những
61

quan niệm vũ trụ và nhân sinh của Phật giáo rất cụ thể. Đầu tiên, Hòa thượng nhấn
mạnh đến mối quan hệ mật thiết giữa khoa học hiện đại và Phật học cổ truyền,
nhằm mục đích xóa bỏ những tư tưởng cho rằng đạo Phật là mê tín dị đoan:

Tôi vốn là một nhà học Phật chớ không phải một nhà thực nghiệm khoa
học, nên không dám phê bình khoa học, nhưng theo lý học thì Phật pháp
tức khoa học, khoa học tức Phật pháp, khoa học là “tướng”, Phật pháp là
“tính”, khoa học là “dụng”, Phật pháp là “thể”, khoa học là “sự”, Phật
pháp là “lý”. Chưa hề có tướng mà không tính, có thể mà không dụng, có
sự mà không lý, có hình thức mà không tinh thần bao giờ. Bởi cái bệnh vị
ngã đã thông thường, phái duy tâm thì bài xích phái duy vật, phái duy vật
lại kích bác phái duy tâm, kẻ chấp lý bỏ sự, người chấp sự bỏ lý, mới sinh
ra phân biệt bỉ thử. Thật ra, Phật pháp không ngoài khoa học, khoa học
cũng không ngoài Phật pháp, Phật pháp khoa học viên dung mới hoàn toàn
sự lý.

Luận điểm trên cho thấy, HT. Khánh Hòa muốn dung hòa Phật giáo với khoa
học, muốn khẳng định cho muôn người hiểu được rằng các tôn giáo trên thế giới,
chỉ có Phật giáo là hợp nhất với khoa học. Điều này, lúc bấy giờ trên báo Đuốc tuệ
đã liên tục xuất hiện nhiều bài viết bàn luận và minh chứng Phật giáo mang tính
khoa học mà không phải mê tín, là tân tiến chứ không phải cổ hủ, là năng động,
nhiệt tình trong việc cứu độ chúng sinh mà không phải bi quan, yếm thế.

Cách đây hơn 25 thế kỷ, Đức Phật đã vận dụng phương thức tương tự khoa
học để quán sát thế giới nội tại bằng sự suy xét vô tư khách quan và khuyến khích
các đệ tử của Ngài không nên chấp nhận bất cứ điều gì cho đến khi nào họ đã thực
sự nghiên cứu và xác chứng tính thực tại của nó. Như lời tuyên bố của Đức Phật:
“Ai thấy pháp, người ấy thấy Ta, ai thấy Ta, người ấy thấy pháp” [12, tr.219]. Lời
tuyên bố đó cũng có nghĩa rằng trí tuệ mà Đức Phật chứng ngộ là toàn bộ giáo lý
Ngài đã tự thân tu tập, tự thân hành trì và tự thân chứng ngộ. Tại đây, cánh cửa giải
thoát sẽ mở ra một chân trời mới của thế giới tự tại, an lạc và hạnh phúc thật sự khi
mỗi cá nhân biết tự thực nghiệm và chứng ngộ.
62

Như vậy, có thể nói triết lý Phật giáo rất gần gũi với tinh thần khoa học,
nhưng sẽ không đúng nếu cho rằng Phật giáo là triết lý khoa học. Bởi việc ứng dụng
thực tiễn của khoa học có khả năng làm cho đời sống con người tiện nghi hơn, giỏi
hơn, hưởng thụ hơn những điều trước đây chưa từng có. Nhưng khoa học không thể
giúp con người chế ngự tự tâm, như ngày nay có quá nhiều người lâm vào tình trạng
sợ hãi, bất an và cảm thấy không an ổn. Đồng thời khoa học cũng không đưa con
người đạt đến sự kiểm soát đạo đức và mục đích của cuộc sống.

Tiếp đó, trên tạp chí Duy tâm Phật học, HT. Khánh Hòa lại trực tiếp phản
bác quan niệm Thượng đế sáng tạo: “Nếu Thượng đế hay cái hình xanh xanh tròn
tròn là đấng chúa tể đủ nhân đức, nhân lực, hoàn toàn tự quyền tạo ra muôn vật, thì
tức là một đại từ phụ của muôn vật, sao không dùng công đạo công lý, lại đành nhẫn
tâm tạo ra có giống làm người khôn ngoan xảo trá, có giống làm vật ngu độn dại
khờ”.

Qua đó, Hòa thượng còn nhấn mạnh nếu có Thượng đế sáng tạo thì tại sao
không lấy đức từ bi mà tạo ra sự bình đẳng cho con người. Hiện đời vẫn có người
giàu sang hạnh phúc, có người phải chịu dốt nát, bệnh hoạn mà nghèo hèn, đói rách,
thống khổ đủ điều…

Trên Duy tâm Phật học số 24, ra tháng 9.1937, Trường Tố đăng bài Thuyết
sinh tử, trong đó tác giả giải thích nguồn gốc của vũ trụ không phải do Thượng đế
mà chính là do “Tứ đại” (đất, nước, gió, lửa) tạo nên. Ông nhấn mạnh Tứ đại là
thuyết phổ biến của triết học nguyên thủy Ấn Độ, nhưng ngoài tứ đại còn phải có
thêm cái biết và cái không, đó là theo thuyết “Lục đại duyên khởi”.

Trên báo Đuốc tuệ, từ số 71-74, trong bài viết Phật giáo tân luận, Nguyễn
Trọng Thuật đã bàn cãi với các nhà Phật học ở Trung Kỳ và Nam Kỳ về vấn đề
Thượng đế sáng tạo muôn vật với nhiều lý luận khác nhau. Cụ thể ở số 72, ông
khẳng định: “Đức Thích Ca cho rằng hết thảy mọi sự vật trong vũ trụ đều do ở cái
tâm của ta tạo ra cả. Thiện hay ác là do cái tâm ta tự làm, siêu hay đọa là do cái tâm
ta tự biết, chứ chẳng phải cầu ở đâu bên ngoài”.
63

Luận điểm đó của Nguyễn Trọng Thuật là đồng ý với tư tưởng cho rằng đạo
Phật là một tôn giáo không công nhận có thượng đế sáng tạo. Để nhấn mạnh thêm
điều này, trong số 73, ra ngày 15.11.1937, cũng trong bài Phật giáo tân luận, ông
khẳng định rằng xét cùng vật lý, tới cõi tuyệt đối, không thấy có manh mối gì làm
chủ trương trong vũ trụ, nên Đức Phật Thích Ca không thừa nhận cái thuyết Phạm
vương sáng tạo. Ngài cho rằng mọi phép tắc trong vũ trụ chỉ là do nhiều nhân duyên
gặp nhau, cảm nhau, hợp nhau lại mà thành. Song vạn vật đều có bản thể mà tâm ta
vốn có bản lai. Bản lai của tâm ta là do ở một linh tính chân như bàng bạc khắp vũ
trụ, vô thỉ vô chung, chiếu sáng cho hết thảy. Bởi thế, Ngài gọi linh tính ấy là Phật
tính. Từ những luận cứ đó, Nguyễn Trọng Thuật đã khẳng định: “Vậy thì đạo Phật
là y cứ vào thực chứng mà luận vật lý chứ không phải là “liễu tận không hư”. Đã
quy tâm chân như của người ta, lại tôn sùng linh tính của vụ trụ, thế là đạo Phật đã
biết tới chỗ vũ trụ thần đó, chứ không phải là độc tôn ngã mạn như lời Huxley Tiên
sinh đã nói ở trong sách Thiên diễn”. Qua đó, ông cũng nhấn mạnh quan điểm của
mình rằng đạo Phật thực là bổ khuyết cho chủ nghĩa thuần duy vật mà lại thoát được
cái mê tín Phạm vương sáng tạo của Bà la môn. Cho nên nói, đạo Phật thực là một
tôn giáo văn minh.

Cũng trên Đuốc tuệ, còn có rất nhiều bài viết của nhiều tác giả đồng tình với
Viên âm và Duy tâm Phật học khi cho rằng không có Thượng đế sáng tạo muôn vật.
Như ở mục Phật học vấn đáp trên Đuốc tuệ số 77, ra ngày 15.1.1938 đã khẳng định:
“Vũ trụ và muôn vật đều bởi nhân duyên mà thành lập, không phải do một thiên
thần sáng tạo, duy có nhân tốt lại gặp những duyên tốt thì thành những vật tốt, trái
lại, nhân duyên không tốt thì thành những vật xấu. Người biết tránh ác theo lành thì
thần thức sáng láng, tức là cái nhân tốt, lại nhờ chủng loại quý báu, tức là cái duyên
tốt vậy”.

Như thế, cả ba tạp chí, tờ báo Phật học lớn của cả ba kỳ là Duy tâm Phật học,
Viên âm, Đuốc tuệ đều lấy tinh thần vô thủy vô chung, vạn vật do duyên sinh và
cũng do duyên diệt mà đánh đổ quan điểm Thượng đế sáng tạo muôn vật ra khỏi
vòng tranh luận đương thời.
64

Quả đúng như vậy, vì tin tưởng vào một đấng sáng thế Brahman (Phạm thiên)
mà hàng nghìn năm, xã hội Ấn Độ đã duy trì sự phân chia bốn giai cấp, gây nên sự
chia rẽ trầm trọng, mỗi giai cấp đều tùy thuộc vào ý chí của đấng Phạm thiên, cố
định vị trí ở thân thể của Phạm thiên: Giai cấp Bà la môn được cho là con chính
thống của Phạm thiên, sinh ra từ miệng Phạm thiên, là chủng tính tối thượng an
hưởng cuộc đời sung sướng. Giai cấp Sát đế lỵ sinh ra từ cánh tay Phạm thiên, là
giai cấp hoàng tộc, thay Phạm thiên nắm giữ quyền hành thống trị. Giai cấp Vệ xá
được cho là sinh ra từ bắp vế Phạm thiên, là giai cấp thương gia, nông phu và thợ
thuyền phụ trách về kinh tế. Giai cấp Thủ đà la được cho là sinh ra từ gót chân của
Phạm thiên, là hạng bần cùng hạ tiện và chỉ làm nô lệ suốt đời cho các giai cấp trên.

Sự thị hiện của Đức Phật đã làm đảo lộn mọi giá trị cố hữu, thay vào đó Ngài
mở ra cánh cửa mới của sự nhận thức khi chối từ về sự tồn tại của Brahman; điều
này được đề cập trong nhiều kinh văn Phật giáo. Đoạn kinh Tevijja (Tam minh) sau
đây kể về cuộc đối thoại giữa Đức Phật và Bà la môn Vàsettha về đấng Phạm thiên:

Này Vàsettha, như vậy ngươi nói không có một Bà la môn nào trong
những vị tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt thấy Phạm thiên, không có một
tôn sư nào của các Bà la môn tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt thấy Phạm
thiên, không có một đại tôn sư nào của các Bà la môn tinh thông ba tập
Vedà và đã tận mặt thấy Phạm thiên, không có một Bà la môn nào cho đến
bảy đời đại tôn sư, tôn sư của những Bà la môn tinh thông ba tập Vedà đã
tận mắt thấy Phạm thiên. Trong những tu sĩ thời cổ, trong các Bà la môn
tinh thông ba tập Vedà, những vị sáng tác các thần chú, những vị trì tụng
thần chú mà xưa kia những thần chú được hát lên, được trì tụng, được
ngâm vịnh và ngày nay những Bà la môn tinh thông ba tập Vedà cũng hát
lên, trì tụng và giảng dạy như các vị Atthaka, Vàmaka… không có một vị
nào đã nói: “Chúng tôi biết, chúng tôi thấy Phạm thiên ở đâu, Phạm thiên
từ đâu đến, Phạm thiên sẽ đi đâu”. Như vậy các Bà la môn tinh thông ba
tập Vedà đã nói: “Chúng tôi không biết, chúng tôi không thấy con đường
đưa đến cộng trú với Phạm thiên, nhưng chúng tôi thuyết dạy con đường
ấy: “Đây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với
65

Phạm thiên cho những ai thực hành theo”. Này Vàsettha, ngươi nghĩ thế
nào? Sự kiện là như vậy thời có phải lời nói của những Bà la môn tinh
thông ba tập Vedà là không chính xác, hợp lý [13, bài kinh số 13].

Đối với một số người tin tưởng một cách nghiêm túc hơn thì ý tưởng về đấng
Thượng đế tạo hóa chỉ là một lập trường, để giải thích các sự kiện bên ngoài như
nguồn gốc của thế giới mà họ không thể hiểu thấu. Họ quan niệm đó là một đối
tượng của đức tin có thể tạo ra một cảm giác mạnh mẽ bên cạnh sự hiện diện an ủi
của đấng tạo hóa và sự gần gũi với chính mình. Chẳng hạn như ấn tượng thời thơ ấu,
hình ảnh huyền thoại của những ông Bụt, cô Tiên đi vào truyền thống, học đường
và môi trường xã hội đã tác động vào bề mặt của vỏ não, tạo nên những hình ảnh
của tư tưởng mà tín đồ của các tôn giáo đã có một lề lối khái niệm chân thành nhất.
Trong tư tưởng Phật giáo Ấn Độ thời xưa bác bỏ một cách rõ ràng ý niệm về
vĩnh cửu, đã nêu lên thuyết vạn vật thay đổi, trong đó thuyết Duyên khởi đóng vai
trò chủ đạo, để thay thế vai trò của Thượng đế Toàn năng hay đấng Sáng tạo. Quan
niệm về các vị thần linh, mặc dù có trong Phật giáo nhưng đó không phải là điểm
trọng tâm của giáo lý hay được sử dụng như là nền tảng của giáo lý Phật giáo. Như
vậy, sự hiện hữu của mọi sự vật hiện tượng theo Phật giáo là tùy thuộc nhiều
“nhân”, nhiều “duyên” phát sinh, không ai tạo ra nó cả. Nguyên lý Duyên khởi đó
đã được Đức Phật tóm tắt trong kinh Phật tự thuyết như sau:
“Do cái này có mặt nên cái kia có mặt.
Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt.
Do cái này sinh nên cái kia sinh.
Do cái này diệt nên cái kia diệt” [16, tr. 291].

Với cuộc sống hiện đại, không cần sự thưởng phạt của một đấng tối cao, giá
trị đạo đức của Phật giáo trên căn bản năm giới (1) và Thập thiện (2) đã cung ứng cho

1
Năm giới: 1. Không sát sinh, 2. Không trộm cắp, 3. Không tà dâm, 4. Không nói dối, 5. Không
uống rượu.
2
Thập thiện là mười việc làm tốt lành, mang lại lợi ích cho con người trong hiện tại và tương lai.
gồm có: Thân: 1. Không sát sanh, 2. Không trộm cướp, 3. Không tà dâm; Khẩu: 4. Không nói dối,
5. Không nói thêm bớt, 6. Không nói hai chiều, 7. Không nói lời ác; Ý: 8. Không tham lam, 9.
Không giận dữ, 10. Không si mê.
66

quốc gia và xã hội một nền tảng đạo đức chắc chắn. Không mù quáng và ảo tưởng
trong niềm tin, dựa trên triết thuyết hợp lý, sâu sắc từ sự thực hành mang tính khoa
học, tín đồ tôn thờ Đức Phật là bậc thầy giác ngộ, là vị thầy của lòng từ bi và trí tuệ
và nhìn nhận Đức Phật như bản chất tiềm ẩn trong chính mình. Đó là điểm khác biệt
giữa Phật giáo và các tôn giáo khác. Mặc dù Phật giáo được xem như là một tôn
giáo, tuy nhiên lý thuyết, triết học và sự thực hành vượt ra ngoài phạm vi tôn giáo;
Phật giáo đặt con người làm mục tiêu thể nghiệm sự khổ đau và giải thoát khổ đau
ngay trong đời sống thay vì khái niệm huyền ảo về một đấng sáng thế toàn năng và
vĩnh cửu.

Đức Phật từng dạy: “Chúng sinh là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của
nghiệp; nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là nhân tố phán xét” [15,
tr. 481]. Những hành động có ý thức do con người tạo ra chính là đấng Thượng đế
của họ. Vì thế, mỗi người chính là đấng Sáng tạo cũng như kẻ hủy diệt bản thân
mình và thế giới này mà không phải là ai khác. Con người sẽ không thể thay đổi
nghiệp lực của mình, không thể từ ác tâm sang thiện tâm, không thể chứng quả giải
thoát nếu do một đấng Thiên chủ tạo nên. Vì thế, Phật giáo không bao giờ cho rằng
có Thượng đế toàn năng.

2.1.2. Vấn đề linh hồn bất tử

Thời Phật còn tại thế, có hai phái ngoại đạo nêu ra hai chủ thuyết: một là
“Thường kiến”, hai là “Đoạn kiến”. Phái Thường kiến cho rằng, linh hồn con người
mãi mãi là con người, dù có tạo tội ác đến đâu, chết rồi cũng tái sinh trở lại làm
người. Ngược lại, phái Đoạn kiến cho rằng, con người sau khi chết là không có linh
hồn tồn tại đời sau, tức là mất hẳn. Hai phái này, theo chủ trương của họ là không
có nhân quả báo ứng. Vì quan niệm và tin như thế, nên họ tha hồ làm ác mà không
sợ quả báo gì.

Do quan niệm linh hồn theo nhiều cách khác nhau, nên con người vẫn bàn
cãi về vấn đề có hay không có linh hồn. Thường thì linh hồn được hiểu là phần tinh
anh, cái tinh thể, tinh thần của con người, đối lập với vật chất, với bất cứ cơ quan
sinh học nào của cơ thể.
67

Các tín ngưỡng, tôn giáo thường cho rằng linh hồn là thiêng liêng, là bất diệt.
Ấn giáo quan niệm linh hồn hay bản ngã, tự ngã là trường tồn và hòa đồng được với
Đại ngã hay Phạm thiên (Brahman), gồm ba tính chất là chân lý, trí tuệ và hạnh
phúc.

Tín ngưỡng dân gian còn cho rằng linh hồn người chết có thể nương gá vào
đâu đó và có thể hiện hình trên đời mà người ta thường gọi là ma. Nhiều người tin
rằng khi một người chết đi, linh hồn người ấy sẽ đến cõi âm, sinh sống ở đấy, chờ
sự phán xét của Diêm vương, linh hồn ác có thể bị hành hạ cho đến khi được đầu
thai ở dương thế.

Phật giáo thuận theo ngôn ngữ, tín ngưỡng của dân gian, vẫn nói đến linh
hồn, vong linh, hương linh… để chỉ cái phần còn lại sau khi chết của một người.
Nhưng dù gọi là gì đi nữa thì theo giáo lý duyên sinh, vô thường, vô ngã, Phật giáo
không bao giờ chủ trương cái phần phi vật chất này, hay linh hồn là thường hằng,
bất diệt. Như lời giải thích: “Phật giáo vốn không chủ trương “Linh hồn bất diệt
luận”. Đối với sự đồng, dị giữa linh hồn và nhục thể, đức Thế tôn đều không trả lời.
Phật giáo vì quan niệm chủ thể thực tiễn nên xem trọng sự tồn tại của tâm, sự tồn tại
này triệt để đứng trên lập trường tương quan giữa tâm và vật, không xem nặng cái
nào là thực thể, cái nào là giả tướng mà chủ trương rằng tâm và vật đều không,
không có tự tính” [6, tr.2454].

Tuy nhiên từ xưa đến nay, vẫn còn tồn tại hai vấn đề chính yếu gây ra sự mê
tín đối với quần chúng nhân dân về tôn giáo là tin có Thượng đế sáng tạo và tin có
linh hồn bất tử.

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, sư Thiện Chiếu là vị sư trẻ đầu tiên đã
“công khai” trình bày vấn đề có hay không có linh hồn bất tử trong sách Phật giáo
vấn đáp. Ông nhấn mạnh khi con người chết đi thì ngũ uẩn (sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng
uẩn, hành uẩn và thức uẩn) sẽ tan rã, không có vật gì gọi là linh hồn tồn tại.

Đọc được luận điểm đó, Liên Tôn, chủ bút của tạp chí Từ bi âm đã phản đối
kịch liệt trong số 18, ra ngày 15.9.1932: “Xin hỏi các bạn trí thức học Phật lâu nay
đã thấy chỗ nào trong kinh, luận nói như vậy, và đã thấy ai nói càn như sư Thiện
68

Chiếu vậy chưa?... Như vậy thì sư viết một quyển sách ra, kẻ thì khinh yểm, người
thì lầm lạc, vậy có lợi ích gì cho đời hay không?”. Tuy đả kích như thế, nhưng Liên
Tôn vẫn chưa tìm đâu ra luận điểm nào trong kinh điển Phật giáo được Đức Phật
thừa nhận là có linh hồn bất tử. Có lẽ từ đó mà cuộc tranh luận về linh hồn bắt đầu
sôi nổi trên báo chí Phật giáo.

Ở tạp chí Viên âm, vấn đề thảo luận về linh hồn có vẻ rõ ràng, chi tiết và hầu
như là đều dẫn đến kết luận không có linh hồn bất tử.

Tạp chí Viên âm nêu quan điểm cho rằng sở dĩ các nhà nghiên cứu Phật học
luôn tranh luận về vấn đề linh hồn vì không xác định rõ tính cách của cái hồn. Tính
cách của linh hồn cũng như tính cách của muôn sự vật khác, theo sự hiểu biết của
mỗi người, ý nghĩa không giống nhau. Cho nên, trước khi bàn cãi về linh hồn, cần
phải định rõ tính cách của cái hồn. Tuy nhiên, định tính cách cũng chỉ theo ý tưởng
của muôn người, không nên nhận lầm rằng đó là tính cách nhất định của cái hồn
theo nghĩa lý đạo Phật.

Theo đó, trên tạp chí Viên âm số 4, ra tháng 3 năm 1934, bác sĩ Lê Đình
Thám đã chứng minh là không có linh hồn bất tử. Ông cho rằng con người theo tín
ngưỡng gồm có hai phần là xác và hồn, cũng nghe thấy bình thường. Nhưng khi con
người còn đang sống, cái thấy cái nghe đó do đâu. Nếu như nói thân thấy thân nghe
thì chết vẫn còn mắt, còn tai, sao lại không thấy không nghe được. Còn nói hồn thấy
hồn nghe thì cái thấy, nghe kia phải nương theo xác thịt mới có hay riêng một mình
phần hồn cũng có. Nếu nói phải nương theo xác thịt mới có thì cái hồn ra ngoài xác
thịt chắc không còn nghe còn thấy nữa, vậy thì tại sao con người lại tin rằng một
mình cái hồn cũng thấy cũng nghe. Còn như nói chỉ một phần hồn cũng thấy cũng
nghe, thì hồn ấy ra sao. Khi mình đứt một cánh tay, hồn có đứt cánh tay không. Nếu
nói có thì hồn với xác là một. Nếu như hồn như hư không, không thể đứt được thì
làm sao hồn những người đui không tự thấy mà đi, lại phải nhờ người khác dắt.

Lập luận trên tạp chí Viên âm thật sự đã gây hoang mang rất nhiều đối với
những người tin có linh hồn bất tử. Bác sĩ Tây y Lê Đình Thám giải thích linh hồn
rất có khoa học và ngay cả trong chiêm bao, ông cũng lý giải thật chuẩn xác, bác bỏ
hẳn ý kiến thông thường cho rằng đó là “hồn đi chơi”. Ông nói rằng chiêm bao do
69

tư tưởng của mình biến ra mọi sự, tư tưởng trong sạch thì thấy những điều lành, tư
tưởng độc ác thì thấy những điều dữ. Nếu như nói thân trong chiêm bao là hồn của
mình thì cảnh giới trong chiêm bao là ở đâu? Cảnh giới ấy có thật hay không? Nếu
như có thật thì tại sao những người xung quanh mình lại không thấy? Nếu như do tư
tưởng mình tưởng tượng ra, thì tất cả cảnh giới trong chiêm bao đều là mình, mà
không phải chỉ riêng một cái thân kia. Vậy thì làm sao nhận là hồn là xác được. Và
cuối cùng ông kết luận: “Xét như vậy, đủ biết cái hồn biết thấy biết nghe, biết có
mình có người, biết thương biết ghét, biết vui biết buồn kia là không thực có”.

Cũng trên tạp chí Viên âm số 4, Lê Đình Thám đã nhắc đến những thắc mắc
của nhiều tín đồ và độc giả qua các khía cạnh khác về ma quỷ, đánh đồng thiếp v.v..
Họ cho rằng nếu hồn không thực có, vậy làm sao nhiều người còn thấy ma, lại có
người đánh đồng thiếp thấy rõ ông bà cha mẹ? Qua đó, ông đã trả lời vấn đề này
bằng cách hỏi lại: “Nhân vật trong chiêm bao có thật hay không? Chắc ai cũng trả
lời không, vì nếu có thật, sao khi tỉnh dậy lại không thấy?”. Với điều này, ông lý
giải rằng nhân vật chiêm bao không có thật, vì chiêm bao nên dường như là có,
cũng như con ma vốn không có thật, nhưng vì lòng mê tín và sợ hải nên thấy là có
ma thật. Đánh đồng thiếp mà thấy linh hồn ông bà, cha mẹ mình ở âm phủ, cũng
giống như những người đi xem múa rối, bị phép thuật thôi miên, nên thấy con trâu
đi qua ống tre. “Đó là tư tưởng của mình hóa ra chứ không gì khác”.

Lê Đình Thám lại nêu ra những thắc mắc tiếp theo của độc giả tạp chí Viên
âm số 4: “Nếu không có linh hồn thì làm sao ngày nay người ta lại sống được?”.
Nói đến nguồn gốc của sự sống này thì quả thật tạp chí Viên âm chưa giải đáp được
một cách rõ ràng, chắc chắn. Tuy nhiên, Viên âm vẫn giữ quan điểm cho rằng không
có linh hồn bất tử và giải thích theo ý riêng là cái làm cho con người tồn tại thì lúc
nào cũng hiện hữu. Vì nếu như cái ấy không có thì cái sống cũng không có. Nhưng
cái ấy là cái ấy, mà không phải là cái hồn theo lối thông thường.

Tuy tạp chí Viên âm lý giải chi tiết nhưng lập luận lại không triệt để, thiếu
khoa học, như lời kết luận: “Muốn cho có đèn sáng cần phải làm ra luồng điện
mạnh, làm ra cái đèn tốt, cũng như muốn được thân trong sạch, muốn được cảnh vui
vẻ, cần phải hành động một cách chính đáng, đó là lẽ tất nhiên, chớ cái làm cho
70

chúng ta sống đây thiệt không thể kêu bằng chi được, gượng ra phải gọi là “tâm”;
một điều chắc chắn là không phải cái hồn tự mình biết thương biết ghét, biết thấy
biết nghe đâu”.

Phải chăng tạp chí Viên âm muốn để chỗ cho thuyết “luân hồi” và thuyết
“duy thức” của Phật giáo tiếp tục làm sáng tỏ vấn đề này? Dẫu lý giải còn mâu
thuẫn, nhưng Viên âm đã gây tiếng vang lớn đối với quần chúng, khiến các tạp chí
khác cũng phải lên tiếng thảo luận.

Tạp chí Tiến hóa có lẽ đã hiểu rõ vấn đề nên đã có cái nhìn so sánh khá
chuẩn xác với các tạp chí khác, hầu tìm ra một kiến giải đúng với chân lý của đạo
Phật. Cụ thể, khi thấy tạp chí Viên âm bàn luận về linh hồn còn nhiều mâu thuẫn,
Tiến hóa số 14-15, ra tháng 4.1939 đã có bài Thảo luận với Viên âm về linh hồn rất
rõ ràng và chi tiết. Tiến hóa cho rằng Phật giáo đã không nhận có thần tạo vật, thì
không nhận có linh hồn là một vật sống hoài không chết, đầu thai từ kiếp này sang
kiếp khác như của đạo Bà la môn (hữu ngã luân hồi). Sự hiểu biết và phân biệt (biết
thấy, biết nghe, biết thương, biết ghét v.v..) của ta trong khi còn sống, theo đạo Phật
gọi là Thức (Thức tức là cái hiểu biết: mắt biết thấy, tai biết nghe, mũi biết ngửi... ý
biết phân biệt v.v..), nó sinh diệt vô thường, không phải là một cái sống hoài không
chết, như thuyết linh hồn của tất cả ngoại đạo. Theo thuyết Mười hai nhân duyên
của đạo Phật, vì có vô minh mới sinh ra hành (sự biến đổi), do hành sinh ra thức (sự
hiểu biết) v.v.. nếu muốn khỏi luân hồi tái sinh thì phải trừ diệt vô minh. Từ luận
điểm đó, tạp chí Tiến hóa kết luận nếu ai tin có linh hồn không chết thì chính họ là
người ngoại đạo.

Tiếp đó, tạp chí Tiến hóa còn khẳng khái lên tiếng trước các báo chí: “Cái
lầm to của Viên âm là bảo cái tâm làm cho chúng ta sống lại. Cái làm cho chúng ta
sống lại là Nghiệp (hành động, tạo tác) cùng các duyên khác mà không phải là tâm
như trước đây chúng tôi đã cắt nghĩa, nhưng thấy Viên âm còn mập mờ cái tâm, cho
nên chúng tôi cần giải thích cho rõ”.

HT. Bích Liên đã trực tiếp bào chữa cho tạp chí Từ bi âm với bài Thích nghi
về cái hồn đăng ở số 104. Hòa thượng cho rằng có linh hồn mà theo Phật giáo gọi là
71

“A lại da thức”, là một trong tám thức (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức,
Thân thức, Ý thức, Mạt na thức, A lại da thức).

Đồng ý với quan điểm này của HT. Bích Liên, trên tạp chí Duy tâm Phật học
số 8, ra ngày 11.5.1936, HT. Khánh Hòa cũng cho biết: “Nghiệp thức, thế gian
thường kêu là linh hồn, thì nghiệp thức hay linh hồn cũng tức là một… Lại cũng
kêu là cái thân “trung ấm” và nó hễ buông thân này thì bắt thân kia”.

Theo sự giải thích của ông Phạm Hữu Bính trên Viên âm số 50, ra tháng 6
năm 1942: “Mạt na thức và A lại da thức không phải là linh hồn huyền bí, kỳ diệu.
Sáu thức đầu giao tiếp với ngoại cảnh, hai thức sau không giao tiếp với ngoại cảnh.
Giống như học lâu năm thì không quên được nữa”. Rồi ông kết luận các thức cao
thấp đều thực có, còn nếu tin rằng linh hồn độc lập với thân thể, thân thể chết rồi
nhưng nó còn tồn tại bất tử, thì đó là chỉ là tưởng tượng, là mê tín. Viên âm nhấn
mạnh “linh hồn là một danh hiệu không có trong kinh điển Phật giáo”.

Đúng vậy, theo Phật giáo, cái mà các ngoại đạo gọi là linh hồn thì Phật giáo
gọi là tính biết, cái biết, sự nhận thức, tư duy…, gọi chung là Thức. Thức bao gồm
một nội dung được xem là những dấu ấn, những hạt mầm (chủng tử) được tạo nên
bởi những hành tác của một người trong đời sống hiện tại và những đời sống trước
kia, còn được gọi là nghiệp hay nghiệp thức. Nghiệp là những hành động lặp đi lặp
lại nhiều lần thành thói quen. Chính thói quen này khi thuần thục, nó có một sức
mạnh phi thường để tùy duyên chiêu cảm thọ sinh. “Nghiệp thức tương đương với
phần tự thể trong A lại da thức, là do sức tác động của vô minh bất giác mà sinh ra,
là thức do nghiệp duyên mà sinh ra” [6, tr.3119].

Trong thuyết cơ bản của Phật giáo, thuyết năm uẩn phân tích con người là
một tập hợp năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Trong năm uẩn chỉ có sắc uẩn là
vật chất, còn bốn uẩn còn lại đều là phi vật chất, hay là thuộc phạm trù tinh thần.
Một cách phân tích khác, ngược với cách phân tích năm uẩn là chia sắc uẩn thành
bốn yếu tố: địa, thủy, hỏa, phong gọi là bốn đại và tập hợp các yếu tố phi vật chất
hay tinh thần thành một nhóm, gọi chung là thức hay thức đại (địa, thủy, hỏa, phong,
thức).
72

Sau thời Đức Phật, các luận gia suy diễn rằng có một cái thức gọi là A lại da
hàm chứa mọi nội dung của thức. “Vì thức này giữ gìn không để mất chủng tử các
pháp nên gọi là Vô một thức; vì là cội gốc các pháp nên gọi là Bản thức, vì có tác
dụng rất mạnh đối với các thức nên gọi là Thức chủ; vì là nguồn gốc của vũ trụ vạn
hữu, hàm chứa vạn hữu, làm cho vạn hữu tồn tại, không mất đi, nên gọi là Tàng
thức; vì hàm chứa các chủng tử để sinh ra và nuôi lớn vạn hữu nên cũng gọi Chủng
tử thức” [4, tr.39]. Nội dung của thức này luôn luôn biến đổi theo hoàn cảnh sống
và theo hành động của chúng sinh mang nó. Chính đấy là năng lượng, là sức mạnh,
gọi là nghiệp lực mà khi một người chết đi, nó đẩy A lại da hay Thức nương gá vào
một thân thể mới vừa tượng hình có hoàn cảnh phù hợp với nó. Đây là ý nghĩa của
“linh hồn đi đầu thai” mà Phật giáo gọi là Thức đi đầu thai, không phải là quan
niệm linh hồn bất tử đi đầu thai. Nếu nói có linh hồn bất tử đi đầu thai thì không lẽ
nếu ai kiếp này làm người giàu sang thì sau khi chết rồi, linh hồn giàu sang ấy vẫn
còn và tiếp tục đầu thai làm kiếp khác và cũng sinh làm người giàu sang. Hoặc
ngược lại nếu người nghèo khổ thì kiếp sau vẫn cứ nghèo khổ. Quan niệm này hoàn
toàn trái ngược với triết lý nhân quả - nghiệp báo của đạo Phật.

Đức Phật trong kinh Bổn Sinh, đã kể về nhiều kiếp trước của Ngài khi còn là
một hành giả đang tu tập. Tuy nhiên, theo định luật nhân quả, chúng ta không cần
phải biết chết rồi sẽ đi về đâu; nhưng điều ta cần phải biết đó là chúng ta đang sống
với một tâm thức như thế nào, đang gieo trồng thiện nghiệp hay ác nghiệp? Vấn đề
còn lại đã có luật nhân quả - nghiệp báo điều động.

Trong kinh Đại Duyên (Mahanidanasutta) của Trường Bộ (Dighanikaya),


Đức Phật cật vấn Tôn giả A nan: “Này A nan, nếu Thức không đi vào trong bụng
mẹ thì danh sắc có thể hình thành trong bụng mẹ không?”.

Tôn giả A nan đáp: “Bạch Thế Tôn, không”. Rõ ràng Đức Phật đã dạy rằng
chính cái Thức đi đầu thai.

Về sau, nhiều luận gia gọi cái Thức đi đầu thai này là Càn thát bà hay thân
Trung hữu, Trung ấm mà giới Phật học vẫn còn chưa thống nhất quan điểm về tính
chất, sự hiện hữu và thời gian hiện hữu của nó trước khi nhập thai.
73

Nhìn chung, Phật giáo được xem như là “chủ nghĩa vô thần” đối với những
người có tư tưởng độc lập hay những nhà hữu thần, chỉ vì Phật giáo không tin tưởng
vào một đấng sáng tạo, toàn năng và vĩnh cửu. Tuy nhiên, quan niệm về “vô thần”
trong Phật giáo không đồng nghĩa với “vô thần” của những nhà thuần túy duy vật
hay duy vật biện chứng. Học thuyết Phật giáo là sự hòa hợp giữa tâm và vật. Phật
giáo không tán thành triết lý vật chất hủy diệt thuần túy, vì cho rằng đó là một lý
thuyết sai lầm. Sáu cõi luân hồi (Trời, Người, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh)
và các cảnh giới Thánh hiền thanh tịnh (Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, Phật) đủ để
chứng minh rằng quan điểm của Phật giáo không phải là sự hủy diệt hoàn toàn sau
khi chết hay là có linh hồn bất tử, mà là sự thay đổi không ngừng. Mỗi chúng sinh
là một đấng sáng tạo muôn vẻ cho chính mình xuyên qua sự vô hạn của kiếp luân
hồi, tùy theo nghiệp thức gây tạo như thế nào mà sinh vào cảnh giới thích ứng như
thế đó.

Nói tóm lại, Phật giáo không quan niệm có linh hồn bất tử, vì như giáo lý Vô
ngã đề cập, không hề có một bản ngã hay cái ngã linh hồn nào trường tồn bất diệt,
mà chỉ có dòng nghiệp thức của các chúng hữu tình luôn hiện hành. Nếu có một cái
ngã linh hồn bất tử, thì con vật không thể sau khi phát triển thiện nghiệp qua nhiều
đời, có thể chuyển sinh sang làm kiếp con người; hoặc là con người không thể
chuyển sinh thành một vị Bồ tát hay một vị Phật. Bởi theo cái nhìn của Phật giáo,
loài vật ngoài hoạt động theo bản năng, chúng còn có tính thiện, tức có tính giác,
cũng biết nhận thức, phân biệt. Tùy theo nghiệp nhân đã tạo nặng hay nhẹ mà sinh
vào loài vật nào đó, đến khi hết nghiệp có thể được sinh làm người, chứ không thể
đã làm sinh làm loài vật thì làm loài vật mãi.

Tuy nhiên, dòng nghiệp thức chính là sự vận hành liên tục từ đời này qua đời
khác trong cõi luân hồi mà nền tảng của sự vận hành này chính là tâm thức của mỗi
chúng sinh. “Theo tông Duy thức, tâm thức chính là thức thứ 8 (A lại da). Vì thức
này bao hàm nghĩa tích tập, là thể căn bản sinh ra các pháp, nên cũng gọi là Tập
khởi tâm, nghĩa là A lại da thức chứa nhóm chủng tử và sinh khởi hiện hành” [8,
tr.4317]. Do đó, đạo Phật không thừa nhận có một linh hồn bất tử, nhưng thừa nhận
có sự chuyển biến của tâm thức trong suốt hành trình sinh, tái sinh và nghiệp nào
74

nặng sẽ lôi mình trước. Cho đến khi nào hành giả tu tập đạt được thánh quả như A
la hán, Phật, hay Bồ tát ở địa vị không thối chuyển này, thì vòng luân hồi chấm dứt.
Lúc bấy giờ vấn đề sinh và tái sinh là do nguyện lực chứ không phải là do sự thúc
đẩy của nghiệp lực nữa.

Từ đó cho thấy, với những luận giải trên tạp chí Viên âm và Tiến hóa phần
nào đã chứng minh được những tư tưởng Phật giáo tiến bộ đối với cái nhìn của khoa
học. Riêng HT. Bích Liên trên Từ bi âm và HT. Khánh Hòa trên Duy tâm Phật học
có nhắc đến A lại da thức và nghiệp thức đi đầu thai là đã có cái nhìn đúng với triết
lý Phật giáo. Tuy nhiên để kết luận, cả hai vị đều cho đó là linh hồn, là có linh hồn
tồn tại thì không chính xác. Vì vậy, cái được tạp chí Viên âm gọi “cái ấy” chính là A
lại da thức, là Thức hay Nghiệp thức đều đồng nghĩa nhau và tất cả đều do vô minh
từ vô thỉ mà có. Nó là vọng thức, luôn luôn vận hành, biến đổi theo hoàn cảnh và
hành tác của một người, và là động lực khiến chúng sinh đi đầu thai, trôi lăn trong
sinh tử luân hồi. Nếu biết tu tập, Thức sẽ biến thành Trí tuệ tuyệt đối, thành giải
thoát tối hậu, chấm dứt sinh tử, chứng đạt Niết bàn.

2.1.3. Vấn đề cảnh giới Cực lạc và địa ngục

Có thể nói, ngoài hai vấn đề nêu trên, đạo Phật vẫn còn nhiều vấn đề triết lý
sâu xa trong thời kỳ Chấn hưng Phật giáo thập niên 1930-1940, được tăng già và
các nhà cư sĩ Phật học đưa ra nghiên cứu, thảo luận: “Có hay không có Tây phương
Cực lạc? Có hay không có cảnh giới địa ngục?”... Những sự kiện này đã được báo
chí Phật giáo bàn luận rất phong phú trong tinh thần đối thoại thẳng thắn, kể cả
những buổi thuyết giảng, tạo nên sinh khí mới trên diễn đàn Phật giáo đấu tranh
giữa những trào lưu có tư tưởng tiến bộ và lạc hậu.

Người đầu tiên bàn luận về vấn đề Cực lạc và địa ngục có thể nói là sư Thiện
Chiếu. Ông đã khẳng định lập trường của mình trong sách Phật giáo vấn đáp rằng
cảnh Niết bàn, Cực lạc không phải là không có gì hết. Niết bàn nghĩa là “tắt”, cũng
như gió thổi lửa tắt, tắt là tắt vọng tâm, không bám theo giả tướng mà trở về bản thể
“Chơn tâm”. Niệm Phật để dứt vọng tâm, đừng nên hiểu lầm rằng niệm Phật sẽ
được Phật rước về Tây phương Cực lạc, để rồi cố niệm chuỗi này qua chuỗi nọ mà
75

lòng tham lam, độc ác vẫn còn. Nếu ỷ lại có Phật rước mà vọng tâm không dứt trừ,
thì dù có niệm Phật trăm ngàn kiếp cũng vẫn ở trong luân hồi sinh tử.

Liên Tôn, chủ bút tạp chí Từ bi âm và nhiều học giả khác đều lên tiếng tranh
cãi với cách luận giải đó của Thiện Chiếu. Đây là dịp để Thiện Chiếu luận bàn chi
tiết hơn về tư tưởng của mình và hiển nhiên sự tranh luận giữa các tạp chí, tờ báo
với mục đích là làm sáng tỏ Phật pháp.

Liên Tôn hỏi thẳng Thiện Chiếu: “Nếu theo lời sư, “tin Phật rước là sai lầm”
thì xưa Phật Thích Ca nói trong kinh Di Đà: “Nếu chúng sinh nào giữ niệm danh
hiệu Di Đà thì chư Phật sẽ hiện ra trước mắt”, còn ngài Thế Chí nói trong kinh Lăng
nghiêm: “Nay ta ở cõi này mà rước người niệm Phật về nơi Tịnh độ”, chẳng phải là
Phật Di Đà nguyện lầm, Đức Thế Chí cũng rước lầm hay sao?”.

Từ đó, Thiện Chiếu đã trả lời cho Liên Tôn rằng thuyết thưởng phạt của tôn
giáo quan niệm ai biết làm điều lành, sau khi chết được sinh lên Thiên đường, còn
làm điều ác, sẽ bị đọa vào địa ngục thì quả thật rất mơ hồ, chưa thuyết phục. Vì
ngay trong đời hiện tại con người đang sống, không có gì chứng minh rõ về cảnh
giới Cực lạc và địa ngục. Cho nên nói Thiên đường, địa ngục thật ra chỉ là danh
hiệu để chỉ cho sự vui khổ ở đời. Phật giáo nói rằng: “Lòng mê muội thì khổ, ấy gọi
là chúng sinh, lòng sáng suốt thì vui, ấy xưng là Phật”. Vậy thì lẽ nào chúng ta phải
đợi có Thiên đường mới vui, có địa ngục mới khổ sao?

Tiếp đó, Thiện Chiếu đã giải thích cụ thể hơn rằng theo triết lý Phật giáo,
Niết bàn không phải là cảnh, là cõi hay là nước của Phật. Nếu để tâm định tĩnh,
không mê muội thì được an lạc, đó gọi là Niết bàn, là Cực lạc.

Tạp chí Viên âm đồng ý với Thiện Chiếu về luận điểm này, nên đã để Chỉnh
Túc tham gia vào Viên âm số 12, với bài luận Đâu là Thiên đường, địa ngục. Tác
giả đã nghiễm nhiên cho rằng: “Người vui thì cảnh buồn cũng hóa ra vui, người
buồn thì cảnh vui cũng hóa ra buồn. Hễ tri túc làm lành thì đâu đâu cũng là Thiên
đường, tham cầu làm dữ thì đâu đâu cũng là địa ngục. Thế mới biết Thiên đường
cũng là tâm, địa ngục cũng là tâm, một tâm mà sinh ra hai lối, chúng ta nên đi lối
nào?”.
76

Đồng với quan điểm này còn có Tri Huyền Tử với bài viết Thiên đường và
địa ngục với ngày Rằm tháng bảy đăng trên Quan âm số 31, ra tháng 8 năm 1942:
“Phật lại nói: Thiên đường và địa ngục ở tâm ấy, mà Tịnh độ với luân hồi cũng trụ
cả nơi tâm ấy”. Từ đó, Tri Huyền Tử lý giải địa ngục với quả địa cầu cũng là sự ảnh
hưởng hình phạt, không ở đâu xa. Nếu từng nhà, từng người không sớm lo tu tập
theo chính pháp sẽ là kẻ có lỗi. Mọi sự tàn ác, ngược ngạo, trái với lương tâm là cái
gốc tội báo, vì nó vốn tích tụ nơi tâm. Muốn phá địa ngục để được an vui chốn
Thiên đường thì hãy tự phá địa ngục ở ngay tâm mình, bởi sự luân chuyển địa ngục
hóa ra Thiên đường ở ngay trước mắt thế gian mà thôi.

Như vậy, theo Thiện Chiếu cũng như tạp chí Quan âm và Viên âm cho rằng
các cảnh giới Cực lạc hay địa ngục là do chính tâm mình tạo ra và ngay ở thế gian
này mà không phải do ai tạo hết. Chỉ cần con người nói, làm, suy nghĩ với tâm tốt
thì sẽ được sống vui vẻ, hạnh phúc ở cõi Tịnh độ thế gian. Bằng ngược lại, con
người sống với tâm bất thiện, không chịu sửa bỏ lỗi lầm thì nhất định sẽ sống khổ
đau trong cõi địa ngục trần gian. Nhân duyên quả báo rõ ràng, tất cả tội phước đều
do mình tạo ra và do chính mình nhận lãnh.

Tuy nhiên, về phía Liên Tôn, cũng có nhiều học giả ở tạp chí khác ủng hộ
quan điểm cho rằng có cảnh giới Cực lạc hay địa ngục ở nơi nào đó. Trong tạp chí
Bát nhã âm số 23, Giác Quang đã đưa ra bài luận Phải tin về pháp Tịnh độ, xác định
phương pháp tu Tịnh độ một cách đúng đắn: “Người không có đức tin thì chẳng hề
thưởng thức đặng lối kết quả mỹ mãn. Người chẳng tin thì mỗi mỗi hành vi cử chỉ
gì chẳng hề để vào trong ký ức. Than ôi! Như thuyết Tịnh độ đây do đâu mà chẳng
tín vậy? Sao gọi là Tịnh độ? Cõi Tịnh độ đây là cõi thế giới Cực lạc ở phương
Tây…”.

Cùng với pháp tu Tịnh độ, tác giả Minh Lý với bài viết Dứt tất cả nghiệp
chướng đặng sanh về Tịnh độ đăng trên tạp chí Bát nhã âm số 14, ra ngày 15.4.1939
đã một lần nữa nêu bật giá trị của pháp môn này, với mục đích giúp người học Phật
có cái nhìn đúng đắn và cụ thể hơn. Tuy cách nhìn này của ông có phần phiến diện,
nhưng cũng đã bày tỏ được tư tưởng của mình về cảnh giới Tịnh độ. Ông cho rằng
cũng vì nghiệp chướng làm cho chúng sinh hệ lụy vào ba cõi, trôi lăn trong sáu nẻo
77

luân hồi, chịu nhiều khổ đau trong vòng sinh tử. Chỉ có sự tu hành, noi theo Tịnh độ
chính tông thì mới mong thoát khổ.

Trên Duy tâm Phật học số 5, có đăng bài giảng của Phạm Chơn Trí. Ông đã
kể lại chuyện Phật Thích Ca nói về cảnh Cực lạc rất thú vị: “Từ đây qua đến Tây
phương cách mười muôn ức thế giới của Phật, có một thế giới kêu là Cực lạc, thế
giới ấy có một vị Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đang thuyết pháp. Những chúng
sinh ở cõi đó thì không có các điều khổ, chỉ hưởng các điều vui, không phiền não
thống khổ, cho nên thế giới ấy gọi là Cực lạc (tột sự vui)”.

Ngay từ Đuốc tuệ số đầu tiên ra ngày 10.12.1935, đã có sự đóng góp của
Nguyễn Trọng Thuật. Ông cũng khẳng định tư tưởng cho rằng có cảnh giới Cực lạc
của Phật A Di Đà. Tiếp đến số 129 của Đuốc tuệ, ra tháng 4 năm 1940 còn có bài
viết tả cảnh Tây phương Cực lạc chi tiết và giống như thật. Trong đó nói rằng chúng
sinh sống lâu vô cùng, muốn gì có nấy v.v.. Chúng sinh ở đó không ai lấy của ai,
không ai dâm dục, giận dữ, ngu si, kiêu mạn, khổ não; không ai đói khát, tiếng nói
của mọi người đều thanh nhã. Về cây cảnh thì luôn đầy hoa quả, gió thổi vào là phát
ra âm nhạc, chúng sinh hòa hợp, bàn giảng chính pháp. Mặt đất bằng phẳng như
tâm của chúng sinh phẳng lặng. Muốn qua nước Tịnh độ, muốn về xứ Tây phương
Cực lạc thì dễ lắm, chỉ cần lúc nào cũng đọc sáu chữ: Nam mô A Di Đà Phật!

Trên Đuốc tuệ số 29, Lê Đình Hoa cũng bênh vực cho tư tưởng này. Ông cho
biết ý suy nghĩ là ý nghiệp, thân hành động là thân nghiệp và miệng nói năng là
khẩu nghiệp. Nếu để ba nghiệp theo con đường ác thì sẽ sinh vào địa ngục, Ngạ quỷ,
Súc sinh; nghiệp trung bình thì sinh ra làm Người, làm Tu la (Quỷ thần); còn tạo
nghiệp lành thì được sinh lên cõi trời, cõi Cực Lạc an vui.

Nhàn Vân Đình cũng tham gia trong Đuốc tuệ số 158 qua bài Thiện ác. Ông
tiếp bước người trước, cũng khẳng định nếu làm điều lành thì con người đi theo
nghiệp tốt, còn làm điều xấu thì chịu nghiệp không tốt: “Hễ làm thiện thì được nhẹ
nghiệp, kinh gọi là bạch nghiệp (nghiệp trắng), cho nên nổi lên mà lên con đường
thiện… Hễ làm ác thì phải nặng nghiệp, kinh gọi là hắc nghiệp (nghiệp đen), cho
nên chìm xuống mà xuống con đường ác…”.
78

Với tư tưởng đó, trên tạp chí Từ bi âm số 47, ra ngày 1.2.1933 có HT. Chánh
Tâm đã nói về Bốn mươi tám lời phát nguyện của Phật A Di Đà, nhằm chỉ cho tín
đồ con đường tu tập sinh về Cực lạc theo Phật A Di Đà.

Tạp chí Tam bảo cũng rất quan tâm về sự kiện có hay không có cảnh giới
Cực lạc và địa ngục, nên ngay từ số 1, ra ngày 15.1.1937, tạp chí đã lý giải:

Phật ta vì thương chúng ta ngu dại, nên lấy cái lòng từ bi quảng đại, dạy ra
đủ pháp năm thừa, 1. Nhơn thừa, dạy người giữ năm điều giới cấm, thời
đời đời kiếp kiếp, thường được thân người, khỏi đọa về loài khác; 2. Thiên
thừa, dạy người tu mười nghiệp thiện, tức tâm đừng tham đừng sân, đừng
mê dại. Thân đừng sát hại, đừng trộm cắp, đừng tà dâm; miệng đừng láo
xược, đừng thêu dệt, đừng đâm thọc, đừng nói hung dữ, nhơ nhớp, thời
báo thân được sanh về cõi trời. Còn ba thừa sau là Phật dạy người do thanh
văn thừa, duyên giác thừa mà tu tới Bồ tát thừa, dứt luôn nghiệp sanh tử
luân hồi, về cảnh Tịnh độ, chứng thành Phật quả, rồi trở ra độ chúng sinh...

Có thể nói, khi bàn về thế giới, cảnh giới, đã có rất nhiều kinh điển Phật giáo
đề cập đến tam thiên đại thiên thế giới, vô lượng vô biên thế giới, hằng hà sa số thế
giới. Địa ngục chỉ là một trong sáu cảnh giới của cõi Dục (Trời, A tu la, Người, Súc
sinh, Ngạ quỷ, Địa ngục) thuộc thế giới Ta bà. Tùy theo nghiệp lực của mỗi chúng
sinh mà tái sinh vào một cảnh giới tương ứng với nghiệp lực của mình. Mỗi cảnh
giới mà chúng sinh thọ dụng phải đầy đủ ba yếu tố là vị trí, thân tướng và tâm thức.

Địa ngục là một trong những cảnh giới mà kinh điển thường nói đến, nơi đó
chúng sinh phải chịu khổ cùng cực mà không ở đâu có thể sánh bằng. Vị trí địa
ngục, theo kinh Địa Tạng thì nằm ở phương Đông của cõi Diêm Phù Đề 3 , có núi
Thiết Vi (bao bọc bằng sắt) trong đó tối om, ánh sáng mặt trời mặt trăng không soi
tới. Trong núi ấy, gồm những địa ngục lớn, nhỏ… tùy theo tính chất của những
nghiệp ác đã tạo mà người ta sẽ bị chiêu cảm vào những cảnh địa ngục khác nhau.

3
Diêm Phù Đề: Theo Từ điển Phật học Huệ Quang (tập II, tr. 1078): Cõi nước có trồng nhiều cây
Diêm Phù và sản xuất ra vàng Diêm Phù đàn. Theo Luận Câu xá 11, trong 4 đại châu lớn, chỉ châu
này có tòa Kim cương, tất cả Bồ tát sắp thành Chính giác đều ngồi tòa này… Theo trên thì biết,
Diêm Phù đề vốn chỉ cho Ấn Độ, về sau chỉ chung cho thế giới nhân gian.
79

Chúng ta nhờ tạo nghiệp nhân làm người nên được sinh làm người, còn những
chúng sinh nào tạo nghiệp nhân địa ngục thì bị đọa đày trong địa ngục v.v.. Đây là
một sự thật của định luật nhân quả - nghiệp báo, vì theo Phật giáo, trước hết có thể
hiểu địa ngục là một cảnh giới, một cõi sống cụ thể, không phải là ẩn dụ hay biểu
tượng.

Nếu như chúng ta tạo nhiều nghiệp ác là đã tự chọn lấy con đường vào địa
ngục, thì cũng không ai khác có thể cứu chúng ta ra khỏi địa ngục ngoài việc tự tâm
chúng ta biết thay đổi, hướng về điều lành. Mỗi một niệm lành khởi lên sẽ giúp
người ta rời xa dần các cảnh địa ngục, giảm nhẹ các hình phạt khổ não mà họ đang
thọ nhận.

Cho nên, nếu đứng trên lập trường duyên khởi có thể nói địa ngục hay vạn
pháp đều không thật có, là “không”, như “huyễn”, hay qua lăng kính “Tam giới duy
tâm” thì có thể nói địa ngục hay Cực lạc là tùy theo trạng thái tâm mình đau khổ
hay hạnh phúc, nhưng điều ấy chỉ đúng về phần “lý” trong quan điểm về cảnh giới
mà thôi. Đức Phật khi thuyết minh về cảnh giới bao gồm “lý” và “sự” rất rõ ràng.
Đạo Phật chủ trương “sự lý” phải viên dung, tánh tướng không hai. Như nước và
sóng không thể tách rời ra được. Thiên về lý mà bỏ quên sự sẽ dẫn đến những ngộ
nhận đáng tiếc, nhất là sự phá kiến, không tin nhân quả, phủ nhận tội phước.

Thế nào gọi là “sự Cực lạc”? Sự là hình tướng, là những hiện tướng bên
ngoài mà chúng ta có thể thấy biết được. Dựa theo kinh A Di Đà do đức Phật Thích
Ca đã giới thiệu và diễn tả về cảnh giới Tây phương Cực lạc, chúng ta tin chắc có
cõi Cực lạc, có Phật A Di Đà làm giáo chủ và có các hàng Thánh chúng cũng như
như những vị đã được vãng sinh về nơi đó. Nhờ tin chắc như vậy nên chúng ta cố
gắng nương vào danh tướng sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật” mà trì niệm. Do niệm
chuyên nhất lâu ngày nên được thuần thục, đạt được nhứt tâm bất loạn. Như thế,
chắc chắn khi lâm chung, chúng ta sẽ được vãng sinh về Cực lạc.

Thế nào là lý Cực lạc? Lý là bên trong, thuộc về tâm thể, chúng ta không thể
dùng mắt thường để thấy được. Tâm thể nầy mỗi người đều sẵn có. Đây là một thực
thể bất sinh, bất diệt, còn gọi là chơn tâm hay lý tính. Khi chúng ta nhiếp tâm niệm
hồng danh Phật và lúc đó tâm ta an trụ vào câu Phật hiệu, không khởi nghĩ việc gì
80

khác, nghĩa là không khởi ý nghĩ về hai bên: có không, phải trái, tốt xấu v.v.. thì
khi đó tự tánh Di Đà hay Duy tâm Tịnh độ hiện tiền. Như vậy sự và lý không có hai.
Tuy không hai, nhưng nói một cũng không được. Ví như nước trong không ngoài
nước đục mà có. Muốn có nước trong, ta phải chịu khó lọc cặn bã. Khi cặn bã
không còn, chất nước trong hiện ra. Trong nhà Phật thường nói: “nương sự hiển lý
hay tức lý hiển sự là vậy”. Sự và lý phải dung thông. Nước đục là dụ cho sự, nước
trong là dụ cho lý. Thế thì, lý không ngoài sự và sự không ngoài lý mà có. Do khi tu
tập, chúng ta chưa thể nhập được lý tính, nên cần phải nương vào sự tướng.

Cực lạc (Niết bàn), theo kinh điển Phật giáo định nghĩa gồm có hai phương
diện [9, tr.2833]:

- Hữu dư y Niết bàn: chỉ cho người đã đạt đến cảnh giới thoát khỏi vòng luân
hồi sinh tử, nhưng nhục thể vẫn còn tồn tại.

- Vô dư y Niết bàn: là cảnh giới vĩnh viễn, phần nhục thể không còn hiện
hữu nữa.

Nếu đứng về phương diện lý luận mà nói thì Vô dư y Niết bàn là cảnh giới
trên Hữu dư y Niết bàn. Vì còn có thân thể thì dù tâm có muốn thoát ly già, bệnh,
chết cũng không tránh khỏi những nhược điểm của phần nhục thể. Cho nên, chỉ khi
nào trút bỏ cả phần nhục thể thì mới vĩnh viễn an toàn.

