You are on page 1of 93

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


===================

VŨ THỊ HỒNG DUNG

QUAN NIỆM VỀ CÁI CHẾT VÀ ĐỊNH HƢỚNG


GIÁ TRỊ VĂN HÓA CHO NGƢỜI VIỆT HIỆN NAY
TRONG VẤN ĐỀ ỨNG XỬ VỚI CÁI CHẾT

LUẬN VĂN THẠC SĨ


CHUYÊN NGÀNH TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
===================

VŨ THỊ HỒNG DUNG

QUAN NIỆM VỀ CÁI CHẾT VÀ ĐỊNH HƢỚNG


GIÁ TRỊ VĂN HÓA CHO NGƢỜI VIỆT HIỆN NAY
TRONG VẤN ĐỀ ỨNG XỬ VỚI CÁI CHẾT

Chuyên ngành : Triết học


Mã số: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ


CHUYÊN NGÀNH TRIẾT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:TS. PHẠM QUỲNH

HÀ NỘI - 2015
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
1.1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 3
1.2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................. 4
1.3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 8
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 8
1.5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................ 8
1.6. Đóng góp mới của luận văn ....................................................................... 9
1.7. Ý nghĩa của luận văn .................................................................................. 9
1.8. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 9
NỘI DUNG..................................................................................................... 10
CHƢƠNG 1: QUAN NIỆM VỀ CÁI CHẾT TRONG LỊCH SỬ TƢ
TƢỞNG NHÂN LOẠI .................................................................................. 10
1.1. Quan niệm về cái chết trong lịch sử triết học ................................. 10
1.1.1. Quan niệm về cái chết trong triết học phương Tây ...................... 10
1.1.2. Quan niệm về cái chết trong triết học phương Đông .................... 18
1.2. Quan niệm về cái chết trong một số tôn giáo lớn ........................... 21
1.2.1 Quan niệm về cái chết trong đạo Kitô ........................................... 21
1.2.2. Quan niệm về cái chết trong đạo Phật .......................................... 23
1.2.3. Quan niệm về cái chết trong Hồi Giáo.......................................... 28
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 31
CHƢƠNG 2: ĐỀ XUẤT THẾ ỨNG XỬ CHO NGƢỜI VIỆT NAM
HIỆN NAY VỚI VẤN ĐỀ CÁI CHẾT THEO ĐỊNH HƢỚNG GIÁ TRỊ
VĂN HÓA ...................................................................................................... 32
2.1. Thái độ và nghi lễ tang ma của ngƣời Việt hiện nay trong cách
ứng xử với cái chết .................................................................................... 32
2.1.1. Thái độ của người Việt trong ứng xử với cái chết ........................ 32

1
2.1.2 Nghi lễ tang ma của người Việt ..................................................... 39
2.2. Một số định hƣớng cho thế ứng xử của ngƣời Việt hiện nay với
vấn đề cái chết............................................................................................ 49
2.2.1 Cần nhìn nhận cái chết như một hiên tượng tự nhiên, một giai đoạn
tất yếu trong chu trình phát triển của đời người, do đó không nên né
tránh hay sợ hãi khi bàn luận về cái chết hay đối mặt với nó. ................ 49
2.2.2. Cần hoàn thành trách nhiệm với cuộc sống hàng ngày, đó chính là
thái độ tốt nhất để đối mặt với cái chết. .................................................. 55
2.2.3. Cần phát huy những giá trị truyền thống thông qua nghi lễ tang ma
và khắc phục mê tín hủ tục...................................................................... 61
2.3. Những vấn đề còn đặt ra khi nghiên cứu về cái chết hiện nay ..... 74
2.3.1. Quan niệm của khoa học hiện đại về cái chết ............................... 74
2.3.2. Bàn về quyền được chết và vấn đề an tử ở Việt Nam .................. 76
Kết luận chƣơng 2 ........................................................................................ 82
KẾT LUẬN .................................................................................................... 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 87

2
MỞ ĐẦU

1.1. Lí do chọn đề tài


Sự sống và cái chết là nỗi bận tâm lớn nhất của con người. Có một câu
nói rất hay: Đời người như một cuốn sách, điều quan trọng không phải là
cuốn sách dài hay ngắn mà ở chỗ cuốn sách đó hay hay dở. Vì thế, hãy sống
tích cực, sống trọn vẹn với thời gian, với những gì đang có, sống thật vui vẻ,
có ý nghĩa và hữu ích. Hãy nỗ lực làm những gì có ích cho mình và mọi
người, phục vụ và cống hiến, để đời sống dù có mong manh, ngắn ngủi cũng
trở nên có ý nghĩa và giá trị.
Quan niệm về sống và chết, quan niệm về mối liên hệ giữa những người
sống và người chết từ lâu đã trở thành đề tài không chỉ được đề cập trong các
tôn giáo, tín ngưỡng mà còn xuất hiện trong triết học và một số bộ môn khoa
học. Bởi suy cho cùng, điều mà tôn giáo, tín ngưỡng và các ngành khoa học
hướng đến cũng chỉ để giải quyết vấn đề sống và chết của con người. Đã là
con người, chắc chắn ai cũng quan tâm đến sự sống và chết của mình. Tuy
nhiên, trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta nhắc nhiều đến sự sống, sự tồn tại
của mỗi đời người, mỗi xã hội và thường né tránh không bàn đến cái chết,
những điều liên quan đến cái chết.
Vấn đề sự sống – cái chết đã được vô số học giả khắp thế giới, cả phương
Đông, phương Tây, từ xưa đến nay nghiên cứu và đưa ra nhiều kiến giải phong
phú. Trong văn học phương Tây, nhà soạn kịch thiên tài Shakespeare đã đưa ra
một mệnh đề bất hủ “sống hay chết đó mới là vấn đề”. Trong triết học phương
Tây cổ đại, Platon có tác phẩm nổi tiếng bàn về sự bất tử của linh hồn. Ở
phương Đông, các nhà tư tưởng thuộc các các tôn giáo như Nho giáo, Đạo giáo
cũng đưa ra những quan niệm luận bàn về vấn đề sống – chết. Một số tôn giáo
lớn như đạo Phật, đạo Kitô, đạo Hồi cũng góp tiếng nói của mình đưa ra những
kiến giải lý thú về sự kiện trọng đại này của con người.

3
Cái chết của một thành viên trong cộng đồng thường gây nên một sự sợ
hãi, một nỗi kinh hoàng đối với những thành viên còn lại. Chết là một thực tại
bí hiểm bởi không ai còn sống mà có kinh nghiệm về nó được; những gì
người ta nói về cuộc sống sau cái chết đều chỉ là niềm tin. Khảo cứu quan
niệm về cái chết của người Việt và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa
của người Việt cũng là một cách để chúng ta có cái nhìn thông suốt và ứng xử
phù hợp mỗi khi đối diện với cái chết của ai đó trong cộng đồng.
Nhận thức về cái chết và quy phạm hóa cái chết qua các nghi thức lễ
tang là một việc cần thiết. Bởi, thái độ của người Việt về cái chết và nghi thức
tang ma có ảnh hưởng trực tiếp tới từng gia đình và cộng đồng trên nhiều
phương diện từ đời sống tình cảm đến kinh tế vật chất. Đồng thời, nó tác động
đến trật tự xã hội và văn hóa của cộng đồng. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện
nay, sự phát triển của kinh tế, xã hội khiến con người được thỏa mãn nhiều
nhu cầu của cuộc sống hơn nhưng cũng gặp rất nhiều rủi ro, áp lực khiến cho
không ít cá nhân rơi vào bế tắc tự kết thúc cuộc sống. Vì vậy, việc nghiên cứu
các quan niệm khác nhau về cuộc sống và cái chết có ý nghĩa hiện thực nhân
sinh đối với từng cá thể và cộng đồng.
Qua những suy tư về cái chết, con người sẽ nhận ra giới hạn của kiếp
người, tính bất định của sự sống, qua đó có thể sống tốt hơn, làm lợi cho tha
nhân nhiều hơn, và bình thản đón nhận cái chết. Với những lí do trên đây,
chúng tôi quyết định lựa chọn: “Quan niệm về cái chết và định hướng giá trị
văn hóa cho người Việt hiện nay trong vấn đề ứng xử với cái chết” làm đề
tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
1.2. Tình hình nghiên cứu
Triết học về cái chết là mảng đề tài thu hút nhiều sự quan tâm của giới
nghiên cứu trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam, đề tài này gần như một
mảnh đất bị bỏ trống, nhiều nhà nghiên cứu dường như còn lảng tránh vấn đề này.

4
Nghiên cứu về cái chết, chủ yếu là các công trình của các học giả nước
ngoài. Trước hết phải kể đến công trình của Phùng Lô Tường (2010), Triết lý
sinh tử Đông Tây, Thích Hoàng Trí dịch, Nxb Phương Đông. Tác giả đã tập
hợp những kiến giải Đông Tây kim cổ về sự sống và cái chết của loài người.
Công trình củaThích Điền Tâm (2011), Phật giáo sinh tử kỳ thư, Nxb Thời
đại, Hà Nội, góp phần lý giải chân tướng của sự sống và cái chết, giúp độc giả
đối diện với cái chết với hơn 200 đồ hình miêu tả về quá trình trước và sau lúc
lâm chung. Công trình của Sogyal Rinpoche (2013), Tạng Thư Sống Chết,
Thích Nữ Trí Hải dịch, Nxb Hồng Đức– Sách Bàn Về Sự Sống Và Cái Chết,
trong tác phẩm này, Sogyal Rinpoche tập trung vào các vấn đề làm sao để
hiểu ý nghĩa thực thụ của sự sống, làm sao để chấp nhận cái chết, làm sao để
giúp đỡ người sắp chết, và người đã chết. Tác giả có khuynh hướng nghĩ đến
sự chết không phải là một cái gì đó hoàn toàn chấm dứt. Tuy vậy, cái chết
không thể biết trước vì ta không biết được khi nào cái chết đến, và mình sẽ
chết như thế nào. Bởi thế, tốt hơn cả là ta hãy dự phòng một số việc trước khi
cái chết thực sự xảy ra.

Ngoài ra còn có một số công trình cũng đề cập đến vấn đề cái chết của
các tác giả: Francoise Dastur (2013), Sao lại là cái chết, Đăng Ngọc dịch,
Nxb Tri thức, Hà Nội; K. Sri Dhammananda (2007), Chết có thật đáng sợ
không, Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh; Emmanuelle Huisman – Perrin
(2013), Cái chết giải thích cho con, Đỗ Thị Minh Nguyệt dịch, Nxb Giáo dục
Việt Nam, Hà Nội. Đạt Lai Lạt Ma (Tây Tạng) (2004), Sống hạnh phúc chết
bình an, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. Tống Đạo Nguyên (2011), Đạo giáo sinh tử
kỳ thư, Cổ Đồ Thư dịch, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội; Arthur
Schopenhauer (2006), Siêu hình tình yêu – siêu hình sự chết, Hoàng Thiên
Nguyễn dịch, Nxb Văn học, Hà Nội; Tulku Thondup (2010), Chết an bình tái
sinh hỷ lạc, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

5
Như vậy, có thể thấy số lượng các công trình nghiên cứu về cái chết của
các học giả nước ngoài khá đồ sộ. Những công trình này đã bàn luận, lý giải
đề tài cái chết dưới rất nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Một số tác phẩm đi
vào khái quát, khảo cứu quan niệm về cái chết trong lịch sử tư tưởng. Một số
công trình lại triển khai theo hướng mô tả cái chết trong tương quan với sự
sống. Một số tác phẩm khác lại đưa ra những suy tư, kiến giải về ý nghĩa của
cái chết. Nhưng nhìn chung, hầu hết các tác phẩm chưa có sự gắn kết giữa
quan niệm về cái chết với định hướng giá trị văn hóa.

Như trên đã khẳng định, trái ngược với tình hình nghiên cứu trên thế
giới, ở Việt Nam hầu như chưa xuất hiện tác phẩm chuyên khảo nào về đề tài
cái chết. Cái chết mới chỉ được nhắc đến với tư cách là một trong những yếu
tố củavăn hóa xuất hiện trong những công trình nghiên cứu về văn hóa của
Trần Ngọc Thêm, Đào Duy Anh, Phan Kế Bính.

Trong tác phẩm Tìm hiểu về bản sắc văn hóa Việt Nam củaTrần Ngọc
Thêm do nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh ấn hành năm 1997 ta thấy với các tri
thức, các dữ kiện tổng hơ ̣p từ rấ t nhiề u công trình đông tây kim cổ thuô ̣c
nhiề u liñ h vực văn hóa khác nhau , bằ ng phương pháp cấ u trúc - loại hình, tác
giả đã xâu chuỗi các sự kiện thành một bức tranh tổng quan về văn hóa Việt
Nam. Đi vào các yế u tố văn hóa , tác giả tập trung khảo cứu lĩnh vực văn hóa
nhâ ̣n thức dựa trên cơ sở triế t lý âm dương , mô hình tam tài , ngũ hành của
phương Nam (trong đó có Viê ̣t Nam ) tác giả đã chỉ ra nh ững nét đặc trưng
trong văn hóa tổ chức cộng đồng của người Việt mà cụ thể là phong tục
tang ma thấm nhuần rất sâu sắc tinh thần triết lý âm dương Ngũ hành
phương Nam.

Đào Duy Anh vớiViệt Nam văn hóa sử cương (2000), Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội đã trình bày khá toàn diện những nội dung của lịch sử văn
hoá Việt Nam, giúp người đọc hình dung được diện mạo của văn hoá dân tộc.

6
Trong đó, ông đã đề cập đến tang chế, tang phục và đưa ra những luận giải
trong tập tục về việc tang của người Việt.

Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính (2011), Nxb Văn học, Hà Nội là
một công trình nghiên cứu nghiêm túc, có tinh thần phản biện về thuần phong
mỹ tục của Việt Nam. Trong tác phẩm này, tác giả cũng đề cập đến vấn đề
tang ma, cải táng và việc hiếu của người Việt, coi đó như một trong những
phong tục tập quán thể hiện được bản sắc văn hóa Việt Nam.

Bên cạnh những công trình văn hóa đề cập đến cái chết với tư cách là
một yếu tố văn hóa, khai thác đề tài cái chết ở khía cạnh phong tục tập quán ở
nước ta còn có các văn bản về những quy chế của nhà nước về nghi lễ tang
ma. Đó là các văn bản như Quyết định số 308/2005/QĐ-TTg ngày 25/11/2005
của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện nếp sống văn minh
trong việc cưới, việc tang và lễ hội; Thông tư số 04/2011/TT-BVHTTDL ngày
21/01/2011 của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch quy định về thực hiện nếp
sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội; Nghị định 105/2012/NĐ-
CPVề tổ chức lễ tang cán bộ, công chức, viên chức; Chỉ thị 27 –CT/TW của Bộ
chính trị về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ.

Như vậy, có thể thấy số lượng các công trình nghiên cứu về đề tài cái
chết ở Việt Nam còn ít ỏi. Những công trình nghiên cứu về đề tài này mới chỉ
khai thác khía cạnh bề mặt chẳng hạn như về nghi thức, tang lễ. Các công
trình nghiên cứu về đề tài cái chết đặt dưới góc độ triết học và định hướng giá
trị văn hóa hầu như chưa xuất hiện. (Và cũng do hạn chế về mặt nhận thức mà
bản thân tác giả chưa được tiếp cận với bất kỳ công trình nghiên cứu nào liên
quan trực tiếp đến đề tài mà tác giả đã chọn). Do đó, khảo cứu quan niệm về
cái chết và định hướng giá trị văn hóa cho người Việt Nam hiện nay trong vấn
đề ứng xử với cái chết thiết nghĩ là một việc làm cần thiết. Qua việc tìm hiểu
quan niệm về cái chết trong lịch sử tư tưởng nhân loại nói chung, ở Việt Nam

7
nói riêng để có thể khẳng định cái chết là một sự kiện, một hiện tượng tự
nhiên của đời sống con người và cũng là một thành tố không thể thiếu của văn
hóa. Do vậy, luận văn nghiên cứu về cái chết, từ những quan niệm của con
người về cái chết mong muốn đưa ra một vài những ý kiến mang tính định
hướng cho người Việt trong vấn đề ứng xử với cái chết.

1.3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


Mục đích:
Làm rõ quan niệm về cái chết trong lịch sử tư tưởng nhân loại nói chung
và ở Việt Nam nói riêng, từ đó góp phần khẳng định giá trị của những quan
niệm này đối với ứng xử của con người Việt Nam hiện nay với cái chết và
cuộc sống.
Nhiệm vụ
- Nghiên cứu quan niệm về cái chết trong lịch sử tư tưởng nhân loại.
- Nghiên cứu quan niệm và cách ứng xử của người Việt với vấn đề cái
chết và đề xuất thế ứng xử cho con người Việt Nam hiện nay về vấn đề cái
chết theo định hướng giá trị văn hoá.
1.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan niệm về cái chết trong lịch sử
tư tưởng nhân loại nói chung, ở Việt Nam nói riêng và cách người Việt Nam
ứng xử với cái chết.
Phạm vi nghiên cứu củaluận văn tập trung khảo cứu trong lịch sử triết
học phương Đông và phương Tây, trong một số tôn giáo lớn và phong tục
tang ma ở Việt Nam.
1.5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong việc nghiên cứu tôn giáo, nghiên
cứu lịch sử triết học đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu

8
như: phương pháp nghiên cứu văn bản, phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử
và logic…
1.6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn trình bày một cách có hệ thống và chi tiết quan niệm về cái
chết trong lịch sử tư tưởng nhân loại và đưa ra một số đề xuất về thế ứng xử
cho con người Việt Nam hiện nay đối với vấn đề cái chết.
1.7. Ý nghĩa của luận văn
Thông qua việc làm sáng tỏ những nội dung cơ bản trong quan niệm về
cái chết trong lịch sử triết học, tôn giáo và ở Việt Nam luận văn giúp chúng ta
có một cái nhìn đầy đủ, đa chiều hơn về vấn đề luôn đi liền với cuộc sống của
con người, đó là cái chết, đồng thời luận văn có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho những ai quan tâm tới vấn đề trên.

1.8. Kết cấu của luận văn


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có kết cấu gồm 2 chương, 5 tiết.

9
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: QUAN NIỆM VỀ CÁI CHẾT TRONG LỊCH SỬ TƢ
TƢỞNG NHÂN LOẠI

1.1. Quan niệm về cái chết trong lịch sử triết học


1.1.1. Quan niệm về cái chết trong triết học phƣơng Tây
Socrates (469 Tr. CN – 399 Tr. CN) là một nhà triết học vĩ đại. Theo
ông triết học ra đời với mục đích chuẩn bị về mặt tinh thần để con người đón
nhận cái chết. Điều này đã được Socrates lý giải trong tác phẩm “Đối thoại
Phedon”, một đối thoại được học trò của ông là Platon ghi lại, trong đó kể lại
những thời khắc cuối đời của người thầy.
Socrates bị xử phải uống thuốc độc. Môn đệ của ông tìm cách cứu ông
một lần chót nhưng ông đã từ chối. Với các môn đệ đến ngục thất để tiễn
Socrates về cõi chết, Socrates nói: Hãy cứ vui đi, các con chỉ chôn cái thể
phách của thầy. Đặc biệt, Socrates cho rằng, nếu cái chết có thể tránh khỏi sự
bất lực và bi thảm sau tuổi già thì con người sẽ có được kết luận là muốn tìm
đến một cái chết còn tốt hơn là sống: Ai chưa kinh qua đời sống phản tỉnh thì
người đó không đáng sống.Theo Socrates, “phản tỉnh” là công năng quan
trọng của triết học. Ý nghĩa sinh mệnh con người đòi hỏi phải kinh qua sự
phản tỉnh triệt để thì cuộc sống mới mang nhiều giá trị hơn.
Do Socrates xoáy sâu vào sự sống, nhấn mạnh sống cần phải “phản tỉnh”
thì mới có ý nghĩa. Tương tự, đối với cái chết cũng vậy, trước khi nhắm mắt
cũng cần phải phản tỉnh thì cái chết mới mang ý nghĩa, giá trị của đời người,
và không có chút hối tiếc cũng như không có gì phải sợ hãi khi lâm chung.
“Chính bản thân của Socrates do bị vu khống tội “bôi nhọ thần thánh”,
“đầu độc thanh niên” mà bị kết án tử hình. Nhưng sau khi ông kinh qua quá
trình phản tỉnh trọn vẹn, không những ông không biểu hiện chút gì sợ hãi, cự

10
tuyệt trốn chạy, mà trái lại còn phát huy dũng khí nhìn cái chết giống như cơ
hội trở về, khác hẳn với người bình thường. Dũng khí này là trí tuệ có được
sau sự “phản tỉnh” của ông, vì ông cho rằng chết đúng chỗ, chết đúng lẽ, chết
đúng thời nên thong dong tự tại ra đi” [10, 212-213].
Socrates từng nói: Những người sống có giá trị thì sẽ không suy tính
chuyện an nguy của sinh mệnh, điều mà anh ta băn khoăn duy nhất chỉ là
quan tâm đến vấn đề thị phi, thiện ác của hành vi. “Có nghĩa là, trong lòng
anh ta lấy giá trị cao thượng để làm tiêu chuẩn của việc phản tỉnh, cần thiết thì
lúc nào cũng có thể hy sinh mạng sống để bảo vệ chính nghĩa, biện biệt thị
phi. Trong suy nghĩ của anh ta luôn luôn “Sống tốt, sống đẹp, sống chính
nghĩa là một sự thống nhất”. Có nghĩa, chỉ có dựa vào công bằng, chính nghĩa
mà sống thì mới có thể gọi là sống tốt, sống đẹp được. Nếu không, mặc dù có
cuộc sống giàu sang mà trái lại có hành vi không chính nghĩa, không phân biệt
phải trái, sống chẳng có chút giá trị nào thì thà chết còn hơn sống” [10, 214].
Socrates nhìn nhận cần phải nuôi hy vọng lạc quan với cái chết. Bời vì,
theo cách nhìn của ông, nếu cái chết có thể tránh khỏi sự bất lực và bi thảm
sau tuổi già thì con người sẽ có được kết luận là “muốn tìm đến một cái chết
còn tốt hơn là sống” [10, 217].
Plato (427 Tr.CN – 347 Tr.CN) là một trong những triết gia vĩ đại của
nền triết học Hy Lạp cổ đại. Tư tưởng của ông có quy mô rộng lớn, tư duy
tinh tế, quán thông xuyên suốt hầu như tất cả các vấn đề triết học quan trọng.
Plato kế thừa quan niệm của Pythagoras, cho rằng thân xác như nhà lao
giam giữ linh hồn, nên “chết là sự phóng thích linh hồn ra khỏi thể xác”. Theo
Plato, ý niệm mới là thế giới tồn tại vĩnh hằng nên trong thiên Phedo ông nói:
chết là linh hồn bất tử rời khỏi nhà lao của thân xác mà được phóng thích, sau
đó bước sang thế giới ý niệm. Plato cho rằng thế giới hiện thực và thế giới ý
niệm như hai cõi trên và dưới đoạn tuyệt nhau nên cái chết của con người

11
chính là linh hồn trở về thế giới ý niệm. Ngoài ra, ông cũng khẳng định tính
tình con người bao gồm ba phần lý tính, cảm xúc, ham muốn. Trong đó chỉ có
linh hồn lý tính mới có thể trường tồn cho nên sau khi chết cảm xúc và ham
muốn đều hủy diệt theo thể xác nhưng phần lý tính trong linh hồn thì vẫn
quay về với thế giới ý niệm. Con người sống trong thế giới hiện thực cũng
như trú trong một cái hầm. Do đó, chết là sự giải thoát cho linh hồn và cũng là
bước vào ánh sáng vĩnh hằng của ý niệm nên không có gì đáng lo sợ.
Theo Plato, “cuộc sống con người chỉ có những kẻ trí biết chuyên tâm
dốc chí để tập luyện cái chết không ngừng thì mới có thể gọi là nhà triết học
chân chính. Trong triết học của Plato, mục tiêu quan trọng nhất của nhân sinh
là theo đuổi “Chân, Thiện, Mỹ”, mà bản thể của “Chân, Thiện, Mỹ” chính là
cái thiện (Agathon) và đó chính là bản thể sáng suốt của vũ trụ” [54, 221].
Trong triết học Plato, “Chân, Thiện, Mỹ” chỉ tồn tại trong thế giới ý
niệm vĩnh hằng, nên chỉ sau khi chết đi mới có thể đạt đến ba phạm trù đó.
Cho nên khi bàn về ý nghĩa này, triết học chính là sự tập luyện cái chết.
Đương nhiên, nhà triết học tuyệt đối không nói, con người nếu tìm đến cái
chết một cách mù quáng là trí tuệ của triết học; càng không nói, tự sát một
cách ngu muội là triết học; mà ông chỉ nói, trong quá trình truy cầu chân lý,
thiện hạn và mỹ đức, suốt cuộc đời nỗ lực “sống chết để thành tựu điều đó”
chính là triết học. Vì mục đích truy cầu chân lý mà sống chết cũng đạt cho
bằng đươc Chân – Thiện – Mỹ, thì trong quá trình ấy chính là triết học. “Tinh
thần truy cầu chân lý, thậm chí còn lấy thân mạng để bảo vệ chân lý ở đây
đáng được coi trọng và khâm phục” [54, 222].
Aristote (384 Tr. CN -322 Tr.CN) là học trò của Plato, theo học với
Plato tại học viện đến hai mươi năm nhưng về sau ông có rất nhiều suy nghĩ
khác với thầy Plato.

12
Aristote phản đối thuyết linh hồn bất tử của Plato. Aristote nhấn mạnh:
Toàn bộ linh hồn nằm ở cảnh giới sau khi con người chết, tiếp tục tồn tại là
điều không thể chấp nhận.
Nếu như Plato cho rằng linh hồn tồn tại độc lập không dựa vào thân xác
con người thì Aristote lại nhận định linh hồn chính là hình thức tồn tại của
thân xác con người. Với ông, linh hồn và thân thể con người là một thể thống
nhất, khi thân thể hủy diệt thì linh hồn cũng theo đó mà mất đi. Điều đó có
nghĩa, thân xác và linh hồn có tính thống nhất và tính cộng sinh nên quan
điểm này hoàn toàn bất đồng với cách nhìn nhận của Plato.
Theo Aristote, chết là kết thúc nhưng đối với người chết thì tất cả mọi
thứ đều chết theo cá nhân anh ta, mà mất đi toàn bộ niềm tin của họ. Do đó,
chết là điều đáng sợ. Aristote nói mặc dù giành được toàn bộ thế giới này
nhưng nếu mất đi mạng sống thì có ích gì đâu. Do đó, mạng sống và sinh tồn,
đối với người bình thường, đương nhiên rất quan trọng, họ đối mặt với cái
chết, tâm thường phát sinh sợ hãi thì đó cũng là chuyện thường tình của con
người. “Aristote đã biết tường tận về tâm lý của con người khi đối mặt với cái
chết nhưng ông đi xa hơn một bước nữa là chỉ ra vấn đề mang tính thiết thực
hơn, tức là nhận thức nhân sinh còn có giá trị cao hơn, quan trọng hơn là
mạng sống.” [54, 230]. Chẳng hạn, theo con mắt nhìn nhận của Aristote thì
việc truy cầu chính nghĩa theo đuổi vẻ vang lại cao hơn mạng sống rất nhiều.
Vì vậy, ông cho rằng con người có thể dựa vào dũng khí và mỹ đức để khắc
phục sự sự hãi của cái chết.
Ông đã đưa ra ví dụ để thuyết minh: “Khi lính đánh thuê đối mặt với sự
nguy hiểm lớn thì bao giờ cũng trở nên kẻ nhát gan, nhưng đối với công dân
vũ trang thì sẵn sàng lấy thân mình hy sinh vì việc lớn… Vì đối với hậu thế
mà nói thì bỏ chạy là điều đáng tủi nhục; mà đối với cái chết, theo cách nhìn
của một số người thì đáng được ca ngợi hơn so với con đường tìm sự an toàn”
[54, 230].

