You are on page 1of 47

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Khoa Ngữ Văn

NHIỆM VỤ 11:
TÌM HIỂU TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ

Học phần: HỆ THỐNG THỂ LOẠI VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Giảng viên: Nguyễn Thị Tuyết Nhung
Nhóm sinh viên:
Trần Hải Nhung – 705601309

Đinh Mai Phương – 705601317

Phạm Thị Minh Phương – 705601326

Lê Như Quỳnh – 705601337

Võ Thị Diễm Quỳnh – 705601341


BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
STT Họ và tên MSV Nhiệm vụ
1 Trần Hải Nhung 705601309 Chương 2
2 Đinh Mai Phương 705601317 Chương 1 + Chương 3.1
3 Phạm Thị Minh Phương 705601326 Chương 2
4 Lê Như Quỳnh 705601337 Chương 2
5 Võ Thị Diễm Quỳnh 705601341 Chương 3.2 + 3.3
MỤC LỤC

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ............................................................1


1.1. Khái quát về sinh thái và phê bình sinh thái ..............................................1
1.1.1. Khái niệm sinh thái, sinh thái học và phê bình sinh thái .....................1
1.1.2. Sinh thái và phê bình sinh thái trong văn học Việt Nam hiện đại .......2
1.2. Nguyễn Ngọc Tư ........................................................................................3
1.2.1. Cuộc đời, sự nghiệp và quan niệm sáng tác ........................................3
1.2.2. Tác phẩm ..............................................................................................4
CHƯƠNG 2: THIÊN NHIÊN, CON NGƯỜI TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN NGỌC TƯ TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI ............................6
2.1. Thiên nhiên - vai trò, tầm quan trọng trong cuộc sống ..............................6
2.1.1. Thiên nhiên - vẻ đẹp bản nguyên .........................................................6
2.1.2. Thiên nhiên là cội nguồn của cuộc sống con người. .........................10
2.1.3. Thiên nhiên cứu rỗi và thanh lọc tâm hồn con người. .......................14
2.2. Thiên nhiên và con người trong khủng hoảng môi trường sinh thái. ......21
2.2.1. Thiên nhiên bị hủy hoại, “biến mất”. .................................................21
2.2.2. Cuộc sống của con người trước khủng hoảng môi sinh. ...................23
2.2.3. Con người nhận thức về môi trường sinh thái ..................................27
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN
NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI ..............31
3.1. Cốt truyện .................................................................................................31
3.2. Biểu tượng nghệ thuật ..............................................................................33
3.2.1. Biểu tượng sông nước ........................................................................33
3.2.2. Biểu tượng cánh đồng ........................................................................35
3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật và giọng điệu trần thuật .........................................37
3.3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật..........................................................................37
3.3.2. Giọng điệu trần thuật .........................................................................40
KẾT LUẬN ..............................................................................................................43
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái quát về sinh thái và phê bình sinh thái
1.1.1. Khái niệm sinh thái, sinh thái học và phê bình sinh thái
1.1.1.1. Sinh thái, sinh thái học
Theo tiếng Hy Lạp, sinh thái có nghĩa là nhà ở, nơi cư trú, nơi sinh sống, còn “sinh
thái học” là học thuyết, khoa học. Vì vậy, theo tiếng Hy Lạp, “Sinh thái học” là học
thuyết về nơi cư trú, về chỗ ở hay điều kiện sinh sống của sinh vật. PGS.TS. Trần Lê
Bảo cho rằng: “Sinh thái học là khoa học nghiên cứu mối quan hệ qua lại và sự tác
động lẫn nhau giữa cơ thể sống với môi trường xung quanh nó, hay nói các bao quát
và chính xác hơn là mối quan hệ qua lại và sự tác động lẫn nhau giữa các hệ thống
vật chất sống ở cấp độ cơ thể và trên cơ thể với môi trường sống.” Nói một cách
đơn giản hơn, “sinh thái học” là nghiên cứu mối quan hệ giữa con người với tự nhiên,
xã hội với sinh quyển.
1.1.1.2. Phê bình sinh thái
Phê bình sinh thái (ecocriticism) còn được gọi với nhiều tên gọi khác như:
“Phê bình văn hóa xanh” (green culture studiees), “thi pháp sinh thái” (ecopoetics);
“phê bình văn học môi trường” (invironmental literary criticism). Tên gọi “Phê bình
sinh thái” lần đầu tiên được đưa ra bởi Wiliam Rueckert trong “Văn học và sinh thái
học: một thử nghiệm mới trong phê bình sinh thái” (1978), với dụng ý “kết hợp văn
học và sinh thái học.”
Trải qua các chặng đường phát triển, thuật ngữ phê bình sinh thái đã trở nên
gần gũi với đội ngũ sáng tác, giới nghiên cứu và các độc giả. Tuy nhiên, vẫn có nhiều
quan điểm về thuật ngữ này. Nhà phê bình sinh thái người Mỹ Cheryll Glotfelty cho
rằng: “Phê bình sinh thái là phê bình bàn về mối quan hệ giữa văn học và tự nhiên
… Phê bình sinh thái mang đến phương pháp tiếp cận trái đất là trung tâm để nghiên
cứu văn học.” Trong khi đó, Vương Nặc lại bày tỏ: “Văn học sinh thái là loại văn
học lấy chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái làm cơ sở tư tưởng, lấy lợi ích chỉnh thể của
hệ thống sinh thái làm giá trị cao nhất để khảo sát và biểu hiện mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên và truy tìm nguồn gốc xã hội của nguy cơ sinh thái.”
Tuy nhiên, từ các ý kiến trên, có thể thấy được, phê bình sinh thái là khuynh
hướng nghiên cứu mang đậm tinh thần phê phán văn hóa. Nhà phê bình sinh thái