Song, đây chỉ nói về phương diện lý luận mà thôi, nếu theo ý nghĩa tôn giáo
thực tế mà nói thì Đức Phật lại coi trọng Hữu dư hơn Vô dư. Vì Đức Phật đã tự thể
nghiệm Niết bàn vĩnh viễn ngay trong hiện tại, và muốn cho chúng sinh cũng thể
nghiệm được như Ngài.

Do vậy, có thể nói, đối với bậc Giác ngộ, thành tựu tuệ giác Bát nhã thì vạn
pháp đều “không”, còn đối với chúng sinh nói chung, nghiệp lực nặng nề, vô minh
che lấp thì vạn pháp đều “có”.

Như vậy, theo tư tưởng Phật giáo vẫn cho rằng có cảnh giới địa ngục và Cực
lạc, nhưng phải hiểu trên lập trường vạn pháp hết thảy đều do nhân duyên sinh,
ngoài nhân duyên ra không có một vật gì tồn tại. Hơn nữa, chính Phật và các đệ tử
của Ngài cũng thường ví dụ Vô dư y Niết bàn ví như ngọn đèn, hễ “dầu hết thì lửa
81

tự tắt”. Và cứ theo ví dụ ấy mà suy ra thì không thể bảo Niết bàn là hư vô được.
Cảnh giới Vô dư y Niết bàn là cảnh giới tuyệt đối vắng lặng, vĩnh viễn bất động: vì
nó là đương thể của pháp tính tuyệt đối, của ý chí tuyệt đối. Nhưng, nếu đứng trên
lập trường hiện tượng giới mà nhận xét thì đó chẳng qua chỉ là thực hiện cái lý
tưởng “ẩn mất không hiện” trong mắt chúng sinh.

Nói chung, học thuyết về nghiệp là chu kỳ của sự tạo tác và hình thành của
tâm cùng vật, đặt căn bản trên giáo lý nhân quả, tác động và chi phối sự hiện hữu
của chúng sinh. Chủ thuyết “không” trong đạo Phật chỉ là sự từ chối của bản ngã bất
biến đã gây nên đau khổ cho con người. Ngược lại, nó là một giáo lý giải thoát hoặc
Niết bàn, là trạng thái hủy diệt hoàn toàn của tham, sân, si, hủy diệt những khổ đau
của ngọn lửa dục vọng đang thiêu đốt chúng sinh. Tuy nhiên, theo triết lý rốt ráo
của đạo Phật, Niết bàn không phải là cảnh giới có chủ thể và đối tượng, vì vậy nó
không đồng với hình thức và ý tưởng tạo lập của một đấng vĩnh hằng.

Trường hợp Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, ròng rã sáu năm trời chuyên tâm
đoạn trừ phiền não mà chưa thể thành công, nhưng chỉ ngồi tĩnh lặng tư duy trong
khoảng bốn mươi chín ngày thì đạt đến giác ngộ, là vì trong thời gian chuyên tâm
tiêu diệt phiền não đã không còn dính líu đến sinh, già, bệnh, chết. Trên cơ sở này,
từ ngữ Niết bàn không phải chỉ có nghĩa là “dập tắt”, nó được dùng để biểu thị cái
cảnh giới “diệu lạc tối cao”, là “Hữu dư y Niết bàn”.

Như vậy, những luận giải trên của Đuốc tuệ, Bát nhã, Tam bảo, Từ bi âm cho
rằng có cõi Cực lạc và địa ngục hay những luận giải của Thiện Chiếu, Viên âm và
Quan âm đều không trái với triết lý Phật giáo. Do báo chí lúc bấy giờ không có lập
trường thấu đáo cả hai mặt “lý” và “sự” nên xảy ra sự tranh luận. Thật ra, nếu muốn
sinh về Cực lạc thì cũng phải chuyên tâm làm điều lành, dứt mọi vọng tưởng, như
trên Đuốc tuệ số 129 nói chỉ cần nhất tâm niệm Phật A Di Đà, vì lúc ta chuyên tâm
niệm Phật A Di Đà thì mọi vọng tưởng không có cơ hội khởi sinh. Điều này cũng
không khác gì quan niệm bên phía Thiện Chiếu cho rằng khi tâm an lạc thì đó là
Cực lạc, bởi theo ý Thiện Chiếu, nếu tâm muốn an lạc cũng phải dứt trừ vọng tưởng,
dứt trừ phiền não.
82

2.1.4. Vấn đề tồn tại của ngoại giới

Từ lâu, con người đã không ngừng tìm hiểu nguồn gốc của thế giới và vẫn
luôn thắc mắc rằng thế giới này có từ khi nào? Câu hỏi ấy chứa đựng một bí ẩn vô
cùng to lớn. Nhưng thực tế, vấn đề nhận thức về thực tại của thế giới bên ngoài, hay
thực tại của các đối tượng thế giới bên ngoài, nhìn chung là chưa được giải quyết
một cách triệt để. Phật giáo đưa vào hệ tư tưởng Việt Nam những quan niệm biện
chứng với các khái niệm “vô thường”, “vô ngã”, “duyên sinh”. Ở đó cho thấy Phật
giáo nhìn sự vật trong sự vận động và biến đổi liên tục, không có gì tồn tại mãi mãi.
Tuy nhận thức đó chỉ thấy được cái biến đổi mà không thấy được cái ổn định tương
đối, chỉ thấy được cái vận động mà không thấy được cái hình thức của vận động,
tuy dễ đi tới chiều hướng bi quan và thái độ buông xuôi, nhưng mặt khác phải thấy
nhận thức như vậy là có chiều sâu, là thấy được một phương diện cơ bản của quá
trình phát triển sự vật.

Vào thời kỳ những năm đầu TK.XX, lúc mà các tạp chí đua nhau ra đời thì
những tư tưởng Phật học tiến bộ cũng lần lượt xuất hiện. Hầu như lúc bấy giờ, các
tạp chí, tờ báo Phật học: Từ bi âm, Duy tâm Phật học, Viên âm, Đuốc tuệ v.v.. đều
nhất trí quan điểm Phật giáo nhìn nhận thế giới quan là “các hành vô thường”, tức là
muôn vật đều vận động biến đổi không ngừng.

Đạo Phật cho rằng “vô thường” là không cố định, luôn biến đổi. Các sự vật,
hiện tượng trong vũ trụ không đứng yên mà luôn luôn biến đổi không ngừng theo
chu trình bất tận là “sinh - trụ - dị - diệt”, nghĩa là sinh ra, tồn tại, biến dạng và mất
đi. Do đó, không có gì trường tồn, bất định mà chỉ có sự vận động biến đổi không
ngừng. Với quan niệm này, Đức Phật dạy: “Tất cả những gì trong thế gian đó là
biến đổi, hư hoại, đều là vô thường”. Vì vậy mọi sự vật không mãi ở yên trong một
trạng thái nhất định, mà luôn luôn thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình thành
đến biến dị rồi tan rã. Sinh và diệt là hai quá trình xảy ra đồng thời trong một sự vật,
hiện tượng cũng như trong toàn thể vũ trụ rộng lớn. Đức Phật cũng dạy rằng không
phải là sự vật, hiện tượng sinh ra mới gọi là sinh, mất (hay chết đi) mới gọi là diệt,
mà trong sự sống có sự chết, chết không phải là hết, không phải là hết khổ mà chết
là điều kiện của một sự sinh thành mới.
83

Theo Phật giáo, thế giới vũ trụ được dệt nên bởi những hệ thống trùng trùng
duyên khởi. “Cái nầy có thì cái kia có, cái nầy sinh thì cái kia sinh, cái nầy không
thì cái kia không, cái nầy diệt thì cái kia diệt…”. Đó là nhận định căn bản và sâu sắc
của đạo Phật. Vì vậy, thế giới quan mà Đức Phật thuyết minh là thế giới quan nhân
duyên. Trong thế giới nhân duyên, không thể có những hiện tượng thường hằng
vĩnh cửu. Các pháp do nương nhau mà tồn tại, nương nhau mà hoại diệt. Tất cả đều
có sự liên hệ mật thiết với nhau. Không có sự liên hệ ấy, sẽ không có một vật nào
được thành lập. Sự liên hệ ấy gọi là nhân duyên.

Từ chỗ nhận định ấy mà báo chí Phật giáo lúc bấy giờ hầu như đi đến kết
luận “các pháp không có thực tính”. Về vấn đề này, tạp chí Viên âm ra sức chứng
minh sự kiện “muôn vật không thực có”. Trên Viên âm số 5, ra tháng 5 năm 1934 có
bài viết đề cập: “Một vật chi, phải tự nó có tính chất nhất định mới gọi là có được.
Nay chúng ta hãy đem những món mắt thấy ra mà xét thử là thực có hay là không
thực có”. Từ đó, Viên âm giải thích những vật do mắt thấy tuy nhiều, nhưng không
ngoài bốn yếu tố là sáng và tối, có hình và không hình. Tất cả đều phải nương nhau
và đối lập với nhau mới có sự hiện hữu. Suy cho cùng, không có vật gì mà riêng bản
thân nó có tính chất nhất định. Rồi Viên âm kết luận muôn vật trên đời là không
thực có.

Tạp chí Viên âm số 6, ra tháng 5 năm 1934 cũng luận rằng dầu sự vật gì, xét
cho cùng tột chỉ thấy có các nhân duyên mà không thấy thực có một sự vật nào.
Nhưng các nhân duyên kia cũng chỉ là sự vật, cũng chỉ vì nhân duyên hòa hợp mà
thành, chứ cũng không thật nữa. Tạp chí còn dẫn chứng đoạn kinh Lăng nghiêm:
“Nhân duyên hòa hợp, hư vọng hữu sinh, nhân duyên biệt ly, hư vọng đoạn diệt”,
rồi đi đến kết luận:

Vì nhân duyên mà có các pháp, nên các pháp đều là các pháp của nhân
duyên. Vì các pháp mà có nhân duyên nên nhân duyên đều là nhân duyên
của các pháp, các pháp làm ra nhân duyên, nhân duyên làm ra các pháp,
ngoài các pháp không có nhân duyên, ngoài nhân duyên không có các
pháp, các pháp vốn không, nhân duyên chẳng thật, nếu rõ thấu lý nhân
duyên thì rõ được cái tướng chân thực của mọi sự vật trong vũ trụ.
84

Nếu lập luận như vậy thì quả là tạp chí Viên âm đã đi theo đúng tư tưởng
triết lý Phật giáo cho rằng vạn pháp duyên sinh mà không phải thực có. Vì duyên
sinh nên chúng vô thường, không trường tồn vĩnh cửu.

Song song với quan điểm này, còn có HT. Đôn Hậu luận giải trong tạp chí
Viên âm ra ngày 27.8.1937 về đề tài Đâu là con đường hạnh phúc. Hòa thượng
đồng ý với Lê Đình Thám về những kiến giải trên, nhưng lập luận có phần xác thực
và chi tiết hơn. Hòa thượng chứng minh mọi sự vật không thực có bằng cách cho
rằng các giác quan của ta đánh lừa ta. Lâu nay ta bị u mê bởi thành kiến và tập quán,
cho nên tin là có thực những điều tai nghe, mắt thấy.

HT. Đôn Hậu còn chứng minh rằng mọi sự vật trên đời đều có thể phân chia
thành từng bộ phận nhỏ, cho nên chúng chỉ có danh từ mà không có thực thể. Ví
như một quyển sách, do nhiều nhân tố hợp lại mới thành: bìa, giấy, mực và nhân
công. Tuy nhiên bìa là bìa, giấy là giấy hay nhân công là nhân công chứ không phải
là sách. Nếu tách rời những nhân tố đó ra, không có gì đáng gọi là sách. Cho nên
nói quyển sách cũng chỉ là một danh từ mà không có thực thể. Ngay cả thân con
người cũng thế, đều do các tế bào hợp lại mới thành, nên đó chỉ là danh từ mà
không phải thật có.

Trên tạp chí Viên âm số 70, năm 1944, Hướng Trai đã thực hiện bài viết Bình
tĩnh và lạc quan giúp con người biết vận dụng thuyết duyên sinh vào cuộc sống
chiến tranh đầy khổ lụy, mong mọi người thoát khỏi mọi khổ đau của kiếp sống
hiện tại. Hướng Trai nhấn mạnh trong hoàn cảnh đau thương như ngày nay, chiến
tranh lan rộng khắp hoàn cầu, không có người nào thoát khổ. Trong hoàn cảnh như
thế, kẻ thể chất yếu đuối, kẻ ốm đau, khốn cực đã đành, mà những kẻ thân thể dầu
vô bịnh, song nếu tinh thần bạc nhược thì cũng không khỏi khổ đau.

Hướng Trai còn giải thích điều đó bởi do nhiều nguyên nhân khác nhau. Thế
nhưng, có một nguyên nhân chủ yếu là do mê mờ, không biết những quy luật hiển
nhiên chi phối đời người, nên thấy mình chịu bó tay, mặc sức cho hoàn cảnh dày vò
với mọi điều đau khổ. Vì sự mê mờ ấy nên mỗi lúc gặp hoàn cảnh hơi biến đổi,
không yên tĩnh, thường nảy sinh ba tâm trạng: sợ chết, chán nản, bất định… Người
sợ chết chỉ vì chưa hiểu, chưa tin lý nhân duyên sinh diệt. Con người thương yêu
85

nhau không muốn rời xa nhau là điều hiển nhiên, song người có trí tuệ, nhận thấy
được mọi sự vật trên đời hễ có thành thì có hoại, quy luật ấy chẳng chừa bỏ ai, nên
họ không đeo mang mối sầu vô ích. Đó là người đã hiểu lý duyên sinh. Hiểu được
lý ấy tất có quan niệm đúng về sự sống chết vô thường ở đời. Như thế, con người sẽ
không còn quá lo âu về cái chết, sự chia lìa mà an tâm vui sống và biết chuyển hóa
mọi khổ sầu thành hạnh phúc.

Về sự kiện thuyết duyên sinh này, Thiện Tâm đã đăng bài viết trên Duy tâm
Phật học số 5, với nhận định rằng vũ trụ là “Vô thỉ, vô chung, vô cùng, vô tận”.
Nghĩa là không biết sinh ra khi nào và lúc nào sẽ tiêu diệt. “Hễ nhân tan bên này thì
duyên hiệp bê kia, có mất đi đâu mà gọi là tiêu diệt”.

Quả thật, những lập luận trên của Viên âm cũng như Duy tâm Phật học rất
đúng với triết lý “nhân duyên giả hợp” của Phật giáo. Đây chính là quan điểm thứ
nhất của thuyết duy thức Phật giáo cho rằng “vạn pháp không thực có”, mọi vật đều
do “nhân duyên giả hợp”. Tuy nhiên, với báo chí Phật giáo, để lý giải rõ hơn về vạn
vật và con người, họ đã dựa vào Duy thức luận của Phật giáo, còn nhận định con
người qua thuyết “vô ngã”, tức cho rằng con người không có thực ngã. Đây là đặc
điểm thứ hai của thuyết duy thức.

Phật giáo cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người không phải do
một vị thần nào sáng tạo ra mà được cấu thành bởi sự kết hợp của 2 yếu tố là “Sắc”
và “Danh”. Trong đó, Sắc là yếu tố vật chất, là cái có thể cảm nhận được, nó bao
gồm đất, nước, lửa và không khí; Danh là yếu tố tinh thần, không có hình chất mà
chỉ có tên gọi, nó bao gồm: thọ (cảm thọ), tưởng (suy nghĩ), hành (ý muốn để hành
động) và thức (sự nhận thức). Danh và sắc kết hợp lại tạo thành 5 yếu tố gọi là
“Ngũ uẩn”, chúng tác động qua lại với nhau tạo nên vạn vật và con người. Nhưng
sự tồn tại của sự vật chỉ là tạm thời, thoáng qua, không có sự vật riêng biệt nào tồn
tại mãi mãi. Do đó, không có “Bản ngã” hay cái tôi chân thực.

Như vậy, có thể hiểu Vô ngã là không có cái tôi chân thực. Vô ngã nghĩa là
không có một bản chất trường tồn bất biến, không có một chủ thể tuyệt đối, không
có một linh hồn bất diệt, không có Đấng sáng tạo vĩnh cửu. Tất cả các sự vật hiện
tượng đều do nhân duyên sinh, vì do nhân duyên sinh nên không thực có, vì không
86

thực có nên gọi là Vô ngã. Mọi sự vật hiện tượng Vô ngã là vì do duyên sinh, đã do
duyên sinh thì phải theo duyên diệt.

HT. Đôn Hậu lại lý giải rõ hơn về tính vô ngã của con người. Hòa thượng nói
rằng khi ta thấy, đó là cảm giác của con mắt; ta nghe, là cảm giác của tai; ta biết
nóng, lạnh, to, nhỏ, trơn, nhám, cứng, mềm,… là cảm giác của thân thể; ta biết phân
biệt mọi sự vật, đó là cảm giác của ý thức. Tách rời những cảm giác đó ra thì không
có gì tồn tại để gọi là thực ngã. Nếu cho rằng cảm giác nơi mắt là ngã, là ta, thì
không lẽ những cảm giác khác chẳng phải là ngã, là ta sao? Hoặc nếu tất cả các cảm
giác đều là ngã thì thành ra có quá nhiều cái ngã. Vậy đâu mới là cái ngã của mình,
mới là thật ngã? Qua đó, Hòa thượng kết luận: “Cái ngã (cái ta) cũng chỉ là một cái
tên thôi, như cái bộ sa lông, trừ các bàn ghế ra thì không còn gì thực thể”.

Để làm sáng tỏ thêm những luận điểm đó, HT. Đôn Hậu còn lý giải: “Lại
người đời vì sao mà cho rằng có thực ngã, có phải là nhận biết có sự thực ngã không?
Nếu nhận biết có sự thực ngã, thì cái ngã là cái bị biết. Vậy người đời đem cái gì mà
biết cái ngã. Xét như vậy thì biết rằng hiện chúng ta thực có thấy, nghe, hay biết,
nhưng không có một vật gì thực tồn tại đáng gọi là ngã”.

Đồng với luận điểm này, Đuốc tuệ số 2, ra ngày 17.12.1935 cũng có tác giả
tham gia bài viết Bàn về nghĩa vô ngã, nhưng nghiêng về vận dụng thực tế hơn:

Tuy biết rõ thế giới là ảo, bản chất của thế giới là không, song Phật giáo
dạy cho tín đồ không được cố chấp. Chấp thế giới là có thực, hay chấp thế
giới là không thực, đều không đúng. Nếu chấp là thực thì sẽ khổ vì sinh,
lão, bệnh, tử; vì tranh giành do chấp có cái ta và những sở hữu của ta, từ
đó phát sinh xung đột, chiến tranh. Thiên tai, nhân họa xảy ra cũng vì nhận
thức vô minh lầm lạc. Nhưng nếu chấp không cũng là bệnh, vì sẽ chẳng có
công dụng gì cả, sẽ ngược ngạo với thế giới đời thường.

Qua đó, tác giả bài viết trên Đuốc tuệ giải thích thế giới vô cùng phong phú
là công dụng của tâm thức, miễn biết đó là ảo và đừng quá cố chấp. Vì thế, không
thể phủ nhận rằng cái vô thỉ vô minh và nhất niệm vô minh đã đem lại vô lượng vô
biên công dụng, nhưng cũng không nên cố chấp chúng để dẫn đến tranh giành, xung
87

đột, chiến tranh và đau khổ một cách mê muội, bởi vì chúng chỉ là ảo. Rồi Đuốc tuệ
kết luận: “Đó là ý nghĩa trung đạo mà Bồ tát Long Thọ đã diễn giải trong tác phẩm
Trung Quán luận”.

Hơn nữa, Đ.N.T đã trình bày Lòng không nhân ngã trong Đuốc tuệ số 61, ra
ngày 15.05.1937, nhấn mạnh việc ứng dụng tinh thần “vô ngã” vào trong cuộc sống
thực tế mà không phải chỉ là lý luận suông. Tác giả đã vận dụng triết lý “vô ngã”
của Phật giáo vào tinh thần “không nhân ngã” và giải thích “Lòng không nhân ngã”
là một điều đạo đức thiết yếu của chủ nghĩa nhân gian Phật giáo. Một điều đạo đức
tuyệt đối và làm cội rễ cho hết thảy mọi điều luân lý đạo đức của loài người, của
chủ nghĩa xã hội đời nay. “Nhân ngã” là người với ta hay là kẻ khác với mình, là cái
gì thuộc về của người khác và cái gì thuộc về của ta. Lòng nhân ngã là lòng hay
phân biệt, so sánh, chi ly về chỗ người với ta, hay là cái gì của người, cái gì của ta.
“Lòng không nhân ngã” thì trái lại, nghĩa là không hề phân biệt, so sánh, chi ly về
chỗ người với ta, hay là cái gì của người, cái gì của ta… Bởi thế trong kinh thường
nói đến “lòng không nhân ngã” của Đức Phật đối với chúng sinh, đối với nhân loại.
Như nói khi Ngài thấy con hùm đói lả sắp chết, Ngài bèn cắt thịt mình cho nó ăn, lại
nói khi Ngài thấy dân trong cả một xứ đói, Ngài bèn hóa cho thân mình thành một
núi thịt cho dân cả xứ ấy đến xẻo mà cứu cơn đói. Tuy những câu chuyện đó là thí
dụ, nhưng thí dụ đến như thế thì cái “lòng không nhân ngã” của Ngài triệt để và
quảng đại bao la dường nào. Cuối cùng, Đ.N.T khẳng định: “muốn tuyệt mối loạn,
muốn tát bể khổ, muốn xây đài cực lạc giữa cõi nhân gian, loài người ai nấy phải
cùng nhau giữ lấy cái “lòng không nhân ngã” trước”.

Các lý giải của những tạp chí trên quả là không đi sai lệch triết lý Phật giáo.
Chúng ta thử nghiệm lại thân mình có phải là tạm bợ hay không? Nếu thân chắc
chắn chân thực thì không bao giờ hoại. Từ đó có thể hiểu thân người là do duyên
hợp, nên khi thiếu duyên thì nó sinh ra bệnh tật rồi đi đến bại hoại, đó là lẽ thật,
không còn gì nghi ngờ nữa. Do vậy, Đức Phật nói thân này vô ngã, bởi vô ngã nên
không có chủ thể, bởi không có chủ thể nên tùy duyên mà thành, tùy duyên mà hoại,
không phải lúc nào cũng nguyên vẹn.
88

Một luận điểm nữa của Duy thức Phật giáo là cho rằng “vạn pháp duy thức”.
Để lý giải cho thuyết này, báo chí Phật giáo đã đề cập rất nhiều đến những khái
niệm “có” và “không”. Trong lịch sử tư tưởng và lịch sử văn học nước ta, thuyết
“có” và “không” của Phật giáo đã từng là đề tài thú vị cho nhiều bài thơ của các nhà
sư, đồng thời cũng là chủ đề cho không ít những chuyện khôi hài của các nhà Nho.
Còn đối với quần chúng Phật tử, thì xem đây là một thuyết rất kỳ diệu.

Trên Đuốc tuệ số 47, ra tháng 11 năm 1936, ông Phó bảng Bùi Kỷ cho rằng
đức Phật đưa ra thuyết “không”, đó là tôn chỉ độc nhất vô nhị của đạo Phật, cửa
Phật thường được gọi là “Không môn”. Ông giải thích đạo Phật chia thế gian làm
tam giới là dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Tam giới cũng chính là tam hữu và hữu
là chi thứ mười trong mười hai nhân duyên, là cái ma chướng triền miên trong kiếp
hữu tình chúng sinh. Có tam hữu mới có sinh, lão, bệnh, tử, gây ra nghiệp luân hồi.
Đức Phật lập ra thuyết “không” chính là để phá tam hữu giới, mở đường giải thoát
cho muôn loài. Dù giải thích được như vậy, nhưng ông chốt lại rất mơ hồ: “Song
chữ không rộng quá, cao quá và lại tinh vi quá, vì rộng quá mà coi như lờ mờ, cao
quá mà coi như huyền bí, thành ra một chữ “không” mà sinh ra nhiều hoài nghi, để
cho nhiều người muốn hỏi mà khó giải đáp, muốn biết mà khó sưu tầm, đến nỗi
càng nghĩ lại càng quẫn, càng nói lại càng vẫn, càng biện luận lại càng cùng”.

Tuy nhiên, tạp chí Viên âm thì muốn tỏ ra hiểu thấu vấn đề trọng yếu này,
nên đã luận giải trên số 6, ra tháng 5 năm 1934:

Trong thế gian, cái chi thấy được, nghe được gọi là có, trái lại gọi là không.
Như cái ghế cái bàn thì cho là có, còn khoảng không khí ở giữa thì gọi là
không. Nhưng xét kỹ thì không khí nào phải thực là không. Trái lại, những
cái người ta cho là có, như bàn ghế, nếu trừ các món cảm giác như mắt
thấy vuông tròn, thân chạm vào biết cứng mềm v.v.. thì không còn tính chi
khác nữa. Các vật kia tự mình không có tính riêng thì làm sao có được”?

Đó là tạp chí Viên âm luận “có” và “không” theo cái có cái không ở thế gian.
Còn cái có cái không theo đại thừa Phật giáo thì sao? Viên âm giải thích đại thừa
cho rằng muôn vật là tuyệt đối nhưng cũng đối đãi nhau. Trong chỗ tuyệt đối thì
không có gì gọi là sự vật, nhưng trong chỗ đối đãi vẫn hiện hữu đầy đủ muôn sự vật.
89

Hay nói cách khác, sự vật trong đối đãi vẫn mang tính tuyệt đối, trong tuyệt đối vẫn
luôn có sự đối đãi. Tức là nơi có mà không có, nơi không có mà có. Người tu theo
đại thừa hiểu rõ như vậy, nên một mặt là thấu triệt tướng tuyệt đối của các pháp mà
diệt trừ nguồn gốc vô minh phiền não, một mặt vẫn nhận chân được tướng đối đãi
của các pháp, để từ đó có thể tùy phương tiện hóa độ chúng sinh đồng được giác
ngộ, giải thoát.

Như vậy, theo đại thừa Phật giáo, cái “có” cái “không” là điều căn bản, rất
cần thiết cho sự tu hành giải thoát, hóa độ chúng sinh. Vì vậy, tạp chí Viên âm đã
nhấn mạnh: “Nếu ai biết rõ được cái có và cái không thì lo chi không hiểu toàn thể
của Phật pháp”.

Trên tạp chí Viên âm số 6, ra tháng 5 năm 1934, Trí Độ lý giải theo Bát nhã
tâm kinh rằng vì hiểu biết “sắc chẳng khác không, sắc tức là không” nên chẳng tham
nhiễm sắc, thanh, hương, vị… không còn các điều dục vọng, thoát khỏi cảnh giới
phàm phu. Vì hiểu biết “không chẳng khác sắc, không tức là sắc”, nên vẫn trong
diệt định mà hiện đủ oai nghi, nên chẳng đắm cảnh Niết bàn mà hóa độ muôn loài.

Luận giải đó của Trí Độ cho ta thấy chữ “không” trong kinh Bát Nhã rất thù
thắng. Tuy nhiên, chúng ta đừng lầm chữ “không” này là ý nghĩa trống rỗng, không
có gì hết. Không là đối với có. Chữ “không” đây là ngay nơi sự vật hiện tiền mắt
thấy, tay sờ mó được, song chủ thể nó là không, không cố định. Như vậy dù mắt
thấy, tay sờ mó được mà nói là không, đó là không chủ thể, không cố định. Bát Nhã
nói “không” vì nó do nhân duyên sinh nên không chủ thể. Cho nên chữ “không”
trong kinh Bát Nhã còn gọi là Tính không, là chân không diệu hữu, siêu việt hữu vô.
Hệ thống Bát nhã gọi đó là Tự tính không. Tức là không có chủ thể, không tự tính
nhưng sự vật vẫn có giả tướng của nó khi đủ duyên tụ hội.

Duyên khởi, vô thường, vô ngã (thực ra vô thường cũng là vô ngã. Về mặt


thời gian thì nó là vô thường, về mặt không gian, nó là vô ngã) là những giáo lý nền
tảng vô cùng quan trọng trong hệ thống giáo lý Phật giáo. Từ luận điểm cho rằng
mọi sự vật và cả con người đều theo lý vô thường, vô ngã và duyên sinh, Duy thức
Phật giáo đi đến kết luận “vạn pháp duy thức”.
90

Với triết lý này, tạp chí Viên âm luận giải rằng: “Hiện nay chúng ta thấy in
tuồng có thân (ngã), có cảnh (vật), thân ấy, cảnh ấy chẳng khác gì thân cảnh trong
chiêm bao. Vậy nó cũng do cái thức tâm biến hiện, chỉ vì chúng ta chưa tỉnh dậy
nên chưa nhận rõ đó thôi”. Vậy là Viên âm cho rằng “thức tâm là gốc của vạn vật”,
đó là ý nghĩa vạn pháp duy thức.

Lý giải đó của tạp chí Viên âm đã làm cho nhiều người nghi ngờ, chưa chấp
nhận, vì họ cho rằng chiêm bao là cảnh khác nhau hoàn toàn với thức tỉnh. Nếu con
người đang thức, đang tỉnh thì không phải là đang chiêm bao. Khi con người nhận
thức được “có ta và có sự vật quanh ta, sự vật ấy hôm qua ta đã thấy có, ngày mai
chắc sẽ còn thì tại sao lại bảo sự vật ấy không thực có được”. Tạp chí Viên âm đã
tiếp tục giải thích:

Có người nghĩ rằng cảnh chiêm bao do thức tâm biến hiện là một việc dễ
hiểu, vì nó chỉ trong một lúc thôi, chứ cảnh vật giữa này, lúc nào ngủ dậy
cũng thấy y như ngày trước, sao gọi là không thực có? Tôi xin đáp lại rằng,
lắm khi trong giấc chiêm bao, thấy đến 40 năm, 50 năm, trong khi ấy cũng
có thức có ngủ, mà cảnh chiêm bao không thay đổi, duy tỉnh dậy, không
chiêm bao nữa mới biết là đã chiêm bao. Vậy cảnh vật giữa này có khác
chi là cảnh chiêm bao mà cho là thực có? Nếu chúng ta không phân biệt thì
còn cái gì là xanh đỏ, là dài ngắn, là thơm thối, là ngọt mặn, là cứng mềm,
là nóng lạnh v.v.. trừ cái món phân biệt ấy ra thì còn gì đáng gọi là sự sự
vật vật.

Tạp chí Viên âm còn dẫn chứng thêm rằng những sự vật mang tính “nóng
lạnh, cứng mềm, ngọt mặn, thơm thối, dài ngắn, xanh đỏ…” đều do sự phân biệt, do
thức tâm tưởng tượng của con người tạo thành, nên gọi là “vạn pháp duy thức”.

Trên tạp chí Bát nhã âm số 14 có bài viết Vạn pháp duy tâm của Pháp Bửu,
cho thấy tác giả cũng đồng quan điểm nhận thức vạn pháp đều do thức tâm biến
hiện, ông đã lập luận rất rõ ràng, sắc bén, giúp con người có cái nhìn sâu sắc hơn về
sự kiện này.
91

Quan điểm “vạn pháp duy thức” ấy của thuyết Duy thức được các nhà
nghiên cứu Phật học đồng thuận cao. Bởi Phật giáo cho rằng “vạn pháp duy thức” là
để xác minh vạn vật vô thường, là giả huyễn, không đáng để quyến luyến, vọng
tưởng. Và khi con người hết vọng tưởng thì mới hết chịu cảnh luân hồi sinh tử khổ
đau. Như thế có thể nói duy thức Phật giáo rất triệt để, bởi nhìn nhận từ trời đất, vạn
vật cho đến con người đều không thật có.

Nhìn chung, tư tưởng về ngoại giới của Phật giáo thể hiện tập trung ở ba
phạm trù: Vô ngã, vô thường và duyên, rồi dẫn đến kết luận “vạn pháp duy thức”.
Như vậy, thông qua các phạm trù này, triết học Phật giáo đã bác bỏ quan điểm duy
tâm lúc bấy giờ cho rằng thần Brahman sáng tạo ra con người và thế giới. Phật giáo
cho rằng sự vật và con người được cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần. Các
sự vật hiện tượng thế giới nằm trong quá trình liên hệ, vận động, biến đổi không
ngừng và nguyên nhân của sự vận động, biến đổi nằm trong các sự vật. Đó là quan
điểm biện chứng về thế giới, tuy còn mộc mạc, chất phác nhưng rất đáng trân trọng.

Nói tóm lại, qua những lập luận của các bài viết trên báo chí về Thượng đế,
linh hồn, Cực lạc và địa ngục, cho thấy tư tưởng Phật giáo lúc bấy giờ có hướng
giải thích theo nguyên lý khoa học. Tuy nhiên, đến với thuyết duy thức, cái nhìn của
Phật giáo đối với ngoại giới còn có phần cách xa khoa học. Bởi vì điều kiện đầu tiên
để có khoa học là chấp nhận tính chất khách quan của thế giới, của vạn vật, là khẳng
định rằng vạn vật, thế giới tồn tại độc lập với ý thức của con người. Thế nhưng, dù
thế nào thì ở Việt Nam trong giai đoạn nửa đầu TK.XX, các tư tưởng ấy của Phật
giáo vẫn có ý nghĩa rất quan trọng về mặt triết học và cả mặt chính trị. Đó là điều
hiếm có trong lịch sử Việt Nam từ xưa đến nay.

2.2. TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO
TRƢỚC 1945

Đạo Phật hiện hữu ở đời nhằm chỉ ra cái khổ cho con người hiểu và tìm cách
giải thoát những khổ đau trong đời. Phật giáo dạy con người dám nhìn thẳng sự thật
của khổ đau để chuyển hóa chúng. Từ đó cho thấy, khi trong mê muội thì thân phận
con người thật là bi đát, nhưng khi nhận thức được mình mê muội thì con người có
thể hoán cải được hoàn cảnh và cuộc sống của mình.
92

Nhưng làm thế nào để hoán cải? Làm thế nào để chuyển mê thành ngộ? Làm
thế nào để chuyển khổ thành vui? Báo chí Phật giáo trước 1945 đã làm sống dậy
nhiều triết lý đạo Phật, nhiều tư tưởng đạo đức về cuộc sống nhân sinh nhằm chỉ
dẫn phương pháp chuyển mê thành ngộ, chuyển khổ thành vui của con người.

Trong giai đoạn nửa đầu TK.XX, báo chí Phật giáo là một trong những
phương tiện chính của công cuộc Chấn hưng Phật giáo Việt Nam, việc truyền bá
Phật học luôn được quan tâm hàng đầu. Mục đích chủ yếu là diễn giải các vấn đề
kinh điển, giới luật, pháp luận, lịch sử Phật giáo và những bài giảng mang tính chất
phổ thông, gắn liền với đời sống hiện thực cũng như nêu lên những ưu tư, trăn trở
và đường hướng kêu gọi Chấn hưng Phật giáo. Các tạp chí hầu như có dụng ý lần
lượt trình bày những tư tưởng Phật học từ cơ bản đến nâng cao, nhưng tất cả đều
quy về một điểm là giúp mọi người tin hiểu đạo Phật một cách đúng đắn, xóa bỏ mê
tín dị đoan và đem giáo lý Phật giáo ứng dụng vào đời sống hằng ngày, để cuộc
sống được an vui, hạnh phúc. Như lời của tạp chí Duy tâm Phật học, ngay từ số 1
năm 1935 đã khẳng định: “Duy tâm ra đời để cứu rỗi cái đời đảo điên thống khổ, cái
trí thức lu mờ, sửa đổi hết thảy những phong tục xấu xa, các điều thành kiến dở
dang của xã hội; mưu sao cho nhơn loại yên vui, cõi đời bình tỉnh, từ chốn quê mùa
đến nơi khai hóa được biết lý huyền diệu cao sâu của Phật pháp...”.

Những tinh hoa giáo điển mang tính giáo dục trực tiếp đối với con người mà
các tạp chí đã thể hiện đều là những bài luận giảng về Phật học và nội dung nói
chung chứa đựng những triết lý khuyến thiện trên tinh thần nhân quả - nghiệp báo,
từ bi, hiếu đạo và lợi tha theo lời Phật dạy. Những tư tưởng đạo đức ấy đã mở ra
cho con người một tầm nhìn sâu rộng về cuộc sống, giúp muôn người hiểu được
Phật pháp và thực hành đúng theo chính pháp, ngõ hầu xây dựng đời sống cá nhân
và xã hội theo con đường chân, thiện, mỹ.

2.2.1. Khuyến thiện và nhân quả - nghiệp báo

Thuyết nhân quả - nghiệp báo của nhà Phật, nói đủ là nhân - duyên và quả, là
một triết lý mang tính khoa học, thể hiện quy luật tự nhiên của vũ trụ, không mang
tính chất hình thức của sự thưởng phạt từ một đấng quyền năng nào. Đức Phật khám
93

phá triết lý nhân quả cũng chính là khám phá triết lý khoa học tự nhiên để áp dụng
tu hành, khuyên người làm điều thiện hầu đạt đến giác ngộ, giải thoát.

Theo đạo Phật, vũ trụ nhân sinh chuyển biến vận hành theo lý duyên khởi, hệ
quả hình thành một quy luật chung, đó là luật nhân quả. Vì vậy, xét về góc độ khoa
học, từ nhân đến quả là sự chuyển biến tự nhiên. Nó vận hành một cách âm thầm và
chi phối cả đời sống vật chất, vật lý, sinh lý và tâm lý. Con người đến với Đạo Phật,
học hiểu đạo lý và cụ thể là thực nghiệm triết lý nhân quả - nghiệp báo để chuyển
hóa tâm thức bớt những đắm nhiễm, đam mê vật chất, biết làm điều lành thì mới có
thể sống tự tại trước mọi hoàn cảnh.

Trên tạp chí Quan âm có rất nhiều bài viết về triết lý nhân quả - nghiệp báo
của đạo Phật, qua đó khuyên người bỏ ác làm lành. Ứng dụng từ triết lý ấy, tạp chí
Quan âm đã đi đến kết luận chi tiết về quy luật sống trên đời: “Làm lành gặp lành,
làm dữ gặp dữ”, ấy là câu của người đời thường nói... “Giả sử bá thiên kiếp, sở tác
nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ. Nghĩa là dẫu cách
trăm ngàn kiếp, cái nghiệp làm khi trước cũng không mất, đến lúc nhân duyên gặp
gỡ, thì quả báo trở lại mình phải chịu lấy” [M, số 31].

Theo tạp chí Quan âm, những điều lành hay ác mà con người đã tạo ra không
bao giờ mất đi. Khi đủ duyên chúng sẽ trổ ra quả khổ hay vui tương ứng với nhân
ác hay thiện do con người đã tạo nhân từ trước, đây gọi là nghiệp báo. Từ đó, tạp
chí Quan âm để lại cho con người bài học quý báu là nên làm điều lành để có quả
báo tốt cho cuộc sống của mình ở hiện tại và tương lai.

Báo Đuốc tuệ cũng cho đăng nhiều bài viết về triết lý nhân quả - nghiệp báo
với nhiều nội dung đa dạng. Ngay từ số 5, Trần Thúc Cáp đã nói rất rõ về Thuyết
nhân quả báo ứng bằng cách so sánh với đạo Khổng, để qua đó nhắc nhở con người
giữ gìn ý tưởng của mình:

Nhân là thế, quả là thế. Nay ta muốn tạo được thiện nhân để gặp được
thiện báo, để kiếp sau không phải đọa vào Tam đồ thì làm thế nào? Đạo
Phật cũng như đạo Khổng, đạo Khổng nói: Muốn tu thân trước hết phải
94

thành ý. Đạo Phật cũng thế, muốn được chính giác, trước hết phải nghiêm
giữ ý hạnh. Ý hạnh có ba điều nghiêm cấm: 1. Tham, 2. Sân, 3. Si...

Quả thật, nhân quả ở đời không sai lạc bao giờ. Nếu muốn không gặp cảnh
khổ đau ở hiện tại và tương lai, chúng ta nên biết tạo điều lành. Muốn làm được
điều lành, trước hết phải ngăn chặn tâm niệm vọng tưởng phát khởi do tham, sân, si
của mình. Đây chính là ba nhân tố nguy hiểm, dẫn dắt con người làm những điều
trái đạo đức, hại mình hại người và sẽ phải chịu quả báo xấu về sau. Cái quả báo về
sau ấy, trong Phật giáo gọi là “nghiệp” hay “nghiệp báo”. Nguyễn Văn Oánh đã giải
thích rất rõ về yếu tố nghiệp này trong Đuốc tuệ số 28 về Thuyết nghiệp báo. Tác
giả cho thấy muôn loài có sinh thì phải có diệt, không có cái gì là sống bền vô hạn
được. Trời đất, vũ trụ cũng theo lệ ấy, một ngày kia sẽ diệt đi rồi lại sinh ra. Sinh là
nói chúng sinh vì lòng điên đảo, vọng tưởng gây ra phiền não, tạo thành nghiệp, rồi
theo nghiệp mà hiện ra để chịu quả báo do hành vi đời trước gây tạo.

Ngoài ra, trong Đuốc tuệ số 152, ra ngày 15.3.1941, Nguyễn Quang Hùng
nhấn mạnh người sống trong đời, nếu không biết lý nhân quả thì rất dễ rơi vào tình
trạng lo buồn trước cảnh chia lìa, xa cách hay sự thay đổi bất ngờ nào đó. Tác giả lý
giải rằng vô vàn sự lo sợ của muôn vạn người đều khác nhau, song nhìn chung, ai ai
cũng đều do nguyên nhân tham sống mà có, đặc biệt là những gia đình đông đảo, sự
lo sợ càng nhiều hơn, người này lo cho người nọ, chồng lo vợ, cha lo con, nếu gặp
khi tai biến xảy ra, thảm trạng đau lòng khó tả cho hết được. Người học Phật đã rõ
lý nhân quả, hãy tin nơi việc của mình làm. Một việc ta lo sợ mà nhân ta không làm
thì thế nào cũng không xảy đến, nên lo sợ cũng vô hiệu quả. Phật dạy rằng: “Người
tu hành không bao giờ sợ quả mà chỉ sợ nhân”. Hiểu lý nhân quả như vậy, con
người đã không sợ may rủi xảy ra, mà tâm hồn còn được an vững và bao giờ cũng
lo gieo nhân lành. Như thế, đời người trong hiện tại được ít khổ mà còn hưởng phúc
báo về tương lai.

Để khẳng định lại giá trị của luật nhân quả và chỉ cho con người phương
hướng thoát khổ báo, Tâm Ấn đã trình bày tiếp Thuyết nhân quả của Phật giáo
trong Đuốc tuệ số 157. Ông khuyên con người phải biết tin chắc chắn rằng những
nghiệp nhân bởi thân, miệng và ý đã hành động, thì sau này sẽ trả lại nghiệp quả
95

cho ta. Những nghiệp quả ta đương gánh chịu là do trước kia ta đã tạo nhân, chứ
không phải tự nhiên vô cớ hay ai thưởng phạt ta. Vì thế chúng ta không nên oán
trách ai.

Với bài viết Thiện ác đăng ở Đuốc tuệ số 158, Nhàn Vân Đình cũng đã giải
thích rõ những nghiệp báo mà con người thọ nhận thì có thiện và ác. Nếu làm điều
lành thì con người đi theo nghiệp tốt, còn làm điều xấu sẽ chịu nghiệp không tốt.
Tác giả còn giải thích thiện là làm việc lành, việc phải, hộ vệ cho thần công lý và
đưa người ta đến cõi tốt đẹp. Ác là làm việc dữ, việc xấu, trái với lương tâm và đưa
người ta tới cõi xấu. Hễ làm thiện thì được nhẹ nghiệp, kinh gọi là Bạch nghiệp
(nghiệp trắng), cho nên nổi lên con đường thiện. Hễ làm ác thì phải nặng nghiệp,
kinh gọi là hắc nghiệp (nghiệp đen), cho nên chìm xuống con đường ác.

Trong cuộc sống, đôi lúc có nhiều người biết luật nhân quả hay thắc mắc về
sự hình thành và diễn tiến của luật nhân quả từ quá khứ, hiện tại đến tương lai như
thế nào. Điều này đã được Từ bi âm số 4, ra ngày 15.2.1932 trình bày khá rõ với
tiêu đề Luận về Nhơn quả. Từ bi âm dẫn chứng trong sách Nhơn Quả Lục nói rằng:
“Yếu tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị, yếu tri hậu thế quả, kim sanh tác giả
thị”. Nghĩa là: Muốn biết sự tạo nhân của ta đời trước, phải xem quá trình hưởng
thọ của ta đời nay mới rõ; muốn biết kết quả của ta đời sau, phải xem hành động của
ta đời nay mới hiểu. Ví như đời nay được sang giàu thì biết đời trước đã làm lành,
nên được phước báo; còn đời nay bị cực khổ thì biết đời trước đã làm dữ, nên mắc
tội báo.

Viên âm số 41, ra ngày 1.9.1933 còn nhấn mạnh hơn diễn biến chắc thật của
luật nhân quả, giúp con người không còn thấy nghi ngờ gì, bởi Giải Quán đã nói
nhân quả theo nhau “như bóng theo hình”: “… Chúng ta phải biết rằng kết quả
“khổ” với “lạc” là do ta tạo nhơn “thiện” với “ác” như hình với bóng đeo đuổi lẫn
nhau, hễ hình ngay thì bóng thẳng, hình vạy thì bóng cong, lý vốn như thế rõ ràng,
không sai một mảy. Vậy nên gọi rằng: Như bóng theo hình”.

Quả thật, nhân quả - nghiệp báo là triết lý căn bản của Phật giáo. Như
Nguyễn Lang đã nói “quan niệm “làm lành gặp lành, ở ác gặp ác” của Phật giáo dĩ
nhiên được chấp nhận dễ dàng trong tín ngưỡng dân gian Giao Chỉ” [65, tr.49-50].
96

Ông còn khẳng định: “Trong bối cảnh tín ngưỡng văn hóa kia, đạo Phật đã được
mang vào Việt Nam. Thuyết nhân quả nghiệp báo phù hợp với quan niệm ông trời
trừng phạt kẻ ác, ban thưởng người lành” [65, tr.46].

Như vậy, báo chí Phật giáo trước 1945 đã khơi lại con đường xây dựng hạnh
phúc bằng triết lý nhân quả - nghiệp báo của đạo Phật và điều này đã được đề cập,
lý giải rất nhiều qua các số báo. Từ triết lý nhân quả - nghiệp báo ấy, báo chí Phật
giáo lúc bấy giờ đã chuyển tải đến con người bức thông điệp đạo đức cao quý là
“khuyến thiện”. Tức là khuyên con người hiểu được rằng những hành động của con
người tạo ra là do ý điều khiển, ý làm chủ, từ đó phát khởi ra những hành động từ
miệng và thân. Những hành động đó tạo thành nghiệp và phải thọ nhận quả báo về
sau, tùy theo nghiệp lành hay dữ. Cho nên, nếu ai muốn sống đời an vui, hạnh phúc
thì nên làm mọi điều lành, có lợi ích cho mình và người trong hiện tại và tương lai.

Trong cuộc sống, nếu con người hiểu được luật nhân quả - nghiệp báo, sẽ vui
vẻ đón nhận những khổ đau bất thường xảy đến với mình như một kết quả do chính
mình tạo nhân từ trước. Từ đó suy nghiệm ra, lý nhân quả chi phối cả vũ trụ nhân
sinh. Nếu tin sâu nhân quả - nghiệp báo, chúng ta sẽ được thăng hoa trên đời sống
tâm linh, trở nên hiền thiện đạo đức. Ngược lại, nếu không tin nhân quả - nghiệp
báo, cuộc sống chúng ta trở nên liều lĩnh và càn bừa, bất chấp hậu quả.

Có thể nói, đạo lý nhân quả - nghiệp báo là phương pháp giáo dục phổ thông
của đạo Phật. Khi chúng ta làm một việc sai quấy, có hại cho người khác, có khi
trốn được tòa án ở thế gian nhưng không trốn chạy được chính lương tâm của mình.
Nó chính là gương nghiệp in bóng trước đài, là quan tòa xử án công minh cho
những hành vi tội lỗi nơi bản thân. Giáo dục về nhân quả giúp chúng ta sửa đổi tính
xấu nơi lương tâm chứ không phải giúp ta trốn chạy trước pháp luật bên ngoài.
Nhân quả nhà Phật chú trọng đến động cơ luận hơn là kết quả luận, phòng cháy chứ
không chờ chữa cháy. Giáo dục của đạo Phật là giáo dục từ ban đầu khi khởi tâm
niệm bất thiện, trước khi xảy ra điều tệ hại, khuyên mọi người ăn hiền ở lành.
Người hiểu biết nhân quả, tội phước, thì tự nhiên trở thành người tốt. Một người ác
có thể trở thành người hiền, một người xấu có thể trở thành người tốt.
97

Nói chung, những ai có chính kiến về triết lý nhân quả, chắc chắn đời sống
sẽ được thăng hoa, vì lúc bấy giờ mọi suy nghĩ, nói năng và làm điều gì đều hướng
theo con đường thiện, có lợi cho mình, cho người mà không nghĩ điều quấy, nói lời
xấu hay làm việc ác. Tư tưởng đạo đức “khuyến thiện” từ triết lý nhân quả - nghiệp
báo này được báo chí Phật giáo trước 1945 khẳng định lại một cách rõ ràng, chuẩn
xác, giúp con người sống trong xã hội đương thời biết cách đối nhân xử thế, làm
đẹp bản thân, gia đình và xã hội, theo tinh thần:

“Không làm mọi điều ác


Thành tựu các hạnh lành
Tâm ý giữ trong sạch
Chính lời chư Phật dạy”.

[12, Pháp Cú 183].

2.2.2. Từ bi

Tính nhân bản của đạo Phật là làm cho con người phát huy tất cả những tính
người cao đẹp và loại trừ mọi bản năng thấp kém, hèn hạ. Con đường thành Phật
không gì khác hơn là con đường hoàn thiện những đức tính vốn đã tiềm ẩn trong
con người bình thường như: trí sáng suốt, lòng nhân ái, tính tích thiện trừ ác, tâm
kiên định, lòng hy sinh,... và xóa bỏ hẳn tất cả những gì làm cho con người bị ràng
buộc, bị tha hóa, bị hạ thấp, bị mất phẩm cách: tính ích kỷ, lòng ghen tỵ, sự giận dữ,
sự si mê, sự tham lam chiếm đoạt mất hết lương tri,... Cuộc đời này trở nên hỗn loạn
khổ đau cũng vì những tính tiêu cực đó.

Báo chí Phật giáo thời bấy giờ hầu như thể hiện được tinh thần ấy của đạo
Phật, bằng cách khơi dậy và đưa ra nhiều tư tưởng sống đạo đức, để hướng con
người thực hiện những nhân cách đạo đức của một con người hoàn thiện và hơn thế
nữa là những thể tính của bậc Thượng nhân. Thể tính tiêu biểu và cao cả nhất có thể
nói là lòng từ bi.

Theo Từ điển Phật học Huệ Quang [8, tr.4906-4907] giải thích: Thương yêu
và cứu giúp, đây là tinh thần cơ bản nhất của Phật giáo. Từ là yêu thương chúng
sinh và ban cho họ sự an lạc (dữ lạc). Bi là đồng cảm với sự đau khổ (bạt khổ) của
98

họ; gọi chung là từ bi. Lòng “bi” của Phật là trạng thái đồng tâm đồng cảm, lấy nỗi
khổ của chúng sinh làm nỗi khổ của mình, nên gọi là Đồng thể đại bi. Tâm “bi” này
rộng lớn vô tận, nên gọi là Vô cái đại bi (không có gì rộng hơn, lớn hơn, cao hơn
tâm bi này).

Như vậy, từ bi trong đạo Phật không đơn giản chỉ là sự xót thương và chia sẻ
khổ đau với kẻ khác, mà từ bi chứa đựng ý nghĩa tích cực và mãnh liệt hơn những
gì ta hiểu một cách thông thường. Từ bi là sức mạnh thiêng liêng, siêu việ
i trí tuệ. Trí tuệ là một khí cụ toàn năng giúp ta xóa bỏ vô minh,
xóa bỏ vô minh tức là đạt được giác ngộ và đạt được giác ngộ tức là thành Phật.

Trong

Hiểu được lòng từ bi là một trong những đức tính trọng yếu của đạo Phật, vì
thế trên Tam bảo số 2, ra ngày 15.2.1937, học giả Minh Đạt đã khéo léo hướng con
người phát khởi tâm từ bi để thương yêu hết thảy muôn loài. Tác giả chỉ ra con
người biết sống với tâm từ chính là gieo nhân tốt đẹp và sẽ có được một đời sống
hạnh phúc, đầy tình yêu thương. Theo tác giả, từ bi tức là lòng thương yêu rộng rãi,
là thương yêu hết thảy muôn loài, phải xem muôn loài như mình, không được vì sự
phân biệt thân sơ mà làm cho tình thương trong ta tăng giảm. Hiểu sâu xa hơn nữa
là ở nơi lòng từ bi ấy không có năng có sở (không có người cho tình thương và kẻ
nhận tình thương), không bám víu một nơi nào... Qua đó, tác giả nhấn mạnh: “Lòng
thương yêu, chúng ta ai nấy cũng sẵn có, không phải chỉ một mình Đức Phật mới có.
Tuy vậy, chúng ta không thể đem lòng thương yêu của mình mà so sánh với lòng
thương yêu của Phật được. Vì ở nơi Phật thì nó được trong sạch linh động, không bị
điều gì làm trở ngại... Ở trong giới hạn, chúng ta thương yêu cái thân của mình thì
không thể yêu thương người khác được...”.

Nói đến tinh thần từ bi rộng lớn đó của đạo Phật, tác giả Mai Tu trên tạp chí
Tam bảo số 8 đã mang đến cho người đọc Hoàn thuốc vô giá, đó là tinh thần “Vô
99

úy thí”. Tức là tác giả khuyên con người hãy vì lòng từ bi mà mạnh dạn đoạn lìa
những thói hư tật xấu như tham, sân, si và đem đến cho người khác tinh thần không
sợ sệt, nói theo thế gian là lòng dũng cảm. Từ đó, con người mới có thể sống tự tại,
vô ngại trước mọi nghịch cảnh, chướng duyên trong đời và vươn lên bằng tâm thái
bao dung, rộng lượng.

Theo Tố Liên trên Đuốc tuệ số 29, ra ngày 30.6.1936 cho rằng lòng từ bi của
đạo Phật với ý nghĩa rộng là ban rải tình thương khắp muôn nơi, nhưng điều cần
thiết trước mắt là phải thể hiện tình thương đối với giới trẻ, tức là quan tâm giáo dục
giới trẻ. Tác giả nhấn mạnh: “Nhất là thầy nào tớ ấy giáo huấn cho nhau, nếu không
dạy được, phải cho đi tìm thầy khác mà học, đừng để phí thời gian báu ngọc của các
bạn thanh niên, vì rằng người ở tầm tuổi thơ ấu, chí khí còn đang hăng hái, tính tình
chưa phóng túng. Ông thầy dễ uốn nắn dạy bảo, mà người học trò cũng rất dễ thông
hiểu, cũng như cây tre còn non thì dễ uốn”.

Ngoài ra, lòng từ bi của Phật giáo còn chú trọng đến việc giáo hóa người phụ
nữ trở thành người gương mẫu trong gia đình và xã hội. Trên Đuốc tuệ số 35, ra
ngày 11.8.1936, Phạm Phan Cung đã thể hiện tình thương và chú trọng riêng về thế
giới phụ nữ. Ông muốn người phụ nữ phải biết Tu Bồ tát giới và khuyên giải rất chi
tiết về cách đối nhân xử thế, cách xây dựng nhân cách sống hạnh phúc trong gia
đình và xã hội:

Chúng tôi xin nói về phần đàn bà tu “phúc”. Tu phúc là như người ta nói
ăn ngay ở lành, tu nhân tích đức… Còn phần các bà tu “tuệ” thời nên thế
nào? Tu tuệ là tu về đường khôn, phải biết suy xét, biết lo nghĩ để giúp
chồng dạy con và giao tiếp với họ hàng tộc đảng, nhưng thứ nhất là phải
giữ về khẩu nghiệp: miệng không nên nói những điều độc ác. Người ta
thường nói một câu nên vợ nên chồng, một câu nói tan cửa nát nhà, một
câu nói nên ân huệ, một câu nói thành thù oán.

Hơn thế nữa, muốn thể hiện lòng từ bi sâu xa của người con Phật để cứu giúp
muôn người, trước hết cần phải tìm hiểu nguyên nhân, hoàn cảnh khiến cho con
người tha hóa, sau đó mới đưa ra giải pháp để chuyển hóa họ trở nên hoàn thiện, có
nhân phẩm. Nếu nói cụ thể, nguyên nhân khiến con người đánh mất lương tâm,
100

đánh mất nhân phẩm là do lòng tham cầu vô độ. Con người cũng bởi vì lòng tham
không biết dừng nghỉ mà gây ra biết bao nhiêu cảnh khổ đau, chết chóc thê lương.
Điều này, Trịnh Như Tấu đã luận giải rất rõ trên Đuốc tuệ số 61, ra ngày 15.5.1937
về Chữ Khổ trong Phật giáo và đưa ra phương pháp diệt khổ, đạt đến toàn thiện,
toàn mỹ: “Phật giáo có cái chủ nghĩa: “Từ bi, bác ái, bình đẳng, tự do” có thể làm
cho thế giới ít nổi phong ba… Muốn diệt khổ, ta cần phải theo phương pháp của
đức Thế tôn, phải phá tan cái thành kiến giai cấp, đảng phái, để mưu cầu hạnh phúc
chung”.

Cũng là nhấn mạnh về sự tham cầu của con người, trên Đuốc tuệ số 67, Trí
Hải đã khẳng định con người Khổ vì tham; Trí Hải lại nói con người Chết vì của
trên Đuốc tuệ số 68.

Biết rõ nguyên nhân rồi, tiếp đó trên Đuốc tuệ số 33, ra ngày 28.7.1936,
Nguyễn Trọng Thuật đã đưa ra những nhân cách đạo đức căn bản mà con người cần
thực hiện để thoát khổ, đó là Dũng mãnh, tinh tiến: “Dũng mãnh và tinh tiến là hai
đức tính rất quý trong đạo Phật và là hai đức tính rất cần thiết của hết thảy mọi
người ở đời. Nhất là những người có chí lớn, muốn làm việc…”.