13
Cách nhìn về sinh tử của Aristote hoàn toàn tương đồng với câu nói “ngu
xuẩn mới sợ chết” của Socrates. Thầy của ông là Plato cho rằng, nhà triết học
chân chính vốn không bao giờ sợ chết mà trong quá trình truy cầu Chân – Thiện
– Mỹ, họ có thể khám phá được bộ mặt sinh tử. Từ quan điểm này, chúng ta có
thể nhận ra được nét tương đồng về tư tưởng của các nhà triết học.
Epicure (341 Tr.CN – 270 Tr. CN) cho rằng: Chết là việc chẳng có can
dự gì đến chúng ta; ông khẳng định con người và vạn vật tương đồng, vì tất cả
đều do nguyên tử cấu thành nên đều đó trùng hợp một cách ngẫu nhiên. Khi
những nguyên tử này tổ hợp lại thì gọi là sinh, nhưng khi chúng ly tán thì gọi
là tử. Cho nên cái chết và bản thân con người hoàn toàn chẳng liên quan gì
đến nhau. Sau khi con người chết, những nguyên tử cơ bản này có thể làm
mới thông qua các nguyên tố mang tính ngẫu nhiên để hình thành nên một
con người hoặc một động vật khác, nên những chỗ này cũng chẳng có liên
quan gì đến con người cả.
Vì vậy, Epicure nhấn mạnh: Đối với chúng ta cái chết chẳng liên can gì,
vì tất cả những thứ đã tiêu tan rồi đều không có cảm giác, mà những thứ
không có cảm giác đều không có liên quan gì đến chúng ta: “Người có chí
vừa không sợ hãi cái chết, vừa không chán ghét sinh tồn.”[54, 234].
Vì Epicure là người thuộc chủ nghĩa Khoái lạc tinh thần mang tính điển
hình nên ông rất chú trọng cuộc sống hạnh phúc. Ông gọi “Cuộc sống hạnh
phúc” là “cái thiện tối cao của chúng ta do thiên phú, tất cả những thứ chọn
lựa của chúng ta đều xuất phát từ cảm giác khoái lạc”. Song, điều đáng chú ý
là, khoái lạc mà Epicure nói ra hoàn toàn không phải là niềm lạc thú của
những kẻ buông lơi, hưởng thụ, hoặc niềm khoái lạc xác thịt, mà là chỉ cho
thân thể không đau khổ và linh hồn không loạn động. Theo cách nhìn của
ông, người có chí trang bị cho mình trí tuệ triết học thì người đó vừa không sợ
hãi cái chết, vừa không chán ghét sinh tồn.

14
Nói cách khác, Epicure nhấn mạnh đối mặt với vấn đề sinh tử, trong khi
cái chết của vận mệnh chưa tới thì phải cố gắng mà sống, khi tử thần đến thì
hãy bình tĩnh mà chết. Đây chính là thái độ rộng lượng của ông “vừa không
sợ hãi cái chết vừa không chán ghét sinh tồn”.
Decartes (1596 – 1650) là người khai sáng ra chủ nghĩa Lý tính, hay còn
gọi là “Người cha đẻ của triết học cận đại”.
Theo cách nhìn của Decartes, linh hồn của chúng ta lâu bền hơn thân thể
có nghĩa là ông cho rằng linh hồn bất tử nên chẳng có gì phải sợ hãi đối với
cái chết. Nói cách khác sau khi con người chết, linh hồn sẽ lìa khỏi thể xác
nhưng sẽ không vì thân thể chúng ta chết mà nó chết theo, thậm chí nó vẫn
còn nguyên vẹn không chút tổn hại. Decartes nhấn mạnh tâm linh chúng ta có
một bản tính hoàn toàn độc lập với thân thể nên chắc chắn sẽ không chết cùng
với thân thể. Chúng ta đã không thấy được nguyên nhân nào khiến cho tâm
linh hủy diệt nên một điều đương nhiên mà chúng ta chắc chắn rằng tâm linh
là cái bất tử.
Nói cách khác, Decartes nhấn mạnh: Tâm linh chúng ta có một bản tính
hoàn toàn độc lập với thân thể nên chắc chắn sẽ không chết cùng với thân thể.
Chúng ta đã không thấy được nguyên nhân nào khiến cho tâm linh hủy diệt
nên một điều đương nhiên mà chúng ta chắc chắn rằng, tâm linh là cái bất tử.
Spinoza (1632 - 1677) cho rằng trí tuệ con người tự do không phải nằm
ở chỗ trầm tư về cái chết mà lại suy nghĩ về sự sống. Spinoza không bị chi
phối bởi tâm trạng sợ chết mà mong muốn một cách trực tiếp về điều thiện; có
nghĩa là ông đã vượt qua khỏi nỗi ám ảnh của cái chết mà ông toàn tâm toàn
sức để làm điều thiện đối với cuộc đời này.
Theo Spinoza đã nhấn mạnh: Tâm linh con người không thể tiêu diệt
hoàn toàn theo thể xác. Chỉ cần lòng người theo đuổi con đường làm điều
thiện thì chắc chắn sẽ bước vào thế giới của Chúa nên con đường bảo trì mạng

15
sống chính là ở chỗ biết về Chúa, tức là chỉ cần sống trong cảnh giới của
Chúa thì có thể tồn tại vĩnh hằng, siêu việt cả không gian và thời gian.
Fichte (1762 -1831) cho rằng linh hồn bất tử chính là tự ngã thuần túy
và Thượng đế bất tử, cho nên khi một người chết tức là hợp nhất với Thượng
đế, như vậy thì còn sợ chết gì nữa? Đây là vấn đề mà Fichte đã nói: Đối với
tôi mà nói, chết là việc hết sức nhỏ bé không đáng để nói. Đối với chính tôi
mà nói, khi chết chính là lúc sản sinh ra một mạng sống hoàn toàn mới và
tráng lệ hơn. Cho nên theo cách nhìn của Fichte thì chết là việc tốt lành có thể
mang con người đến với Thượng đế, mang đến kiếp sau và mang đến một thế
giới hoàn hảo hơn.
G.W.F.Hegel (1770 -1831) nói đến trong cuốn sách Hiện tượng học tinh
thần như sau: “Đời sống tinh thần không phải là sợ chết để may mắn thoát
khỏi cuộc sống dày vò mà là dám đón nhận cái chết và có được cuộc sống tự
tại trong cái chết.” [54, 247]. Vì vậy, chỉ có khám phá cái chết mới có thể phủ
định nỗi sợ hãi bởi bóng đêm bên ngoài và mới có thể phủ định được nỗi sợ
hãi trong linh hồn. Chỉ có như vậy mới có thể mãi thăng hoa tinh thần để đạt
đến sự vĩnh hằng của tinh thần tuyệt đối. Nói cách khác, Hegel cho rằng, chết
chính là sự dung hợp mới giữa Thượng đế và con người. Cho nên thông qua
cái chết, Thượng đế mới làm cho thế giới này hài hòa, giúp cho bản thân thế
giới được vĩnh hằng cùng với sự hài hòa của thượng đế.
Karl Japers (1883 -1969) – nhà triết học Đức mang tư tưởng khoáng đạt
thuộc chủ nghĩa tồn tại. Japers đã đưa ra câu nói nổi tiếng: làm triết học tức là
học tập cái chết nên có thể nói đó là quan niệm hạt nhân chủ yếu của ông.
Japers cho rằng có bốn tình huống ngoài lề khiến con người phải kinh hoàng
đầu tiên là cái chết, sau đó là gian khổ, đấu tranh và tội lỗi. Chính vì cái chết
là tình huống ngoài lề rõ ràng nhất ranh giới giữa cái sống và cái chết rất
mong manh. Bước qua ranh giới này, trời người sẽ vĩnh viễn cách xa, đồng

16
thời tất cả vinh hoa phú quý hoặc quyền lợi địa vị xã hội bên ngoài cũng tuột
khỏi tầm tay. Vì vậy, tất cả cảnh tượng trên thế gian cũng chẳng còn ý nghĩa
gì nữa, bức tường âm dương đã tạo nên cuộc chia ly mãi mãi nên đó là chỗ
khiến người ta sợ hãi nhất. Do đó, đối với tình huống ngoài lề - cái chết chúng
ta cần phải xử lý ra sao, suy nghĩ thế nào, đó mới là sự thử thách lớn nhất của
triết học. Đặc biệt Japers nhấn mạnh, con người phải đối mặt với cái chết,
nắm chặt cái đang tồn tại lúc này và lấy sứ mệnh lịch sử để siêu việt tồn tại,
nhìn về tương lai đánh giá lịch sử thì mới có thể sống một cách chân thành
với ý nghĩa của mạng sống.
Martin Heiderger (1889 -1976) là một nhà triết học nổi tiếng của triết
học phương Tây hiện đại. Về căn bản triết học Heiderger khẳng định con
người là sự tồn tại đang bước dần đến cái chết, cho nên nhân sinh quan chính
là nhân tử quan vì con người phải đối mặt với cái chết, hoàn thành trách
nhiệm mới không uổng phí một đời. Theo Heiderger, tồn tại trước tiên phải
nằm ở bản chất, ý nghĩa đại biểu cho cái chết của mỗi cá nhân làm cho mỗi
người không giống nhau: phương thức chết, thời gian chết, không gian chết
của từng người cũng khác nhau. Do đó, đối với tồn tại ở đây của mỗi người
thì chỉ có cái chết mới có khả năng thể hiện được tính đặc sắc của nó. Từ vấn
đề trên Heiderger đã tìm ra tính tích cực và tính đặc biệt của cái chết.
Bertrand Arthur William Russell (1872-1970) cho rằng sống chết
không hề thuộc về vấn đề triết học mà thuộc về vấn đề khoa học và tôn giáo.
Nhưng ông vẫn cho rằng triết học có nhiệm vụ giúp con người tránh khỏi sợ
hãi về cái chết. Theo Russell mặc dù biết nhân sinh nhất định đều sẽ chết,
“con người do mệnh trời đã định hôm nay mất đi người mà anh ta yêu quý
nhất, ngày mai chính họ cũng phải đi qua cánh cửa tối tăm kia” nhưng hoàn
toàn không vì thế mà suy sụp, trái lại cần phải “ôm tư tưởng cao thượng để
giúp cho chuỗi ngày ngắn ngủi của anh ta có đầy đủ phẩm chất cao quý, tuyệt

17
đối không trở thành kẻ nô lệ cho vận mệnh mà nhu nhược tinh thần”. Tinh
thần không chịu cúi đầu trước vận mệnh, ngang nhiên kiến lập tư tưởng cao
thượng này của Russell vẫn được mọi người khâm phục.

1.1.2. Quan niệm về cái chết trong triết học phƣơng Đông
Khổng Tử (551 – 579 tr CN) cho rằng bản thân vấn đề sống chết đều do
mệnh trời quy định với câu nói khá nổi tiếng: Sống chết có mệnh, giàu sang
tại trời. Trời đối với Khổng Tử có chỗ như là một quy luật, là trật tự của vạn
vật, có chỗ ông khẳng định trời có ý chí: Mắc tội với trời không thể cầu ở đâu
mà thoát được. “Thiên mệnh nói vắn tắt là mệnh. Ông cho rằng, mỗi cá nhân,
sự sống – chết, phú quý hay nghèo hèn đều là do Thiên mệnh quy định” [61,
31]. Vì vậy, Khổng Tử đặt hết niềm tin vào ý chí của trời. Ông khuyên mọi
người phục tùng ý chí đó và coi việc hiểu biết mệnh trời như một điều kiện
trở thành con người hoàn thiện. “Không hiểu mệnh trời thì không thể là người
quân tử”. Khi Tử Lộ hỏi ông về việc thờ quỷ thần và về cái chết, ông đã thẳng
thắn trả lời: “Chưa biết thờ người, làm sao có thể thờ quỷ… Sự sống còn chưa
biết, sao biết được sự chết?” [58, 405]. Vì đã là sống chết có mệnh thì không
cần phải nghiên cứu thế giới sau khi chết để làm gì, do đó Khổng Tử đề cao
trí tuệ và nỗ lực của mỗi cá nhân trong cuộc sống hiện thực, sống cho đúng
đạo làm người.

Mạnh Tử (372 – 289 tr CN) nhấn mạnh trời là một đấng anh minh tối
cao, sáng tạo và chi phối vạn vật trong vũ trụ. Cho nên, ông khuyên nhủ con
người phải luôn luôn tuyệt đối phục tùng mệnh trời, an phận nhận lấy số
mệnh trời đã định: Không có việc gì xảy ra mà không do mệnh trời, người ta
phải thuận theo mà nhận lấy cái số mệnh chính đáng ấy. Trong đó, theo Mạnh
Tử: Chết non hay sống lâu không nghi ngờ gì cả. Chỉ sửa mình để đợi mệnh,
tức là giữ trọn theo số mệnh trời đã giao phó cho vậy, và khi đã theo chọn cái
đạo trời mà chết, ấy là số mệnh chính đáng. “Mạnh Tử khẳng định nhân tâm

18
có được từ thiên tâm, do đó, nếu mọi người tận tâm tận lực, kích phát tiềm
năng, hoàn thành thiện căn tự ngã, thì có thể biết được bản chất của mạng
sống, tức là trực tiếp tri thiên, biết được bản chất của thiên tâm” [54, 284].
Ông khẳng định, “tuổi thọ nhân sinh đều có số mệnh nhất định, hoặc dài hoặc
ngắn, mệnh số không hai, đều do mệnh trời, con người đứng trước số mệnh
này không thể thay đồi, không thể chạy trốn mà chỉ có thể đối mặt với nó,
thông qua phương pháp tu thân mỗi ngày để hoàn thành trách nhiệm sinh
mệnh, đây chính là con đường an thân lập mệnh vững vàng nhất” [54, 285].
Chính vì vậy mà Mạnh Tử cho rằng: “Sống là điều ta ham muốn, nghĩa cũng
là điều ta ham muốn, nhưng trong những cái ta ham muốn còn có lớn hơn cả
sự sống, cho nên ta không thể cẩu thả ôm lấy sự sống. Chết là điều ta ghét,
nhưng trong những cái ta chán ghét còn có cái ta chán ghét hơn sự chết, cho
nên có khi gặp hoạn nạn (biết là có thể chết đấy) nhưng ta cũng không né
tránh.” [58, 742].

Tuân Tử (298- 238tr CN): Tuân Tử cho rằng đạo Trời luôn diễn ra theo
lẽ tự nhiên nhất định không liên quan gì đến đạo người. Trời có thiên chức
của Trời người có thiên chức của người. Người quân tử, bậc chí nhân là người
thấu hiểu đạo Trời, không ỷ lại và không phụ thuộc vào Trời, không tranh
thiên chức của Trời mà luôn lo làm tốt việc của con người. Ông khuyên con
người ta không nên chờ đợi sự ban phát của tự nhiên một cách bị động mà
phải vận dụng tài trí, khả năng, sức lực của mình để dưỡng vật chế tài vật,
ứng phó với thời, hóa vật và trị vật ngày một tốt hơn. Đây là quan niệm hết
sức tiến bộ của Tuân Tử nó hoàn toàn đối lập với những quan điểm thuận
mệnh, chờ mệnh, sợ mệnh có tính chất duy tâm thần bí được tuyên truyền
đương thời. Tuân Tử khẳng định quỷ thần không thể chi phối được đời sống
con người. Cho nên, con người là cao quý nhất trong vạn vật. Ông coi tri giác
và ý thức là đặc điểm của con người, qua đó ông phủ nhận quan điểm vạn vật

19
đều có linh tính đã được thịnh hành trong tư tưởng mê tín tôn giáo đương
thời. Về mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác con người, Tuân Tử cho rằng
tình cảm, dục vọng, khí quan, cảm giác và hoạt động tư duy của con người
đều là hiện tượng tự nhiên. Ông thừa nhận không có một lực lượng thần bí
siêu nhiên nào chi phối hoạt động tinh thần của con người.

Dƣơng Chu (395 -335tr CN) cho rằng tất cả sự vật hiện tượng cũng như
mọi biến cố của tự nhiên và xã hội đều tuân theo tính chất tự nhiên không phụ
thuộc vào một lực lượng siêu nhiên như thần thánh hay ma quỷ nào cả. Đời
sống con người và vạn vật trong vũ trụ là tự sinh tự diệt. Do đó, ông phê phán
những quan niệm có tính chất mê tín tôn giáo tin vào sự bất tử của đời sống.
Ông kêu gọi hãy tận hưởng mọi điều hiện có trong cuộc sống và không nên
làm cho mình khổ sở bằng ý nghĩ về cái gì sẽ đến sau khi chết. Ông cho rằng
đời sống chỉ là tạm, chẳng bao lâu rồi chết, cho nên hành động theo lòng
mình, không trái với thị hiếu tự nhiên, không bỏ lỡ cái gì làm vui cho cuộc
sống, không màng tới cái danh sau khi chết. Danh tiếng hơn hay kém, tuổi thọ
nhiều hay ít họ không quan tâm tới: “Đã sinh ra thì cứ thản nhiên nhận cuộc
sống và thỏa mãn hết thị hiếu của mình đến lúc chết, sắp chết thì cứ thản
nhiên nhận sự chết, sống hết đời mình cho đến khi tiêu diệt. Cái gì cũng thản
nhiên, cái gì cũng chấp nhận thì còn mong cái gì nó tới sớm hay muộn nữa.
Đối với “mệnh trời” và “việc người” có thể nói Dương Chu vận dụng quan
điểm tổng hợp nên đều thừa nhận cả hai. Ông quan niệm cái gì không biết tại
sao nó lại như vậy thì gọi là do mệnh trời. Đã tin có mệnh trời rồi thì không
có gì là thọ yểu. Người như vậy có thể gọi là không tin cái gì cả mà không có
cái gì là không tin.

Trang Tử (369 - 286 tr.CN) cho rằng con người ta chẳng qua là tạp chất
biến hóa ra có khí, khí lại biến hóa có hình, hình biến hóa mà có sinh, sinh
biến hóa mà có tử. Theo cách nhìn của ông nhân sinh có sống chết thì cũng

20
như tự nhiên có ngày đêm, cũng như vạn vật có quy luật tự nhiên, đều thuộc
sự vận động mang tính khách quan hóa mà hoàn toàn chẳng phải do ý muốn
chủ quan của bản thân con người. Vì vậy, cho dù là sống hay chết thì con
người đều cần thản nhiên đối mặt và đón nhận nó. Sự sống và cái chết dựa
vào nhau để cùng tồn tại trở thành điểm đầu và điểm cuối của nhau để tạo
thành quá trình hoàn chỉnh của sinh mệnh. Theo nhận định của Trang Tử, đối
với bất cứ một cá thể sống nào thì sống có ý nghĩa của sự sống và chết có ý
nghĩa của sự chết. Trang Tử coi cuộc sống là trách nhiệm với rất nhiều mệt
mỏi gánh nặng còn chết lại là sự nghỉ ngơi từ đó làm nổi bật lên ý nghĩa của
cái chết trong quá trình sống của một con người. Theo Trang Tử chết là sự
quy thuận theo tạo hóa, chỉ khi con người có thể thản nhiên quy thuận theo sự
sắp đặt sống chết của tạo hóa thì mới được xem là đã thực sự lĩnh hội được ý
nghĩa chân chính trong số mệnh của mình.

1.2. Quan niệm về cái chết trong một số tôn giáo lớn
Vấn đề cốt lõi trong quan niệm của các nhà triết gia Đông - Tây là trách
nhiệm, mục đích của con người đối với xã hội, tìm cách trả lời cho câu hỏi:
con người sống để làm gì? Cần phải sống ra sao? Thì trái lại, các tôn giáo
quan tâm tới vấn để bản thể luận của con người: con người là ai? Con người
từ đâu tới, sẽ đi về đâu? trong mối tương quan với vũ trụ, vạn vật. Cái chết là
vấn đề trung tâm được các tôn giáo quan tâm và luận bàn sâu sắc nhất so với
các học thuyết, tư tưởng khác.
1.2.1 Quan niệm về cái chết trong đạo Kitô
Quan niệm thế giới quan của Kitô giáo bao gồm ba tầng: tầng Trời
(Thiên Đàng), tầng Luyện Ngục và tầng Đất (Địa/Hỏa Ngục). Thiên Đàng
dành cho những người sạch tội cùng những người đã đền tội đủ. Luyện Ngục
là nơi giam giữ những người lành nhưng còn mắc những tội mọn hay đền tội
chưa đủ. Địa/Hỏa Ngục là nơi giam giữ những người phạm tội trọng.

21
Tín đồ Kitô tin tưởng có sự tồn tại của linh hồn và thế giới dành cho
người chết. Vì vậy, trong nhận thức về cái chết Kitô giáo quan niệm chết là
cửa dẫn vào cõi sống, chết không phải là chấm dứt sự sống mà sẽ có ngày con
người được sống lại. Sống lại chính là Phục sinh. Người Kitô giáo tin tưởng:
con người sau khi chết, thân xác có phải mục nát đi theo quy luật vật lý nhưng
Thiên Chúa sẽ làm sống lại trong ngày Chung cuộc. Vì vậy, người chết rồi
không phải cố níu kéo sự nhớ thương của người sống dành cho người chết (tồn
sinh trong tâm trí người sống) mà cố gắng đi vào trong ký ức của Thiên Chúa.

Vào ngày Chung cuộc, Thiên Chúa sẽ cho thân xác được sống lại nhưng
không phải xác chết hồi sinh nguyên hình như khi còn sống mà là một thân
xác đã được biến đổi trong sự Phục sinh của Chúa Kitô. Như vậy, Phục sinh
là kết quả biện chứng sống – chết ở Chúa Kitô và cũng là kết quả biện chứng
xác – hồn ở mỗi tín đồ. Qua cái chết và sự sống lại, Đức Giêsu loan báo cho
con người một Tin Mừng khi khẳng định cái chết không phải là một ngõ cụt
mà là một cửa ngõ dẫn vào một đời sống mới. Tất cả kho tàng Kitô giáo được
xây dựng trên niềm tin ấy.

Đối với mỗi người Thiên chúa giáo, thế giới bên kia là xứ sở của những
người được phục sinh, nơi những người sau khi chết tìm được một cuộc sống
mới. Đó là nơi những con chiên chân chính sẽ được sống một cuộc sống vĩnh
hằng mà Thượng đế đã hứa ban cho họ. Đạo Kitô khẳng định rằng cuộc sống
thực sự, cuộc sống vĩnh hằng, không phải cuộc sống trên thế gian này mà là
cuộc sống chúng ta sẽ có thế giới bên kia. Như Kinh Phúc Âm lý giải về điều
này, vào thời khắc tận cùng, có một cuộc phán xét cuối cùng, khi đó mỗi
người phải báo cáo mọi hành động của mình. Do đó, đối với người theo đạo
Kitô, phải nỗ lực ngay từ khi đang sống ở cuộc sống hiện tại để xứng đáng
được cứu rỗi, nghĩa là chuộc lại những lỗi lầm của mình để được phép đón
nhận vào vương quốc của Chúa. Đạo Kitô khuyên nhủ các môn đồ của mình

22
rằng hãy để người chết được ra đi thanh thản, bởi lẽ điều đáng quan tâm hơn
cả chỉ có cuộc sống vĩnh hằng mà thôi. Sức mạnh của một tín đồ Kitô giáo ấy
là nhìn thấy ở việc đấng Kitô bị đóng đinh câu rút, hình ảnh một Thượng đế
trong cơn hấp hối cũng có khả năng chiến thắng cái chết và do sẵn sàng đón
nhận cái chết mà đạt tới niềm hân hoan phục sinh: “Người Kitô Hữu nào cũng
tin rằng chết không phải là hết mà là bước vào một cuộc sống mới vĩnh cửu.
Cuộc sống vĩnh cửu này sướng hay khổ là do cuộc sống hiện tại này ta có tin
vào Thiên Chúa, vào Ðức Kitô và có sống phù hợp với niềm tin ấy hay không.
Người Kitô Hữu còn tin rằng ngay cả thân xác này cũng sẽ sống lại vào ngày
tận thế để trở thành thân xác bất khả hư hoại hầu sống đời sống vĩnh cửu, để
được thưởng hoặc chịu phạt muôn đời. Niềm tin căn cứ vào sự phục sinh từ cõi
chết của Đức Kitô. Chính Đức Giêsu Kitô, Ngài là vị Thiên Chúa đã chết để
gánh tội nhân loại và chính Ngài đã hoàn toàn chiến thắng sự chết, đem lại sự
sống muôn đời cho những ai có niềm tin vào Ngài”[44, 375].

Bởi đức tin công giáo coi đau khổ là một phương thế liên kết một người
với Đức Kitô, Đấng đã dùng đau khổ và sự chết để tôn vinh Thiên Chúa Cha.
“Chúng ta mang trong mình sự chết của Đức Kitô, để sự sống của Người có
thể được biểu hiện nơi thân xác chúng ta. Khi chết, người Kitô hữu được hợp
nhất với Đức Kitô, sự kết hợp đã bắt đầu khi lãnh nhận phép Rửa tội, được
đổi mới và củng cố bởi Bí tích sám hối và Thánh Thể, nay được hoàn toàn mỹ
mãn. Khi chết người tín hữu tự dâng cho Thiên Chúa hành vi tự hiến cuối
cùng của mình, họ chết cho Chúa như họ đã từng sống cho Chúa [15, 304].