1
dùng việc phân tích văn học để thẩm định lại những hành xử xuất phát từ văn hóa,
tư tưởng, phong tục tập quán, khoa học, phương thức sống, phương thức sản xuất …
đã có ảnh hưởng như thế nào đến tự nhiên, từ đó tác động tới nhận thức, làm thay
đổi cách nhìn, cách ứng xử của con người với tự nhiên.
1.1.2. Sinh thái và phê bình sinh thái trong văn học Việt Nam hiện đại
1.1.2.1. Sinh thái trong văn học Việt Nam hiện đại
Trước khi xuất hiện phê bình sinh thái, vấn đề con người trong mối quan hệ
với tự nhiên cũng được đề cập đến trong nhiều tác phẩm, từ văn học mang tính truyền
miệng tới văn học viết, từ văn học trung đại tới văn học đương đại. Cảm thức này
trở nên rõ nét hơn vào những năm đầu thế kỉ 20 khi có sự xuất hiện quá trình đô thị
hóa và sự xâm lấn của nền văn minh công nghiệp. Giai đoạn trước 1975 bắt đầu có
sự xuất hiện của các tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, là biểu tượng
của sức sống bền bỉ, gắn liền với con người. Văn học cũng đề cập tới sự phá hoại
của các yếu tố khác tới thiên nhiên song chủ yếu xem sự tàn phá đó là minh chứng
tố cáo tội ác của kẻ địch (Dấu chân người lính – Nguyễn Minh Châu; Rừng xà nu –
Nguyễn Trung Thành,…)
Sau năm 1975, bởi nhu cầu cấp thiết của thời đại, văn học sinh thái dần phát
triển gắn với công cuộc đổi mới văn học, sự thay đổi tư duy. Đất nước chính thức
hòa bình, các tác giả sáng tạo không còn bị bó hẹp trong một đề tài như thời kì trước
đó mà thoải mái thử sức với những đề tài, chủ đề mới. Bản thân thiên nhiên không
hoàn toàn mang tính biểu tượng cho cảm xúc của con người mà bản thân nó đã mang
ý thức riêng. Từ việc còn tản mát, khuất lấp giữa các chủ đề khác; các chủ đề sinh
thái này đã được thể hiện một cách tập trung, đề cập chủ yếu đến các vấn đề: truy
tìm nguồn gốc của nguy cơ sinh thái, phê phán các hành vi của con người đối với
thiên nhiên và đặt ra trách nhiệm của con người trước thiên nhiên để duy trì được
môi trường sinh thái cân bằng, ổn định. Có thể kể đến một số gương mặt nổi bất của
xu hướng này như: Bảo Ninh (sinh thái hậu chiến tranh), Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy
Anh, Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Ngọc Tư (sinh thái nông thôn, sông nước), Đỗ Bích
Thúy (sinh thái miền núi),…
1.1.2.2. Phê bình sinh thái trong văn học Việt Nam hiện đại
Dù đến muộn, song lĩnh vực phê bình sinh thái văn học vẫn được nhiều nhà
nghiên cứu ở Việt Nam chú ý tới. Bên cạnh công tác dịch thuật chuyển ngữ các bài
nghiên cứu nước ngoài như Trần Ngọc Hiếu với “Những tương lai của phê bình sinh
2
thái văn học” của Karen Thornber; “Phê bình sinh thái – cội nguồn và sự phát triển”
(Đỗ Văn Hiều); “Phê bình sinh thái” (Đặng Thị Thái Hà), nhiều công trình của chính
các nhà nghiên cứu Việt cũng dần xuất hiện, đem lại nhiều đóng góp to lớn cho lĩnh
vực này. Đặc biệt, các nhà nghiên cứu đề cập đến sự mất dần những giá trị tốt đẹp
vốn có bởi sự xâm lấn của đô thị, bafn luận đến mối quan hệ giữa con người và thiên
nhiên: “Thơ trữ tình Việt Nam 1975 – 1990” (Lê Như Oanh). “Đổi mới quan niệm
về con người trong truyện Việt Nam 1975 – 2000”(Nguyễn Văn Kha)… Ngoài ra,
các nhà nghiên cứu cũng bắt đầu đi sâu vào phân tích cảm thức sinh thái trong các
tác phẩm cụ thể, trong các tác giả cụ thể: “Cảm quan sinh thái trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp” (Ngô Thị Thu Giang); “Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh
thái (qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư)”
(Đặng Thị Thái Hà), “Truyện ngắn Cao Duy Sơn từ góc nhìn phê bình sinh thái”
(Trình Thùy Dương),… Song song với công tác nghiên cứu, dịch thuật, nhiều hội
thảo, tọa đàm về văn học Việt Nam bàn luận về vấn đề sinh thái và phê bình sinh
thái cũng được tổ chức, các hiệp hội nghiên cứu cũng được thành lập: “Hiệp hội
nghiên cứu liên ngành văn học và môi trường Đông Nam Á”; Hội thảo khoa học:
“Văn học Việt Nam – bản sắc và hội nhập”…
Tất cả những minh chứng trên đều đánh dấu sự phát triển của phê bình sinh
thái tại Việt Nam. Tuy nhiên, không thể phủ nhận, thành tựu của phê bình sinh thái
tại Việt Nam chưa hoàn toàn nổi bật, tất cả mới chỉ ở giai đoạn đầu tiên, do bởi số
lượng các công trình còn hạn chế và thời gian tiếp nhận phê bình sinh thái còn ngắn.
Việc phát triển phê bình sinh thái cần sự chung tay của đội ngũ học giả nghiên cứu
và các tác giả sáng tạo văn học để phát triển hơn nữa để có những bước tiến xa hơn.
1.2. Nguyễn Ngọc Tư
1.2.1. Cuộc đời, sự nghiệp và quan niệm sáng tác
Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976, quê ở xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh
Cà Mau, trong một gia đình nghèo. Năm Nguyễn Ngọc Tư lên 9 tuổi, gia đình xảy
ra nhiều biến cố: ông nội mất, điều kiện gia đình khó khăn buộc bà phải nghỉ học.
Được sự động viên của cha, Nguyễn Ngọc Tư đã đi trên con đường sáng tạo văn học,
viết những gì mà bà đã trải qua. Tác phẩm đánh dấu sự thành công của Nguyễn Ngọc
Tư, đưa chị chính thức bước vào thế giới văn chương chính là tập kí sự “Nỗi niềm
sau cơ bão”.