Ngoài những đức tính ấy, con người còn phải thể hiện lòng kiên nhẫn trước
mọi hoàn cảnh. Có thể nói, tính cách này rất quan trọng cho một con người có nhân
phẩm. Vũ Thanh Đặc rất đồng tình với quan điểm đó, nên đã trình bày chi tiết trên
Đuốc tuệ số 43, ra ngày 6.10.1936. Ông nhấn mạnh muốn tu đức phải kiên tâm
nhẫn nại, dùng năng lực dũng mãnh mà phấn đấu với mọi khó khăn. Không nên vì
được khen mà vui sướng, vì bị người chê mà nản chí, lúc nào cũng phải tinh tiến
làm việc, chớ bảo năm nay chẳng học còn có sang năm, ngày nay chẳng tu còn có
ngày mai; chớ thấy điều thiện nhỏ mà không làm, chớ nghĩ tuổi còn trẻ mà không tu.
Qua đó, ông dẫn chứng: “Đức Thế tôn thuở trước một mình trầm tư mặc tưởng nơi
núi Tuyết Sơn hiu quạnh, trải qua 6 năm, muôn vàn đức hạnh vẹn tròn, chứng ngôi
chính giác, lấy đạo đức lập ra giáo pháp muôn đời”.

Song song đó chúng ta thấy, làm người không ai là không có lỗi. Để trở
thành những con người có nhân cách đạo đức, ít nhất cũng trải qua giai đoạn rèn
luyện. Với đạo Phật, không bao giờ chối bỏ những người phạm sai lầm, mà luôn thể
101

hiện lòng từ bi với họ và đưa ra pháp sám hối, sửa đổi, giúp họ trở thành người tốt.
Trên Đuốc tuệ số 60, ra ngày 1.5.1937, Sa môn Trí Hải đã có bài viết Có lỗi cần nên
đổi ngay bằng những lời dẫn chứng trong kinh rất có ý nghĩa: “Trong kinh Thủy
Sám nói: Có hai hạng người: một người không làm điều gì lỗi, một người phạm tội
rồi biết hổ thẹn, biết cải hối ngay thì cũng được xem như người không tội. Kinh Tứ
Thập Nhị Chương nói: Người có tội mà không biết hối cải ngay, thì tội về mình,
cũng như nước chảy về bể, dần dần trở nên sâu rộng”. Sau đó, Trí Hải khuyên rằng
những người đã có chí tu hành, có tâm cầu đạo, cần giữ sao cho lòng được trong
sạch, như mảnh gương trong, chớ nên để bụi bám. Nếu ai đã để cho bụi bám chút ít,
thì cần phải lau chùi cho sạch ngay.

Như vậy, phương cách thể hiện lòng từ bi đúng chính pháp trên báo chí Phật
giáo là khuyên con người phải biết trải tình thương đối với mọi người mà không để
tâm phân biệt thân quen, xa lạ hay đẳng cấp. Từ tâm từ bi cao quý đó, con người
còn biết hướng dẫn người khác thực hành tính kiên nhẫn, dũng mãnh, tinh tiến đoạn
trừ lòng tham cầu vô độ. Hơn thế nữa là phải hướng dẫn mọi người biết gieo nhân
vui và diệt nhân khổ, biết ăn năn chừa bỏ lỗi lầm để làm con người tốt v.v..

Việc thể hiện lòng từ bi đó đã cho chúng ta thấy được tính nhân bản của đạo
Phật là chống lại những gì làm hạ thấp con người và luôn hun đúc cho con người
mọi đức tính cao đẹp, nhằm thực hiện trọn vẹn ý nghĩa làm người: thoát khỏi mọi
ràng buộc thấp kém để trở thành người mẫu mực về chân thiện mỹ trong thế gian.
Mọi sự đau khổ chính là do sự bất toàn, sai lầm của con người, do con người đánh
mất nhân cách đạo đức sẵn có. Vì thế, để có được cuộc sống an vui, hạnh phúc, con
người phải tiến đến chỗ hoàn thiện, nghĩa là phải sống theo đúng nhân cách của một
con người. Qua đó, báo chí Phật giáo lúc bấy giờ còn cho chúng ta hiểu được rằng
ngày nào con người còn là người biết thể hiện lòng từ bi thì đời sống sẽ tràn đầy
niềm an vui, hạnh phúc và con đường của đạo Phật là sự tiến hóa đích thực của
nhân loại, đưa con người đến chỗ toàn thiện, toàn mỹ.

2.2.3. Hiếu đạo

Hiếu đạo là ý nghĩa của đạo đức, là đức tính tốt đẹp được mọi người ca tụng,
đức tính ấy được xem như một nền tảng cho mọi đức hạnh, là nhân tố quan trọng để
102

xây dựng đời sống hạnh phúc cho cá nhân, gia đình và xã hội. Hơn nữa, theo quan
niệm Phật giáo, hiếu đạo còn là con đường tu tập đạt đến giác ngộ, giải thoát. Kinh
điển Phật giáo thường dạy rằng chư Phật và Bồ tát trong quá khứ do lòng hiếu thảo
với cha mẹ phát tâm đại bi cứu độ tất cả chúng sinh mà thành đạo nghiệp. Cho nên,
đối với Phật giáo, hiếu đạo là điều kiện cần thiết của sự thành tựu công đức tu học
của người đệ tử Phật, là một quy luật bình đẳng của chân lý, chứ không phải là quan
niệm hay một quy ước.

Bổn phận làm con phải biết thờ cha kính mẹ, điều đó đã trở thành đạo lý của
dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là đạo lý sống cao cả của người đệ tử Phật khi đã
quy y Tam bảo. Cho nên, có thể khẳng định đạo Phật là đạo Hiếu.

Trên báo Đuốc tuệ số 25, ra ngày 2.6.1936, Trịnh Như Tấu đã chỉ rõ Phật tổ
bao giờ cũng khuyên các đồ đệ giữ tròn đạo hiếu. Ngài dạy rằng: “Làm con đối với
cha mẹ không hết lòng thì ra đời hoặc đối với quỷ thần, trời đất có hết lòng thành
kính cũng bỏ đi mà thôi”. Chính Đức Phật là một người con rất hiếu kính với cha
mẹ, cho nên lúc nào Ngài cũng ân cần khuyên các đệ tử phải hết lòng báo đáp thâm
ân của cha mẹ. Ngài lại dạy người tại gia có lòng tín đạo, nhưng còn phải làm việc
kiếm tiền. Khi có tiền rồi nên chia làm bốn phần: một phần để cung cấp cha mẹ, gia
đình, hai phần để làm vốn, còn một phần để dành phòng lúc bất trắc. Đức Phật trong
nhiều kiếp trước đã từng vì sự báo hiếu cha mẹ, trong lúc cần kíp nguy nan, có khi
phải cắt cả thịt trong thân thể để dâng cha mẹ. Do lòng chí hiếu của Phật mà trên
trời, Ngài làm Thiên đế, dưới trần Ngài làm Thánh vương, rồi trở lên ngôi Phật, là
một đấng đại giác chí tôn. Từ đó, Trịnh Như Tấu khuyên “là đệ tử Phật, ta nên theo
gương Ngài mà tu cho tròn đạo hiếu”.

Tinh thần Hiếu đạo của Phật giáo thể hiện rất sâu rộng, không những khuyên
răn những người con biết làm tròn chữ hiếu với cha mẹ hiện tiền mà còn phải thể
hiện tâm hiếu đạo đối với cha mẹ nhiều kiếp trước. Điều đó, Nguyễn Thượng Cần
đã trình bày theo ý của Thái Hư pháp sư trên Đuốc tuệ số 32, ra ngày 21.7.1936 qua
tiêu đề Khuyên các học sinh học Phật: “Có biết đâu kinh Phật, Ngài dạy về sự hiếu
rất rộng, mà làm người báo đáp vô cùng. Không những báo ơn cha mẹ đời này, mà
những ơn của cha mẹ từ bao nhiêu kiếp xưa đều càng nên báo đáp, và báo ơn cũng
103

không chỉ hầu hạ kính nuôi, mà còn thể hiện tâm nguyện cứu độ cha mẹ thoát ra
ngoài tam giới, khỏi hẳn tội luân hồi, thế mới là xong việc”.

Cũng với tinh thần Hiếu đạo cao cả này, Viên âm số 32 đã đăng bài viết Chữ
Hiếu nhà Phật của Hải Ấn. Tác giả nêu rõ cha mẹ đối với con, ba năm bú mớm,
chín tháng cưu mang... Trước ân đức to lớn của cha mẹ, làm con nếu không biết
đem lòng hiếu kính mà báo đáp, thì chẳng những không đáng làm một vị học trò
của Phật mà còn là người không có nhân cách. Con cái có lòng hiếu thảo, muốn báo
đáp công đức thì phải làm cho cha mẹ vui lòng, nhất là làm cho cha mẹ được hưởng
niềm vui lâu dài, chắc chắn của sự giải thoát ra ngoài các khổ não.

Thật vậy, đối với đạo Phật, nếu người đời đền đáp ân nghĩa sinh thành,
dưỡng dục bằng của cải vật chất, tiền bạc và lòng thương kính; thì Phật giáo quan
niệm sự đền đáp ấy là chưa đủ. Ngoài điều đó, người con còn có bổn phận đem lại
cho cha mẹ chính kiến, chính tín, giới thiệu con đường giải thoát giới định tuệ, hầu
giúp cha mẹ loại trừ các ác nghiệp, tăng trưởng các thiện nghiệp, đi dần đến sự giải
thoát sinh tử khổ đau. Sự đáp đền này mới gọi là đáp đền chân chính của người Phật
tử, của người trí tuệ. Theo đạo Phật, chỉ có sự đáp đền này mới tương xứng với
công ơn của cha mẹ.

Như vậy, báo chí Phật giáo đã giới thiệu tinh thần Hiếu đạo đến với quần
chúng nhân dân như một “thiện pháp”, giúp con người chuyển hóa tâm mình, cũng
là pháp ứng dụng tu tập để đạt đến giải thoát. Từ đây, chúng ta cũng có thể hiểu
được sự báo hiếu của người con theo tinh thần đạo Phật là phải thực hiện trên hai
phương diện vật chất và tinh thần. Về đời sống vật chất, người con phải biết chăm
sóc, phụng dưỡng cha mẹ để họ sống được thoải mái trong hiện tại. Về đời sống
tinh thần, tâm thức thì phải nhắc nhở khích lệ, trợ duyên cho cha mẹ học, hiểu và
thực hành theo chính pháp, hầu đạt đến an lạc, hạnh phúc trong hiện tại và tương lai.

Một điểm nữa, là người Phật tử tin tưởng vào lý thuyết nghiệp báo, nương
theo lời Đức Phật dạy rằng trong cuộc sống luân hồi vô tận, nhân loại và chúng sinh
đã từng là thân quyến, anh em, cha mẹ của nhau, nên việc báo hiếu đối với cha mẹ
nhiều đời quá khứ sẽ trở thành hành vi ứng xử tốt đẹp với mọi người xung quanh
104

mình. Nói khác đi, chữ hiếu của người Phật tử ở đây là hành vi ứng xử bình đẳng
đối với mọi người, mọi chúng sinh và đây chính là hạnh nguyện của Bồ Tát.

Nói chung, tìm hiểu về tinh thần hiếu đạo mà báo chí Phật giáo thể hiện giúp
con người có một nhận thức căn bản về chữ hiếu và có thể hình dung ra được những
gì tự thân phải làm để đáp đền ơn nghĩa cha mẹ hiện tiền và cả cha mẹ của nhiều
đời quá khứ một cách đúng đắn, có ý nghĩa. Đây là tư tưởng đạo đức cao cả mà giáo
lý đạo Phật từ xưa đến nay vẫn luôn thể hiện nhất quán, không thay đổi.

2.2.4. Lợi tha

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện xuống cõi đời là vì tâm lợi tha rộng lớn,
muốn cứu độ chúng sinh. Ngài đã lìa bỏ gia đình, ngôi báu, danh vọng cũng vì
muốn làm lợi ích cho chúng sinh. Suốt bốn mươi chín năm Ngài thuyết pháp cũng
chỉ vì muốn cho tất cả mọi người đều được thành Phật như Ngài. Cuộc đời Ngài chỉ
đi theo một mục đích cao cả là tự giác, giác tha; tự độ, độ tha hay tự lợi, lợi tha. Từ
ý nghĩ, lời nói, đến việc làm, Ngài đều hướng về mục đích ấy. Ngài không từ bỏ
một việc làm, một cử chỉ nhỏ nhặt nào, nếu nó có thể đem lại lợi ích cho chúng sinh.

Ngày nay chúng ta cũng thấy, Phật giáo hiện hữu ở đời, luôn theo tôn chỉ là
khiến con người được “đời này an lạc, đời sau an lạc, rốt ráo giải thoát an lạc”. Phật
giáo là một tôn giáo có tinh thần trách nhiệm, luôn hướng con người nhận thức
được những sự khổ não trong đời là do vô minh tham dục của chính bản thân họ gây
ra và mọi người đều có thể tự mình khắc phục những khổ não ấy. Sau đó chỉ ra con
đường hạnh phúc của nhân sinh và dẫn dắt con người vượt qua mọi tham vọng thấp
hèn để đạt đến sự an vui giải thoát. Đó là tinh thần lợi tha cao cả của đạo Phật.

Bồ đề tạp chí số 2 với bài viết Bồ đề luận, một mặt như vừa giải thích danh
từ Bồ đề, mặt khác như vừa gởi đến tín đồ bức thông điệp “Phật tính bình đẳng xưa
nay vốn không sai khác”. Chỉ cần con người biết sống với tâm Bồ đề, với trí giác
ngộ thì đó chính là Phật mà không phải là chúng sinh: “Thể dụng tính tướng của Bồ
đề dịch là Đạo hay Giác, là chỉ cái bản thể rất quảng đại, tính chất rất thanh tịnh,
sáng suốt, diệu dụng rất nhanh chóng, hiện tướng rất sáng suốt của Tâm, Phật và
chúng sinh, cả ba không sai khác, tức là Bồ đề”. Cách nhìn này của đạo Phật đã thể
105

hiện rõ nét tinh thần lợi tha căn bản của đạo Phật, là thể hiện sự bình đẳng, biết tôn
trọng lẫn nhau giữa người với người.

Tinh thần lợi tha thể hiện qua sự bình đẳng, biết tôn trọng lẫn nhau đó còn
được Nguyễn Trọng Thuật đề cập đầy đủ qua bài luận giải Nghĩa bình đẳng của đạo
Phật. Bài viết được đăng trên báo Đuốc tuệ số 61 năm 1937. Ông nhấn mạnh đạo
Phật cho rằng: Phật với loài người, loài người với loài vật, tất cả đều có chung Phật
tính, tức là cái tính chân như thiêng liêng, sáng suốt, hằng bàng bạc ở trong cõi hư
không. Qua đó ông khẳng định: “Thế cho nên Phật với loài người, loài người với
loài vật nhất thiết đều có Phật tính, tức là có cái gốc bình đẳng như nhau. Cũng vì
thế mà nhất thiết chúng sinh (cả người và vật) đều thành Phật một cách bình đẳng
như nhau”.

Trên tạp chí Tiếng chuông sớm số 3, tác giả H.S đã giải thích và hướng cho
muôn người thể hiện lòng vị tha trên con đường tu tập để mở cánh cửa giải thoát, an
vui. Tác giả khuyên con người muốn đạt được mục đích đi lên con đường vui sướng,
trước hết cần phải nuôi dưỡng ý chí để ngăn ngừa mọi điều xấu ác ở đời, thường tu
tỉnh thân tâm, chuyên làm những điều lành, điều phải. Hơn thế nữa, con người cần
phải khởi lòng thương xót tất cả chúng sinh, từ lòng thương đó mà làm những việc
từ thiện để cứu đời. Tác giả còn nhấn mạnh: “Muốn đi đến mục đích ấy, bao giờ
cũng phải có ba điều: 1. Hiểu rõ sự lý, tức là “giải”; 2. Tin ở đạo mình, tức là “tín”;
3. Thực hành điều thiện, tức là “hành””.

Để nêu cao giá trị thiết thực của việc ứng dụng Phật pháp vào đời theo con
đường lợi tha, Bồ đề tạp chí số 28, ra ngày 1.3.1942 đã nhấn mạnh bài luận Tuyên
dương Phật pháp, với tinh thần vừa nâng cao giá trị giáo pháp, vừa nhắc nhở người
tu sĩ phải nỗ lực tu học Phật pháp, đem chính pháp làm lợi ích cho muôn dân: “Đạo
Phật ở nước ta trải mấy nghìn năm, đã bao đời lấy làm quốc giáo, mà các nước Âu,
Mỹ đều cùng tham khảo, hầu khắp Đông Tây cũng phải chịu cái lý thuyết nhà Phật
là chí tôn vô thượng... Phàm là người học Phật thì phải hiểu giáo lý nhà Phật để tu
lấy mình rồi độ cho người. Ai cũng hiểu như thế thì mới có lợi ích...”.

Tinh thần lợi tha của Phật giáo luôn được xây dựng trên mục tiêu hướng về
lợi ích của con người. Ngay cả việc cầu đạo tu tập, người tu tập muốn đạt được giác
106

ngộ, giải thoát thì phải đặt tâm mình trên việc cứu độ muôn loài, tức là lấy tinh thần
lợi tha làm căn bản cho sự cầu đạo của mình. Như trên Đuốc tuệ số 72, ra ngày
1.11.1937, sa môn Tố Liên đã luận giải Cầu đạo Bồ đề ở đâu?. Tố Liên cho rằng
làm lợi ích cho chúng sinh, tức là làm lợi ích cho mình; cứu độ chúng sinh, tức là
cứu độ mình. Nếu ai muốn cầu đạo giải thoát mà không cứu độ cho chúng sinh
được giải thoát, nếu ai muốn giác ngộ lấy mình mà không giác ngộ cho chúng sinh,
thì chưa khỏi tội lỗi. Như thế thì dù có tu hành đến đâu, cũng không thể chứng được
đạo Bồ đề giải thoát. Qua đó, Tố Liên kêu gọi tấm lòng vị tha của mọi người, mong
họ phát khởi thêm tấm lòng từ bi cứu tế, tùy sức mà làm phúc, trước là để cầu đạo
Bồ đề, sau là làm tròn nghĩa vụ thân ái đối với đồng bào và giải thoát được tấm lòng
khổ não cho chúng sinh. Rồi Tố Liên lại trực tiếp nhắn nhủ:

Nay có cứu nạn dân cần phải cứu cả phần hồn và phần xác. Phần hồn thì
cứu bằng đạo pháp, phần xác thì cứu bằng cơm áo. Mong rằng mỗi tuần lễ,
các Ngài nên gom góp tấm lòng Bồ đề, để thành một món. Hoặc là đong
gạo thổi cơm nắm, hoặc là mua quà bánh, rồi thỉnh thêm vài vị sư có học
thức đi về bố thí. Các vị sư phải trước đem những lời lương thiện mà dẫn
dụ, ủy lạo cho họ nghe. Đoạn rồi sẽ ban phát cơm bánh cho họ. Mong sao
họ thoát hồi tai nạn này, rồi đều trở nên làm người lương thiện, biết hiểu
để liêm sỉ, biết đạo đức nhân nghĩa, khỏi làm những sự bạo ác mà phải
chịu tai nạn như thế nữa.

Cũng với quan điểm này, trên Đuốc tuệ số 69, ra ngày 15.9.1937, Thái Hòa
đã nhắc nhở: “Người tu hành nhất cử nhất động phải nên suy xét cho tinh tường, lợi
cho mình đã đành lại phải nghĩ đến sự lợi cho người ta nữa. Nếu chỉ thiên chấp một
bề thời có khi bị hại không nhỏ vậy”.

Thiết thực hơn nữa, tinh thần lợi tha của Phật giáo luôn hướng về mục đích
mang đến lợi ích cho con người trong cuộc sống hiện tại, luôn đi vào đời, đi bên
cạnh con người để giúp đỡ họ mọi lúc mọi nơi. Trên Đuốc tuệ số 54, ra ngày
1.2.1937, Thiều Chửu đã vì quần chúng nhân dân mà chỉ bày những phương thuốc
trị lành thân bệnh cho mọi người qua chuyên mục Y Dược vấn đáp. Còn trên Đuốc
tuệ số 69 thì có bài viết trực tiếp kêu gọi mọi người chia sẻ về vật chất cho quần
107

chúng đang lâm vào cơn đói khổ, theo phương châm Miếng khi đói bằng gói khi no:
“Cái nạn thủy lạo ở hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang đã làm cho dân hai tỉnh ấy lâm
vào cảnh khốn đốn, cơm không có ăn, áo không có mặc, sau hai tỉnh nói trên thì
tỉnh Phú Thọ cũng bị cái tai ách như thế. Vậy anh em giáo hữu ta còn đợi gì mà
không đem tâm vào việc cứu tế này”.

Đuốc tuệ số 56 còn thể hiện tinh thần lợi tha thực tế ấy qua việc quan tâm
đến đời sống kinh tế của nhân dân trong tình trạng khủng hoảng của xã hội hiện tại.
Kêu gọi muôn dân biết sống chân chính và kêu gọi sự giúp đỡ lẫn nhau giữa mọi
người. Cụ thể, ở Hội Phật giáo, Đuốc tuệ đã lên tiếng: “Hội Phật giáo mong đem
những nghĩa lý của đạo Phật là: siêng năng, kiệm ước, thành thực, tinh tiến, chất
phác, thương người xót vật, cứu độ lẫn nhau để cảm hóa cho người ta có đủ những
cái nội lực ấy mà tiến lên con đường sinh sống đời nay, cùng nhau cứu vớt mọi sự
khổ về tâm thần, về thể xác trong bể khổ hiện tại mà cầu phúc báu ở đời sau”.

Nói chung, tìm hiểu tinh thần lợi tha của Phật giáo đã thể hiện trên báo chí,
chúng ta thấy rằng đạo Phật là đạo Từ bi và được thể hiện cụ thể qua hành động lợi
tha, thiết thực đi vào đời để cứu giúp muôn người. Theo triết lý đạo Phật, mỗi chúng
sinh đều có Phật tính, thì tất nhiên cũng đã có tính lợi tha, đó là một khía cạnh của
tính Phật. Con người muốn có được cuộc sống hạnh phúc thì phải biết nuôi dưỡng
và phát huy tính lợi tha trong lòng mình. Tức là phải biết thể hiện sự lợi tha trong
cuộc sống hằng ngày bằng mọi phương diện, như lượm một hòn đá giữa đường, nói
một lời dịu dàng để an ủi vỗ về người lo sợ, buồn phiền với thái độ thân thiện hay
chỉ bày cho người khác những điều hay lẽ phải v.v.. đó là những việc lợi tha mà
người học Phật cần phải thực hành.

Từ những việc làm lợi ích bình thường ấy, chúng ta tập tiến dần trên con
đường lợi tha, làm những việc ích lợi quan trọng và to lớn hơn. Làm được như thế,
nuôi dưỡng tính lợi tha đến trình độ viên mãn, chính là lúc chúng ta đã thành Phật.

Nhìn tổng thể về tư tưởng đạo đức Phật giáo thể hiện trên báo chí Phật giáo
trước 1945 ta thấy, hầu như các tạp chí đều chú trọng việc giáo dục nhân cách sống
cho con người, khơi dậy và hoàn thiện những đức tính biết tích thiện trừ ác, từ bi,
lòng hiếu đạo, tâm vị tha và đức tin vào chân lý cuộc sống. Qua đó giúp muôn
108

người biết chuyển hóa thân tâm, đem những phương pháp sống đạo đức căn bản và
sâu xa ấy để xây dựng cuộc sống hạnh phúc, phát triển xã hội. Có thể nói, tính rốt
ráo của tư tưởng đạo đức Phật giáo được thể hiện khá phong phú trên các tạp chí
trên, cho chúng ta hiểu được Phật giáo nửa đầu TK.XX đã kế thừa và phát huy rất
mạnh mẽ tư tưởng Phật học vốn có từ ngàn xưa và cả từ đời Trần qua giáo lý Thập
thiện. Thập thiện là giáo lý nhập thế cơ bản của đạo Phật và vua Trần Nhân Tông đã
lấy pháp tu Thập thiện này để xây dựng nền đạo đức căn bản của xã hội đương thời.
Nhà vua đã đi khắp mọi nơi để khuyên dân chúng thực hành giáo lý Thập thiện,
đem lại đời sống an bình cho muôn dân [65, tr.285-286].

2.3. PHẬT GIÁO VỚI VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ ĐẠI CHÚNG

2.3.1. Phật giáo với dân tộc

Bản chất giáo huấn từ giáo lý của đạo Phật mang tính nhập thế rất cao, thông
qua học thuyết tuỳ duyên. Nhờ tinh thần dung thông, đạo Phật đã sử dụng các dữ
liệu tích cực của văn hóa dân gian để góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa
dân tộc. Có lẽ vì thế mà tư tưởng triết lý của nhà Phật từ lâu đã trở thành một phần
đời sống tinh thần của người Việt Nam. Tinh thần từ bi, yêu chuộng hòa bình, tôn
trọng sự sống và hiếu sinh của Phật giáo đã ảnh hưởng một cách sâu sắc trong tâm
hồn người dân Việt Nam.

Trong các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, đặc biệt là Lý - Trần, tinh thần nhập
thế của đạo Phật đã thúc đẩy các vị cao tăng Phật giáo đứng ra đảm trách vai trò cố
vấn cho vận mệnh quốc gia, tham gia triều chính, vì họ nhìn thấy được nỗi đau của
một dân tộc nhỏ bé, từng bị ngoại bang lớn mạnh hơn ức hiếp và đô hộ. Thiền sư
Ngô Chân Lưu đã được Vua Đinh Tiên Hoàng phong là Khuông Việt Đại sư. Danh
hiệu Khuông Việt Đại sư đã nói lên tầm quan trọng về những đóng góp của Đại sư
cho đất nước. Thời Tiền Lê, các thiền sư Vạn Hạnh, Đỗ Pháp Thuận, Khuông Việt
cũng được mời tham gia triều chính v.v..

Sau thời đại Lý - Trần, Phật giáo mất dần vai trò là hệ tư tưởng chủ đạo của
xã hội và lui dần về chốn thôn quê, đi vào cuộc sống của nông dân trong các làng xã.
109

Mặc dù vậy, nhưng Phật giáo là chỗ dựa về mặt tinh thần cho một bộ phận chính
quyền phong kiến Việt Nam, là yếu tố an dân và củng cố cộng đồng.

Đến thời Pháp thuộc, dù Phật giáo bị phân hóa rõ rệt nhưng trước phong trào
Chấn hưng Phật giáo, những tăng sĩ, Phật tử, cư sĩ có nhiệt tâm vì đạo Phật đã biết
vận dụng tích cực giáo lý nhà Phật vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Cho
nên có thể nói, bước vào giai đoạn đầu TK.XX, trong bối cảnh phức tạp của tình
hình chính trị, văn hóa thế giới và lịch sử xã hội nước ta có những biến đổi sâu sắc,
thì những giá trị tích cực của đạo Phật lại một lần nữa được kiểm chứng và thể hiện,
đặc biệt là tinh thần nhập thế của Phật giáo lại càng thể hiện cụ thể và rõ nét hơn.

Một trong những hoạt động nhập thế tiêu biểu của Phật giáo trong giai đoạn
này là báo chí Phật giáo, đó là công cụ sắc bén để đấu tranh vì nền hòa bình, độc lập
của dân tộc.

Trên Đuốc tuệ số 127, ra ngày 1.3.1940, Dương Bá Trạc đã cho thấy rất rõ
sự hiện hữu đầy ý nghĩa của Phật giáo giữa lòng dân tộc qua bài viết Mấy điều cốt
yếu trong đạo Phật. Ông khẳng định Phật pháp tuy có nhiều đường hướng, song
mục đích cũng đều dạy người làm điều thiện. Đạo Phật là đạo rất yêu đời, như Đức
Phật Thích Ca, Ngài chỉ vì lòng thương xót muôn loài mà hy sinh thân mình, hy
sinh ngôi báu và tất cả vinh hoa phú quý đời Ngài để ra đi xuất gia, tìm cầu đạo vô
thượng cứu độ cho đời. Đạo Phật là đạo dạy người ta biết tìm cái vui chân chính. Ở
đời, ai cũng cầu vui, mà đạo Phật dạy con người trước hết phải tìm nguyên nhân sự
khổ, người đời thấy vậy vội cho đạo Phật là chán đời. Nhưng không phải thế, vì con
người có biết nguồn gốc sự khổ, có dứt được khổ thì mới tìm được cái vui chân
chính. Đạo Phật là đạo tinh tiến, dũng mãnh. Nhiều người thấy đạo Phật dạy người
ta từ bi, nhẫn nhục, vội tưởng đạo Phật là nhu nhược, không thích hợp với cuộc đời
cạnh tranh này. Nhưng thật ra, đạo Phật rất tinh tiến và dũng mãnh. Phật biết rằng
lười biếng là căn bệnh thường xảy ra của con người, lười biếng sinh ra yếu hèn, nên
Ngài luôn dạy muôn người phải lấy đức tinh tiến, dũng mãnh để hành xử mọi việc.
Cho nên nói, đạo Phật vẫn là từ bi, nhẫn nhục mà gặp khi cần đến đức dũng mãnh
thì lực lượng mạnh mẽ không gì ngăn cản được.
110

Bài viết vừa khơi dậy những giá trị đạo đức của Phật giáo, vừa như lời nhắc
nhở, khuyên nhủ con người sống phải tinh tiến, dũng mãnh; phải biết lấy lòng từ bi,
nhẫn nhục để đối nhân xử thế.

Điều đáng chú ý trên tạp chí Duy tâm Phật học là ở số 42 năm 1941, chỉ với
tác phẩm Muốn biết Phật giáo có công với đời hay không cần phải soi gương dĩ
vãng, Huệ Quang đã cho tín đồ thấy rõ quá trình hội nhập và sự đóng góp tích cực
của Phật giáo đối với dân tộc Việt Nam thời bấy giờ: “Trải qua các đời Đinh, Lê, Lý,
Trần, Hán học được truyền sang nước ta là nhờ có Phật học, vì Phật giáo hồi bấy
giờ rất thịnh, có nhiều ông sư danh tiếng thông Phật học, thông cả Hán học, được
quốc dân sùng kính và triều đình tôn chuộng như các cao tăng: Vô Ngại, Phụng
Định, Duy Giám, Đỗ Pháp Thuận, Ngô Chân Lưu…”.

Đuốc tuệ số 59 cũng nhấn mạnh thêm tinh thần nhập thế của Phật giáo qua
bài Tinh thần nhân gian Phật giáo của Việt Nam xưa: “Xét từ đời Đinh cho đến đời
Hậu Lê, thấy có ba vị đại tông sư ở ba thời đại đều đã từng chủ trương phát huy về
tinh thần Đại thặng, là tinh thần cứu thế tích cực, tức ngày nay chúng ta gọi là chủ
nghĩa “nhân gian Phật giáo”. Ba vị đại tông sư ấy tức là Khuông Việt Thái sư ở đời
Đinh Lê, Trần Thái Tông ở đời Trần và Hương Hải thiền sư ở đời Hậu Lê”.

Hai bài viết trên Đuốc tuệ đó như là lời kêu gọi chân tình đối với tín đồ Phật
tử, hun đúc tinh thần vì dân tộc cho tín đồ, mong những người thế hệ sau biết noi
theo những gương sáng đó mà thực hiện vai trò của mình đối với dân tộc.

Trên Đuốc tuệ số 23, ra ngày 19.5.1936, sa môn Trí Hải đã thể hiện tư tưởng
vì dân tộc cụ thể của mình qua bài Địa vị người học Phật. Trí Hải đã khuyên nhắc
mỗi người, ai cũng đều có một địa vị riêng, nên phải làm hết bổn phận thì mới xứng
đáng đứng trong địa vị của mình. Từ đó, tác giả trực tiếp chỉ rõ: “Sứ mạng của
người Phật tử là đem đạo pháp của Đức Phật ra truyền bá, giáo hóa cho muôn dân.
Có như thế thì “trên mới hợp lòng của chư Phật, dưới mới có phần lợi ích cho chúng
sinh vậy”.

Nếu trên Đuốc tuệ có nhiều tác giả không ngừng truyền bá tư tưởng vì dân
tộc, muốn đem lại hòa bình, thịnh vượng cho đất nước thì đối với tạp chí Viên âm
111

cũng có nhiều người luôn thao thức mang sự an bình đến cho cả dân tộc Việt Nam.
Trên Viên âm số 2, Tâm Bình đã thể hiện bài luận Thế gian thuyết, cho thấy sự cống
hiến của Phật giáo đối với dân tộc là rất thiết thực và hữu hiệu. Đó cũng là lời tâm
huyết, một lần nữa khẳng định lại sự gắn bó giữa Phật giáo với dân tộc: “Đạo Phật
truyền qua xứ ta, chùa tháp ngày càng nhiều, tín đồ càng ngày càng đông, cũng là
nhờ giáo pháp không trái với phong tục nhơn tâm mà tồn tại đã mấy mươi đời. Sự
tín ngưỡng trong nhân gian nguồn gốc cũng đã sâu xa, chẳng phải đợi đến ngày nay,
đạo Phật xứ ta mới phát triển… Ảnh hưởng của đạo Phật về tinh thần giáo dục xứ ta
chẳng phải là ít”.

Tiếp đó, trên Viên âm số 10 năm 1934, Mật Khế chỉ rõ trách nhiệm của
người xuất gia đối với quê hương đất nước qua bài viết Bổn phận của người học
Phật. Tác giả nhấn mạnh người xuất gia ngoài việc nhớ ơn và báo ơn cha mẹ, thầy
tổ và nhân quần xã hội, còn phải biết báo đáp ơn Tổ quốc. Theo tác giả giải thích,
nếu trong nước không được thái bình, không có trật tự, người mạnh chèn ép kẻ yếu
v.v.. thì con người dầu có cơm ăn, nhà ở cũng khó mà yên ổn, bởi quá nhiều sự
quấy nhiễu. Điều này phải nhờ có những cơ quan chính trị quan tâm bảo vệ thì mới
mong được an vui. Hơn nữa, nếu không có cơ quan chính trị lo công việc quốc
phòng bề ngoài để khỏi bị các nước khác xâm lấn, lo giữ gìn trật tự bề trong cho
mọi người được an cư lạc nghiệp, thì làm sao tránh khỏi nạn cốt nhục chia lìa, cửa
tan nhà nát.

Từ đó Mật Khế nhấn mạnh người đệ tử Phật cần phải báo đáp công ơn của
quốc gia dân tộc. Muốn báo đền ơn ấy, người đệ tử Phật chẳng những không làm
những việc trái với sự an bình, với điều công ích của đất nước mà còn phải tận tâm
làm tròn bổn phận quốc dân, giữ gìn trật tự theo địa vị của mình, để cho cả nước
đều chung hưởng thái bình, hạnh phúc.

Nhằm cổ động tinh thần cho tín đồ Phật giáo, xuất gia cũng như tại gia thực
hiện đúng với nghĩa vụ của mình là “Phật giáo đồng hành cùng dân tộc”, trong lễ
khai mạc Đại hội tại Phật học Tương Tế Sóc Trăng, ngày 13.7.1936, HT. Huệ
Quang đã có bài thuyết giảng nói về nghĩa vụ của người tại gia và xuất gia cần phải
thực hiện. Bài giảng này được đăng rất chi tiết trên Bồ đề tạp chí số 2, ra tháng 9
112

năm 1936. Hòa thượng cho biết người xuất gia là một người tiêu biểu cho Phật pháp,
nên phải có tinh thần dũng mãnh mà đánh đổ bao nhiêu dục vọng, là mầm mống
thống khổ cho nhân loại. Nếu không phải là người có tinh thần cương quyết, giới
hạnh trang nghiêm, hy sinh tất cả một đời, thì không thể làm tu sĩ. Hòa thượng còn
nhấn mạnh đệ tử xuất gia của Phật không phải là kẻ trí tuệ tầm thường, không phải
là người mê muội mà cũng không phải là kẻ trốn đời, chán đời tiêu cực. Còn tín đồ
tại gia là người đã thọ tam quy ngũ giới, có kiến thức, có đạo tâm muốn hộ trì Phật
pháp, vì thế cần phải giữ lòng chánh tín, tinh tấn trên con đường Đạo thì mới làm
tròn nghĩa vụ chia vai “gánh vác sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh”.

Quả thật, cách nhìn nhận của HT. Huệ Quang rất tích cực và thể hiện đúng
với tinh thần Phật giáo vì dân tộc. Bài giảng của Hòa thượng cũng cho thấy lúc bấy
giờ, Phật giáo hướng về dân tộc không chỉ thể hiện qua những bài viết trên báo chí
để khuyến hóa lòng dân mà còn trực tiếp khuyến hóa mọi người trong những lúc
thuyết giáo. Bằng mọi phương tiện có thể, Phật giáo luôn vì lợi ích chung cho cả
dân tộc mà cống hiến hết sức mình.

Tạp chí Tam bảo thì thường xuyên cho đăng những câu chuyện cao tăng
nước Việt, là những vị vừa có công với đất nước, vừa đạt được những thành tựu
viên mãn trong quá trình tu tập hướng về đạo quả giải thoát. Cụ thể ở tạp chí Tam
bảo số 1, ra ngày 15.1.1937 có bài viết Lịch sử các vua triều nhà Trần xuất gia, đã
lần lượt nêu rõ quá trình xây dựng đất nước và thành quả tu học theo chính pháp của
Vua Thái Tôn, Vua Thánh Tôn, Vua Nhân Tôn... Chủ ý của tạp chí Tam bảo với
việc làm này là nhằm giúp cho tín đồ hiểu được sự đóng góp thiết thực đối với dân
tộc của những vị vua, những bậc cao tăng thời trước, qua đó có thể cổ xúy tinh thần
vì dân tộc của người đệ tử Phật đương thời.

Như vậy, quá trình thể hiện tinh thần vì dân tộc của các tạp chí trên cho
chúng ta thấy chủ trương chính yếu của báo chí Phật giáo đối với dân tộc nửa đầu
TK.XX là hướng về giáo dục người đệ tử Phật phải biết thực hiện trọn vẹn bổn phận,
nghĩa vụ của mình. Tức là giáo dục người học Phật nên noi gương tốt của người đi
trước, biết nhớ ơn đền ơn và phải luôn thao thức đem chính pháp làm lợi lạc cho
muôn dân, giữ gìn nền hòa bình của dân tộc.
113

Hơn thế nữa, với tinh thần vì dân tộc, tạp chí Tiến hóa còn có tầm nhìn sâu
rộng ra thế giới, chẳng những chỉ lo bảo vệ sự an nguy trong nước mà còn nghĩ ra
cách giáo dục gián tiếp đối với kẻ địch bằng con đường văn hóa dịch thuật. Đó là
trên Tiến hóa số 2, ra tháng 2 năm 1938 đã đưa ra ý kiến cần phải chuyển dịch
những bài kinh tụng thành nhiều thứ tiếng, để cho kẻ đối địch đọc hiểu, biết được
tội phước mà sống có nhân nghĩa, đạo đức hơn.

Đây quả là sáng kiến hay và có tác dụng rất lớn trong phong trào giành lại
hòa bình, độc lập cho quê hương đất nước Việt Nam. Có thể nói, Tiến hóa là tạp chí
tiêu biểu trong phong trào đấu tranh vì dân tộc. Những nội dung Phật học được
truyền tải trên Tiến hóa đa phần thể hiện tinh thần vận động chính trị chống Pháp và
lý tưởng vì cách mạng.

Tuy nhiên, nói đến tạp chí Tiến hóa thì không thể không nhắc đến sư Thiện
Chiếu, là người sáng lập tạp chí này và là người tiên phong trong phong trào “cởi cà
sa, khoác chiến bào” vì sự hòa bình của quê hương đất nước. Thời trai trẻ, mang
hình ảnh người xuất gia thoát tục, nhưng trước hoàn cảnh tủi nhục của đất nước, đã
hình thành trong sư Thiện Chiếu lý tưởng yêu nước và lý tưởng ấy lớn dần theo
cuộc đời của sư. Có lẽ nhờ đó mà về sau, sư trở thành nhà cải cách hiện đại Việt
Nam. Do vậy, khi nói đến tinh thần Phật giáo vì dân tộc thì không thể không nói
đến sư Thiện Chiếu, là người tiêu biểu vừa đại diện cho giới trí thức Phật giáo, vừa
thể hiện nhiệt huyết trong phong trào yêu nước nửa đầu TK.XX.

Năm 1937, Hội Phật học Kiêm Tế được thành lập tại Rạch Giá, lấy chùa
Tam Bảo ở làng Vĩnh Thanh Vân làm trụ sở. Hoạt động của Hội có tiếng vang rộng
lớn ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ và lan rộng cả đến Sài Gòn, nơi có trụ sở các Hội
Phật học Nam Kỳ, Hội Phật học Lưỡng Xuyên (ở Trà Vinh).

Hội Phật học Kiêm Tế có cơ quan ngôn luận là tạp chí Tiến hóa, do sư Thiện
Chiếu tổ chức bài vở và điều hành nội bộ. Ông thực hiện chương trình cải cách Phật
giáo mạnh mẽ, táo bạo, khác đời, đó là mong muốn giới tăng sĩ phải dấn thân vào
đời, làm việc thực tế độ sinh, cải tạo xã hội. Đây là vấn đề mới lạ mà đương thời ít
người Phật tử nào nghĩ đến.
114

Những tác phẩm Tại sao tôi (Thiện Chiếu) hoàn tục và Tại sao tôi đã cảm ơn
đạo Phật của sư Thiện Chiếu đã khẳng định rõ lý do sư hoàn tục là không phải bất
mãn với Phật giáo hay giáo lý của Đức Phật Thích Ca. Từ niềm tin chắc chắn đối
với Phật giáo và quá trình tu tập, thể nghiệm giáo lý Phật giáo đã hun đúc cho sư
tinh thần vì dân tộc, giúp sư hiểu được quan điểm từ bi, mong muốn giải phóng
chúng sinh ra khỏi vòng hệ lụy của những tham lam, ích kỷ… của cuộc đời hiện tại
là phải cải tạo xã hội theo con đường “thế giới đại đồng”. Việc sư tham gia khởi
nghĩa Nam Kỳ năm 1940 tại Hóc Môn cũng đã chứng minh cho một thời điểm trong
hành trình sống, hoạt động xã hội, chính trị, tôn giáo canh tân của mình. Sau đó, dù
sư bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo, nhưng sau khi Cách mạng tháng Tám thành công,
được trở về đất liền, sư vẫn tiếp tục tham gia kháng chiến chống Pháp với cương vị
một công dân yêu nước, một Phật tử vì dân tộc trước nạn ngoại xâm.

Vào những ngày cuối đời, sư Thiện Chiếu vẫn sống, vẫn làm việc với cách
sống như một nhà sư và những diễn biến tư tưởng cải tiến của sư từ những năm
1920, 1930 ấy mãi không thay đổi. Sư Thiện Chiếu đã đem cái biết của mình từ đạo
Phật ra thực thi với đời từ lứa tuổi thanh niên và cho đến ngày lìa đời, sư đã chu
toàn con đường học và tu Phật của mình.

Hơn thế nữa, sư Thiện Chiếu còn chứng minh cho mọi người biết được sự
cống hiến của Phật giáo đối với dân tộc qua những bài viết của mình. Thiện Chiếu
đã chỉ rõ trong thời kháng chiến chống quân xâm lược Pháp, sư sãi và tín đồ Phật
giáo cùng với toàn dân cầm súng giết giặc ở tiền tuyến hoặc công tác ở hậu phương,
góp phần bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ non sông. Trong phong trào “Đông Dương Đại
hội” cũng như trong cuộc “Khởi nghĩa Nam Kỳ”, khi thất bại vẫn có mặt một số sư
sãi và rất nhiều tín đồ Phật giáo ở trong nhà lao và pháp trường của thực dân
Pháp… Qua đó, Thiện Chiếu nhấn mạnh:

Vì họ là những người con dân tộc của Việt Nam, sống trên đất nước Việt
Nam, không thể không đau xót trước cảnh đất nước bị chia cắt, bị xâm
lăng, bị chiến tranh tàn phá. Họ không thể không tủi nhục và căm thù vì
đồng bào và với phong trào yêu nước của đông đảo quần chúng nhân dân.
115

Nhất là họ không thể đi chệch con đường tiến lên của dân tộc, con đường
phát triển của xã hội loài người [85, tr.31-32].

Thật đúng như câu nói của Nguyễn Lang: “Thiện Chiếu là một người đầy
nhiệt huyết, vừa yêu mến đạo Phật vừa có lý tưởng cách mạng” [67, tr.802]. Vì sao?
Vì hành động của sư Thiện Chiếu từ những năm đầu TK.XX đến ngày sư từ giã cõi
đời xét ra vẫn xuyên suốt, nhất quán. Tinh thần dân chủ, từng thao thức về dân
quyền… đã luôn theo sư Thiện Chiếu từ khi ông theo đạo Phật. Đó là niềm tin bền
vững giúp sư phấn đấu và chiến đấu với đời, mong đất nước hòa bình, mong thế
giới đại đồng như niềm tin và cũng là cứu cánh của đời sư.

Tư tưởng và hành động của sư Thiện Chiếu còn cho ta thấy rõ tạp chí Tiến
hóa đã phản chiếu niềm thao thức muốn đem đạo Phật làm lý tưởng cách mạng.
Hơn thế nữa, những lời tâm sự trên của sư giúp chúng ta thấy được hình ảnh cao
đẹp của những tu sĩ Phật giáo, mang lý tưởng cách mạng dấn thân vào chiến trường
hoặc bằng nhiều phương diện khác mà không hề nao núng, chỉ mong đem lại thanh
bình cho toàn dân tộc. Điều đó đã chứng minh đầy đủ tinh thần Phật giáo nhập thế
tích cực, thiết thực. Hay có thể nói là thể hiện đúng thái độ “tùy duyên bất biến” và
“bất biến tùy duyên” của Phật giáo.

Điểm qua vài nét về tinh thần báo chí Phật giáo với dân tộc, cụ thể hơn là tìm
hiểu về tư tưởng yêu nước của sư Thiện Chiếu, đến đây vấn đề được đặt ra là Phật
giáo đã đóng góp gì cho dân tộc trong giai đoạn nửa đầu TK.XX và cho đến ngày
nay qua hoạt động của báo chí?

Có thể nói, tính dân tộc mà báo chí Phật giáo trước 1945 thể hiện là:

- Hun đúc ý chí và lòng yêu nước của quần chúng nhân dân qua những hoạt
động của phong trào Chấn hưng Phật giáo. Chính phong trào này đã trực tiếp kêu
gọi quần chúng Phật tử giữ gìn truyền thống yêu nước, gắn bó với dân tộc. Cụ thể
trong hàng tăng sĩ Phật giáo có rất nhiều người vẫn giữ nếp sống tu hành chân chính,
nhưng đã tích cực tham gia kháng chiến chống quân xâm lược. Vì vậy có thể nói
phong trào Chấn hưng Phật giáo là một phong trào phục hưng văn hóa dân tộc, một
116

sự phục hưng dựa trên ý thức tự tôn dân tộc và với niềm tự hào về truyền thống yêu
nước lâu đời.

- Khơi gợi lại những giá trị đạo đức của Phật giáo và dân tộc như lòng từ bi,
tinh thần hiếu đạo, đức hy sinh v.v..

- Khuyên dân chúng giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tích cực phát huy văn
hóa chữ Quốc ngữ bằng các hoạt động phiên dịch kinh điển, mở rộng phong trào
học Phật khắp nơi…

Nhìn chung, tìm hiểu về vấn đề Phật giáo với dân tộc qua báo chí Phật giáo
trước 1945 cũng như qua tư tưởng, hành động thiết thực của sư Thiện Chiếu, đã
giúp chúng ta thấy được mối liên hệ mật thiết giữa Phật giáo và dân tộc như nước
hòa với sữa. Chính tinh thần vì muôn dân bền vững ấy mà Phật giáo vẫn đồng hành
và sáng mãi trong lòng dân tộc Việt Nam. Có thể mượn câu nói của sư Thiện Chiếu
để diễn tả cho sự kiện cao đẹp này: “Nếu là cặn bã của Phật giáo thì nó sẽ thăng
trầm theo thế vận, nhất định dẫn đến chỗ tiêu vong. Nếu là tinh hoa của Phật giáo
thì nó sẽ tồn tại mãi mãi trong sức sống của dân tộc và cùng với sức sống đó tiến lên
theo đà phát triển của nhân loại” [85, tr.32].

2.3.2. Phật giáo với đại chúng

Phật giáo đến với đất nước Việt Nam ngay từ buổi đầu du nhập đã hoàn
thành sứ mạng “bản địa hóa” và trải qua nhiều thế kỷ vẫn luôn hài hòa trong lòng
dân tộc. Tuy nhiên, từ khi Pháp có mặt ở Việt Nam cùng với chủ nghĩa tư bản và
văn hóa phương Tây đã gây ra những xáo trộn không nhỏ trong xã hội Việt Nam và
điều đó ảnh hưởng rất lớn đối với đạo Phật. Tầng lớp trên của xã hội thì theo lối
sinh hoạt thành thị, theo văn minh phương Tây với những phương tiện sinh hoạt
mới và hiện đại. Cùng với những thay đổi trong lối sinh hoạt là các thay đổi về ý
nghĩ và cảm xúc. Từ đó khiến nhiều giá trị bền vững của dân tộc cũng phần nào bị
tha hóa, nhất là Phật giáo bị thực dân Pháp ra sức xóa bỏ trong tư tưởng người dân
Việt Nam, thay vào đó chúng khiến người dân tin theo những hủ tục mê tín dị đoan.

Nhờ có phong trào Chấn hưng Phật giáo do giới tăng sĩ đứng ra chủ trương
mà báo chí Phật giáo có cơ hội ra đời và phát triển qua con đường truyền bá Phật
117

học bằng chữ Quốc ngữ. Từ đó Phật học lan rộng khắp nơi, cả ba miền, dân chúng
đều có cơ hội tìm hiểu Phật pháp. Cho nên, nói đến vấn đề Phật giáo với đại chúng
hay đại chúng hóa Phật giáo trong giai đoạn nửa đầu TK.XX mà báo chí Phật giáo
đã thể hiện thì rất phong phú.

Lúc bấy giờ, vì có số đông quần chúng nhân dân đang sống đau khổ trước
những lo nghĩ vật chất và sự áp bức của chính quyền thuộc địa Pháp, cho nên họ rất
khao khát có được cuộc sống an vui. Ðời sống của nhân dân luôn bị đe dọa không
dứt bởi những làn sóng bất an và sợ hãi, vì vậy họ tìm đến Phật giáo, là nơi hy vọng
có thể đem lại cho họ sự an bình trong tâm và ý nghĩa của cuộc sống. Đồng thời,
cũng có không ít học giả tìm đến Phật giáo, mong tìm ra giải pháp đấu tranh vì độc
lập, hòa bình của dân tộc.

Hiểu rõ tình hình quần chúng nhân dân lúc bấy giờ đa phần còn mê mờ chính
pháp, đồng thời với mục đích tuyên truyền văn hóa, giáo dục đạo đức nên báo chí
Phật giáo trước 1945 hầu như đều đi theo hướng truyền đạt những giáo lý căn bản,
những triết lý Phật học phổ thông gần gũi với đời sống nhân dân mà không phải là
truyền đạt những triết lý cao siêu, khó hiểu.

Trong Đuốc tuệ số 127, ra ngày 1.3.1940, Thiều Chửu đã diễn giải rất rõ lợi
ích thiết thực của những người sống trong xã hội nhưng biết học Phật, biết ứng
dụng Phật pháp vào cuộc sống. Bài viết mang tính triết lý thiết thực, gắn liền với
đời sống nhân dân, mọi giới ai cũng có thể dễ dàng đọc hiểu và tiếp nhận được.
Trong bài viết, Thiều Chửu nhấn mạnh chương trình xây đắp cái nền nhân gian Phật
giáo rất rõ ràng. Thiều Chửu chỉ rõ đối với sự tu dưỡng của từng người: Nhổ một
cái lông thì cả mình đều cảm động, thổi hơi lên trên không thì trên không hiện ra
các làn sóng. Cho nên sự thiện ác của từng người có ảnh hưởng trực tiếp đến sự yên
lành của gia đình, xã hội, nhà nước và cả cõi đời này. Từ đó, Thiều Chửu khuyên
nhắc: “Muốn cho gia đình được hưng thịnh, xã hội được yên vui, cõi đời được hòa
bình, trước hết phải chú trọng đến sự tu dưỡng của từng người, phải trừ tính ác mà
làm điều thiện”.

Bài viết của Thiều Chửu còn ta cho thấy tinh thần “Không làm các điều ác,
nên làm các điều lành” của Phật giáo đã thật sự ảnh hưởng sâu sắc trong tâm tư của
118

quần chúng nên họ mới biết khuyên nhủ người khác nên lấy pháp thiện của nhà
Phật để giáo dục tự thân, xây dựng đời sống xã hội và ổn định cả quốc gia dân tộc.

Lúc bấy giờ, vì sự mê tín dị đoan của quần chúng còn quá nhiều, nên các nhà
Phật học đã ra sức truyền bá Phật pháp để cải hóa tư tưởng cho muôn dân. Trên
Đuốc tuệ số 75, ra ngày 15.12.1937, sa môn Trí Hải đã Bàn về sự đốt vàng mã. Trí
Hải cũng chỉ rõ mục tiêu xóa bỏ mê tín của Phật giáo đã tác động đến cả những cơ
quan chức năng trong xã hội lúc bấy giờ. Cụ thể ở Thái Bình, cụ Thượng Vi đã ra
chỉ thị cấm đốt vàng mã, song vì dân chúng còn quá nhiều mê chấp, nên công việc
cũng chưa đạt được kết quả mỹ mãn mà chỉ có hiệu quả riêng từng nơi. Từ đó, Trí
Hải kêu gọi các chùa nên đem nguyên nhân sự đốt vàng mã và sự lợi hại giảng cho
mọi người hiểu, khẳng định việc đó là vô ích, là đại hại. Kết hợp cả nhà chùa lẫn
các nhà chính trị thì không bao lâu hủ tục đó sẽ tiêu diệt hết.

Để việc tuyên truyền, bài trừ mê tín dị đoan này có tác dụng cao, Trí Hải đã
đưa ra dẫn chứng cụ thể trong kinh Phật nói: “Ngay như trong kinh Dược Sư, là bộ
kinh rất nhiều người tụng, ở trong đó có nói: “Thiêu tiền hóa mã, sát lục chúng sinh,
tế tự quỷ thần, đản tăng tội nghiệp, phản tổn thọ hỷ”. Nghĩa là đốt giấy tiền và các
thứ vàng mã cùng là giết chúng sinh để tế báo quỷ thần, chỉ thêm tội nghiệp và
chóng chết mà thôi, không có ích lợi chi cả”.

Tinh thần “Đại chúng hóa Phật giáo” còn được phổ cập riêng cho người phụ
nữ. Có lẽ thân phận người phụ nữ lúc bấy giờ rất đáng thương, không được xem
trọng nhiều, nên họ quyết sống vươn lên. Giáo lý đạo Phật đã giúp họ thêm niềm tin
và ý chí để xây dựng cuộc sống.

Trên Viên âm số 17, Diệu Phước đã mở ra cho giới phụ nữ một con đường đi
thật tươi sáng và đầy nghị lực qua bài luận Phụ nữ với Phật pháp. Diệu Phước nhấn
mạnh rằng Phật pháp rất thích hợp với khoa học thế giới ngày nay, cho nên chị em
không phải ngần ngại gì mà không chịu thờ nền luân lý nhà Phật: “Chị em hấp thụ
được luân lý nhà Phật thì nơi gia đình, chị em là tấm gương chiếu sáng cho cả gia
đình khác, còn nơi xã hội thì chị em là người ích quốc lợi dân, không phải là sâu
mọt của xã hội”.
119

Viên âm số 13 năm 1935 có bài viết Phật pháp hiệp với đời còn chỉ cho
chúng ta thấy không chỉ có chị em phụ nữ mới quan tâm đến Phật giáo mà cả những
thanh thiếu niên cũng biết lĩnh hội. Với lứa tuổi thanh niên đầy nhiệt huyết, họ đã
biết tìm đến Phật pháp để xây dựng, hun đúc cho lý tưởng cao đẹp của đời mình. Từ
đó mà Viên âm đã quả quyết: “Được như vậy thì anh em sẽ có cái vui của người
thường làm lành, cái vui của người không sợ khổ và anh em sẽ rõ: duy có đạo Phật
là hiệp với đời, là có thể đem đến hạnh phúc đầy đủ cho nhơn loại”.

Sự phổ cập, hòa nhịp giữa Phật giáo và đại chúng quả là mật thiết và đem
đến kết quả thiết thực, bởi những ai theo đạo Phật đều trở thành những con người
tốt, thật sự sống có ý nghĩa và làm tròn bổn phận trách nhiệm với cá nhân, gia đình
cũng như xã hội. Điều này, Tâm Nguyệt, cũng là đại diện cho giới phụ nữ cất lên
tiếng nói thật khẳng khái trên tạp chí Viên âm số 25 năm 1937, với chủ đề Ảnh
hưởng của Phật giáo trong gia đình. Tâm Nguyệt khẳng định người đã theo đạo
Phật, thể theo tâm tính của Phật thì lòng thương cũng mở rộng thêm, chẳng những
thương cha mẹ chồng, chồng con mà còn thương đến anh em bà con bên chồng.
Một người vợ đã quy y Phật thì sẽ tôn trọng đức tính nhẫn nhịn, từ mẫu làm đầu.
Một người mẹ biết quy y Phật sẽ biết làm tròn trách nhiệm người mẹ. Trong nhà
Phật thường dạy: “Người theo đạo Phật, khi nào cũng phải biết ơn, mà biết ơn nếu
không tìm cách trả ơn cho xứng với sự yêu quý ấy, thì kiếp sau người thọ ơn mắc
nợ và phải trả. Vậy cho nên khi hưởng phước, ta chớ nên buông lung, ích kỷ…”.

Học được từ đạo Phật tinh thần nhớ ơn đó, Tâm Nguyệt còn chỉ cho mọi
người biết nhớ nghĩ đến cả tôi tớ trong nhà. Vì sao, vì đạo Phật luôn xem trọng hai
chữ bình đẳng, loài người khác nhau không phải do nơi địa vị sang hèn mà chủ yếu
là do nơi tâm tính của mỗi người.

Vấn đề quần chúng thể nhận tinh thần tri ân báo ân đó từ đạo Phật, không chỉ
có tạp chí Viên âm đề cập đến mà cả tạp chí Quan âm cũng dẫn chứng rất đầy đủ.
Trên Quan âm số 10, Mật Khế khẳng định là người học Phật, tất nhiên phải noi theo
gương Phật, làm những việc lành. Trong các việc lành, có một việc quan trọng là
phải biết giữ tròn bổn phận, cho nên chúng ta cần nghiên cứu bổn phận của người
đệ tử Phật là báo đáp công ơn cha mẹ và công ơn mọi người trong xã hội. Khi ta
120

muốn ăn đã có người làm ruộng, muốn mặc đã có người dệt vải may áo, muốn ở đã
có người làm nhà... Vì thế cần phải nhớ công ơn muôn người trong xã hội mà gắng
sức làm cho xã hội càng ngày càng thịnh vượng.