1.2.2. Quan niệm về cái chết trong đạo Phật


Hạt nhân của quan niệm về sinh tử của Phật giáo là không có sống không
có chết, vô thường, vô ngã. Phật giáo cho rằng bản chất của vạn vật là không,
thân xác giả tạo chẳng qua là sự kết hợp của nhân duyên, vật thể giả hợp của
nhân duyên đều không có tự tính, tồn tại độc lập, cũng không thể vĩnh hằng

23
được. Bởi vậy, cái chết là không thể tránh khỏi, đó là khi nhân duyên tan, các
yếu tố tạo nên thân thể con người như sắc, thọ, tưởng, hành, thức không còn
kết hợp với nhau được nữa. Đó là sự vô thường của sinh mệnh. Mặt khác,
Phật giáo lại cho rằng, sự luân hồi của kiếp sống là có thể vượt qua, nguyên
nhân dẫn dắt mọi người chìm đắm trong bể khổ luân hồi là vô minh. Chỉ cần
chúng ta dập tắt mọi phiền não, vô minh thì có thể thoát khỏi sinh tử, chứng
được cảnh giới Niết bàn [46, 14].
Khi chết là lúc thần thức lìa bỏ xác thân (linh hồn), lúc đó là lúc đã đoạn
tuyệt mệnh căn. Chỉ khi nào thần thức thực sự rời bỏ thể xác, toàn thân đều
lạnh thì lúc ấy mới gọi là chết. Theo quan niệm của Phật giáo, chết thỉ là một
giai đoạn trong vòng sinh tử luân hồi. Sinh có trước tử và tử lại có trước sinh.
Sinh và tử chỉ là những tiếng gọi khác nhau nhưng lại có cùng một tiến trình.
Sự tương quan giữa chết và sống, sống và chết tương tự như nước bốc hơi,
hơi gặp lạnh đông lại thành mây, rồi mây lại sinh ra mưa để cho lại nước. Cái
vòng luân chuyển sống chết cứ luân lưu mãi không ngừng. Chết chỉ là sự
chấm dứt của một hiện tượng sinh mạng ở một giai đoạn gọi là kiếp người.
Chết chỉ là một sự thay đổi như đang ở nơi này phải dọn đến nơi khác. Khi đó
chỉ có môi trường sinh sống và địa điểm bị thay đổi. Như vậy, theo quan niệm
Phật giáo thì chết không phải là hết, chỉ có thân xác giả tạm là tan rã. Còn
nguyên nhân sâu xa của sự chết là do nghiệp (Karma). Vì nghiệp là nguồn gốc
gây ra sự sống chết, luân hồi.
Phật giáo cho rằng khi hơi thở chấm dứt là con người sẽ chết, nó là một
trong 4 khâu của định luật "thành, trụ, hoại, diệt". “Bất cứ sự vật nào thuộc
thế giới hiện tượng, nghĩa là có hình có tướng, đều phải trải qua bốn giai đoạn
của hiện hữu: Thành (từ chưa có trở nên có), Trụ (tồn tại một thời gian), Hoại
(bị hư hoại, yếu dần, suy thoái), và Diệt (cuối cùng bị tiêu diệt, mất đi, không

24
còn tồn tại nữa). Chết chính là khâu cuối cùng của 4 giai đoạn hiện hữu trên
cho mọi vật sống” [18, 145].
Ðịnh luật “thành, trụ, hoại, diệt” là định luật phổ quát tuyệt đối cho tất cả
mọi sự vật vô thường (hay thay đổi) trong thế giới hiện tượng. Theo định luật
này, phàm cái gì có sinh thì phải có diệt, chỉ những cái không sinh mới không
diệt thôi. Hễ cái nào đã từng sinh ra, nghĩa là trước chưa có mà sau lại có, ắt
thuộc loại bất tất, vô thường, hay thay đổi, mà thay đổi tức là phải “thành, trụ,
hoại, diệt”, nghĩa là cuối cùng phải bị hủy hoại, tiêu diệt, chết. Không thể có
sinh mà không có tử, cũng như không thể có tử mà trước đó đã không sinh. Vì
thế, Phật giáo không thể chấp nhận một linh hồn đã được sinh ra mà sau đó lại
tồn tại vĩnh cửu, hay một thể xác sống lại để rồi tiếp tục sống mãi. Nếu có một
linh hồn bất tử, thì linh hồn đó ắt phải có từ trước muôn đời không do ai sinh
ra cả. Mà hễ do một nhân duyên nào sinh ra, ắt phải có ngày hủy diệt: “có
hoàn cảnh sinh tồn rồi sẽ có sinh, có sinh rồi sẽ có lão và tử” [62, 226].
Quan niệm về cái chết của Phật giáo thể hiện qua những luận thuyết cơ
bản: thuyết vô thường, thuyết vô ngã, thuyết nhân quả, thuyết nhân duyên
khởi và thuyết tứ diệu đế.
Thuyết vô thường: Vô thường là không thường còn, là chuyển biến thay
đổi. Luật vô thường chi phối vũ trụ, vạn vật, thân và tâm ta. Sự vật luôn luôn
biến đổi không có gì là thường trụ, bất biến. Vạn vật được cấu thành, trụ một
thời gian, sau đó chuyển đến diệt, thành, hoại, không. Các sinh vật đều tuân
theo luật: Sinh, trụ, di, diệt. Theo luật vô thường, không phải khi sinh ra mới
gọi là sinh, khi vạn vật diệt mới gọi là diệt mà từng phút, từng dây, từng
Satna, vạn vật sống để mà chết và chết để mà sống. Sống, chết tiếp diễn liên
tục với nhau bất tận như một vòng tròn.
Thuyết vô ngã: Vô ngã là không có cái ta. Thực ra làm gì có cái ta
trường tồn, vĩnh cữu vì cái ta nó biến đổi không ngừng, biến chuyển từng

25
phút, từng giờ, từng Satna. Cái ta mà Phật nói trong thuyết vô ngã gồm có hai
phần: cái ta sinh lý và cái ta tâm lý. Trong đó, cái ta sinh lý chỉ là kết hợp của
bốn yếu tố của bốn đại là: địa thuỷ, hoả, phong. Những thứ đó không phải là
ta, ta không phải là những thứ đó, những thứ đó không thuộc về ta. Khi bốn
yếu tố này rời nhau trở về thể của nó thì không có gì ở lại để có thể gọi là cái
ta được nữa. Cho nên cái mà ta gọi là cái ta sinh lý chỉ là một giả tưởng, một
nhất hợp sinh lý mà thôi. Còn cái ta tâm lý gồm: thụ, tưởng, hành, thức. Bốn
ấm này cùng với sắc ấm che lấp trí tuệ làm cho ta không nhận thấy được cái ta
chân thực cái ta Phật tính, cái chân ngã của chúng ta. Cái chân lý gồm những
nhận thức, cảm giác, suy tưởng, là sự kết hợp của thất tỉnh: Hỷ, nộ, ai, lạc, ái,
nỗ, dục.
Hai thuyết vô thường, vô ngã là hai thuyết cơ bản trong giáo lý Phật.
Chấp ngã chấp có cái ta còn là nguồn gốc của vô minh mà vô minh là đầu mối
của luân hồi sinh tử sinh ra đau khổ cho con người.
Thuyết lý nhân duyên sinh: Với lý thuyết nhân duyên Phật giáo muốn nói
tới một định lý. Theo định lý ấy vạn vật phát triển trên thế gian đều do các
nhân duyên hội họp mà thành, sự vật, vạn pháp sẽ kiến diệt khi nhân duyên
tan rã. Nhân là năng lực phát sinh, duyên là lực hỗ trợ cho nhân phát sinh. Tất
cả mọi hiện tượng đều nương nhau mà hành động. Tất cả các pháp đều sinh,
diệt và tồn tại trong sự liên hệ mật thiết với nhau, không một pháp nào có thể
tồn tại độc lập tuyệt đối.
Sự vật chỉ “có” một cách giả tạo, một cách vô thường: Nhân duyên hội
họp thì sự vật là “có”, Nhân duyên tan rã thì sự vật là “Không”. Thế giới vũ
trụ, vạn pháp đều cấu thành bởi hệ thống nhân duyên trùng trùng điệp điệp.
Các pháp không có thực thể, chỉ vì nhân duyên hoà hợp mà có, một cách giả
hợp mà sinh ra.

26
Thuyết nhân quả: Thuyết nhân duyên quả báo gọi là thuyết nhân quả là
một trong những thuyết cơ bản của giáo lý đạo Phật. Phật giáo chủ trương vạn
vật không bao giờ tự nhiên mà có, mà sinh ra và cũng cho rằng không một
thần quyền nào hay một đấng thiêng liêng nào tạo ra sự vật. Sự vật sinh ra là
có nguyên nhân. Cái nguyên nhân một mình cũng không tạo ra được sự vật
mà phải có đủ duyên thì mới tạo ra quả được. Trong nhân lại có mầm mống
của quả sau này nhưng quả không nhất định phải đúng như nhân vì duyên có
thể mang lại sự biến đổi cho quả - Đó là thuyết “Bất định pháp” trong luật
nhân quả. Sự vật là bất định, người tu hành căn cứ vào thuyết này mà tu
dưỡng và tiến tới trên con đường giải thoát về nhân. Những luận thuyết cơ
bản được trình bày ở trên đã hình thành nên thế giới quan Phật giáo. Phật
quan niệm các hiện tượng trong vũ trụ luôn luôn biến chuyển không ngừng
theo quy luật nhân duyên. Một hiện tượng phát sinh không phải là do một
nhân mà do nhiều nhân và duyên. Nhân không phải tự mà có mà do nhiều
nhân duyên đã có từ trước. Như vậy, một hiện tượng có liên quan đến tất cả
các hiện tượng trong vũ trụ.
Theo Phật giáo, khi con người chết sẽ tiếp tục đầu thai trong vòng sinh
tử luân hồi với thân và tâm được thừa hưởng từ sự tích lũy nghiệp thiện và ác
ở kiếp sống vừa qua. Khi nói đến “thân trung ấm (bardo) nên hiểu là sự sống
sau khi chết trước khi thần thức người ấy đi tái sinh vào một trong sáu cõi nào
đó (Trời, Người, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỷ và Súc sinh). Thân trung ấm là
thân không có xác thịt mà lấy tư tưởng làm thân. Sau khi người ấy chết, thần
thức thoát ra khỏi xác thân trụ lại ở thế giới trung gian này từ một đến bảy
tuần lễ, rồi sau đó tìm kiếm một nơi thích hợp với nghiệp lực của mình mà đi
tái sinh. Nếu trong thời gian này, thân trung ấm chưa tìm thấy một nơi tương
ứng với mình để tái sinh thì nó lại chết đi sau mỗi bảy ngày, sau đó thần thức
lại chuyển qua một thân trung ấm khác, chu kỳ sinh diệt này cứ lặp lại cho

27
đến khi thần thức đi tái sinh. Nếu vong linh là người từng tạo phước, tu tập
tâm linh, thì luôn có những cảm giác yên bình, thanh thản và dễ dàng để tìm
đường tái sinh vào cõi lành. Còn những người từng tạo ra nghiệp ác, có đời
sống tiêu cực thì luôn đối mặt với những cảnh tượng đau khổ, kinh hoàng, sợ
hãi, thất vọng, chán chường. Họ lang thang một cách tuyệt vọng trong cõi
trung ấm và muốn tìm một thân xác để tái sinh tương ứng với nghiệp lực của
họ.” [45, 11-12].
“Sự chuyển tiếp sự sống từ đời này sang đời khác là nghiệp lực. Nghiệp
(karma) có một năng lực cá biệt và đóng một vai trò rất quan trọng trong việc
cấu tạo tâm tính của con người. Nghiệp được hình thành dưới sự tập hợp của
tam độc tham, sân, si hay vô minh và ái dục. Chính vô minh và ái dục là cội rễ
của mọi ác nghiệp. Do ác nghiệp này mà khiến con người trôi lăn trong vòng
sinh tử luân hồi. Để thoát khỏi vòng tuần hoàn khổ đau này con người phải nỗ
lực tu tập đoạn diệt được cội rễ của vô minh. Khi vô minh bị tận diệt thì ái
dục cũng bị tận diệt, ái dục diệt thì sinh, lão, bệnh, tử sầu bi khổ ưu não cũng
không còn, và lúc ấy con người mới thật sự thoát khỏi vòng vây của sinh tử
luân hồi” [45, 13].

1.2.3. Quan niệm về cái chết trong Hồi Giáo

Nhân vật mang tính là đại biểu của Hồi giáo là Mohammed, sinh ra ở
Meca, bản thân ông không phải là Chúa mà là con người trở thành sứ giả đại
biểu cho Chúa, đức Chúa chân thực của Hồi giáo là đấng Allah. Thượng đế
tuyên cáo Thánh dụ của mình thông qua lời rao giảng của Mohammed.
Những Thánh dụ này của thượng đế được biên tập thành kinh Koran.

Khi bàn về cái chết, có những đặc điểm quan trọng sẽ được trình bày
dưới đây:

28
Thứ nhất, theo quan niệm về cái chết của Hồi giáo, chương 3 câu 145
của kinh Koran quy định: Kỳ hạn của mạng sống là do Allah quy định, nên
chết là trở về với Allah, ai muốn phần thưởng ở trần gian, Allah sẽ ban cho
họ. Theo cách nhìn này, thì việc sống chết hoàn toàn không thuộc về Túc thần
luận. Mặc dù trên hình thức, Hồi giáo cũng cho rằng, sống chết có mệnh,
giống như Túc mệnh luận, nhưng sống chết có mệnh của Hồi giáo lại do
Allah trên trời quy định.

Thứ hai, mục đích cái chết nằm ở chỗ có kỳ hạn hoãn án. Trong thời kỳ
này, Thượng đế sẽ tiến hành thử thách họ. Vì vậy, trong thời gian con người
sinh sống chính là thời kỳ thử thách của Thượng đế đối với cuộc đời họ. Vì
vậy, theo giáo nghĩa Hồi giáo, kinh Koran, chương 21, chương 29 đều đề cập:
Mỗi một con người đều phải nếm trải cái chết, ta lấy điều thiện và điều ác để
thử thách các con, các con cuối cùng cũng phải trở về gặp ta. Theo nghĩa đó,
đối với Hồi giáo mà nói thì cái chết tuyệt đối không phải là sự trừng phạt mà
là đi đến kết thúc một giai đoạn nào đó trong sự phán xét cuối cùng. Nói cách
khác, mạng sống chỉ là một giai đoạn tiếp nhận sự thử thách của Allah, là một
thời kỳ hòa hoãn và cuối cùng phải trở về bên Allah.

Thứ ba, đối với cách nhìn nhận về cái chết, Hồi giáo cho rằng, linh hồn
của con người đến từ tinh thần của Thượng đế, tinh thần này cuối cùng lại
quay về với Thượng đế. Sau khi quay về với Thượng đế, sinh lại một mạng
sống mới tức sẽ ở một trình độ khác. Chết giống như một cách của, một cổng
vào, nếu bước vào cánh cổng thì không thể quay trở ra mà phải bước tiếp vào
một giai đoạn khác. Do đó, đứng ở khoảng giữa của cái chết và giai đoạn đến
bên Allah thì hoàn toàn không có bất kỳ một cơ hội quay trở lại nào, tức là
không có chuyện “sống lại” như quan niệm của Kitô giáo.

Thứ tư, con người do xác thịt (basher) và linh hồn (rash) kết hợp thành.
Trong hình thể xác thịt của con người, được thổi vào một linh hồn Thượng đế,

29
mà thể xác và linh hồn lại kết hợp lại từ mạng sống tinh thần để hoàn thành.
Cho nên, toàn thể mạng sống con người do ba yếu tố thân xác, linh hồn và
mạng sống tinh thần kết hợp lại mà thành.

Kinh Koran, chương 60 có nói: Sau khi con người chết, linh hồn sẽ lìa
thân xác. Chương 56 cũng nói, nếu binh sỹ Hồi giáo đem quân địch trói lại để
giết, theo truyền thống Hồi giáo, trước lúc trói hãy thả lỏng một tay để cho
linh hồn của hắn thoát ra; cho dù là còn sống thì linh hồn sẽ lìa khỏi thân thể
trong lúc ngủ. Như vậy mạng sống là hoàn toàn do Allah quyết định.

Thứ năm, Hồi giáo tin rằng, trong ngày phán xét cuối cùng, mỗi người sẽ
dựa vào sự đánh giá chân thức của tự thân mà được đền đáp. Đây là chủ đề
được nhấn mạnh nhiều nhất trong kinh Koran. Vào ngày thẩm phán cuối cùng
của Thượng đế thì người làm lành sẽ được trọng thưởng, người làm ác sẽ bị
trừng phạt, hoàn toàn không dung thứ một ai, tuyệt đối công bằng.

Thứ sáu, tín đồ Hồi giáo tin rằng, để một hành vi đi đến hoàn thiện thì
động cơ và ý đồ của hành vi ấy rất quan trọng. Nếu một người thành tâm tin
vào Allah, động cơ rất tốt nhưng hiệu quả mà hành vi đưa lại thì tương phản,
hoặc giả, người ấy làm chuyện sai trái nhưng chỉ cần họ tin vào Allah thì
người ấy sẽ được xá miễn tội lỗi.

Trong kinh Koran cho rằng, khi bạn trở về điểm đầu tiên bị ném lên ấy –
tức chỗ của Thượng đế, thì chính bản thân bạn phải đối đãi với Thượng đế và
có trách nhiệm với chính mình. Cách nhìn về nhân sinh như thế này đã thể
hiện một cách rõ ràng về tính chất đặc sắc của Nhân sinh quan Hồi giáo: Chỉ
cần là động cơ thiện thì bạn có thể đối diện với cái chết mà khong một chút
nào sợ hãi.

30
Kết luận chƣơng 1
Như vậy, có thể thấy đề tài sống, chết là một trong những đề tài trung
tâm trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Dù được bàn đến một cách trực tiếp hay
gián tiếp trong các tác phẩm hay trong tư tưởng của các nhà triết học, thì nó
cũng cho thấy tầm quan trọng và sức thu hút của đề tài này. Triết học phương
Tây từ cổ đại, cận đại đến hiện đại với những gương mặt tiêu biểu như
Socrates, Aristote, Plato, … đều đã bàn đến vấn đề sống chết, đặt nó trong
tương quan với những suy tư về bản chất người, cuộc sống đích thực của con
người. Triết học phương Đông đặc biệt là triết học Trung Quốc cũng đặc biệt
quan tâm đến đề tài này, gắn liền với những triết lý về mối quan hệ Trời –
Người. Bên cạnh đó, các tôn giáo lớn như Phật giáo, Kitô, Hồi giáo… cũng
góp những tiếng nói riêng hết sức sâu sắc và phong phú về đề tài này. Nếu
như Phật giáo coi cái chết như một quy luật tự nhiên trong dòng chảy vô
thường, vô ngã, vô tạo giả của vạn vật con người thì Kitô lại cho rằng cái chết
chính là điểm kết thúc và cũng là điểm khởi đầu cho một thế giới tốt đẹp hơn
của con người. Với Hồi giáo, cái chết không phải là sự trừng phạt mà là kết
thúc giai đoạn thử thách của Allah và cuối cùng phải trở về bên Allah. Mặc dù
có những kiến giải khác nhau về việc thừa nhận hay không thừa nhận về một
cuộc sống sau khi chết nhưng những tư tưởng triết học cùng các triết lý tôn
giáo đều gặp nhau ở một điểm: đều khuyên con người sống thiện, phải nỗ lực
với cuộc sống của chính mình và trân trọng cuộc sống hiện tại. Đó là những
tư tưởng phù hợp với giá trị văn hóa, đạo đức của người Việt, chính vì vậy
trong quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa chúng ta đã kế thừa những giá trị tốt
đẹp đó để làm nên nét độc đáo, đa dạng phong phú cho nền văn hóa Việt Nam.

31
CHƢƠNG 2: ĐỀ XUẤT THẾ ỨNG XỬ CHO NGƢỜI VIỆT NAM
HIỆN NAY VỚI VẤN ĐỀ CÁI CHẾT THEO ĐỊNH HƢỚNG GIÁ TRỊ
VĂN HÓA

2.1. Thái độ và nghi lễ tang ma của ngƣời Việt hiện nay trong cách
ứng xử với cái chết
2.1.1. Thái độ của ngƣời Việt trong ứng xử với cái chết
Nhân loại nói chung, người Việt Nam nói riêng đứng trước vấn đề sống
chết của mình đều có những thái độ ứng xử nhất định. Đó có thể là thái độ
tích cực với cái chết, xem nó như một điều tất yếu sẽ xảy ra và họ lạc quan
đón nhận lựa chọn cho mình “cái chết đẹp”. Bên cạnh đó có những thái độ
tiêu cực với cái chết xem nó như là lối thoát duy nhất để giải thoát khỏi bế
tắc,… Việt Nam là đất nước đa tôn giáo, tín ngưỡng, do đó, mỗi nhóm người
theo hoặc không theo các tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau sẽ có thái độ ứng xử
khác nhau trước cái chết. Có thể khái quát về thái độ ứng xử điển hình của
người Việt trước cái chết như sau:

Thứ nhất, thái độ sẵn sàng đón nhận cái chết như một điều tất yếu sẽ xảy
ra trong cuộc đời như quy luật “sinh, lão, bệnh, tử”.

Theo Kinh Thánh, con người do Chúa tạo ra từ đất theo hình ảnh của
Chúa và Chúa đã thổi linh hồn vào đó để hoàn thành con người. Con người
được tạo ra từ đất, nên khi chết, thể xác con người trở về với cát bụi chỉ có
linh hồn do Chúa ban là “không hư, không nát”. Mọi tín đồ Công giáo sẵn
sàng đón nhận cái chết, sẵn sàng nhận lệnh khi “Chúa gọi”. Tín đồ Công giáo
ví sự ra đi như chuẩn bị đèn dầu sẵn sàng thắp sáng. Và Chúa sẽ đến bất thình
lình (không có sự báo trước) như “kẻ ăn trộm” để đón đi. Với người Công
giáo, chết nơi trần thế lại là sự bắt đầu của một đời sống mới. Chết không phải
là hết, mà là ra đi, là về với Chúa hay về nhà Cha [11, 222]. Người Công giáo

32
quan niệm linh hồn sau khi chết được Chúa phán xử khác nhau tuỳ theo từng
người sống theo lời răn của Chúa như thế nào: kẻ dữ khi chết linh hồn bị đày
xuống Hoả ngục với những hình phạt nặng nề, người lành được Chúa cho lên
Thiên Đàng hưởng phúc đời đời. Các linh hồn là giống thiêng liêng chẳng hề
chết được; và đến ngày tận thế, xác loài người sẽ sống lại mà chịu phán xét,
kẻ lành lên thiên đàng hưởng phúc lộc đời đời; kẻ dữ sa hoả ngục chịu phạt vô
cùng. Đối với người phạm các tội nhẹ, tất nhiên không được lên Thiên Đàng,
nhưng cũng không phải xuống Hoả ngục mà chỉ ở nơi Luyện ngục và ở đây
nếu linh hồn họ được thân nhân cầu nguyện họ có thể được lên Thiên Đàng.
Đây là một trong các lí do tạo ra các nghi lễ tôn giáo đối với người chết.

Phật giáo cho rằng khi hơi thở chấm dứt là con người sẽ chết, nó là một
trong 4 khâu của định luật "thành, trụ, hoại, diệt". Đó là định luật phổ quát
tuyệt đối cho tất cả mọi sự vật vô thường (hay thay đổi) trong thế giới hiện
tượng. Theo quan niệm của nhà Phật, chết chưa phải là chấm dứt, và sanh
cũng không phải là bắt đầu. Thực ra, chết chính là sự bắt đầu (một kiếp sống
mới), và sanh là sự chấm dứt (kiếp sống cũ). Cái chết chỉ là một phần trong
tiến trình sinh tử, tử sinh. Các thiền sư Việt Nam thời Lý đã có những bài thơ,
bài kệ và những lời phát biểu nói rõ quan điểm của mình về sự sống chết. Ni
sư Diệu Nhân Lý Ngọc Kiều có viết: Sinh, lão, bệnh, tử. / Tự cổ thường
nhiên. Nghĩa là: Sinh, lão, bệnh, tử. / Lẽ thường xưa nay thế. Vì thế, sống và
chết là những sự kiện tất nhiên không tránh khỏi của một đời người. Con
người đã sinh ra rồi thì đến lúc phải chết. Quan niệm về sự sống chết như vậy
đã góp phần khắc phục những hành vi và thái độ thấp hèn như “tham sống, sợ
chết” đã nảy sinh trong đời sống, nhất là trong các cuộc chiến tranh giữ nước.
Nó đã làm dịu đi những nỗi đau buồn quá mức của mỗi người trước cái chết
của người thân.

33
Những người Việt theo phong tục truyền thống, cho rằng trong con
người có phần xác và phần hồn, sau khi chết, linh hồn sẽ về nơi “thế giới bên
kia” cùng với thói quen sống bằng tương lai (sản phẩm của lối tư duy theo
triết lý âm dương) cho nên người Việt Nam rất bình tĩnh yên tâm chờ đón cái
chết. Họ chuẩn bị khá chu đáo, kỹ càng cho cái chết của chính mình hoặc của
người thân, đưa tiễn người thân vào cuộc hành trình xa xôi đó. “Chết già vì
vậy được xem là một sự mừng: trẻ làm ma già làm hội. Nhiều nơi có người
già chết còn đốt pháo; chắt chút để tang cụ kị thì đội khăn màu đỏ, khăn vàng
(theo ngũ hành màu đỏ và vàng là màu của phương Nam, màu tốt)” [48, 295].

Các cụ già tự mình lo sắm cỗ hậu, người khá giả thì làm cỗ hậu bằng gỗ
vàng tâm (gỗ này không mục) để xương cốt khỏi bị hư hại. Quan tài của
người Việt làm hình vuông tượng trưng cho cõi âm theo triết lý âm dương.
Người cẩn thận còn cho làm thêm chiếc quách bọc ngoài. Cỗ thọ làm xong, kê
ngay dưới bàn thờ như một việc hết sức bình thường. Có cỗ thọ rồi, các cụ lo
đến việc nhờ thầy địa lý đi tìm đất rồi xây sinh phần. Các vua chúa bao giờ
cũng lo tất cả những việc này rất chu tất thường là ngay từ khi mới lên ngôi;
các lăng mộ vua còn được giữ ở Huế, đồng thời cũng là những nơi thẳng cảnh
là vì thế.

Thứ hai, đó là thái độ sẵn sàng hy sinh mạng sống vì lý tưởng cao đẹp.

Không ai chọn cho mình cách chết, cũng không ai muốn mình phải chết
và không có cái chết nào có ý nghĩa bằng được sống. Nhưng khi Tổ quốc lâm
nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả của tổ tiên, ông cha bị uy hiếp; sự sống
của cha mẹ, anh em, vợ con, họ hàng bị đe doạ, của cải, ruộng nương làng
mạc bị xâm chiếm thì lựa chọn cái chết để đất nước được trường tồn là một
lựa chọn vinh quang và cao cả. Mỗi một thân xác nằm xuống, mỗi một phần
thi thể mất đi là một ánh hào quang soi sáng hơn con đường xây dựng và bảo

34
vệ Tổ quốc, đó là những dòng chữ bằng vàng khắc sâu vào lịch sử bốn nghìn
năm dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc.