3
Là một người sinh ra và lớn lên ở miền quê sông nước bởi vậy quê hương là
nguồn cảm hứng bất tận của người nghệ sĩ. “Riêng tôi, ngôn ngữ, không khí Nam Bộ
đã thấm đẫm vào tôi từ môi trường sống. Bây giờ muốn gột bỏ cũng không dễ.”.
Cuộc sống Nam Bộ được Nguyễn Ngọc Tư đưa vào những trang viết của mình thông
qua những hình ảnh quen thuộc, ngôn ngữ và giọng điều chỉ riêng Nam Bộ mới có.
Chịu nhiều khó khăn từ thuở thơ bé, Nguyễn Ngọc Tư luôn thấu hiểu và cảm thông
trước sự nghèo khó, khổ cực của những con người. Các tác phẩm của nữ nhà văn
luôn lấy cảm hứng từ chính cuộc sống và chính số phận những con người nhỏ bé:
người nông dân nghèo, đứa trẻ đáng thương,…
Là một nhà văn, đặc biệt là một nhà văn nữ, Nguyễn Ngọc Tư cũng có một
tâm hồn nhạy cảm, không chỉ là nhạy cảm trước cái đẹp, mà còn là nhạy cảm trong
nỗi cô đơn. Chị sợ sự vô cảm của chính mình và mọi người xung quanh: “Tôi rất sợ
lòng mình vô cảm. Tôi cũng sợ y như vậy khi thấy những người xung quanh không
còn biết thương yêu nữa. Nhiều người nhận xét giới trẻ giờ đây thực dụng, ít nhân
hậu hơn thế hệ đi trước” Bởi vậy, trong các tác phẩm của chị luôn xuất hiện những
chuyện nhân nghĩa, sự chết rụi bởi sự vô cảm của con người như một sự tự nhắc nhở
và đánh thức mọi người. Nguyễn Ngọc Tư quan niệm: sống là luôn hy vọng. Quan
niệm ấy cũng tồn tại trong những trang văn của chị, các nhân vật của Nguyễn Ngọc
Tư luôn tin rằng tương lai sẽ tốt đẹp hơn, khó khăn sẽ qua và niềm vui đang ở phía
trươc. Chính động lực ấy khiến họ vượt qua những rào cản của cuộc sống.
Cuối cùng, nói về quan niệm sáng tác của mình, chị chọn lối đi “đi châm, dò
dẫm để khẳng định phong cách.”, viết những gì mình quan tâm, để ý chứ không viết
để chạy theo số đông, thị hiếu phần đông của bạn đọc. Bởi vậy, nhiều khi các tác
phẩm của chị sẽ mang màu sắc giống nhau, với những cảm xúc riêng tư, nhỏ bé.
1.2.2. Tác phẩm
Nguyễn Ngọc Tư sở hữu một số lượng các tác phẩm vô cùng đồ sộ, bao gồm
nhiều thể loại như: truyện ngắn, tản văn, tạp văn, tiểu thuyết, … Trong khuôn khổ
bài tiểu luận này, chúng tôi sẽ tập trung giới thiệu ba tác phẩm phục vụ cho việc khảo
sát của chúng tôi: Tập truyện “Cánh đồng bất tận”; tập truyện “Gió lẻ và 9 câu chuyện
khác” và tập truyện “Khói trời lộng lẫy”.
“Cánh đồng bất tận” kể về những số phận không may mắn, những tình duyên
không trọn vẹn, không có hậu. Đó là kiếp sống của người bị phụ tình, kẻ bị ruồng
bỏ, truy tìm người đã xa,.. nhưng vẫn đâu đó chứa đựng niềm tin vào cuộc sống và
4
con người. Đây là tập truyện ngắn ra đời vào năm 2005, dày 218 trang, gồm 13
truyện ngắn: Cải ơi; Thương quá rau răm; Huệ lấy chồng; Cái nhìn khắc khoải; Nhà cổ;
Mối tình năm cũ; Cuối mùa nhan sắc; Biển người mênh mông; Nhớ sông; Dòng nhớ; Duyên
phân so le; Một trái tim khô.., ; Cánh đồng bất tận. Phần lớn trong tập truyện này xoay
quanh hình ảnh kiếm tìm, ngóng trông một tình yêu vô vọng.
“Gió lẻ và 9 câu chuyện khác” là một tập truyện ngắn gồm 10 truyện: Vết chim
trời, Chuồn chuồn đạp nước, Tình thầm, Sầu trên đỉnh Puvan, Ấu thơ tươi đẹp, Núi
lở, Thổ Sầu, Của ngày đã mất, Một chuyện hẹn hò, Gió lẻ. Câu chuyện vẽ ra bức
tranh của tình người, cảnh đời, khao khát của con người: khảo khát kiếm tìm một
chỗ đứng, khao khát muốn vượt thoát khỏi sự cô đơn.
“Khói trời lộng lẫy” được xuất bản vào năm 2010, gồm 10 câu chuyện nhỏ: Nước
như nước mắt, Có con thuyền đã buôn bờ, Tình lơ, Cảm giác trên dây, Mộ gió, Hiểu
lầm nhỏ về gia tài của cô gái nhỏ, Osho và bồ, Thềm nắng sau lưng, Rượu trắng;
Khói trời lộng lẫy. Không thoát khỏi lối viết quen thuộc đậm chất Nguyễn Ngọc Tư,
tập truyện tiếp tục viết về thân phận con người và hơn cả là về những người đàn bà.
Đó là cô Sáo mất chồng vì lá ngò gai trong Nước như nước mắt; người chị mất em
trong Mộ gió; cô Bé sinh ra từ cơn say và gắn cuộc đời với cái say của những người
đàn ông đi qua đời bà ngoại em và em trong Rượu trắng; người đàn bà tên Di lưu
giữ vẻ đẹp của thiên nhiên và sự cô đơn, mất mát cảu cô ấy trong Khói trời lộng
lẫy,…

5
CHƯƠNG 2: THIÊN NHIÊN, CON NGƯỜI TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN NGỌC TƯ TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI
2.1. Thiên nhiên - vai trò, tầm quan trọng trong cuộc sống
2.1.1. Thiên nhiên - vẻ đẹp bản nguyên
Vẻ đẹp của thiên nhiên trước hết được đề cập đến ngay trong nhan đề của
các tập truyện ngắn. Ba tập truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư mà chúng tôi khảo
sát, các hình ảnh gắn liền với thiên nhiên đều xuất hiện một cách thường xuyên:
Khói trời lộng lẫy Cánh đồng bất tận Gió lẻ và 9 câu chuyện khác
1. Nước như nước mắt 1. Cải ơi 1. Vết chim trời
2. Có con thuyền đã 2. Thương quá rau răm 2. Chuồn chuồn đạp nước
buông bờ 3. Hiu hiu gió bấc 3. Tình thầm
3. Tình lơ 4. Huệ lấy chồng 4. Sầu trên đỉnh Puvan
4. Cảm giác trên dây 5. Cái nhìn khắc khoải 5. Ấu thơ tươi đẹp
5. Mộ gió 6. Nhà cổ 6. Núi lở
6. Osho và bồ 7. Mối tình năm cũ 7. Thổ sầu
7. Thềm nắng sau lưng 8. Cuối mùa nhan sắc 8. Của ngày đã mất
8. Rượu trắng 9. Biển người mênh 9. Một chuyện hẹn hò
9. Khói trời lộng lẫy mông 10. Gió lẻ
10. Nhớ sông
11. Dòng nhớ
12. Duyên phận so le
13. Một trái tim khô
14. Cánh đồng bất tận