Quần chúng tiếp nhận và ứng dụng Phật pháp trong đời sống cá nhân, gia
đình và xã hội là thế. Còn đối với đời sống kinh tế thì sao? Tạp chí Viên âm số 28
năm 1937 đã bàn về một chuyên mục riêng là Phật pháp đối với thương nghiệp.
Viên âm nhấn mạnh người đi buôn bán hàng hóa phải làm tròn hai phận sự: Phận sự
đối với mình và phận sự đối với người mua hàng. Tức là phải cân nhắc làm sao cho
hai bên đều có lợi và biết tin cậy nhau, để tránh khỏi sự bóc lột, lường gạt, tranh đua.
Hơn nữa, nếu người bán buôn còn biết phát tâm bố thí cúng dường, giúp các cơ
quan chức năng duy trì nền đạo đức, thì lại càng quý biết bao. Vì những người đó
đã hiểu thấu sự buôn may bán đắt là do phước báu đã tạo từ trước, nay gặp thời may,
nên họ biết nghĩ đến người khác. Người đã giàu lòng từ thiện như thế thì trong thiên
hạ, ai lại không hoan nghênh, yêu quý và đã yêu quý, tất nhiên mọi người sẽ sẵn
sàng mua giúp hàng hóa. Mình thương người, người giúp mình, đó là tôn chỉ từ bi
của đạo Phật để thực hành trong chốn thương trường, nhằm diệt trừ những tệ nạn
giả dối, lường gạt nhau vì mối lợi riêng tư.

Rồi Viên âm kết luận: “Ai là bạn thương nghiệp, ai là đệ tử Phật trong
thương trường, nên xét kỹ chỗ lợi toàn thể, lợi lâu dài mà thực hành Phật pháp trong
nghề buôn của mình. Nếu đạo tâm của các người buôn mà chắc chắn rồi thì ai lại
không tin, có tin nhau mới mong làm các sở to tát”.

Tín đồ lĩnh hội Phật pháp, ngoài việc ứng dụng những giá trị đúng đắn để
xây dựng hạnh phúc gia đình và đời sống kinh tế, còn biết thiết lập mối quan hệ
nhân nghĩa, đạo đức cao cả trong xã hội. Học giả Vân Đàm với bài viết Quốc dân ta
cần phải nghiên cứu Phật học đăng trên Từ bi âm số 23, ra ngày 1.12.1932 cho thấy
xưa nay “Tín ngưỡng Phật giáo” luôn lấy đạo đức làm nền giáo dục, dẫu có hủ tệ di
truyền đã lâu, nhưng tư tưởng thì vẫn in sâu vào trong đạo lý vô thượng. Phật pháp
xưa nay vẫn lấy tôn chỉ từ bi, tế nhơn lợi vật, đủ tư cách để làm cho nhân loại đều
phải khâm phục.
121

Tinh thần đạo đức mà quần chúng lĩnh hội được từ Phật giáo còn có sự hiếu
kính. Từ Phật giáo, quần chúng đã biết ứng dụng đạo hiếu ngay trong cuộc sống
hiện thực, như tạp chí Duy tâm Phật học số 43 năm 1941 với bài viết Noi gương
Đại hiếu của Khánh Anh đã chứng minh rõ điều này. Tác giả kể về nhà Trưởng giả
Huyện hàm Trương Hoằng Lâu tại tỉnh Cần Thơ, noi gương bố thí của thân mẫu, đã
tổ chức Đại trai đàn trong dịp lễ Vu lan Thắng hội, để cầu siêu cho phụ mẫu trong
bảy đời, tỏ chút lòng hiếu kính trong muôn một. Xưa kia, thân mẫu của Trưởng giả
lúc còn sinh tiền từng đem vàng bạc trùng tu chùa Tây An tự, núi Sam, tỉnh Châu
Đốc. Ngày nay, Trưởng giả cảm đức sinh thành đã phát tâm cúng ruộng cho mười
chùa, rước 30 vị tăng vị làm chay cúng dường, thỉnh thầy về thuyết pháp sáu thời
v.v.. Qua đó, Khánh Anh đã kết luận: “Những công trình to tát, cuộc lễ long trọng
như thế là bởi nhà Trưởng giả cảm đức sinh thành, nhớ công sáng tạo. Thế cũng là
ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước biết nơi nguồn mạch, chính Trưởng giả thuật
chuyện: “Bà thân tôi thường nói: Má làm phước chùa Tây An là để lại cho con”.

Như vậy, báo chí Phật giáo đương thời đã cho thấy đạo Phật đi vào lòng
quần chúng không chỉ là để chuyển hóa cho cá nhân mỗi người mà còn chuyển hóa
cả gia đình, cho đời sống kinh tế xã hội và cả đời sống đạo đức lễ nghĩa hằng ngày.
Điều đó chứng minh được quần chúng đã tiếp nhận Phật giáo dưới mọi hình thức và
ứng dụng trong mọi hoàn cảnh.

Có lẽ từ sự thể nhập sâu xa đó mà Võ Văn Cường mới thể hiện bài viết Tâm
hồn dân tộc Việt Nam với Phật giáo đăng trên Viên âm số 48 năm 1942 để nói lên
tất cả những kết quả tốt đẹp về Phật giáo trong lòng đại chúng. Ông cho rằng những
người thường dân Việt Nam không tu luyện, thế mà từ tiếng nói cho đến hành động,
đều nhiễm những danh từ, những ý tưởng của Phật pháp một cách bất ngờ. Hễ một
việc gì hơi quan trọng xảy đến trong đời, họ liền niệm: “Mô Phật”. Đời họ gặp cảnh
khổ đau, sẽ tự nhủ một cách tự nhiên: “Vì kiếp trước mình đã vụng tu”. Những công
việc của đời hiện tại chưa thành, họ xin hẹn đến kiếp sau. Qua đó, tác giả đã nhấn
mạnh: “Không biết họ đã hiểu tự bao giờ cái thuyết luân hồi của nhà Phật?”.

Tác giả còn cho thấy người dân Việt Nam hầu như đã thấm nhuần đức từ bi
và rõ thấu thuyết nhân quả - nghiệp báo của nhà Phật, nên họ thường răn bảo con
122

cái phải biết thương yêu muôn loài, đồng thời nhắc nhở: “Bây đừng phung phí làm
đổ cơm nước bậy bạ mà sau phải làm vịt, làm trùng để đi lượm lại những hạt cơm
đã đổ tháo”. Họ thường dọa con: “Bây đừng ác với chó mèo mà sau thành chó mèo
bị họ đánh đập cho chết”.

Cuối cùng, Võ Văn Cường nhận định: “Sự liên lạc giữa Phật giáo và tâm hồn
dân tộc Việt Nam đã chặt chẽ lắm rồi. Chặt chẽ vì nó hợp với thiên lý, vì đã mấy
mươi đời, ông cha chúng ta đã di truyền vào trong cốt tủy... Những thuyết luân hồi,
nhân quả, bình đẳng, từ bi, chúng ta đã áp dụng vào đời sống một cách tự nhiên, tuy
không đến triệt để”.

Nhìn chung, điểm qua một số nét về quá trình truyền bá Phật học mà báo chí
Phật giáo giai đoạn trước 1945 đã thể hiện, cho ta thấy rõ tính đại chúng tiêu biểu
của Phật giáo giai đoạn này như sau:

- Tính phổ cập: Báo chí Phật giáo đã truyền bá nhiều bài giáo lý phổ thông,
mang lợi ích thiết thực cho con người, nên hầu như đều được quần chúng đón nhận
và thực hành ngay trong cuộc sống trên các lĩnh vực.

- Tính tuyên truyền: Báo chí Phật giáo đã cổ động, kêu gọi, thức tỉnh được
lòng dân xóa bỏ mê tín dị đoan, hướng được tâm thức của người dân sống theo con
đường chân chính.

- Tính giáo dục: Báo chí Phật giáo đã tác động, truyền bá những tư tưởng đạo
đức nhằm giáo dục nhân cách sống cho muôn dân.

Như vậy cũng đủ cho chúng ta thấy rằng Phật giáo luôn hòa nhập với đời
sống nhân dân, được quần chúng nồng nhiệt đón nhận, thực hiện đúng đắn và đã
mang lại nhiều thành quả tốt đẹp cho đời sống nhân sinh.

Có thể mượn lời của Xuân Thanh đã viết trong Viên âm số 6 năm 1935 về đề
tài Một nhà chơn chính học Phật là một nhà đại lao động giữa xã hội để kết luận:
“Kinh Pháp Hoa có nói: “Trong thế gian, dầu việc ăn làm, khoa ngôn ngữ, chính trị
đều là Phật pháp cả”. Như vậy, thì đủ biết Phật pháp không ngoài thế gian mà chính
ở trong thế gian vậy”.
123

TIỂU KẾT

Nhìn tổng thể ta thấy hầu như báo chí Phật giáo trước 1945 đều chú trọng
việc nghiên cứu giáo lý, đồng thời xây dựng chương trình Phật học phổ thông cho
quần chúng, gồm các mục kinh điển, lịch sử Phật giáo, Phật học căn bản, Phật học
vấn đáp, dịch kinh, luận giải Phật pháp v.v.. Đặc biệt, với mục đích giáo dục quần
chúng, báo chí Phật giáo lúc bấy giờ quan tâm nhiều đến việc truyền bá những tư
tưởng đạo đức như từ bi, hiếu đạo, lợi tha, nhẫn nhục, tinh tiến v.v.. Chính lối
truyền bá Phật học cơ bản, phù hợp với căn cơ, trình độ của quần chúng nhân dân
đã tạo cơ hội tốt để đưa Phật giáo đến gần với con người hơn.

Ngoài ra, việc truyền bá Phật học lúc bấy giờ có phần sôi nổi hơn qua những
cuộc trao đổi, tranh luận liên hệ đến triết học Phật giáo và nhận thức luận. Những
vấn đề được đặt ra như Thượng đế sáng tạo, linh hồn bất tử, Cực lạc, địa ngục và
vấn đề tồn tại của ngoại giới, là những vấn đề được chú trọng đến nhiều nhất, thu
hút sự quan tâm của giới trí thức Phật giáo và cả dư luận xã hội. Những cuộc tranh
luận, thảo luận này đã chứng minh cho quần chúng các giới thấy được triết lý Phật
giáo rất phù hợp với khoa học. Đây cũng chính là làn sóng mạnh mẽ lôi cuốn quần
chúng tìm hiểu và thực hành theo Phật pháp, góp phần xây dựng đời sống cá nhân,
gia đình và xã hội ngày càng an lành, rạng rỡ hơn.

Báo chí Phật giáo trước 1945 còn cho chúng ta thấy sự gắn bó giữa Phật giáo
với dân tộc và với đại chúng qua lối truyền bá phổ thông, gần gũi. Những giá trị
Phật học lúc bấy giờ vừa mang ý nghĩa giáo dục, vừa hun đúc tinh thần văn hóa dân
tộc, yêu quê hương đất nước.

Hơn thế nữa, những bài Phật học căn bản về triết lý đạo đức và cả những bài
viết với nội dung tranh luận về Thượng đế, linh hồn, Cực lạc… trên báo chí lúc bấy
giờ, nhìn chung đều là những bài văn nghị luận với nghệ thuật diễn tả khá sắc sảo,
lối hùng biện đanh thép. Cho nên có thể nói những tác phẩm Phật học vừa mang giá
trị Phật học, vừa có giá trị văn học.

Báo chí Phật giáo lúc bấy giờ đã đáp ứng đầy đủ nhu cầu tìm hiểu, học hỏi
Phật pháp cho mọi tầng lớp độc giả và đóng góp công sức không nhỏ cho con
124

đường hoằng dương chánh pháp đầu TK.XX. Ngay trong cuộc sống hiện tại, con
người có thể ứng dụng giáo lý Phật giáo nhằm xây dựng đời sống văn hóa, kinh tế,
chính trị… ngày càng tốt đẹp hơn.

Nói chung, Phật học trên báo chí Phật giáo trước 1945 đã mở ra cho quần
chúng sự hiểu biết căn bản về đạo lý sống , chuyển hóa được
tầm nhìn của tín đồ từ mê tín thành chánh tín. Vì vậy, có thể khẳng định Phật học
giai đoạn này là chiếc cầu nối giữa văn hóa truyền thống và đạo lý chân chính, góp
phần ổn định xã hội và đấu tranh vì hòa bình độc lập của cả dân tộc.
125

Chƣơng 3

VĂN HỌC TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO VIỆT NAM


TRƢỚC 1945

3.1. TỔNG QUAN VỀ VĂN HỌC TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO TRƢỚC 1945

Trong khoảng hai thập niên đầu TK.XX, khi nhiều tờ báo bằng chữ Quốc
ngữ lần lượt ra đời, thì các thể loại thơ ca và truyện cũng có điều kiện phát triển.
Đặc biệt, sự ra đời của các tờ báo như Nông cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn, Công
luận báo, Phụ nữ tân văn… đã dẫn đến sự xuất hiện của một đội ngũ nhà văn, nhà
thơ kiểu mới: sáng tác bằng chữ Quốc ngữ theo các thể loại văn học phương Tây.
Nhiều nhà văn nổi tiếng như Trần Chánh Chiếu, Hồ Biểu Chánh, Lê Hoằng Mưu,
Phú Đức, Bửu Đình… trước khi là nhà tiểu thuyết đã là các nhà báo. Hầu hết các
tác phẩm của họ đã được in nhiều kỳ trên báo chí, sau đó mới xuất bản thành sách.
Báo chí Quốc ngữ là môi trường tốt cho các nhà văn rèn luyện ngòi bút của mình,
đồng thời quan niệm văn học mới, các thể loại văn học mới… cũng được hình thành
từ đây.

Trong quá trình hình thành và phát triển của báo chí Việt Nam đầu TK.XX,
có sự hiện hữu và đóng góp không nhỏ của báo chí Phật giáo như trên đã nói.
Những tờ tạp chí, tờ báo Phật giáo lúc bấy giờ đều hướng về mục đích truyền tải tư
tưởng Chấn hưng Phật giáo và những tư tưởng giáo lý Phật học căn bản. Hầu như
không có tạp chí Phật giáo nào thiên hẳn về văn chương, nhưng mỗi tạp chí đều
dành đất cho sáng tác văn học với các thể loại thơ và văn xuôi. Những thể loại văn
xuôi gồm có truyện ký, truyện ngắn, tùy bút, tiểu thuyết và xã luận.

Mười lăm tạp chí, tờ báo Phật giáo chúng tôi khảo sát, có 10 tạp chí: Từ bi
âm, Viên âm, Duy tâm Phật học, Tiếng chuông sớm, Bồ đề, Bát nhã âm, Pháp âm
Phật học, Tam bảo, Tiến hóa, Quan âm và một tờ báo Đuốc tuệ có đăng thơ và văn
xuôi (xem phụ lục 3, 4). Văn học đã chiếm một vị trí khá quan trọng trên các trang
báo ấy và góp phần tích cực vào công cuộc truyền bá Phật giáo, phát huy văn hóa
dân tộc cũng như cuộc đấu tranh giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Nghiên cứu văn
126

học trên báo chí Phật giáo trước 1945 sẽ góp phần hoàn chỉnh bức tranh chung về
hiện đại hóa văn học Việt Nam nửa đầu TK.XX.

Khảo sát 166 số tạp chí Từ bi âm (từ số 2 đến số 167), chúng tôi thống kê
được 20 bài thơ của các tác giả: Liên Tôn, Kim Xuân, Nguyễn Văn Xứng, Mật Khế,
Trí Độ, Sa môn Tâm Tường, Bích Phong, Võ Thành Hay, Đinh Chí Nghiêm, Trang
Quảng Hưng, HT. Bích Liên... Thơ đa phần mang nội dung chúc mừng sự ra đời
của tạp chí Từ bi âm, đề vịnh danh lam cổ tự và khuyên răn mọi người làm điều tốt.

Phần văn xuôi, chúng tôi thống kê được 40 tác phẩm, trong đó gồm 19
truyện ký, 13 truyện ngắn và 8 tiểu thuyết. Đặc biệt, từ số 2 đến số 32, Từ bi âm đã
liên tục đăng Lược truyện Phật Thích Ca Mâu Ni từ khi Đản sinh cho đến lúc nhập
Niết bàn, là một tác phẩm dài có giá trị, đầy đủ ý nghĩa về cuộc đời Đức Phật Thích
Ca.

Tám tác phẩm tiểu thuyết là: Tu là cội phước, tình là dây oan và Hiếu nghĩa
cảm Phật của Liên Tôn, Dưới chơn Phật của Kim Xuân, Duyên trước tình sau của
Chánh Niệm, Sám hối được sanh về Thiên đường của HT. Bích Liên, Tưởng Phật
có Phật và Từ bi chỉ mối nhơn duyên của Nguyên Bản, Gương quả báo của Nguyễn
Văn Nhơn. Có thể nói, tác phẩm nào cũng có ý nghĩa, giá trị trong việc nêu lên triết
lý đạo đức Phật giáo, khuyên mọi người bỏ điều ác làm điều lành.

Bên cạnh đó, 13 tác phẩm truyện ngắn trong Từ bi âm cũng thu hút sự chú ý
của người đọc bởi nội dung đặc sắc và mang tính giáo dục cao. Trong 13 tác phẩm
đó, Thiện Dụng đã viết 5 truyện: Nhờ vợ tu hành mà chồng khỏi đọa, Một nàng con
gái 13 tuổi ngộ đạo, Nhờ đuốc tuệ ra khỏi đường mê, Lòng từ bi cảm đến loài vật,
Phật hóa độ người có duyên lành. Tám tác phẩm còn lại là của những tác giả khác,
gồm: Bỏ Nho đầu Phật của Minh Tịnh, Làm lành đặng phước, làm dữ bị họa của
Nguyễn Văn Hạp, Sự tích nàng Mãn Lịnh Tông của Nhựt Chánh, Hại người tức là
hại mình của Bình Tháp, Gương nhân quả: Có vay phải có trả của Từ Ân, Gương
nhân quả: Người đức độ thêm thọ được con của Nguyên Bản và hai tác phẩm
Gương nhân quả của Thiện Minh.
127

Thơ trên tạp chí Viên âm không được phong phú và đăng tải chưa thường
xuyên. Chúng tôi đã khảo sát 129 số, bắt đầu từ số 1 nhưng chỉ tìm thấy được vài
mươi bài thơ: Chùa Non Nước, Mừng Viên âm ra đời, Khuyên đọc Viên âm, Vịnh
cảnh chùa Trúc Lâm, Mừng Tết, Đề chùa Linh Mụ (Huế), Khuyên người, Cùng bạn
chung thuyền chơi Túy Vân, Ngủ lại chùa Túy Vân, Chơi núi Thiên Thai, Khuyên
tu… Những tác giả tiêu biểu có: Tâm Bình, Lục Vân, Nguyễn Bích Phong, Cổ Mai,
T.T.T, Quật Đình, Thanh Tâm v.v..

Phần văn xuôi trên Viên âm cũng chỉ thấy có 12 tác phẩm, trong đó có 7 tiểu
thuyết, 1 truyện ngắn, 3 truyện ký và một tùy bút. Mỗi tác phẩm là một bài học giáo
dục nhân cách rất thiết thực và có ý nghĩa theo tinh thần giáo lý nhà Phật. Riêng từ
số 1 đến số 16, Viên âm cho đăng Sự tích Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nhưng không
được đầy đủ như các tạp chí khác.

Khảo sát 230 số báo Đuốc tuệ, chúng tôi thấy đây là tờ báo chú trọng khá
nhiều tới mảng “Văn uyển”. Số thơ thống kê được khoảng 84 bài của Sa môn Thái
Hòa, Nguyễn Thiện Chính, Bùi Đức Triệu, Nguyễn Thượng Cần, Phạm Thanh Sắc,
Đặng Ngọc Oanh, Huyền Am, Nhàn Vân Đình, Nguyễn Văn Hựu, Huyền Am,
Thanh Giản, Lương Duyên Tuệ, Trịnh Như Tấu, Thanh Bảo, Nguyễn Bá Trọ,
Nguyễn Hữu Bồng, Tử An Trần Lê Nhân, Nguyễn Cao Sơn, Sa môn Ngọc Thụ, Trí
Hải, Trần Văn Đại, Ngô Huy Sắc, Công Chân, Thanh Phương… Trong đó, Nguyễn
Thiện Chính là người nổi bật, với hơn 40 bài thơ.

Về văn xuôi, báo Đuốc tuệ đã đăng 32 tác phẩm, gồm: 16 truyện ký, 11
truyện ngắn, 4 tiểu thuyết và 1 tùy bút. Như vậy truyện ký chiếm số lượng nhiều
nhất. Nội dung những tác phẩm văn xuôi trên báo Đuốc tuệ đều thể hiện triết lý nhà
Phật, lịch sử Phật giáo, đặc biệt là nói lên triết lý nhân quả và khuyên mọi người
làm điều tốt, bỏ điều xấu. Những tiểu thuyết nổi bật gồm: Oán thù bình đẳng của
Quảng Tràng Thiệt, Thế cũng là “ngộ đạo” của Đ.N.T, Nhân quả của Nguyễn
Thiện Chính, Trầm luân của Thanh Đương Thuật. Những tác giả viết về truyện ký
và truyện ngắn tiểu biểu có: Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Thiện Chính, Thiện Bảo,
sa môn Tố Liên, Thanh Đương Thuật, Trần Mạnh Đàn… Đặc biệt còn có một số vị
đã dịch những tác phẩm có giá trị, như sa môn Trí Hải, sa môn Thái Hòa, Nguyễn
128

Thượng Cần dịch những câu chuyện trong kinh Phật; Thiều Chửu dịch tác phẩm
Tây vực ký v.v..

Khảo sát 43 số của tạp chí Duy tâm Phật học, chúng tôi thấy tạp chí này ít
đăng tải văn học hơn những tạp chí khác, chỉ có 14 tác phẩm thơ và 2 tác phẩm văn
xuôi của các tác giả: Liễu Không, Võ Thái Hữu, Nguyễn Bá Đạt, Bích Khê, Đặng
Văn Long, Khánh Vân, Hải Giác v.v..

Tìm hiểu 23 số của tạp chí Tiếng chuông sớm, chúng tôi thống kê được 46
tác phẩm thơ và 10 tác phẩm văn xuôi. Điều đáng nói, tạp chí này đăng rất nhiều
thơ. Chỉ 23 số thôi mà đã có 46 bài thơ, khá nhiều so với những tạp chí khác. Trong
10 tác phẩm văn xuôi thì có 5 truyện ký của các tác giả: Tản Đà, Hội Sơn, Mai
Đăng Đệ; 4 truyện ngắn của Mộng Vân và 1 tác phẩm tiểu thuyết Nam Du Ký cũng
do Mộng Vân dịch.

Khảo sát 8 số tạp chí Bát nhã âm, không thấy có tác phẩm văn xuôi nào, chỉ
có thơ bắt đầu đăng từ số 14, ra ngày 15.04.1939. Những nhà thơ nổi bật có Thiện
Quang, Nguyễn Thiện Chánh, Đỗ Phước Tâm, Trí Quang. Tuy nhiên, hầu như sáng
tác thơ trên Bát nhã âm đều là những tác phẩm kinh điển nhà Phật được chuyển
thành dạng thơ, để giúp cho tín đồ dễ đọc tụng và dễ nhớ, như Đỗ Phước Tâm đã
diễn nghĩa Đại Phương Tiện Phật Báo Ân Kinh, Hồng danh Bửu sám (Sám hối văn),
Sám Khể thủ, Sám đưa linh… là những bài sám để tụng đọc trong thời kinh của các
nhà chùa.

Tìm hiểu tạp chí Tam bảo qua 23 số, bắt đầu từ số 1 ra ngày 15.1.1937,
chúng tôi thống kê được 8 tác phẩm thơ có giá trị của những tác giả: Như Như, Giác
Phong, Từ Pháp. Trong tạp chí này, về văn xuôi chỉ thấy đăng Truyện Cao tăng
nước Việt Nam của T.B, còn tiểu thuyết, trên số 1 có đăng tác phẩm Tốt đỏ tốt trắng
của An Xuyên Tư.

Khảo sát những tạp chí Bồ đề, Pháp âm Phật học và Tiến hóa, chúng tôi thấy
các tác phẩm thơ hay văn xuôi thỉnh thoảng mới được đăng tải. Những tác giả tiêu
biểu trên tạp chí Bồ đề có Văn Thị Nga; tạp chí Pháp âm Phật học có T.H, Trần
Văn Minh, Bạch Vân, Diệu Phước; tạp chí Tiến hóa có Thanh Đàm…
129

Tạp chí Quan âm với phần “văn uyển” khá phong phú, đăng tải nhiều sáng
tác thơ ca với nội dung thể hiện lòng mến mộ Phật pháp, lòng yêu quê hương đất
nước. Tìm hiểu qua 11 số tạp chí Quan âm, bắt đầu đầu từ số 22 đến số 33, chúng
tôi đã thống kê được 37 bài thơ và 16 tác phẩm văn xuôi. Những nhà thơ tiêu biểu
có: Văn Thị Nga, Song Châu, Tri Huyền Tử, Thu Tâm, Văn Chính, Lương Văn
Tích, Phan Thanh Diễn, Hoan Ảnh, Mỹ Châu, Lương Văn Tích, Minh Châu, Vương
Linh, Phi Hùng, Long Giang, Trần Văn Thanh, K.H, Thiện Phú, Kim Giai, Thiện
Bảo… Trong đó, tác giả đóng góp nhiều nhất về mảng thơ là Thiện Bảo. Trong số
37 bài thơ thống kê được thì Thiện Bảo đã có 12 bài. Ngoài ra, những tác giả như
Văn Tích và K.H cũng có những đóng góp đáng kể.

Về 16 tác phẩm văn xuôi, có: 8 bài xã luận, 4 tùy bút, 4 truyện ngắn và
không thấy có tiểu thuyết nào. Những tác giả tiêu biểu có: Song Châu, T.V, Trương
Vĩnh Ký, Lệ Châu, Tri Huyền Tử, K.H, Xuân Mai, Th.M, Hoan Ảnh…

Chúng tôi chỉ mới tìm hiểu được 11 số của tạp chí Quan âm, đã thấy những
sáng tác thơ, văn xuôi được đăng tải khá phong phú. Điều đó cho thấy sự quan tâm
và chú trọng của báo chí Phật giáo nói chung và tạp chí Quan âm nói riêng đối với
mục văn uyển. Hơn nữa, nó cũng cho thấy sự quan tâm và yêu mến rất nhiều của tác
giả đối với văn học Phật giáo.

Qua số lượng tác phẩm thơ, văn xuôi trên mỗi tạp chí thống kê được đã cho
thấy sự tiếp nối của văn học Phật giáo được thể hiện khá phong phú trên báo chí
Phật giáo trước 1945. Với mục đích tải đạo, truyền giảng giáo lý Phật giáo, những
tác phẩm văn học Phật giáo ấy đồng thời đã góp phần không nhỏ vào quá trình phát
triển chữ Quốc ngữ và kiến tạo nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự góp mặt đầy đủ
của các thể loại thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, tùy bút, ký… và một số lượng lớn tác
phẩm văn học trên đã khẳng định sự tồn tại, phát triển của một bộ phận văn học
Phật giáo trên báo chí Phật giáo Việt Nam trước 1945.

Đồng thời, tìm hiểu tổng quát về văn học trên báo chí Phật giáo giai đoạn
này, có thể thấy báo chí đương thời đã quan tâm chuyển tải văn học Phật giáo đến
với quần chúng nhân dân. Hầu như tạp chí nào cũng đề cập đến thơ và văn xuôi với
mức độ nhiều ít khác nhau. Phần lớn những bài thơ, truyện ngắn, truyện ký, tùy bút,
130

tiểu thuyết hay xã luận đăng báo đều chứa đựng nội dung giáo dục Phật giáo. Hơn
nữa, những nhà văn, nhà thơ được liệt kê trên cho thấy số lượng tác giả tham gia
viết bài cũng khá đông. Nhìn chung, họ là những người có tâm huyết với đạo pháp
và dân tộc.

3.2. DỊCH KINH PHẬT - MỘT LOẠI HÌNH DỊCH VĂN HỌC ĐẶC BIỆT

Kinh Phật có thể xếp vào loại sách tôn giáo, triết học, nhưng nhìn từ phương
diện khác thì đó cũng là các tác phẩm văn học, vì rất nhiều bộ kinh, trang kinh được
viết với tư duy hình tượng phong phú như những tác phẩm văn xuôi nghệ thuật,
ngôn từ trau chuốt, có tính mỹ văn rất cao. Vì vậy dịch kinh Phật không phải là
công việc khoa học đơn thuần mà có thể coi như dịch văn học - một loại hình văn
học đặc biệt: văn học Phật giáo.

Kho tàng văn học Phật giáo được hình thành từ nguồn Tam tạng kinh điển
Phật giáo (Kinh, Luật, Luận). Hệ thống Tam tạng kinh điển này thật phong phú,
được hình thành từ nhiều bài pháp thoại do đức Phật lúc còn tại thế đã thuyết giảng
ở các nơi cho mọi tầng lớp, mọi đối tượng từ vua quan đến dân chúng. Điểm minh
chứng xác thực nhất cho biết đó là những lời Phật nói ra được thể hiện bằng câu

“如是我聞” (Như thị ngã văn - Tôi nghe như vầy), ý muốn chỉ ra rằng kinh điển

Phật giáo là do chư Thánh đệ tử đã trực tiếp lắng nghe từ đức Phật và sau này được
tụng đọc lại trong các kỳ kết tập:

“Có thể nói, trải qua 4 kỳ kết tập kinh điển, tình hình văn bản kinh điển
Phật giáo được y cứ từ hệ thống Tam tạng kinh điển đã được định hình và
phát triển ít nhất trong khoảng thời gian 3 thế kỷ đầu ở Ấn Độ, từ thời Phật
tại thế đến thời Asoka (A Dục), sau đó lan tỏa phát triển tại Tích Lan và các
nước trong khu vực với những đặc trưng riêng biệt của các thành tố văn học
Phật giáo như ngôn ngữ, thủ pháp nghệ thuật, đặc biệt là thể loại” [29].

Ngày nay, chúng ta thấy Phật giáo được xem là một tôn giáo có hệ
thống Tam tạng kinh điển vĩ đại hơn cả so với các tôn giáo khác. Từ đây, văn học
Phật giáo có thể hiểu theo hai phương diện: một là các tác phẩm chuyên về Phật học
131

(kinh điển), là loại văn học Phật giáo thuần túy; hai là những áng văn chương chịu
ảnh hưởng Phật giáo.

Trong giáo lý Phật giáo, kinh điển chiếm số lượng rất nhiều và khá đa dạng.
Có những bản kinh viết theo dạng Ứng tụng, tức là ghi lại lời đức Phật dạy theo thể
tản văn; viết theo lối Kệ tụng, là ghi lại lời đức Phật theo thể thơ kệ; hay viết theo
thể loại Giải thuyết, là ghi chép lại những điều luận giải về chính pháp của đức Phật
v.v.. Báo chí Phật giáo trước 1945 đã nắm bắt được tình hình thực tế của tín đồ đa
phần chưa hiểu nhiều về chính pháp, nên hầu như đều truyền bá những kinh điển đã
được dịch sang chữ Quốc ngữ với nhiều thể loại khác nhau.

Dịch thuật đóng vai trò rất quan trọng trong nền văn hóa của một nước. Qua
phiên dịch, ta nhận ra những đặc điểm cơ bản của một nền văn hóa trong quá trình
phát triển. Tuy nhiên, trong từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử của một nền văn
hóa, vai trò của phiên dịch không giống nhau.

Dịch thuật ở Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu TK.XX có vai trò đặc
biệt quan trọng trong lịch sử văn hóa Việt Nam. Trong ba mươi năm đầu TK.XX,
việc phiên dịch ở Việt Nam phản ánh đặc điểm chung của nhiều nền văn hóa
phương Đông trong buổi đầu tiếp xúc với phương Tây qua việc chuyển tải những
yếu tố ngoại sinh, góp phần tạo nên bước chuyển biến về chất, thúc đẩy quá trình
hiện đại hóa.

Tính đặc thù của việc phiên dịch văn học trong giai đoạn này ở Việt Nam là
sự chuyển đổi dần vai trò chủ đạo của văn tự từ hệ chữ viết khối vuông (Hán, Nôm)
sang hệ mẫu tự Latin (từ đây gọi là chữ Quốc ngữ) trong đời sống văn hóa - xã hội
Việt Nam. Trong xã hội Việt Nam những năm đầu TK.XX, chữ Quốc ngữ không
chỉ là phương tiện để chuyển tải những yếu tố văn hóa ngoại sinh - yêu cầu tất yếu
đối với quá trình hiện đại hóa văn hóa - mà còn là nhịp cầu kết nối với văn hóa
truyền thống, góp phần khơi dậy những yếu tố nội sinh làm nền tảng cho quá trình
hiện đại hóa. Do vậy, việc dịch thuật văn học gắn với yêu cầu xã hội hóa chữ Quốc
ngữ giờ đây còn đáp ứng nhu cầu đọc hiểu của công chúng, để theo kịp đà tiến hóa
văn minh.
132

Để phổ biến chữ Quốc ngữ và đáp ứng nhu cầu của công chúng, từ cuối thế
kỷ XIX đến những năm đầu TK.XX, các nhà văn, các học giả đã tập trung dịch các
loại sách có từ truyền thống như: kinh sách Hán văn, các truyện Nôm Việt Nam, các
loại truyện thơ khuyết danh, và sau đó là phong trào dịch tác phẩm văn học cổ điển
của Trung Quốc (phần lớn là tiểu thuyết chương hồi). Tình hình này phổ biến trên
cả nước, trên các tờ báo và sách in. Bên cạnh đó, văn học phương Tây (chủ yếu là
văn học Pháp) được dịch và giới thiệu là những tác phẩm, tác giả trước thế kỷ XIX,
thuộc trào lưu cổ điển, trào lưu hiện thực và trào lưu lãng mạn.

Những điều trên cho thấy, trong chặng đầu của tiến trình hiện đại hóa văn
học, cũng như mọi Quốc gia khác, nước ta đã trải qua các hoạt động như: dịch thuật,
thể nghiệm các thể loại mới, xác lập quan niệm văn học, hình thành thị hiếu thẩm
mỹ mới, lực lượng nhà văn mới và công chúng mới… Nhưng Việt Nam vẫn có một
số nét riêng: hoàn thiện chữ viết (chữ Quốc ngữ) và nhiệm vụ giành độc lập dân
tộc.

Trước tình hình đó, phong trào Chấn hưng Phật giáo trong những năm đầu
TK.XX cũng rất quan tâm đến việc chuyển dịch kinh Phật. Vì kinh điển Phật giáo
nước ta lúc bấy giờ đa phần là chữ Hán, rất trở ngại cho sự phát triển Phật giáo Việt
Nam trong giai đoạn cận hiện đại; cho nên việc chuyển dịch kinh Phật qua tiếng
Việt là điều rất trọng yếu, mà những ai có tâm huyết hoằng dương chính pháp tại
Việt Nam cần phải quan tâm hàng đầu.

Nguyễn Trọng Thuật đã cho thấy tầm quan trọng của kinh sách Phật giáo
bằng chữ Quốc ngữ đối với Phật giáo và xã hội Việt Nam lúc bấy giờ như sau: “Sự
nhu cầu kinh sách bằng Quốc văn của quốc dân hiện nay thật không khác chi đói
mong ăn, khát mong uống, ốm mong thuốc, tối mong đèn, vì từ khi Hán học giảm
dần, tinh thần đạo đức, nghĩa lý tinh vi ẩn mật, nhân tâm biến đổi, thế đạo suy vi,
cương thường rối loạn, tà thuyết thịnh hành, Phật giáo cũng vì đó mà ảnh hưởng
một phần rất lớn, đã thành ra cái đạo có sắc không hồn, số tín đồ tuy đông mà rất ít
người hiểu…” [F, số 113, tr.27].

Ý thức được điều này, nhiều học giả, nhà nghiên cứu, nhà tu hành đã để tâm
rất nhiều và họ trực tiếp tham gia chuyển dịch nhiều bản kinh có giá trị của Phật
133

giáo như kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Địa Tạng, Kim Cang Bát Nhã v.v.. từ chữ
Hán sang ngôn ngữ Việt, để Phật giáo Việt Nam có những bản kinh bằng tiếng Việt,
giúp giới học Phật có thể đọc hiểu một cách dễ dàng những lời Phật dạy mà ứng
dụng tu tập. Cũng từ đó mà văn học Phật giáo Việt Nam lại càng nở rộ hơn bao giờ
hết với các tác phẩm phiên dịch kinh điển từ chữ Hán sang tiếng Việt và những sáng
tác văn thơ bằng Quốc ngữ của nhiều vị tăng, ni và văn thi sĩ Phật tử chịu ảnh
hưởng tinh thần Phật giáo.

Quá trình dịch thuật này đã góp phần to lớn trong việc hiện đại hóa chữ Quốc
ngữ, đem đến cho dân tộc Việt Nam những tác phẩm văn học có ý nghĩa. Hơn nữa,
nội dung của các bản kinh và thơ văn Phật giáo được dịch thuật ấy bước đầu là giáo
dục đạo đức, khuyên dạy con người hướng thiện, chu toàn trách nhiệm với gia đình,
xã hội; sau đó chú trọng đến việc dẫn dắt tâm linh hướng về con đường giải thoát
chân chính của Phật giáo. Chính vì thế, nên xem việc dịch kinh Phật là một loại
hình dịch văn học đặc biệt. Những bản dịch ấy đều được các tạp chí Phật giáo
đương thời ưu tiên đăng tải nhiều kỳ trên các trang báo, ngõ hầu phổ biến rộng rãi
khắp trong quần chúng, giúp cho các tín đồ có cơ hội tiếp cận và nghiên cứu.

Bồ đề tạp chí, ngay những số đầu tiên đã đăng bài kinh Bát Đại Nhân Giác
do P.C dịch sang chữ Quốc ngữ.

Nguyên nhân Phật nói kinh này là do tôn giả A Na Luật hỏi Đức Phật về vấn
đề những Phật tử tại gia học đạo, họ làm thế nào để cầu được giác ngộ, chứng nhập
Niết bàn. Đức Phật trả lời vấn đề đó là phải học hạnh Đại nhân (Bồ tát). Qua đó,
Đức Phật đã vì tôn giả A Na Luật mà nói tám điều của bậc Đại nhân (kinh Bát Đại
Nhân Giác).

Bài kinh này do ngài An Thế Cao, người nước An Tức (nước Ba Tư hiện nay)
sang Trung Hoa vào đời Hậu Hán ở kinh đô Lạc Dương trích dịch từ tiếng Phạn
sang tiếng Hán. Nhân thấy được toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức
con người sớm được giác ngộ, mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới
cứu được mọi khổ đau của chúng sinh và với tâm nguyện muốn cứu khổ chúng sinh,
ngài An Thế Cao đã trích dịch tám điều giác ngộ của chư Phật, Bồ tát và các bậc
Đại nhân mà biên thành quyển kinh Bát Đại Nhân Giác.
134

Kinh Bát Đại Nhân Giác với nội dung ngắn gọn, chỉ rõ cuộc sống vô thường,
thay đổi liên tục, nhằm nhắc nhở con người không nên đắm nhiễm vào những vật
chất tạm bợ. Chỉ có con đường tu tập, đoạn trừ mọi luyến ái, tham chấp thì con
người mới có cuộc sống an lạc. Ngày nay, các chùa ở Nam bộ, hầu như hằng ngày
đều đọc tụng bản kinh Bát Đại Nhân Giác này. Có chùa đọc vào buổi sáng sớm, có
chùa đọc sau khi điểm tâm sáng.

Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, là bộ kinh có giá trị sâu sắc về tinh
thần hiếu đạo, đã được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Tiếng chuông sớm.

Nhân duyên trong một lần ngài A Nan vào thành Vương Xá khất thực, thấy
một người dòng Bà la môn 4 gặp lúc gia cảnh nghèo nên cũng phải dắt mẹ già đi xin
ăn. Khi được thức ăn ngon thì Bà la môn dâng mẹ, còn những thức ăn dở để mình
dùng. Ngài A Nan bèn lên tiếng khen ngợi người này. Lúc đó cũng có Phạm Chí, là
đồ đệ của bọn Lục Sư ngoại đạo 5 , vốn từ lâu đã thấy Phật và Tăng chúng được
nhiều người kính trọng nên sanh lòng ganh ghét và nhân lúc nghe ngài A Nan khen
Bà la môn ấy, Phạm Chí bèn lên tiếng phỉ báng. Ông chỉ trích ngài A Nan rằng thầy
của Ngài - Cồ Đàm là người bạc phúc, vừa sinh ra đã mất mẹ, lớn lên vượt thành
xuất gia làm cho vua cha phải khổ não, gào khóc thảm thương; lại còn bỏ vợ con,
làm cho vợ phải khổ. Cồ Đàm vừa là người bất hiếu, bất nghĩa, bội bạc, vậy mà
cũng tự cho là có công đức. Ngài A Nan không trả lời được, rất hổ thẹn, nên khất
thực xong, Ngài liền trở về bạch hỏi Đức Phật mọi chuyện.

Để khiến các ngoại đạo xóa bỏ đi quan niệm phê phán việc xuất gia đi tu của
Đức Phật Thích Ca là: “Bất hiếu với cha mẹ, bất nghĩa với vợ, là bội bạc, chẳng biết
ân nghĩa”, đồng thời để cho các đệ tử hiểu rõ nguyên do tu hành, sự báo ơn và công
năng tu tập cho được thành tựu quả vị Bồ đề, Đức Phật đã nói kinh Đại Phương
Tiện Phật Báo Ân. Nội dung kinh kể về những việc tu hạnh nhẫn nhục, thí xả thân
mạng của Đức Phật để đền ơn cha mẹ và ơn chúng sinh.

4
Bà la môn: Là danh từ chỉ một đẳng cấp, một hạng người tại Ấn Độ ngày xưa. Thuộc về đẳng cấp
Bà la môn là các tu sĩ, triết gia, học giả và các vị lãnh đạo tôn giáo. Dân chúng Ấn Độ rất tôn trọng
đẳng cấp này.
5
Lục Sư ngoại đạo: Sáu vị luận sư lớn chủ trương lý thuyết trái với Phật pháp ở miền Trung Ấn Độ
vào thời Phật Thích Ca Mâu Ni.
135

Tạp chí Tam bảo đã đăng bộ kinh Địa Tạng do HT. Bích Liên dịch qua
nhiều số. Kinh này do Đức Phật Thích Ca diễn nói tại cung trời Đao Lợi 6 , nơi mà
Thánh Ma Gia, thân mẫu của Đức Phật đã thác sanh về đây sau khi hạ sanh Đức
Phật được 7 ngày. Trước khi nhập Niết Bàn, vì cảm ơn đức sinh thành, Đức Phật đã
diễn nói kinh Địa Tạng tại Pháp hội ở cung trời này. Như vậy, kinh Địa Tạng ra đời
trước tiên là do lòng hiếu thảo của Đức Phật đối với bậc sinh thành, Ngài đã nghĩ
tưởng đến mẹ khi biết rằng mình sẽ không còn sống ở đời bao lâu nữa nên đã lập
Pháp hội tại cung trời Đao Lợi để độ thoát cho thân mẫu.

Nội dung chính yếu của kinh Địa Tạng là xoay quanh chữ Hiếu, nói lên
những bổn phận, nghĩa vụ của người còn sống đối với người đã chết, cũng như nêu
rõ những tội phúc quả báo ở kiếp sống sau khi chết. Người Phật tử nương theo kinh
này cùng dựa vào oai lực độ trì, gia hộ của Bồ tát Địa Tạng mà tu tập, hầu độ thoát
cho chính mình, cho người thân cũng như tất cả chúng sinh đã quá vãng khỏi rơi
vào con đường ác.

Hiện nay, các tín đồ Phật giáo Việt Nam khắp mọi miền, mỗi khi trong gia
đình có người thân qua đời, đều đến nhờ nhà chùa tụng kinh Địa Tạng để cầu siêu
độ cho vong hồn được sớm siêu thoát về cõi an vui. Đặc biệt, các chùa từ Bắc vào
Nam, hầu như nơi nào cũng đều đọc tụng kinh này vào tháng 7 âm lịch hằng năm,
nhằm mục đích cầu siêu cho các vong hồn chưa được siêu thoát.

Tạp chí Từ bi âm số 27 thì đăng bộ kinh Kim Cang Bát Nhã do Trí Độ dịch
ra quốc ngữ và diễn nghĩa rất rõ ràng.

Kinh Kim Cang Bát Nhã là quyển thứ 577 trong sáu trăm quyển của bộ Ðại
Bát Nhã, do Phật thuyết nơi vườn Cấp Cô Độc. Phật nói trọn bộ Ðại Bát Nhã, tính
tổng cộng trong 22 năm.

Kinh Kim Cang Bát Nhã hay còn gọi là Kim Cang Bát Nhã Ba la mật đa là
kinh nói về “Trí tuệ Phật” (Bát nhã), loại Trí tuệ đã rốt ráo viên mãn (Ba la mật). Trí
tuệ này có công năng đưa hành giả từ bến mê muội khổ đau của chúng sinh, sang bờ
giác ngộ giải thoát của chư Phật (đáo bỉ ngạn).

6
Trời Đao Lợi: Từ điển Phật học Huệ Quang (tập II, tr.1391) ghi: Trời Đao-lợi (S.Trayastrimsa,
P.Tavatimsa, Hán. Đao lợi thiên, Tam thập tam thiên), là tầng trời thứ 2 trong 6 tầng trời ở cõi Dục.
136

Trí tuệ Phật (Bát nhã) rất quý báu (như ngọc kim cương), vừa cứng rắn và
sắc bén (như thép), có thể phá tiêu núi vô minh vọng chấp (ngã, pháp hay bốn tướng)
và đốn tận gốc rừng phiền não nghiệp chướng, từ vô lượng kiếp đến nay mà không
bị hư tổn; cũng như ngọc kim cương hay chất thép, có thể đục chẻ các loại rất cứng,
như sắt, đá v.v.. mà không bị hư hoại.

Kinh Kim Cang Bát Nhã, mở đầu mà cũng là trọng tâm của kinh bằng hai
câu hỏi của ông Tu Bồ Đề:

“Vân hà ưng trụ?


Vân hà hàng phục kỳ tâm?”

Nghĩa là:

“Làm sao an trụ tâm, làm sao hàng phục tâm?”.

Toàn bộ kinh Kim Cang Bát Nhã, Phật chỉ giải đáp hai câu hỏi trên, tóm tắt
lại chỉ trong một câu: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”. Nghĩa là: “Đừng sinh vọng
tâm bám víu, chấp vào một nơi nào”. Đây là câu “tinh hoa” của bộ kinh Kim Cang
Bát Nhã, mà ngày xưa đức Lục tổ Huệ Năng nhờ đó đã được tỏ ngộ và Trần Thái
Tông cũng ngộ nhờ câu kinh này.

Đuốc tuệ số 123, ra ngày 01.01.1940 đã đăng bộ Bát Nhã tâm kinh trực giải
và liên tục triển khai cho đến số 130 mới kết thúc. Đồng thời, Viên âm số 1 - 1934
và liên tục đến số 5, cũng đã triển khai Tâm kinh giảng nghĩa, giải thích đầy đủ ý
nghĩa của Tâm kinh.

Theo Phật giáo, Bát Nhã Ba la mật đa tâm kinh còn được gọi là Bát Nhã tâm
kinh, hay Tâm kinh. Đây là bài kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ, là kinh tinh
yếu được rút ra từ bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn.

Nội dung kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người học Bát nhã là
phải phá chấp, phá sạch tất cả pháp, không cho tâm bám víu bất kỳ nơi nào để
không còn duyên sinh khởi. Vì có chỗ cho tâm sanh là có chỗ cho tâm diệt, còn
sanh tử là còn khổ đau.
137

Tâm kinh mang ý nghĩa bổ khuyết cho các kinh, nên được đọc tụng nhiều
nhất. Đây là bài kinh chủ điểm trong các thời khóa tụng niệm, các nghi lễ của Phật
giáo. Từ nghi thức cầu an, cầu siêu, sám hối cho đến các khóa lễ lớn nhỏ đều đọc
bài Tâm kinh này khi gần kết thúc khóa tụng niệm. Triết lý “không” chính là cốt tủy
của Tâm kinh. Cho nên, người học Phật thường đọc tụng bài kinh này khi gần kết
thúc thời kinh với ý nghĩa là chỗ nào kinh thiếu nghĩa lý, chỗ nào tụng sai thì Tâm
kinh bổ khuyết vào cho đầy đủ, nhưng tất cả đều là “không”. Nếu ai muốn hiểu hay
muốn thực hành phương pháp tu trì của Phật giáo Đại thừa, thì không thể nào không
đọc hiểu nghĩa lý của Tâm kinh.

Tạp chí Duy tâm Phật học, ngay số đầu tiên xuất bản năm 1935 đã giới thiệu
bản dịch Đại ý kinh Diệu Pháp Liên Hoa và cho đăng liên tục đến số 43 năm 1941
mới hoàn thành. Trong đó, tác giả giải thích rõ ý nghĩa từng phẩm, dịch văn âm Hán
Việt và cả phần dịch sang chữ Quốc ngữ.

Theo Duy tâm Phật học số 1 cho biết: “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa chính là
Phật thuyết về thời kỳ thứ năm. Trong hội Pháp hoa, đức Như Lai thấy căn cơ của
môn đệ đã thuần thục, tin chắc chắn tự tâm, Ngài bèn thọ ký cho mỗi vị sau này sẽ
thành Phật. Phật thường nói: Biết tất cả các pháp từ nơi tâm thì thành tựu đặng huệ
thân, chớ chẳng phải ngộ ở đâu khác nữa”.

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa hay còn gọi là kinh Pháp Hoa, là bộ kinh Đại thừa
gồm bảy quyển, tổng cộng là hai mươi tám phẩm, suốt hơn sáu vạn lời, nghĩa lý sâu
xa, kinh văn rộng lớn, chứa đựng tâm nguyện và phương tiện huyền diệu ngời sáng
của Phật và Bồ tát.

Nội dung kinh Pháp Hoa cho ta thấy không phương tiện độ sanh nào mà
không có, không cửa pháp môn giải thoát rốt ráo nào mà không mở, không cảnh
giới Phật nào mầu nhiệm, thiện duyên, thâm mật với chúng sinh cõi Ta bà này mà
không ảnh hiện; không hạnh nguyện giáo hóa độ sanh nào của Phật và Bồ tát mà
không thể đạt được rốt ráo. Đây là một bộ kinh khế hợp đủ mọi trình độ, căn tính,
nghiệp duyên của chúng sinh. Vì thế, kinh Pháp Hoa đã được không biết bao nhà
Phật học uyên bác chú thích sớ giải, làm cho kinh Pháp Hoa rạng rỡ từ xưa đến nay
và phổ cập khắp nhân gian. Đặc biệt hiện nay được đông đảo tín đồ Phật giáo tụng
138

đọc thường xuyên trong thời khóa hằng ngày. Thậm chí có nhiều tín đồ lập ra đạo
tràng lấy tên “Pháp Hoa” và pháp môn tu tập chính yếu là đọc tụng kinh này, để
trước hết là cầu phước báu cho tự thân và gia đình, sau là mong có ngày nhận chân
được Phật tính vốn có trong mỗi chúng sinh.

Từ bi âm kể từ số 2, ra ngày 15.01.1932 và tiếp đến số 10 thì đăng bản Phật


thuyết A Di Đà kinh do Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch ra chữ Hán, Trí
Độ là người chịu trách nhiệm dịch sang tiếng Việt và giải nghĩa rất rõ ràng.

Kinh A Di Đà là một bản kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong
đời sống đạo của Phật tử ở các nước châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của kinh
luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin và trong lòng người hành trì.
Kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau,
không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.

Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại
thừa Phật giáo. Kinh này là một bản toát yếu của Đại Vô Lượng Thọ kinh, dịch từ
Phạn bản qua Hán bản.

Từ số 11, ra ngày 01.06.1932 đến số 14, Từ bi âm lại chuyển đến độc giả bản
Phật thuyết Vu Lan Bồn kinh, là bản kinh do Tây Tấn Tam Tạng Pháp sư Trúc
Pháp Hộ dịch ra chữ Hán, Trí Độ là người dịch ra Quốc văn và diễn nghĩa.

Vu Lan là gọi tắt, nếu nói đầy đủ là Vu Lan Bồn. Vu Lan Bồn là cứu tội bị
treo ngược, tiếng Sanskrit gọi là Ulambana, hay là Avalamba, nghĩa là “treo ngược”.
Kinh Vu Lan ghi lại những lời Đức Phật dạy về lòng thương yêu, bổn phận của con
cái đối với cha mẹ đang tại thế hay quá cố, đối với những người đang trầm luân
trong những khổ cảnh, nghịch cảnh và cách thức thể hiện tình cảm, bổn phận ấy
bằng các việc làm cụ thể, nhân dịp Mục Kiền Liên thưa hỏi Ngài về cách báo ơn
cha mẹ.

Tôn giả Mục Kiền Liên là một đệ tử lớn của Đức Phật, được suy tôn là bậc
có thần thông đệ nhất. Sau khi chứng quả A la hán. Ngài dùng thiên nhãn quan sát
khắp các cõi thì thấy mẹ mình đang bị đọa đày đói khát trong cõi quỷ đói. Tôn giả
bèn đem bát cơm xuống dâng cho mẹ. Mẹ vừa cầm lấy bát cơm đưa vào miệng,
139

cơm hóa thành than hồng cháy đỏ, không tài nào ăn được. Tôn giả Mục Kiền Liên
không biết làm sao, bèn trở về xin Phật ra tay cứu giúp. Đức Phật nói vì mẹ Tôn giả
Mục Kiền Liên bao nhiêu đời đã sống tham lam keo kiệt, nên phải chịu khổ báo làm
quỷ đói, một mình Tôn giả không thể cứu được mẹ. Phải nhân ngày Rằm tháng bảy,
sắm sanh lễ vật đủ đầy để cúng dường chúng Tăng mười phương, nhờ vào lực chú
nguyện của đại chúng, mẹ Tôn giả mới có thể siêu thoát được.

Tôn giả Mục Kiền Liên vâng lời Đức Phật dạy, đến ngày Rằm tháng bảy,
đem thức ăn, đèn, sáp, hương hoa... dâng cúng cho chúng Tăng. Mẹ của Tôn giả
Mục Kiền Liên nương nhờ vào uy lực của giới đức và phước đức của chư Tăng
mười phương, cũng nương nhờ vào công đức bố thí và lòng chí thành của Tôn giả
Mục Kiền Liên mà sớm thoát khỏi nỗi khổ của quỷ đói, được siêu thăng lên cõi lành.

Nhân đó, Đức Phật Thích Ca dạy Tôn giả Mục Kiền Liên sau này, những ai
là đệ tử Phật có đức hiếu thuận, phải thường xuyên ghi lòng tạc dạ công ơn cha mẹ
đời này cho đến cha mẹ bảy đời. Mỗi năm vào ngày Rằm tháng bảy, nên thiết lễ Vu
Lan Bồn, cúng dường tam bảo để báo ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, cầu cho
cha mẹ sống lâu trăm tuổi và sau khi mạng chung được sinh vào các cõi lành.

Ngày nay, lễ Vu Lan được lưu hành rộng rãi ở các nước có truyền thống hiếu
kính cha mẹ và thờ phụng tổ tiên rất sâu đậm như: Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản,
Triều Tiên và nhiều nước khác ở Đông Nam Á. Ngày lễ Vu Lan được nhân dân các
xứ này tổ chức như một lễ hội lớn trong năm và trong cả nước, là ngày lễ báo ơn
báo hiếu đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên, cũng như đối với tất cả những người xứng
đáng được tri ân.

Tìm hiểu Viên âm, chúng ta thấy tạp chí cũng có công trình dịch thuật vĩ đại
là Kinh Lăng Nghiêm lược sử. Tác phẩm này được đăng liên tục từ số 5 đến số 47.

Lăng Nghiêm, tiếng Phạn là Suramgama, nói đủ là Thủ Lăng Nghiêm, Trung
Hoa dịch là “Ðại định Kiên cố”, nghĩa là cái bản thể chơn tâm sẵn có của tất cả
chúng sinh và chư Phật. Vì thể của nó rộng lớn không có giới hạn, bao la trùm khắp
cả pháp giới, nên gọi là “Ðại”. Tâm thể này xưa nay vốn thanh tịnh, không có tán
loạn, thường hằng vắng lặng, không lay động dời đổi, nên gọi là “Ðịnh”. Vì tính
140

chất của nó không dời đổi, thấu suốt xưa nay, thường hằng bất động, ở nơi thánh
không tăng, nơi phàm không giảm, hằng hữu bất hoại, nên gọi là “Kiên cố”. Đó là
nghĩa của ba chữ “Thủ Lăng Nghiêm”, tức là “Ðại định Kiên cố”.

Nguyên nhân Phật nói thần chú Lăng Nghiêm là vì Tôn giả A Nan mắc nạn
Ma Đăng Già. Ngài A Nan bị nàng Ma Đăng Già dùng chú thuật Ta Tỳ Ca La Tiên
Phạm Thiên ép buộc tình duyên. Lúc đó, Tôn giả A Nan rất buồn khổ, thành
kính hướng về Đức Phật, mong Đức Phật đoái hoài thương xót cứu độ giải nạn.
Phật biết ngài A Nan bị nạn, nên sau khi thọ trai, Phật không thuyết pháp như
thường lệ mà trở về tịnh xá ngay và Ngài ngồi kiết già, trên đảnh phóng hào quang,
có hoa sen ngàn cánh, trên hoa sen có đức Hóa Phật ngồi kiết già, nói thần chú Lăng
nghiêm. Phật bảo ngài Văn Thù đem thần chú ấy đi đến chỗ nàng Ma Đăng Già để
phá trừ tà chú, cứu nạn cho A Nan. Ngài A Nan được kịp thời cứu thoát và sau đó
Phật độ luôn cho nàng Ma Đăng Già tu hành, trở thành bậc A la hán.

Học kinh Thủ Lăng Nghiêm sẽ giúp con người thấu rõ vị trí của mình đối với
quả vị Bồ đề, Niết bàn vô thượng. Chính Đức Phật Thích Ca sống bằng “Chơn tâm
thường trú” và sinh hoạt trong “Thể tính tịnh minh” - cái mà đã có sẵn trong tất cả
mọi chúng sinh, nhưng con người lại bỏ quên nó đi. Phật và chúng sinh thật ra vẫn
đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tính ấy.
Ngược lại, chúng sinh vì mê lầm thể tính chơn tâm nên suốt đời sống trong điên đảo
khổ đau và phải chịu trầm luân trong biển sinh tử luân hồi. Vì thế, nội dung chủ yếu
của kinh không ngoài mục đích xác định rằng con người còn phiền não là còn điên
đảo khổ đau, phủi hết phiền não là có an lạc Niết Bàn.