Để nói tới thái độ của những tấm gương anh dũng đó, trước hết chúng ta
có thể kể đến thái độ của những trung thần tiết nghĩa vì nước quên thân trong
lịch sử.

Vấn đề cái chết nhìn từ thế ứng xử với thân xác từ thế kỷ XIII trở đi
mang đậm nét ảnh hưởng của Nho giáo. Đó là sự đề cao nhân cách của hình
tượng nhà nho lý tưởng: trung thần tiết nghĩa. Có thể nói, trong hoàn cảnh đất
nước lâm vào hiểm nguy thì tinh thần quyết tâm giết giặc, không sợ chết của
quân dân Đại Việt đã tạo nên sức mạnh ý chí to lớn đem tới chiến thắng lẫy
lừng. Những nhà nho được coi là mẫu hình trung nghĩa là những bậc danh
nho không những không sợ hãi trước những nỗi đau thể xác mà còn sẵn sàng
hy sinh thân mình để bảo toàn nghĩa lớn, bảo toàn đạo lý của kẻ bề tôi trước
hoàn cảnh nguy khốn. Trước cảnh đất nước nguy nan, quân vương bị sỉ nhục,
bản thân kẻ làm bề tôi tự cảm thấy đau đớn, Trần Quốc Tuấn khảng khái
tuyên bố: Ta đây, ngày thì quên ăn, đêm thì quên ngủ, ruột đau như cắt, nước
mắt đầm đìa, chỉ căm tức rằng chưa được xả thịt lột da của quân giặc, dẫu
thân này phơi ngoài nội cỏ, xác này gói trong da ngựa, thì cũng đành lòng.
Không sợ chết, không sợ cảnh “da ngựa bọc thây” của chính bản thân mình,
cũng tất yếu dẫn tới sự không coi trọng sinh mạng, thân xác của kẻ khác, nhất
là khi đó lại là kẻ thù. Điều này lý giải cho chúng ta hiểu sự thật về “xả thịt lột
da, ăn gan uống máu quân thù” không chỉ là một cách nói hùng biện, mà còn
có thật trong lịch sử các cuộc chiến thời cổ trung đại.

Hình ảnh của những tấm gương tuẫn tiết có thật trong lịch sử Việt Nam
để lại trong sử sách, văn học là sự nối tiếp quan niệm về cái chết được nhìn
qua lăng kính đạo đức Nho giáo. Có thể thấy trước cái chết, sự hy sinh của
nhục thể, đối với nhà nho mà nói, không có gì đáng sợ hãi, mà trái lại, nó thể

35
hiện cho tiết tháo to lớn của kẻ sĩ: trung với vua – chết vì nước là vinh. Trong
các sách sử, đáng kể với quy mô lớn như Đại Việt sử kí toàn thư đều chép lại
rất nhiều chuyện những nhà nho đã bỏ thân mệnh, tuẫn tiết để bảo toàn nghĩa
lớn, là minh chứng cho niềm tin và sự khích lệ tinh thần “sát thân thành
nhân”, “xả thân thủ nghĩa” của người Việt. Giữ vững tín niệm bỏ sống để giữ
nghĩa, còn hơn là sống. Cầu sống mà chịu nhục, người quân tử không làm, đó
là tâm thế khi đối mặt với cái chết của những nhà nho luôn mang dáng vẻ hiên
ngang khí khái, không hề run sợ. Trần Bình Trọng kiêu hãnh “thà làm quỷ
phương Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”; An phủ sứ Lê Giác bị giặc
Chiêm bắt còn lớn tiếng mắng chửi vẫn được truyền tụng như những tấm
gương sáng chói.

Như vậy, cái chết được người Việt trong lịch sử sử dụng như một biểu
tượng của lòng trung thành, cho nhân cách kẻ sĩ theo quan điểm nho giáo.
Ứng xử trước cái chết (hay là sự lựa chọn giữa sống và chết) của các nhà nho
minh chứng rõ ràng cho sự ăn sâu bám rễ của mẫu hình thánh nhân của Nho
giáo. Thân xác của mỗi người là duy nhất, thuộc về cái riêng tư, cá nhân nhất,
nhưng ở đây lại được lựa chọn “dâng” cho nhà vua, hy sinh cho đạo quân
thần. Họ dùng cái chết để chứng tỏ nhân cách chân chính của một nhà nho
như học thuyết Nho giáo đã xác lập và củng cố bằng truyền thống mang đậm
dấu ấn tên tuổi các nhà nho tử tiết trong lịch sử.

Trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc ta, tuổi trẻ Việt Nam luôn
có những đóng góp xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lịch sử được Đảng, Bác
Hồ và cả dân tộc giao phó. Dù trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ dù phải hy
sinh cả tính mạng khi còn ở tuổi thanh xuân thì thế hệ trẻ với những cái tên đã
đi vào lịch sử như Lý Tự Trọng, Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn
Trỗi,... vẫn luôn nêu cao tinh thần bất khuất, chí khí anh hùng, lẫm liệt để gìn

36
giữ lý tưởng sống mà họ đã chọn và truyền lại cho nhiều thế hệ thanh niên
viết tiếp trang sử vàng chói lọi của dân tộc Việt Nam.

Không nghĩ đến tính mạng của bản thân để cứu người lúc nguy nan, câu
chuyện của Nguyễn Văn Nam, Trần Văn Nguyên, Trần Hữu Hiệp... đã khiến
nhiều người cảm phục. Đó là những tấm gương khiến hàng nghìn người khi
nhắc đến vẫn còn thổn thức. Những cậu học sinh này đã bỏ lại tuổi trẻ, và
những ước mơ còn dang dở để nhường lại sự sống cho nhiều người. Họ là
minh chứng lớn cho việc lòng tốt vẫn còn rất nhiều trong cuộc sống này,
những anh hùng tuổi trẻ cũng vẫn còn rất nhiều trong xã hội hiện tại. Đây
chính là những tấm gương sáng cho thanh thiếu niên cả nước học tập.

Thứ ba, đó là thái độ coi cái chết như một phương tiện để giải thoát khỏi
sự đau đớn bệnh tật hoặc sự bế tắc trong cuộc sống.

Đối với một số người, cái chết có thể là một phương tiện giải phóng
mong muốn thoát khỏi những đau khổ kéo dài, đôi khi kéo theo nó là sự đau
ốm và già nua. Vẫn biết rằng, cuộc sống là vốn quý nên chúng ta hãy yêu quý
nó. Tuy nhiên, không phải lúc nào chúng ta cũng yêu thích cuộc sống được.
Khi quá đau đớn họ không yêu hay không còn yêu cuộc sống nữa. Họ thực sự
muốn chết. Đó quả là vấn đề do nỗi đau hay nỗi thống khổ mang lại. Cuộc
sống dường như không thể chịu đựng nổi, đến mức người ta muốn rời bỏ nó.
Trong những khoảnh khắc đó, họ chỉ còn duy nhất một ý nghĩ, đó là muốn
chết ngay lập tức, chừng nào cơ thể còn khiến họ đau đớn. Họ không thể nói
được, không thể nghĩ được, chỉ muốn kết thúc nó. Những yêu cầu được chết
không đau được hiểu như vậy.

Theo tiếng Latinh, “euthanasia” có nghĩa là “cái chết hạnh phúc”. Người
ta sử dụng từ này để chỉ việc bác sĩ giúp bệnh nhân mắc căn bệnh dù cố gắng
thế nào cũng không thoát khỏi cái chết. Tuy nhiên, đây là một vấn đề rất phức

37
tạp và khó khăn nhất mà bác sĩ phải đối diện. Làm rút ngắn nỗi đau đớn
không thể cứu chữa, cũng là rút ngắn cuộc sống, hẳn không phải là sứ
mệnh của bác sĩ nhưng là nhiệm vụ khủng khiếp mà họ tất yếu gặp phải
trong công việc.

Cũng có một số bệnh nhân có thể quyết định kết liễu đời mình. Nhưng
khi mắc một căn bệnh không thể chữa khỏi, cần phải có sự can đảm rất lớn và
đủ sức mạnh để làm được điều đó. Tự tử không dễ dàng. Nếu tự tử không
thành công thì các điều kiện cho việc sống sót còn tệ hại hơn sau đó. Vì vậy,
kể cả đối với việc tự tử, đôi khi người ta cũng cần đến sự hỗ trợ hay giúp đỡ
của bác sĩ. Trong một thời gian dài, ở nước ta việc tự vẫn vẫn bị lên án về mặt
tôn giáo, đạo đức và luật pháp.

Ðối với không ít người, khi gặp hoàn cảnh đau khổ cùng cực hay bị bế
tắc tuyệt vọng trong cuộc sống, họ thường tìm đến cái chết không phải vì họ
thích chết nhưng vì họ coi nó như lối thoát duy nhất. “Tổ chức Y tế thế
giới ước tính tỷ lệ tự tử trên thế giới là khoảng 16/100.000 người mỗi năm,
tăng 45% trong vòng 45 năm qua. Nhiều quốc gia đã quan tâm nghiên cứu,
tìm ra các cách phòng chống nạn tự tử. Ở Việt Nam, tự tử được ước tính nằm
trong 10 nguyên nhân hàng đầu dẫn đến cái chết của người Việt Nam (theo bộ
Y tế Việt Nam)” [Dẫn theo: 64]. Có những người xem cái chết như một sự
giải thoát khỏi những khủng hoảng trong cuộc sống như hiện tượng tự sát.
Đây chính là một vấn đề khá nhạy cảm đáng báo động ở Việt Nam nói riêng
và ở thế giới nói chung. Hiện nay, các cá nhân trong xã hội không chỉ phải
chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế mà còn có cả khủng hoảng niềm tin.
Khi mà con người ta bị rơi vào trạng thái khủng hoảng niềm tin, con người ta
sẽ rất dễ rơi vào trạng thái mất cân bằng. Chính vì thế, việc xử lý tiêu cực nó
là chuyện hoàn toàn có thể xảy ra mà tự tử là một trong những dấu hiệu cụ thể
nhất. Nếu cứ tiếp tục để cá nhân xử lý bi kịch cá nhân và bi kịch của khủng

38
hoảng niềm tin, khủng hoảng tài chính theo cách tiêu cực của riêng họ sẽ để
lại những thiệt hại vô cùng lớn cho cá nhân, gia đình và xã hội.

Thứ tư, đó là thái độ sợ hãi cái chết bởi vì họ còn nuối tiếc sự nghiệp,
tiền tài, danh vọng, không dám đương đầu với cái chết.

Đó là những người sống theo cách hưởng thụ hiện tại tối đa vì ngày mai
sẽ chết. Đó là thái độ lẩn tránh mà nhà tư tưởng Pascal của Pháp đã nói tới đó
là: đa số người đời không muốn trực diện với vấn đề sự chết vì nó vượt quá
sức mình, nhất là vì nó quá bi đát, nên họ lẫn tránh vào trong đủ thứ "tiêu
khiển". Cái mà Pascal gọi là tiêu khiển (divertissement) bao gồm không
những vui chơi, ăn uống, tiền tài, danh vọng, nhục dục mà ngay cả lòng say
mê làm việc, hoạt động, chinh phục, chiến tranh …..

2.1.2 Nghi lễ tang ma của ngƣời Việt


a. Nghi lễ tang ma của người Việt theo Công giáo

Nghi lễ tang ma của người Việt hết sức phong phú, đa dạng và mang
những nét đặc trưng riêng tùy thuộc vào từng vùng, miền, địa phương cũng
như yếu tố tôn giáo. Trước hết, chúng ta có thể khảo sát, xem xét nghi lễ tang
ma của người Việt theo Công giáo.

Do quan niệm khi tắt thở là sinh thì (chết nơi trần thế là lúc bắt đầu cuộc
sống khác nên người sắp qua đời gọi là rình sinh thì). Thân nhân người hấp
hối mời linh mục đến làm bí tích sức dầu bệnh nhân. “Bằng phép Xức dầu
thánh và lời cầu nguyện của các linh mục, toàn thể Hội thánh phó thác bệnh
nhân cho Đức Kitô đau khổ và hiển vinh, để người an ủi, cứu rỗi họ. Hơn nữa
hội thánh còn thúc giục họ sẵn sàng kết hợp với Đức Kitô chịu đau khổ và
chịu chết để mưu ích cho Thiên Chúa” [49, 269]. Cùng với việc Xức dầu,
bệnh nhân còn được nhận Mình Thánh Chúa như của ăn đường để chuẩn bị
“về quê Trời”. Ngoài ra, người rình sinh thì còn được thân nhân và các tín

39
hữu láng giềng tụ tập nhau đọc “kinh cầu cho người hấp hối mong sinh thì”.

Khi tín đồ qua đời, người thân đến báo cho linh mục và Ban Hành giáo
xứ biết. Nhà thờ rung chuông để báo tin gọi là chuông sầu hay chuông tử.
Hình thức rung chuông mỗi vùng có khác nhau. “Ở nhiều xứ đạo Bắc Bộ và
Trung Trung Bộ, người nam giới qua đời chuông sẽ rung bảy tiếng rời, rồi
rung ba hồi chuông, là nữ giới thì rung chín tiếng rời, rồi rung ba hồi (theo
quan niệm nam thất nữ cửu) [11, 228]

Khi nghe tiếng chuông sầu, tín đồ ngừng việc làm hướng về phía nhà thờ
đọc kinh lạy Cha tỏ lòng thương tiếc đồng đạo. Người chết được đặt trên
giường, xung quanh có thể rắc hoa tươi, rồi sau đó được tẩm liệm nhập quan
“Người Công giáo không quan niệm chết vào giờ lành hay dữ, không chọn
ngày giờ tốt đưa tang; không thiết hồn bạch, làm nhà táng, minh tinh, không
có linh xa đưa rước linh hồn người qua đời. Tuy nhiên luật buộc một số ngày
như Chủ nhật, mùa vọng, mùa chay, Phục sinh, các ngày lễ trọng... không
được làm lễ an táng người chết mà phải dời sang ngày khác” [11, 228].

Địa điểm thực hành nghi lễ an táng được tiến hành ở ba nơi: ở gia đình,
tại nhà thờ, tại vườn thánh (nghĩa địa). Thông thường giáo dân thường chọn
nghi lễ an táng tại nhà thờ. Quan tài được đưa đến nhà thờ, linh mục đón ở
cửa nhà thờ rảy nước thánh lên quan tài. Khi đặt quan tài ở nhà hay nhà thờ
đều phải để người qua đời nhìn về phía bàn thờ Chúa. Khi đưa đám chân
người qua đời đi trước (ngược lại với người Việt). Nghi thức này tựu trung có
hai cách giải thích: Hướng về thánh giá ở phía trước; người Công giáo quan
niệm chết là về quê trời (một đi không trở lại) [11, 423]. Việc đưa người quá cố
ra nghĩa địa được người Công giáo gọi là đưa xác, còn người Việt gọi là đưa ma.

Trong nghi lễ an táng ở vườn thánh (nghĩa địa) linh mục hoặc thừa tác
viên tiến hành các nghi thức tiễn biệt cuối cùng với người qua đời theo Giáo

40
hội quy định. Đó là các nghi thức làm phép ngôi mộ mới và nghi thức từ biệt
trước khi hạ quan tài xuống huyệt. Người Công giáo cho rằng chết là về với
Chúa nên “không có tục cha đưa, mẹ đón (tiễn bố qua đời đi phía sau, tiễn mẹ
qua đời đi giật lùi) các hình thức khóc lóc, lăn đường, cắt tóc tang... Giáo hội
cấm ngặt) [11, 219]. Nơi an táng của người theo Công giáo gọi là vườn thánh.
Trung tâm vườn thánh có đặt cây thánh giá, nơi gần cây thánh giá chôn những
người có chức thánh, những trẻ nhỏ đã chịu phép rửa tội qua đời. Vườn thánh
được chôn cất theo thứ tự, có một khu ở góc vườn thánh chôn cất những
người lỗi đạo. Có nơi ở vườn thánh có xây ngôi nhà nguyện để tín đồ có thể nghỉ
ngơi và cầu nguyện sau khi an táng. Đối với những xứ đạo không có vườn thánh
thì người chết phải được linh mục làm phép huyệt trước khi an táng.

Người Công giáo trước đây không cất mả như người Việt nên họ thường
đào sâu, chôn chặt, không cải táng. Đối với nghi thức cúng giỗ của phong tục
người Việt, có nơi người Công giáo vẫn làm 49 ngày, 100 ngày giỗ đầu và giỗ
hết, nhưng cúng đã được thay bằng hình thức cầu nguyện: “ba ngày đi thăm
mộ, cầu kinh 49 ngày, 100 ngày lễ và đọc kinh cầu nguyện [11, 232].

Chính vì người Công giáo chỉ thờ có Chúa và không tin người chết có
thể ảnh hưởng đến người sống nên họ không có nghi lễ giỗ, lập gia phả hay
xây từ đường. Điểm này tạo sự khác biệt lớn đối với người Việt theo phong
tục tín ngưỡng truyền thống.

b. Nghi lễ tang ma của người Việt theo Phật giáo


Theo quan niệm của Phật giáo, nếu con người tu không đạt đến giác ngộ,
giải thoát thì vẫn nằm trong luân hồi. Chết là rơi vào một trong sáu cõi.
“Những người tu hành đã đắc đạo, họ an lạc tự tại giữa hai bờ sống chết, hoặc
có thể tái sinh vào bất cứ cõi nào họ muốn. Còn chúng sinh mê muội phàm
phu tục tử đều phải tuỳ nghiệp mà thọ sinh tức là phải chịu sự dẫn dắt của

41
nghiệp lực về cảnh giới thích ứng cho nghiệp mà mình đã tạo ra. Nói vậy
không có nghĩa là Phật tử tin vào thuyết định mệnh, tức là cái đã sắp đặt mọi
chuyện, mình phải đi theo cái sẵn có ấy. Ở đây, không phải vậy, người Phật tử
tin rằng mình là chủ nhân của chính mình, tuy nhiên mình không làm chủ
được mình để cho ác nghiệp xảy ra, thì chính cái nghiệp ấy trở lại điều khiển
mình” [45, 88]. Phật tử không quan niệm có số mệnh, số mệnh là do nghiệp
của ta tạo ra từ thân khẩu ý. Thân khẩu ý thiện sẽ tạo ra nghiệp lực thiện khiến
người chết về cõi lành. Thân khẩu ý ác tạo ra nghiệp ác đi vào cõi ác. Lúc hấp
hối người chết thường có điềm báo. Điềm lành báo trước cho người chết về
cõi lành và ngược lại. Ví dụ “chết về cõi Tịnh độ thì tâm hồn không bối rối,
biết trước ngày giờ chết, nên tắm giặt thay quần áo, tự mình niệm Phật, niệm
có tiếng hoặc niệm thầm... Điềm chết về cõi địa ngục thì bà con và con cái
nhìn người sắp chết bằng con mắt ghét bỏ, người sắp chết thường đưa hai tay
lên rờ mó hư không, người sắp chết kêu gào than khóc, đi ra tiểu tiện, đại tiện
mà không biết gì...” [45, 89]. Khi người thân là Phật tử đang hấp hối, họ
thường báo cho tăng, ni và Ban hộ tự đến để đọc kinh tiếp dẫn độ cho người
chết khỏi hoảng hốt. Nếu không có tăng ni, họ thường mời các Phật tử trong
làng đến tụng kinh hoặc cùng niệm câu Nam Mô tiếp dẫn đạo sư A Di Đà
Phật. Đọc như vậy cho tới khi người hấp hối trút hơi thở cuối cùng. Họ tránh
không kêu khóc vì cho rằng làm như vậy khiến thần thức người chết quyến
luyến không rời khỏi thân xác được. Đây cũng là điểm khác với người Việt
theo phong tục tín ngưỡng truyền thống.

Sau khi Phật tử chết, người thân để thi thể ngay ngắn sau ba đến năm giờ
đồng hồ thì rửa thi thể người chết bằng bằng nước ấm hoặc rượu cồn, lau khô
rồi mặc quần áo mới. Động tác thật nhẹ nhàng êm ái vì theo quan niệm Phật
giáo cái chết lâm sàng đến cái chết não bộ là khá lâu. “Điều rất quan trọng là
ngay sau khi người ấy chết không được đụng chạm đến thi hài của họ để cho

42
tiến trình chết không bị gián đoạn, tiến trình này chỉ chấm dứt khi thân trung
ấm (Bardo/intermediate state) hoàn toàn thoát khỏi thân xác” [45, 15]. Nếu
đụng chạm mạnh đến thi thể dễ làm người chết đau đớn khó chịu và điều này
khiến cho thần thức người chết dễ đầu thai vào cõi ác. Người Phật tử chết,
người thân phải sửa sang bàn thờ Phật cho ngay ngắn có hương hoa đăng, rồi
lập bàn thờ vong ở dưới cũng trang nghiêm có hoa quả hương đèn, có ảnh
người quá cố cùng tên tuổi ngày sinh ngày mất. Như vậy, nghi lễ của Phật
giáo khác nhiều với Công giáo, Phật giáo vừa có bàn thờ Phật vừa có bàn thờ
vong. Sau khi khâm liệm, đóng nắp quan tài thì làm lễ cúng cơm chay. Tăng
ni và Phật tử đọc kinh cầu nguyện cho linh hồn được siêu thoát. Khi đưa tiễn
người Phật tử ra nghĩa địa tuỳ từng địa phương mà có thể đưa xe tang, chồng
đòn hay ô tô ra nghĩa địa. Khi đưa tang Phật tử quá cố đầu tiên là lá cờ phướn
của Phật giáo in hình con quạ và một cỗ lòng cách điệu. Tiếp sau là các Phật
tử nữ gồm những người cao tuổi đội trên đầu một tấm vải dài che chung cho
cả hàng (gọi là cầu) tay cầm cờ nhỏ; tiếp đến là vọng chủ khiêng di ảnh người
quá cố, rồi đến xe tang chở quan tài người chết, đi sau là tang quyến người
thân và bạn bè. Đối với Phật tử thì chiêng trống kèn bát âm không quan trọng
bằng tụng kinh, vì tụng kinh giúp cho linh hồn được siêu thoát còn kèn bát âm
chỉ là hình thức mà thôi. “Trong tang lễ phần quan trọng nhất là tụng kinh cầu
nguyện cho thần hồn người chết siêu thoát, chứ không chú trọng về hình thức
cúng kiến, đàn trống nhạc tàu nhạc tây. Những hình thức bề ngoài chỉ làm nở
mặt nở mày tang quyến mà thôi, chứ không ảnh hưởng đến thần thức người
quá cố” [45, 94]. Trước khi lấp đất xuống quan tài, các Phật tử đọc kinh cầu
nguyện rồi đội mai táng tiến hành lấp đất an táng. Sau khi an táng xong gia
chủ rước vong linh về nhà hoặc về chùa để làm lễ an vị vong linh và di ảnh.

Phật giáo cho rằng chết chưa phải là hết mà thần thức của người chết
thoát ra khỏi xác và lưu hành trong cõi không gian gọi là thân trung ấm. Thân

43
trung ấm tuỳ nghiệp lực mà vận động trong khoảng thời gian bảy ngày và
thông thường là bốn chín ngày hoặc không quá một trăm ngày sẽ đầu thai vào
một trong sáu cõi. Vì tin tưởng như vậy nên Phật tử chết người thân vẫn
thường xuyên cúng cơm nước, đọc kinh cầu nguyện để cho thần thức người
chết không hoảng loạn, và được trợ giúp để đầu thai vào cõi lành. Đến ngày
thứ bốn chín, thông thường tang chủ thường nhờ tăng ni của một ngôi chùa
nơi Phật tử đã sinh sống làm lễ cầu tụng cho linh hồn người chết được về cửa
Phật để được sự che chở và được cầu cúng thường xuyên không bị đói khát.
Nghi thức này được Phật tử gọi là đưa ông bà lên chùa. Ngoài ra tuỳ từng
hoàn cảnh gia đình của Phật tử mà tang chủ còn có thể làm các đàn lễ khác để
cúng dường, bố thí, hay phóng sinh để tạo thêm công đức cho linh hồn cũng
như chuộc lỗi cho linh hồn người mất để họ có duyên vào cõi lành. “Sau lễ
An sàng, là cúng tuần thất, cúng bách nhật, cúng tiểu tường (một năm), đại
tường (ba năm), nếu gia đình tang quyến có điều kiện nên tổ chức chức lễ trai
tăng cúng dường, bố thí, phóng sinh các loài vật, đi lễ Phật và cúng dường
mười chùa, để đem công đức hồi hướng cho vong linh người quá cố để họ
thác sinh vào cõi giới an lành [45, 94].

c. Nghi lễ tang ma của người Việt theo tín ngưỡng phong tục truyền thống

Khác với nghi lễ tang ma của người Việt theo Công giáo và Phật giáo,
nghi lễ tang ma của người Việt theo tín ngưỡng phong tục truyền thống có
những điểm đặc thù riêng. Chết là chấm dứt một cuộc đời và có ảnh hưởng rất
lớn đối với người đang sống. Người Việt theo phong tục tín ngưỡng truyền
thống quan niệm rằng người thân của họ trước khi chết thường bộc lộ những
điềm báo trước. Khi trong nhà có người hấp hối, việc quan trọng là đặt tên
hèm (tên Thụy) cho người sắp chết. Đó là một tên mới, tên cuối cùng (do
người sắp chết tự đặt hoặc con cháu đặt cho) mà chỉ có người chết, con cháu
và thần Thổ công nhà đó biết.

44
Theo Tân Việt, trong Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam thì
tang lễ khi người Việt theo phong tục tín ngưỡng truyền thống bao gồm các
nghi thức: Lễ mộc dục, lễ phạm hàm, lễ nhập quan, lễ thiết linh, lễ thành
phục. Trong việc tang ma, người Việt bị giằng kéo giữa hai thái cực: một bên
là quan niệm có tính triết lý coi chết là bước vào cuộc sống mới ở thế giới
khác nên việc tang ma được xem như việc đưa tiễn; bên kia là quan niệm trần
tục coi chết là hết nên việc tang ma là việc xót thương. Xót thương nên muốn
níu kéo giữ lại. Tục khiêng người chết đặt xuống đất, tục gọi hồn thể hiện hy
vọng mong người chết sống lại: “Cũng có trường hợp đã tắt thở, tưởng là chết
rồi, nhưng một thời gian bỗng nhiên sống trở lại. Do đó với một hi vọng
mỏng manh, mặc dầu trong muôn một, người sống tiếc thương muốn cứu
vãn... nên cầm chiếc áo của người đã tắt thở leo lên mái nhà chỗ cao nhất hú
“ba hồn bảy vía với đàn ông”, “ba hồn chín vía với phụ nữ”. Hú ba lần không
được thì đành thôi” [59, 125].