Ngay trong nhan đề, thiên nhiên cũng thật nổi bật với những đặc điểm và nét
đẹp riêng, không bị hình tượng con người lấn át hay chỉ để làm nền cho sự xuất hiện
của con người. Chẳng hạn như, Cánh đồng bất tận – thiên nhiên mang vẻ đẹp của sự
mênh mông, trường tồn; Khói trời lộng lẫy – những gì thuộc về tự nhiên dù là bình
dị nhất cũng đều khoáng đạt, đẹp đẽ. Tác giả cũng bắt chụp những khoảnh khắc
bình dị mà tuyệt diệu; những vận động, những biến chuyển từ nhỏ bé nhất đến
mạnh mẽ, hoang tàn nhất của thế giới tự nhiên để đưa nó trở thành nhan đề của
truyện ngắn, trở thành tâm điểm của trang văn: Thềm nắng sau lưng; Có con thuyền

6
đã buông bờ; Hiu hiu gió bấc, Vết chim trời; Chuồn chuồn đạp nước; Núi lở. Nguyễn
Ngọc Tư cũng hoà mình để cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, lắng nghe từng hơi
thở nhịp đập của nó để rồi chị nhận ra thiên nhiên cũng có những trạng thái, cảm
xúc như con người: Nước như nước mắt – nước là sự kết tinh những tinh hoa của
đất trời cùng như nước mắt là lắng đọng bao nỗi niềm của con người; thiên nhiên
cũng bình đẳng với con người, con người không có quyền được làm tổn thương tự
nhiên; Gió lẻ - thiên nhiên cũng có thể cô đơn, trạng thái đơn độc của tự nhiên cũng
như sự cô đơn của con người; Thổ sầu – tên một vùng đất có thực cũng mang đặc
điểm của chính vùng đất ấy, thiên nhiên cũng có trạng thái tình cảm giống như con
người. Tác giả còn kí thác sự thấu cảm với thiên nhiên ngay trong các nhan đề,
như Thương quá rau răm – trực tiếp bộc lộ nỗi lòng. Như thế, tư duy về sự cân bằng
tinh tế của thế giới; vẻ đẹp vốn có của tự nhiên; mối quan hệ giữa tác động qua lại
giữa thiên nhiên và con người trong hệ sinh thái của tác giả đã thể hiện rõ ngay từ
cách chị đặt tên nhan đề các truyện ngắn và tập truyện ngắn. Thiên nhiên bản nguyên
vốn mang những vẻ đẹp đáng trân quý, thiên nhiên và con người cùng tồn tại trong
hệ sinh thái, thật đáng buồn và đáng cảnh tỉnh nếu con người làm tổn thương đến thế
giới tự nhiên.
Thứ hai, vẻ đẹp bản nguyên của thiên nhiên qua góc nhìn đậm chất Nam
Bộ của Nguyễn Ngọc Tư chính là vẻ đẹp bình dị, thuần tuý gắn liền với những gì
thân thuộc nhất. Trong các truyện ngắn thuộc ba tập truyện mà chúng tôi khảo sát,
thiên nhiên trong trang văn của chị nổi bật với các hình ảnh chân quê, mộc mạc
nhưng cũng rất đỗi đẹp đẽ. Đó là thiên nhiên vùng nông thôn chân chất, thân gần gợi
đến những điều bình yên, những xúc cảm lắng đọng nhất. Một buổi “ban trưa thinh
lặng” với “nhánh me trước sân nhà”; “nắng trên cao lợt nhách, xuyên qua tán cây”
tạo thành những “chùm bông nắng mờ mờ”; “vài ngọn gió mồ côi leo heo chạy lệt
phệt qua, những cái lá me lững thững rơi xuống, đám lông chó lại lờ đờ bay ngược
lên, để lại nền sân vài bông nắng thưa, tái ngắt” (Vết chim trời). Mọi sự vận động
của tự nhiên đều thực chậm rãi. Trong mạch truyện, những cảm nhận về thiên nhiên
gắn với những kỉ niệm quá khứ hồn nhiên đã qua đi mãi mãi, thực tại chỉ còn hoang
hoải, mất mát thế nên những bước chuyển của đất trời, sự vật như hoà cùng với dòng
chảy cảm xúc con người. Thiên nhiên vừa mang vẻ đẹp bình dị, thân thuộc vừa mang
cảm xúc lặng buồn cùng nuối tiếc.
Đặc biệt, sinh ra và lớn lên ở vùng Đất mũi Cà Mau cùng với sự khám phá và trải
nghiệm cuộc sống phong phú, Nguyễn Ngọc Tư tập trung khắc họa hình ảnh sông
7
nước nơi đây một cách khá toàn diện và sâu sắc. Trên trang viết của chị; dấu ấn của
thiên nhiên chính là hình ảnh thôn quê sông nước gần gũi mà cũng nhiều biến động.
Đó là vùng sông nước dày đặc “những con kinh, rạch chằng chịt” với dòng chảy đa
hướng, vô cùng “đi mãi vẫn thấy nước chảy và nước chảy” đến mức khiến con người
phải “choáng ngợp” (Của ngày đã mất). Đó còn là vùng quê khoác trên mình một
vẻ hoang sơ, tĩnh lặng, trầm lắng tựa như những dòng chảy lặng lờ: “Dọc triền sông,
cỏ kết dày, từ trên bờ thò xuống nước như đất đang gục đầu gội tóc, những cây bần
de xa khỏi mé sông, những cây sộp rũ rượi xóa tóc chùm rễ nâu, những thân cau lẻ
đâm thẳng lên trời, vài tiếng gà nhói lên xa xa…”; “Những chiều phai, nhìn ra sông
thấy lục bình trôi lơ phơ mấy cái bông lục bình quá thì, cũng phai như chiều. Ngó
ra sau nhà thấy một cái vạt đồng trũng sâu, ngoi lên mặt nước những bông lúa thưa
thớt, xanh xao. Vườn cũ có vài cây vú sữa, mù u rụng trái đầy mặt đất, mấy bụi tre
bụi trúc vút lên trời 1 chùm xanh ngắt…” (Thổ sầu). Nơi đây, thiên nhiên buồn
nhưng đẹp và đôi khi đẹp bởi chính sự bình lặng và buồn lắng ấy. Mọi sự vật trong
tự nhiên đều trong trạng thái ủ rũ và có phần chán chường cỏ “gục đầu”; cây sộp “rũ
rượi”; cau “lẻ”; lục bình trôi “lơ phơ”, bông lục bình “lỡ thì”; bông lúa “thưa thớt”;
“xanh xao”, cây “rụng trái”. Thiên nhiên và con người nơi đây đồng điệu đến vô
cùng, thiên nhiên buồn “thâm căn cố đế” con người nghèo túng, xác xơ. Nếu hoạ
thành một bức tranh, đây hẳn sẽ là một bức tranh thiên nhiên “phai” màu, không có
những gam màu nóng nổi bật chỉ có những màu xanh đủ sắc thái, những cây cối,
cảnh vật đậm vị miền sông nước: “cây bần, cây sộp, thân cau, lục bình, vạt đồng
trũng sâu, vú sữa, mù u,…”. Nếu tấu thành một bản nhạc có lẽ đây sẽ là một khúc ca
buồn du dương không có những nốt cao thánh thót. Đây quả thực sẽ là một vẻ đẹp
dịu dàng, bình yên và mới lạ với các du khách phương xa, với những người ngày
đêm sống trong cuộc sống vồn vã, tấp nập đèn, xe của chốn thị thành. Thiên nhiên
làm họ “ngây ngất trước bộ mặt sầu muộn”; khiến họ “lặng đi”; “bàng hoàng”;
“ngây dại”. Vùng quê sông nước hiền dịu là vậy, trầm lắng là vậy nhưng cũng có
khi chúng mạnh mẽ, huyền bí và dữ dội “Hôm đó, trời mưa nhỏ nhưng gió nhiều,
gió tạt tay chèo liêu xiêu. Nước từ vàm sông cuộn đổ ra. Chiếc ghe bạt nước tấp vô
xà lan chở cát” (Nhớ sông). Như vậy, qua trang văn của Nguyễn Ngọc Tư, vẻ đẹp
của thiên nhiên bản nguyên gắn liền với vùng quê sông nước vừa bình dị, gần gũi
vừa dịu dàng, trầm lắng nhưng cũng rất dữ dội, đầy biến động.
Thứ ba, vẻ đẹp bản nguyên của tự nhiên là sự phóng khoáng mà rợn ngợp,
huyền bí đủ sức khiến con người mê đắm. Như Vĩnh (Sầu trên đỉnh Puvan) trong