Vì ý nghĩa quan trọng như vậy, nên đối với những người xuất gia sống trong
các chùa từ xưa đến nay, mỗi ngày đều có thời khóa tụng kinh Lăng Nghiêm vào
buổi sáng sớm. Mục đích chính là để tiêu trừ ma chướng, diệt trừ những phiền não
trong tâm thức, hầu sớm đạt được trí tuệ sáng suốt như Đức Phật.

Từ số 50 năm 1942, Viên âm đã cho đăng Toát yếu kinh Thập Thiện Nghiệp
Đạo và phần này do tác giả Phạm Quang thực hiện.
141

Bộ kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo được Đức Phật thuyết giảng tại cung rồng
Ta kiệt la, tham dự đủ mặt cư dân vùng biển: Vua rồng, Hoàng hậu rồng, Công chúa
rồng, Hoàng tử rồng...

Thập Thiện Nghiệp là mười điều lành của thân, miệng, ý. Thân không sát
sinh, trộm cắp, tà hạnh. Miệng không nói dối, nói hai chiều, nói ác, nói dua nịnh. Ý
không tham, sân, si. Mười điều lành là căn bản để xây dựng một con người tốt đẹp,
khi người người đều tốt đẹp thì cảnh giới chung quanh cũng tốt đẹp. Kinh không
nói ở cõi người, cõi trời mà nói ở cõi súc sinh với ngụ ý rằng vì thiếu phẩm chất
người nên mới mang một phần phẩm chất thú vật, may thay còn biết nghe kinh, xin
hãy tập theo mười hạnh lành để bắt đầu làm con người thực thụ.

Trong Viên âm số 51 năm 1942, Võ Tưởng đã thực hiện Toát yếu kinh Dược
Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai Bổn nguyện công đức. Kinh Dược Sư được
chia ra làm ba phần: Phần duyên khởi, phần chánh tông, phần lưu thông. Nội dung
này đã được tác giả triển khai rất cụ thể và đầy đủ ý nghĩa. Đọc tụng và hành trì
kinh Dược Sư là nhằm phát triển các đức tính cao đẹp trong mỗi người, để trị liệu
tâm bệnh của bản thân và tha nhân. Các dược chất trị liệu và tiềm năng thầy thuốc
đó có sẵn trong mỗi con người. Tu hạnh Dược Sư để được Đức Phật Lưu Ly Quang
Vương ban cho chúng ta “thuốc” phước lộc thọ, và để chúng ta “sống với dược chất
tâm linh”, nhằm chữa lành các chứng bệnh vô minh, phiền não, nghiệp chướng cá
nhân từ nhiều đời.

Vì quan niệm như vậy, mà ngày nay mỗi khi các chùa muốn cầu an, giải trừ
bệnh tật cho tín đồ tại gia đều thiết lễ đọc tụng kinh Dược Sư. Phổ biến nhất là vào
tháng Giêng hàng năm, các chùa từ Nam ra Bắc đều làm lễ cầu an giải bệnh đầu
năm và đều đọc tụng bản kinh Dược Sư này.

Nhìn chung, khi tìm hiểu về đặc điểm nội dung tư tưởng của những tác phẩm
kinh điển Phật giáo, chúng ta mới thấy sự kỳ diệu và thâm sâu của những bộ kinh do
Đức Phật nói ra để giáo hóa chúng sinh. Kinh Bát Đại Nhân Giác, kinh Kim Cang,
kinh Lăng Nghiêm v.v.. thì hướng dẫn con người dù sống ở đâu và nơi nào cũng phải
luôn biết thấu rõ tâm, làm chủ được tâm thì sẽ không bị mọi dục vọng thế gian lôi
cuốn vào con đường khổ đau. Kinh Địa Tạng, kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân,
142

kinh Vu Lan v.v.. thì hướng dẫn con người thực hành đạo hiếu và cũng phải rèn
luyện tâm hiếu kính, vì đó là tâm của chư Phật. Kinh Pháp Hoa, kinh Thập Thiện,
kinh Dược Sư v.v.. thì hướng dẫn con người làm điều lành, trừ bỏ những tâm niệm
xấu ác để trở về với Phật tính sáng suốt của chính mình v.v.. Mỗi bộ kinh chứa đựng
một cách giáo hóa khác nhau, nhưng tựu trung đều mang ý nghĩa hướng dẫn chúng
sinh từ cõi mê về bờ giác. Những bộ kinh này, hiện nay rất phổ biến trong Phật giáo
và được các chùa, các tín đồ in ấn rất nhiều để vừa nghiên cứu, vừa đọc tụng trong
quá trình tu học theo đạo Phật.

* Nhận xét về nghệ thuật dịch:

Sau khi Đức Phật diệt độ, những lời Phật nói ra được các thánh đệ tử kết tập
lại thành kinh, dùng tiếng Pali (Phạn) biên tập. Sau đó lưu truyền rộng rãi, diễn giải
thành nhiều tập. Các kinh điển được viết bằng tiếng Phạn xứng danh là những tác
văn học có giá trị.

Tiếp đó, sự nghiệp phiên dịch kinh điển Phật giáo tại Trung Quốc kéo dài
gần ngàn năm, khởi đầu từ đời Hậu Hán, thịnh hành vào đời Đường. Văn học phiên
dịch kinh điển Phật giáo đã góp phần tạo nên khởi sắc cho nền văn học cổ đại Trung
Quốc.

Việt Nam ta trải qua quá trình ảnh hưởng lâu dài của nền văn hóa Trung
Quốc, cho nên kinh điển chữ Hán cũng được truyền sang rất nhiều. Các kinh điển
thời kỳ đầu của Phật giáo như kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm, kinh Kim Cang
Bát Nhã, kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân v.v.. với kết cấu tư tưởng hùng vĩ, sâu
sắc; cho đến những kinh Ưu Bà Tắc Giới, Vu Lan, Di Đà, Dược Sư v.v.. đã được
dịch từ ngôn ngữ Hán sang chữ Quốc ngữ tại Việt Nam non nửa đầu TK.XX rất đa
dạng. Những tác phẩm ấy vừa được xuất bản dưới dạng sách, vừa được đăng tải
nhiều kỳ trên các báo, tạp chí Phật giáo đương thời. Có loại được dịch từ nguyên
văn chữ Hán thành dạng văn xuôi, có loại được chuyển thành dạng thơ cho dễ đọc,
nhưng tất cả cũng đều là những kinh điển giàu màu sắc văn học.

Những tác phẩm kinh điển được dịch và đăng trên báo chí Phật giáo đa phần
được dịch từ nguyên văn chữ Hán. Cách dịch thường thấy là: một dòng chữ Hán,
143

một dòng phiên âm Hán - Việt, một dòng dịch chữ Việt; hoặc một đoạn nguyên văn
chữ Hán, một đoạn phiên âm chữ Việt, rồi đến phần giảng giải.

Để thấy rõ hơn nghệ thuật dịch từ các bản kinh, chúng ta cần tìm hiểu qua lời
văn dịch được thể hiện như thế nào. Chúng tôi xin trích dẫn nguyên bản một vài
kinh điển và so sánh giữa các bản dịch.

Kinh Bát Đại Nhân Giác, là bản kinh được tạp chí Bồ đề và báo Đuốc tuệ
chọn đăng trong nhiều kỳ.
Với bản dịch từ tạp chí Bồ đề, nhà dịch thuật P.C cho biết: “Vì nhà in không
có chữ Hán nên chúng tôi không thể đăng tải những câu nguyên văn chữ Hán ra
được. Xin bạn đọc lượng thứ” [H, số 1, tr.16]:
Đoạn thứ nhất: Tổng phiêu
Kinh: Vi dục (Phật) đệ tử, thường ư trú dạ, chí tâm xưng tụng, “Bát Đại
Duyên (Nhân) Giác”
Dịch nghĩa: Người đã làm đệ tử Phật, thì trong ngày đêm sáu thời, thường
nhất tâm tụng niệm kinh “Bát Đại Duyên (Nhân) Giác”
Đoạn thứ nhì: Biệt minh
Kinh: Nhứt thế gian vô thường giác
Nghĩa: Điều thứ nhứt Phật dạy những người giữ đạo, phải giác ngộ sự vô
thường của thế gian.
Tìm hiểu bản dịch kinh Bát Đại Nhân Giác trên Đuốc tuệ số 53, ra ngày
15.01.1937, Thiều Chửu đã tham gia chuyển dịch với tiêu đề: Giảng giải kinh Bát
Đại Nhân Giác, là bản kinh do Thái Hư pháp sư giảng lại bằng chữ Hán và Thiều
Chửu đã dịch ra bằng văn xuôi tiếng Việt:
Nguyên tác:

佛說八大人覺經.

Phật nói kinh Bát Đại Nhân Giác.


1. Lời mở đầu

爲佛弟子 Vi Phật đệ tử

常於晝夜 Thường ư trú dạ


144

至心誦念 Chí tâm tụng niệm

八大人覺 Bát đại nhân giác

Dịch nghĩa:
Là Phật em con
Thường chung ngày đêm
Đến lòng tụng nghĩ
Tám lớn người biết
Nghĩa: Ai đã là đệ tử Phật, ngày đêm thường phải dốc một lòng mà tụng
niệm tám điều giác ngộ của Phật và bồ tát này.
2. Chính nghĩa

第一覺悟 世間無常

Đệ nhất giác ngộ Thế gian vô thường


Thứ một biết hiểu Đời khoảng không thường
Điều hiểu biết thứ nhất Thế gian không có thường
Nghĩa: Điều giác ngộ thứ nhất, biết rằng thế gian này vô thường...

Tìm hiểu bản dịch của tạp chí Bồ đề, chúng ta thấy có lẽ do không có nguyên
bản chữ Hán, nên có vài chữ phiên âm Hán - Việt không chính xác. Phần dịch nghĩa
thì người dịch dùng lời văn trong sáng, rõ ràng nên giúp độc giả dễ dàng hiểu nghĩa
lý của bài kinh.

Còn trên Đuốc tuệ có đăng bản gốc bằng chữ Hán, phần dịch rất chi tiết, gồm
4 bước: Thứ nhất phiên âm Hán - Việt, thứ hai dịch ra tiếng Việt nguyên nghĩa gốc,
thứ ba dịch nghĩa theo đúng ngữ pháp tiếng Việt và cuối cùng là dịch thoát nghĩa
cho câu văn thêm phần bóng bẩy. Có thể nói, Thiều Chửu đã thực hiện lối dịch rất
công phu, lời văn dịch cũng trong sáng, rõ ràng.

Ngày nay đã có rất nhiều người dịch lại và lược giảng về bài kinh này.
Chúng tôi chỉ chọn bản dịch của Thích Nguyên Ngôn [77] để so sánh với những bản
dịch trên. Thích Nguyên Ngôn soạn dịch kinh Bát Đại Nhơn Giác cũng theo hai
hướng: phiên âm, dịch nghĩa, nhưng không có phần chữ Hán:
145

Chính văn: Vi Phật đệ tử, thường ư trú dạ…

Nghĩa: Là người đệ tử Phật (người học Phật), ngày đêm phải ghi nhớ, chí
tâm tụng niệm (tư duy quán sát), tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân.

Như vậy, so với lời văn dịch của Thích Nguyên Ngôn, có lẽ hai bản dịch trên
tạp chí Bồ đề và báo Đuốc tuệ ngày xưa cũng xứng tầm, không thua kém gì bản
dịch thời hiện đại. Bởi lời văn, câu văn dịch của Thiều Chửu và P.C thật rõ ràng
chuẩn xác. Đặc biệt, cách dịch thuật của Thiều Chửu lại rất chăm chút, kỹ lưỡng
theo từng bước một, đem đến cho người đọc sự hiểu biết sâu rộng hơn về nghĩa lý
của từng chữ Hán và cả chữ Quốc ngữ.

Tạp chí Duy tâm Phật học, từ số 1 đến số 43 đã đăng bản kinh Diệu Pháp
Liên Hoa do Tâm Điền dịch từ chữ Hán sang chữ Quốc ngữ:

妙法蓮華經, 卷第一.

姚秦, 三藏法師: 鳩摩羅什奉詔譯.

序品第一.

如是我聞一時佛住王舍城,耆硨崛山中,與大比丘眾萬二千人俱, 皆是大
阿羅漢諸漏已盡,無復煩惱,遠得己利,盡諸有結,心得自在。
Phiên âm:
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, quyển đệ nhất.
Dao Tần, Tam Tạng Pháp sư: Cưu Ma La Thập phụng chiếu dịch
Tự phẩm đệ nhất.
Như thị ngã văn: nhất thời Phật trụ Vương Xá thành, Kỳ Xà Quật sơn trung
dữ đại tỳ kheo chúng vạn nhị thiên nhơn câu, giai thị đại A-la-hán chư lậu
dĩ tận, vô phục phiền não, đại đắc kỷ lợi, tận chư hữu kiết, tâm đắc tự tại.

Dịch nghĩa:
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Quyển thứ nhất.
Đời Dao Tần, thầy Tam Tạng Pháp sư là ông Cưu Ma La Thập vưng chiếu
phiên dịch.

Phẩm Tự thứ nhất


146

Tôi nghe như vầy: một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà
Quật cùng các thầy Đại tỳ khưu một muôn hai ngàn người câu hội tại đó;
đều là bực A-la-hán, đã đặng tự lợi, hết điều trược lậu, không còn phiền não,
tâm được tự tại.

Để thấy rõ nghệ thuật dịch của Tâm Điền qua bản kinh Pháp Hoa này, chúng
tôi trích dẫn thêm bản dịch của HT. Thích Trí Tịnh [113] để so sánh:

Phẩm Tựa thứ nhất.

Tôi nghe như thế này: một thuở nọ Đức Phật ở trong núi Kỳ Xà Quật, nơi
thành Vương Xá cùng chúng đại tỳ kheo một muôn hai nghìn người câu hội.
Các vị đó đều là bực A-la-hán, các lậu đã hết, không còn phiền não, việc lợi
mình đã xong, dứt sự ràng rịt trong các cõi, tâm được tự tại.

So với bản dịch ngày nay của HT. Thích Trí Tịnh ta thấy, lời văn dịch của
Tâm Điền cũng khá chuẩn xác, rõ ràng. Dẫu rằng dịch giả chưa chăm chút lắm về
cách đặt câu cho đúng ngữ pháp, nhưng xét về tổng thể thì đây là bản dịch có giá trị
cả về Phật học lẫn văn học.

Tìm hiểu nghệ thuật dịch của bản kinh Địa Tạng do HT. Bích Liên dịch và
đăng trên tạp chí Tam bảo bắt đầu từ số 1, chúng ta cũng cần trích dẫn phiên bản
gốc từ tạp chí:

地藏菩薩本願經卷上
忉利天宮神通品第一
如是我聞一時佛在忉利天宮,為母說法,爾辰十方無量世界,不可說不可
說一切諸佛,及大菩薩摩訶薩皆來集會,讚嘆釋迦牟尼佛,能於五濁惡世,
現不可思議大智慧神通之力調伏刚強眾生,知苦樂法,各遣侍者問訊世尊.
Kinh diễn âm: Địa Tạng Bồ tát bổn nguyện kinh, quyển thượng
Đao Lợi thiên cung Thần thông phẩm đệ nhất

Như thị ngã văn nhứt thời Phật tại Đao Lợi thiên, vị mẫu thuyết pháp, nhĩ
thời thập phương vô lượng thế giới bất khả thuyết, bất khả thuyết nhứt thiết
chư Phật, cập đại Bồ tát Ma ha tát, giai lai tập hội, tán thán Thích Ca Mâu
Ni Phật, năng ư ngũ trược ác thế, hiện bất khả tư nghị, đại trí huệ thần
147

thông chi lực, điều phục cang cường chúng sinh, tri khổ lạc pháp, các khiển
thị giả, vấn tấn Thế tôn.
Kinh diễn nghĩa: Kinh Địa Tạng bổn nguyện, quyển thượng.
Phẩm Đao Lợi thiên cung Thần thông thứ nhất.
Pháp chơn thiệt như vậy: Ta nghe một thuở kia, Phật ở trời Đao Lợi, vì mẹ
của Phật là bà Ma Da mà thuyết pháp, trong khi ấy có cả thảy các Phật và
các vị Bồ tát lớn, ở các vô lượng thế giới mười phương nhiều đến số nói
không đặng, nói không đặng, đều đến xem hội. Đều khen ngợi Phật Thích
Ca Mâu Ni đương cái thời kỳ ngũ trược ác thế, mà hay hiện cái lực trí huệ
thần thông rất lớn không thể nghĩ được, nói được, để hàng phục những
chúng sinh cang cường, bảo đều biết cái pháp sinh tử là khổ, pháp Niết bàn
là vui. Các Phật khen như vậy rồi liền bảo người hầu, lại chỗ Đức Phật
Thích Ca Thế tôn mà hỏi thăm Phật.

So sánh với bản dịch đã in thành sách của HT. Thích Trí Tịnh [114], chúng
tôi thấy HT chỉ in phần dịch nghĩa, cụ thể như sau:
Kinh Địa Tạng Bồ tát bổn nguyện.
Thần thông trên cung trời Đao Lợi.
Phẩm thứ nhứt.
Phật hiện thần thông - Ta nghe như thế này: một thuở nọ, tại cung trời Đao
Lợi, Đức Phật vì Thánh mẫu mà thuyết pháp. Lúc đó, bất khả thuyết bất khả
thuyết tất cả chư Phật và đại Bồ tát trong vô lượng thế giới ở mười phương
đều đến hội họp, rồi đồng khen ngợi rằng: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có
thể ở trong đời ác ngũ trược mà hiện sức “đại trí huệ thần thông chẳng thể
nghĩ bàn” để điều phục chúng sanh cang cường, làm cho chúng nó rõ “pháp
khổ pháp vui”. Khen xong, chư Phật đều sai thị giả kính thăm đức Thế Tôn.

So với bản dịch ngày nay của HT. Thích Trí Tịnh thì có lẽ bản dịch của HT.
Bích Liên còn kém phần dùng từ, đặt câu. Tuy nhiên, với lối dịch rõ ý, chi tiết và lời
văn trong sáng, HT. Bích Liên đã tạo nên được tác phẩm bằng chữ Quốc ngữ có giá
trị, giúp cho người đọc dễ dàng hiểu nghĩa lý khi đọc đến bản kinh Địa Tạng này.
148

Trích dẫn, so sánh và tìm hiểu một vài đoạn trong các bộ kinh được dịch và
đăng trên báo chí Phật giáo trước 1945, cho chúng ta thấy đây là những tác phẩm
văn học Phật giáo ưu mỹ trong nền văn học Việt Nam. Văn phong dẫu chưa trôi
chảy, nhưng ý rõ ràng. Phương pháp dịch cũng mang ý nghĩa khoa học, tức là có
trích cả nguyên bản, dịch âm rồi mới dịch nghĩa, tạo cho người đọc cảm giác an tâm,
nhẹ nhàng, dễ hiểu. Những tác phẩm kinh điển này thật sự đã đem đến cho quần
chúng độc giả lúc bấy giờ tầm nhìn mới về văn học cũng như nhiều cảm hứng mới
khi họ được tiếp cận.

Nhìn chung, quá trình chuyển dịch kinh Phật trên báo chí Phật giáo trước
1945 là một sự đóng góp không nhỏ cho phong trào Chấn hưng Phật giáo nói riêng,
cho sự lớn mạnh của nền văn hóa ngôn ngữ dân tộc Việt Nam nói chung. Nhiều học
giả nghiên cứu Phật giáo, nhiều tu sĩ đã nhiệt tình chuyển dịch những bản kinh có
giá trị như kinh Kim Cang, kinh Lăng Nghiêm, kinh Pháp Hoa, kinh Địa Tạng, kinh
Đại Phương tiện Phật báo ân v.v.. Trong đó, những người đóng góp lớn lao cho
hoạt động dịch thuật này là HT. Bích Liên, sa môn Thái Hòa, sa môn Trí Hải, Tâm
Minh Lê Đình Thám, Tâm Điền, Trí Quang, Trí Độ, Thiều Chửu, Nguyễn Thượng
Cần v.v.. Về mặt nghệ thuật dịch, các nhà dịch thuật vẫn sử dụng lối dịch bám sát
văn bản, đi theo trình tự từ âm đến nghĩa và chỉ dịch sát nghĩa. Có lẽ vì vậy mà các
câu văn dịch đôi lúc thiếu sự lưu loát, các từ và câu chưa thể hiện được nhiều nghĩa
khác nhau. Tuy nhiên, có thể khẳng định đây là những công trình đáng ghi nhận, có
giá trị lâu dài và làm phong phú thêm kho tàng văn học Việt Nam.

3.3. GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA THƠ VĂN TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO
TRƢỚC 1945

Để giúp người đọc thấy rõ giá trị nội dung của thơ văn trên báo chí Phật giáo
trước 1945, trong phần này luận án triển khai ba tiểu mục: Giáo dục tư tưởng đạo
đức Phật giáo, thể hiện tinh thần dân tộc và thể hiện tinh thần nhân đạo. Hai tiểu
mục đầu đều đề cập đến thơ ca và văn xuôi, nhưng trong tiểu mục thứ ba, luận án
chỉ nói đến văn xuôi. Vì tiểu mục này bàn về tinh thần nhân đạo, là đề cập đến triết
lý nhân quả, mà thơ ca nói về triết lý nhân quả trên báo chí Phật giáo lúc bấy giờ
không nhiều, chỉ có truyện ngắn, tiểu thuyết mới thể hiện phong phú.
149

3.3.1. Giáo dục tƣ tƣởng đạo đức Phật giáo

Nếu ánh sáng của tinh tú, của mặt trời, mặt trăng giúp cho con người thoát
khỏi cảnh tối tăm; thì đạo Phật có sứ mệnh đem ánh sáng của trí tuệ và tình thương
đến với muôn loài chúng sinh. Ánh sáng chính pháp của trí tuệ và tình thương này
tạo cho con người cuộc sống an vui và hạnh phúc, biết thương yêu tất cả mà không
gây khổ đau cho nhau. Trí tuệ và tình thương là hai đức tính quan trọng nhất của
đạo Phật, cho nên nói đến văn hóa nhân bản của đạo Phật là nói đến hai yếu tố ấy và
nó đã được thể hiện đa dạng trong các tác phẩm văn học Phật giáo Việt Nam.

Với tinh thần cởi mở, bao dung, mang đậm sắc thái hiếu sinh, dung hòa và
giải thoát, đạo Phật truyền vào quốc gia nào cũng được quần chúng nhân dân ở quốc
gia đó đặt niềm tin và tận tâm thực hành theo giáo pháp. Có lẽ từ đó mà đạo Phật đã
cuốn hút nhiều học giả đến với đạo để nghiên cứu, học hỏi nguồn giáo lý vô thượng
và cùng góp sức chuyển tải giáo pháp bằng những tác phẩm văn học giàu triết lý
nhân sinh và giá trị nhân văn.

3.3.1.1. Những sáng tác văn học trên báo chí Phật giáo trước 1945 ra đời
nhằm mục đích chấn hưng Phật giáo, nên những tác phẩm này có giá trị giáo dục tư
tưởng đạo đức Phật giáo rất lớn. Thông qua bài thơ, câu chuyện, tác giả đã gửi gắm
những bài học, những lời răn giàu tính nhân văn và tính truyền thống theo tinh thần
Phật giáo.

Từ cái nhìn con người và muôn vật đều vô thường biến chuyển, không có gì
tồn tại vĩnh cửu, tác giả Diệu Không trên tạp chí Viên âm số 9 đã đăng bài thơ
Khuyên người học đạo, nói lên sự thực tồn của muôn loài chỉ là giả huyễn:
“Cả thế sự như in giấc mộng
Khuất lần theo với bóng tà dương
Chấp chi những cái vô thường
Đem tâm phân biệt mà thương ghét hoài…”

Nếu Diệu Không chỉ mới nói thế sự như giấc mộng, có rồi lại tan để diễn tả
về vô thường, thì Cổ Mai trong Viên âm số 6 cho chúng ta thấy rõ hơn, chi tiết hơn
về triết lý này qua bài thơ Khuyên người. Đồng thời tác giả chỉ rõ nguyên nhân tại
150

sao con người phải gánh chịu khổ đau và qua đó gửi lời nhắc nhở muôn người cần
phải thức tỉnh, nương về cửa Phật để thanh tịnh hóa thân tâm:

“Bể trần chìm nổi thấy mà đau


Lạc hướng bờ mê dễ biết đâu
Tham dục lòng gây Nhơn ở trước
Não phiền lụy để Quả về sau
Nước không động gió nào nhăn mặt
Núi có phơi sương mới bạc đầu
Ai nấy sớm nên nhờ cửa Phật
Trên đường giải thoát dắt dìu nhau.”

Thanh Tâm cũng thể hiện lòng chân thành của mình, mong muốn con người
thoát khỏi mọi khổ đau ràng buộc bằng bài thơ Khuyên tu trong Viên âm số 8. Với
Thanh Tâm, ngoài việc trình bày kiến giải của mình về sự thế đổi thay ở đời, tác giả
còn giải thích cho con người thấy được mối sầu thảm luôn bắt rễ bén mầm trong cái
tối tăm, tham lam, ác độc, thù hận, nghi kỵ, thấp hèn sợ sệt của con người. Con
người đang xô đẩy nhau vào trong nghiệp chướng cuồng loạn khổ đau, để rồi phiêu
lưu giữa cuộc luân hồi phiền não vô tận. Vì vậy, cần nên gắng tu hành, trau dồi tâm
tính:
“Ai ơi xin ráng mà tu
Trau dồi gương tánh, trăng thu tỏ ngời
Nên hư những việc ở đời
Lợi danh tài sắc thôi thời tránh xa
Trăm năm trong cõi người ta
Tấm thân mỏng mảnh suy ra có gì
Sân, si, tham luyến ích chi
Dầu cho vàng ngọc, chung quy chẳng còn…”

Trên báo Đuốc tuệ, chúng ta cũng thấy được sự đồng cảm này của những nhà
thơ có tâm hồn học Phật. Các nhà thơ đã chỉ rõ mọi khổ đau ràng buộc trong đời và
khuyên nhắc mọi người tĩnh tâm trau dồi giáo pháp.
151

Thanh Bảo với bài Khuyến học trên Đuốc tuệ số 35, đã cho thấy tác giả
hướng về giới trẻ, khuyên nhắc thanh niên dùng trí tuệ để phá tan mọi mê lầm, luôn
biết quý trọng thời gian để chuyên tâm vào chánh đạo:

“Hỡi bạn thanh niên dựa cửa từ


Mài gươm trí tuệ diệt tà tư
Hai bề không chấp theo trung đạo
Một niệm chuyên cần thấy bản sư
Phá sạch rừng mê vào chính ngộ
Xé tan lưới kiến rõ chân như
Khuyên ai, ai kẻ tu hành đó
Tấc bóng ngàn vàng chớ bỏ dư.”

Đặc biệt, Lương Duyên Tuệ với bài Lời khuyên tu đạo Phật trên Đuốc tuệ số
70, đã nhấn mạnh việc tu hành không phải dành riêng cho người xuất gia, hay đợi
khi xuất gia mới tu được, mà bất cứ ai cũng có thể ứng dụng giáo pháp chân chính
để tu tập và tránh xa điều tà đạo:

“...Khuyên nên theo chính bỏ tà


Noi con đường giác để mà độ tha
Cứ gì thế phát xuất gia
Mới là đắc đạo, mới là pháp thân
Tinh nghiêm giới hạnh chuyên cần
Hằng theo Phật giáo rõ ràng chân tu.”

Giác Phong trong Tam bảo số 4 cho biết những ai đến với đạo Phật, chắc
chắn sẽ học được tinh thần dũng mãnh của nhà Phật. Dù gặp hoàn cảnh khó khăn
nào, người có học Phật cũng biết dũng cảm đứng dậy, chuyển hóa mọi sầu khổ để
tạo dựng nếp sống an lạc, thảnh thơi:

“Bể khổ mênh mông chẳng có bờ


Gió to sóng cả khách bơ vơ
Một đoàn tôm tép nhìn tơi tả
Muôn dặm kình nghê những vập vờ...
152

Thế giới ba ngàn kia lố ngố


Địa cầu một quả đấy đu đơ
Con nhà Phật tử là ai đó
Đứng dậy mau đi chớ dật dờ.”

Ngoài việc giáo dục con người lòng dũng cảm, Nguyễn Thiện Chính trong
Đuốc tuệ số 43 còn nhắc nhở tín đồ phải biết thể hiện lòng tri ân và báo ân. Người
biết nhớ ơn chính là người biết làm điều lành và sống an vui trong những hành động
tốt đẹp mà mình đã tạo:
“Ăn quả trồng cây ấy kẻ khôn
Rễ sâu lá tốt quả ra luôn
Sinh nơi gốc thiện màu sao đẹp
Bọc cái mầm nhân vỏ cực tròn
Tam giới phàm phu theo dễ được
Thập phương chư Phật hãy thường còn
Điều lành là báu ta nên chuộng
Nếm thử mà xem vị ngọt ngon.”

Đạo hiếu, là triết lý sống đạo đức cao cả mà có lẽ đạo Phật xem đó là quan
trọng hàng đầu, vì bàng bạc trong các kinh điển Phật giáo đã đề cập rất nhiều về
tinh thần này. Trên Bồ đề tạp chí số 2, Văn Thị Nga đã góp lời giáo dục con người
qua bài Hiếu dưỡng phụ mẫu diễn ca. Bài thơ chứa đựng những lời khuyên chân
tình về đạo hiếu. Dù bất cứ ai, đã tu theo đạo Phật thì không thể quên đạo hiếu, kinh
điển Phật truyền lại cho thấy Ngài luôn dạy đệ tử phải lấy chữ hiếu làm đầu:

“…Làm người thời phải lo âu,


Thảo nuôi là trước cạn sâu mọi bề,
Quyết lòng giữ đạo Bồ đề
Ân cha nghĩa mẹ, chớ hề vội quên...
Phật kinh truyền để xưa nay,
Lắm sự tích, dạy thảo ngay làm đầu.”

Tinh thần hiếu đạo còn được Quan âm tạp chí số 28 - 1942 nhắc đến chi tiết
hơn qua bài thơ Khuyến hiếu của P.H:
153

“Khuyên ai chữ hiếu giữ cho tròn


Nghĩa mẹ công cha, ví bể non,
Chín chữ cù lao ơn để dạ,
Đôi đường chung thủy đạo làm con...”

Ngoài việc khuyên nhắc bổn phận làm con cần phải giữ tròn đạo hiếu, Phi
Hùng trong Quan âm tạp chí số 24 còn Khuyên học trò phải biết trung với nước, giữ
lòng hiếu trung ấy mà chuyên cần học hành cho nên người. Đó mới là người biết
làm vui lòng thầy tổ, cha mẹ:

“Lời này thầy dạy: bảo con hay


Cờ bạc rượu chè chớ đắm say,
Trung hiếu ra vào chăm để dạ
Bút nghiên sớm tối chẳng rời tay...
Dặn bảo con nay mà nhẫn được,
Thỏa lòng cha mẹ bõ công thầy.”

Trần Huy Hân trong Đuốc tuệ số 73 năm 1937 lại cho thấy triết lý giáo dục
Phật giáo còn khuyên con người biết thể hiện lòng vị tha trong cuộc sống hiện tại.
Bài thơ Cảm tưởng nạn dân bị lụt, tác giả đã lên tiếng khuyên con người sống trên
đời hãy luôn biết thương yêu, giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn. Có như thế thì cuộc
đời mới bớt khổ đau và con người sẽ mãi sống an vui, hạnh phúc:

“Nước lớn năm nay lớn lạ lùng


Đê ba, bốn tỉnh vỡ lung lung
Dân thì đói bụng ngồi trên nước
Quan phải nhọc lòng nghĩ dưới sông
Lúa mất nhà trôi bao nỗi khổ
Thóc cao gạo kém lấy gì đong?
Ai ơi để của làm chi nhỉ?
Để của làm chi chẳng giúp cùng?”

Người sống có lòng vị tha tức là đã phát khởi tâm Từ bi. Đây là tôn chỉ của
đạo Phật, cho nên nói đến đạo Phật là nói đến đạo Từ bi, là mở lòng thương yêu,
154

ban vui cứu khổ cho tất cả muôn loài. Có Từ bi thì cuộc đời sẽ luôn tươi đẹp, hạnh
phúc. Thanh Phương đã nhắc lại cách giáo dục này qua bài Khuyến thiện trong
Đuốc tuệ số 148 - 1941:

“Hỡi các anh em đất nước nhà


Đạo mầu Phật đã bảo ban ta
Những điều bạo ngược nên trừ bỏ
Hai chữ từ bi phải phụng thờ
Sa lối trầm luân khôn lối ngóc
Lạc vòng hắc ám khó tìm ra
Trăm năm thân thế bao nhiêu đó
Mà cứ say mê chẳng tỉnh à?”

Nội dung giáo dục tư tưởng đạo đức Phật giáo qua thơ ca trên báo chí Phật
giáo trước 1945 như đã phân tích tập trung thể hiện các nội dung: lẽ vô thường,
nguồn gốc khổ đau, tính thiện, tri ân báo ân… nhằm mục đích truyền giảng giáo lý
Phật giáo. Những bài thơ được viết giản dị - đôi khi nôm na, thô mộc - gần gũi,
quen thuộc với mọi đối tượng, mọi lứa tuổi để dễ đọc, dễ nhớ. Nhờ thế, những giáo
lý cao sâu của nhà Phật dễ dàng đi vào đời sống nhân dân, để bảo lưu, gìn giữ và
phát huy những phẩm chất, lối sống cao đẹp của con người Việt Nam. Cho nên nói,
việc khơi lại, giữ gìn và phát huy những tư tưởng đạo đức Phật giáo qua thơ ca trên
báo chí Phật giáo cũng chính là việc giữ gìn, bảo lưu truyền thống quý báu của con
người và dân tộc Việt Nam. Đó cũng là sự đóng góp thiết thực có giá trị của những
bài thơ và nhà thơ theo tinh thần Phật giáo.

Có lẽ lúc bấy giờ nhiều tín đồ còn chưa hiểu Phật pháp, nên báo chí Phật
giáo ra đời đã có dụng ý đăng những bài thơ mang tính giáo dục nhân cách đạo đức.
Điều này cũng cho thấy, cách truyền giảng, giáo dục bằng thơ ca của báo chí Phật
giáo ngày nay cũng không khác gì báo chí Phật giáo xưa. Tất cả hầu như đều hướng
về mục đích chung là mượn thi ca để chuyển tải giáo lý, để giáo dục chuyển hóa
con người từ xấu thành tốt, từ tốt thành tốt hơn.

3.3.1.2. Mảng văn xuôi trên báo chí Phật giáo giai đoạn này bao gồm các thể
loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện ký, tùy bút v.v.. Đầu TK.XX, nếu các tác phẩm
155

văn học thế tục đã có những cách tân, đổi mới cả về nội dung lẫn hình thức thì
những tác phẩm văn học được sáng tác theo tinh thần Phật giáo đăng trên báo chí
Phật giáo giai đoạn này cơ bản vẫn có nội dung và hình thức của hệ hình thi pháp
văn học trung đại, với tư tưởng đậm chất triết lý nhà Phật.

Tôn giáo có những vấn đề trọng yếu đối với nhân sinh, trong đó đạo lý là
vấn đề quan trọng, rõ ràng và dễ thấy nhất. Nó là một phần rất quan trọng trong sinh
hoạt tinh thần của nhân loại, tạo cho con người có được sức mạnh để chuyển hóa
cuộc đời từ tốt thành xấu, từ khổ thành vui v.v.. Một trong những tôn giáo thể hiện
rõ nét tinh thần này là Phật giáo. Đạo Phật được xem là tôn giáo mang đến lợi ích
thiết thực cho con người ngay trong đời sống hiện tại.

Các tác phẩm văn xuôi trên báo chí Phật giáo thể hiện sâu sắc những tư
tưởng, triết lý Phật giáo, có tác dụng giáo dục rất lớn. Thông qua những câu chuyện
kể, triết lý đạo Phật được cụ thể hóa một cách sinh động và thân thuộc, tạo lòng tin
cho người đọc rằng: Đạo Phật có thể an định xã hội, tịnh hóa lòng người, khiến cho
người ta có đầy đủ tín tâm để sống an vui trong hiện tại và còn mang đến kết quả tốt
đẹp ở tương lai, giúp cho con người có được nếp sinh hoạt hợp với đạo lý.

Những giá trị tư tưởng đạo đức cao đẹp của Phật giáo đã được các nhà văn
khẳng định qua những sáng tác của họ và đã được đăng rộng rãi trên báo chí Phật
giáo. Những tác phẩm văn học mang ý nghĩa đó bao gồm nhiều thể loại của văn
xuôi, nhưng chiếm đa số là thể loại tiểu thuyết ngắn. Dưới đây, chúng tôi lược thuật
một số tiểu thuyết tiêu biểu thể hiện nội dung giáo dục tư tưởng đạo đức Phật giáo
khá toàn vẹn trên báo chí Phật giáo trước 1945.

Tác phẩm Tu là cội phước, tình là dây oan của Liên Tôn đăng trong Từ bi
âm số 3 là một tiểu thuyết ngắn. Câu chuyện xảy ra vào đời nhà Đường, niên hiệu
Nguyên Hòa, xứ Hiệp Hữu, có một người con gái tên Quỳnh Liên, xuân xanh xấp xỉ
đến tuổi cập kê, sắc nước hương trời. Các chàng trai nhìn thấy nàng đều ngày đêm
mơ tưởng, nhờ người mai mối, mong được kết duyên cùng nàng. Nhưng nàng đã ra
điều kiện với các chàng trai rằng, trong một đêm nếu ai học thuộc phẩm Phổ Môn
trong kinh Pháp Hoa thì nàng đồng ý gửi thân cho chàng trai đó.
156

Sáng hôm sau, đã có hai mươi người học thuộc phẩm Phổ Môn. Nhưng nàng
tiếp tục ra điều kiện, nếu ngày mai ai học thuộc bộ kinh Kim Cang thì nàng đồng ý
làm vợ. Hôm sau lại có được mười người học thuộc. Nàng phải ra điều kiện tiếp
rằng, ai thuộc hết bảy quyển kinh Pháp Hoa trong ba ngày ba đêm thì người đó sẽ là
duyên tiền định của nàng. Tưởng là không có ai, đâu ngờ đã có chàng Mã Sanh học
thông suốt kinh Pháp Hoa. Thế nên nàng phải đồng ý kết duyên cùng chàng. Nhưng
ngay trong đêm tân hôn, nàng đã lìa trần, khiến chàng Mã Sanh mê mẩn tinh thần,
khổ sầu vô độ, muốn chết cùng nàng.

Sau đó có vị Hòa thượng đến gặp Mã Sanh hỏi thăm sự tình và nói cho chàng
biết rằng nàng Quỳnh Liên chính là do ngài Quán Thế Âm Bồ tát hóa hiện ra, để
cứu độ chúng sinh. Đồng thời khuyên chàng cùng mọi người hãy hồi tâm hướng
thiện, sám hối những tội lỗi trước. Nói xong Hòa thượng biến mất. Từ đó về sau,
người dân trong xứ Hiệp Hữu vì thấy được sự linh hiển ấy, nên ai ai cũng thờ Phật
ngày càng đông và nơi ấy trở thành đô hội của Phật giáo.

Tiểu thuyết Duyên trước tình sau của Chánh Niệm trong tạp chí Từ bi âm số
5, nội dung nói về đôi trai tài gái sắc là chàng Vương Hi và nàng Thiều Hoa, là gái
Nam Giang và trai Đông Sàng rất xứng đôi vừa lứa. Họ vừa kết hôn, mừng vui chưa
trọn vẹn thì cha mẹ của Thiều Hoa đều lìa trần. Việc tang chế của cha mẹ nàng
Thiều Hoa vừa xong thì mẹ của Vương Hi cũng tiếp nối ra đi.

Trước tình cảnh đau thương đó, Vương Hi mới rõ thấu triết lý vô thường
sanh, lão, bệnh, tử của đạo Phật, nên chàng lìa bỏ tất cả vào núi ẩn tu. Sau đó Thiều
Hoa cũng phát tâm xuất gia. Mỗi người mỗi nơi chuyên lo tu trì và cả hai đều chứng
được đạo quả an vui, giải thoát.

Tiểu thuyết Hiếu nghĩa cảm Phật của Liên Tôn đăng trên tạp chí Từ bi âm số
7, xoay quanh nhân vật chàng thanh niên tên là Phan Quý, là một người con trai rất
hiếu kính với mẹ. Phan Quý vâng theo lời mẹ, ngày ngày chàng đều mua hương lên
chùa để cúng Quán Thế Âm Bồ tát. Nhân duyên một ngày nọ lên chùa, chàng đã
gặp và cảm thương nàng Bích Hà. Cả hai người cùng thề non hẹn biển với nhau.
Nhưng vì hoàn cảnh gia đình, chàng vâng lời mẹ đi xa để thăm người cậu. Chẳng
may gia đình cậu không còn, từ đó chàng không có kinh phí để về nhà với mẹ.
157

Chàng bèn tìm cách đi dạy học kiếm sống và được dân làng ở đấy xây nhà cho
chàng ở dạy học. Sau đó có một bà lão muốn bán mình để làm mẹ, chàng đồng ý
mua bà về làm mẹ và chăm sóc cho bà chu đáo mọi bề.

Về phần nàng Bích Hà, sau khi hẹn ước với chàng trở về, thời gian sau thì
cha nàng qua đời, nhiều chàng trai có ý muốn cưới nàng làm vợ, nhưng nàng đều từ
chối. Người bác của nàng vì tham tiền của nên đã giúp cho kẻ gian bắt cóc nàng.
Nhờ có người giúp, đã đưa nàng đến gặp Phan Quý. Mẹ của chàng sau nhiều ngày
nhớ thương, buồn khổ, chiến tranh loạn lạc, cũng nhờ có người giúp đỡ, đưa bà đến
tại nhà Phan Quý. Thế là gia đình cả ba người được gặp nhau. Phan Quý và Bích Hà
nên duyên chồng vợ, sống đời hạnh phúc bên mẹ. Mẹ Phan Quý nằm mơ mới biết
ra người giúp cho hai mẹ con chính là hóa thân của Bồ tát Quán Thế Âm. Nhờ lòng
hiếu thảo của Phan Quý và tâm tín ngưỡng của bà, đã cảm đến lòng Từ của Bồ tát
nên Ngài mới ra tay cứu giúp. Từ đó họ càng tín tâm với Phật pháp và hết lòng làm
điều tốt, giúp đỡ muôn người.

Truyện Đốt đuốc ban ngày của Viên Quang đăng trên Đuốc tuệ số 169-170,
nói về ông Phạm Chí trí tuệ rộng sâu, thông suốt nhiều kinh sách, không có gì là
không biết và ông luôn tự khen là không có ai sánh bằng mình. Một hôm giữa ban
ngày, ông cầm đuốc đi vào trong thành, đã làm cho mọi người chê bai ông ngu dốt.
Từ câu chuyện, tác giả đã nhấn mạnh trên thế gian, cũng có lắm kẻ như anh mù cầm
đuốc, tự mình chưa tỏ lại còn dám ngông nghênh với người khác. Chưa hiểu đã nói
là hiểu, chưa đáng ngôi cao đã tự tôn, như thế có khác nào một anh mán trong rừng
xanh, tưởng mình tài giỏi hơn hết mọi người. Nào có biết đâu, trên đời vẫn còn
những bậc siêu phàm xuất chúng mà họ chưa từng gặp. Hiểu như vậy để tự thức
tỉnh mình mà dập tắt tính kiêu ngạo và sự tu đạo của ta mới mong có ngày thành tựu.
Tác giả kết thúc truyện bằng câu phương ngôn rất ý nghĩa:

“Ở nhà nhất mẹ nhì con


Ra đường lắm kẻ còn giòn hơn ta”.

Tiểu thuyết Thế cũng là “ngộ đạo” của Đ.N.T đăng trên Đuốc tuệ số 65, nói
về anh chàng thợ may vốn tên Đức, không biết quê quán ở đâu, chỉ biết là mười lăm
năm trước, có một người đàn bà góa đưa hai đứa con mồ côi là Đức và em gái đến
158

ngụ ở phố Tân Ninh. Mẹ của Đức hiền lành, có hàng vải để buôn bán tảo tần nuôi
Đức đi học. Đức với Tâm, con gái ông Hàn Phú và em trai cô là cậu Thọ cùng học
trường Kiêm Bị, huyện Tân An. Đức, Tâm và Thọ là ba trang đồng sinh có tài, có
hạnh, được thầy giáo và các bạn học ai cũng yêu quý.

Sau đó, Tâm thôi học, còn Đức và Thọ đều đỗ được bằng sơ đẳng Pháp -
Việt. Thọ và Đức lên Hà Nội học. Học được non hai năm thì mẹ Đức hết vốn, vừa
gặp lúc kinh tế khó khăn, mẹ Đức lo quá nên bị ốm nặng. Đức đành phải chôn sâu
chí khí hiếu học của đời thanh niên mà về quê lo việc gia đình. Đức xin làm công
cho hiệu may gần nhà để kiếm tiền lo thuốc thang cho mẹ. Đức nổi tiếng là thợ may
khéo tay, nên gia đình nhờ đó mà no ấm. Sau đó, Đức mua được máy may trả tiền
góp và mở cửa hàng riêng. Tuy phải bỏ học vì gia cảnh nghèo, nhưng Đức vẫn
không quên thú đèn sách, mỗi ngày dù bận đến đâu cũng dành thời gian đọc sách và
tập viết văn quốc ngữ. Mỗi lần Thọ về thăm quê, đều đến nhà Đức. Thấy sự học của
Đức tiến bộ khác thường nên Thọ rất lấy làm lạ và kính phục. Vì biết nhau từ nhỏ,
lại thấy Đức là một thiếu niên có chí khí, có hiếu nghĩa, có tài học rộng như thế, nên
chị em của Tâm càng kính trọng vô cùng. Đức vì tự nghĩ mình gia cảnh nghèo hèn
nên không dám ngỏ lời với Tâm. Lúc bấy giờ, ông Hàn đang nhất quyết ép Tâm
phải lấy cậu con quan trên tỉnh, nhưng Tâm không chịu. Nhờ Thọ là người am hiểu
triết lý đạo Phật, nên nhân lúc ông Hàn gọi Tâm và Thọ để bàn việc nhà, Thọ đã nói
lên mong muốn của Tâm và thuyết phục được cha mình bỏ đi thành kiến giàu nghèo
qua thuyết bình đẳng của đạo Phật. Người cha đã nghe và tin theo lời Phật dạy, nên
đã thay đổi lối tư duy xưa cũ. Từ đó mới có chuyện đám cưới giữa Tâm và Đức và
việc này đã tạo sự ngạc nhiên lớn đối với quần chúng, xóm làng. Câu chuyện trên
chỉ ra rằng nhờ có sự xuất hiện của đạo Phật với tinh thần từ bi bình đẳng đã xoa
dịu bớt những nỗi khổ đau của biết bao thế hệ con người.

Nội dung những tác phẩm trên cho thấy công danh, tài sắc, lợi lộc hay tình
ái… chỉ là phù du, là vô thường biến đổi, là mây khói bay qua mắt, vì con người
sinh ra không đem gì theo, chết rồi cũng không mang gì đi cùng được. Do đó, nhà
Phật khuyên con người không nên tham luyến quá mức, mong cầu quá độ để phải
chuốc lấy khổ sầu, mọi hạnh phúc thế gian chỉ là tạm bợ mà thôi. Duy có sự tu
159

phước tu huệ, sống có hiếu nghĩa, đạo đức thì mới có được bình an, hạnh phúc. Hơn
thế nữa là biết tránh xa danh lợi, tình ái mà chọn đời sống thoát tục thì sẽ có được
hạnh phúc lâu bền hơn.

Với nội dung đơn giản, quen thuộc như truyện cổ tích, các tiểu thuyết Phật
giáo trên đã thể hiện khá sinh động và sâu sắc những tư tưởng đạo đức của giáo lý
nhà Phật. Những tác phẩm này là sự kế thừa và kết hợp một cách khá nhuần nhuyễn
giữa triết lý dân gian và triết lý Phật giáo. Điều này giúp các tác phẩm dễ đi vào
lòng quần chúng và gắn kết với đời sống nhân dân như những câu ca dao, tục ngữ,
truyện cổ tích được truyền kể bao đời. Từ đó những tư tưởng đạo đức Phật giáo
được truyền giảng, tạo nên nếp sống từ tâm trong mỗi người dân Việt Nam. Đây
cũng là đóng góp thiết thực của những tác phẩm văn học trên báo chí Phật giáo
trước 1945, nhằm phục hưng và lưu giữ những giá trị truyền thống tốt đẹp, tạo nên
sức mạnh của dân tộc chống lại sự xâm lăng của ngoại bang.

3.3.2. Thể hiện tinh thần dân tộc

Từ khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam thì tinh thần dân tộc, tình yêu quê
hương đất nước và lòng từ bi của nhà Phật đã được dung hòa với nhau. Phật giáo
tiếp xúc với nền văn hóa bản địa đã thể hiện đúng tinh thần dung thông đầy ý nghĩa
của mình. Nhờ tinh thần này, đạo Phật đã sử dụng các dữ liệu tích cực của văn hóa
và tôn giáo dân gian để góp phần xây dựng và phát huy nền văn hóa dân tộc. Nhiều
thế hệ thiền sư và Phật tử vừa kính đạo, vừa yêu nước đã đóng góp công sức rất lớn
cho quá trình duy trì và giữ vững nền hòa bình, độc lập của dân tộc.

Thuyết “Tứ ân” (ân Tổ quốc, ân đồng bào, ân cha mẹ, ân thầy tổ) mà báo chí
Phật giáo giai đoạn nửa đầu TK.XX nhiều lần nhắc đến đã thể hiện rất có ý nghĩa,
đặc biệt là ân Tổ quốc của Phật giáo đã hòa quyện với tín ngưỡng “thành hoàng”,
làm cho tinh thần yêu nước và lòng nhân từ của Phật giáo ngày càng gắn kết. Đồng
thời còn giúp cho đất nước Việt Nam vượt qua được những phong ba bão táp, sẵn
sàng đối đầu với các thế lực xâm lược, bảo vệ biên cương bờ cõi, giữ gìn toàn vẹn
lãnh thổ đất nước.
160

3.3.2.1. Thơ văn trên báo Phật giáo giai đoạn trước 1945 cho ta thấy rõ nét
tinh thần gắn kết của Phật giáo với dân tộc. Nhiều tác phẩm thơ, văn xuôi của
những nhà văn, nhà thơ có tín tâm với Phật giáo đã chứa đựng tư tưởng yêu quê
hương, vì đất nước rất cụ thể và mang tính thiết thực.

Tinh thần yêu nước của người phụ nữ Việt Nam được thể hiện phong phú và
đa dạng. Có người thì can đảm xông pha nơi trận mạc để chiến đấu với quân thù, có
người thì bền chí hy sinh, trợ duyên và khuyên nhủ chồng phải biết sống hết lòng
cho Tổ quốc, phải kiên cường chiến đấu, dũng cảm hy sinh để mang lại hòa bình,
ấm no cho dân tộc… Những sự hy sinh của người phụ nữ vì Tổ quốc ấy vẫn luôn
tỏa sáng trong lòng dân tộc. Trên tạp chí Quan âm số 26, tác giả Vương Linh đã
đăng bài thơ Vì lý tưởng để ca ngợi tinh thần yêu nước của người phụ nữ Việt Nam:

“Vì lý tưởng chàng đi không trở lại


Thiếp năm chờ tháng đợi biết bao công...
Chàng hỡi, kẻ anh hùng đừng thối chí,
Dẫu trăm lần thất bại, nản đừng nên
Thiếp nguyện xin già làm kẻ vô duyên,
Nhưng được thấy chàng trở nên “Đại sĩ.”

T.B thì bày tỏ cảm xúc của mình về Cảnh đền Kiếp Bạc trong Quan âm tạp
chí số 24, vừa mang tính thiêng liêng vừa mang âm hưởng thoát tục. Có lẽ đây là sự
hòa nhịp giữa việc thể hiện lòng tri ân những anh hùng chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ
quốc với ân quốc gia của Phật giáo (một trong Tứ ân):

“Trời đất dành riêng một miếu đường


Đời đời khánh niệm đức Trần Vương
Chuông Tào, mõ Đẩu khêu hồn tục
Rừng cấm, giếng rồng ẩn bóng dương...”.

Biết bao nhiêu thế hệ đi sau, là những người cũng mang tâm hồn lớn, tâm
hồn yêu dân tộc Việt Nam đã bày tỏ nỗi lòng nhớ ơn những anh hùng chiến sĩ đã vì
Tổ quốc hy sinh. Mỗi lời tâm sự là lời nhắc nhở, hun đúc thêm ý chí cho những
người hiện tại biết hướng về đất nước, vì sự an nguy của cả dân tộc mà tiếp nối tinh
161

thần anh dũng chiến đấu của mình. Chúng ta có thể đọc những lời tâm sự tha thiết
này trong Quan âm tạp chí số 28, qua bài Viếng mồ chiến sĩ của K.H:

“Tôi là một thanh niên Nam Việt


Đứng trước mồ thảm thiết bi ai!...
Hỡi những người bạn đem thân ra trận
Chỉ mong sao rửa hận mới nghe
Tài trai gặp lúc đang thì
Dẫu thân tan nát cũng vì nước non...
Lòng quyết thắng giục người chiến sĩ
Vì quốc dân chẳng nghĩ đến nhà
Dù rằng vợ trẻ, mẹ già
Tạm quên, quên để bước ra chiến trường...”

Bên cạnh đó còn có Ban Đồng sinh chi hội Hải Phòng đã dâng lời tưởng
niệm lúc Viếng tướng sĩ trận vong và đặc biệt bài này được đọc tại chùa Dư Hàng
ngày 2.11.1937, Đuốc tuệ số 74 - 1937 ghi lại rất xúc động. Bài ai điếu đã nhấn
mạnh sự hy sinh cao cả vì Tổ quốc của những anh hùng dân tộc và bày tỏ lòng biết
ơn vô hạn, lòng thương xót của thế hệ trẻ ngày nay khi nghĩ về công lao, sự hy sinh
của các chiến sĩ. Họ xem đó là tấm gương soi sáng để tiếp tục sự nghiệp vì độc lập
dân tộc. Cụ thể là họ đã thực hiện nghi thức Phật giáo, làm lễ kỳ siêu, cầu nguyện
cho những linh hồn chiến sĩ được siêu thoát luân hồi, không bị cô đơn vất vưởng
trong những chốn tối tăm, lạnh lẽo:

“Ngày nay kỷ niệm


Nhớ đức ghi công…
Địa phương Phật giáo
Phụng lệnh quan trên
Đồng sinh chúc tụng
Vạn cổ anh phong
Tướng sĩ trận vong
Vì dân vì nước
Gặp có giặc thù
162

Súng gươm sáng quắc


Vâng mệnh triều đình
Đền ơn bảo hộ…
Ở chốn sa trường
Bỏ mình vì nước
Ai cũng một lần
Lưu danh thiên cổ”.
Bày tỏ lòng báo ơn bằng việc thực hiện nghi thức cầu siêu độ trong Phật giáo
là việc làm rất phổ biến và đầy ý nghĩa. Theo Phật giáo, nghi thức siêu độ vừa giúp
cho linh hồn người mất được thoát khổ mà còn là dịp để khơi gợi lòng biết ơn của
những người còn tại thế. Bởi Phật giáo quan niệm con người chết là chỉ mất đi thể
xác nhưng nghiệp thức vẫn còn tồn tại và phải chịu luân hồi sanh tử trong nhiều
cảnh giới khác nhau. Vì thế, nhà tu hành phải thể hiện lòng từ bi cứu độ, bằng cách
làm lễ kỳ siêu, thuyết pháp để cứu rỗi những vong linh chưa giác ngộ, vẫn còn bơ
vơ lạc lõng trong những cảnh giới khổ đau được trở về cảnh giới Cực Lạc an vui.
Thấm nhuần tư tưởng đó, “Chi hội Phật giáo Hải Dương đã làm lễ phổ độ cho
tướng sĩ Việt Nam trận vong bên Pháp quốc và ở Lạng Sơn, cùng những người dân
bị nạn bom Hải Phòng”, trong đó, Công Chân đã có Bài văn truy triệu Lễ phổ độ
chiến sĩ trận vong, được Đuốc tuệ số 141 chọn đăng:

“Than ôi, âm dương đôi ngả cách xa


Thác là thể phách còn là tinh anh
Nào là tướng sĩ tòng chinh
Nào là lạc đạn vô tình xảy ra
Cùng chung một gánh quan hà
Thác vì việc nước ai mà không thương
Trời long đất lở khôn lường
Người ta hai chữ vô thường đó thôi…
Nay nhân tảo mộ lễ thường
Phật đài thắp một tuần hương khấn nguyền
Anh linh giáng phó đàn tiền
Chúng sinh công đức vô biên vô lường…”.
163

Những người có tinh thần yêu nước luôn thể hiện trọn tấm lòng mọi lúc mọi
nơi, bất cứ khi nào Tổ quốc cần đến. Không những chỉ bản thân mình hy sinh mà
còn kêu gọi tấm lòng hy sinh của người khác. Huy Hoàng đã đánh Tiếng chuông
cảnh tỉnh trong Đuốc tuệ số 141, kêu gọi thanh niên Việt Nam hãy vì hạnh phúc
chung của toàn dân tộc mà đứng lên, đóng góp công sức của mình để bảo vệ quê
hương đất nước:

“Thiếu niên bạn hỡi dậy đi,


Dậy đi, đem chí nam nhi giúp đời.
Đã mang tiếng, trai người chí khí
Phải ra công đừng phí thì giờ
Quốc dân đang đợi, đang chờ
Chờ đàn hậu tiến chúng ta đi đầu...”
Hạnh phúc biết bao khi quê hương đất nước thanh bình, muôn triệu người
dân vui đón xuân về trước những sắc màu tươi đẹp của non sông gấm vóc. Người
biết yêu quê hương sẽ cảm nhận được sắc xuân đầy tươi đẹp khi đứng nhìn cảnh vật
của quê hương mình. Như K.H thể hiện bài Mừng xuân trong Quan âm tạp chí số 27:

“Xuân đã về đây với chúng mình


Đồng bào Nam, Bắc thảy hoan nghênh
Một bầu khí sắc bao yên cảnh
Muôn dặm thanh huy chiếu thái bình...
Buổi đời hòa lạc mừng chung cả
Thay mặt non sông, tả chút tình.”