Trước khi khâm liệm, “phải làm lễ mộc dục (tắm gội cho người chết) và
lễ phạn hàm: bỏ một nhúm gạo nếp và ba đồng tiền vào miệng (gạo dùng để
thay bữa, tiền để đi đò – quan niệm của người vùng sông nước). Nghi lễ này
hiện nay có nơi đã bỏ không thực hiện. Khi khâm liệm, phải có miếng vải đắp
mặt người chết để khỏi trông thấy con cháu sinh buồn. Trong áo quan từ thời
Hùng Vương đã có tục chia tài sản cho người chết mang theo dưới dạng vật
thật hoặc vật tượng trưng mà ta vẫn tìm thấy trong các mộ táng. Ngày nay,
người Việt vẫn để kèm trong áo quan một số đồ vật tùy thân như quần áo,
gương lược… và hằng năm khi cũng giỗ thì “gửi thêm” vàng (giấy), quần áo
(giấy)” [49, 296].

Khi gắn sơn xong, quan tài được đặt chính giữa nhà. Nếu trong nhà còn
người tôn hơn thì quan tài đặt sang bên cạnh. Sau lễ nhập quan là lễ thiết linh
đặt bàn thờ tang trên có di ảnh của người vừa mất. Tiếp đến là lễ thành phục

45
con cháu bắt đầu lấy tang phục ra mặc. Tục khóc than (nhà không có con thì
thuê người khóc mướn) và các nghi lễ để tang thể hiện tình cảm nuối tiếc
cũng như mức độ quan hệ thân sơ đối với người đã mất. Đặc điểm chung của
tang phục Việt Nam cổ truyền là về màu sắc thì dùng màu trắng – màu xấu
nhất trong ngũ hành (theo quan niệm của cư dân nông nghiệp Đông Nam Á).
Khi đưa tang thì có tục lăn đường; cháu chắt, họ hàng thì đội tang vải trắng.
Sau khi chôn cất và thời gian chịu tang, con cháu tiếp tục đội khăn và có tục
mặc quần áo xổ gấu, áo lộn trái, đầu tóc không trải, chân đi đất…

Lễ án táng của người Việt được tiến hành vào ban ngày có thể là buổi
sáng hoặc đầu buổi chiều. Lễ án táng người Việt gọi là đưa ma theo quan
niệm sống làm người, chết làm ma. Chết không phải đã hết mà ma (người
chết) vẫn còn ảnh hưởng đến người còn sống. Đi đầu là xe hoặc kiệu rước di
ảnh của người mất, rồi đội kèn trống, tiếp theo là đại dư chở linh cữu người
mất. Linh cữu luôn luôn được để đằng đầu đi trước, có ý nghĩa hồn tưởng nhớ
con cháu mà nhìn lại. Trong đám tang con trai chông gậy theo tục cha đưa mẹ
đón. Con gái thì phải lăn đường với ý nghĩa tiếc thương cha mẹ, cha mẹ mất
đi khiến từ nay họ cực khổ, họ tự làm cái kê đường cho người đưa ma dẫm
lên thân xác. Đây là một trong những điểm rất khác biệt của người Việt theo
tín ngưỡng truyền thống với Công giáo và Phật giáo. Theo sau linh cữu là
tang quyến cùng thân hữu. Dọc đường đi bao giờ người Việt cũng rắc tiền
vàng mã dọc đường đi gọi là tiền đò, tiền mãi lộ cho người chết đi đến cõi âm
được thuận lợi. Riêng người con trưởng đi trước hoặc đi sau xe tang theo
phong tục “cha đưa, mẹ đón”. Sau khi hạ huyệt xong, tất cả mọi người đi
quanh mộ một vòng, mỗi người ném một hòn đất với ý nghĩa chia tay tiễn biệt
mong cho người chết được mồ yên mả đẹp.

Kết thúc lễ an táng, người Việt thường rước vong linh về bàn thờ trong
nhà và hàng ngày thực hiện lễ cúng cơm. Lễ cúng cơm rất đơn giản. Đến bữa

46
ăn người nhà dâng lên bàn thờ một bát cơm, chút canh hoặc đĩa muối rồi mời
vong linh người mất về dùng bữa. Thời gian lễ cúng cơm có thể là bốn chín
hoặc một trăm ngày. Nghi lễ này là sự ảnh hưởng của Phật giáo trong tín
ngưỡng phong tục của người Việt khi cho rằng vong hồn sau khi chết vẫn
chưa siêu thoát vẫn còn phảng phất quanh quẩn trong nhà chưa đi xa. Kết thúc
một trăm ngày, chờ đến một năm sau người Việt làm giỗ đầu gọi là tiểu
tường. Đối với lễ tiểu tường khi cúng tế người chết con cháu phải mặc tang
phục như ngày đưa ma, trong ngày này người Việt quan niệm dương sao âm
vậy nên thường mua vàng mã các loại phương tiện, quần áo để đốt cho người
đã khuất. “Trong ngày tiểu tường, khi cúng tế người chết, người sống vận
tang phục như ngày đưa ma, để chứng tỏ với vong hồn người mất nỗi nhớ
thương chưa nguôi. Con cháu khi tế lễ cũng khóc như ngày đưa ma” [2, 22].
Sau lễ tiểu tường là lễ đại tường tức là giỗ hết. Trong ngày giỗ hết con cháu tổ
chức lễ cúng trang trọng nhưng chủ yếu để tưởng nhớ kỉ niệm về người thân
đã mất. Sau lễ đại tường tất cả tang phục đều được đốt bỏ coi là lễ bỏ tang.
Trong ngày giỗ hết người Việt cũng thường đốt vàng mã cho người chết vì
cho rằng lần đốt vàng mã ở lễ tiểu tường người chết không được dùng nhiều
vì còn phải đi lễ những vị quan lại ở dưới âm phủ.

Trong tín ngưỡng phong tục người Việt người chết sau ba năm sẽ làm lễ
cải táng hay gọi là bốc mộ (sang nhà mới cho vong). Khi người thân mất, tang
gia bối rối, chưa chuẩn bị đầy đủ các điều kiện nên tạm thời an táng gọi là
hung táng. Sau ba năm tang chủ có nhiều điều kiện và thời gian để chọn được
quan quách, tiểu sành thay cho tấm gỗ ván. Hơn nữa người Việt cho rằng hài
cốt ông bà, tổ tiên do chung huyết mạch nên nếu hài cốt đặt nơi đất tốt ấm
cúng sẽ giúp cho con cháu làm ăn thịnh vượng. Đã có những câu thành ngữ
phổ biến như “giàu về mồ về mả ai giàu về ruộng cả ao liền”, “giữ như giữ
mả tổ”. “Cải táng có nhiều cố: một vì lúc nghèo túng cha mẹ mất không đủ

47
tiền bạc nên mua tạm tấm gỗ để an táng, ba năm sau phải thay ván sợ ván xấu
hại đến di hài. Hai là chỗ đất táng bị sụt lở nước đầy mà phải cải táng. Ba là
trong nhà địa lí thấy đất nơi an táng tự nhiên sụt lún, hoặc cây tự nhiên khô
héo, trong nhà có kẻ cuồng dâm, hoặc ốm đau lủng củng, trong nhà có kẻ
nghịch ngợm sinh ra kiện cáo lôi thôi thì cho là tại đất nên phải cải táng. Bốn
là những người muốn cầu công danh phú quý, nhờ thầy địa lí tìm đất tốt mà
cải táng, lại có người thấy nhà khác phát đạt đem mả nhà mình táng gần mả
nhà kia để cầu hưởng dư huệ” [2, 145]. Lễ cải táng thường được tiến hành vào
ban đêm. Người Việt rất chú trọng việc tìm đất tốt theo thuật phong thuỷ để
táng mộ. Đồng thời, họ cũng rất chú trong đến thời gian và phương hướng của
ngôi mộ với niềm tin nếu đặt đúng cách mộ phát sẽ giúp con cháu làm ăn
thịnh vượng. Thời gian gần đây việc xây bia mộ diễn ra rầm rộ chi phí rất tốn
kém, có nơi biến khu nghĩa địa thành như khu phố với đủ hình dáng kiến trúc
màu sắc. Sau khi cải táng, các lần giỗ sau người Việt gọi là giỗ thường là
thời gian để con cháu quây quần, sum họp để tưởng nhớ công ơn của người
đã khuất.

“Ngày nay, nhiều tục lễ trong số đó không còn tồn tại nữa, lẽ chính là vì
chúng quá chi ly, cầu kỳ nhưng hoàn toàn không phải vì chúng vô nghĩa. Ý
nghĩa chính của chúng là để bày tỏ sự thương tiếc. Phong tục tang lễ của
người Việt thấm nhuần rất sâu sắc tinh thần triết lý âm dương ngũ hành
phương Nam.” [49, 298].

Khi tìm hiểu nghi lễ tang ma của người Việt theo Công giáo, Phật giáo
và theo phong tục tín ngưỡng tín ngưỡng truyền thống, chúng ta thấy được
nhiều điểm đồng, dị. Những nghi lễ cho người chết góp phần tạo nên đời sống
tinh thần, tạo ra phong tục tập quán và các thành tố văn hoá Việt Nam.

Như vậy, thế ứng xử của người Việt với cái chết được thể hiện trên hai
mặt thái độ và hành vi (nghi lễ). Đứng trước cái chết, người Việt có những

48
thái độ ứng xử khác nhau: Đó có thể là thái độ chủ động đón nhận cái chết
hay là thái độ phủ nhận cái chết, cũng có thể là thái độ xem cái chết như sự
giải thoát cho những bế tắc cá nhân. Nhưng vượt lên trên hết, mỗi người Việt
đều hiểu chết có nghĩa là một sự mất mát, một sự ra đi không trở lại của người
thân nên nói đến cái chết là gợi sự đau buồn, thương tiếc. Bởi lẽ đó, trong tâm
thức mỗi người dân Việt luôn tâm niệm một điều thiêng liêng “nghĩa tử là
nghĩa tận” nên ai ai cũng hết lòng với người chết, điều đó được thực hiện
thông qua nghi lễ tang ma. Nghi lễ tang ma từ đó trở thành một thành tố
không thể thiếu trong văn hóa người Việt, được gọi là phong tục tang ma.
Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích thế ứng xử của người Việt với cái chết,
chúng ta thấy có những thái độ và hành vi tích cực trước cái chết cần tiếp tục
được phát huy trong xã hội hiện nay, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những biểu
hiện tiêu cực về mặt thái độ và hành vi mà chúng ta cần loại bỏ và khắc phục
trong quá trình xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta.

2.2. Một số định hƣớng cho thế ứng xử của ngƣời Việt hiện nay với
vấn đề cái chết.
2.2.1 Cần nhìn nhận cái chết nhƣ một hiên tƣợng tự nhiên, một giai
đoạn tất yếu trong chu trình phát triển của đời ngƣời, do đó không nên
né tránh hay sợ hãi khi bàn luận về cái chết hay đối mặt với nó.
Cái chết - giai đoạn cuối của sự phát triển. Xét theo quan điểm sinh lý
học thì cái chết - đó là sự ngừng lại hoàn toàn tất cả các chức năng sống. Xét
trên quan điểm tâm lý học thì cái chết không nghi ngờ gì có một ý nghĩa cá
nhân cực kỳ to lớn đối với người chết cũng như đối với gia đình và bạn bè họ.
Sự qua đời - tức là chấm dứt sự tiếp thu kinh nghiệm, để lại những người thân
yêu, sự nghiệp dở dang và đi vào cõi vĩnh hằng. Mọi vật thể sống đều chết đi.
Cái chết - cũng là một bộ phận của sự phát triển cũng như chính bản thân

49
cuộc sống. Do đó, nâng cao nhận thức về cái chết có thể làm mọi người sống
tốt hơn, hạnh phúc hơn và sống trọn vẹn hơn.

Nhà hiện sinh người Đức – M.Heidegger (1889 – 1976) cho rằng, con
người phải vượt lên trên cuộc sống thường ngày để cảm nhận được “nỗi lo
sợ” hiện sinh; và để thoát khỏi lĩnh vực đời thường, hướng tới cái đích thực
của bản thân mình, con người phải nhìn thẳng vào cái chết. Theo Heidegger,
con người lúc nào cũng phải sống trong trạng thái lo âu, bất ổn khi bị ném vào
trong một thế giới xa lạ, hiểm nguy, thiếu sự an toàn bởi họ luôn phải đối mặt
với cái chết. Cái chết không chừa bất cứ ai vào bất cứ thời điểm nào. Tôi sẽ
có bản tính chân thực của chính mình nếu như, dưới tiếng gọi của lương tâm,
tôi quăng mình về phía cái chết, với sự quyết tâm và quyết đoán, như là về
phía chính khả năng đặc biệt của tôi. Vào lúc này, tôi tự thể hiện bản thân
mình với chính mình trong sự chân thực, và tôi cùng vực những người khác
dậy, hướng về tính chân thực với tôi. Con người luôn phải sống trong trạng
thái kinh hoàng, lo âu, sợ hãi là vì lúc nào họ cũng phải đối mặt với cái chết,
dù cho họ cố tìm đủ mọi cách trốn chạy để xa lánh cái chết. Cái chết có thể
đến với con người ở bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào. Nhưng do chính cái
chết là một khả năng hiện hữu luôn đe dọa con người, nên con người càng
thấy trách nhiệm nặng nề, lớn lao của mình trong lúc sống. Và, cũng vì để
sống, tức là đang đi về với cái chết, mà theo cách nói của Heidegger là “đi
trước vào trong cái chết”, nên con người càng phải nhận thức rõ cảnh ngộ đó
của mình để có những sự lựa chọn đúng đắn và có ý nghĩa cho những hành
động ở đời.

Heidegger muốn con người trải nghiệm cái chết không phải như một khả
năng khách quan được đoán trước hay một sự thật không thể tránh khỏi. Thay
vào đó, ông muốn con người nhận thức về cái chết như một khả năng, vì nó
khiến cho con người hiểu rõ về tính hữu hạn của mình, khiến cho sự lựa chọn

50
của con người trở nên quan trọng hơn. Theo ông, trong khi những người khác
có thể thay thế nhiều vai trò xã hội của một người, ví dụ như nhiệm vụ chuyên
nghiệp, vai trò trong gia đình, tình bạn bè và vai trò xã hội của một con
người…, nhưng không ai có thể thay thế họ đối diện với cái chết của chính
mình. Bởi lẽ, cái chết của một người có liên quan đến chính bản thân họ,
trong khi những người khác không thể giúp họ đối diện với nó, hay từ chối
nó. Khả năng xảy ra cái chết nhắc nhở mọi người phải quyết định cuộc sống
của chính mình. Do đó, hướng về cái chết là cá nhân hóa, nó thúc đẩy con
người đến với các lựa chọn đích thực của mình.

Mỗi con người được sinh ra và lớn lên, ai cũng đã từng nhìn thấy, hoặc
nghe biết về cái chết song chưa một lần kinh nghiệm, vì chẳng ai chết hơn
một lần. Tuy rằng cái chết không ai có thể tránh khỏi nhưng chúng ta phải
biết chấp nhận và làm bạn cùng cái chết, bởi trước sau gì nó cũng đến với
chúng ta. Cái chết đến bất cứ lúc nào, bất cứ ai và bất cứ hoàn cảnh nào. Để
luôn giữ được tâm hồn bình thản trước cái chết, chúng ta cần phải biết sống
cuộc đời hiện tại cách tốt đẹp nhất.

Tránh né không dám bàn đến vấn đề tử vong, nhưng sớm muộn gì con
người ta ai ai cũng đều phải đối mặt, và như vậy chúng ta sẽ đánh mất rất
nhiều cơ hội xử lý đúng đắn về đạo làm người đối với cái chết của chính bản
thân mình hoặc đối với người thân.

Do đó, đối với cái chết, nhà Sinh tử học người Mỹ là Elisabeth Kubler
Ross (1926 – 2004) đã nói: “Cái chết cũng giống như sự sống, là một phần
tồn tại, trưởng thành và phát triển của loài người” [54, 21].

Chết là một phần trong toàn bộ cuộc sống chúng ta, vì nó đã trao cho loài
người ý nghĩa về sự tồn tại. Nó cung cấp cho chúng ta giới tuyến quy định về
thời gian trong đời sống hiện tại của chúng ta, thúc giục chúng ta trong một
khoảng thời gian mà chúng ta có thể tranh thủ nó để gây dựng một sự nghiệp

51
mang tính sáng tạo. Do đó, đứng trên một quan niệm tích cực mang tính chính
diện để nhìn nhận thì ý nghĩa cái chết có thể nói là giai đoạn sau cùng của sự
trưởng thành.
Nhà sử học người Anh Arnold Joseph Toynbee (1889 – 1975) nhấn
mạnh: sự đau thương của cái chết là cảm nhận của hai người. “Nếu cái chết là
việc của một cá nhân thì không hiểu biết về nó cũng không sao nhưng tối
thiểu, cái chết là việc của hai con người, nếu là người đã trưởng thành, đã kết
hôn mà không biết làm sao để đối mặt với cái chết, chỉ biết giương mắt đứng
nhìn mà không tìm ra phương cách giải quyết, hoặc không biết làm thế nào để
quan tâm đúng mức đối với người bạn đời của mình thì người ấy sẽ tự mình
đánh mất bổn phận và trách nhiệm làm người cao quý mà tạo hóa đã ban cho.
Một con người nếu chưa kết hôn nhưng lại còn cha mẹ, nếu cha mẹ đang
đối mặt với cái chết thì con người ấy phải biết dung lời hòa ái như thế nào để
an ủi, vỗ về cha mẹ, giúp song thân có thể ra đi một cách nhẹ nhàng. Tất cả
con cái đều phải trang bị đầy đủ tri thức cần thiết đối với trách nhiệm ấy. Cho
nên, “cái chết” quả thật là vấn đề liên quan đến hai người, và cũng có thể là
việc liên quan đến ba thế hệ” [54, 23].
Bà Ross cũng nhắc nhở chúng ta rằng: Thử nghĩ về cái chết của bạn. Bạn
phải mất bao nhiêu thời gian và sức lực để khảo sát cảm giác, niềm tin, hy
vọng hay sự sợ hãi khi đối diện với cái chết của chính mình? Giả sử có người
bảo với bạn rằng, bạn sắp chầu Diêm vương rồi, thì phản ứng của bạn sẽ ra
sao? Bạn sẽ thay đổi những việc mà bạn cảm thấy cần phải làm trước mắt của
bạn hay không? Bạn sợ chết hay không? Bạn có thể chỉ ra căn nguyên của
tâm lý sợ hãi được không?
Tất cả những câu hỏi nêu trên đều là những vấn đề mà một cá nhân, một
gia đình ắt sẽ gặp phải, do đó bàn luận về những vấn đề này không phải là
việc làm xa vời, vô ích. Rất nhiều người sai lầm khi cho rằng cái chết là sự uy

52
hiếp. Sự thật thì không phải như vậy, mà cái chết chính là một sự thách thức -
một sự thách thức mà người ta ai cũng sẽ gặp phải. Chúng ta không thể né
tránh sự thách thức của cái chết đến với mình mà vấn đề quan trọng ở đây là
làm thế nào để đối phó với một tâm lý mạnh mẽ và mang lại kết quả hữu hiệu
cho bản thân. Do đó, con người phải làm gì để đối mặt thách thức này, làm
thế nào để đối phó với cái chết một cách nghiêm túc? Đây chính là ý nghĩa
quan trọng để mỗi cá nhân có thái độ đúng đắn trong vấn đề ứng xử với cái chết.
Nếu chúng ta coi cái chết là giai đoạn cuối cùng trong sự phát triển của nhân loại
thì mỗi ngày chúng ta hãy sống sao cho có giá trị, không nên chờ đến ngày mai
mới bắt tay vào làm những việc mà chúng ta phải làm. Như vậy, mỗi người sẽ học
được cách sống đúng với ý nghĩa cuộc sống mà bản thân đang có.

Đối diện với không chỉ với cái chết của chính mình mà còn với cái chết
của những người khác, chính là coi cuộc sống của những người khác tiếp tục
cho đến hơi thở cuối cùng và phải được sống xứng đáng nhất. Sự chăm chút
những người ốm giai đoạn cuối là sự chăm chút đến cuộc sống, chứ không
phải đến cái chết, bởi những người hấp hối còn đang sống cho đến giây phút
cuối cùng: Elidabet Cubler-Ross (1969) là một trong những người nữ đầu tiên
quan tâm vấn đề nghiên cứu cái chết và sự qua đời. Bà tập trung chủ yếu vào
những tình huống ngắn ngủi trong đó triển vọng cái chết đối với con người trở
nên rất hiện thực, ví dụ như khi phát hiện bệnh tật không thể chữa khỏi ở con
người. Do vậy, khi trò chuyện với những người đó E.Cubler - Ross đã chia ra
5 giai đoạn thích nghi với ý nghĩa về cái chết: Phủ nhận, giận dữ, mặc cả,
trầm uất và tiếp nhận. Dưới đây là mô tả tóm tắt các giai đoạn đó:

Trong giai đoạn phủ nhận, con người bác bỏ khả năng chết và đi tìm
những ý kiến và những triển vọng thuận lợi nhất.

Khi con người nhận thức được rằng họ trên thực tế sẽ chết, sự kích thích,
phẫn nộ và lòng đố kỵ bao bọc lấy họ. Đó là giai đoạn giận dữ. Con người

53
cảm thấy mình bị lừa dối bởi lẽ các kế hoạch và khát vọng của họ không khi
nào được thực hiện.

Ở giai đoạn mặc cả, con người có thể tranh thủ thời gian, đưa ra những
lời hứa hẹn và cầu nguyện Chúa Trời của mình, trò chuyện với các bác sĩ, y tá
hoặc với những người khác lấy cớ trì hoãn bản án, giải thoát khỏi đau đớn và
khổ ải.

Nếu mặc cả không đem lại kết quả, còn thời gian trôi đi thì sự bất lực và
vô vọng bao quanh họ. Đến lúc này con người đang trong giai đoạn trầm uất
và khóc than không những về những tổn thất thực sự mà không lâu nữa phải
chia ly với gia đình mình và bạn bè.
Trong giai đoạn tiếp nhận, con người nhận thức, chấp nhận đón đợi cái chết.
Các giai đoạn thích nghi mà E.Kubler - Ross mô tả là phản ứng bình thường
của con người về cái chết không tránh khỏi và giúp cho hiểu rằng con người
đang hấp hối cảm nhận điều gì. Tuy nhiên con người không phải là vạn năng.
Không phải tất cả mọi người đều trải qua một trong những giai đoạn nói trên
và chỉ có một số người trải qua năm giai đoạn đó theo trình tự như đã mô tả.
Có nhiều yếu tố tác động đến sự phản ứng của con người đó là: bản sắc văn
hoá, tính cách cá nhân, tôn giáo, triết lý cá nhân, độ dài và tính chất của bệnh
tật. Một số người ở trong giai đoạn giận dữ hoặc trầm cảm cho đến khi chết,
số người khác chờ chết như là sự giải thoát khỏi nỗi đau đớn. Mỗi con người
chờ đón cái chết theo cách của mình, vì vậy trong những trường hợp đó họ
không phải ép buộc vào các giai đoạn thích nghi nhất định.

Do đó, nếu đối diện với cái chết của chính mình hoặc cái chết của người
thân, nếu cá nhân có khả năng xử lý tốt, có thể nâng cao kỹ năng và cách thức
sống, chuyển hóa sầu khổ thành sức mạnh nội tâm thì bản thân bạn sẽ trưởng
thành hơn; nếu xử lý không tốt, cả gia đình đều bị trói buộc trong tâm trạng

54
sầu thảm, thiếu sự trưởng thành thì càng không thể tích tụ được sức mạnh để
khắc phục đau khổ.

Chết là một phần trong toàn bộ cuộc sống chúng ta, vì nó đã trao cho loài
người ý nghĩa về sự tồn tại. Nó cung cấp cho chúng ta giới tuyến quy định về
thời gian trong đời sống hiện tại của chúng ta, thúc giục chúng ta trong một
khoảng thời gian mà chúng ta có thể tranh thủ nó để gây dựng một sự nghiệp
mang tính sáng tạo. Do đó, đứng trên một quan niệm tích cực mang tính chính
diện để nhìn nhận thì ý nghĩa cái chết có thể nói chính là giai đoạn sau cùng
của sự trưởng thành.

2.2.2. Cần hoàn thành trách nhiệm với cuộc sống hàng ngày, đó
chính là thái độ tốt nhất để đối mặt với cái chết.
Vì cái chết của bản thân không tồn tại khi chúng ta đang sống nên thay
vì lo sợ, sợ hãi chúng ta hãy sống một cuộc đời có ý nghĩa. Dù lên Thiên đàng
hay đến Niết bàn thì hầu hết các tôn giáo đều khuyên con người sống một
cuộc sống có giá trị, làm thiện, có đạo đức, phải sống nỗ lực ngay từ khi đang
sống trong cuộc sống hiện tại.

Để mỗi người sống đúng nghĩa và làm cho xã hội ngày càng tiến bộ,
chúng ta cần có một cái nhìn và thái độ đúng đắn với cái chết. Có rất nhiều
tình huống, hoàn cảnh mà trong đó cái chết mang một ý nghĩa riêng, có thể là
bất ngờ, có thể là biết trước, có thể là do ngoại cảnh, cũng có thể là do tự sát.
Chúng ta hãy xem xét một số trường hợp điển hình và cùng bàn luận.

Trước hết là cái chết bất ngờ, giả dụ như những vụ tai nạn giao thông, có
thể thấy mức độ thảm khốc của các vụ tai nạn khiến cho người thân và ngay
cả chúng ta cũng cảm thấy đau lòng, thương xót. Cả thế giới liên tục chứng
kiến những vụ việc như vậy hàng năm, liệu nó có ảnh hưởng gì đến thái độ
của mỗi người về cái chết bất ngờ. Mặc dù vậy, cái chết ở đây không hoàn

55
toàn làm thay đổi hành vi của mỗi người đến mức bi đát, vì thế người Việt
vẫn hay tự an ủi mình coi đó là số phận. Để giảm thiểu tối đa rủi ro, mỗi
người cần cẩn trọng trong mọi công việc, hoàn thành tốt nhiệm vụ của mỗi cá
nhân, để tránh những sai sót gây ra hậu quả đáng tiếc.