8
chuyến hành trình ngược núi ngắm cảnh sầu nở hoa với một thái độ chiêm bái và
thành kính trước tự nhiên đầy bí ẩn. Thiên nhiên được khắc hoạ là vùng núi nằm sát
biên giới “hoang vu” với đỉnh núi “mù mù mây” và “quanh năm khô cằn”. Để kiếm
tìm và cảm nhận vẻ đẹp nơi đây thực sự cần những cuộc thám hiểm và không phải
ai cũng đủ sức hay sẵn lòng để ngắm nhìn nó. Chỉ có những kẻ thực sự khát khao cái
đẹp, cả đời hướng về nó như một lẽ sống mới sẵn sàng vượt qua hết thảy, đánh đổi
hết thảy để chiêm ngưỡng dù chỉ trong thoáng chốc. Những bông hoa sầu kết tinh vẻ
đẹp thuần tuý của thiên nhiên cũng là khao khát cả đời những con người tâm niệm
với cái đẹp luôn ám ảnh và hướng về “Những đoá hoa sầu đẹp đến nỗi đáng đánh
đổi cả cuộc đời người để được trông thấy chúng dù chỉ một lần”. “Sầu chỉ trổ bông
dưới cơn mưa đầu tiên sau mười ba tháng hạn liên tiếp, không một giọt nước trời
nào rớt lên đỉnh núi xa xăm”. Trong cái nhìn của kẻ say mê cái đẹp, sự bừng nở của
bông hoa sầu tựa như một sự hồi sinh kì diệu, phi thường, toả sáng lung linh, mang
nét đẹp huyền diệu và lộng lẫy giữa trần thế tầm thường: “Vĩnh thì như phát điên,
như đang mộng du khi những vòm lá chết của những cây sầu bỗng phát sáng. Chúng
cuốn tròn lại như búp hoa và từ từ rẽ thành từng cánh từng cánh lấp lánh”; “Không
hạt mưa nào xuyên qua vầng sáng kì ảo của những bông sầu.”. Thế giới muôn màu
vạn trạng bởi bản thân nó vốn thế cũng bởi lăng kính muôn màu của những người
ngắm nhìn nó. Với Vĩnh hoa sầu là cái đẹp tuyệt mỹ, là đam mê cả đời thậm chí
khiến anh ám ảnh và phát điên. Nhưng với những người dân nơi đây, hoa sầu chỉ
đem đến những nỗi đau: “Người làng nó căm thù những cây sầu trên đỉnh Puvan,
người ta gạt đi trước những lời đồn đãi rằng bông sầu đẹp, đẹp gì cái thứ đó, đẹp gì
ác nhơn ác đức vậy”. Thế mới thấy, Nguyễn Ngọc Tư khắc họa cái đẹp của thiên
nhiên, chiêm ngắm, ca ngợi những cảnh tượng thiên nhiên mỹ lệ nhưng không thi vị
hoá tự nhiên một cách chủ quan mà chị còn kí thác, thấu suốt hiện thực cuộc sống
được cất giấu dưới những bức tranh phong phú ấy.
Nhìn chung, qua ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư, vẻ đẹp của tự nhiên là vốn
có, là bản nguyên. Thiên nhiên vốn có đẹp đẽ, hoang sơ, phóng khoáng, bình dị, dịu
dàng mà cũng thực huyền bí. Thiên nhiên có thể không chịu tác động của con người
hay bất kì đối tượng nào khác bản thân nó đã là một sự tồn tại tươi đẹp, đặc biệt và
đáng trân quý trong hệ sinh thái. Cũng chính vì lẽ đó, sẽ thật đáng tiếc và đáng cảnh
tỉnh nếu con người có những hành động không trân trọng, làm tổn hại đến tự nhiên.