Hòa trong không khí đón xuân mới của dân tộc Việt Nam, người người vui
đón xuân còn biết hướng đời mình về chốn thiền môn để trải lòng lắng nghe từng
lời kinh tiếng mõ và nghe cả tiếng suối reo, tiếng chim hót thanh thoát dường như
lời ai niệm Phật, khiến cho lòng người nhớ mãi những giây phút an lành. Đúng là
hình ảnh ngôi chùa hiện hữu giữa quê hương Việt Nam đã mang đến cho đời sống
con người nhiều niềm an vui, bởi nơi đó chứa đựng cả linh hồn của dân tộc. Có lẽ vì
thế mà Huyền Am đã bày tỏ bài Ngày xuân viếng chùa trong Đuốc tuệ số 23:

“Linh Sơn ao ước bấy lâu nay


164

Mà đến bây giờ mới tới đây


Suối bạc kêu vang ngàn trượng đá
Non xanh lên thấu mấy tầng mây
Đàn chim như niệm câu kinh Phật
Ngọn gió xa đưa tiếng kệ Thầy
Về dưới cuộc trần còn nhớ mãi
Nhớ chùa ai dựng tháp ai xây.”

Người có tín tâm với Phật giáo là người có lòng từ bi. Người có lòng từ bi là
biết nghĩ đến sự an nguy của đất nước và hết lòng nhớ nghĩ về công ơn của cha ông
đi trước đã tạo dựng nên đất nước gấm hoa. T.T.T với bài Thơ mừng Tết trong Viên
âm số 2 đã đưa muôn người về với mùa xuân của cả nước, cùng chúc mừng nhau
thêm tuổi mới, nhưng không quên cội nguồn tổ tiên của dân tộc Việt Nam:

“Thấm thoắt xuân về đã hết đông


Bắc Nam đâu đó cũng trời chung
Cỏ cây thấm gội ơn mưa móc
Hoa gấm tô bồi vẻ núi sông
Rước tổ Hồng Bàng, hương một nén
Đuổi ma khủng hoảng, pháo vài phong
Mừng nay năm mới thêm nhiều tuổi
Hai chữ từ bi giữ vững lòng.”

Ngôi chùa hiện hữu giữa cuộc đời đã góp phần tô điểm rất nhiều cho nét đẹp
của quê hương đất nước. Nơi đây, chúng ta có thể học Phật, tìm hiểu lịch sử Phật
giáo và cả lịch sử dân tộc, là cả một kho tàng đạo đức, đạo lý sống cho những ai có
tai để nghe và có tâm hồn để thể nghiệm. Đúng như dân gian đã từng nói: “Đất vua,
chùa làng, phong cảnh Bụt”. Nói đến chùa là nói đến Phật và sự tu hành. Ngôi chùa
Việt Nam hiện hữu như là một biểu tượng văn hóa, thể hiện tính chất bao dung của
người Việt Nam, của văn hóa Việt Nam. Chùa tất nhiên là để thờ Phật, nhưng ngoài
ra còn thờ các vị có công với nước, thờ các vị thần, thành hoàng... Phong cảnh Bụt
là nói đến phong cảnh chùa đẹp, thanh tịnh, an lành. Đó là những nơi gợi nên những
cảm xúc thẩm mỹ, ý vị mơ màng.
165

Nguyễn Thiện Chính với bài Vịnh chùa Kiến Sơ được đăng trên Đuốc tuệ số
13 đã nói lên đầy đủ giá trị và ý nghĩa cao cả về sự hiện hữu của một ngôi chùa giữa
quê hương:

“Đem đạo từ bi để gọi hồn


Đổi cong làm thẳng, dại làm khôn
Sử Nam tự tích xưa chưa có
Đất Bắc sơn môn bấy hãy còn
Chùa lập cùng làng Ngài Đổng Thánh
Phật truyền vào nước Tổ Vô Ngôn
Tín đồ con cháu rồng tiên cả
Bồ tát công duyên rạng nước non.”

Nói đến nét đẹp của quê hương Việt Nam là phải nói đến cảnh đẹp của
Hương Sơn. Nếu những ai chưa có dịp đến đây để thưởng thức thì chỉ cần đến với
Hương Sơn hành trình ca của Nguyễn Đăng Hựu trong Đuốc tuệ số 24, chúng ta sẽ
thấy được một kỳ quan mà tạo hóa đã ban cho non nước Việt Nam:

“Nghe đồn phong cảnh Hương Sơn


Nam Thiên đệ nhất đâu hơn được nào?
Lòng riêng, riêng những ước ao
Công trình bao quản thử vào xem chơi...”

Cùng nhà thơ Tâm Bình Chơi núi Thiên Thai, chúng ta sẽ tiếp tục thưởng
thức cảnh đẹp ngất ngây cõi lòng về non sông gấm vóc Việt Nam. Nét đẹp này còn
khơi gợi cho nhà thơ một tình thương bao la, sâu lắng và đưa tác giả thoát khỏi
vòng tục lụy khổ đau. Bài thơ được đăng trong Viên âm số 8:

“Chơi núi Thiên Thai chẳng muốn về


Thảnh thơi như đã sạch lòng mê
Cành hoa Thiên nữ rơi đâu đó
Cụm đá Sanh công gục mãi tề
Thấy cuộc thua hơn đôi nấm đất
Thương đời danh lợi một nồi kê
166

Vô minh giấc mộng nay vừa tỉnh


Ngồi đợi trăng lên, gió bốn bề.”

Nhìn chung, có lẽ ai cũng hiểu quê hương là tiếng gọi tha thiết nhất cất lên từ
trái tim của mỗi con người. Quê hương với những cảnh vật quen thuộc luôn là đề tài
gợi nhiều cảm xúc đối với các nhà văn, nhà thơ mọi thời đại. Những người có tâm
hồn yêu quê hương đất nước, sẽ đưa được cuộc sống và cảnh vật của quê hương đi
vào thơ ca, trở thành nguồn cảm hứng dạt dào, sáng tạo nên những hình ảnh, những
tâm hồn mang đậm bản sắc Việt Nam. Tất cả những cảnh trí thiên nhiên, những tình
cảm gắn bó sâu đậm với dân tộc qua những trang thơ đã thể hiện trên báo chí Phật
giáo trước 1945 càng trở nên tha thiết và gợi cho ta những tình cảm đáng trân trọng.

Hầu như mỗi bài thơ đều bộc lộ rõ tấm lòng, cảm xúc của các nhà thơ đối với
quê hương thân yêu của mình. Những dòng thơ này giúp chúng ta bỏ lại sau lưng
những lo toan vất vả, những vay mượn ồn ào và cả đời sống tẻ nhạt. Cho nên có thể
nói, báo chí Phật giáo thời bấy giờ đã góp phần đưa văn học về với cội nguồn dân
tộc, với làng quê thân thương và chứa đựng những giá trị lâu bền trong đời sống văn
hóa dân tộc.

Những bài thơ trên cũng cho thấy tính thế sự hóa nội dung trong tác phẩm
thơ Phật giáo. Nội dung những bài thơ thể hiện được sự gắn bó giữa đạo và đời. Đời
sống là sự thể hiện sinh động và phong phú nhất của giáo lý Phật giáo, đồng thời
cũng thể hiện được sự thay đổi trong nội dung thơ gắn với tính thời sự, đời thường.

3.3.2.2. Không ít tác phẩm văn xuôi cũng mang chủ đề yêu nước. Tác giả
T.V, trên Quan âm tạp chí số 23, với tác phẩm Lạc đường đã thể hiện rất rõ tinh
thần vì dân tộc, muốn khuyến hóa quần chúng, cụ thể là giới học sinh, phải biết ý
thức rõ về vai trò của mình, để cùng chuyển hóa xã hội Việt Nam ngày một giàu
mạnh:

Trong một bài pháp của Lã Phụng Tiên có nói: “Cái lỗi của mình như cái
túi đeo sau lưng... ”, khi nào có người quay cái túi ấy ra trước mặt mình
mới biết rõ được… Đó, chúng ta đã nghe rõ chưa? Chúng ta đã tỉnh giấc
chưa? Chúng ta đã trông thấy rõ cái túi trước mặt chúng ta chưa? Chúng ta
167

đã nhận thấy cách ỷ lại lười biếng của chúng ta chưa? Chúng ta đã nhận
thấy quãng đường sai lạc chưa? Vậy, nay chúng ta cần phải đả đảo ngay
cái “óc” làm ông tham, ông phán... mà kíp khuynh hướng về kỹ nghệ
thương mại, canh nông... thì mới cứu vãn được cái xã hội Việt Nam đương
ốm yếu này!

Vì mong muốn góp phần cứu vãn cho xã hội Việt Nam đang trong tình trạng
lâm nguy, nên Quan âm tạp chí đã liên tục đăng những bài viết thể hiện tinh thần vì
dân tộc, nhằm kêu gọi ý chí của thanh niên, hãy mạnh dạn đứng lên để giành lại độc
lập tự do cho đất nước. Như lời kêu gọi của Đinh Gia Long trên Quan âm tạp chí số
24:

Tương lai của Tổ quốc là thanh niên, vì thanh niên là nền tảng của đất
nước... Tôi muốn chúng ta hãy tự đào lấy căn bản thực tài để chúng ta
chiến đấu mà phụng sự cho Tổ quốc. Trần Hưng Đạo phải có gan dạ thế
nào mới có giọng can đảm nói với vua: “Hãy chặt đầu thần rồi bệ hạ hãy
hàng”... Tôi muốn Tổ quốc này có những thanh niên học rộng và hy sinh,
không cần cơm no áo ấm, vợ đẹp, nhà sang. Hãy hy sinh để có một hoài
bão to tát mà phụng sự cho đất nước, cho quần chúng.

Trong bài viết Nhân tài nước Nam của Trương Vĩnh Ký, được đăng trên
Quan âm tạp chí số 24, ra ngày 3 tháng 12 năm 1941, tác giả cũng đã nhấn mạnh rất
rõ về ý chí và trách nhiệm của một thanh niên Việt Nam. Ông khẳng định thanh
niên thời bấy giờ chính là nhân tài của đất Việt, nên phải thấy rõ trọng trách của
mình trong việc xây dựng và bảo vệ quê hương.

Không chỉ khơi gợi tinh thần chiến đấu chống giặc ngoại xâm, có tạp chí còn
nêu lên vẻ đẹp quê hương, đất nước để hun đúc chí khí cho quần chúng nhân dân.
Đó là tinh thần không phản bội quê hương, dẫu đất nước vẫn còn nghèo nàn, nhưng
tất cả không gì bằng vẻ đẹp của nước non mình. Tinh thần này được Đinh Gia Long
viết trong Quan âm tạp chí số 24: “Lúc mà trong nước đang eo hẹp đồng tiền, lúc
này chúng ta đều có phận sự lo góp sao cho nền tài chính trong nước được thịnh
vượng. Đây ngài xem, người mình có tính ưa dùng hàng ngoại quốc nhiều quá. Mà
168

nói cho đúng hàng của nước mình cũng không có gì xấu cho lắm. Trái lại, hàng nội
hóa cũng có và có lẽ cũng tốt bằng hay hơn hàng ngoại quốc”.

Nói đến truyện ngắn, tác giả Thiện Minh có lẽ đã rất thâm thúy khi viết
Những lời ấy xa xăm còn vang mãi đăng trên Quan âm tạp chí số 26. Hệ thống nhân
vật trong truyện ngắn này được xây dựng đơn giản. Ngôn ngữ truyện chủ yếu là lời
trần thuật của người kể chuyện. Thỉnh thoảng có những lời đối thoại với ngôn ngữ
thường nhật, nhưng đã làm nổi bật nội dung, tư tưởng của câu chuyện là nhằm giáo
dục thế hệ trẻ. Tác giả đã tha thiết kêu gọi thanh thiếu niên phải biết yêu non sông
đất nước, nơi đã sinh ra mình và phải sống làm sao cho xứng đáng, đem lại lợi ích
cho xã hội: “Này nhé, các con ơi, các con trông xem, sông cong queo chảy, núi
sừng sững và oai hùng, đất màu tươi tốt. Biết bao nhiêu khí thiêng sông núi, đất
nước chung đúc nên người ta, sinh ra ta, sinh ra các con, sinh ra từng lớp người...
Các con ơi, các con nghe lời ta, một người từng trải, bây giờ các con chỉ nên chăm
học và yêu hết mọi người, bởi ở đó các con sẽ nên người hữu ích cho mai hậu”.

Truyện cũ nước nhà (Trá Hòa thượng để dò mưu giặc) của Thiện Bảo đăng
trên Đuốc tuệ số 40, là tác phẩm được viết lại, dựa vào câu chuyện có thật của lịch
sử, nói về việc Nguyên triều nghe tin vua Thái Tông nhà Trần băng hà, muốn nhân
dịp trong nước có tang, gây sự khởi binh, mới sai Lễ bộ Thượng thư là Sài Thung
sang dụ vua Nhân Tông vào chầu. Vua sai người mời Sài Thung vào quán sứ và sai
quan Tướng quốc Thái úy là Trần Quang Khải ra tiếp. Thung cậy mình là Nguyên
triều sứ thần, đến tiểu quốc không coi ai ra gì cả. Khi tướng Quang Khải ra mắt, ông
vắt vẻo nằm trên sập, không thèm đứng dậy mà cũng không thèm đáp lại một lời.
Quang Khải đành tủi nhục ra về.

Đức Hưng Đạo Vương nghe chuyện, căm tức vô cùng, muốn vào thẳng xem
Sài Thung ra sao, nhưng ngại mình lại là người An Nam, tất nhiên sẽ không được
tiếp chuyện. Hưng Đạo Vương vốn giỏi tiếng Hán, bèn cạo râu, khoác áo cà sa, đeo
tràng hạt, giả làm người Bắc Hòa thượng đến cửa quân xin vào bái kiến. Sài Thung
được tin báo, ngỡ là có nhà sư từ phương Bắc đến nên hắn ta cho lính ra rước vào.
Thung đứng dậy chào hỏi, tỏ ý vui vẻ, rồi sai pha trà ân cần tiếp đãi. Hai người tiếp
chuyện thật vui. Sau khi Hưng Đạo Vương từ biệt đi ra, Sài Thung tiễn khỏi cửa,
169

mới biết nhà sư đó là Hưng Đạo Vương trá hình, Thung đã luôn cảm thấy hối hận
cho sự khờ dại của mình.

Câu chuyện trên cho thấy Phật giáo đã thực sự có được chỗ đứng vững chắc
trong cuộc sống và tâm linh của đông đảo người dân, đồng hành cùng sự phát triển
của dân tộc. Cho nên ngay cả Hưng Đạo Vương, vị anh hùng cũng đã biết ứng dụng
đạo Phật trong đời để mang lại lợi lạc cho Tổ quốc.

Nhìn chung, các tác phẩm văn học trên báo chí Phật giáo đã thể hiện rõ tinh
thần đạo Phật vì dân tộc. Qua đó cho thấy giá trị cao quý của đạo Phật là tư tưởng từ
bi, khoan dung, vô ngã, không nghĩ tới cá nhân mà chỉ nghĩ đến những điều lợi ích
lớn lao cho muôn người, cụ thể là xây dựng một xã hội an lạc, một đất nước hòa
bình. Chính điều đó đã giúp cho con người nhận thức được chân giá trị của mình
trong đời sống xã hội, triệt tiêu mâu thuẫn giữa phe này nhóm khác, để rồi cùng
nhau đoàn kết bảo vệ cuộc sống bình yên, chống giặc ngoại xâm, xây dựng đất nước.

3.3.3. Thể hiện tinh thần nhân đạo

Tư tưởng vô ngã vị tha, từ bi hỉ xả, bình đẳng… và cả sự khuyến thiện từ


triết lý nhân quả đều là những thể tính sẵn có của giáo lý nhà Phật và có thể nói đã
thể hiện rõ nét tư tưởng nhân đạo của đạo Phật. Tư tưởng đó hiển bày cụ thể trong
hệ thống kinh điển và ngay trong cách sống của những tín đồ Phật giáo qua tinh
thần dân chủ, yêu chuộng hòa bình, có khả năng hòa giải, hòa hợp, tác động tích
cực và ảnh hưởng sâu rộng trong mọi thành phần và giai tầng xã hội. Cho nên tư
tưởng nhân đạo là phương châm sống, là đạo lý làm người, lấy đó làm tiêu chuẩn để
tu dưỡng, rèn luyện bản thân của người đệ tử Phật trong bất cứ thời đại nào.

Chắc chắn trong tư duy của người dân bình thường, chưa ai băn khoăn tìm
hiểu tại sao khi họ đến với đạo Phật thì chỉ thấy ở đây một chủ nghĩa nhân đạo lớn
lao. Bởi lẽ đây là những điểm chính yếu làm cho Phật giáo gắn bó được với quần
chúng. Tâm lý dân gian Việt Nam ta thiên về sự cân bằng, sự bù đắp. Nỗi khổ hôm
nay phải được đền bù bằng sự sung sướng ngày mai. Phật giáo cũng hứa hẹn với
con người sự đền bù không do quyền phép nào, chỗ dựa nào, cũng không do cán
cân phúc tội nào, mà do chính nỗ lực của bản thân mình. Đó là nét đặc trưng về tinh
170

thần nhân đạo trong triết lý nhân quả của Phật giáo. Có lẽ vì thế mà báo chí Phật
giáo lúc bấy giờ đăng tải rất nhiều tác phẩm truyện thể hiện tư tưởng nhân đạo đối
với con người và một trong những tư tưởng nhân đạo ảnh hưởng lớn đến đời sống
văn hóa của người Việt Nam là triết lý Nhân quả.

Người dân Việt Nam vẫn thường nói: “Gieo nhân nào gặt quả nấy” và luôn
tin ở hiền sẽ gặp lành, gieo gió ắt gặt bão. Họ suy nghĩ như vậy vì họ có thiện tâm
và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ thuyết nhân quả của nhà Phật. Đạo lý nhân quả của
Phật giáo là thể hiện tinh thần tôn trọng lẫn nhau, là sự yêu thương giữa người với
người, không ai có quyền xúc phạm hay quyết định cuộc đời của người khác. Đó
cũng chính là cách ứng xử nhân đạo trong nhà Phật. Truyện ngắn, tiểu thuyết trên
báo chí Phật giáo viết về triết lý nhân quả mang âm hưởng nhân đạo tương đối
nhiều, mỗi tác phẩm đều để lại cho người đọc một bài học về cách sống ở đời. Bài
học giáo dục cụ thể nhất là khuyên con người luôn biết thể hiện cách ứng xử tốt đẹp
trong đời sống hằng ngày, không gây ảnh hưởng xấu cho mình và người. Như thế
mới có thể gặt hái được kết quả hạnh phúc cho bản thân, gia đình và xã hội.

Dưới Chơn Phật của Kim Xuân viết trong tạp chí Từ bi âm số 4 là tiểu
thuyết viết về đời sống thực của gia đình quan Phủ Minh Huệ. Quan Phủ lâu ngày
làm việc không liêm chính, bà Phủ thấy vậy rất đau lòng và tìm cách khuyên ông
Phủ nên tin vào lý nhân quả của đạo Phật mà làm việc chánh trực, để tích đức cho
con cháu, bởi hiện tại đứa con của họ tên Minh Thành cũng hư hỏng, không ra gì.
Riêng bản thân bà Phủ nhờ thấm nhuần thuyết nhân quả của Phật giáo nên bà sống
rất lương thiện, nhân hậu, không đua chen, đua đòi như những người giàu có khác.

Từ cách sống của bà Phủ cùng những lời khuyên có lý của bà, lâu ngày đã
khiến ông Phủ thấu hiểu và từ đó ông quyết chí làm một vị quan Phủ thanh liêm,
thương yêu giúp đỡ mọi người. Về sau được mọi người cảm ơn mến đức, tiếng lành
đồn xa. Nhờ đó, con trai Minh Thành của họ cũng cảm phục nhân đức cha mẹ mà
hồi tâm chuyển ý, sống làm người tốt.

Tiểu thuyết Sám hối được sanh về Thiên đường nói về một câu chuyện có
thật trong lịch sử Phật giáo Trung Hoa. Lương Võ Đế - một vị hoàng đế sáng lập ra
nhà Lương và trị vì Nam triều từ năm 502 đến năm 549. Câu chuyện đã được ghi
171

chép rõ trong kinh Lương Hoàng sám, Bích Liên đã kể lại và đăng trên Từ bi âm số
6. Lương Võ Đế có quen thân với một vị Hòa thượng hiệu là Chí Công. Hoàng hậu
Hi Thị rất ghét Hòa thượng và luôn tìm cách can ngăn vua đừng qua lại với Hòa
thượng, nhưng vua không nghe. Hoàng hậu liền bày mưu tính kế để hại Hòa thượng.
Có lần hoàng hậu cho mời Hòa thượng và chúng tăng đến để cúng dường trai tăng
và đã làm bánh bao nhân thịt chó để thiết đãi.

Đến ngày cúng dường, bà thấy Hòa thượng và chúng tăng vẫn ăn bánh bao,
nên lấy cớ đó mà chê bai Hòa thượng, khiến vua đem kiếm đến giết ngài. Khi vua
đến gặp, Hòa thượng mới nói rõ hết sự tình và dẫn vua đi xem bánh bao nhân thịt
chó đã được Hòa thượng chôn dưới đất. Vua cho người đào lên thì thấy những bánh
bao ấy biến thành những con chó. Từ đó, Hòa thượng giải thích chuyện ân oán
nhiều kiếp giữa Hòa thượng và hoàng hậu. Lâu sau, hoàng hậu lìa đời, vì tội ác quá
nặng, nên bị quả báo đọa làm con rắn mãng xà sống dưới hầm xí rất khổ sở. Hoàng
hậu báo mộng cho vua biết nỗi khổ và nhờ vua cầu cứu Hòa thượng làm lễ sám hối
cho bà. Hòa thượng cho thiết đàn tràng để sám hối tội lỗi cho hoàng hậu, nhờ đó bà
thoát được kiếp loài vật và sanh về thiên giới.

Bài học nhân quả ở đây là nghiêng về hoàng hậu Hi Thị. Vì bà sống với ác
tâm, nên phải lãnh chịu quả báo xấu. Nhờ bà biết hối hận, nhận ra lỗi lầm và thành
tâm sám hối, cùng với sức chú nguyện của Hòa thượng, nên đã chuyển được nghiệp
xấu của bà thành nghiệp tốt. Giá trị nhân đạo của tác phẩm là ở sự bao dung, rộng
lượng. Dù con người mê muội, sống với tâm niệm xấu xa, nhưng chỉ cần biết sửa
đổi, chuyển tâm ác thành tâm thiện thì quả lành sẽ đến với họ.

Truyện ngắn Làm lành đặng phước, làm dữ bị họa của Nguyễn Văn Hạp
trong Từ bi âm số 29 cũng thể hiện rõ luật nhân quả ngay trong cuộc sống hiện tiền.
Tác phẩm nói về đời nhà Minh có một văn sĩ tên là Vương Ái Nhơn, mồ côi cha từ
nhỏ, chàng ở với thân mẫu là bà Trương Thị, là người hiền đức, lo cho con ăn học
nên người. Chàng có người bạn học chung là Lê Háo Kỳ, hai người cùng nhau về
kinh đô ứng thí. Khi hai người cùng vào chùa Thiệu Long xin trú ngụ thì Vương Ái
Nhơn nhặt được túi vàng, chàng nghĩ sợ túi vàng của ai đó bỏ mất thì tội nghiệp,
không nỡ lấy, nên xin nán lại chùa vài hôm để chờ người đến nhận. Nhưng nghe lời
172

Lê Háo Kỳ, chàng đã đưa túi vàng cho ông ấy mang xuống Trường An trước, còn
mình ở lại chùa đợi. Sáng ngày, chàng thấy Trần Quản đến tìm túi vàng, bèn nói
cho biết sự thật và cùng đi đến Trường An tìm Háo Kỳ. Đến nơi thì Háo Kỳ chối bỏ
mọi chuyện.

Thi xong, Ái Nhơn nằm mộng thấy Quán Thế Âm Bồ tát mách bảo rằng nhờ
chàng đã làm một việc âm đức rất lớn, nên khoa thi này, chàng được đậu trạng
nguyên và khuyên chàng từ rày về sau phải thường làm việc thiện hơn. Hôm sau,
kết quả đúng như trong mơ. Háo Kỳ hay tin không đỗ trạng nguyên trở nên bệnh
nặng. Ái Nhơn được vua mời vào cung ban thưởng và gả công chúa Lệ Sương cho
chàng. Đám cưới xong, chàng cho đòi Trần Quản vào tặng thêm 100 lượng bạc rồi
xin vua tha cho Trần Công, là cha của Trần Quản đã bị hàm oan, đang bị giam trong
ngục, đồng thời chàng đền ơn người bạn cho trú ngụ là Lưu Chí Thành rất xứng
đáng. Chàng được vua ban thưởng nhiều vàng và cho về nhà ra mắt mẫu thân, bái
yết Tổ đường. Mẹ chàng bèn làm thức ăn chay cúng dường cho các nhà sư và bố thí
tiền bạc cho người nghèo khó. Còn Háo Kỳ vừa xấu hổ vừa uất ức, bệnh càng nặng
thêm, bèn thuê ghe mướn người đưa chàng về quê, nhưng khi ra giữa sông thì gặp
sóng gió, cuốn mất xác.

Trên tạp chí Từ bi âm, tác giả Thiện Dụng đã viết rất nhiều truyện ngắn.
Những tác phẩm của Thiện Dụng đa phần nêu lên luật nhân quả ở đời và mỗi câu
chuyện đều có nội dung hay, kết cấu truyện hấp dẫn, tạo sức lôi cuốn người đọc.
Những truyện ngắn nổi bật như: Nhờ vợ tu hành mà chồng khỏi đọa đăng ở số 17,
Một nàng con gái 13 tuổi ngộ đạo đăng ở số 21, Lòng từ bi cảm đến loài vật đăng ở
số 35, Phật hóa độ người có duyên lành đăng ở số 36 v.v..

Đọc truyện ngắn Nhờ vợ tu hành mà chồng khỏi đọa của Thiện Dụng, chúng
ta sẽ thấy rõ hơn luật nhân quả mà nhà Phật hay đề cập. Câu chuyện viết về nàng
Dương Thị ở xứ Giang Hoài, nổi tiếng là người có tài sắc. Năm 20 tuổi, nàng kết
hôn với chàng Tống Khán, hằng ngày nàng lo nội trợ tề gia trọn vẹn và cũng không
quên thọ trì tụng niệm. Một ngày, Tống Khán đi xa làm ăn, khi ra ngoài biển khơi,
chẳng may gặp nạn gió bão, nhờ có một bó rơm trôi đến, chàng vội đeo lấy và lần
lựa theo sóng tấp vào bờ. Chàng tỏ ý cám ơn bó rơm và ôm về làm kỷ niệm. Dọc
173

đường, thấy có một cái quán nhỏ, chàng định vào nghỉ chân dùng cơm thì gặp một
bà cụ tuổi ngoài bảy mươi, chàng xin ngủ lại đó một đêm. Đến sáng, chàng mở bó
rơm ra, thấy có một ống tre, trong ống tre lại có một bổn kinh Kim Cang. Bà cụ mới
nói rằng: “Bổn kinh nầy là kinh của vợ ngươi thường tụng ở nhà”.

Chàng về gặp vợ, kể lại đầu đuôi câu chuyện, đúng là Dương Thị đã ở nhà
mướn người biên ra một quyển kinh Kim Cang để thọ trì tụng niệm mỗi đêm, cầu
nguyện cho chồng đi đến nơi về đến chốn. Vì trong bổn kinh ấy có nhiều chữ sai
nên Dương Thị đã thỉnh một vị cao tăng sửa lại, nhưng bản kinh ấy mất tích mười
ngày rồi. Chàng nghe nói bèn mở ra xem kỹ càng, thì quả y như vậy. Tống Khán
bèn sắm sanh lễ vật đến quán tạ ơn bà cụ, nhưng chẳng thấy ai hết. Từ đó về sau,
chàng càng tín ngưỡng Phật giáo hơn, hết lòng cùng vợ chuyên lo tụng niệm tu tập.

Như vậy, chàng Tống Khán nhờ vợ có lòng tín ngưỡng Phật pháp, thành kính
luôn luôn và nhất tâm hồi hướng cho chồng, nên chàng được thần nhơn trợ lực, mới
thoát khỏi đại nạn giữa biển mênh mông. Điều này cho thấy luật nhân quả còn mang
tính tương quan tương tương duyên với nhau. Một người làm điều lành, biết hồi
hướng công đức cho người thân của mình thì họ cũng được thọ hưởng. Nhưng sau
đó, họ cũng phải biết hướng tâm làm lành thì kết quả tốt đẹp mới lâu dài.

Báo Đuốc tuệ thỉnh thoảng cũng đăng những truyện ngắn mang triết lý nhân
quả thiết thực ở đời. Những truyện tiêu biểu có Ma Đăng già đăng ở số 2, Cô con
gái Phật hái dâu đăng ở số 39-40, Quả báo triền triền đăng ở số 123-125.

Truyện Quả báo triền triền nói về một làng nọ, có vợ chồng Hai Cợp sống
trong cảnh êm đềm, dưới căn nhà tre rộng rãi. Mỗi ngày họ cùng vợ chồng anh ruột
ở cạnh nhà đi đánh cá hoặc làm thuê mướn để sống qua ngày. Nhờ có anh ruột rất
tốt, thường khuyên bảo nên không bao lâu, hai gia đình đã có sản nghiệp lớn. Chẳng
may, anh của Hai Cợp bị giặc bắt mất tích. Bổn phận Hai Cợp lúc ấy phải trông
nom mẹ già, chị dâu, dạy bảo các cháu và giữ gìn nhà cửa cho anh. Nhưng bản tánh
Hai Cợp vốn tham lam và hung ác, nên anh chỉ đem mẹ già về nhà mình, bỏ mặc
chị dâu và các cháu bơ vơ. Anh còn tranh hết ruộng, chiếm ao, cướp thóc lúa, vơ vét
cho đầy túi, lại còn dọa nạt chị dâu đủ cách, hành hạ đàn cháu thậm tệ.
174

Sau đó, Hai Cợp còn đi cướp của, giết người khắp nơi. Vợ thì hành hạ mẹ
chồng, tuổi bà đã cao mà vẫn bị bắt ra đồng làm ruộng. Hai vợ chồng Hai Cợp cứ
thế mà tranh cướp của nhà chị dâu và của dân làng rồi ăn chơi phung phí. Đến khi
tai nạn xảy đến, nhà cửa họ tiêu tan, Hai Cợp phải dẫn vợ con sống tạm ở căn chòi
nhỏ ven sông và hằng ngày đi xin ăn, nhưng đến đâu cũng bị người ta khinh khi,
đánh đuổi. Cuộc sống khổ sở, lây lất nhiều năm, cuối cùng cả hai vợ chồng chết
trong đói khát, bệnh tật mà không có chỗ chôn thân. Con cái còn sống thì khổ sở,
đói rét.

Trên tạp chí Viên âm có dành riêng cả một mục để đăng những câu chuyện
về nhân quả, với tiêu đề Chuyện về nhân quả. Như chuyện Đại vương và khỉ chúa,
Người thợ may Bố thí, Lành gặp lành ác gặp ác, Hoàng tử A Xà Thế, Chết vì ác…
Các truyện tuy nội dung khác nhau, nhưng tựu trung đều xoay quanh vấn đề nhân
quả. Những ai sống với tâm hung ác, với hành động xấu thì phải gánh chịu kết quả
xấu, dù đến sớm hay muộn. Còn ngược lại, ai biết suy nghĩ, nói năng và làm điều
lành thì sẽ luôn được kết quả tốt đẹp trong cuộc sống.

Nói tóm lại, tìm hiểu nội dung chính yếu của một số tác phẩm văn xuôi tiêu
biểu trên báo chí Phật giáo trước 1945, cho thấy nội dung mà các nhà văn thể hiện
trong tác phẩm mang tính thiết thực và có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Một số tác
phẩm do tác giả thuật lại chuyện đã có, nhưng nhìn chung, nội dung các tác phẩm
đã cho ta thấy được sự đóng góp có ý nghĩa của báo chí Phật giáo lúc bấy giờ đối
với ền văn
học Việt Nam.

Giá trị nổi bật nhất mà những nội dung truyện để lại đã chỉ rõ con người là
chủ nhân của chính mình, chỉ cần tự mình phấn đấu nỗ lực và sống lương thiện,
nhất định sẽ có ngày vinh quang tươi sáng. Từ đó có thể hiểu đặc trưng hướng nội
của Phật giáo là giúp con người tự suy ngẫm về bản thân, cân nhắc các hành động
để không gây ra đau khổ, bất hạnh cho mình và người khác. Nó giúp con người biết
sống thân ái, yêu thương nhau và làm cho xã hội yên bình.

Những thể hiện như trên cho thấy các tác phẩm văn học trên báo chí Phật
giáo trước 1945 đã có sự thay đổi trong nội dung tác phẩm. Các câu chuyện đã
175

chuyển từ những đề tài luân lý đạo đức trung hiếu tiết nghĩa theo triết lý Nho giáo
sang triết lý Phật giáo. Điều đó chứng tỏ những sáng tác văn học trên báo chí Phật
giáo có sự gắn kết, gần gũi với cuộc sống đời thường của con người hơn.

Có thể nói, nội dung tác phẩm gần gũi với cuộc sống là một trong những
đóng góp đưa văn xuôi trung đại chuyển dần sang văn xuôi hiện đại. Tuy nhiên,
:

3.4. GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA THƠ VĂN TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO
TRƢỚC 1945

3.4.1. Giá trị nghệ thuật của thơ

3.4.1.1. Thể thơ

Sau năm 1932, Thơ mới xuất hiện và tạo ra những cuộc tranh luận sôi nổi
với thơ cũ diễn ra từ Bắc đến Nam. Sự thích ứng linh hoạt của Thơ mới đã tạo ra
những chấn động không nhỏ trong đời sống văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Dẫu
biết rằng, thể thơ thuần Việt như Song thất lục bát cũng như thơ Đường luật được
các nhà thơ thích dùng trong suốt thời kỳ văn học trung đại Việt Nam, nhưng sau
khi phong trào Thơ mới xuất hiện thì những thể thơ thuần Việt, thơ Đường luật
không còn được các nhà thơ sử dụng nhiều. Các tác phẩm thuộc những thể thơ này
ngày càng hiếm gặp, có lẽ một phần do những quy định về niêm luật phức tạp và
khó khăn của nó.

Tìm hiểu thơ ca trên báo chí Phật giáo, chúng ta thấy hầu như các tác giả vẫn
sử dụng các thể thơ truyền thống của dân tộc là chính. Thế giới nghệ thuật thơ luôn
tràn ngập hình ảnh con người và thiên nhiên Việt Nam gần gũi, thân quen, thể hiện
rõ tinh thần dân tộc, tình yêu quê hương đất nước. Các tác giả đã tiếp tục khai thác
thế mạnh của những thể thơ dân tộc từ xưa, như Lục bát, Song thất lục bát, hát nói.
Đặc biệt thơ Đường luật vẫn còn được sử dụng nhiều trên báo chí Phật giáo lúc bấy
giờ.
176

Chúng tôi đã thống kê số liệu các bài thơ được sáng tác bằng những thể thơ
khác nhau và đăng trên báo chí Phật giáo trước 1945 theo bảng biểu (xem thêm phụ
lục 3):

Duy Pháp
Từ Tiếng Bát
THỂ Viên Đuốc tâm âm Tam Quan Tổng Tỷ
bi chuông nhã
THƠ âm tuệ Phật Phật bảo âm số lệ
âm sớm âm
học học
Lục
3 1 14 0 10 0 0 0 5 33 14%
bát
Song
thất lục 1 1 2 4 5 4 0 0 4 21 9%
bát
Thất
ngôn 16 14 68 10 31 3 7 6 28 183 77%
bát cú
Tổng
20 16 84 14 46 7 7 6 37
số

Như vậy, qua kết quả khảo sát 237 bài thơ được đăng trên báo chí Phật giáo
lúc bấy giờ, có thể thấy các tác phẩm được sáng tác theo thể thơ Đường luật chiếm
số lượng nhiều nhất, có đến 183 bài, chiếm 77%; thể thơ Lục bát có 33 bài, chiếm
14% và thể thơ Song thất lục bát chiếm số lượng ít nhất, chỉ có 21 bài, chiếm 9%.

Kết quả thống kê cho thấy những sáng tác thơ trên báo chí Phật giáo trước
1945 vẫn sử dụng những thể thơ truyền thống của nền văn học trung đại. Điều đó
cũng cho biết những sáng tác thơ nhằm phục vụ cho mục đích “tải đạo”, truyền
giảng giáo lý nhà Phật, khơi gợi và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nên không đặt
ra nhiệm vụ đổi mới thể loại thơ. Với mục đích tải đạo, những thể thơ truyền thống
gần gũi với nhân dân sẽ dễ đưa giáo lý Phật giáo đi vào lòng người hơn.

Trong ba thể thơ chính được sử dụng, đã cho thấy vai trò và vị trí của thể thơ
Đường luật trong đời sống văn học nghệ thuật nước ta những năm đầu TK.XX vẫn
chiếm phần quan trọng. Có lẽ do các tác giả là những người có tín tâm Phật giáo,
uyên thâm Hán học, nên chịu ảnh hưởng nhiều về thơ Đường luật. Đồng thời điều
đó cũng chứng tỏ rằng thể thơ này đã trở thành một thể thơ truyền thống, một thể
thơ của nền văn học Việt Nam. Ngoài ra, thể thơ Lục bát cũng được các nhà thơ vận
dụng nhiều, nhưng chủ yếu được dùng để chuyển dịch kinh điển, sám văn cho tín đồ
177

dễ đọc tụng. Có thể vì lối thơ này trong sáng, gần gũi với con người nhiều hơn, cho
nên sử dụng trong lúc đọc kinh sẽ dễ thấm vào lòng người đọc, giúp họ nhanh
chóng chuyển hóa tâm hồn theo con đường giác ngộ, giải thoát.

Trên báo chí Phật giáo trước 1945, các nhà thơ chỉ sử dụng 3 thể thơ truyền
thống: Lục bát, Song thất lục bát, Đường luật. Đây cũng là một cách để bảo tồn và
giữ gìn những giá trị truyền thống vốn có của nền văn học Việt Nam. Hơn nữa, thể
thức luật định của các thể thơ đã được vận dụng một cách linh hoạt, uyển chuyển
trong việc chuyển tải nội dung giáo lý Phật giáo. Các bài thơ không còn giữ nguyên
khuôn mẫu điển phạm mà ít nhiều đã bị phá vỡ quy phạm. Đây là những phá cách
góp phần chuẩn bị cho sự cách tân của thơ ca Việt Nam.

Nói chung, trong quá trình hiện đại hóa văn học, những thể thơ mới ít thấy
xuất hiện trên báo chí Phật giáo, chỉ thỉnh thoảng có một vài bài. Xét về mặt văn
học nghệ thuật, các nhà thơ đã vận dụng những thể thơ truyền thống, giúp chúng ta
hiểu được hồn thơ dân tộc và thơ Đường cổ điển như mạch suối ngầm trong mát
vẫn cuộn chảy theo thời gian. Hay nói cách khác, thơ ca trên báo chí Phật giáo là sự
hội tụ nhiều phẩm chất của thơ ca dân tộc, hầu như nghiêng về loại thơ có nội đung
khuyến thiện, trừng ác, xiển dương đạo lý, nặng chất răn đời mà ít chất thiền vị tinh
tế và sâu sắc.

3.4.1.2. Ngôn ngữ thơ

Các thể thơ chính được sử dụng trong những sáng tác trên báo chí Phật giáo
trước 1945 vẫn chủ yếu là các thể thơ truyền thống: Lục bát, Song thất lục bát,
Đường luật… cùng với mục đích chủ yếu là truyền tải đạo lý nhà Phật tới quần
chúng, cho nên thơ ca trên báo chí Phật giáo giai đoạn này không đặt nặng nhiệm vụ
đổi mới ngôn ngữ nghệ thuật. Ngôn ngữ thơ vẫn là thứ ngôn ngữ của nền văn học
cửa Khổng sân Trình vơi tính trang trọng, điển phạm, hàm súc, trang nhã. Nhưng
nói như thế không có nghĩa ngôn ngữ thơ hoàn toàn không có chút gì đổi mới.
Trong thời buổi giao thời dù muốn hay không những sáng tác thơ ca trên báo chí
Phật giáo trước 1945 vẫn có những thay đổi đáng kể, góp phần tích cực vào công
cuộc hiện đại hóa nền thơ ca Việt Nam. Đó là sự đời thường hóa ngôn ngữ, tính
điển cố điển tích không còn được coi trọng.
178

Với mục đích truyền bá Phật pháp nên những bài thơ được thể hiện trên báo
chí Phật giáo giai đoạn trước 1945 đậm đà tình dân tộc và đều chứa đựng những tư
tưởng, triết lý Phật giáo. Hầu như các tác giả dùng những cách nói, lối nói rất gần
gũi với cuộc sống, tuy nhiên sắc thái biểu cảm chưa được phong phú. Ngôn ngữ thơ
bình dị và được sử dụng linh hoạt nên dễ đi vào lòng người. Những phương tiện đó
góp phần đắc lực giúp chuyển tải những giáo lý cao sâu của nhà Phật đến với nhân
dân.

Các nhà thơ cũng đã có những sáng tạo trong ngôn ngữ, biết kết hợp giữa
thực và ảo, đồng thời vận dụng từ ngữ trừu tượng trong triết lý của Phật giáo để tạo
ra những câu thơ, hình tượng thơ giàu ý nghĩa và có giá trị biểu tượng, biểu cảm cao.
Tâm Bình đã cho thấy điều này qua bài Chơi núi Thiên Thai đăng trên Viên âm số 8:

“Vô minh giấc mộng nay vừa tỉnh


Ngồi đợi trăng lên, gió bốn bề.”

Có những bài thơ dùng ngôn ngữ bình dị, mộc mạc, vừa như lời giao kết, lại
vừa như một lời khuyên nhủ nhẹ nhàng: Trần thế còn nhiều gian khổ, chỉ có nhận
chân được bản chất của cuộc đời mà bỏ đi mọi ái nhiễm, tham lam, ích kỷ… trong
lòng thì đời sống mới bình an, thanh thoát hơn. Như Giác Nhiên thể hiện trong bài
Con thuyền bể khổ trên tạp chí Từ bi âm số 2:

“Bể khổ thuyền ai đắm sự đời


Trải bao sóng gió nghĩ thương ôi
Người đời mê mộng gây sầu não
Nước mắt đầy hơn nước bể khơi.”

Tác giả đã dùng biện pháp tu từ ẩn dụ, mượn hình ảnh “bể khổ” và “thuyền”
để ví cho cuộc đời và con người. Con người là chiếc thuyền cứ mãi lênh đênh trong
biển đời đau khổ mà không sao thoát khỏi được. Từ đó, tác giả tiếp tục sử dụng biện
pháp tu từ so sánh, để ví “nước mắt” con người còn nhiều hơn cả biển khơi. Với
những từ ngữ bình dị, gần gũi với ngôn ngữ trong dân gian: bể khổ, sóng gió, nước
mắt, bể khơi… bài thơ thất ngôn Đường luật của tác giả Giác Nhiên đã không còn là
179

thứ văn chương điển phạm, cao quý nữa mà như được tác giả dân gian sáng tác nên,
lời thơ gần gũi với cuộc sống và con người.

Có thể nói, nghệ thuật dùng ngôn từ, hình ảnh ẩn dụ, so sánh của Giác Nhiên
không có gì mới nhưng đã cho người đọc sự liên tưởng rộng, khiến người đọc cảm
nhận được triết lý của đạo Phật chứa đựng trong bài thơ và qua đó, tác giả cũng dễ
dàng bộc lộ lòng thương cảm sâu lắng, tha thiết hơn của mình đối với muôn người.

Với cách dùng ngôn ngữ, hình ảnh ẩn dụ, so sánh đó, những tác giả khác
cũng thể hiện được triết lý cao sâu của nhà Phật. Như Diệu Không đã so sánh, ví tất
cả sự vật trên đời chỉ là giấc mộng, tức là tác giả đã trừu tượng hóa các sự vật thành
một giấc mộng và điều này đã giúp cho người đọc dễ dàng hiểu được bản chất của
muôn sự vật là không tồn tại lâu dài:

“Cả thế sự như in giấc mộng


Khuất lần theo với bóng tà dương.”

Ở đây, tác giả đã dùng ngôn từ hình tượng để diễn tả sự vật và chính sự diễn
tả ấy đã làm cho lời thơ hàm chứa nhiều ý nghĩa hơn. Ngoài ra, tác giả còn vừa trừu
tượng hóa vừa cụ thể hóa muôn vật. Mới đưa cảnh vật vào giấc mộng thì liền trở về
cụ thể hóa sự vật như “bóng tà dương”. Dù bóng tà dương hay giấc mộng cũng đều
không bền vững, nhưng là hai trạng thái khác nhau, một bên có hình tướng và một
bên không có hình tướng. Nhờ nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ hình tượng của tác giả
ở hai câu thơ này đã nói lên ý nghĩa về sự vận hành của vạn vật.

Hai câu thơ với nghệ thuật diễn tả không có gì đặc sắc nhưng qua ngôn ngữ
hình tượng của nhà Phật đã gợi cho người đọc những chiêm nghiệm về thế sự nổi
trôi.

Tâm Bình với bài thơ Chơi núi Thiên Thai đăng trong Viên âm số 8 cũng cho
ta thấy rõ cuộc đời giả tạm bằng những ngôn ngữ thiết thực, đồng thời tác giả còn
sử dụng điển tích để nói đến sự vinh hoa phú quý ở đời:

“Thấy cuộc thua hơn đôi nấm đất


Thương đời danh lợi một nồi kê.”
180

Biết bao nhiêu cuộc tranh đấu hơn thua của con người, bao nhiêu danh vọng
trong đời người nhưng được tác giả dùng phép tu từ so sánh, cô đọng lại chỉ bằng
hình tượng “đôi nấm đất” và “một nồi kê”. Hình ảnh “một nồi kê” là tác giả đã vận
dụng điển tích “Giấc mộng kê vàng” để chỉ sự phú quý vinh hoa chẳng khác nào
một giấc mộng. Như vậy, qua hai câu thơ đó, chúng ta hiểu được ý tác giả muốn
cho con người thấy tất cả danh vọng, hơn thua trong đời dù có tốt xấu thế nào,
nhưng chung cuộc vẫn trở thành cát bụi, không có gì bền vững mãi mãi.

Bài thơ Biết huyễn phải tìm chơn của Bích Phong đăng trong Từ bi âm số 21
cũng cho ta thấy lẽ vô thường của cuộc đời qua nghệ thuật sử dụng ngôn từ rất đời
thường của tác giả. Bích Phong đã dùng phép so sánh ví sự giàu sang của con người
như “chòm mây bạc”, ví sự sống chết của con người như “khắc trống canh”:

“Giàu sang chẳng khác chòm mây bạc


Sống thác chưa đầy khắc trống canh.”

Hai hình ảnh so sánh ở hai câu thơ cho thấy tác giả đã chuyển từ quan sát
bằng thị giác sang cảm nhận bằng thính giác, tức là mới đưa chúng ta đi quan sát
chòm mây, lại nhanh chóng kéo ta về nghe tiếng trống canh thâu. Điều này chứng tỏ
tác giả đã sử dụng ngôn ngữ gợi sự liên tưởng và tạo hình tượng có phần nhạy bén.

Không những thế, sa môn Bảo Giám trong Tiếng chuông sớm số 1, bằng
phép tu từ ẩn dụ cũng đã chỉ cho con người thấy rõ cõi chúng ta đang sống chỉ là cõi
tạm bợ:

“Liễu rủ nhau về quê Tịnh độ


Thôi đừng ham trọ quán Sa bà.”

Cái hay của Bảo Giám là đã lồng ghép được ngôn ngữ Phật giáo vào trong
câu thơ với những từ “quê Tịnh độ”, “quán Sa bà”. Nhờ điều này, tác giả đã nhấn
mạnh cho ta thấy cõi đời con người đang sống chỉ là quán trọ và lúc chúng ta đang
sống là lúc tạm nghỉ chân thôi, không phải là cõi sống vĩnh hằng. Cho nên, chúng ta
đừng tham đắm vào cõi đời và đừng cố bám víu vào nó, vì càng bám víu sẽ càng
khổ đau. Chỉ có cảnh sống Tịnh độ, nơi an lành, thanh tịnh mới là quê hương đích
181

thực của con người. Tác giả là người biết vận dụng từ ngữ Phật giáo và hình tượng
chân thực, gần gũi để tạo nên câu thơ có tính nghệ thuật.

Cùng với lối dùng từ cụ thể hóa này, Nguyễn Thiện Chính cũng đã tạo nên
hai câu thơ bình dị:

“Điều lành là báu ta nên chuộng


Nếm thử mà xem vị ngọt ngon.”

“Điều lành” là không có hình tướng, không màu sắc, mùi vị, không thể nếm,
ngửi hay đụng chạm được, nhưng tác giả đã biết dùng phép tu từ cụ thể hóa để biến
vật trừu tượng thành vật có hình, có mùi vị. Rất thú vị ở chỗ là tác giả đã giúp con
người nếm được hương vị ngon ngọt của điều lành, điều tốt. Nghệ thuật sử dụng
ngôn ngữ trong thơ của tác giả đã tạo cho con người cảm giác như bước từ bóng tối
ra ánh sáng và thế là trước mắt họ, cả một bầu trời trong xanh, mát mẻ hiện ra thật
hấp dẫn và ấn tượng.

Ngoài ra, có những tác giả đã biết dùng ngôn ngữ giàu tính họa, tính nhạc,
tức là vừa giàu hình ảnh, sắc màu lại còn vừa giàu nhạc điệu, như Thanh Bảo đã
diễn tả:

“Phá sạch rừng mê vào chính ngộ


Xé tan lưới kiến rõ chân như.”

Hay như T.B viết:

“Chuông Tào, mõ Đẩu khêu hồn tục


Rừng cấm, giếng rồng ẩn bóng dương.”

Hoặc như Huyền Am ngân nga:

“Suối bạc kêu vang ngàn trượng đá


Non xanh lên thấu mấy tầng mây
Đàn chim như niệm câu kinh Phật
Ngọn gió xa đưa tiếng kệ Thầy.”

Ngôn ngữ những câu thơ trên đơn giản, gần gũi, hình tượng thơ thường là
những hình ảnh được lồng ghép giữa hình tượng trong ngôn từ Phật giáo và ngôn từ
182

dân gian, khiến các câu thơ không nặng tính điển phạm của thơ cổ. Nhờ sự kết hợp
hình ảnh ngôn ngữ như thế mà tính nhạc trong câu thơ mang đậm tính nhạc của các
thể thơ dân gian hơn, tạo nên sự gần gũi dễ hiểu cho đông đảo quần chúng khi tìm
hiểu giáo lý nhà Phật. Hình ảnh trong câu thơ là những hình ảnh gần gũi với cuộc
sống thường ngày của con người, nhưng cũng không vì thế mà câu thơ mất đi tính
hình tượng. Bởi chính những hình ảnh đó tạo nên tính hình tượng của câu thơ mang
hơi thở và cuộc sống của con người Việt Nam, truyền tải những giáo lý thâm sâu
của nhà Phật vào cuộc sống dân gian từ chính những hình tượng thân thương gần
gũi này.

Qua các biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, tượng trưng… các nhà thơ
tạo nên những câu thơ giàu hình tượng, tính họa, tính nhạc khiến người đọc cảm
thấy như nhịp sống của cuộc đời đang an lành trước cảnh thiền môn, đưa con người
trở về với tâm thanh thản trong chính cuộc sống của mình. Đó cũng là những đóng
góp bước đầu của ngôn ngữ thơ ca trên báo chí Phật giáo trước 1945: đưa thơ ca và
ngôn từ của nó lại gần với cuộc sống của nhân dân và đi vào đời sống nhân dân.

Dòng văn học Thiền tông thế kỷ X - XIV, mà tiêu biểu là thơ Thiền Lý -
Trần đã khắc họa rất rõ nét hình tượng con người thâm ngộ triết lý Phật giáo. Con
người là yếu tố đầu tiên và có thể nói là hình ảnh chủ đạo trong thơ ca. Đến với thơ
Thiền, hình tượng con người được khám phá đầy bất ngờ và thú vị qua những bức
tranh về cuộc sống. Những tác phẩm như Cáo tật thị chúng (Mãn Giác), Ngư nhàn
(Dương Không Lộ), Thị đệ tử (Vạn Hạnh),... đã gửi gắm những quan điểm triết học,
nhân sinh quan và cái nhìn tinh tế, mĩ lệ về xã hội nói chung và con người đương
đại nói riêng. Nhờ thấm nhuần tư tưởng triết lý Phật giáo mà đa số các tác giả thơ
Thiền đều có chung quan niệm về con người, về sự hiện hữu - sinh diệt của đời
người. Họ cho rằng thân người được cấu thành và tồn tại bởi tứ đại và ngũ uẩn, nó
duyên sinh, vô ngã. Sự biến đổi vô thường là bản chất của cuộc sống con người với
đầy đủ các giai đoạn sống, từ tuổi ấu thơ, trưởng thành rồi đến già yếu và chết đi để
tiếp tục một cuộc đời mới, một kiếp sống mới. Cho nên có người cho rằng, thân con
người sống ở đời và chết đi trong đời cũng như chiếc áo, cũ tất phải thay, không có
183

gì phải hoang mang, sợ hãi. Điều này đã được các thiền sư nhắc đến rất nhiều, như
một lời cảnh báo đối với những người đang sống trong dòng đời biến diệt.

Kế thừa được tư tưởng, triết lý về hình ảnh thân người giả tạm từ thơ thiền,
Thanh Tâm cũng đã thể hiện được bài thơ Khuyên tu trên Viên âm số 8. Tuy tác giả
chưa tạo ra được những ngôn ngữ thơ đặc sắc như thơ thiền, nhưng với cách dùng
ngôn ngữ bình dị đã diễn tả được phần nào sự vô thường, giả huyễn của thân người:

“Trăm năm trong cõi người ta


Tấm thân mỏng mảnh suy ra có gì…”

Qua đó, với lối dùng ngôn ngữ chân chất, Trí Hải với bài thơ Có thân cần
phải tu đăng trên Đuốc tuệ số 68, cũng đã tỏ ra rất lạc quan khi nhìn thấu sự vô
thường, giả hợp của thân người:

“Nghĩ thân mà lại bật cười


Hỏi mày sinh ở cõi đời chi đây?”

Trên Từ bi âm số 26, HT. Bích Liên với lối dùng ngôn ngữ đời thường cũng
đã khẳng khái chỉ cho con người thấy rõ những ô uế, giả tạm trong thân người với
tinh thần tự tại:

“Người sanh trong cõi hồng trần


Ai ai đều cũng có thân đó mà
Đem trong thân ấy kể ra
Xương, da, máu, thịt, ruột già, ruột non.”

Những câu thơ trên cho chúng ta thấy, các tác giả cũng đã thể hiện được triết
lý Phật giáo trong nghệ thuật xây dựng hình tượng con người, tuy nhiên chất lượng
nghệ thuật chưa cao. Do đó, nếu nói về giá trị nghệ thuật sử dụng ngôn từ của thơ
văn trên báo chí Phật giáo trước 1945 thì quả thật chưa đáp ứng được nhu cầu
thưởng thức của độc giả. Tuy nhiên, với ngôn từ cô đọng, giản dị, các nhà thơ cũng
đã vẽ lên được bức tranh hiện thực về con người, khiến cho người đọc có cảm giác
như đang đối diện với cảnh thực và cảm thụ được tư tưởng gửi gắm của các nhà thơ.

Nhìn chung, nét đặc trưng trong phong cách nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ
của những bài thơ đã thể hiện trên báo chí Phật giáo lúc bấy giờ là giản dị, chân thật,
184

mang đậm màu sắc triết lý Phật giáo. Qua đó ta thấy khả năng sử dụng ngôn ngữ
nghệ thuật của các nhà thơ luôn thể hiện được sự kết hợp giữa đạo và đời. Thế giới
nội tâm của các nhà thơ không chỉ biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ mà bằng cả
âm thanh, nhịp điệu và hình tượng của những từ ngữ ấy. Mỗi từ mỗi câu được các
nhà thơ diễn tả đúng như những gì mà họ nhìn thấy và cảm nhận là sự vang vọng từ
tâm hồn thi nhân, điều đó cho thấy họ đã biểu hiện được sự tập trung tính hàm súc
của ngôn ngữ.

Nói tóm lại, những trang thơ trên báo chí Phật giáo hầu như xoay quanh các
chủ đề tu tập theo chính pháp và nêu lên triết lý sống theo con đường cao thượng,
sống tốt đẹp, mang lợi ích cho mình, cho người và cho cả dân tộc. Điều đó góp phần
không nhỏ trong công cuộc đem đạo vào đời và ngầm nhen nhúm tinh thần bảo vệ,
giữ gìn bờ cõi quê hương đất nước. Hầu như những dòng thơ đó được ra đời từ
những người học Phật và nhằm mục đích để minh họa, truyền tải triết lý Phật giáo
mà không đặt nặng vấn đề cách tân nghệ thuật. Cho nên, dù giá trị nghệ thuật chưa
cao, chưa mang đến cho người đọc những rung động thẩm mỹ trong thơ ca, nhưng
mỗi lời, mỗi ý, mỗi hình tượng và cả giọng điệu diễn tả đều mang tính chân thành,
chân chất, trong sáng và gần gũi với đời sống hằng ngày của con người.

3.4.2. Giá trị nghệ thuật của văn xuôi

Những đổi mới trong văn xuôi chính là sự cách tân trong nghệ thuật biểu
hiện. Tìm hiểu giá trị nghệ thuật của truyện ký, truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút trên
báo chí Phật giáo trước 1945, trong chừng mực nào đó sẽ góp phần cho chúng ta
thấy cái nhìn toàn diện và sâu sắc về sự cách tân trong văn học Việt Nam khi
chuyển từ hệ hình văn học trung đại sang hệ hình văn học hiện đại. Đặc biệt là
những sự thay đổi trong nghệ thuật xây dự ật cũng như kết cấu
và ngôn ngữ tác phẩm. Ngoài ra, việc tìm hiểu này có thể sẽ ít nhiều góp phần vào
việc nghiên cứu văn học trong giai đoạn giao thời ở nước ta.

3.4.2.1. Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật

Nhân vật là hình thức cơ bản để miêu tả, chuyển tải hình tượng con người đi
vào văn chương. Tìm hiểu giá trị nghệ thuật xây dựng ngoại hình và tâm lý nhân vật
185

có thể giúp ta nắm bắt được tư tưởng của nhà văn, bởi nhân vật là yếu tố để nhà văn
bộc lộ chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Đồng thời qua nhân vật, nhà văn muốn bày tỏ
những quan niệm, suy tư trăn trở của mình trước thế sự, trước cuộc đời, để từ đó
giúp chúng ta nhận ra nhân sinh quan của thời đại mà nhà văn đang sống.