Đối lập lại trường hợp trên là cái chết biết trước. Trong cái chết biết
trước lại có các trường hợp khác nhau. Đầu tiên chúng ta xem xét suy nghĩ
của những người mắc bệnh hiểm nghèo, trong những ngày tháng cuối cùng
của cuộc đời trước cái chết cận kề. Hiện nay xã hội ngày càng phát triển, khoa
học ngày càng tiến bộ nhưng không thể ngăn chặn ngày càng nhiều người
mắc những căn bệnh không thuốc chữa như ung thư, HIV, bại liệt, bệnh liên
quan đến tim… Nguyên nhân được tìm ra ở đây cũng rất nhiều, có thể là do di
truyền, môi trường và lý do nhiều nhất là do lối sống. Cách ăn uống hàng
ngày, cách tập thể thao, cách làm việc, phong cách sống thời hiện đại, có cảm
giác như con người là trung tâm để những căn bệnh mới xuất hiện. Những ai
không may mắn mắc phải những bệnh như trên sẽ rất tuyệt vọng. Lúc đó họ
cảm thấy thứ quý giá nhất chính là cuộc sống của họ và khát vọng được sống.
Bệnh tật không chừa một ai, dù giàu hay nghèo, sang trọng quý phái hay
nghèo khó bần hàn. Người giàu sợ chết hơn có phải không? Không, đến lúc
mắc bệnh thì ai cũng như nhau, chúng ta đều sợ cái chết, chỉ khác nhau là họ
luyến tiếc điều gì mà thôi. Họ sẽ đếm từng ngày để đợi thần chết đến mang họ
đi? Nếu không có sự chăm sóc, động viên của người thân họ sẽ ra sao? Lúc
bấy giờ họ mới biết quý trọng tình thân gia đình, nhận ra ai tốt ai xấu với
mình. Vì vậy, mỗi người hãy sống khoan dung một chút, rộng lượng một
chút, chịu thiệt một chút, để có lâm vào tình cảnh như vậy ta vẫn có thể mỉm
cười xuôi tay.

Một trường hợp nữa trong cái chết biết trước đó là của các anh hùng liệt
sĩ, các nhà khoa học. Để có được độc lập tự do hạnh phúc như ngày nay biết

56
bao xương máu của cha anh chúng ta đã ngã xuống. Có rất nhiều tấm gương
trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ như: Bế Văn Đàn, Võ
Thị Sáu, Phạm Ngọc Đa,… họ đều là những người trẻ tuổi nhưng có tấm lòng
gan dạ, có ý chí vững trãi, có tinh thần ngoan cường. Những nhà khoa học
như: Galile, Mariquiri, Humphry Davy, Michael Faraday, Robert Busen,
Alexander Bogdanov, Elizabeth Ascheim, Brewster … họ đều đã chấp nhận
hi sinh bản thân vì lý tưởng duy nhất là đem lại sự tiến bộ cho loài người.

Để xây dựng cho được nhân cách con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
của quá trình hội nhập quốc tế, đòi hỏi chúng ta phải đặc biệt quan tâm đến
giáo dục nhân cách cho mọi thế hệ người Việt, để tạo ra những con người có
ích cho xã hội. Theo chúng tôi, giáo dục bằng phương pháp nêu gương trong
giai đoạn hiện nay có ý nghĩa và tác dụng rất lớn để mỗi người tự suy ngẫm về
những vấn đề liên quan đến cái chết và sống có nghĩa hơn trong cuộc đời này.

Cái chết không chỉ là vấn đề người cao tuổi quan tâm mà nó là vấn đề
liên quan đến mọi lứa tuổi. Vì vậy, cần giáo dục những vấn đề liên quan đến
cái chết cho người Việt mọi lứa tuổi. Để chúng ta có cái nhìn đúng đắn về nó,
để thấu hiểu giá trị cuộc sống để sống có nghĩa hơn. Đây cũng chính là một
cách giáo dục hữu ích để có thể hạn chế được nhiều hơn những bi kịch cá
nhân trong xã hội chúng ta ngày nay. Bất kể trong giai đoạn nào, khi có
những biến động lớn trong xã hội, các biến động có thể gây ra những bi kịch
của cá nhân và gia đình sẽ làm gia tăng tình trạng tự tử. Biến động đó có thể
là chiến tranh, thảm họa thiên tai, nó có thể là khủng hoàng tài chính. Thường
những khủng hoảng khiến con người ta từ tình trạng cân bằng dẫn đến mất
cân bằng trầm trọng. Nó sẽ dẫn đến xử lý vấn đề một cách tiêu cực. Sự sống
luôn là vốn quý mà con người tìm mọi cách níu giữ. Tự tử không đơn giản là
chấm dứt cuộc sống ngay lập tức, mà còn là hệ lụy dai dẳng cho những người
còn sống. Chưa kể, việc tự tử không thành còn biến những thanh niên sung

57
sức thành tàn phế suốt đời. Chính vì thế mà toàn xã hội, những người thân
xung quanh cần giúp đỡ, hỗ trợ cho mỗi cá nhân vượt qua được khủng hoảng
trước khi quá muộn. Do đó, trong cuộc sống mỗi người hãy tự rèn luyện cho
mình cách thức vượt qua khó khăn và đối mặt với thách thức của cuộc đời.

Trong cuộc sống đôi khi chúng ta gặp những khó khăn, những đắn đó
suy nghĩ không biết phải làm gì, theo hướng nào, quyết định ra sao nó có thể
ảnh hưởng tới cả cuộc đời và cuộc sống sau này của mình. Có những con
người sinh ra không được lành lặn, khỏe mạnh nhưng nghị lực sống của họ lại
khiến những người bình thường kinh ngạc và khâm phục. Họ đã sống một
cuộc đời đáng sống và lan tỏa sức sống mãnh liệt ấy đến những người xung
quanh. Có câu nói: Nếu xe bị hỏng và bạn phải dắt bộ một quãng đường, hãy
nghĩ đến những người khuyết tật chỉ mong có thể tự bước đi vài bước; hay:
Nếu bạn cảm thấy mất phương hướng và không biết mục tiêu sống của mình
là gì, hãy nghĩ đến những bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo, họ đang trải qua
những giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Họ yêu quý cuộc sống biết bao nhưng
sẽ không có cơ hội để tự hỏi như thế nữa.

Một điển hình về nghị lực sống của thế giới - NickVujicic sinh năm
1982, là người Australia. Từ khi sinh ra, anh bị khuyết tật: không chân, không
tay. Sự bất hạnh, dù có lúc từng khiến Nick đã thử tự tử bằng cách trầm mình
xuống bể nước vào năm 10 tuổi, nhưng bằng ý chí và nghị lực phi thường,
Nick vươn lên và tự khẳng định mình trong cuộc sống. Anh tốt nghiệp đại học
khoa tài chính kế toán và trở thành diễn giả nổi tiếng về chủ đề làm chủ cuộc
sống. Trong một buổi diễn thuyết, Nick nói: Tôi chưa bao giờ thực sự tàn tật
cho đến khi tôi mất hi vọng. Bởi vì, theo anh mất hi vọng còn tồi tệ hơn cả
mất chân tay. Việc không ngừng vượt qua thử thách để vui sống đã khiến anh
nhanh chóng nhận ra không điều gì là không thể nếu người ta không ngừng
yêu thương, đam mê và hi vọng.

58
Không chỉ ở thế giới, mà ở nước ta có rất nhiều tấm gương về nghị lực
sống – những người biết vượt qua khó khăn của số phận để thành công.
Nguyễn Ngọc Ký, một điển hình về nghị lực sống của người Việt từ lâu đã trở
thành tấm gương sáng cho bao thế hệ người Việt về chiến thắng nghịch cảnh,
đã dùng đôi chân và nghị lực để viết lên số phận. Nguyễn Ngọc Ký đã không
chịu đầu hàng số phận. Cậu đã quyết tâm đứng dậy và nỗ lực mỗi phút giây
cuộc sống để hiện thực hóa giấc mơ được đến trường đi học như những đứa
trẻ bình thường khỏe mạnh đồng trang lứa. Cuối cùng, Nguyễn Ngọc Ký đã
chinh phục được thử thách, vượt lên sự run rủi của số phận và đến được trường đi
học cùng bao bạn bè, bay cao cùng ước mơ trở thành một người thầy giáo mẫu
mực: viết sách, làm thơ, dạy học, tư vấn giáo dục và tâm lý cho giới trẻ.

Theo J.P.Sartre (1905 – 1980) – người sáng lập chủ nghĩa hiện sinh vô
thần Pháp, tôi chỉ hiện hữu khi tôi sẽ không hiện hữu nữa, con người luôn
phải đối diện với cái chết, cũng như con người từ hư vô trở về với hư vô. Vì ý
thức được điều đó cũng như nhận ra con người là một tồn tại cô đơn, nên con
người phải lo âu, lo âu vì phải mang trách nhiệm với bản thân. Cuộc sinh tồn
là quá trình làm nên mình, nên lo âu là bạn đồng hành của con người. Và, khi
lo âu kéo dài không có đường giải thoát thì con người rơi vào tuyệt vọng, vì
con đường trước mắt là hư vô. Tuy nhiên, tuyệt vọng không phải là buông
xuôi, khuất phục mà con người bắt buộc phải nhập cuộc. Song, trong cái vòng
bắt buộc của thân phận con người, ta có quyền lựa chọn để làm nên ta. Do
vậy, cuộc đời là những lựa chọn, những lựa chọn giúp ta trở thành con người.
Con người biết bất chấp cái chết để nhập cuộc tự do làm nên lịch sử của mình
bằng những dự phóng. Hiện sinh từ thân phận và hoàn cảnh con người trong
thế giới – một thế giới mà trong đó, ta bị đẩy vào và chờ đợi ở ta một ý nghĩa.

Như vậy, ý nghĩa cuộc sống của con người chính là ở chỗ mỗi cá nhân tự
tạo ra thông qua hành vi tự do lựa chọn, không nhìn cái chết theo ý nghĩa tiêu

59
cực, mà trái lại, phải coi đó chính là nguồn gốc của mọi sự bận rộn, mọi sự cố
gắng, nhiệt tình, thiết tha với cuộc sống và đồng thời là những động cơ để
thúc đẩy, khích lệ con người trong những năm tháng sống trong cuộc đời,
khích lệ con người tự tạo cho mình một cuộc sống có ý nghĩa hơn, sống có
trách nhiệm hơn: “Tôi ăn vì tôi sợ rằng tôi sẽ không còn được ăn, tôi yêu vì sẽ
không còn được yêu, tôi đam mê vì biết rằng đam mê sẽ chấm dứt. Tử thần là
động cơ duy nhất và sau cùng khiến cho người sống và ham sống” [43, 392].

Có nhiều thái độ đối với cái chết cũng như đối với cuộc sống. Một số
người tuyệt đối không bao giờ nghĩ đến điều đó và tự khuây khỏa bằng cách
luôn nghĩ đến điều khác. Tuy nhiên, bằng cách hiểu rằng cái chết là một phần
hiển nhiên của cuộc sống. Hẳn đó là lúc kết thúc, nhưng lại là phần bổ sung
tất yếu của cuộc sống, điều khiến chúng ta yêu cuộc sống trong sự ngắn ngủi,
trong niềm vui của nó. Biết rất nhiều về cái chết cũng có thể là điều giúp
chúng ta tận hưởng trọn vẹn cuộc sống, hưởng thụ từng khoảnh khắc thoải
mái. Đây không phải là vấn đề lý thuyết mà là một thái độ giúp chúng ta đối
diện với sự biến mất của chính mình cũng như đối diện với cái chết của
những người khác. Đối diện với cái chết của chúng ta, đó là biết được cuộc
sống đầy rủi ro và phù du, và chính vì vậy mà cuộc sống vô cùng quý giá. Đó
là ý thức rằng cuộc đời ngắn ngủi, vụt qua. Ý thức ấy có thể giúp chúng ta dự
kiến những gì mong muốn xảy ra sau sự ra đi của chúng ta, chẳng hạn như đối
với con cái của chúng ta…

Cuộc sống thường nhật với bao lo toan đã làm cho chúng ta quên đi
chính bản thân mình, sống chưa đúng với chính mình. Chính cái chết đã khơi
nguồn cho tầm quan trọng và tính bức xúc của tồn tại người, nó sẽ thức tỉnh
chúng ta nhận thức về chính mình, làm cho chúng ta phải kiên định về các
quyết định của mình, phải gác lại những mưu sinh của cuộc sống thường nhật
để trở về với con người, với cuộc sống đích thực của mình, trở về với tự do và

60
trách nhiệm của bản thân mình trước sự tồn tại của chính mình. Bởi lẽ, nếu
cuộc đời là vô hạn nhưng cuộc sống con người là hữu hạn, con người sẽ phải
tiến đến cái chết. Nhờ ý thức được điều này, con người sẽ bừng tỉnh và thoát ra
khỏi sự trói buộc của các giá trị đã được xếp đặt sẵn để sống theo đúng nghĩa là
“Người”, để làm cho chính cuộc đời của mình có giá trị và ý nghĩa hơn.

2.2.3. Cần phát huy những giá trị truyền thống thông qua nghi lễ
tang ma và khắc phục mê tín hủ tục.
2.2.3.1 Thực hiện nghi lễ tang ma góp phần phát huy giá trị đạo đức
truyền thống
Nghi lễ tang ma của người Việt là sinh hoạt văn hoá truyền thống mang
nhiều ý nghĩa nhân văn: Biểu hiện quan niệm đạo đức và tính nhân bản trong
văn hoá của người Việt như quý trọng sinh mạng con người; bày tỏ lòng
thương tiếc đối với người thân trong tình gia tộc huyết thống; thể hiện tính
cộng đồng trong làng trong xóm; phản ánh đời sống tâm linh: đó là mối quan
hệ giữa người sống và người chết với quan niệm sự sinh như sự tử.
Nghi lễ tang ma thể hiện lòng hiếu kính của người Việt: Trong gia đình,
người Việt rất chú trọng xây dựng gia đình, gia đình dòng họ là đơn vị cơ sở
của xã hội. Trong gia đình dòng họ, điều cốt lõi là con người phải có hiếu,
hiếu gắn với sự biểu hiện của nhân. Lấy chữ hiếu để cũng cố gia đình ổn định
xã hội.Với người Việt kính hiếu với cha mẹ, ông bà, tổ tiên được thể trong
từng nghi lễ thờ cúng tổ tiên đã có từ xa xưa. Với người đã khuất, người Việt
bày tỏ lòng hiếu kính sâu sắc. Thờ phụng tổ tiên là một trách nhiệm có tính
cách luân lý đối với người Việt, và nó thể hiện cho nhu cầu được phát lộ tình
cảm và niềm tin huyết thống trong môi trường gia đình. Các nghi lễ thờ cúng
không chỉ dừng lại ở việc đối xử như thế nào với người chết mà bên cạnh đó
còn nhắc nhở những người đang sống hãy sống có trách nhiệm, hướng thiện

61
hạn chế những điều vô luân bất hiếu, tự điều chỉnh hành vi của mình trong
mối quan hệ với cộng đồng, xã hội.

Giá trị văn hóa của người Việt vừa dung dị vừa sâu sắc và giàu tính thực
tiễn. Thể hiện một cách sâu sắc lòng hiếu thảo của con người Việt, lẽ sống
Việt: phụng dưỡng ông bà cha mẹ lúc còn sống, thờ phụng khi chết. Bên cạnh
đó giá trị văn hóa trong việc thực hiện nghi lễ tang ma còn là sự thể hiện ý
tưởng nhớ về cội nguồn.

Nghi lễ tang ma thể hiện ý thức nhớ về cội nguồn của người Việt: ý thức
tưởng nhớ biết ơn dược hình thành, tồn tại và phát triển thành đạo lý lẽ sống.
Đạo lý này thể hiện thông qua các nghi thức tang ma của người Việt. Việc
thực hiện nghi lễ tang ma được người Việt rất coi trọng, vì vậy các nghi lễ
tang ma được tiến hành thực hiện một cách nghiêm túc. Đó là sự thể hiện lòng
hiếu thảo sự biết ơn và ý thức tưởng nhớ về cội nguồn. Ý niệm thiêng liêng
hàng đầu trong các nghi lễ tang ma đó là nếp sống đạo đức uống nước nhớ
nguồn, tỏ lòng thành kính dâng lễ cúng tế vong hồn ông bà tổ tiên. Tất cả đều
thể hiện lòng biết ơn nhớ về cội nguồn của người Việt.

Nghi lễ tang ma còn là sự gắn kết các thành viên trong gia đình, dòng
họ, quê hương lại với nhau: “Ở lĩnh vực tang lễ này cũng thấy rõ tính cộng
đồng: nhà có tang, việc thì nhiều mà người lại không còn đủ tỉnh tảo minh
mẫn nữa, nên bà con xóm làng bao giờ cũng chạy tới giúp dập, lo toan chỉ bảo
mọi việc. Người Việt Nam có quan niệm Bán an hem xa, mua láng giềng gần
nên khi nhà có người mất, hàng xóm láng giềng không những giúp đỡ, mà
còn để tang nhau: Họ dương 3 tháng; Láng giềng 3 ngày; Chồng cô, vợ cậu
một ngày cũng không. Người nông nghiệp sống gắn bó không chỉ với xóm
làng mà còn cả với thiên nhiên, cho nên khi chủ chết, cây cối trong vườn
cũng đau buồn mà để tang: nhiều nơi có tục đeo băng trắng cho cả cây
cối.” [49, 298].

62
Nghi lễ tang ma của người Việt là một nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa
cộng đồng, góp phần hình thành nên một ý thức hệ văn hóa, tín ngưỡng
hướng về tổ tiên, về cộng đồng tạo nên sức mạnh “nội sinh” của người Việt.

Nghi lễ tang ma mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc: Từ cổ xưa người Việt
Nam đã cho rằng: Chết chưa phải là hết, thể xác tuy tiêu tán nhưng linh hồn
vẫn bất diệt và vẫn hằng lui tới gia đình, “sự tử như sự sinh, sự vong như sự
tồn” (nghĩa là sự chết như sự sống, sự mất như sự còn). Hằng tin như vậy,
cho nên việc cúng tế là cần thiết, việc thờ cúng tổ tiên là cần có. Vong hồn tổ
tiên, ông bà, cha mẹ luôn ngự ở trên bàn thờ để theo dõi và giúp đỡ con cháu
hằng ngày, mách bảo cho họ và phù hộ cho họ có một cuộc sống tốt đẹp,
thuận hòa… Như vậy, có thể thấy rằng thông qua nghi lễ tang ma của người
Việt đã có vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục con người, được thể hiện
ở đạo lý làm người, có thứ bậc giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ.
Đó là một nét đẹp của nền văn hóa gia đình, dòng họ, dân tộc. Mặt khác nó
đáp ứng được nhu cầu tâm linh của con người, từ đó củng cố thêm lòng hiếu
thảo vốn có của người Việt Nam, tạo nên một truyền thống tốt đẹp lưu truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Văn hóa phong tục Việt, trong đó có phong tục tang ma, là những giá trị
được hình thành từ lâu đời, trở thành thành tố quan trọng biểu hiện sắc thái
văn hóa dân tộc. Các nghi lễ tang ma của người Việt không phải là nhất thành
bất biến mà luôn biến đổi, thích nghi với điều kiện mới.

Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đặc biệt chú ý đến vấn đề
xây dựng, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Nhiều Nghị quyết,
Chỉ thị, Thông tư… đã được ban hành như Nghị quyết Trung ương 5 khóa
VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; Chương trình hành động triển khai phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa”; Quy chế thực hiện nếp sống văn minh trong

63
tiệc cưới, việc tang và việc lễ hội… Vì thế, nghiên cứu về phong tục tang ma
của người Việt hiện nay được coi là việc làm cần thiết, cung cấp nhiều thông
tin hữu ích giúp cho Đảng và Nhà nước ta đánh giá việc thực hiện Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII, góp phần đề ra nội dung xây dựng, bảo tồn và phát
triển văn hóa dân tộc, góp phần thúc đẩy sự nghiệp Đổi mới đất nước, làm
cho đời sống văn hóa của người Việt không ngừng được nâng lên, đáp ứng
yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế.

2.2.3.2 Thực hiện nghi lễ tang ma đảm bảo nếp sống văn minh, tiến bộ.
Căn cứ Quyết định số 308/2005/QĐ-TTg ngày 25/11/2005 của Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện nếp sống văn minh trong việc
cưới, việc tang và lễ hội;

Căn cứ thông tư số 04/2011/TT-BVHTTDL ngày 21/01/2011 của Bộ


Văn hoá, Thể thao và Du lịch quy định về thực hiện nếp sống văn minh trong
việc cưới, việc tang và lễ hội;

Thực hiện nếp sống văn minh trong việc tang được thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất trong việc tổ chức việc tang:

Tổ chức việc tang phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật; khi
gia đình có người chết phải báo cáo kịp thời cho chính quyền xã, phường, thị
trấn làm thủ tục khai tử.

Thứ hai là trách nhiệm tổ chức lễ tang:

Địa phương có người chết, phải thành lập Ban tang lễ để lo việc tang
đúng với quy định của Nhà nước; Ban tang lễ gồm: Đại diện Chính quyền địa
phương; Trưởng thôn, bản, tổ dân phố, hội người cao tuổi, các tổ chức đoàn
thể quần chúng và đại diện gia đình tang chủ.

64
Ban tang lễ có nhiệm vụ: Cùng gia đình người chết lo tổ chức tang lễ, cử
hành các nghi thức, hỗ trợ giải quyết các chế độ (nếu có), vận động gia đình
tổ chức việc tang tiết kiệm, bỏ các hủ tục lạc hậu, hành vi mê tín dị đoan.

Nếu người qua đời không có gia đình hoặc thân nhân đứng ra tổ chức lễ
tang thì Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn phối hợp với các đoàn thể quần
chúng chịu trách nhiệm tổ chức khâm liệm và mai táng chu đáo theo đúng
phong tục truyền thống.

Thứ ba là những quy định tổ chức lễ tang:

Thời gian khâm niệm người chết được tiến hành trong khoảng thời gian
từ 04 đến 06 giờ sau khi người chết đó tắt thở.

Thời gian quàn người chết tại nhà không để quá 24 giờ đối với vùng thấp
và 48 giờ đối với vùng cao; trường hợp người mắc các bệnh truyền nhiễm
phải được chôn cất trong thời gian không quá 12 giờ.

Không khuyếch đại nhạc tang qua tăng âm ảnh hưởng đến sinh hoạt
của thôn, buôn, tổ dân phố. Không cử nhạc tang trước 06 giờ sáng và sau
22 giờ đêm.

Việc tổ chức ăn uống trong lễ tang chỉ thực hiện trong nội bộ gia đình,
dòng họ và phải đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm.

Đồ lễ trong lễ tang tuỳ theo tình cảm và quan hệ của người viếng với gia
đình tang chủ, viếng người chết chỉ nên thắp một thẻ hương và chia buồn
cùng tang chủ. Hạn chế viếng bằng vòng hoa, các bức trướng để tránh lãng
phí và đảm bảo vệ sinh môi trường.

Vận động nhân dân xoá bỏ mọi nghi lễ mất vệ sinh ở các đám tang vùng
các dân tộc miền núi, như phúng viếng bằng thức ăn hoặc ăn uống xung
quanh nơi quàn xác người chết; bỏ hủ tục người chết ở trong nhà quá 48 tiếng
để thực hiện các nghi lễ lạc hậu.

65
Vận động nhân dân xoá bỏ các tục như lăn đường, chống gậy, chia của
cho người chết, tục gọi hồn, yểm bùa, rắc vàng mã, tiền âm phủ, tiền giấy trên
đường khi đưa tang và các hình thức mê tín dị đoan khác.

Các nghi thức cúng 3 ngày, 7 ngày, 49 ngày, 100 ngày, giỗ đầu, giỗ mãn
tang, chỉ thực hiện trong ngày và trong nội bộ gia đình, dòng họ.

2.2.3.3 Khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong nghi lễ tang ma
của ngƣời Việt ngày nay

Hiện nay, việc lo hậu sự cho người chết có xu hướng phục hồi nhiều hủ
tục khá tốn kém trong ăn uống, kèn trống, cúng tế, bày đặt thêm nhiều yếu tố
mê tín như yểm bùa, đốt vàng mã, rải tiền thật trên đường đưa tang, xuất hiện
nạn chiếm đất nghĩa trang của làng xã xây lăng mộ đồ sộ, tùy tiện. Nghề “ăn
theo” – “xây nhà cho người chết”, “công viên vĩnh hằng” – trở thành một
nghề giúp nhiều người giàu lên nhanh chóng vì phong trào mua đất để cải
táng ở những vùng được coi là “long huyệt” làm xôn xao du luận thời gian
qua, thậm chí diện tích đất nghĩa trang trên cả nước không ngừng tăng lên, lấn
sang cả diện tích đất canh tác.

Năm 1998, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị 27 –CT/TW (ngày
12/01/1998) về việc thực hiện nếp sống văn minh tỏng việc cưới, việc tang và
lễ hội. Tiếp theo sau Chỉ thị 27 –CT/TW là Chỉ thị 14/1998/CT-TTg (ngày
28/03/1998) của Thủ tướng Chính phủ và một loạt quy chế, quy định, quy
ước, hương ước của các cấp, các ngành, các địa phương, rồi nhiều cuộc hội
nghị, hội thảo của các đơn vị, các ngành được tổ chức để tìm giải pháp cho
“cuộc chiến” chống lại các hủ tục. Song, cho đến nay cuộc chiến đó dường
như không thu được kết quả, thậm chí nhiều hủ tục vẫn tồn tại và len lỏi vào
trong cuộc sống, sẵn sàng bùng lên thành “phong trào”.

66
Trước hết, với người Việt việc lo hậu sự cho người chết được gọi là
“việc hiếu”, vì đó là công việc cuối cùng lo cho cha mẹ thể hiện sự trọn vẹn
đạo hiếu của người con. “Hiếu đạo” ở đây được hiểu như một con đường để
người Việt hình thành nhân cách và thành thánh hiền, nên chữ “đạo” không
hiểu như một tôn giáo. Do vậy, khi cha mẹ chết, không phải cứ mồ to mả đẹp,
mâm cao cỗ đầy mới thể hiện đạo hiếu, mới được “người âm” phù hộ, bằng
không sẽ bị quở phạt dẫn đến làm ăn thất bát, tật bệnh. Người đối xử với cha
mẹ khi còn sống không ra gì, khi chết bày đặt mâm cao cỗ đầy, xây cất mồ mả
chỉ vì lo cho vận mệnh, số phận tương lai của chính mình và để che mắt thế
gian, thì đó không phải là hiếu, mà là bất hiếu, bất nhân.

Triết thuyết các tôn giáo cũng đề cập nhiều đến nghi thức tang ma, coi
đó là chuẩn mực của lòng hiếu đễ. Bởi vì, hiếu đạo chính là nền tảng của các
giá trị nhân văn khác và khuyên răn thực thi đạo hiếu. Theo lý thuyết các tôn
giáo, tình yêu đối với tha nhân, đặc biệt lòng hiếu thảo đối với cha mẹ mình
khi còn sống chính là thước đo của tình yêu đối với Thiên chúa, với Trời,
Phật, thánh thần. Vì vậy, bất hiếu với cha mẹ mình khi còn sống thì “thờ
cúng”, “tâm linh” là vô ích.

Nói như Phan Kế Bính, sự báo hiếu cho cha mẹ, ai không muốn hết lòng,
hết sức. “Nhưng cứ như tục ta thì phiền văn quá thể, ăn uống lôi thôi, làm cho
nhiều người khổ sở vì tục. Vả lại nhiều người khi cha mẹ còn thì bạc chẳng ra
gì, đến lúc mất lại cúng tế linh đình, kẻ có đã vậy, kẻ không cũng cố đi vay
mượn cầm nhà bán ruộng để trả nợ miệng và lấy thể diện với đời, thực là một
sự vô ích quá” [3, 42].