9
2.1.2. Thiên nhiên là cội nguồn của cuộc sống con người.
Từ xưa, văn thơ truyền thống đã khắc họa thiên nhiên từ các bình diện, nhân
cách hoá thiên nhiên hoặc coi thiên nhiên như phông nền, phương tiện để thể hiện
tính cách, ký thác tình cảm và khát vọng của con người. Tuy nhiên, trong sự vận
động và phát triển của văn học, từ sau 1975 thiên nhiên đã có một cách nhìn nhận
mới hơn. Nhất là đối với các nhà văn chịu ảnh hưởng của quan niệm phê bình sinh
thái và theo dòng văn học phê bình sinh thái. Thiên nhiên đã được nhìn nhận và khắc
họa bằng một cảm quan trực diện và công bằng hơn. Thiên nhiên được đặt vào đúng
vị trí để nhìn nhận rõ vai trò, tầm quan trọng của nó mà không phụ thuộc vào cái
nhìn lãng quên hay áp đặt của con người. Chúng ta phải thừa nhận rằng, cho dù cuộc
sống con người được tạo nên, đắp bồi và chăm sóc bởi nhiều yếu tố nhưng thiên
nhiên vẫn đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng trong đó, thiên nhiên là một trong
những cội nguồn của cuộc sống con người. Trong các truyện ngắn của Nguyễn Ngọc
Tư mà chúng tôi tìm hiểu và phân tích, tác giả cũng luôn nhìn nhận và làm rõ vai trò
của thiên nhiên trong việc tạo nên cuộc sống của con người.
Trước hết, thiên nhiên là nơi cưu mang con người, không có thiên nhiên
con người có thể lụi tàn. Con người là một phần của hệ sinh thái, thiên nhiên cung
cấp cho con người nguồn sống. Thiên nhiên cho con người tài nguyên để sống, làm
việc và sinh hoạt. Trong các truyện ngắn phần nhiều hướng về cuộc sống vùng sông
nước của người dân Nam Bộ, cuộc sống con người gắn liền với sông nước, gắn bó
mật thiết với tự nhiên. Ở đó, có người dành cả cuộc đời gắn bó với sông nước, với
thuyền bè, với cuộc sống lênh đênh dập dềnh trên những khúc sông như gia đình
Chín trong Nhớ sông, sống đời trên ghe và mưu sinh bằng nghề bán hàng bông. Cũng
có những người coi sản vật trong thiên nhiên là nguồn sống, nguồn sinh dưỡng như
vợ chồng Sáo trong Nước như nước mắt. “Cá bị nước đuổi ốm tong teo nhưng chồng
Sáo sướng quên trời đất, và như con nít, anh đứng múa may quay cuồng ở đầu ghe,
kêu hết sẩy hết sẩy, nói phước đức ông bà để lại.”. Chỉ một chút “quà” nhỏ từ tự
nhiên cũng khiến họ có thể duy trì sự sống. Nhờ có thiên nhiên họ mới có thể tiếp
tục cuộc sống, đói no, sướng khổ đều phụ thuộc vào những gì có thể có được từ tự
môi trường tự nhiên xung quanh: “Vợ chồng Sáo neo ghe ngay trên đất vườn mình,
cạnh mái nhà mình, lay lắt sống nhờ chài lưới những con cá nước đục còn sót lại
ốm ròm trên mình đầy ghẻ lở… sau đó thì tới đám cá nước trong len lỏi vào sâu
trong đất liền, hai đứa kiếm được chút đỉnh tiền gạo và không đến nỗi cực ăn”. Khi
con người muốn kiếm sống, họ khai thác tự nhiên, đánh bắt, họp chợ, giao thương

10
buôn bán. Khi con người ốm đau, bệnh tật họ cũng tận dụng những phương thuốc
đến từ tự nhiên, uống nước mía lau, rễ tranh để chữa sốt xuất huyết, chữa đẹn bằng
cỏ mực (Thương quá rau răm). Có thể thấy thiên nhiên đủ rộng lớn và bao dung cho
cuộc sống của con người. Thế nên, nếu không có thiên nhiên con người có thể đối
mặt với rất nhiều nguy cơ, bất hạnh thậm chí là tàn lụi. Sự khô hạn kéo dài khiến
những con người vùng núi Puvan héo hon, chết dần chết mòn chỉ còn cách bỏ đi
hoặc ở lại và hàng ngày khát cầu những giọt nước. Để rồi khi chỉ cần mưa một trận
đã đủ khiến con người hồi sinh từ cõi tuyệt vọng, khiến họ “sướng như sắp ngất đi”.
Biến đổi khí hậu, nước tràn vào bờ khiến những người như vợ chồng Sáo (Nước như
nước mắt) cả đời sống dựa vào những gì kiếm được từ tự nhiên giờ đây oằn mình
hứng chịu những thiệt hại, bất lực trước cuộc sống mưu sinh. Quả thực, thiên nhiên
có vai trò cốt yếu đối với cuộc sống của con người, thái độ đúng đắn của con người
với thiên nhiên nên là trân trọng, gìn giữ nếu không sẽ dẫn đến những hậu quả khó
lường. Thái độ, cách hành xử của con người đối với môi trường tự nhiên và những
hệ luỵ của nó chính là một vấn đề quan trọng mà văn học sinh thái hướng đến mà
chúng tôi sẽ phân tích kĩ hơn ở các luận điểm sau.
Bên cạnh đó, thiên nhiên gắn với hoài cảm về làng quê cùng những giá trị
văn hoá truyền thống. Thiên nhiên góp phần cấu thành nên đời sống văn hoá của
con người. Theo Trần Ngọc Thêm, văn hoá là “một hệ thống giá trị mang tính biểu
tượng do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự
tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”. Chính quá trình hoạt động
thực tiễn, trong sự tương tác với môi trường tự nhiên đã hình thành nên tập quán từ
nếp ăn, ở, đi lại, giao thương và đời sống tín ngưỡng của con người, mà trong các
sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư đó là con người vùng sông nước Nam bộ. Như đã
phân tích bên trên, dấu ấn của thiên nhiên nơi đây là mạng lưới sông ngòi chằng chịt,
thế nên cuộc sống của con người chủ yếu gắn với xuồng, ghe, bè,…Các hình ảnh
này cũng thường xuyên xuất hiện trên trang văn của chị. Từ những chiếc ghe nhỏ
làm phương tiện đi lại, chuyên chở trong Của ngày đã mất. Đến những chiếc ghe để
sinh sống, tránh ngập trong Nước như nước mắt: “Tết chưa tàn vợ chồng Sáo đã lụi
hụi dọn đồ đạc lên ghe, bông vạn thọ trồng trong cái khạp lủng để trước hàng ba
còn chưa bung nở hết”. Hay những chiếc xuồng ghe dùng để chở đồ giao thương,
buôn bán trong Có con thuyền đã buông bờ: “Chợ họp ở trên một bờ kè cũ kỹ nằm
dọc theo bến sông. Ai ngồi bán chỗ nào thì xuồng ghe xuồng buộc vô cái cọc đằng
sau lưng”. Và cả những chiếc xuồng trong chuyến “du ngoạn” thả hồn ngắm cảnh