Qua việc tìm hiểu những tiểu thuyết, truyện ngắn trên báo chí Phật giáo trước
1945, ta có thể thấy hầu như các tác giả đều có chung một điểm về phong cách xây
dựng ngoại hình nhân vật. Tác giả nào cũng xây dựng nhân vật theo quan niệm
“thiện” và “ác”. Đây là sự tiếp nối của văn học truyền thống khi nhà văn xây dựng
những nhân vật theo quan niệm “bao” và “biếm”.

Cô gái tên Quỳnh Liên trong tiểu thuyết Tu là cội phước, tình là dây oan, đã
được tác giả dùng những từ ngữ xây dựng ngoại hình theo quan niệm truyền thống
trưng khi so sánh với nét đẹp của thiên nhiên: “Xuân
xanh xấp xỉ vừa tuần cập kê, dung mạo đoan trang, phong tư yểu điệu, mắt ngời
sóng biếc, mày uốn vòng nga, nước tóc pha mây, màu da ánh tuyết, thật là một vị
tuyệt sắc trên đời, tưởng lại các hàng tiên nữ trong cung quỳnh, điện quế cũng
không thể sánh cho được”.

Cũng với cách xây dựng ngoại hình nhân vật như vậy, tác giả Chánh Niệm
trong tiểu thuyết Duyên trước tình sau đã khiến cho người đọc không khỏi ngơ ngẩn
trước sắc đẹp của nàng Thiều Hoa: “Hai ông bà sanh một gái tên là Thiều Hoa, tuổi
vừa mười tám, dung mạo phương phi, mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da,
mày tầm mắt phụng, miệng cười như hoa mùa xuân, thiệt là sắc nước hương trời,
trên đời có một, dưới thế không hai”.

Với tiểu thuyết Hiếu nghĩa cảm Phật, Liên Tôn dẫu có chút thực tế ngay từ
lối miêu tả ban đầu, nhưng rồi tác giả cũng mượn cách ẩn dụ bóng bẩy của thơ, văn
vần để nhấn mạnh vẻ đẹp ngoại hình của nhân vật mình muốn đề cập: “Một bữa kia,
Phan Quí đến chùa thắp hương cúng nguyện, mới bước ra thì chợt thấy một nàng
ước độ tròn trăng, dung nhan đẹp đẽ, tay dắt một đứa em nhỏ, ở ngoài ngõ chùa đi
vô. Hai người vừa gặp nhau đều dừng chân đứng lại mà nhìn, xem tuồng như có túc
duyên đâu kiếp trước, khiến người quốc sắc, kẻ thiên tài, tình trong như đã mặt
ngoài còn e”.
186

Chánh Trí qua tiểu thuyết Biển ái sóng dồi đăng trên Viên âm số 1 thì xây
dựng nhân vật một cô gái tên Phương Tâm, nhân vật chính trong truyện theo lối văn
bóng bẩy. Tác giả diễn tả nét đẹp ngoại hình của cô gái bằng cách kết hợp với vẻ
đẹp của thiên nhiên, nên đã làm cho nét đẹp của cô càng rực rỡ như một tuyệt sắc
giai nhân: “Một buổi sáng kia, thoạt thấy một nàng thiếu nữ đứng cạnh chậu hường,
tay nưng gò má dường như suy nghĩ nhiều lắm. Mặt trời mới mọc, ánh sáng chen
lên đầu trúc, soi vào mặt nàng, da tuyết ửng hồng, rõ ràng một cành hoa biết nói.
Nàng nhẹ tay ngắt một hoa hường, đôi tròng thu thủy ngó chăm”.

Quả thật, lối diễn tả ngoại hình nhân vật trong những tiểu thuyết ấy, khiến
người đọc thấy thích thú. Trong cuộc sống, có lẽ ai cũng thích ngoại hình đẹp, hễ
khi nghe đến sắc đẹp tuyệt trần của một người nào đó, hầu như ai cũng muốn ngắm
nhìn. Điều đó cho thấy các nhà văn vẫn sử dụng lối văn truyền thống, cách miêu tả
ước lệ truyền thống để xây dựng ngoại hình nhân vật. Lối miêu tả này rất phù hợp
với quan niệm phân tuyến nhân vật thành hai bên thiện ác, cũng phù hợp với việc
thể hiện thuyết nhân quả của nhà Phật.

Tìm hiểu ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật của Liên Tôn trong tiểu thuyết Tu
là cội phước, tình là dây oan, cho thấy tác giả đã chú ý đến việc miêu tả, phân tích
tâm lý nhân vật theo cách đối nghịch tâm lý. Nàng Quỳnh Liên là người đi kén
chồng, trải qua nhiều cuộc tranh tài giữa các chàng trai, nàng mới chọn được người
xứng đáng, thích hợp với điều kiện nàng đưa ra. Trong hoàn cảnh này, đúng ra nàng
sẽ rất vui mừng vì đã tìm được người chồng vừa ý. Nhưng trong tiểu thuyết, tác giả
đã đặt tâm lý nhân vật Quỳnh Liên trong một hoàn cảnh khác, với một tâm trạng
đau buồn, không chịu nổi cảnh ấy, nên nàng chỉ gắng gượng làm vui. Tâm trạng
nàng lúc này đối nghịch hoàn toàn với Mã Sanh, là chàng trai vừa thực hiện đúng
như yêu cầu nàng đề ra trước khi cầu hôn nàng: “Mã Sanh lúc này mắt xem như
gương tinh, giọng cười như sóng sắc, chàng mừng đặng nhân duyên đẹp đẽ và lấy
làm một cái kỳ ngộ xưa nay ít có, nên cảm thấy hân hạnh vô cùng”. Nàng Quỳnh
Liên thì ngược lại: “Còn phần nàng Quỳnh Liên thấy vậy thì thêm đau đớn lòng,
không kham nổi cái tình cảnh ấy, nhưng nàng gắng gượng làm vui, không cho Mã
Sanh rõ thấu”.
187

Cách miêu tả tâm lý nhân vật của Liên Tôn trong tác phẩm này đã tạo cho
độc giả những thắc mắc. Xét theo quan niệm lối miêu tả truyền thống thì ở đây tác
giả đã miêu tả được sâu hơn tâm lý nhân vật, tạo cho nhân vật sự sống động chân
thực hơn.

Gần với phong cách miêu tả tâm lý nhân vật kiểu đối nghịch đó, có tác giả
Chánh Niệm qua tiểu thuyết Duyên trước tình sau. Trước hết tác giả kể về sự kết
duyên vui vẻ của đôi vợ chồng trẻ là chàng Vương Hi và nàng Thiều Hoa, nhưng
kinh qua luật vô thường chuyển biến trong cuộc sống, chỉ trong thời gian ngắn ngủi
mà cha mẹ hai bên của họ đều qua đời. Tình cảnh đó, khiến tâm trạng Vương Hi
thay đổi hoàn toàn. Từ một người đang vui vẻ trong hạnh phúc lứa đôi vừa có được,
chàng đã trở nên chán ngán tột cùng tình cảm ở đời, bởi chàng đã thấy rõ chân lý
sanh, lão, bệnh, tử diễn ra thật nhanh ngay trước mắt mình. Thế là chàng dứt bỏ hẳn
mọi ràng buộc tình ái ngoài thế gian để đi tìm lối sống tự tại, giải thoát: “Ôi! Là
sanh, lão, bịnh, tử này làm cho con người khổ biết mấy! phải làm sao mà tránh bốn
cái khổ ấy đặng? Phải tu hành làm gốc, tìm cho ra bốn mối khổ đế thì mới mong
thoát cái kiếp luân hồi lọc dọc, chớ ràng buộc bốn món lạc trần hoài thì còn nhiễu
nhương đến kiếp nào?”.

Tự mình giải thoát được khổ lụy rồi, nhưng khi thấy nàng Thiều Hoa còn lưu
luyến về tình duyên giả tạm ở đời, Vương Hi thấy thương xót vô cùng nên đã hết
lòng khuyến dẫn nàng thoát khỏi những khổ sầu ấy: “Lập tức chàng viết thơ chỉ bày
các điều khốn đốn trần ai đặng khuyên nàng tưởng đến việc trừng tâm thanh tịnh,
không nên ràng buộc dây tình ái cõi hồng trần, mau chóng như bóng phù du, như
thoi đưa, như chớp nhoáng, mới thấy đó rồi liền mất đó”.

Ngoài ra, các tác giả xây dựng nhân vật với cách miêu tả tâm lý còn khá đơn
giản qua sự thay đổi tâm lý nhân vật rất nhanh. Không cần trải qua nhiều thời gian,
sự kiện mà chỉ cần nêu được vài dẫn dụ là có thể giúp đối phương thay đổi hoàn
toàn tâm lý. Sự đơn giản trong cách miêu tả tâm lý nhân vật như vậy là do bởi các
tác giả không đặt nặng vai trò nghệ thuật mà mục đích là “tải đạo”, truyền bá giáo lý
nhà Phật. Cũng từ lý do này mà đa phần các tác giả đã xây dựng nhân vật theo tư
tưởng chủ quan để giáo hóa con người, để khuyến thiện và trừng ác. Tuy nhiên, với
188

nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật đơn giản này càng cho thấy giáo lý nhà Phật có
tác dụng chuyển hóa tâm linh con người một cách nhanh chóng, giúp con người
mau thoát khỏi những khổ đau ràng buộc trong đời.

Trong tiểu thuyết Thế cũng là “ngộ đạo”, Đ.N.T xây dựng kiểu tâm lý nhân
vật ông Hàn Phú thay đổi từ tiêu cực đến tích cực một cách nhanh chóng nhờ sự tác
động trực tiếp của nhân vật thứ hai. Đây là kiểu xây dựng nhân vật khá phổ biến
trong văn xuôi trên báo chí Phật giáo trước 1945. Ông Hàn Phú là một người giàu
có nhất nhì trong tỉnh, luôn sống với ý niệm trọng giàu khinh nghèo, phân chia giai
cấp rõ rệt. Thế nhưng, với sự xuất hiện của Thọ - con trai của ông - là người học
rộng nghe nhiều và đặc biệt am hiểu giáo lý nhà Phật, đã biến ông từ một người tự
cao tự đại, khinh rẻ người nghèo trở thành một người biết sống với tâm bình đẳng,
thương yêu tất cả mọi người.

Khi ông Hàn Phú vừa nghe Thọ xin phép cho chị gái cưới Đức, người bạn
học nghèo nàn, sống bằng nghề may vá, ông đã biến sắc mặt la lối: “Ối trời ơi, chỗ
cao môn lệnh tộc như cậu cả con quan Hường trên tỉnh thì không bằng lòng, lại
muốn lấy cái thằng may nghèo rớt mồng tơi, con nhà bách tính ở đâu không biết,
mới trôi dạt đến chỗ đầu đường xó chợ làng mình như thế a? Chuyện này mà vỡ lở
ra, các quan Tham, quan Phán trên tỉnh biết thì thực là chúng mày bôi tro trát trấu
vào mặt tao”.

Đang trong cơn tức giận, nhưng khi nghe con trai nói về triết lý bình đẳng
của đạo Phật, ông đã nhanh chóng cảm thấu, tỏ thái độ bình thản, ôn tồn nói với con:

Ừ, Đức Phật Ngài tự khử cái tệ giai cấp đi cũng phải. Ở đời mà phân giai
cấp kém mình một phần thì kẻ ở giai cấp hơn mình, họ lại còn đè nén mình
gấp mấy kia. Như hôm nọ đánh tổ tôm trong huyện mình, hai hội không ù
ván nào, hội thứ ba mới được ván bài tốt, đáng lẽ phỗng thành thì họ hạ
ngay phu xuống ăn mà nói trèn mình đi, bảo mình là nói đùa. Bấy giờ nói
ra thì sinh hiềm khích mà nín đi thì tức chết đi được. Thôi bắt chước Phật,
ta tự xóa cái tệ tục giai cấp đi trước.
189

Ở đây, nhân vật ông Hàn Phú cũng thể hiện thái độ của tác giả: Mượn hình
ảnh ông Hàn Phú để gửi gắm khát vọng con người có tinh thần tương thân tương ái,
tôn trọng lẫn nhau giữa cuộc sống loài người. Tác giả đã trực tiếp phân tích tâm lý
và có dẫn chứng cụ thể, chứ không phải chỉ là lời nói suông. Ông Hàn Phú thay đổi
thái độ sống không phải chỉ nghe theo lời giải thích của con cái mà còn ứng dụng lý
thuyết ấy với những gì xảy ra trong thực tế cuộc sống. Từ đó giúp ông hiểu rõ lẽ
thật ở đời, thấy rõ chân lý chắc thật để xây dựng cuộc sống hạnh phúc là xóa bỏ giai
cấp, con người bình đẳng với nhau trong thể tính.

Cô Ba Liễu trong truyện Cô Ba Liễu của Châu Hải viết trong Viên âm số 4
cũng được tác giả xây dựng theo tiến trình tâm lý từ tiêu cực thành tích cực, qua sự
trợ giúp của nhân vật thứ hai là Giác Hoa. Cô Ba Liễu đang sầu khổ về chuyện tình
cảm của mình: “Trong phòng khách chưng dọn theo kiểu mới, cô Ba Liễu đương
ngồi châu mày ủ mặt, tay nưng gò má ra dáng buồn bã, vừa nghe có tiếng đàn bà
kêu cửa, cô mời vào”. Dù tâm trạng buồn não nuột, nhưng khi gặp Giác Hoa, cô vẫn
cố che giấu nỗi buồn của mình: “Em sống một cách vui vẻ thế nầy, sao chị lại nói
em sống khổ?”. Tuy nhiên, khi Giác Hoa chỉ đúng nỗi khổ và nói với vẻ tha thiết:
“Em Liễu, em chớ dối chị, chị thương xót em vô hạn, vì trong khi em giả lả gượng
vui, chị đã thấy rõ em đương bị con ma phiền não cắt từng đoạn ruột”, thì Ba Liễu
đã khóc òa, bày tỏ hết nỗi lòng của mình: “Chị ôi, bực bội thế này, chắc em phải
chết, không còn thấy mặt chị được nữa!”.

Cô Ba Liễu đang trong tâm trạng sầu khổ lâu ngày như thế, nhưng vừa nghe
những lời khuyên nhủ của Giác Hoa, đặc biệt khi nghe Giác Hoa nói về việc tạo
dựng hạnh phúc gia đình không phải do tiền bạc quyết định, cô thấu hiểu được chân
lý cuộc sống và không còn buồn phiền nữa: “Cô Ba Liễu nghe lời, liền lên xe đi tìm
gặp được ông Trúc, cô ta xin lỗi và rước về nhà trò chuyện”.

Dẫu tiến trình tâm lý của nhân vật Ba Liễu được tác giả xây dựng theo lối
tăng dần, tức là từ xấu thành tốt, nhưng vì tình tiết quá đơn giản, không phong phú
nên không tạo sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với người đọc. Tuy nhiên, dù thế nào thì
tác phẩm cũng thể hiện được lối tâm lý nhân vật theo chiều hướng đạo đức và gửi
gắm sự giáo dục cụ thể đến với những ai muốn xây dựng gia đình hạnh phúc.
190

Kim Xuân qua tiểu thuyết Dưới chơn Phật tuy cũng theo lối chuyển đổi tâm
lý từ tiêu cực thành tích cực, nhưng có một vài điểm khác hơn những tác phẩm trên.
Tác giả nhấn mạnh tâm lý hai nhân vật là vợ chồng ông bà quan Phủ Minh Huệ, đặc
biệt là tâm trạng ưu tư, lo lắng của bà Phủ đối với chồng. Vì thấy ông Phủ làm
những chuyện trái đạo lý làm người, nên bà buồn rầu, tìm cách giảng giải về nhân
duyên nghiệp quả ở đời cho chồng biết, mong ông hiểu thấu tội phước gây tạo mà
sửa sai, để sống tốt hơn. Và đúng là bà Phủ đã khuyên giải, luận bàn về đạo lý rất
hay, khiến ông Phủ càng nghe càng thấm thía: “Bà luận đạo thiệt hay, khiến cho
ông càng nghe càng vui mà quên phức việc buồn... Hai ông bà đàm đạo rất lâu, cho
tới ba giờ khuya mới chịu tắt đèn đi nghỉ”.

Khi ông Phủ đã hiểu rõ mọi lẽ rồi thì thật nhanh chóng, ông liền sửa đổi tính
xấu của mình và biết sống tốt hơn:

Không biết ông Phủ nghĩ sao mà từ đó về sau, ông chăm chú về việc tu
hành. Ông không hiếp đáp dân nữa mà lại còn dìu dắt con dân vào đường
đạo đức rất nhiều. Ông hay giúp tiền cho các hội phước thiện và xuất bạc
tu kiều bồi lộ các nơi. Chùa nào hư thì ông cũng sửa sang lại cho thiện
nam tín nữ tu hành. Người nào có công dịch kinh sách mà không tiền thì
ông cũng sẵn lòng giúp của cho ấn tống. Không đầy hai năm mà ông làm
được nhiều việc nghĩa lớn, xa gần đều biết tiếng ông là nhà đại đức.

Đặc biệt, đứa con trai tên Minh Thành của ông bà Phủ cũng chịu ảnh hưởng
cách sống nhân nghĩa, đạo đức của họ mà thay đổi hoàn toàn lối sống của mình,
chuyển từ một đứa con ăn chơi lêu lổng, bất hiếu với cha mẹ trở thành một người
con ngoan hiền, hiếu nghĩa: “Minh Thành thấy cha mẹ như vậy cũng biết hồi tâm,
không thả luống chơi bời nữa, lại ở nhà chung lo việc phước thiện cùng cha mẹ”.

Chỉ với sự chuyên tâm khuyên giải về nhân nghĩa, đạo đức của người vợ mà
thay đổi được cách sống của chồng một cách nhanh chóng. Rồi từ đó tiếp tục tạo
được ảnh hưởng mạnh mẽ lên người con. Đây chính là kiểu tác động tâm lý lây lan,
thể hiện cụ thể qua cách sống của con người thực tại. Sự đơn giản trong lối miêu tả
tâm lý nhân vật này cũng dễ dàng tạo được sự đồng cảm của người đọc.
191

Trở lại với tác giả Liên Tôn qua tiểu thuyết Hiếu nghĩa cảm Phật, tác giả vẫn
miêu tả tâm lý nhân vật theo quan niệm truyền thống qua nhân vật Phan Quý và
nhiều nhân vật khác có liên quan mật thiết với Phan Quý. Khi Phan Quý nghe mẹ
nuôi nổi giận, mắng về chuyện không chịu cưới vợ để nối giòng giống, lòng Phan
Quý thấy buồn vô hạn: “Chàng ở nhà, phần thì nhớ đức cù lao, phần thì nghĩ duyên
hội ngộ, ngổn ngang trăm mối bên lòng, thảm khôn xiết thảm, buồn khôn xiết buồn”.

Đến nhân vật bà Lý Thị, cũng không khác gì: “Nói đến chuyện bà Lý Thị là
mẹ ruột của Phan Quý. Từ khi sai chàng đi thăm ông Huyện em, đã lâu mà không
thấy về, bà hằng ngày lo sợ, thắp hương cầu nguyện Phật Quán Âm, xin cho mẹ con
gặp nhau. Bà đương trông đứng trông ngồi, khóc lên khóc xuống”.

Phần nàng Bích Hà thì quả là quá tội nghiệp:

Lúc nầy, nói đến việc nàng Bích Hà, từ khi gặp chàng Phan Quý tại chùa
Hưng Duyên, rồi về nhà cách ít bữa thì cha nàng lâm bịnh mà mạng chung,
làm cho nàng rất thương xót buồn rầu. Vả lại tin tức của chàng càng ngày
càng vắn, khiến nàng phải thương mây nhớ gió, mặt võ mình gầy, đã hơn
một năm mà cũng chưa khuây. Còn mấy nhà công tử trông thấy nhan sắc
của nàng thì ai cũng cậy mai cậy mối tới nói. Mẹ nàng thì muốn gả cho rồi,
nhưng nàng cứ khóc hoài, nhứt định không ưng ai hết.

Lối xây dựng tâm lý nhân vật này của tác giả Liên Tôn có thể khiến cho
người đọc dễ hiểu hơn về tình tiết câu chuyện. Bởi đây là những nhân vật chính và
họ có mối quan hệ khắng khít qua những sự kiện, biến đổi. Tác giả đã diễn tả một
cách thấu đáo và bi thảm về những lo lắng, khổ đau giữa các nhân vật ấy qua hoàn
cảnh “thương yêu mà phải xa lìa và xa lìa mà không biết người thương đi về đâu”.
Lối diễn tả này tạo cho người đọc sự đồng cảm với cảnh ngộ nhân vật và mong
muốn cho họ mau chóng tương phùng. Điều đó cho thấy tư tưởng nhân đạo đã được
tác giả thể hiện rõ qua tình tiết câu chuyện.

Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng ngoại hình và tâm lý nhân vật của một vài tác
phẩm tiêu biểu trên báo chí Phật giáo, đã cho ta thấy được sự miêu tả ngoại hình và
khai thác tâm lý nhân vật của các nhà văn vẫn theo lối truyền thống. Những diễn
192

biến tốt đẹp của tâm lý nhân vật truyền thống đã chuyển tải được thông điệp của
giáo lý nhà Phật tới đông đảo quần chúng nhân dân. Qua đó, còn giúp ta hiểu được
những nhà văn thời bấy giờ hay nghiêng về tâm lý nhân vật chân thực và sống trong
hoàn cảnh cụ thể, bởi mỗi nhân vật đều lộ rõ bản chất và nhân cách của mình. Diễn
biến tâm lý nhân vật đôi lúc đã có chút phức tạp, mang tính bi kịch được thể hiện
hợp lý, nhưng nhìn chung, các nhân vật vẫn chưa có những thay đổi lớn. Có lẽ vì
vậy mà những tác phẩm văn xuôi trên báo chí Phật giáo trước 1945 ít tạo ra được
những chi tiết bất ngờ giàu sức thu hút để làm thỏa mãn rung động thẩm mỹ của
người đọc. Tính minh họa cho giáo lý nhà Phật của các nhân vật vẫn còn đậm nét.
Chính điều đó lại khiến cho các nhân vật càng gần gũi và dễ đi vào đời sống người
đọc bình dân để truyền tải những giáo lý nhà Phật hơn.

Tuy nhiên, môi trường sống của nhân vật không còn chỉ đơn thuần tồn tại
trong trung hiếu tiết nghĩa mà đã gắn bó, gần gũi với cuộc sống hằng ngày. Nhân
vật bước đầu đã chuyển từ những biểu tượng đơn thuần để trở thành những nhân vật
sống động. Đây là một trong những đóng góp cho sự đổi mới của văn xuôi Việt
Nam. Đồng thời nó còn góp phần mở ra thời kỳ mới cho thể loại truyện trong văn
học nước ta những năm đầu TK.XX và sau này.

3.4.2.2. Kết cấu tác phẩm

Mỗi một tác phẩm văn học, dù dung lượng lớn hay nhỏ cũng đều bao gồm
nhiều yếu tố, bộ phận... Tất cả những yếu tố, bộ phận đó được nhà văn sắp xếp, tổ
chức theo một trật tự, hệ thống nào đó nhằm biểu hiện một nội dung nghệ thuật nhất
định, gọi là kết cấu. Nói cách khác, kết cấu là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động,
phức tạp của tác phẩm văn học [48, tr.315].

Kết cấu có nhiệm vụ góp phần thể hiện chủ đề và tư tưởng của tác phẩm. Kết
cấu có nhiệm vụ tổ chức hệ thống các tính cách nhân vật, sự kiện, các biến cố, hình
ảnh, cảm xúc... làm cho những yếu tố đó gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại ngay từ
bên trong tác phẩm, làm cho nó trở thành một chỉnh thể nghệ thuật toàn vẹn không
thể chia cắt được [48, tr.315].
193

Như vậy, tìm hiểu kết cấu tác phẩm của những tác phẩm tiêu biểu trên báo
chí Phật giáo, chúng ta có thể biết được những quan điểm, thái độ, tư tưởng, phong
cách nghệ thuật, cá tính sáng tạo của nhà văn đối với cuộc sống lúc bấy giờ. Qua đó
ta cũng thấy được sự biến đổi trong việc xây dựng kết cấu tác phẩm.

Có thể nói, những truyện ngắn, tiểu thuyết đã khảo sát ở trên,
tác phẩm được xây dựng theo kết cấu hai tuyến nhân vật đối lập, nhưng nói chung
đều gặp nhau ở phương diện kết cấu theo trình tự thời gian của sự kiện - tức là nghệ
thuật trần thuật luôn tuân thủ theo trình tự diễn tiến tự nhiên của thời gian tuyến tính,
đi từ “nhân” tới “quả”. Ðây là dạng kết cấu phổ biến nhất trong văn học Việt Nam
từ trước 1930. Điều này cho thấy những tác phẩm văn xuôi trên báo chí Phật giáo
lúc bấy giờ vẫn còn chịu ảnh hưởng của thi pháp truyện ngắn trung đại - kiểu kết
cấu gắn bó chặt chẽ với nhiều sự kiện, biến cố.

Với tiểu thuyết Tu là cội phước, tình là dây oan, tác giả đã xây dựng tác
phẩm theo kết cấu hai tuyến nhân vật đối lập và mang đậm triết lý nhà Phật. Nhân
vật nàng Quỳnh Liên thì ngán ngẩm tình cảm ở đời, chỉ xem việc tu hành mới là tạo
ra phúc quả cho cuộc đời. Còn Mã Sanh thì một mực muốn kết hôn cùng nàng để
xây dựng hạnh phúc lứa đôi. Kết quả là hạnh phúc không thành. Qua đó tác giả
nhấn mạnh chỉ có con đường tu tập theo điều lành mới đem lại an vui vĩnh cửu. Đọc
qua tiêu đề tác phẩm, chúng ta cũng thấy rõ hai tâm trạng, tính cách đối lập nhau
thật rõ ràng.

Về nghệ thuật xây dựng kết cấu tác phẩm theo hai tuyến nhân vật đối lập còn
có tiểu thuyết Duyên trước tình sau. Chàng Vương Hi và nàng Thiều Hoa ban đầu
đối lập về tư tưởng. Vương Hi thì từ bỏ chuyện tình duyên để vào núi ẩn tu, nhưng
Thiều Hoa vẫn còn tham đắm tình duyên nên tìm mọi cách khuyên chàng quay về lo
việc gia đình, hưởng bổng lộc cao sang. Thế nhưng chàng đã cảm hóa được Thiều
Hoa, giúp nàng hiểu rõ mọi sự giả huyễn ở đời và tìm nơi tu học. Cuối cùng họ đều
thành tựu đạo quả. Kiểu kết thúc có hậu này chính là nét đặc thù trong giáo lý nhà
Phật, những người biết phát tâm tu hành, mong cầu giải thoát.

với kiểu xây dựng kết cấu tác phẩm này, tiểu thuyết Sám hối được
sanh về Thiên đường được tác giả xoay quanh hai tuyến nhân vật đối lập - đối lập
194

triệt để do sự thù hận - đó là HT. Chí Công và Hoàng hậu Hi Thị. Câu chuyện
ra với những tình tiết rất hấp dẫn giữa hai nhân vật này. HT. Chí Công luôn làm
điều tốt, nhưng thường xuyên bị kẻ đối lập là hoàng hậu Hi Thị tìm cách phá hoại
và hại ông đủ điều. Đến khi hoàng hậu chết, đọa làm thân rắn mãng xà khổ sở
mới biết ăn năn, hối cải về những tội ác mình đã tạo. Lúc bấy giờ, nhân vật chính
diện là Hòa thượng đã giúp bà thoát khổ.

Truyện ngắn Làm lành đặng phước, làm dữ bị họa cũng được tác giả xây
dựng theo kết cấu hai tuyến nhân vật đối lập là Lê Háo Kỳ và Vương Ái Nhơn.
Nhưng ở đây, nhân vật chính diện là Vương Ái Nhơn nhờ biết làm điều lành nên
được Bồ tát Quán Âm độ mạng.

Kẻ phản diện là Lê Háo Kỳ vì tham lam, ác độc nên đã không đỗ khoa thi mà
còn mắc bệnh nặng và bị sóng gió cuốn mất xác. Như vậy, tác phẩm này cũng tổ
chức kết cấu như những tác phẩm trên, nhưng tình tiết xảy ra không giống nhau và
kết thúc theo hướng khác. Tác giả đã để tác phẩm kết thúc theo kiểu người làm lành
thì được hạnh phúc, còn kẻ làm ác thì chịu tủi nhục, khổ đau mà không tạo cơ hội
cho kẻ ác được sám hối tội lỗi.

Tiểu thuyết Thế cũng là “ngộ đạo” được tác giả xây dựng theo kết cấu đảo
ngược thời gian của sự kiện, tức là nghệ thuật trần thuật không tuân thủ trình tự diễn
tiến của cốt truyện tự nhiên theo thời gian tuyến tính, đi từ nhân đến quả như kiểu
thi pháp trung đại. Tác phẩm này đã bắt đầu ở phần kết thúc của câu chuyện, bằng
cách mở đầu không nói đến nguyên nhân từ đâu có đám cưới giữa Đức và Tâm mà
đi thẳng đến kết quả là kể về đám cưới linh đình của đôi nam nữ này. Sau đó, khi có
nhiều người bán tán xôn xao về sự kiện này, tác giả mới trở về nói rõ nguyên nhân
của câu chuyện:

Đẹt đẹt, đùng! Lẹt đẹt đẹt, đùng! A ha ha đám cưới, đám cưới rước dâu cô
Tâm con gái cụ Hàn lấy người thợ khâu máy ngoài phố huyện. Đó là tiếng
lũ trẻ con làng Tôn Ninh nghe tiếng pháo nổ ở đám cưới, chúng hò reo để
gọi nhau đi xem. Kế đó trẻ con, người lớn, đàn ông, đàn bà trong làng
ngoài phố kéo nhau ra xem đám cưới rước dâu đông lắm, vì người ta thấy
đám cưới này có một điều lạ lạ, bên nhà gái thì rất sang giàu, bên nhà trai
195

thì nghèo hèn mà đột nhiên lại sẩy ra ngay ở giữa một cái nhà gái mà
người ta không ngờ có thể có được…

Bọn người đi xem rước dâu, thấy phong dạng người hai họ chênh lệch
nhau xa như thế, nên người bàn đi, kẻ tán lại nhao nhao… Trong bọn đi
xem có người biết chuyện bèn nói to lên để trả lời câu nghi vấn của công
chúng… Bà con nghe thấy đầu đề một câu chuyện hay nên ai cũng muốn
nghe, xúm xít lại hỏi. Anh biết chuyện ấy bèn thuật lại đầu đuôi thế
này…”

Lối xây dựng kết cấu tác phẩm đảo ngược thời gian của sự kiện như tiểu
thuyết Thế cũng là “ngộ đạo” là một hình thức mà một số tiểu thuyết đầu
TK.XX đã thể hiện.

Với tiểu thuyết Dưới Chơn Phật, tác giả đã xây dựng tác phẩm theo kết cấu
trình tự thời gian. Dù tác phẩm chỉ xoay quanh ba nhân vật chính trong gia đình
quan Phủ Minh Huệ, nhưng đã vẽ lên một bức tranh xã hội rộng lớn gồm nhiều
hạng người và đã khai thác được nhiều mặt khác nhau của đời sống. Quan Phủ thì
tham ô, làm việc không liêm chánh. Bà Phủ là người hiền lành, biết tu nhân tích đức,
không đua chen, đua đòi theo những người giàu có khác. Con trai Minh Thành lại
hư hỏng, không ra gì. Đó là ba trong những kiểu người trong xã hội đương thời.
Tuy nhiên, với kết cấu này, tác giả đã để cho nhân vật nhân hậu là bà Phủ cảm hóa
được quan Phủ, khiến ông thấu hiểu triết lý đạo đức của Phật giáo và từ đó quyết
chí làm một vị quan thanh liêm, thương yêu giúp đỡ mọi người. Về sau được mọi
người cảm ơn mến đức, tiếng lành đồn xa. Nhờ đó mà con trai của họ cũng cảm
phục nhân đức cha mẹ mà hồi tâm chuyển ý, sống làm người tốt.

Tiểu thuyết Hiếu nghĩa cảm Phật cũng được tác giả xây dựng theo kết cấu
trình tự thời gian. Tác phẩm này xoay quanh một số nhân vật và
theo thời gian.

Trước hết, câu chuyện đề cập chi tiết về chàng thanh niên tên là Phan Quý và
những biến cố xảy ra trong cuộc đời chàng. Tiếp theo là sự xuất hiện của một bà lão
được Phan Quý mua về làm mẹ nuôi. Kế đó, tác giả kể về những tình tiết của nàng
196

Bích Hà và mẹ của Phan Quý. Kết quả, nhờ sự trợ giúp của bà lão mà cả ba người
được gặp nhau trong niềm vui đoàn tụ. Nhân vật cuối cùng xuất hiện để kết thúc câu
chuyện là Bồ tát Quán Âm.

Theo kết cấu này, các nhân vật được xuất hiện theo thứ tự phát triển trước
sau của thời gian, qua sự phân bố về mặt hành động và sự kiện của tác phẩm. Các
sự kiện được sắp xếp, xâu chuỗi lại và lần lượt xuất hiện không bị đứt quãng. Có thể
nói, tác giả sử dụng loại kết cấu này đã tạo cho người đọc một cảm giác nhẹ nhàng,
dễ chịu, giúp họ dễ theo dõi câu chuyện hơn.

Nhìn chung, đa phần các tác phẩm đều được những tác giả chọn giải pháp
kết thúc theo quan niệm ở hiền gặp lành, ở ác gặp khổ, lấy tình thương yêu muôn
người, tình nhân ái bao la làm gốc để vươn lên trong cuộc sống. Tuy nhiên, một số
tác phẩm kết thúc còn mở lối cho kẻ ác ăn năn chừa lỗi, chuyển xấu thành tốt. Như
lời kết của Kim Xuân trong tiểu thuyết Dưới chơn Phật: “Nhờ tận tâm thi hành đạo
đức, mà cảnh gia đình của quan Phủ Minh Huệ an vui.”

ững kết quả mà các nhân vật nhận được trong từng dạng kết
cấu tác phẩm, cho chúng ta thấy dân gian hóa Phật giáo không phải là làm cho Phật
giáo trở nên trần tục, mất đi nét siêu thoát vốn có, mà là đưa Phậ đời sống
con người, được nhìn ngắm qua lăng kính dân gian. Những kết quả tốt đẹp đến với
mỗi nhân vật trong mỗi truyện, giúp câu chuyện luôn diễn ra theo kiểu kết thúc có
hậu, đem đến sự thỏa mãn cho người đọc, đã cho thấy sự tiếp nối nghệ thuật kết cấu
tác phẩm theo quan niệm truyền thống của văn học trung đại và văn học dân gian.

Mặc dù lối kết thúc của những tác phẩm trên đều theo lối cũ, nhưng đã khơi
gợi trong lòng người những giá trị về triết lý đạo Phật mà các tác giả muốn gửi gắm.
Đó cũng là tiếng nói đạo đức, là triết lý sống cao thượng cất lên từ những tác phẩm
văn họ ửa đầu TK.XX. Từ đây có thể khẳng định rằng văn học đâu chỉ
là phương tiện để giải trí mà nó còn góp phần bồi đắp đời sống tình cảm, tâm hồn,
tư tưởng cho con người.


197

ức

, và

Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có tác phẩm


được xây dựng theo kết cấu mới mẻ, mang dấu ấn của văn học hiện đại. Chẳng hạn
tác phẩm được xây dựng theo lối không đóng khung và câu chuyện chỉ đơn thuần là
sự minh họa giản đơn cho những đạo lý, triết lý của nhà Phật, tạo cho người đọc cái
nhìn mở về cuộc sống.

3.4.2.3. Ngôn ngữ kể chuyện và đối thoại

trong tiểu thuyết, truyện ngắn là một hệ thống đa ngôn ngữ. Mỗi yếu
tố trong tác phẩm đều được xác định trực tiếp từ phong cách mà nó thoát ra: phong
cách cá nhân trong lời nói của nhân vật, phong cách kể của người thuật truyện v.v..
Những tiểu thuyết, truyện ngắn trên báo chí Phật giáo cũng đạt được thành công
nhất định ở phương diện ngôn ngữ và nghệ thuật kể chuyện. Trong đó, nhiều hình
thức tổ chức ngôn ngữ được sử dụng: đối thoại giữa các nhân vật, độc thoại nội tâm,
ngôn ngữ người kể chuyện. Tuy nhiên, hầu như các tác giả đều chọn lối trần thuật
truyền thố ểm nhìn từ hai phương diện thiện và ác, xấu và tốt. Điều này
giúp người đọc dễ

Có thể nói, thông qua ngôn ngữ kể chuyện và đối thoại, những tác phẩm
truyện trên báo chí Phật giáo đều chứa đựng triết lý đạo đức của Phật giáo về cuộc
sống đời thường.

Với ngôn ngữ kể chuyệ ất yêu thương, với những văn từ xưa cũ,
nhưng nhữ ời đọc dễ dàng thấy được
cuộc sống chìm nổi, giả tạm trong cuộc đời khổ đau của con người. Điều đó thể
hiện rõ nét qua tiểu thuyết Tu là cội phước, tình là dây oan
ự kiện nàng Quỳnh Liên đưa ra điều kiện quá khó, những
chàng công tử nghe rất ngán ngẩm, nhưng vì quá say mê nàng nên ai ai cũng đều
đồng ý và cố gắng hết sức mình: “Mấy vị công tử nghe nói có ý ngậm ngùi, nhưng
198

cái sắc dục nó mạnh lạ thường, làm cho ai ai cũng ráng tranh nhau cho thuộc kinh
Kim Cang… Ôi! Sóng tình nhào nhảy, làm cho biển trí cũng sôi trào, trong một
đêm không biết bao tinh thần tư tưởng in vào óc của mấy vị công tử kia”.

Lúc nàng Quỳnh Liên lìa đời, tác giả đã diễn tả rất thê lương bằng những câu
văn biền ngẫu kiểu xưa cũ: “Than ôi, nhành hoa đương thắm một trận mưa chang;
bóng nguyệt vừa tròn mấy lùm mây án; tài sắc như vậy mà yểm trần như thế thì ai
là người có cảm cảnh mà lại không sầu thảm rước buồn về sự nàng, ai là người biết
thương đời mà lại không ngậm oán nuốt hờn cho con tạo đặng”.

Mã Sanh nhìn thân thể nàng chết đi rồi, lòng đau đớn vô cùng: “Ôi! Thương
thay! Mã Sanh phần thì buồn cho nàng phận bạc, phần thì xót cho chàng vô duyên,
giọt lệ chung tình chảy hoài không ngớt, nét sầu khổ cứ vẽ mấy không thành, mê
mẩn tâm thần dường như có thể chết theo được”.

Trong tác phẩm này, ngôn ngữ diễn tả tâm lý nhân vật cũng là ngôn ngữ của
tác giả. Giọng văn biến hóa linh động, không đơn điệ ẫn theo lối truyền thống.
Như Quỳnh Liên, khi nghe các chàng trai tỏ ý muốn kết tóc se duyên cùng nàng,
nàng đã e thẹn, khiêm tốn tỏ bày bằng những ngôn từ
“Thiếp đây chút phận thuyền quyên, hồng nhan mỏng manh, cũng muốn kiếm chỗ
gởi thân để về sau nương cậy, nhưng vì ngày trước thiếp có lời nguyện phải buộc
nhiều điều, phải được viên mãn thì cái phần nhơn duyên của thiếp mới phỉ nguyền”.

Rồi khi thấy nhiều chàng trai thuộc hết kinh Kim Cang, nàng Quỳnh Liên
thở dài: “Cũng đông như thế thiếp biết làm sao? Hay là cái duyên nợ của thiếp lôi
thôi trục trặc, thiếp xin ước lại một điều này nữa…”.

Tác phẩm Hiếu nghĩa cảm Phật, trong lúc diễn tả ngôn ngữ đối thoại trực
tiếp, tác giả dường như nhập vai vào từng nhân vật, chuyển vai lẫn nhau một cách
tự nhiên. Lời đối thoại thật thà, chân chất và có lúc thẳng thắn:

Ước chừng một hồi lâu, Phan Quý sợ trễ buổi học mới đánh liều mà hỏi
rằng: “Xin lỗi cô cho tôi hỏi một đôi lời. Không biết cô ở đâu mà nay đến
chùa lạy Phật. Vậy cô có chồng chưa?”. Nàng nghe hỏi tỏ sắc e lệ, cúi mặt
xuống mà đáp rằng: “Cũng có nhiều nơi đến nói mà cha tôi chưa hứa gả
199

nơi nào”. Chàng nghe trả lời thì có ý mừng nên hỏi rằng: “Như tôi đến nói
đặng không?”. Nàng làm thinh, chàng lại hỏi nữa: “Vậy chớ cô tên chi, cha
mẹ ở đâu và xin cô cho tôi biết ai thân thiết với người nhà, nữa tôi đến cậy
người làm mai.” Nàng làm thinh một hồi rồi đáp rằng: “Tôi là Tiêu Bích
Hà, còn cha tôi là Tiêu Nhượng Đức ở làng Ngọc Thanh. Cha tôi có một
người bạn thân thiết tên là Châu Khuyến Thành ở gần bên nhà, như có
muốn sự chi xin đến cậy người thì chắc yên.

Bích Hà khi gặp kẻ xấu, nàng thay đổi thái độ ứng xử rất nhanh và dùng
những lời lẽ có vẻ thô nhưng đầy nghĩa khí: “Tao là con gái có chồng, mà bây dám
hiếp hãm, tao thề làm con quỷ chính chuyên, chớ chẳng thèm làm con người bất
nghĩa đâu”.

Gặp lại Phan Quý, nàng trở về với con người thật của chính mình, với ngôn
ngữ đối thoại nhẹ nhàng nhưng chứa đựng sự trách hờn: “Tôi đây là con gái của ông
Tiêu Nhượng Đức, tên là Bích Hà, ở làng Ngọc Thanh, nửa đêm bị bọn ăn cướp lập
mưu với bác tôi mà đến nhà bắt tôi bỏ vào kiệu như vầy. Tôi là con gái có chồng,
thà tôi chịu chết chớ chẳng chịu thọ điều nhơ nhuốc”… Khi nàng nghe nhắc đến
việc cũ liền khóc òa rồi nói rằng: “Vậy thầy đó hay sao? Tôi vì thầy mà khổ như thế
nầy, thầy có biết không?”.

Ngôn ngữ kể chuyện của tác giả Chánh Niệm trong tiểu thuyết Duyên trước
tình sau cũng tràn ngập tình cảm yêu thương với những từ văn vần truyền thống,
nhưng cũng đầy bi lụy qua những giọng điệu than thở, thương cho thân phận con
người phải đối diện với sự chia lìa khổ đau:

Vẫn nghe ông Dương Đức Thận là người nhơn, sanh đặng một gái hiền,
Vương Hy xin mẹ đến cầu duyên cho trẻ. Nghe lời con phân trần, mẹ
Vương Hy vui vẻ đi liền. Nợ tiền kiếp đã liệt sổ thiên đình, nên vừa ướm
nói thì đôi bên đều ưng thuận. Sui gái không đòi tiền bạc, song sui trai noi
tục cổ, tục lệ đành rành. Ngày lành giờ tốt chọn xong, gái Nam Giang với
trai Đông Sàng thành duyên cá nước. Than ôi! Cái ngày hở môi cười mấy
thuở được lâu. Đương lúc mừng vui đôi đàng chưa thỏa, đâu hay nhựt xế
nguyệt tà…
200

Ngoài ý nghĩa đó, tác giả còn dùng ngôn ngữ đối thoại qua đố
và vẫn theo lối thơ truyền thống, nhưng mang ý nghĩa giáo dục con người hướng về
đời sống giác ngộ, giải thoát: “Vương Hy vào chốn tịnh ẩn dật tu hành, cải danh lại
là Tăng Đồ. Ít lâu, nàng Thiều Hoa nghe được tin tức ấy, bèn gởi một phong thư gọi
tỏ chút tình duyên… Nàng Thiều Hoa có đính theo năm bài thơ tứ tuyệt, để giục
chàng Tăng Đồ hoàn tục:

“Ớ ớ chàng ôi! ớ ớ chàng


Phù danh mấy bữa gởi Dinh hoàn
Chữ nhàn mua ở trong trời đất
Cực khổ làm chi hỡi bạn vàng.

Thương tang một cuộc hiệp rồi tan


Chén rượu câu thơ dạo ngón đàn
Véo vắt cò con tình giải muộn
Nâu thùng đâu sánh vẻ Y quan”…

Tăng Đồ nghe thế, liền viết thơ khuyên giải:

“Nghĩ sự đời thương kẻ chúng sinh


Sông mê lặn lội nỡ quên mình
Say sưa ổ mật ong quen nết
Bận bịu lòng hoa bướm dại tình
Thói bạc đầy tai nghe cũng xấu
Bụi hồng tô mặt gọi làm xinh
Công danh chán ngán thân phù thế
Giải thoát mong nhờ tiếng kệ kinh…”.

Truyện ngắn Làm lành đặng phước, làm dữ bị họa, tác giả Nguyễn Văn Hạp
cũng sử dụng ngôn ngữ đối thoại chân chất, thẳng thắn, nghe có vẻ nhẹ nhàng
nhưng mang tính đả kích: “Nầy anh Háo Kỳ, tôi tưởng anh là người đường đường
chánh chánh, đại nhân quân tử, biết trọng nghĩa khinh tài, hay thương người hoạn
nạn, hay giúp kẻ cô cùng, chớ có dè đâu anh nhẫn tâm đến thế, nhắm mắt làm càn.
201

Tôi lầm anh là bạn đồng song, là người đồng quận, nên nay mới ra nông nỗi như
thế”.

Lê Háo Kỳ nghe nói bèn làm bộ giận mà đáp lại bằng những ngôn ngữ
: “Vậy thì đồ hành lý đó, nhơn huynh lập tức lấy đem đi chỗ khác mà
ngụ, đừng chờ ở đây kiếm lời đê tiện mà nói xấu cho tôi như thế”.

Qua lối kể chuyện trên của các tác giả, cho thấy nghệ thuật miêu tả bằng
ngôn ngữ vẫn theo lối văn truyền thống, đi đôi với việc đưa ra các chi tiết, hành
động một cách cụ thể nên đã làm toát lên giá trị hiện thực và góp phần vào sự thành
công của tác phẩm.

Tác giả Kim Xuân qua tác phẩm Dưới chơn Phật còn có lối kể chuyện bằng
ngôn ngữ tâm lý. Từ đó, tác giả đã tạo ra một khung trời ảm đạm của hai nhân vật
với nhiều diễn biến tâm lý phức tạp:

Nhơn một đêm kia, nhằm Rằm tháng bảy, đã khuya rồi mà nhà quan Phủ
Minh Huệ còn thức… Bà thì ngồi bên ngựa ăn trầu, ông thì nằm trên ghế
xích đu hút thuốc. Cả hai chẳng nói chẳng rằng chi với nhau hết, cứ đánh
chữ làm thinh, dường như mỗi người đều có sự nghĩ lo, nên xem bộ buồn
xo gương mặt. Ngoài thì mưa rỉ rả, giọng dế nhặt khoan, trong thì đèn điện
sáng choang, đồng hồ kêu tích tắc!... Thỉnh thoảng nghe tiếng đại hồng
chung ở bên chùa Liên Tự gần đó ngân bon! boon! on!... thì càng làm cho
quan Phủ thêm buồn chứa chan tâm sự…

Văn xuôi tự sự trung đại thường chỉ chú trọng đến hành động, sự kiện với
những nội dung cốt yếu mà không phát triển , không có
yếu tố như ở tiểu thuyết và truyện ngắn hiện đại. Hầu như tác giả
chỉ quan tâm đến sự kiện mà ít lưu ý tới miêu tả trạng thái tâm lý nhân vật. Ngôn
ngữ kể chuyện trên của Kim Xuân đã biểu hiện cho ta thấy tính cách nhân vật được
tập trung khắc họa qua những diễn biến nội tâm. Điều này chứng tỏ bước đầu, Kim
Xuân đã những dấu hiệu hiện đại, mới mẻ đáng ghi nhận.

Ngôn ngữ tâm lý với nhiều diễn biến ấy, còn được tác giả thể hiện qua lối
văn đối thoại chân thực của các nhân vật. Ở đây, khẩu ngữ của nhân vật được sử
202

dụng hợp lý, diễn biến tâm lý thể hiện niềm thao thức, bâng khuâng về cuộc sống
con người chưa được hoàn thiện:

Bà Phủ thở ra rồi nói: Tôi nghĩ tôi rầu quá chừng!... thằng Minh Thành mà
thả luống chơi bời, bỏ nhà bỏ cửa như vầy đây, thì cũng tại ông hết thảy.

- Sao! Bà nói cái gì mà tại tôi hết thảy đó?.

- Vậy chớ tại ai kia! Tại ông thiếu âm đức, nên trời Phật mới khiến cho
con nó hư như vậy.

- Mụ này nói lạ dữ! tôi làm sao mà thiếu âm đức, mụ trưng bằng cớ cho tôi
coi!

Thiệt thuở nay tôi không thấy người đàn bà nào như mẹ trẻ vậy. Đàn bà
người ta ham se sua, ham tiền của, còn mẹ trẻ lại khác hẳn đi, mà chỉ ham
thủ thường, ham đạo đức cũng kỳ... đã mấy lần rồi, mẹ trẻ nói hoài mà tôi
chưa để ý mấy. Hôm nay tôi nghĩ kỹ rồi cũng có chỗ hồi tâm.

Nói chung, hầu như các tác giả đều sử dụng ngôn ngữ kể chuyện và ngôn
ngữ đối thoại thiên về ngôn ngữ tâm lý. Chính giọng văn tự sự giản dị, dễ hiểu đã
hiện rõ tâm lý của từng nhân vật. Chất tự sự pha tính trữ tình trong ngôn ngữ kể
chuyện cũng như đối thoại đã giúp các tác giả thành công trong việc xây dựng nên
hình tượng nhân vật tự nhiên, bình dị mà mang tính thuyết phục.

Câu văn trong các tác phẩm còn mang đặc tính của câu văn biền ngẫu. Câu
văn chưa thể hiện được trực tiếp ngôn ngữ của các nhân vật mà chỉ là ngôn ngữ của
tác giả mượn lời nhân vật để kể chuyện. Tính tự sự nội tâm của nhân vật qua ngôn
ngữ chưa được đề cao. Điểm nhìn trần thuật luôn là điểm nhìn ở bên ngoài nên chưa
tạo được đời sống nội tâm cho nhân vật.

Một số tác giả dùng ngôn ngữ chải chuốt, giàu cảm xúc, mang một đặc
điểm của ngôn ngữ tiểu thuyết lãng mạn, đã giúp cho những tác phẩm của họ có sức
lôi cuốn bạn đọc và để lại bài học sâu sắc cho đời sống con người. Đằng sau ngôn
ngữ nhân vật là ý đồ của tác giả. Họ đã lồng những tình cảm, thái độ, quan điểm của
mình qua ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể,
có thể nói ngôn ngữ ối thoạ ững tác giả sử dụng trong các tiểu
203

thuyết, truyện ngắ


TIỂU KẾT

Tóm lại, văn học trên báo chí Phật giáo trước 1945 dẫu chưa phải là phong
phú, nhưng vẫn đem đến cho độc giả những cảm nhận về nội dung và nghệ thuật
văn chương, những cách nhìn mới về cuộc sống, về đạo Phật và góp phần làm giàu
nền văn học dân tộc.

Những tác phẩm văn học dù được viết dưới dạng thơ hay văn xuôi cũng đều
mang đậm tính chất nhân đạo và tinh thần yêu quê hương, đất nước, đó là tinh thần
phát huy đạo Phật, phụng sự Tổ quốc. Báo chí Phật giáo đã khéo chọn lựa những
bài viết, tác phẩm có ý nghĩa hiện thực để chuyển tải đến mọi tầng lớp nhân dân và
ai cũng có thể đọc hiểu một cách dễ dàng.

Khi đọc những bài thơ được các tác giả diễn tả bằng những thể thơ truyền
thống như Lục bát, Song thất lục bát hay Đường luật… chúng ta thấy trong đó cả
một bầu trời trong sáng về triết lý sống thuần lương, luôn hướng con người theo đời
sống thánh thiện, biết dứt bỏ mọi xấu xa chất chứa trong lòng, trở về sống trong tình
yêu thương bao la, sống với tâm chân thành, chân thật, ngõ hầu xây dựng một xã
hội an vui, một đất nước giàu mạnh và không ngừng phát triển.

Những ý tưởng giản dị thể hiện qua từng truyện ngắn, tùy bút, tiểu thuyết
hay những bài xã luận đã chuyển tải đầy đủ ý nghĩa cuộc sống, nói lên những ưu tư
của người con đất Việt trước hiện trạng đất nước, lại mang tính giáo dục về đạo làm
người, về nhân cách sống cũng như tinh thần yêu quê hương, đất nước.

Lối hành văn nhìn chung là sáng sủa, mạch lạc, đã đáp ứng được phần nào
nhu cầu văn hóa, văn nghệ cho mọi tầng lớp độc giả. Những đóng góp của thơ văn
trên báo chí Phật giáo còn thể hiện về phương diện kết cấu nghệ thuật xây dựng
nhân vật và ngôn từ. Những đổi mới này chưa phải là thật mạnh mẽ, nhưng bước
đầu đã có sự chuyển mình theo xu hướng hiện đại. Vì vậy, nếu nói quá trình hiện
đại hóa văn học đầu thế kỷ XX đã đóng góp rất lớn trong việc phát huy chữ Quốc
204

ngữ, làm đẹp cuộc sống hiện thực của con người và đem lại nền hòa bình cho nhân
loại thì văn học trên báo chí Phật giáo cũng góp một phần xứng đáng với phong
cách rất riêng.

So với việc đăng tải văn học trên báo chí Phật giáo ngày nay, có thể nói văn
học trên báo chí Phật giáo trước 1945 còn rất ít. Nội dung về thơ, truyện cũng
không thật đa dạng và phong phú. Hơn nữa, báo chí Phật giáo lúc bấy giờ ít có sự
tham gia của các nhà văn, nhà thơ chuyên nghiệp mà phần lớn là các tác giả xuất
thân từ những người tu sĩ, Phật tử. Họ là những người chỉ chú trọng việc truyền bá
Phật pháp đến với quần chúng nhân dân nên ít quan tâm về vấn đề nghệ thuật. Có lẽ
vì vậy mà chất lượng nghệ thuật của những tác phẩm văn học trên báo chí Phật giáo
trước 1945 chưa cao và chưa thật sự thu hút nhiều độc giả.

Điều đáng lưu ý, những bài thơ, những tác phẩm văn xuôi đều chứa đựng giá
trị Phật học. Có những đoạn trong truyện ngắn, tiểu thuyết, tác giả đã để cho nhân
vật thuyết giảng về Phật pháp, điều này càng chứng tỏ trong văn học vẫn mang ý
nghĩa Phật học sâu xa.

Nhìn tổng thể cả chương 2 và chương 3, chúng ta thấy có mối quan hệ hữu
cơ thật khó tách rời, bởi trong Phật học vẫn có giá trị văn học và trong văn học vẫn
mang ý nghĩa Phật học. Mặt khác, xét đến cùng, nói đến báo chí tức là nói đến văn
học. Do đó, sự phân chia Phật học và văn học trên báo chí Phật giáo trước 1945 chỉ
là tương đối, chỉ là cách để triển khai những nội dung chính trong luận án.
205

KẾT LUẬN

Báo chí Phật giáo Việt Nam trước 1945 là cơ quan ngôn luận của các tổ chức,
hệ phái Phật giáo ở Việt Nam, tuy xuất hiện muộn, nhưng phát triển khá nhanh và
phong phú. Không những chỉ các tổ chức Phật giáo mới xuất bản tạp chí mà một số
Tông môn cũng tự ấn hành báo chí, nhằm mục đích để truyền bá đạo Phật bằng chữ
Quốc ngữ, làm trong sáng tinh thần Phật học và thúc đẩy phong trào Chấn hưng
Phật giáo trong cả nước. Việc tổ chức, xuất bản, phát hành báo chí Phật giáo Việt
Nam thời bấy giờ đã là tiền đề tích cực cho quá trình phát triển báo chí trong những
năm sau.

Sự lớn mạnh của phong trào Chấn hưng Phật giáo thông qua báo chí là điểm
nổi bật của Phật giáo giai đoạn này. Phong trào đã khơi dậy một trào lưu tư tưởng
Phật giáo mới, nhằm giải quyết những vấn nạn trong đời sống đạo và trong đời sống
của quần chúng nhân dân. Từ phong trào đó đã mở ra cho Phật giáo một hướng đi
mới, vừa hoàn thiện đời sống đạo, vừa đáp ứng được yêu cầu của lịch sử dân tộc.
Đồng thời, qua các trang báo, nội dung kinh điển, tư tưởng văn hóa và văn học Phật
giáo được tuyên truyền, phổ biến đến với đông đảo công chúng độc giả và quan
trọng là các chức sắc, tín đồ Phật giáo Việt Nam, để hướng họ sống theo những giá
trị trân quý, tốt đẹp và nhân bản của đạo Phật.

Hình thức và nội dung của báo chí Phật giáo dẫu khác nhau, nhưng giống
nhau ở mục tiêu cùng đấu tranh quyết liệt với các thế lực ngoại bang, chống lại các
hủ tục, mê tín dị đoan thời bấy giờ. Những tranh luận về Thượng đế tạo vật, linh
hồn bất tử, Cực lạc, địa ngục và ngoại giới đã mở ra cho con người một cách nhìn
đúng đắn, phù hợp với khoa học. Từ đó định hướng cho mọi người, đặc biệt là các
thanh niên tân học thấy được rằng đạo Phật là đạo mang tính khoa học, nhân bản,
thực tế và thích ứng với từng thời đại. Những tư tưởng, triết lý Phật học chung nhất
mà báo chí Phật giáo thể hiện là triết lý nhân quả, đức tin, đạo hiếu, lòng vị tha, tư
tưởng vì dân tộc, thuyết vô thường, vô ngã, nhân duyên...
206

Ngoài ra, Phật học trên báo chí Phật giáo còn cho thấy tinh thần Phật giáo vì
dân tộc và đại chúng một cách thiết thực, hữu ích qua việc giáo dục đạo đức và
tuyên truyền lòng yêu nước, thương dân.