Một điều nữa là những nhà hoặc vì cớ tìm đất, hoặc vì cớ lo liệu công kia
việc nọ mà quàn ma trong nhà đến hàng tháng, thì chẳng những là phiền phí
hại của, mà có khi tử khí truyền nhiễm lại hại đến cách vệ sinh nữa.

67
Thứ hai, theo tập quán người Việt (chủ yếu ở vùng đồng bằng Bắc Bộ),
người chết thường được địa táng (còn gọi là hung táng), sau ba đến năm năm,
gia đình sẽ thực hiện lễ bốc mộ (còn gọi là cải táng/cải cát/sang mộ) cho
người chết. Phong tục tồn tại lâu đời đến nay vẫn được duy trì. Nhiều năm
trước đây, Nhà nước đã vận động người dân thực hiện hỏa táng (điện táng)
người chết để đảm bảo vệ sinh môi trường, tiết kiệm quỹ đất. Nhưng số gia
đình tham gia hỏa táng vẫn rất hạn chế. Đa phần người dân vẫn thực hiện địa
táng rồi cải táng, vì tin rằng hỏa táng là mất cốt, vong linh bị phiêu bạt, con
cháu vì đó mà làm ăn thất bát, lụn bại, bởi hài cốt có ấm cúng, yên lành thì
con cháu mới có hy vọng làm ăn phát đạt. Nhiều gia đình gặp chuyện không
may mắn thường nghĩ ngay đến việc động mồ, động mả. Ngược lại, nhiều
người thành công trong cuộc đời và sự nghiệp thì cho đó là nhờ mồ mả, âm
phần nhà họ tốt. Như vậy, mọi công việc cuối cùng lo cho người chết từ chỗ
mang ý nghĩa trọn vẹn đạo hiếu, thành kính với người chết trở thành vấn đề
liên quan đến vận mệnh may rủi và số phận tương lai của người sống. Chính
vì vậy, mấy năm trở lại đây, nảy sinh việc tìm đất xây lăng mộ đồ sộ, hoành
tráng, đơm đặt nhiều yếu tố mê tín, gây hoang mang, lo lắng cho người sống:
“Có tục cải táng bởi ta tin cái lý tưởng tổ tiên với cháu, huyết mạch tương
quan với nhau. Hễ hài cốt tổ tiên có ấm cúng thì con cháu mới mát mặt, hài
cốt không yên thì con cháu cũng không yên, cho nên mới có tục ấy. Nhiều
người tin thầy địa lý quá, mời thầy địa lý phụng dưỡng hai ba tháng trong nhà
để đi tìm đất. Có nhà động thấy trong nhà không yên thì lại cải táng, có khi
cải táng đến năm sáu lần” [3, 47].

“Thiết tưởng hài cốt tiền nhân, nếu có lòng kính trọng thương xót, thì
chớ nên di đi dịch lại nhiều lần. Trừ ra những khi vạn bất đắc dĩ thì phải cải đi
mà thôi, chớ không nên vì công danh phú quý là việc hy vọng chưa trông thấy
mà làm đến việc thương tâm thảm mục. Vả lại sự khai mả cũng có khi quan

68
hệ đến việc vệ sinh thì lại là việc không nên lắm. Còn như gia đình hay dở là
do người sống một khôn một dại khác nhau, chứ có phải tại đất đâu. Nếu có
tại đất cũng không dễ mà tìm được, chẳng qua nhà nào có phúc hậu thì tự
nhiên gặp hay, nhà nào bạc ác thì có khi gặp dở, cần gì phải uổng công mệt
sức mà đi cầu cái việc vu vơ làm gì”. [3, 47-48].

Xưa kia, tục lệ cải táng cho người chết có nhà theo, có nhà không theo.
Nhiều gia đình vì có điều kiện sắm sửa áo quan bằng gỗ tốt, nên không cải
táng. Đặc biệt là tầng lớp vua chúa, quan lại giàu có và những người có thế
lực trong xã hội. Thậm chí, vua chúa, quan lại xưa kia còn giữ bí mật nơi
chôn cất của mình, tránh những kẻ tò mò, hám của khai phá mồ mả. Như vậy,
tục cải táng xưa không phải là một nghi thức bắt buộc và càng không có ý
nghĩa quyết định hay chi phối người sống.

Thứ ba, hiện nay việc tìm chọn long huyệt (long mạch); phong thủy
(hướng đất, hướng mộ), việc xây cất mồ mả đồ sộ, việc đốt vàng mã một cách
thái quá đều là mê tín.

Người xưa đã quan sát, chiêm nghiệm và hệ thống hóa một số quan
niệm, kiến thức và thực hành nó trên các lĩnh vực như y thuật, phong thủy, tử
vi… Tuy nhiên, do hạn chế hiểu biết về con người và thế giới, nên trong các
hệ thống đó vẫn chứa đựng nhiều quan niệm mâu thuẫn, sai lầm. Do vây, con
người ngày nay gìn giữ và ứng dụng những kinh nghiệm quý báu của cổ nhân
vào cuộc sống cần loại bỏ các yếu tố sai lầm, những quan niệm mê tín. Thờ
cúng tổ tiên và cầu xin “người âm” phù hộ tại gia đình hay các cơ sở thờ tự
truyền thống có thể được xem là một nét đẹp văn hóa của người Việt đáng
được trân trọng và gìn giữ. Nhưng nếu con người ngày nay viện vào đó để
đơm đặt chuyện người âm có thể phù hộ cho con cháu thoát nạn tù tội, tai
ương, họa khổ, hoặc ngược lại, nếu bị người âm thù oán, sân hận thì có thể bị

69
đau ốm, bệnh tật… dẫn đến đua nhau lễ bái, cúng tế, đốt vàng mã, xây cất mồ
mả, tìm kiếm long huyệt… là bày đặt mê tín.

Như vậy, chính chúng ta chứ không phải thánh thần, ma quỷ, hay “người
âm” quyết định số phận, đời sống của chúng ta. Mong cầu cuộc sống bình an,
tránh buồn phiền là ước vọng chính đáng của con người. Nhưng khi cầu mà
không được, khi gặp rủi ro, tai ương, hoạn nạn, thái độ con người thường mò
mẫm, suy đoán chủ quan, dễ đi đến mê lầm. Trong lễ tang, người sống đang
rất đau buồn vì mất người thân, về tâm lý, chẳng ai muốn bày đặt thêm nhiều
hủ tục tốn kém. Song, do quá lo lắng việc hậu sự cho người chết liên quan đến
vận mệnh tương lai của mình, của con cháu mình, lại vì nghe theo “thầy”, vì
lệ làng, vì “nợ miêng”, vì “con gà tức nhau tiếng gáy”, họ buộc phải thực hiện
những nghi lễ rườm rà theo tục lệ, những nghi lễ có tính chất ma thuật, mê tín,
nhằm đảm bảo cho mình được nhiều ảnh hưởng tốt, tránh và ngăn ngừa
những ảnh hưởng xấu.
Những năm gần đây, nhất là từ khi đổi mới, việc thờ cúng Tổ tiên trong
đó có phong tục tang ma được nhiều người chú trọng. Đó là nét nghĩa của
người Việt Nam, nó khơi gợi cho thế hệ sau đạo lý “uống nước nhớ nguồn”,
sống phải có tình nghĩa trước sau. Song việc thờ cúng tổ tiên ở nhiều nơi,
nhiều gia đình, họ tộc có biểu hiện hơi thái quá. Hiện tượng xây mồ mả to,
làm cỗ bàn linh đình, phô trương về tài sản, danh vọng, địa vị, cơ hội, trục
lợi,… đã gây ra không ít lãng phí, phiền toái, tổn hại đến đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân thân, làm biến dạng nhiều giá trị nhân văn sâu sắc, chân
chính của hình thức tín ngưỡng này. Vì vậy, cần có sự định hướng bằng dư
luận, bằng hương ước mới của làng xã làm cho cái tinh túy ngàn xưa để lại
càng tinh túy hơn trong thời đại mới. Đó là việc làm của cả cộng đồng, xã hội.

70
Để đẩy lùi những hủ tục trong tang lễ và xóa đi sự lo âu cho người sống,
chúng ta cần phải khai mở trí tuệ, giúp người dân nhận thức đúng bản chất
của vấn đề rằng tang lễ là những nghi thức mang ý nghĩa trọn vẹn đạo hiếu,
kính trọng cha mẹ, không nên câu nệ quá vào hình thức, bày đặt nhiều thủ tục
rườm rà, tốn kém và tin vào sự may rủi, số phận tương lai của người sống là
phụ thuộc vào âm phần, mồ mả. Đồng thời, Nhà nước phải quy định rõ ràng
về các nghi lễ tang ma, về việc xây dựng mồ mả, quy hoạch nghĩa trang và
kiên quyết xử lý nghiêm những sai phạm để nghi lễ tang ma đi vào nề nếp, lâu
dần thành quen, người dân sẽ thực hiện theo. Ở Việt Nam hiện nay, người
chết nên được hỏa táng, tro cốt có thể để thờ tại nghĩa trang hay chùa làng là
phù hợp với điều kiện về kinh tế, đất đai, dân số và vệ sinh môi trường. Hỏa
táng sẽ giảm bớt và giải quyết được nhiều vấn đề liên quan đến người chết
như xây dựng mộ, bảo quản mộ, cải táng… và quỹ đất cho người sống: “Xét
như tục tang ma Âu châu, người mất hoặc để tại nhà hoặc đem đến nhà thờ
làm lễ. Hiếu chủ chỉ đưa cái thư báo tang cho người thân tình hoặc người
quen thuộc nói rõ ngày giờ nào cất ma. Bà con quen thuộc cứ đúng ngày giờ
mà đưa ma, người nào có thân tình thì phúng một vòng hoa hoặc bằng sành,
bằng hạt bột, hoặc vòng hoa thực. Trong khi đưa ma ai nấy im phăng phắc
như tờ. Đưa đến huyệt thì người thân thích đọc một bài điếu tang, rồi đâu về
đấy, hiếu chủ chỉ đón cửa tạ ơn người đi đưa chứ không có lệ mời mọc ăn
uống lôi thôi gì cả. Về sau cứ ngày lễ thì đem bó hoa đến thăm mả, Tục ấy
thanh giản mà tỏ lòng hiếu kính biết là dường nào [3, 44].

“Tục Nhật Bản cũng dùng một cách thanh đạm mà tống táng. Nhưng ai
muốn lấy danh giá với đời thì bỏ ra một món tiền, hoặc giăm ba chục, một vài
trăm, hoặc một vài ngàn gửi vào nhà ngân hàng hoặc thương hội nào để giúp
vào một việc gì công ích cho xã hội rồi đăng báo cho ai nấy biết rằng người

71
ấy có xuất tiền làm để làm kỷ niệm cho người chết, thế là danh giá, thế là để
cho cha mẹ được vẻ vang” [3, 44]
Tuy vậy, “mỗi nước có một tục riêng mà tục nước ta thì quen theo đã
lâu, chưa có thể bỏ tục mình mà theo ngay tục khác được. Nhưng tưởng nên
nghĩ cách nào cho tiện mà giảm bớt phiền văn, bỏ bớt sự ăn uống, thì người
giàu có đỡ tốn của, để đồng tiền mà dùng vào việc công ích, người nghèo khỏi
vay công lĩnh nợ, không đến nỗi hết cơ nghiệp về làm ma” [3, 45].
Việc thay đổi tập tục là rất khó khăn nên các hủ tục vẫn tồn tại dai dẳng,
lan rộng và ảnh hưởng xấu đến đời sống dân sinh, xã hội. Hiện nay, tang lễ
của người Việt phát sinh nhiều hủ tục, quá nặng nề yếu tố tâm linh, gây hoang
mang, lo lắng cho người sống. Thế nhưng, các cơ quan có thẩm quyền chưa
có biện pháp mạnh để loại bỏ các hủ tục, nên các hủ tục càng có đà lan rộng
vì nó chưa gặp trở ngại nào từ phái pháp luật.
Cuộc sống không chỉ có khoa học và lí trí, mà còn cần cả tình cảm và
tâm linh, nhưng không vì thế mà để tâm linh ảnh hưởng và chi phối đến cuộc
sống nhân sinh.Cùng với sự thể hiện đạo hiếu với Tổ tiên, nghi lễ tang ma còn
là sợi dây liên kết giữa những con người trong cuộc sống hiện tại. “Anh em
như thể chân tay”, bà con làng xóm “tắt lửa tối đèn có nhau”, tình nghĩa xóm
làng tương thân, tương ái, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Từ đó, lòng nhân ái,
tính cộng đồng được xây dựng, củng cố, cũng là những giá trị đạo đức đáng
trọng, không thể thiếu trong đời sống xã hội của mỗi con người.Chữ hiếu
trong tín ngưỡng thờ cúng không chỉ dừng lại ở ý thức, giáo dục đạo đức mà
dần dần trở thành nghi thức, tập tục khuôn mẫu thường xuyên nhắc nhở con
cháu có trách nhiệm với quá khứ, hiện tại và tương lai, với anh em, họ tộc,
chòm xóm và xã hội.
Đạo lý hướng về cội nguồn riêng, về những người có công sinh thành,
tạo dựng cuộc sống đối với con người Việt Nam thì đồng thời cũng là đạo lý

72
hướng về cội nguồn chung của cả dân tộc. Lòng yêu nước, tự hào dân tộc là
giá trị đạo đức quý báu, xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc và có ý nghĩa
định hướng cho lẽ sống của con người Việt Nam. Đối với các chiến sĩ hi sinh
trong cuộc kháng chiến, các địa phương đều có nghĩa trang liệt sĩ để ghi công,
tưởng nhớ. Ngoài phần bia mộ của các liệt sĩ còn có các bia tưởng niệm các
anh hung liệt sĩ vô danh là ví dụ điển hình của phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”
trong cả nước.

Như vậy, nghi lễ tang ma của người Việt trong quá trình hình thành, tồn
tại và phát triển đã góp phần tạo lập nhiều chân giá trị quý báu. Bên cạnh đó,
nó còn khơi dậy đạo lý làm người, ngăn chặn suy thoái đạo đức, lối sống, gìn
giữ thang giá trị, đạo đức truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, hướng về cái
thiện… Đó là những giá trị hết sức quý báu mà chúng ta cần nghiên cứu, khai
thác để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Bản thân mỗi giá trị
không phải nhất thành bất biến mà nó luôn biến đổi cùng tiến trình lịch sử.
Các giá trị ngày hôm qua là cội nguồn, mạch sống cho các giá trị của ngày
hôm nay. Có như vậy thì những giá trị đạo đức truyền thống, trong đó có
những giá trị đạo đức trong nghi lễ tang ma mới có ý nghĩa tích cực trong việc
giữ gìn và xây dựng “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” mà
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang phấn đấu thiết lập.

Để làm được điều đó, thiết nghĩ cần phải có sự định hướng từ chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của
các ngành, các cấp, các tổ chức chính trị xã hội , các làng xã, họ tộc, từng gia
đình và từng con người trong nhận thức và hành động để ngày càng phát huy
được những giá trị tích cực, khắc phục được những hạn chế trong nghi thức
tang ma và qua đó xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.

Như vậy, định hướng giá trị văn hóa về thế ứng xử cho con người Việt
Nam hiện nay với vấn đề cái chết là mỗi người cần có thái độ và hành vi ứng

73
xử đúng đắn với cái chết. Trước hết, cái chết là một sự kiện, một giai đoạn tất
yếu sẽ xảy ra trong chu trình phát triển của đời người, ai ai cũng sẽ phải trải
qua. Hiểu được điều đó con người sẽ bớt sợ hãi và bi lụy khi đối mặt với nó.
Nên thay vì né tránh, chúng ta hãy nên tìm hiểu để có cái nhìn đầy đủ nhất về
cái chết. Thứ hai, thái độ tốt nhất để đối diện với cái chết là mỗi người phải
nỗ lực, sống hết mình với cuộc sống của chính mình, biết đối mặt với thách
thức và vượt qua khó khăn để làm nên cuộc đời có ý nghĩa và giá trị. Thứ ba,
khi thực hiện nghi lễ tang ma vừa phát huy được đạo lý truyền thống vừa tuân
thủ các quy định của Nhà nước về tang ma để đảm bảo nếp sống văn minh
tiến bộ. Đồng thời, thông qua việc chỉ ra những hủ tục trong tang lễ để xóa đi
sự lo âu cho người sống, giúp người dân nhận thức đúng bản chất của vấn đề,
rằng tang lễ là những nghi thức mang ý nghĩa trọn đạo hiếu, kính trọng cha
mẹ, không nên bày đặt nhiều thủ tục rườm rà tốn kém và tin vào sự may rủi số
phận phụ thuộc vào mồ mả.

2.3. Những vấn đề còn đặt ra khi nghiên cứu về cái chết hiện nay
2.3.1. Quan niệm của khoa học hiện đại về cái chết
Một trong những vấn đề quan trọng và thiết yếu đối với ngành Đạo Đức
Sinh Học hiện nay là định nghĩa về cái chết của con người và thế nào được
coi là chết thực sự. Đâu là những tiêu chuẩn mà dựa vào đó, các chuyên gia
và bác sĩ có thể tuyên bố là bệnh nhân đã qua đời.

Trong y khoa, từ “brain death” được sử dụng nhằm mô tả tình trạng mà


bộ não đã hoàn toàn bị tiêu huỷ, dẫn đến sự ngừng hoạt động của các cơ phận
khác nơi cơ thể trong khoảng khắc mau chóng và không thể tránh khỏi. Khái
niệm về sự chết của bộ não rất quan trọng đối với các chuyên gia ngành y, vì
ngày nay với những phương tiện và kỹ thuật tân tiến của y học, các bác sĩ có
thể kéo dài giai đoạn hấp hối hoặc đời sống thực vật của một con người nào

74
đó, bằng các máy hô hấp nhân tạo, mặc dù, não bộ của họ đã bị phá huỷ và
ngừng hoạt động. Trong quá khứ, sự ngừng đập của nhịp tim và sự hô hấp tự
nhiên, ắt nhiên, dẫn đến cái chết của bộ não, và tương tự như thế, khi bộ não
đã chết hoặc bị tàn phá, đương nhiên dẫn đến tim sẽ ngừng đập và máu sẽ
không còn lưu thông trong cơ thể. Trong bối cảnh như vậy, rất chí lý để có thể
nói rằng: sự ngừng đập của trái tim và ngưng điều hòa hô hấp được xem như
là tiêu chuẩn chính đáng để tuyên bố là người này đã chết. Tuy nhiên, gần đây
nhờ vào những phát minh mới và các kỹ thuật tiên tiến của ngành y, các bác sĩ
có thể giúp cho não bộ hoạt động, trong khi tim và hệ thống hô hấp không còn
làm việc nữa, vì lý do đó muốn tuyên bố rằng người này đã chết, ta không thể
chỉ dựa vào yếu tố là tim ngừng đập và phổi ngừng hô hấp. Thêm vào đó, hiện
nay cho dù bộ não đã bị hủy diệt, các bác sĩ vẫn có thể tiếp tục duy trì nhịp
đập của trái tim và sự hô hấp bằng các máy móc nhân tạo. Vì vậy, xác định
thời điểm chính xác khi sự chết xảy đến là mối bận tâm lớn của các chuyên
gia ngành y, vì nó là công việc cam go kèm theo nhiều hệ qủa.

Vào năm 1968, uỷ ban đặc nhiệm của Đại học y khoa Harvard đã đưa
một số hướng dẫn cụ thể, được coi là những tiêu chuẩn khả quan, nhằm thẩm
định trường hợp não bộ đã chết, không còn hoạt động nữa, cụ thể là trường
hợp của các bệnh nhân bị hôn mê vĩnh viễn, không có khả năng phục hồi. Các
tiêu chuẩn này đòi hỏi, hệ thống thần kinh phải được thử nghiệm, hầu cho
thấy nó không còn khả năng tiếp nhận, hay có sự phản xạ khi được kích thích,
hoàn toàn không có một phản ứng gì khi bị gây đau. Cơ thể không còn có
những cử động tự nhiên, hơi thở đã biến mất, con ngươi của mắt bất động,
không di chuyển và không có phản ứng gì với ánh sáng. Nếu hội đủ các
chứng cớ như thế, thì bác sĩ có thể quyết đoán là não bộ đã hoàn toàn bị huỷ
diệt hoặc đã chết.

75
Nghiên cứu gần đây của các nhà khoa học đã cho thấy, những người
đang sống mà không thực hiện được chức năng của não bộ (hay còn gọi là
sống thực vật) thì là đã chết, còn những người khi tim và hệ hô hấp ngừng
hoạt động trong khi não bộ vẫn có thể hồi phục thì chưa phải đã chết.

Mặc dù được sử dụng thường xuyên, song thuật ngữ "chết lâm
sàng" không thực sự có một ý nghĩa nhất quán, tiến sĩ James Bernat, một nhà
thần kinh học tại Đại học Y Dartmouth Geisel ở New Hampshire cho biết.
Trước đây, trong hầu hết các bệnh viện, các bác sĩ phụ trách chăm sóc bệnh
nhân kiểm định cái chết và thường không có những chỉ dẫn bao quát khi
tuyên bố về sự sống chết. “Bạn sẽ chết khi một bác sĩ nói rằng bạn chết”, tiến
sĩ Bernat nói trên chuyên trang khoa học Livescience ngày 19/6.

2.3.2. Bàn về quyền đƣợc chết và vấn đề an tử ở Việt Nam


Chúng ta đang sống trong một thế giới bất ốn với chiến tranh, dịch bệnh
và đói nghèo. Ranh giới giữa sự sống và cái chết đôi khi chỉ trong gang tấc.
Chúng ta đã quen với khái niệm quyền được sống, còn quyền được chết, đây
vẫn là vấn đề còn khá mới mẻ, để mở và còn nhiều quan niệm khác nhau. Nó
không chỉ là vấn đề của y học mà còn là vấn đề có ý nghĩa về chính trị, văn
hóa, xã hội,... Chúng tôi đưa ra vấn đề này để bàn luận trong luận văn của
mình với mong muốn khái niệm quyền được chết sẽ không còn xa lạ với mọi
người, để mọi người hiểu rõ được bản chất của “cái chết êm ả”.

Quyền được chết ban đầu xuất hiện với những hành vi chưa hoàn toàn
mang đúng bản chất của nó mà gắn liền với khái niệm: “cái chết êm ả”. Lịch
sử của thuật ngữ euthanasia (Tiếng Anh) hay euthanasie (Tiếng Pháp), an tử
(Tiếng Trung) mà chúng ta vẫn thường gọi là “cái chết êm ả” bắt nguồn từ
một từ Hy Lạp là “euthanatos”. Trong đó, eu là tốt, thanatos là chết. Danh từ
này bắt đầu xuất hiện vào thế kỷ XVII, nhằm khuyến khích các bác sỹ quan

76
tâm đến sự đau đớn của người bệnh và giúp đỡ người “gần đất xa trời” thoát
khỏi thế giới này một cách nhẹ nhàng và dễ dàng hơn. Như vậy, lúc đó chưa
xuất hiện khái niệm quyền được chết như khoa học hiện đại nhưng đã có
những hành vi trong quyền được chết. Tới cuối thế kỷ XIX, khi con người đã
tìm ra cách khống chế sự đau đớn, thuật ngữ này không còn bó hẹp với ý
nghĩa giúp bệnh nhân thoát khỏi đau đớn nữa, mà nó lại ám chỉ một hành
động đặc biệt nhằm tạo ra cái chết của những bệnh nhân được coi là “vô
phương cứu chữa”. Động thái này nhằm giúp bệnh nhân khỏi rơi vào tình
trạng suy sụp khi ở vào giai đoạn cuối của những căn bệnh nan y. Từ khi xuất
hiện đến nay, “cái chết êm ả” đã có những thay đổi khác nhau gắn liền với
những phát triển của nền y khoa và văn minh nhân loại. Và dần dần, khái
niệm quyền được chết được ra đời, mang theo nhiều vấn đề liên quan với
nhau một cách phức tạp.

Trên lý thuyết, quyền của cá nhân về một lĩnh vực nào đó chỉ được công
nhận và bảo đảm khi nó được pháp luật quy định một cách chính thức (hợp
pháp hóa). Quyền được chết là một quyền thực tế nhưng hiện tại, chỉ có ở một
số nước hợp pháp hóa quyền này. Ở một số nước, theo quan điểm của các nhà
lập pháp và của các nhà khoa học, quyền được chết được hiểu thuộc phạm trù
quyền nhân thân. Hà Lan là quốc gia đầu tiên công nhận hành vi tự tử dưới sự
trợ giúp của bác sỹ, sau đó gần 10 năm mới hợp pháp hóa thành Luật An tử.
Nước này không dùng khái niệm an tử tự nguyện (voluntary euthanasia) mà
chỉ dùng khái niệm an tử (euthanasia) bởi theo họ, cái chết êm ả là đã phải
bao hàm sự tự nguyện, nếu không có sự tự nguyện thì không thể gọi là an tử.
Sự tự nguyện ở đây cần hiểu theo hai hướng: Tự nguyện được thực hiện cái
chết êm ả khi còn tỉnh táo, có thể biếu lộ ý chí cá nhân của mình; Tự nguyện
chỉ định người đại diện cho mình trong trường hợp lúc rơi vào giai đoạn
không ý thức, không biểu lộ được ý chí. Người này sẽ có quyền quyết định

77
mọi vấn đề liên quan đến việc chữa bệnh của bệnh nhân. Hiện nay chưa có
định nghĩa cụ thể về quyền được chết. Giới khoa học hầu như chỉ tập trung
vào việc xem xét xem nó có phù hợp với quốc gia mình hay không mà thôi.

Việt Nam - một quốc gia Châu Á với những phong tục, tập quán, tôn
giáo phương Đông tồn tại tự ngàn đời vì vậy quyền được chết còn rất xa lạ.
Bốn bản Hiến pháp của việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992) đều không quy
định cá nhân có quyền được chết. Bộ Luật Dân sự Việt Nam các năm 1995 và
2005 cũng không quy định quyền được chết là quyền nhân thân của cá nhân.
Trong quá trình xây dựng Bộ luật Dân sự 2005 đã có lúc vấn đề này được đưa
vào dự thảo, được các Đại biểu Quốc hội bàn luận rất sôi nổi. Phần lớn ý kiến
cho rằng đây là một việc làm nhân đạo nhưng lại là một vấn đề nhạy cảm,
không phù hợp với đạo lý người Á Đông hiện nay. Thêm nữa, số lượng bệnh
nhân giai đoạn cuối, mắc bệnh vô phương cứu chữa còn ít so với thế giới. Do
đó, quyền được chết bị đưa ra khỏi dự thảo Bộ luật Dân sự. Qua đây, chúng ta
có thể thấy, các nhà lập pháp Việt Nam đã quan tâm đến những vấn đề mới,
đang tồn tại của xã hội (mà ở đây là một bộ phận không nhỏ giới bác sỹ Việt
Nam); đồng thời đã hiểu được bản chất quyền được chết và xác định nó là
quyền nhân thân. Tuy nhiên, về mặt pháp lý, quyền được chết chỉ được coi là
quyền nhân thân khi được quy định trong Bộ Luật Dân sự và tất nhiên sau đó
phải được cụ thế hóa thành luật riêng bởi Luật dân sự chỉ là Luật khung. Quan
điếm chung hiện nay ở Việt Nam là: việc hợp pháp hóa quyền được chết là
vấn đề quá sớm.