11
của Bằng trong Thềm nắng sau lưng: “thả xuồng trôi dập dềnh bên những chùm
gọng, đang nói tiếng chim giữa chơi vơi nước lớn”. Còn có cả những chiếc ghe gắn
chặt với lời ca, tiếng hát của con người: “Những khúc hát của các bà má ở xứ này
đã giữ chân chúng tôi lại quá lâu”; “hôm nào chúng tôi ra đi cũng gặp khúc hát mới
từ một bà già trầu đỏ trên môi” (Của ngày đã mất). Nhắc đến thiên nhiên sông nước
là nhắc tới những câu ca, điệu hò. Thưởng ngoạn sông nước thì phải lắng nghe vài
ba điệu hò chèo ghe, hò mái đoản,…thứ âm thanh chẳng cần đệm, không cần nhạc
mà vẫn nhẹ nhàng ăn sâu vào lòng người bởi sự nhịp nhàng, lên xuống của mái chèo
vang vọng trên những khúc sông yên ả, khoáng đạt. Một vài nét vẽ tạo nên bức tranh
sinh động về cuộc sống của những con người gắn bó với sông nước, tận dụng tối ưu
mặt nước trong cuộc sống để kết thành tổ hợp văn minh sông nước rất đặc trưng.
Thiên nhiên sông nước cũng đi vào tín ngưỡng của người dân, cho họ niềm tin và hy
vọng. Theo quan niệm xưa, sông nước chính là khởi thuỷ của sự sống. Từ lâu người
Việt đã có tục thờ Nước (thờ Mẫu). Do đó, nước tượng trưng cho sự sinh sôi, trở
thành một “cổ mẫu trong văn chương”. Trong các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư,
niềm tin đó của nhân dân vẫn còn nguyên vẹn. Tính nữ của sông được tác giả đề cập
đến bằng cách sử dụng từ “con”. Hơn nữa, thiên nhiên cũng trao cho con người
những niềm hi vọng đặc biệt đối với những người khao khát làm cha làm mẹ: “Má
chồng Sáo hồi còn sống thường thắt thẻo nói vợ chồng nào hiếm muộn con cái nuốt
mật cặp cá Bạc Đầu thể nào cũng cấn thai.”. Người dân Nam Bộ còn có niềm tin
rằng đặt tên con là Giang, là Thuỷ, là Lụt cho gần gũi với sông nước nhằm dễ nhớ,
dễ nuôi và dễ sống.
Chính vì những đặc điểm tự nhiên, những giá trị văn hóa được tạo nên từ sự tương
tác với môi trường tự nhiên nên con người vừa mang những nét tính cách hồn hậu,
chất phác vừa gắn bó mật thiết với tự nhiên. Họ là những con người bình dị mà cũng
lam lũ, vất vả. Họ sống cuộc đời gần gũi với tự nhiên đồng thời cũng phải đối diện
với đói khổ, nghèo nàn. Nơi họ sống có “cái nồi méo mó cháy đen”, có “những căn
nhà cột gặm gió thổi lá mục rơi lả tả, chiếc tivi đen trắng xài bình ắc”; “những cột
xay bột bằng đá xám”, “những vách buồng được đan bằng sậy đập giập” (Thổ sầu).
Nơi họ sống “Chân trời chỉ nước và cây, mặt trời mọc trên sông rồi lặn vào sông,
bờ Bắc bờ Nam nhiều bụi rậm mọc hoang lẫn trong những chòm cây cối. Chiều nào
bìm bịp kêu, nắng chìm lỉm theo” (Khói trời lộng lẫy). Nhưng ở họ, luôn có tình làng
nghĩa xóm thắm nồng từ những điều bình dị nhất trong cuộc sống. Họ là những người
hàng xóm thân tình giúp đỡ hai mẹ con “tôi” trong Khói trời lộng lẫy: “nhìn những

12
người xóm Cồn í ới giúp tôi lợp nhà, ven vách”. Những hành động nhỏ nhưng ấm áp
nghĩa tình đủ sức làm vơi bớt phần nào nỗi cô đơn, hoang hoải của người đàn bà bất
hạnh. Họ là những người đàn bà lái xuồng, lái ghe cất cao tiếng hát, điệu hò với
khách thập phương trong Của ngày đã mất. Con người mang trong mình nét thơ
ngây, trong trẻo mà đằm thắm, nhạy cảm như những nhân vật nữ “em” trong “Của
ngày đã mất” hay Hiên trong Thềm nắng sau lưng. Đặc biệt ở họ đó là sự sống gắn
kết không thể tách rời thiên nhiên, quê hương. Như Giang trong Nhớ sông: “Mỗi lần
qua sông Cái Lớn, Giang lại nghĩ, chắc tới già, tới chết, mình sẽ chẳng bao giờ rời
chiếc ghe nhỏ này đâu”. Như “tôi” trong Thổ sầu: “Tôi cúi mặt nhìn đôi bàn chân
đang ngập trong bùn, không, tôi không bỏ Thổ Sầu được, vì tía tôi không đời nào
chịu dời đi. Vì sau vườn cỏ lại mon men bò lên mộ má tôi, ông bà tôi…”. Từ bao đời,
họ đã gắn bó với mảnh đất này, với thiên nhiên vạn sự nơi đây, nên họ yêu nó và
chung thuỷ với nó. Có thể thấy, được đắm mình trong đời sống thôn quê sông nước,
Nguyễn Ngọc Tư mang trọn vẹn sự nhạy cảm của tâm hồn, cái tài tình khi dùng câu
chữ để kể những câu chuyện về miền sông nước bình dị mà long đong này. Cái tình
của con người cứ đầy ắp trong từng trang truyện của chị, để độc giả cảm nhận được
phần nào đặc trưng của mảnh đất, con người nơi đây cũng không ngăn lòng mình
yêu mến con người nơi vùng quê vừa yên bình vừa chuyển động dữ dội này.
Thế nhưng, cái thời con người còn gắn bó không thể tách rời với thiên nhiên đã là
của một thời quá vãng. Hiện tại đã có những biến động, thay đổi không thể phủ nhận.
Nguyễn Ngọc Tư đã tinh nhạy quan sát, cảm nhận và ký thác lại vào trang viết của
mình một cách đầy tinh tế và giàu cảm xúc. Đời trong các tác phẩm như Nhớ sông
là đời từ thuở trước, cái thuở mà con người còn chung thuỷ với nhau và chung thuỷ,
hoà ái với tự nhiên. Thiên nhiên biến động, con người cũng đổi, họ không còn gắn
bó với thiên nhiên quê hương nữa, họ khao khát hướng tới những gì mới lạ hơn, sung
túc và giàu có hơn. Họ không chấp nhận cuộc sống đơn điệu nơi thôn quê bình đạm
nhưng nghèo nàn quanh năm sông nước với những con người chân chất mà nghèo
túng. Mong muốn vượt thoát, một cuộc sống ngập tràn sắc màu hấp dẫn họ hơn
nhiều. Điều đó được thể hiện qua suy ngẫm của nhân vật ông Tư Mốt trong Thương
quá rau răm: “Bên ngoài cái đất Mút Cà Tha dường như đã có sự thay đổi lớn. Thí
dụ như con cá, lá rau, hạt gạo mến thương của người cù lao không ràng buộc được
một con người (như đã từng rịt chân ông lại)”. Ông Tư là hiện thân của những con
người thuộc về truyền thống, những người đã quen đã gắn bó với cuộc sống thôn
quê, với thiên nhiên suốt cả cuộc đời. Nay, những thứ ông đã luôn yêu quý, luôn trân