Về phần văn học, việc phiên dịch kinh Phật trên báo chí Phật giáo trước 1945
có thể coi như một loại hình dịch văn học đặc biệt để chuyển tải giá trị tinh hoa của
văn học Phật giáo nước ngoài vào Việt Nam. Đây là sự đóng góp to lớn của văn học
Phật giáo đối với nền văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu TK.XX.

Bộ phận sáng tác văn học trên báo chí Phật giáo trước 1945 cũng là một loại
hình sáng tác đặc biệt. Dầu chưa theo kịp xu hướng hiện đại hóa đang xảy ra, nhưng
với các thể loại văn thơ truyền thống, văn học trên báo chí Phật giáo đã thể hiện
được một cách sâu sắc tư duy, tình cảm của người Phật tử và những bài học về đạo
đức, góp phần phát huy tinh thần Phật giáo cũng như truyền thống văn hóa quý báu
của dân tộc.

Nếu xét chung về nội dung và nghệ thuật thì các tác phẩm văn học từ thơ ca
đến văn xuôi trên báo chí Phật giáo lúc bấy giờ đã góp phần không nhỏ cho sự phát
triển ngôn ngữ Việt Nam. Những tác phẩm ấy là tiếng nói vì dân tộc rất mạnh mẽ,
đã thổi vào lòng người niềm tin, sức mạnh để xây dựng cuộc sống nhân nghĩa, duy
trì nền hòa bình độc lập và phát triển đất nước Việt Nam nửa đầu TK.XX.

Báo chí Phật giáo Việt Nam ngày nay đã phát huy được rất nhiều phương
hướng mới từ sự kế thừa của báo chí Phật giáo trước 1945. Điểm kế thừa nổi bật
của báo chí Phật giáo hiện nay là làm rõ các vấn đề tín ngưỡng trong đời sống xã
hội, tạo điều kiện cho những ai đang trăn trở với đức tin có tầm nhìn đúng đắn,
khách quan hơn về tôn giáo. Bộ phận báo chí này cũng tiếp nối và phát huy được
truyền thống dân tộc, hướng về xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc và sự đoàn kết
giữa các tôn giáo, đồng thời góp phần trong việc phát triển nền văn hóa, kinh tế Việt
Nam.

Có thể nói, Đạo Phật là một trong những tôn giáo lớn và lâu đời nhất tại Việt
Nam, thế nhưng báo chí Phật giáo xưa nay cũng chỉ chiếm một vị trí khiêm tốn
trong làng báo chí nước nhà. Ngày nay, báo chí Phật giáo đang từng bước thay đổi
207

nội dung và hình thức nhằm phục vụ cho tăng ni và Phật tử, phù hợp với tình hình
xuất bản báo chí hiện đại, hòa mình vào hệ thống báo chí cả nước trong sứ mệnh
truyền bá chính pháp của Đạo Phật Việt Nam. Hy vọng trong tương lai gần, Phật
giáo Việt Nam sẽ bắt kịp với đà tiến bộ của nền báo chí trong và ngoài nước, góp
phần cùng với nhân dân Việt Nam thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng văn minh.

Nhìn chung, việc nghiên cứu Phật học và văn học trên báo chí Phật giáo Việt
Nam trước năm 1945 mở ra triển vọng nghiên cứu rất lớn: từ hướng nghiên cứu này,
có thể có những đề tài nghiên cứu tiếp theo: Phong trào chấn hưng Phật giáo, lịch sử
Phật giáo cận đại, lịch sử phiên dịch kinh Phật, ngôn ngữ Phật giáo trước 1945…
Văn học Phật giáo trên báo chí và sách vở trước 1945 cần phải được tiếp tục nghiên
cứu và giảng dạy ở các chương trình Phật học. Nếu có điều kiện, các cơ sở nghiên
cứu Phật học, các trường đại học có thể mở một vài buổi hội thảo về những vấn đề
Phật học và văn học trên báo chí Phật giáo trước năm 1945.
208

DANH MỤC BÁO CHÍ PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC 1945
(Xếp theo năm xuất bản)

[A]- Tạp chí Pháp âm (1929), Chủ nhiệm: Lê Khánh Hòa, Sài Gòn.
[B]- Tạp chí Phật hóa Tân Thanh niên (1929), Quản lý: Trương Tấn Phát, Sài
Gòn.
[C]- Tạp chí Từ bi âm (1932-1945), Chủ nhiệm: Lê Khánh Hòa, Sài Gòn.
[D]- Tạp chí Viên âm (1933-1945), Tổng biên tập: Lê Đình Thám, Huế.
[E]- Tạp chí Tiếng chuông sớm (1935-1936), Chủ nhiệm: Đỗ Văn Hỷ, Quản lý:
Đinh Xuân Lạc, Hà Nội.
[F]- Báo Đuốc tuệ (1935-1945), Tổng biên tập: Nguyễn Năng Quốc, chùa Quán
Sứ, Hà Nội.
[G]- Tạp chí Duy tâm Phật học, (1935-1943), Tổng biên tập: Nguyễn Văn Ân,
Trà Vinh.
[H]- Tạp chí Bồ đề (1936), Tổng biên tập: Lê Phước Chí, Sóc Trăng.
[I]- Tạp chí Bát nhã âm (1936-1943), Chủ nhiệm: Đỗ Phước Tâm, Bà Rịa.
[J]- Tạp chí Pháp âm Phật học (1937-1938), Chủ nhiệm: Lê Văn Hậu, Chợ Lớn.
[K]- Tạp chí Tam bảo (1937-1938), Chủ nhiệm: Trần Văn Uyển, Đà Nẵng.
[L]- Tạp chí Tiến hóa (1938-1941), Chánh Hội trưởng: Đỗ Kiết Triệu, Hội Phật
học Kiêm Tế, Rạch Giá.
[M]- Tạp chí Quan âm (1938-1943), Chủ nhiệm kiêm Chủ bút: Lương Văn
Tuân, Hà Nội.
[N]- Tạp chí Phật pháp chỉ Niết bàn (1941), Tổng biên tập: Hồ Ngọc Sung, Sài
Gòn.
[O]- Báo Tinh tiến (1945), phụ trương của Đuốc tuệ, Quản lý: Cung Đình Bính,
Hà Nội.
209

THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[01]- Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb. Đại học Quốc gia,
Hà Nội.

[02]- Nguyễn Văn Ẩn (1972), Báo chí tôn giáo tại Việt Nam (Khảo luận Ban
Báo chí học, Phân khoa VH&KHNV), Viện Đại học Vạn Hạnh.

[03]- Thích Đồng Bổn (1995), Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập I,
Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành.

[04]- Thích Minh Cảnh (chủ biên) (2005), Từ điển Phật học Huệ Quang, Tập I,
Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

[05]- Thích Minh Cảnh (chủ biên) (2005), Từ điển Phật học Huệ Quang, Tập II,
Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

[06]- Thích Minh Cảnh (chủ biên) (2005), Từ điển Phật học Huệ Quang, Tập
III, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

[07]- Thích Minh Cảnh (chủ biên) (2005), Từ điển Phật học Huệ Quang, Tập
IV, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

[08]- Thích Minh Cảnh (chủ biên) (2005), Từ điển Phật học Huệ Quang, Tập V,
Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

[09]- Thích Minh Cảnh (chủ biên) (2005), Từ điển Phật học Huệ Quang, Tập
VI, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

[10]- Thích Minh Cảnh (chủ biên) (2005), Từ điển Phật học Huệ Quang, Tập
VII, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

[11]- Thích Minh Cảnh (chủ biên) (2005), Từ điển Phật học Huệ Quang, Tập
VIII, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

[12]- Thích Minh Châu (dịch) (1990), Kinh Pháp Cú, Sở VHTT TP. Hồ Chí
Minh xuất bản.
210

[13]- Thích Minh Châu (dịch) (1991), Kinh Trường Bộ, Tập I, Viện Nghiên cứu
Phật học Việt Nam ấn hành.

[14]- Thích Minh Châu (dịch) (1993), Kinh Tương Ưng Bộ, Tập III, Viện
Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.

[15]- Thích Minh Châu (dịch) (1996), Kinh Trung Bộ, Tập III, Viện Nghiên
cứu Phật học Việt Nam ấn hành.

[16]- Thích Minh Châu (dịch) (2000), Kinh Tiểu Bộ, Tập I, Nxb. TP. Hồ Chí
Minh.

[17]- Minh Chi (2003), Truyền thống văn hóa và Phật giáo Việt Nam, Nxb. Tôn
giáo, Hà Nội.

[18]- Minh Chi (2003), Thuyết tái sinh, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

[19]- Thiện Chiếu (1932), Phật giáo vấn đáp, chùa Long Hưng, Chợ Lớn xuất
bản.

[20]- Thiện Chiếu (1936), Tại sao tôi! (Thiện Chiếu) hoàn tục, Nxb. Nam
Cường.

[21]- Thiện Chiếu (1936), Tại sao tôi đã cám ơn đạo Phật, Nxb. Nam Cường.

[22]- Mai Ngọc Chừ (1999), Văn hóa Đông Nam Á, Nxb. Đại học Quốc gia Hà
Nội.

[23]- Thiều Chửu (2003), Giải thích truyện Quan Âm Thị Kính, Nxb. Văn hóa
Thông tin (tái bản).

[24]- Đoàn Trung Còn (1992), Phật học từ điển, Tập I, Nxb. TP. Hồ Chí Minh
(tái bản).

[25]- Đoàn Trung Còn (1992), Phật học từ điển, Tập II, Nxb. TP. Hồ Chí Minh
(tái bản).

[26]- Đoàn Trung Còn (1992), Phật học từ điển, Tập III, Nxb. TP. Hồ Chí
Minh (tái bản).
211

[27]- Lê Cung (2008), Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963,
Nxb. Thuận Hóa (tái bản).

[28]- Giác Dũng (2003), Phật Việt Nam, dân tộc Việt Nam, Nxb. Tôn giáo.

[29]- Thích Phước Đạt (2010), “Sự tiếp biến thể loại văn học Phật giáo trong
tác phẩm Thiền phái Trúc Lâm”, Tạp chí Hán Nôm, Số 6 (103).

[30]- Thích Thanh Đạt (1994), Báo chí Phật giáo với phong trào Chấn hưng
Phật giáo (1930-1945) (khóa luận tốt nghiệp đại học), Đại học Tổng hợp Hà Nội.

[31]- Lê Tâm Đắc (2012), Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt
Nam (1924-1954), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[32]- Đông Pháp thời báo, Số 529, ra ngày 05.01.1927.

[33]- Đông Pháp thời báo, Số 532, ra ngày 14.01.1927.

[34]- Nguyễn Đại Đồng (2008), Lược khảo báo chí Phật giáo Việt Nam (1929 -
2008), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

[35]- Nguyễn Đại Đồng (2008), Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha (1902 - 1954),
Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

[36]- Nguyễn Đại Đồng (2008), “Thời kỳ tiền chấn hưng”, Tạp chí Nghiên cứu
Phật học, Số 4, tr. 16.

[37]- Nguyễn Đại Đồng (2009), “Tạp chí Viên âm”, Tạp chí Nghiên cứu Phật
học, Số 3, tr. 21-23.

[38]- Nguyễn Đại Đồng (2009), “Tạp chí Đuốc tuệ”, Tạp chí Nghiên cứu Phật
học, Số 4, tr. 26-28.

[39]- Nguyễn Đại Đồng (2011), “Tạp chí Duy Tâm Phật học”, Nguyệt san Giác
ngộ, Số 183, tr. 72-77.

[40]- Nguyễn Đại Đồng - Nguyễn Thị Minh (2008), Phong trào chấn hưng
Phật giáo Việt Nam (Tư liệu báo chí Việt Nam từ 1927-1938), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

[41]- Mạc Đường (1993), Vấn đề Phật giáo trong sự phát triển xã hội Việt Nam
hiện đại, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.
212

[42]- Đoàn Lê Giang (2001), Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam, Luận án
Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. TP. Hồ Chí Minh.

[43]- Đoàn Lê Giang (2006), “Văn học Quốc ngữ ở Nam bộ từ cuối thế kỷ XIX
đến 1945 - thành tựu và triển vọng nghiên cứu”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, Số 7.

[44]- Trần Văn Giàu (1988), Triết học và tư tưởng, Nxb. TP. Hồ Chí Minh.

[45]- Trần Văn Giàu (1997), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam, Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Hội.

[46]- Trí Hải (2004), Hồi ký thành lập Hội Phật giáo Việt Nam, Nxb. Tôn giáo,
Hà Nội.

[47]- Lê Thị Hồng Hạnh (2010), Báo chí Phật giáo tại Việt Nam: Thực trạng
và vấn đề (Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn), Trường Đại học KHXH và NV, ĐHQG Hà
Nội.

[48]- Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (đồng chủ
biên) (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb. Thế giới, Hà Nội.

[49]- Nguyễn Duy Hinh (1992), “Phật giáo với văn học Việt Nam”, Tạp chí
Văn học, Số 4, tr. 5-6.

[50]- Nguyễn Duy Hinh (2003), Người Việt Nam với Đạo giáo, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội.

[51]- Thích Thiện Hoa (1970), 50 năm (1920-1970) Chấn hưng Phật giáo Việt
Nam, Viện Hóa Đạo ấn hành.

[52]- Thích Thiện Hoa (1997), Phật học phổ thông, Tập I, Thành hội Phật giáo
TP. Hồ Chí Minh ấn hành.

[53]- Thích Thiện Hoa (1997), Phật học phổ thông, Tập II, Thành hội Phật giáo
TP. Hồ Chí Minh ấn hành.

[54]- Thích Thiện Hoa (1997), Phật học phổ thông, Tập III, Thành hội Phật
giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành.

[55]- Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội.
213

[56]- Hà Minh Hồng (2005), Lịch sử Việt Nam cận hiện đại (1858-1975), Nxb.
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

[57]- Đỗ Quang Hưng (chủ biên) (2000), Lịch sử báo chí Việt Nam 1865-1945,
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

[58]- Trương Sĩ Hùng (chủ biên) (2003), Mấy tín ngưỡng tôn giáo Đông Nam Á,
Nxb. Thanh Niên, TP. Hồ Chí Minh.

[59]- Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao
thời 1900-1932, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

[60]- Khai hóa nhật báo, Số 1640, ra ngày 16.01.1927.

[61]- Nguyễn Công Khanh (2006), Lịch sử báo chí Sài Gòn - Thành phố Hồ
Chí Minh (1865-1995), Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

[62]- Diệu Không (dịch) (1974), Kinh Lăng Già tâm ấn, Nxb. Hoa Sen.

[63]- Trần Trọng Kim (2010), Việt Nam sử lược, Nxb. Thời đại, Hà Nội (tái
bản).

[64]- Thích Thanh Kiểm (1989), Lược sử Phật giáo Ấn Độ, Thành hội Phật
giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành.

[65]- Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập I, Nxb. Văn học,
Hà Nội (tái bản).

[66]- Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập II, Nxb. Văn học,
Hà Nội (tái bản).

[67]- Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập III, Nxb. Văn học,
Hà Nội (tái bản).

[68]- Đinh Xuân Lâm (chủ biên) (2010), Đại cương lịch sử Việt Nam, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.

[69]- Trần Hồng Liên (1995), Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam bộ
- Việt Nam (từ TK XVII đến 1975), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
214

[70]- Trần Hồng Liên (1996), Phật giáo Nam bộ từ thế kỷ thứ XVII đến 1975,
Nxb. TP. Hồ Chí Minh.

[71]- Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu
thế kỷ thứ XIX, Tập I, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

[72]- Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu
thế kỷ thứ XIX, Tập II, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

[73]- Nguyễn Công Lý (2002), Văn học Phật giáo thời Lý - Trần, diện mạo và
đặc điểm, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

[74]- Nguyễn Công Lý (2011), Giáo dục - Khoa cử và Quan chế ở Việt Nam
thời Phong kiến và thời Pháp thuộc, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

[75]- Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Trác, Trần Hữu Tá (1988), Văn học Việt
Nam 1945-1975, Nxb. Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh.

[76]- Đại Tạng Kinh Việt Nam (1989), Kinh Trường Bộ, Viện Nghiên cứu Phật
học Việt Nam ấn hành.

[77]- Thích Nguyên Ngôn (1995), Kinh Bát Đại Nhơn Giác lược giảng, Thành
hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành.

[78]- Nhiều tác giả (1998), Địa chí văn hóa TP. Hồ Chí Minh, Tập I, Nxb. TP.
Hồ Chí Minh.

[79]- Nhiều tác giả (1998), Địa chí văn hóa TP. Hồ Chí Minh, Tập II, Nxb. TP.
Hồ Chí Minh.

[80]- Nhiều tác giả (1998), Địa chí văn hóa TP. Hồ Chí Minh, Tập III, Nxb. TP.
Hồ Chí Minh.

[81]- Nhiều tác giả (1998), Địa chí văn hóa TP. Hồ Chí Minh, Tập IV, Nxb. TP.
Hồ Chí Minh.

[82]- Nhiều tác giả (2005), Phật giáo trong thời đại chúng ta, Nxb. Tôn giáo,
Hà Nội.

[83]- Võ Văn Nhơn (2007), Văn học Quốc ngữ trước 1945, Nxb. Tổng hợp TP.
Hồ Chí Minh.
215

[84]- Đức Nhuận (2009), Đạo Phật và dòng sử Việt, Nxb. Phương Đông, TP.
Hồ Chí Minh.

[85]- Thích Như Niệm (2009), Di cảo của nhà sư Thiện Chiếu, Nxb. Khoa học
Xã hội, TP. Hồ Chí Minh (tái bản).

[86]- Phân viện nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội (2008), Đại lão Hòa
thượng Tố Liên (1903 - 1977), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

[87]- Phân viện nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội (2009), Kỷ yếu hội
thảo Đại lão Hòa thượng Thích Trí Hải (1906-1979), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

[88]- Phân viện nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội (2006), Thiện Chiếu,
Nhà sư - chiến sỹ cách mạng, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

[89]- Đông Phong (1998), Về nguồn văn hóa cổ truyền Việt Nam, Nxb. Mũi Cà
Mau, TP. Cà Mau.

[90]- Nguyễn Ái Quốc (2009), Bản án chế độ thực dân Pháp, Nxb. Trẻ, TP. Hồ
Chí Minh (tái bản).

[91]- Dương Trung Quốc (2005), Việt Nam: Những sự kiện lịch sử (1919-1945),
Nxb. Giáo dục, Hà Nội (tái bản).

[92]- Phan Quang (2001), Về diện mạo báo chí Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.

[93]- Tô Huy Rứa (chủ biên) (1998), Thư tịch báo chí Việt Nam, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.

[94]- Thích Thiện Siêu (1996), Vô ngã là Niết bàn, Nxb. Thuận Hóa, Huế.

[95]- Thiếu Sơn (1933), Phê bình và cảo luận, Nxb. Nam Ký, Hà Nội.

[96]- Tuệ Sỹ (dịch) (1973), Các tông phái đạo Phật, Tu thư Đại học Vạn Hạnh,
Sài Gòn.

[97]- Nguyễn Cao Thanh (2008), Khái lược Phật giáo Việt Nam, Nxb. Tôn giáo,
Hà Nội.
216

[98]- Lê Mạnh Thát (1999), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Tập I, Nxb. Thuận
Hóa, Huế.

[99]- Lê Mạnh Thát (2000), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Tập II, Nxb. TP. Hồ
Chí Minh.

[100]- Lê Mạnh Thát (2001), Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, Tập I, Nxb.
TP. Hồ Chí Minh.

[101]- Lê Mạnh Thát (2001), Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, Tập II,
Nxb. TP. Hồ Chí Minh.

[102]- Nguyễn Q. Thắng (2010), Thiện Chiếu - Nhà cải cách Phật giáo, Nxb.
Văn học, Hà Nội.

[103]- Mật Thể (1944), Việt Nam Phật giáo sử lược, Nxb. Tân Việt, Hà Nội.

[104]- Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội.

[105]- Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập I, Nxb. TP.
Hồ Chí Minh (tái bản).

[106]- Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập II, Nxb. TP.
Hồ Chí Minh (tái bản).

[107]- Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập III, Nxb. TP.
Hồ Chí Minh (tái bản).

[108]- Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập IV, Nxb. TP.
Hồ Chí Minh (tái bản).

[109]- Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập V, Nxb. TP.
Hồ Chí Minh (tái bản).

[110]- Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập VI, Nxb. TP.
Hồ Chí Minh (tái bản).

[111]- Nguyễn Đăng Thục (1974), Phật giáo Việt Nam, Nxb. Mặt đất, Sài Gòn.
217

[112]- Bùi Đức Tịnh (2002), Những bước đầu của báo chí - truyện ngắn, tiểu
thuyết và thơ mới, Nxb. TP. Hồ Chí Minh.

[113]- Thích Trí Tịnh (2001), Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Nxb. Tôn giáo, Hà
Nội (tái bản).

[114]- Thích Trí Tịnh (2006), Kinh Địa Tạng Bồ tát bổn nguyện, Nxb. Tôn giáo,
Hà Nội (tái bản).

[115]- Huỳnh Văn Tòng (1973), Lịch sử báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến
1930, Nxb. Trí Đăng, Sài Gòn.

[116]- Huỳnh Văn Tòng (2000), Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945, Nxb.
TP. Hồ Chí Minh.

[117]- Thích Minh Tuệ (1993), Lược sử Phật giáo Việt Nam, Thành hội Phật
giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành.

[118]- Phan Lạc Tuyên (1993), Lịch sử bang giao Đông Nam Á, Viện Đào tạo
mở rộng TP. Hồ Chí Minh xuất bản.

[119]- Phan Lạc Tuyên (1993), Kinh Bát nhã Ba la mật và đạo đức Phật giáo,
Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.

[120]- Thích Thanh Từ (1990), Phật giáo những vấn đề triết học, Trung tâm Tư
liệu Phật học ấn hành.

[121]- Trương Ngọc Tường, Nguyễn Ngọc Phan (2007), Báo chí ở Thành phố
Hồ Minh (100 câu hỏi đáp về Gia Định - Sài Gòn TP. Hồ Chí Minh), Nxb. TP. Hồ Chí
Minh.

[122]- Website: http://www.phattuvietnam.net


[123]- Website: http://www.daophatngaynay.com
[124]- Website: http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
[125]- Website: http://giacngo.vn
[126]- Website: http://www.quangduc.com
[127]- Website: http://www.thuvienhoasen.org
[128]- Website: http://www.tusachphathoc.com
218

Tài liệu tiếng nước ngoài:

[129]- Marr, David (1971), Vietnamese Anticolonialism 1885-1925, Berkeley:


Univ. California Press.

[130]- McHale, Shawn (1995), Printing, Power, and Transformation of


Vietnamese Culture 1920-1945, Dissertation, Cornell Univ. of California.

[131]- Minh Thi Nguyen (2007), Buddhist monastic education and regional
revival movements in early twentieth century Vietnam, Dissertation submitted in
partial fulfillment of the requirements for the degree of Doctor of Philosophy (Special
Graduate Committee: Buddhism in Vietnam), University of Wisconsin - Madison.

[132]- 李白坚 (2004), 中国新闻文学史, 上海大学出版发行.

[133]- 严三九 (2005), 中国新闻精品导读, 浙江大学出版发行.


219

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ


LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ

1. “Phật giáo và khoa học trên báo chí Phật giáo Việt Nam trước 1945”, Tạp chí
Khoa học Xã hội, ISSN 1859-0136, số 01 (173)/2013, tr.59-73.

2. “Báo chí Phật giáo và phong trào Chấn hưng Phật giáo nửa đầu thế kỷ XX”,
Tạp chí Khoa học Xã hội, ISSN 1859-0136, số 12 (172)/2012, tr.52-65.

3. “Dịch kinh Phật và báo chí Phật giáo nửa đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Đại học
Sài Gòn, ISSN 1859 - 3208, số chuyên đề 2012, tr.148-153.

4. “Phật giáo và văn học trên tạp chí Tiến hóa xuất bản ở Sài Gòn (1938 -
1939)”, Tạp chí Đại học Sài Gòn, ISSN 1859 - 3208, số 08 (129), 1/2012,
tr.129-137.

5. “Văn học và Phật học trên Quan âm tạp chí (1941 - 1942)”, Tạp chí Đại học
Sài Gòn, ISSN 1859 - 3208, số 04 (102), 9/2010, tr.102-109.
220

PHỤ LỤC 1
Bìa báo chí Phật giáo trước 1945 (Được chụp lại từ tư liệu gốc)

1. Tạp chí Pháp âm


221

2. Tạp chí Phật hóa Tân Thanh niên


222

3. Tạp chí Từ bi âm
223

4. Tạp chí Viên âm


224

5. Tạp chí Tiếng chuông sớm


225

6. Báo Đuốc tuệ


226

7. Tạp chí Duy tâm Phật học


227

8. Tạp chí Bồ đề
228

9. Tạp chí Bát nhã âm


229

10. Tạp chí Pháp âm Phật học


230

11. Tạp chí Tam bảo


231

12. Tạp chí Tiến hóa


232

13. Tạp chí Quan âm


233

14. Tạp chí Phật pháp chỉ Niết bàn


234

15. Báo Tinh tiến


235

PHỤ LỤC 2
Một số trang thơ văn trên báo chí Phật giáo trước 1945

Mục Văn uyển trên tạp chí Từ bi âm số 2


236

Mục Tiểu thuyết trên tạp chí Từ bi âm số 3


237

Mục Thi Lâm trên tạp chí Viên âm số 2


238

Mục Tiểu thuyết trên tạp chí Viên âm số 4


239

Mục Văn uyển trên báo Đuốc tuệ số 58


240

Mục Pháp uyển (thơ) trên tạp chí Duy tâm số 1


241

Mục Văn uyển trên tạp chí Quan âm số 24


242

Mục truyện ngắn trên tạp chí Quan âm số 27


243

Mục Tiểu thuyết trên tạp chí Tam bảo số 1


244

Mục Văn uyển trên tạp chí Tam bảo số 2


245

PHỤ LỤC 3
Danh mục các tác phẩm thơ đăng trên báo chí Phật giáo trước 1945

TẠP CHÍ TỪ BI ÂM

SỐ THỂ LOẠI
SỐ, NĂM XB TÁC PHẨM TÁC GIẢ
TT THƠ
01 Số 3, 2/1932 Lên chùa khấn Phật Lục bát
Liên Tôn
02 Cảnh sách diễn ca Song thất lục bát
Số 7, 4/1932
03 Thể tánh Từ bi Mật Khế Thất ngôn bát cú
Hồng danh Bảo sám nghi
04 Trí Độ Lục bát
thức diễn âm
Chúc mừng Hội “Nam kỳ
Số 15, 8/1932
05 nghiên cứu Phật học” Sa môn Tâm
thành lập Tường
06 Mừng “Từ bi âm” ra đời
07 Biết huyển phải tìm chơn
Số 21, 11/1932 Bích Phong
08 Chiếc thuyền từ
Mừng Từ bi âm kêu tỉnh Thất ngôn bát cú
09 Võ Thành Hay
Số 23, 12/1932 người mê
10 Khuyên bạn xem Từ bi âm Đinh Chí Nghiêm
Chúc hội N.K.N.C.P.H
11 Số 24, 12/1932
được lâu dài Trang Quảng
Mừng Từ bi âm được phổ Hưng
12
thông
Khuyên người tỉnh tâm
Hòa thượng Bích
13 Số 26, 1/1933 niệm Phật Lục bát
Liên
14 Biết tu đã già
15 Số 43, 10/1933 Người tu tại gia Minh Tịnh
16 Vịnh Chơn
Vịnh cảnh chùa Thập
17
Tháp ở Bình Định Thất ngôn bát cú
Số 44, 10/1933 Vịnh cảnh chùa Ông Núi ở Hòa thượng Bích
18
Bình Định Liên
19 Vịnh cảnh chùa Bích Liên
20 Số 45, 11/1933 Từ bi âm phát đạt
246

TẠP CHÍ VIÊN ÂM

SỐ THỂ LOẠI
SỐ, NĂM XB TÁC PHẨM TÁC GIẢ
TT THƠ
01 Chùa Non Nước Tâm Bình
02 Mừng Viên âm ra đời Lục Vân
Nguyễn Bích
03 Số 2, 1934 Khuyên đọc Viên Âm
Phong
04 Vịnh cảnh chùa Trúc Lâm Cổ Mai
05 Thơ mừng Tết T.T.T
06 Đề chùa Linh Mụ (Huế) Quật Đình Thất ngôn bát cú
Số 6, 1934
07 Khuyên người Cổ Mai
08 Mừng Viên Âm Thanh Tâm
Cùng bạn chung thuyền
09
chơi Túy Vân Cổ Mai
Số 8, 1934
10 Ngủ lại chùa Túy Vân
11 Chơi núi Thiên Thai Tâm Bình
12 Khuyên tu Thanh Tâm Lục bát
13 Số 9, 1934 Mừng Phật học hội Khoan Tế Thất ngôn bát cú
14 Số 14, 1935 Khuyên người học đạo Diệu Không Song thất lục bát
15 Nghe lời vợ đi chùa
Số 19, 1936 Nghe giảng kinh tại chùa Mai Văn Đính Thất ngôn bát cú
16
Từ Quang

BÁO ĐUỐC TUỆ

SỐ THỂ LOẠI
SỐ, NĂM XB TÁC PHẨM TÁC GIẢ
TT THƠ
Sự tích đức Thích Ca diễn
01 Số 8, 1/1936 Bùi Đức Triệu
âm
Song thất lục bát
Kinh Báo ơn trọng cha Nguyễn Thượng
02 Số 12, 3/1936
mẹ diễn ca Cần
Tán thán Trúc Lâm Tam
03
tổ
Số 13, 3/1936
04 Vịnh chùa Quán Thánh
05 Vịnh chùa Kiến Sơ
06 Vịnh chùa Bách Môn
07 Vịnh chùa Hương
08 Số 15, 3/1936 Vịnh chùa Tháp Nguyễn Thiện
09 Vịnh chùa Giâu Chính Thất ngôn bát cú
10 Vịnh chùa Tử Trầm
11 Vịnh chùa Phật Tích
12 Số 18, 4/1936 Vịnh chùa Thầy
13 Vịnh chùa Yên Tử
14 Phật giáo nước nhà
15 Số 19, 4/1936 Thích nghĩa chữ A Di Đà
16 Mừng báo Đuốc tuệ Phạm Thanh Sắc
247

17 Số 21, 5/1936 Giấc mộng Phật Đặng Ngọc Oanh Lục Bát
18 Ngày xuân viếng chùa Huyền Am
Số 23, 5/1936 Thất ngôn bát cú
19 Tu tại gia Nhàn Vân Đình
Nguyễn Đăng
20 Hương Sơn hành trình ca Lục Bát
Số 24, 5/1936 Hựu
21 Cảm tác Huyền Am Thất ngôn bát cú
Nguyễn Đăng
22 Vịnh chùa Long Đọi
Số 25, 6/1936 Hựu Thất ngôn bát cú
23 Xem hội chùa Đọi
Bài sám hối khóa sáng
24 Số 26, 6/1936 Sa môn Thái Hòa Lục bát
của Tăng Ni
Tán thán đức Thích Ca 10
25
năm thành đạo
Tán thán Nam Hải Quan Thất ngôn bát cú
26 Nguyễn Thiện
Số 27, 6/1936 Âm
Chính
27 Vịnh chùa Một Cột
Nhân quả tiểu thuyết tổng
28 Lục bát
ca
29 Khuyên mình tu Tịnh Độ Thanh Giản
Số 30, 7/1936
30 Lễ chùa Một Cột Nhàn Vân Đình
Lương Duyên
31 Tiếng chuông Phật giáo
Số 33, 7/1936 Tuệ
32 Khuyên tu đạo Trịnh Như Tấu
33 Số 35, 8/1936 Khuyến học Thanh Bảo
34 Tán thán đức Thế Tôn
35 Tán thán A Di Đà
Số 37, 8/1936 Tán thán Bồ tát Thiện
36
Hữu
37 Tán thán Bồ tát Thị Kính
Tán thán Thái tử Tất Đạt
38
Đa
39 Tán thán Bồ tát Di Lặc
Số 38, 9/1936 Tán thán Ngọc Hoàng
40
Thượng Đế Nguyễn Thiện Thất ngôn bát cú
Tán thán Nam Tào Bắc Chính
41
Đẩu
Tả cảnh Hoàng tử ra khỏi
42
thành
Tả cảnh đính hôn Gia Du
43
phu nhân
Số 39, 9/1936
Tả cảnh ma vương trá
hình Gia Du phu nhân để
44
thử lòng đức Thế tôn khi
sắp thành Phật
45 Số 40, 9/1936 Phật học tư tưởng diễn ca Nguyễn Bá Trọ
46 Mừng hội Phật giáo
Nguyễn Hữu
47 Số 41, 9/1936 Cái chuông chùa
Bồng
48 Vịnh cây phướn
49 Số 43, 10/1936 Vịnh phúc quả Nguyễn Thiện
248

50 Vịnh Từ hàng Chính


51 Vịnh Bảo phiệt
52 Vịnh cây Đa La
53 Vịnh kinh Thủy Sám
54 Số 47, 11/1936 Vịnh thế phát
55 Vịnh trì trai
56 Vịnh tụng kinh
Tử An Trần Lê
57 Số 49, 11/1936 Tu Lục bát
Nhân
58 Vịnh Giác lộ
59 Vịnh bảo tháp
60 Vịnh thiền môn
Nguyễn Thiện
Số 51, 12/1936 Hội chấn hưng Phật giáo
61 Chính
thành lập
Thất ngôn bát cú
62 Vịnh Hoa tòa sen
63 Bác ái
64 Vịnh Hoa sen Nguyễn Cao Sơn
Ăn quả trước phải trồng Lương Duyên
65
Số 58, 4/1937 cây Tuệ
Tử An Trần Lê
66 Nhẫn Lục bát
Nhân
Mừng báo đuốc tuệ Sa môn Ngọc
67
Số 63, 6/1937 Khuyến tu Thụ Thất ngôn bát cú
68 Đức Phật Như Lai Thanh Giản
69 Số 66, 8/1937 Bài khuyên học Phật Tổng Sư Trạch
70 Số 68, 9/1937 Có thân cần phải tu Trí Hải
71 Tu Tịnh độ Trần Văn Đại
72 Số 69, 9/1937 Tu Bồ tát
Lục bát
73 Tu Tam muội
Lương Duyên
74 Số 70, 10/1937 Lời khuyên tu đạo Phật
Tuệ
75 Số 71, 10/1937 Khuyến tu Thái Hòa
76 Số 73, 11/1937 Cảm tưởng nạn dân bị lụt Trần Huy Hân
Thích Thanh
77 Vịnh người tu
Đương
Số 125, 2/1940
78 Khóc cụ Đồ Nam Trần Huy Bá
Thất ngôn bát cú
79 Lại tới Hương Sơn Tự Tân
80 Số 125, 3/1940 Phật tử thất giới
81 Số 139, 9/1940 Cảm hoài Trí Hải
82 Số 148, 1/1941 Khuyến thiện Thanh Phương
83 Số 152, 3/1941 Khuyến Tu Trí Hải
Lục bát
84 Số 170, 12/1941 Khuyên bạn xuất gia Ngọc Lâm
249

TẠP CHÍ DUY TÂM PHẬT HỌC

SỐ THỂ LOẠI
SỐ, NĂM XB TÁC PHẨM TÁC GIẢ
TT THƠ
Chúc tụng Lưỡng xuyên
01
Phật học hội
Thất ngôn bát cú
02 Số 1, 10/1935 Tặng Phật học đường
03 Mừng Duy tâm Phật học Liễu Không
04 Nhớ ơn Phật P.M Song thất lục bát
05 Buồn đời T.V
Số 4, 1/1936 Thất ngôn bát cú
06 Điếu cô Huệ Tâm Võ Thái Hữu
Kính tặng Duy tâm Phật
07 Nguyễn Bá Đạt Song thất lục bát
học
Số 8, 5/1936
Vô đề (nhắn ai kẻ tục
08 Bích Khê
người tiên)
09 Số 13, 10/1936 Tu học Phật pháp T.H
Thất ngôn bát cú
10 Thức tỉnh
11 Số 13, 1/1937 Hối ngộ Đặng Văn Long
12 Niệm Phật
13 Bỏ huyễn về chơn Khánh Vân
Số 20, 5/1937 Song thất lục bát
14 Khuyên tu Hải giác

TẠP CHÍ TIẾNG CHUÔNG SỚM

SỐ THỂ LOẠI
SỐ, NĂM XB TÁC PHẨM TÁC GIẢ
TT THƠ
Sa môn Bảo
01 Tiếng chuông sớm
Giám Thất ngôn bát cú
Số 1, 6/1935
02 Thơ cụ Trạng Trình V.L.B.G
03 Đùa thầy lang ấm Trác Tản Đà Lục bát
04 Thơ giới sát Mộng Vân Song thất lục bát
Số 2, 7/1935 Đề động Thanh Sơn Hội
05 H.S Thất ngôn bát cú

06 Số 3, 7/1935 Vịnh chùa Thiên Mụ Vũ Xuân Tăng Lục bát
Nguyễn Văn
07 Số 4, 8/1935 Khuyên người đọc kinh Song thất lục bát
Bân
08 Số 5, 8/1935 Viếng chùa Trà Cú Thanh Tâm
Thất ngôn bát cú
09 Số 6, 9/1935 Chúc nhà vua Vũ Xuân Tăng
10 Tu hành tự giác Lê Duy Tư
Nguyễn Quảng Lục bát
11 Số 8, 9/1935 Nghe chuông niệm Phật
Độ
12 Tặng sư Thanh Tâm
Thất ngôn bát cú
13 Khuyên người niệm Phật Vũ Xuân Tăng
Khuyên đồng nam đồng
14 Vũ Xuân Tăng
Số 9, 10/1935 nữ Lục bát
15 Lời tán tụng Phật Đàm Thị Tuyết
16 Gắng tu Thanh Tâm Song thất lục bát
250

Số 11, 11/1935
17 Khuyên bạn tu hành An Giang Lục bát
18 Số 12, 11/1935 Thơ chơi Sài Sơn Mân Châu
19 Tự trần Thanh Tâm Thất ngôn bát cú
Số 13, 12/1935 Trần Kim
20 Khuyến đạo
Trọng
21 Thơ phóng sinh Mộng Vân Song thất lục bát
22 Mừng Tiếng chuông sớm
23 Thức tỉnh đạo Phật
Lê Duy Tư
Khuyên các chị em mộ
24
đạo Thất ngôn bát cú
25 Ra về
26 Mừng Tiếng chuông sớm Thanh Tâm
Số 14, 12/1935
27 Lên hang Tổ
Bài ca khuyên thiện nam
28 Vũ Xuân Tăng Lục bát
tín nữ
Mừng Phật học tạp chí
29 Thích Tâm
Tiếng chuông sớm
Chúc mừng Tiếng Trang Quảng
30
chuông sớm ra đời Hưng Thất ngôn bát cú
Nguyễn Minh
31 Mừng Tiếng chuông sớm
Khôi
32 Mừng Tiếng chuông sớm An Châu
Số 15, 1/1936
33 Ca tán đúc chuông Vô danh Lục bát
34 Mừng Tiếng chuông sớm Mộng Vân
35 Đề Long Tiên động Ngô Trọng Nhạ
36 Lợi ích tôn chỉ T.C.S
Xưng tụng chủ trương
37
T.C.S Khánh Anh
38 Số 17, 2/1936 Khuyên bạn đọc T.C.S
Thất ngôn bát cú
39 Oai thần T.C.S
Đề kinh Báo phụ mẫu
40 Tự Giác
trọng ân
41 Ngẫu đề Mộng Vân
Số 18, 2/1936 Lên đàn thượng cúng
42 Bảo Giám
bách linh
43 Số 20, 3/1936 Khuyên tu Thanh Tâm Lục bát
44 Số 21, 4/1936 Bát cú vô đề Thanh Tâm
Thất ngôn bát cú
45 Đề động Long Tiên Trần Mỹ
Số 23, 5/1936 Đinh thị Mai
46 Vịnh quả chuông Song thất lục bát
Quý

TẠP CHÍ BỒ ĐỀ
SỐ THỂ LOẠI
SỐ, NĂM XB TÁC PHẨM TÁC GIẢ
TT THƠ
01 Khuyến tu Tân Phật tử Hát nói
Số 2, 9/1936 Hiếu dưỡng phụ mẫu diễn
02 Văn Thị Nga Lục bát
ca
251

TẠP CHÍ BÁT NHÃ ÂM

SỐ THỂ LOẠI
SỐ, NĂM XB TÊN TÁC PHẨM TÊN TÁC GIẢ
TT THƠ
01 Chiêm ngưỡng Xá Lợi Phật Thiện Quang
02 Tặng sư cụ Thiên Thai Thiện Quang
Số 14, 4/1939 Thất ngôn bát
Nguyễn Thiện
03 Giải thoát cú
Chánh
Đại Phương Tiện Phật Báo
04 Số 18, 5/1940
Ân Kinh
Đỗ Phước Tâm Song thất lục
05 Số 20, 3/1941 Hồng danh Bửu sám
bát
06 Số 21, 9/1941 Sám Khể thủ diễn nghĩa
07 Số 23, 9/1943 Sám đưa linh Trí Quang

TẠP CHÍ PHÁP ÂM PHẬT HỌC

SỐ THỂ LOẠI
SỐ, NĂM XB TÁC PHẨM TÁC GIẢ
TT THƠ
01 Pháp âm
Số 1, 1/1937 T.H
02 Bố thí
Mừng Hội Cư sĩ xuất bản
03 Trần Văn Minh
Số 2, 2/1937 Pháp âm Phật học
Thất ngôn bát cú
04 Họa vận T.H
05 Mừng Pháp âm Phật học
Bạch Vân
06 Số 3, 3/1937 Khuyên đời
07 Họa vận T.H

TẠP CHÍ TAM BẢO

SỐ THỂ LOẠI
SỐ, NĂM XB TÁC PHẨM TÁC GIẢ
TT THƠ
Thơ mừng Tam bảo chí
01 Số 1, 1/1937 Như Như
ra đời
02 Tặng Tam Bảo Thích nữ Diệu Hương
Số 3, 3/1937 Thất ngôn bát
03 Họa vận Thích nữ Diệu Tánh

04 Số 4, 4/1937 Cảm tác Giác Phong
05 Số 5, 6-7/1937 Tặng Tam bảo Từ Pháp
06 Số 8, 1-5/1938 Thu dạ cảm tác Giác Phong
252

TẠP CHÍ QUAN ÂM

SỐ THỂ LOẠI
SỐ, NĂM XB TÁC PHẨM TÁC GIẢ
TT THƠ
01 Số 22, 9/1941 Bút ký Song Châu
02 Một kiếp tu Thu Tâm
Thất ngôn bát cú
03 Số 24, 11/1941 Cảnh tu hành
04 Cảnh đền Kiếp Bạc T.B
05 Đêm buồn Lục bát
06 Số 24, 12/1941 Cái Đèn điện Lương Văn Tích
07 Lọ mực
08 Đuốc thể thao Phan Thanh Diễn
09 Chán Mỹ Châu Thất ngôn bát cú
Số 26, 1/1942
10 Buổi Hội đồng Hoan Ảnh
11 Soi gương Lương Văn Tích
12 Khuyên học trò Vũ Quốc Túy
13 Tâm sự nàng Nga Minh Châu Lục bát
14 Tiếng chuông cảnh tỉnh Huy Hoàng
Số 27, 2/1942
15 Mừng Xuân K.H
16 Lễ Phật đầu năm Long Giang
17 Đề Động Long Tiên Tuần phủ Trần Mỹ Thất ngôn bát cú
18 Giải thoát Thiện Phú
19 Hàng mã Long Giang
20 Tiễn Xuân K.H Lục bát
Số 28, 3/1942
21 Khuyến hiếu P.H
Thất ngôn bát cú
22 Từ biệt Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
23 Viếng mồ chiến sĩ K.H
24 Cuộc phong trần T.B
Song thất lục bát
Hiệu triệu anh em đồng
25 N.H.T
bào
Số 29, 4/1942
26 Xuân đàm hiến sự Lục bát
27 Hương Sơn hành tích Thất ngôn bát cú
28 Yên tử du ký Song thất lục bát
29 Vịnh Đền Côn Sơn
Vịnh cảnh chùa Cầm
30
Thực
Số 30, 5/1942 Đến chùa Lân – Vịnh
31
cảnh
Đến chùa Giải oan - Thiện Bảo
32
Vịnh cảnh
33 Vịnh cảnh Hoa Yên Thất ngôn bát cú
Bài văn chầu đức Trần
34 Số 32, 9/1942
Hưng Đạo
35 Vịnh cảnh chùa Vân Yên
Đến chùa Bảo Sát – Vịnh
36
Số 33, 10/1942 cảnh
Đến chùa Đồng - Vịnh
37
cảnh
253

PHỤ LỤC 4
Danh mục các tác phẩm văn xuôi đăng trên báo chí Phật giáo trước 1945

TẠP CHÍ TỪ BI ÂM

SỐ
SỐ, NĂM XB TÁC PHẨM TÁC GIẢ THỂ LOẠI
TT
Số 2-32, 1932- Lược truyện Phật Thích
01 TBA Truyện ký
1933 Ca Mâu Ni
Tu là cội phước, tình là
02 Số 3, 2/1932 Liên Tôn Tiểu thuyết
dây oan
03 Số 4, 2/1932 Dưới chơn Phật Kim Xuân Tiểu thuyết
04 Số 5, 3/1932 Duyên trước tình sau Chánh Niệm Tiểu thuyết
Sám hối được sanh về Hòa thượng
05 Số 6, 3/1932 Tiểu thuyết
thiên đường Bích Liên
06 Số 7, 4/1932 Hiếu nghĩa cảm Phật Liên Tôn Tiểu thuyết
07 Số 8-10, 4/1932 Tưởng Phật có Phật Nguyên Bản Tiểu thuyết
08 Số 10-11, 6/1932 Gương quả báo Tiểu thuyết
Số 13-16, 7-
09 Từ bi chỉ mối nhơn duyên Nguyên Bản Tiểu thuyết
8/1932
Nhờ vợ tu hành mà
10 Số 17, 9/1932 Thiện Dụng Truyện ngắn
chồng khỏi đọa
Một nàng con gái 13 tuổi
11 Số 21, 11/1932 Thiện Dụng Truyện ngắn
ngộ đạo
Sự tích đức Văn Thù Sư
12 Số 22, 11/1932
Lợi
Sự tích đức Phổ Hiền Bồ
13 Số 23, 12/1932 Trí Độ
tát
Sự tích đức Địa Tạng Bồ
14 Số 24, 12/1932 Truyện ký
tát
Sự tích đức Địa Tạng Bồ
15 Số 25-26, 1/1933 Thiện Dụng
tát (đời khác)
16 Số 27, 2/1933 Sự tích đức Di Lặc Thiện Dụng
Sự tích đức Di Lặc (đời
17 Thiện Dụng
Số 28, 2/1933 khác)
18 Bỏ Nho đầu Phật Minh Tịnh
Làm lành đặng phước Nguyễn Văn
19 Số 29, 3/1933
làm dữ bị họa Hạp Truyện ngắn
Làm lành đặng phước Nguyễn Văn
20
làm dữ bị họa Hạp
Số 30, 3/1933
Sự tích đức Ma ha ca
21
diếp Truyện ký
22 Số 31, 4/1933 Sự tích đức A nan Thiện Dụng
Nhờ đuốc tuệ ra khỏi
23 Số 32-33, 4/1933 Truyện ngắn
đường mê
Số 33-55, Tiền thân đức Phật Thích
24 Nhựt Chánh Truyện ký
4/1933-1934 Ca
25 Số 35, 6/1933 Lòng từ bi cảm đến loài Thiện Dụng Truyện ngắn
254

vật
Phật hóa độ người có
26 Số 36, 6/1933
duyên lành
Sự tích của nàng Mãn
27 Số 39-40, 8/1933
Lịnh Tông
Nhựt Chánh
28 Số 41, 9/1933 Sự tích ni sư Trí Hiền
29 Số 43, 10/1933 Sự tích ni sư Tịnh Kiểm
Sự tích đức Đạo Tín đại
30 Số 55, 4/1934
sư Giác Nhựt Truyện ký
31 Số 56, 4/1934 Sự tích đức Hoằng Nhẫn
32 Số 61, 7/1934 Sự tích ngài An thế cao Nhựt Chánh
Tiền thân của Phật Thích
33 Ca Mâu Ni liều mình cứu Mộng Liên
Số 102, 3/1936 người
Hại người tức là hại
34 Bình Tháp
mình
Gương nhân quả: Có vay
35 Số 124, 2/1937 Từ Ân
phải có trả Truyện ngắn
Gương nhân quả: Người
36 Số 130, 5/1937 đức độ thêm thọ, được Nguyên Bản
con
Tịnh độ vãng sinh truyện:
37 Số 158, 2/1939 sự tích ngài Thích Huệ
Từ TBA Truyện ký
Sự tích ngài Thích Tăng
38 Số 161, 5/1939
Đệ
39 Số 166, 10/1939 Gương nhân quả
Gương nhân quả: Không Thiện Minh Truyện ngắn
40 Số 167, 11/1939
ham sắc, được quyền cao

TẠP CHÍ VIÊN ÂM


SỐ
SỐ, NĂM XB TÁC PHẨM TÁC GIẢ THỂ LOẠI
TT
01 Câu chuyện ông chài T.M
Số 1, 12/1933 Tiểu thuyết
02 Biển ái sống dồi Châu Hải
Số 1-16, Sự tích đức Phật Thích Ca
03 Viên âm Truyện ký
12/1933-1935 Mâu Ni
04 Số 2, 1/1934 Biển ái sống dồi Châu Hải Tiểu thuyết
05 Số 4-7, 3/1934 Cô Ba Liễu Châu Hải Tiểu thuyết
06 Số 21, 6/1936 Chuyện nàng Liên Hoa Đôn Hậu
Truyện ký
07 Số 30-31, 6/1938 Sự tích đức Phật A Di Đà
Số 53-54,
08 Ưu bà di
10/1942 Tiểu thuyết
09 Số 56, 1/1943 Thái tử Tất Đạt Đa xuất gia Võ Đình Cường
10 Số 60-61, 5/1943 Chuyện về nhân quả Truyện ngắn
Số 66-67,
11 Ánh đạo vàng Tiểu thuyết
10/1943 Võ Đình Cường
12 Số 70, 1-2/1944 Nói cùng em: Hạnh phúc Tùy bút
255

BÁO ĐUỐC TUỆ

SỐ
SỐ, NĂM XB TÁC PHẨM TÁC GIẢ THỂ LOẠI
TT
01 Số 1, 12/1935 Sự tích đức Phật A Di Đà Nguyễn Trọng Thuật Truyện ký
02 Số 2, 12/1935 Ma Đăng già Truyện ngắn
03 Số 3-4, 12/1935 Trúc Lâm Tam Tổ Bùi Đức Triệu Truyện ký
04 Số 5-6, 1/1936 Chuyện chàng Đăng Chỉ Sa môn Trí Hải dịch Truyện ngắn
Số 12-29, 3-
05 Nhân quả Nguyễn Thiện Chính Tiểu thuyết
6/1936
Sự tích đức Phật Thích ca
06 Nguyễn Trọng Thuật Truyện ký
Số 15, 3/1936 Mâu Ni
07 Biến hình cứu bạn Trí Hải dịch Truyện ngắn
Phật hóa phép độ ông Tỳ kheo Thái Hòa
08 Số 16, 3/1936 Truyện ký
Nan Đà dịch
09 Số 28, 6/1936 Câu chuyện đi hạ Quang Đầu Tục Truyện ngắn
10 Số 30-33, 7/1936 Ông Lô Chí trưởng giả, Trí Hải dịch Truyện ký
Truyện cô công chúa Kim
Sa môn Thái Hòa
11 Số 36, 8/1936 Cương con vua Ba Tư Truyện ký
dịch
Nặc
Chuyện cũ nước Phật (Dì
12 Số 37, 8/1936 Thiện Bảo Truyện ký
ghẻ con chồng)
Truyện vua Quang Minh Sa môn Thái Hòa
13 Số 38, 9/1936 Truyện ký
phát tâm cầu đạo dịch
Chuyện cũ nước nhà (Trá
14 Số 40, 9/1936 Hòa thượng để dò mưu Thiện Bảo Truyện ký
giặc)
15 Số 52, 12/1936 Chuyện Luân hồi quả báo Minh Đằng Truyện ký
Số 53-62, 1-
16 Tây du ký Thiều Chửu dịch Truyện ký
6/1937
17 Số 60, 5/1937 Oán thù bình đẳng Quảng Tràng Thiệt Tiểu thuyết
18 Số 65, 7/1937 Thế cũng là “ngộ đạo” Đ.N.T Tiểu thuyết
Câu chuyện Hải thần
19 Số 70, 10/1937 Sa môn Tố Liên Truyện ký
trong sách Phật
Số 76-112
20 Tây vực ký Thiều Chửu dịch Truyện ký
1/1938-7/1939
Tiền thân đức Thế Tôn
21 Số 83, 4/1938 Nguyễn Thượng Cần Truyện ký
cầu pháp
22 Số 102, 2/1939 Ngoài vòng tục lụy Đoạn Duyên Truyện ngắn
Số 108-126, Cô con gái Phật hái dâu
23 Nguyễn Trọng Thuật Truyện ký
5/1939-2/1940 (Truyện bà Ỷ Lan)
Số 123-125, 1-
24 Quả báo triền triền Vân Sơn Truyện ngắn
2/1940
Số 132-141, 5- Trúc song tùy bút (Vân
25 Thiều Chửu dịch Tùy bút
10/1940 Thê)
Số 136-138, 7- Vết luân hồi (truyện cũ
26 Thiện Bảo dịch Truyện ngắn
8/1940 nước Tàu)
Số 147-148,
27 Trầm luân Thanh Đương Thuật Tiểu thuyết
1/1941
256

28 Số 149, 2/1941 Nhãn tiền báo ứng Trần Mạnh Đàn Truyện ngắn
Số 163-164,
29 Truyện đàn trâu Truyện ngắn
9/1941
Viên Quang
Số 169-170,
30 Đốt đuốc ban ngày Truyện ngắn
12/1941
Số 213-214,
31 Nhân quả chẳng sai Như Như dịch Truyện ngắn
10/1943
Sự tích ngài Văn Thù Bồ
Số 229-230,
32 tát thị hiện xuống đời Thiều Chửu dịch Truyện ký
6/1944

TẠP CHÍ DUY TÂM PHẬT HỌC

SỐ
SỐ, NĂM XB TÁC PHẨM TÁC GIẢ THỂ LOẠI
TT
Số 1-3, 10-
01 Độ người bỏn xẻn Tám Bồ đề Truyện ngắn
12/1957
Số 42-43, 4- Trần Huyền Trang du Tây
02 Truyện ký
5/1941 ký

TẠP CHÍ TIẾNG CHUÔNG SỚM

SỐ
SỐ, NĂM XB TÁC PHẨM TÁC GIẢ THỂ LOẠI
TT
01 Số 1-4, 6-8/1935 Chùa Bà Đá H.S Truyện ký
02 Số 1, 6/1935 Bến Đục Tản Đà Truyện ký
Số 1-23, 6/1935-
03 Nam du ký Mộng Vân dịch Tiểu thuyết
5/1936
04 Số 5, 8/1935 Gương nhân quả Mộng Vân Truyện ngắn
05 Số 6, 9/1935 Ác báo Mộng Vân Truyện ngắn
Số 6-15, 9/1935- Lược truyện đức Phật
06 Hội Sơn Truyện ký
11/1936 Thích Ca
07 Số 14, 12/1935 Vô Ngôn Thông thiền sư Mai Đăng Đệ Truyện ký
Số 15-17, 1-
08 Chuyện nhà tôi Mộng Vân Truyện ngắn
2/1936
Số 18-23, 2-
09 Tôi đi tu Mộng Vân Truyện ngắn
5/1936
10 Số 21-22, 4/1936 Đức Ma ha Ca Diếp Mai Đăng Đệ Truyện ký

TẠP CHÍ BỒ ĐỀ

SỐ
SỐ, NĂM XB TÁC PHẨM TÁC GIẢ THỂ LOẠI
TT
01 Số 2, 9/1936 Thiền chung thinh Tân Phật tử Truyện ngắn
257

TẠP CHÍ PHÁP ÂM PHẬT HỌC

SỐ
SỐ, NĂM XB TÁC PHẨM TÁC GIẢ THỂ LOẠI
TT
01 Số 1-7, 1-7/1937 Phật tổ Thích Ca P.T Truyện ký
02 Số 13, 3-4/1938 Đi cúng chùa Diệu Phước Truyện ngắn

TẠP CHÍ TAM BẢO

SỐ
SỐ, NĂM XB TÁC PHẨM TÁC GIẢ THỂ LOẠI
TT
Truyện Cao tăng nước
01 Số 1-3, 1-3/1937 TB Truyện ngắn
Việt Nam
02 Số 1, 1/1937 Tốt đỏ tốt trắng An Xuyên Tư Tiểu thuyết

TẠP CHÍ TIẾN HÓA

SỐ
SỐ, NĂM XB TÁC PHẨM TÁC GIẢ THỂ LOẠI
TT
01 Số 2-3, 2-3/1938 Phật Ấn với Tô Đông Pha Thanh Đàm Truyện ký

TẠP CHÍ QUAN ÂM

SỐ
SỐ, NĂM XB TÁC PHẨM TÁC GIẢ THỂ LOẠI
TT
Song Châu - Trần
01 Tôi đi thăm đền kiếp bạc Tùy bút
Số 23, 11/1941 Đức Hinh
02 Lạc đường T.V Xã luận
03 Số 24, 11/1941 Đâu là một thanh niên Đinh Gia Long Xã luận
04 Nhân Tài nước Nam Trương Vĩnh Ký Xã luận
Số 24 (tt), 12/1941 Tôi đã gặp ông chủ hiệu
05 Đinh Gia Long Xã luận
chè Phú Xuân
06 Một tấc đất một tấc vàng Lệ Châu Xã luận
Sự tích công chúa Liễu
07 Số 25, 12/1941 Tri Huyền Tử Truyện ngắn
Hạnh
Những lời ấy xa xăm còn
08 Số 26, 1/1942 Thiện Minh Truyện ngắn
vang mãi
09 Năm mới L.V.T Tùy bút
10 Nhà văn với trời xuân, K.H Tùy bút
11 Số 27, 2/1942 Cảnh tết Xuân Mai Truyện ngắn
12 Một kỷ niệm về tết Th.M Truyện ngắn
13 Năm ngoái năm nay Hoan Ảnh Tùy bút
Thiên nhiên, một bài học
14 Nguyễn Hữu Cần Xã luận
Số 28, 3/1942 đầy đủ và thâm thúy
15 Văn và nhà làm Văn K.H Xã luận
16 Số 29, 4/1942 Nghệ thuật với nhân sinh K.H Xã luận
258

You might also like