Thực tế, tuy Việt Nam không ban hành cụ thể văn bản nào công nhận
quyền được chết là quyền nhân thân nhưng quyền này đã được đưa vào dự
thảo sửa đổi Bộ Luật dân sự 2005. Tuy nhiên, cuối cùng quyền này đã không
được thông qua. Ngoài những lý do đã nêu ở trên, có thể rút ra những lý do
mang tính đặc trưng riêng của Việt Nam như sau:

78
Một là, việc chấp thuận quyền được chết và ban hành Luật An tử sẽ đi
ngược lại quan niệm truyền thống Phương Đông là coi trọng sự sống. Ở
phương Tây, nơi mà truyền thống, đạo lý không quá nặng nề như các nước
phương Đông thì quyền được chết nhận được nhiều sự ủng hộ hơn. Ớ các
nước phương Đông thì ngược lại, thực tế cho thấy số lượng người xin được
chết chiếm số lượng còn ít so với các nước phương Tây. Đa phần vì truyền
thống, phong tục mà không chấp nhận nó cho dù nó là một quyền nhân thân.
Việc chấp thuận cần có thời gian và phụ thuộc vào những điều kiện thực tế
của xã hội. Quyền được chết còn phải phụ thuộc tình cảm, đạo lý của mỗi
người, mỗi gia đình. Có thế hiểu quyền được chết là quyền tự do của cá nhân.
Nhưng vấn đề là người chết có đủ khả năng chịu trách nhiệm về hành vi của
mình hay không? Bản thân vấn đề tự do chết còn rất nhiều mâu thuẫn. Thế
nào là tự do chết? Khái niệm tự do chết là một khái niệm nằm giữa các mối
quan hệ xã hội phức tạp, còn mập mờ giữa pháp luật, tình cảm, tôn giáo....
Việc thay đổi quan niệm truyền thống, nhất là khi liên quan đến sự sống và
cái chết thì không phải một sớm một chiều mà cần có thời gian. Tình hình
kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam cũng chưa phù hợp với quyền được
chết. Do đó, quyền được chết là vấn đề nhạy cảm. Vào thời điểm hiện tại chưa
phù hợp với đạo lý người Á Đông cho dù nó là bức xúc của một bộ phận
không nhỏ giới bác sỹ.

Hai là, hệ thống pháp luật của Việt Nam còn không đồng bộ và chồng
chéo, kỹ thuật lập pháp của Việt Nam còn thấp. Một trong những yêu cầu để
ban hành Luật An tử là hệ thống pháp luật của nước đó phải nghiêm minh,
chặt chẽ và đồng bộ; người dân có ý thức tuân thủ pháp luật cao. Có như vậy
mới tạo điều kiện cho Luật An tử tránh bị lạm dụng và gây nguy hiểm cho xã
hội. Đây là một lý do khách quan quan trọng để không nên quy định quyền
được chết ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

79
Ba là, điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam còn nhiều khó khăn, kéo
theo chất lượng chăm sóc, khám, chữa bệnh của các cơ quan y tế còn thấp.
Chúng ta chưa thực sự quan tâm đến việc phát triến y tế cộng đồng. Trong khi
đó, Hà Lan ban hành được Luật An tử một phần vì có nền kinh tế phát triển
và họ quan tâm đến việc chăm sóc y tế cho nhân dân, do đó luật không bị lạm
dụng nhiều. Nếu Luật An tử được ban hành ở Việt Nam vào thời điểm hiện tại
thì mục đích xấu bị lợi dụng sẽ không chỉ dừng lại ở những bệnh nhân bị bệnh
nan y mà đối tượng còn lan rộng sang: người già neo đơn, ốm yếu, người bị
thiểu năng trí tuệ hay bị bệnh thần kinh...

Hành vi thực hiện quyền được chết có ý nghĩa xã hội rất lớn với những
mục đích hết sức tốt đẹp. Khi sự sống của bệnh nhân không còn được đảm
bảo nữa: mắc bệnh vô phương cứu chữa, đang phải chịu đựng đau đớn kéo
dài... thì an tử theo yêu cầu là cách thức hợp lý nhất. Việc này không chỉ tốt
cho bệnh nhân mà còn tốt cho gia đình, xã hội. Người bệnh được ra đi thanh
thản, chấm dứt những ngày tháng chịu đựng đau khổ. Gia đình bệnh nhân
không phải chịu những tốn kém không đáng có và xã hội thì được bình yên
hơn. Đó là một kết thúc đẹp, một “cái chết nhân đạo”.

Theo quan điểm của người viết, quyền được chết không làm xói mòn
quyền cơ bản là được sống. Quyền được chết không chỉ liên quan đến bệnh
nhân đó mà còn cả gia đình và xã hội. Người ở giai đoạn cuối của bệnh chịu nhiều
đau đớn nếu có sống cũng chỉ thêm khổ, thậm chí nhiều người không biết mình
sướng hay khổ nữa. Cho nên nếu họ không muốn gây thêm tốn kém không cần thiết
cho gia đình, xã hội thì hãy nên tôn trọng họ. Hơn nữa, mục đích của quyền được
chết là làm cho họ không phải sống đau đớn kéo dài, đó là mục đích nhân đạo. Họ
không chối bỏ quyền được sống mà vì họ không còn đủ điều kiện đảm bảo sự sống.
Điều này khác hẳn với người có điều kiện để sống, bị bệnh có thể cứu chữa được
nhưng lại muốn chết, đó mới là trường hợp nên lên án.

80
Hành vi của bác sỹ trong quyền được chết mang tính chất nhân đạo chứ
không thể mang toan tính, mưu lợi. Bởi vì xét cho cùng, cứu người hay giúp
đỡ một bệnh nhân thoát khỏi đau đớn thì mục đích cuối cùng cũng là mang lại
điều tốt đẹp cho bệnh nhân xuất phát từ lương tâm của họ. Do đó, điều mà
giới bác sỹ và tất cả chúng ta cần nhìn ra là mục đích cuối cùng của hành vi
chứ không nên chỉ đánh giá qua hình thức của hành vi đó. Thực ra, giúp bệnh
nhân thoát khỏi đau đớn chính là cứu bệnh nhân khỏi sống khổ, đó cũng là cứu
người chứ không phải giết người. Nếu cố giúp người bị bệnh vô phương cứu
chữa thì chỉ làm họ thêm đau đớn, khi đó, an tử theo yêu cầu là việc đáng làm.

Tóm lại, Việt Nam chưa hội tụ đủ những yếu tố cần thiết nên việc ban
hành Luật An tử hiện nay là chưa phù họp. Cũng vì thế mà công trình chỉ
dừng lại ở mức độ tìm hiểu về quyền được chết và cái chết êm ả với mong
muốn thay đổi một phần quan niệm về vấn đề này. Hy vọng rằng quyền được
chết sẽ không còn quá mới mẻ đối với Việt Nam.

Như vậy, bên cạnh việc đưa ra một số định hướng về mặt giá trị văn
hóa cho thế ứng xử của người Việt với cái chết, luận văn còn tiếp tục gợi
mở một số vấn đề khi nghiên cứu về cái chết ở nước ta như xác định thời
điểm chết của một người theo khoa học, cái chết “êm ả” và vấn đề lấy, ghép
mô, bộ phận cơ thể người chết – đó là những vấn đề vẫn đang còn gây tranh
cãi và bàn luận ở rất nhiều nội dung khác nhau.

81
Kết luận chƣơng 2
Trên đây là những nét khái quát và cơ bản nhất về thái độ và nghi lễ tang
ma của người Việt trong giai đoạn hiện nay trong cách ứng xử với cái chết.
Qua việc nghiên cứu những thái độ cụ thể của người Việt với vấn đề hệ trọng,
thiết thân này ta thấy nổi lên cả những thái độ tích cực và tiêu cực trong việc
ứng xử với cái chết. Nhìn nhận mặt tích cực và loại bỏ mặt tiêu cực trong
những thái độ ứng xử này cũng chính là cơ sở để định hướng giá trị văn hóa
trong cách ứng xử cho người Việt hiện nay với vấn đề cái chết. Nó hướng con
người tới việc nhìn nhận cái chết như một hiện tượng tự nhiên, một giai đoạn
tất yếu trong chu trình phát triển của đời người cũng như hướng con người
vào cuộc sống hiện tại, xác định một thái độ đúng đắn và một tâm thế vững
vàng để đối mặt với cái chết. Không dừng lại ở đó, luận văn còn bước đầu
đưa ra và bàn luận một số vấn đề liên quan tới cái chết dựa trên những góc độ
nghiên cứu khác nhau chẳng hạn như quan niệm của khoa học hiện đại về cái
chết, quyền được chết và vấn đề an tử, vấn đề hiến xác nhân đạo…

Từ những phân tích trên, chúng tôi xin khái quát một số đề xuất về thế
ứng xử cho con người Việt Nam hiện nay đối với vấn đề cái chết như:
Về mặt thái độ: Trước hết, cần trực tiếp luận bàn về cái chết và những
vấn đề liên quan đến nó trong đời sống, đó là việc làm quan trọng nhất với
mỗi người. Không nên nhìn nhận cái chết như một điều gì đó đen đủi,
không may mắn mà phải hiểu được nó không chỉ nguyên nhân của sự mất
mát ghê gớm, của nỗi đau khôn nguôi, mà nó còn là một hiện tượng tự
nhiên, nên chấp nhận
Thứ hai, cần hiểu rằng, cái chết chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng không phải
vì thế mà ngồi chờ đợi nó đến, mà phải biết nỗ lực làm nên cuộc đời có giá trị
và ý nghĩa.

82
Thứ ba, cần rèn luyện cách đối mặt với thách thức và vượt qua khó khăn
trong cuộc sống, đó mới chính là việc làm hiệu quả nhất trước khi chúng ta
đối mặt với cái chết của bản thân.
Thứ tư, cần nâng cao hiểu biết về những “cái chết đẹp” thông qua các
tấm gương cụ thể trong xã hội, để mỗi người không còn quá sợ hãi khi nói về
cái chết, thậm chí qua những cái chết đó, giúp người sống có thêm động lực
khi đứng trước khó khăn trong cuộc đời.
Bên cạnh đó, mỗi người cần có cái nhìn đầy đủ và tiến bộ về giá trị của
Hộ niệm (hỗ trợ người chết) trong các tôn giáo. Đó là việc cầu nguyện của
Kitô hữu hay việc chú nguyện của Phật tử để độ vong cho những vong linh
quá cố. Việc làm này có vai trò nhất định trong việc giải tỏa tâm lý người
sống cũng như tâm lý của người sắp lâm chung. Do đó, không chỉ tín đồ theo
tôn giáo, mà ngay cả người Việt theo tín ngưỡng truyền thống cũng đã và
đang nhờ sự trợ giúp của phương pháp này. Giúp người sắp lâm chung được
ra đi thanh thản, bớt sợ hãi, đồng thời làm cho người sống bớt lo lắng và bớt
đau buồn hơn.

Về mặt nghi lễ: Để các hoạt động liên quan đến nghi lễ tang ma vận
động theo chiều hướng tiến bộ, trước hết, mỗi người cần nhận thức đúng rằng,
mọi công việc cuối cùng lo cho người chết không hề liên quan đến số phận
của người sống mà đơn giản chỉ nằm ở ý nghĩa trọn vẹn đạo hiếu với người ra
đi. Do đó, chỉ cần thực hiện nghi lễ tang ma hợp với đạo lý dân tộc và phù
hợp với nếp sống văn minh tiến bộ hiện nay.

Mỗi gia đình phải là một đơn vị tham gia tích cực và chấp hành tốt Chỉ thị
27/CT-TW của Bộ Chính trị về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc
cưới, việc tang, lễ hội. Nên tổ chức cải tiến lễ thức cúng giỗ, tang ma cho phù
hợp với cuộc sống mới theo tinh thần tiết kiệm, lành mạnh, loại bỏ các hình thức
cầu kỳ, tránh phục hồi hủ tục, đặt thêm “lệ mới” trong cúng giỗ, ma chay.

83
Việc tang lễ cũng nên tổ chức đơn giản, không nên bày đặt cỗ bàn. Việc
xem ngày giỗ, niệm, chôn, xem hướng mồ mả là quyền tự do tín ngưỡng song
không nên quan trọng hóa vấn đề, tránh ảnh hưởng đến an ninh trật tự và môi
trường vệ sinh chung

Đối với các địa phương, nếu không theo nghi thức mới là hỏa táng thì
mỗi nhà cần phải tuân theo quy định kích thước về xây, cất mồ mả của địa
phương, đồng thời mồ mả nên quy tập gọn vào nghĩa trang.

Để định hướng đúng đắn giá trị văn hóa cho người Việt trong thế ứng
xử với cái chết cần không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần,
nâng cao trình độ nhận thức cho các tầng lớp nhân dân, xây dựng môi trường
văn hóa, xã hội lành mạnh kết hợp giữa tuyên truyền, giáo dục với việc tăng
cường các biện pháp tổ chức, quản lý hành chính là các giải pháp lâu dài, cơ bản
đòi hỏi sự cố gắng nỗ lực của nhiều ngành, nhiều cấp. Đó là những giải pháp
mang tính khoa học và thực tiễn góp phần phát huy những mặt tích cực và khắc
phục những hạn chế trong thái độ và hành vi của người Việt với cái chết.

84
KẾT LUẬN
Vấn đề về sự sống và cái chết vẫn luôn luôn là vấn đề mà bất cứ con
người nào trên trái đất khi đối mặt cận kề với cái chết đều quan tâm. Cái chết
và sự trăn trở suy nghĩ về nó không chỉ là vấn đề của riêng ai mà là vấn đề
của nhân loại. Nó là khởi đầu cho những ý niệm về tôn giáo và triết học sơ
khai, là mảnh đất tốt cho hạt giống tâm linh nảy mầm, và là căn nguyên cho
việc xuất hiện các nghi thức thờ cúng ma chay.

Đối mặt với vấn đề sinh tử của con người, các triết nhân Đông – Tây đều
đã đưa ra nhiều kiến giải khác nhau về cái chết: quan điểm thứ nhất tin rằng
sau khi chết dưới dạng hồn lìa khỏi xác chúng ta vẫn sống và tiếp tục một
cuộc sống mới sau khi chết. Quan điểm thứ hai của những người duy vật cho
rằng chúng ta bị hủy diệt bằng cái chết và hoàn toàn không có cuộc sống khác
sau khi chết. Quan điểm thứ ba hoài nghi không biết có cuộc sống sau khi
chết không vì thật khó để chúng ta khám phá ra câu trả lời đầy đủ cho vấn đề
trên. Quan điểm thứ tư cho rằng con người sau khi chết sẽ được tái sinh trở lại
đời sống trần thế sau này hoặc tồn tại trong những không gian nào đó của vũ trụ.

Việt Nam là một quốc gia có nền văn hóa đa dạng. Sự phong phú của
nền văn hóa Việt Nam không chỉ được kế thừa bởi những giá trị truyền thống
của dân tộc mà còn được kế thừa từ các luồng tư tưởng khác nhau của nhân
loại như tư tưởng triết học Đông Tây như Nho giáo, Đạo giáo… và những
giáo lý của các tôn giáo thế giới, đạo Phật, đạo Kitô… Sự tiếp biến văn hóa
đó đã góp phần làm nên một bản sắc văn hóa đậm nét Việt Nam vừa đa dạng,
vừa đặc thù. Và, khi nghiên cứu về vấn đề Sống Chết của con người chúng ta
thấy các triết gia Đông Tây cùng khẳng định, đó là vấn đề căn bản, quan trọng
nhất trong một đời người. Những tư tưởng, những triết lý đó đã có ảnh
hưởng không nhỏ đến thái độ cũng như hành vi của người Việt khi ứng xử
với cái chết.

85
Trên cơ sở phân tích khái quát thái độ và hành vi ứng xử của người Việt
với cái chết, luận văn đã chỉ ra những giá tích cực cần tiếp tục được phát huy,
đồng thời vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế cần được khắc phục trong quá
trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện nay. Luận văn không có tham
vọng giải quyết một cách triệt để tất cả các khía cạnh của cái chết. Chúng tôi
hy vọng gợi mở một phần nào ý nghĩa văn hóa ẩn chứa trong thế ứng xử của
người Việt với vấn đề cái chết.

Như vậy, định hướng giá trị văn hóa về thế ứng xử cho con người Việt
Nam hiện nay về vấn đề cái chết là vấn đề vô cùng phức tạp và tế nhị. Những
ý kiến trên đây mới chỉ là những suy nghĩ ban đầu còn hết sức đơn giản và
mộc mạc. Luận văn hy vọng mang đến cho độc giả một thông điệp rằng, sự
tồn tại đích thực chỉ có ở con người và loài người phải biết quý trọng điều đó.
Hơn hết là tất cả mọi người đều phải chết, đó là một sự thật không thể lẩn
tránh được. Vậy nên con người phải sống sao cho không cảm thấy hối tiếc khi
nhắm mắt xuôi tay. Phải biết vươn lên trong cuộc sống, không phải là số phận
đã được sắp đặt trước mà chính chúng ta phải là người quyết định số phận,
phải biết đối mặt và vượt qua khó khăn.

Chính vì vậy, chúng ta nên học tập người xưa, đối diện với cái chết như
một phần của sự sống. Không phải nghĩ đến cái chết là bi quan hay ủy mị, mà
là sự dũng cảm chấp nhận một sự thật không thể trốn tránh, từ đó biết quý
trọng những giờ khắc đang sống. Chấp nhận cái chết không phải là để lúc nào
cũng chờ trực nó đến, mà là để biến nó thành động lực sống tốt hơn, có trách
nhiệm và có ý nghĩa hơn.

86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.

2. Toan Ánh (2001), Phong tục thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Việt,
Nxb Vãn hoá dân tộc.

3. Phan Kế Bính (2011), Việt Nam phong tục, Nxb Văn học, Hà Nội.

4. Phương Bối (2013), Để hiểu đạo Phật, nguồn Thư viện Phật học 73
Quán Sứ, Hà Nội.
5. Lê Thị Cúc, (2010), Tìm hiểu phạm trù sống - chết, Tạp chí Nghiên cứu
Văn hóa, số 4/ 2010, Đại học văn hóa Hà Nội.

6. Nguyên Châu, Nguyễn Minh Tiến dịch (2011) Người Tây Tạng nghĩ về
cái chết, Nxb Văn hóa thông tin.

7. Doãn Chính (chủ biên) (2004), Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Francoise Dastur (2013), Sao lại là cái chết, Đăng Ngọc dịch, Nxb Tri
thức, Hà Nội.
9. K. Sri Dhammananda (2007), Chết có thật đáng sợ không, Nxb Tổng
hợp TP. Hồ Chí Minh.
10. Will Durant (2008), Câu chuyện triết học, dịch giả Trí Hải, Bửu Đích,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
11. Nguyễn Hồng Dương (2001), Nghi lễ và lối sống công giáo trong văn
hóa Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội.
12. Phạm Đức Dương, (2003), Thế giới tâm linh, Tạp chí Nghiên cứu Tôn
giáo số 3/2003
13. Thích Như Điển, (2009), Sống và chết theo quan niệm Phật giáo
Nxb Phương Đông, TP Hồ Chí Minh.

87
14. Lê Quý Đức, Hoàng Chí Bảo (2007), Văn hóa đạo đức ở nước ta hiện nay:
vấn đề và giải pháp, Nxb Văn hóa - thông tin & Viện Văn hóa, Hà Nội.
15. Christian Ethics, Đạo đức kitô giáo, Thần Học Luân Lý dưới ánh sáng
Công Đồng vatican II, Thần học luân lý chuyên biệt 2, trang 304
16. Giáo lí Giáo hội Công giáo, (1996), Biên soạn cho giáo dân, sách lưu
hành nội bộ.
17. Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên) (2003), Về phát triển
và xây dựng con người trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
18. Lý Tường Hải (2005), Khổng Tử (bản dịch), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
19. Mai Thanh Hải (2006), Từ điển tín ngưỡng, tôn giáo thế giới và Việt
Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
20. Nguyễn Vũ Hảo, Đỗ Minh Hợp (2009) Giáo trình Triết học phương Tây
hiện đại, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc
gia Hà Nội.
21. Nguyễn Duy Hinh, (2005), Phàm và Thiêng, Tạp chí Nghiên cứu Tôn
giáo, số3/2005.
22. Nguyễn Duy Hinh (2008), Tâm linh Việt Nam, Nxb Từ điển Bách Khoa.
23. Johannes Hirschberger ( 1991) Lịch sử triết học tập 1 Triết học Hy Lạp
và La Mã cổ đại Triết học Tây Âu trung cổ, Người dịch Nguyễn Quang
Hưng, Nguyễn Chí Hiếu, Hiệu đính Phạm Quang Minh.
24. Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nghiên cứu
tôn giáo và tín ngưỡng (2008), Tập bài giảng Lý luận về tôn giáo và
chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội.
25. Lê Như Hoa chủ biên (2001), Tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Nxb Văn
hóa thông tin, trang 141.

88
26. Emmanuelle Huisman – Perrin (2013), Cái chết giải thích cho con, Đỗ
Thị Minh Nguyệt dịch, Nxb giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
27. Nguyễn Thị Như Huế (2013), Vấn đề ý nghĩa cuộc sống trong đạo đức
học hiện sinh, Tạp chí Triết học, số 1 (260).
28. Gia Khánh (Soạn giả), (2010), Thọ mai gia lễ, Nxb Thanh Hóa, Thanh Hóa.
29. Phạm Minh Lăng (2003), Những chủ đề cơ bản của triết học phương
Tây, Nxb Văn hóa thông tin.
30. Nguyễn Mạnh Linh (2013), Thọ mai sinh tử, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội
31. Lê Văn Lợi (2012), Văn hóa tôn giáo trong đời sống tinh thần xã hội
Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị hành chính, Hà Nội.
32. Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) (2005), Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân
gian ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
33. Đạt Lai Lạt Ma (Tây Tạng) (2004), Sống hạnh phúc chết bình an, Nxb
Tôn giáo, Hà Nội.
34. Raymond A.Moody Jr (2008), Sự sống sau khi chết, Nxb Lao động, Hà
Nội, 2008.
35. Lương Ninh (2009), Một con đường sử học, Nxb ĐH Sư Phạm, Hà Nội.
36. Tống Đạo Nguyên (2011), Đạo giáo sinh tử kỳ thư, Cổ Đồ Thư dịch,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
37. Phạm Thị Thu Phương (2009), Vấn đề con người trong Triết học Hy
Lạp cổ đại, Luận văn thạc sĩ Triết học, ĐHQGHN, Hà Nội.
38. James Van Praagh (2011), Những việc cần làm trước lúc lâm chung,
Nxb Thời đại, Hà Nội.
39. Thích Chân Quang (2005) Nghiệp và kết quả, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
40. M. Rodentan, P. Iudin (1955): Từ điển triết học, Nxb Ngoại văn,
Matxcova, Bản dịch và in lần thứ 3 của Nxb Sự thật, Hà Nội, 1978.

89
41. Sogyal Rinpoche (2013), Tạng Thư Sống Chết, Thích Nữ Trí Hải dịch,
Nxb Hồng Đức.
42. Liên Hoa Sinh, Tề Hân, (2009), Tây Tạng sinh tử kỳ thư, Nxb Hà Nội.
43. Arthur Schopenhauer (2006), Siêu hình tình yêu – siêu hình sự chết,
Hoàng Thiên Nguyễn dịch, Nxb Văn học, Hà Nội.
44. Sách Giáo lý công giáo, Phần thứ nhất, chương 3, mục 11 “Tôi tin xác
loài người ngày sau sống lại”.
45. Thích Nguyên Tạng (soạn dịch) (2002), Chết và tái sinh, Tu viện Quảng
Đức ấn hành.
46. Thích Điền Tâm (2011), Phật giáo sinh tử kỳ thư, Nxb Thời đại, Hà
Nội.
47. Vũ Minh Tâm (chủ biên) (1996), Tư tưởng triết học về con người, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
48. Đinh Ngọc Thạch (1999), Triết học Hy Lạp cổ đại, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
49. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP Hồ
Chí Minh.
50. Tulku Thondup (2010), Chết an bình tái sinh hỷ lạc, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
51. Đoàn Văn Thông (1993), Bí ẩn về tiền kiếp và hậu kiếp, Nxb Nguồn Sống.
52. Nguyễn Hữu Thụ (2011), “Thế giới bên kia và mối quan hệ với thế giới
hiện thực trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt”, Kỷ yếu hội
thảo khoa học – Một số vấn đề triết học tôn giáo hiện nay, Nxb Tôn
giáo, Hà Nội.
53. Đại đức Thích Minh Tông (2012), Tìm hiểu về luân hồi trong tranh
Thang – Ka, Nxb Hồng Bàng, Gia Lai.
54. Phùng Lô Tường (2010), Triết lý sinh tử Đông Tây, Thích Hoàng Trí
dịch, Nxb Phương Đông.

90
55. Lê Thanh Trị (1974), Hiện tượng luận về hiện sinh, Nxb Trung tâm Học
liệu – Bộ văn hóa – Giáo dục và Thanh niên.
56. Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG Hà Nội, Trung tâm NCTG đương
đại (2009), Văn hoá, Tôn giáo trong bối cảnh toàn cầu hoá, Nxb Tôn
giáo, Hà Nội, tr. 233.
57. Đặng Nghiêm Vạn (2003) Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
58. Viện nghiên cứu Hán Nôm (2004) Ngữ Văn Hán Nôm Tập 1 Tứ Thư,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
59. Tân Việt (1997), Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam, Nxb
Văn hoá dân tộc.
60. Visuddhacara (2004), Thương yêu và chết, Trần Văn Huân dịch, Nxb
Tôn giáo, Hà Nội.
61. Nguyễn Hữu Vui (chủ biên) (2007) Lịch sử triết học, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
62. Hoàng Tâm Xuyên (chủ biên) (2012) 10 tôn giáo lớn trên thế giới, Nxb
Tôn giáo, Hà Nội.
63. Về nhà Cha – nghi thức thăm viếng và cầu hồn (dành cho Huynh đoàn
giáo dân Đa Minh).
64. http://www.nguoiduatin.vn/phai-co-chien-luoc-ngan-ngua-khung-hoang-
tam-ly-truoc-khi-qua-muon-a72007.html)

91

You might also like