13
trọng và khắc ghi đã không còn đủ sức “níu chân” một con người, họ không muốn ở
lại cũng không muốn trở lại. Đó là suy ngẫm vừa có sự nuối tiếc vừa có sự cảm khái
nhận ra và thức tỉnh. Hay như nhân vật người cha, người phiêu bạt “giang hồ” trong
Thềm nắng sau lưng, rồi đến Bằng cũng vì cái mong muốn khao khát của tuổi trẻ,
muốn được trải nghiệm muốn được kiếm tìm hạnh phúc mới mẻ mà rời bỏ quê
hương, rời bỏ xóm làng với những cảnh vật thiên nhiên thân thuộc đã từng gắn bó.
Tựu trung, Nguyễn Ngọc Tư đã hướng ngòi bút vào thiên nhiên và con người
trong mối quan hệ tương quan với nhau để thấy rằng thiên nhiên có vai trò quan
trọng đối với con người. Qua việc khắc họa thiên nhiên và cuộc sống con người vùng
sông nước Nam Bộ, tác giả đã cho thấy thiên nhiên là cội nguồn của cuộc sống con
người, có vai trò tiền đề trong đời sống vật chất cũng như đời sống văn hoá của con
người. Qua đó tác giả muốn ký thác những tình cảm hướng đến thiên nhiên và con
người đồng thời cũng gợi nhắc đến một vấn đề quan trọng trong cuộc sống hiện đại,
con người phải chăng đang dần xa rời tự nhiên, xa rời những điều bình dị thân thuộc.
2.1.3. Thiên nhiên cứu rỗi và thanh lọc tâm hồn con người.
Từ xưa đến nay, mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người luôn là mối quan
hệ cộng sinh. Tự nhiên cho con người nương tựa, hào phóng ban tặng cho con người
tất cả những gì mình có. Tự nhiên là nơi cưu mang con người khỏi sự đau khổ, mất
mát mà họ phải chịu đựng khi sống trong thế giời loài người, là nơi nương tựa giúp
con người bớt cô đơn, và cũng là nơi con người trút bỏ ưu phiền, sự lãng quên để
tìm lại chính mình đã mất trong cuộc sống thành thị bận rộn, hối hả.
Thứ nhất trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư ta không ít lần bắt gặp
hình ảnh những con người cô đơn, lạc lõng hay những con người chạy trốn khỏi
thế giới loài người đầy lừa lọc, dối trá, khổ đau tìm đến thiên nhiên làm nơi nương
tựa. Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư thường phơi bày thế giới thực tại của con
người với những bí mật, những góc khuất đáng sợ mà “chính con người cũng không
thể hiểu được” nó đẩy con người đến sự sợ hãi, từ chối giao tiếp với con người. Và
khi ấy, thiên nhiên chính là nơi để họ nương tựa, vơi bớt nỗi cô đơn, trống trải mênh
mông trong cuộc đời. Nương và Điền trong “Cánh đồng bất tận” khi phải chứng kiến
những hành động của người lớn khiến họ sợ hãi, kinh sợ loài người và họ tự nguyện
hòa nhập cuộc đời mình vào với tự nhiên. Nương và Điền đặt tên cho những cánh
đồng bằng những kỉ niệm của riêng mình và những kỉ niệm đánh dấu sự trưởng thành
về nhân cách cũng như thể xác của họ đều gắn liền với tự nhiên: những cánh đồng

14
bất tận mang tên cuộc đời của hai em và tình yêu của hai em đối với sự sống quanh
mình, nó mang những ý nghĩa đặc biệt chỉ dành riêng cho hai em và chỉ hai em mới
hiểu được. Có lẽ cuộc đời của họ chính là những cánh đồng bất tận trong lòng bà mẹ
Tự nhiên. Sống trong thế giới của tự nhiên, Nương và Điền khước từ con người,
thậm chí khước từ sự trưởng thành của giới tính trong chính mình vì cho đó là sự gia
nhập vào thế giới con người đầy dối trá, hận thù và đau đớn mà các em đã rời bỏ.
Điền xót xa khi chứng kiến chị mình “trổ mã con gái”: “Đẹp làm chi dữ vậy, Hai?
Ở cái xó quê này, có đẹp mai mốt cũng phải lấy chồng, đẻ một bầy con nheo nhóc,
cũng ra ruộng ra vườn làm lụng đến hết đời, xẹp lép như xác ve. Đẹp, mắc công
giữ…”. Đau đớn hơn nữa khi Điền “tự kìm hãm bản năng trỗi dậy mạnh mẽ ở tuổi
dậy thì bằng tất cả sự miệt thị, giận dữ, căm thù” bởi cho đó là “những gì cha tôi
có, cha tôi làm”. Điền đã không được “trở thành người đàn ông thực thụ”. Điền –
đơn độc trong hành trình bảo toàn cho căn tính tốt đẹp của mình và cậu chỉ có thể
dựa vào tự nhiên dựa vào những cánh đồng, vào đàn vịt để nương tựa. Nếu như ở thế
giới loài người, hai chị em Nương chỉ toàn cảm nhận được sự dối trá, kinh sợ khi
chứng kiến hành động đáng lên án của cha mình thì ở thế giới tự nhiên, hai chị em
lại tìm thấy niềm vui, tình yêu thương, sự thanh sạch. Hai chị em học được sự trưởng
thành không phải từ người lớn, những người của thế giới làng xóm, cộng đồng kia,
mà từ bà mẹ thiên nhiên bao dung vô cùng nhưng cũng khắc nghiệt vô cùng: “Tôi và
Điền buộc phải tự học lấy cách sống. Nhiều khi dễ đến không ngờ... Nhờ Điền bị rắn
hổ đất cắn mà chúng tôi biết được cách phân biệt vết răng của rắn độc…Và nhìn
bướm bay, nhìn mây trôi tôi biết ngày nắng hay mưa. Nghe bìm bịp kêu chúng tôi
biết nước lên…” Đó là những kiến thức sinh tồn trong tự nhiên, cho phép họ tồn tại
và phát triển như một phần nội tại của chính nó, cả về bản thể lẫn nhận thức. Thậm
chí hai đứa trẻ tội nghiệp ấy lại nhìn thấy tình yêu từ đàn vịt “Chị em tôi học cách
yêu thương đàn vịt (hi vọng sẽ không bị đau như yêu thương một con người nào
đó)… Chơi với người thấy buồn nên chuyển qua chơi cùng vịt”. Họ kinh sợ thế giới
con người, từ chối nói tiếng người và đắm đuối với ngôn ngữ mới – ngôn ngữ của tự
nhiên “Thằng Điền cười, ủa, tụi mình hổng nói tiếng người?”, “Đắm đuối với loại
ngôn ngữ mới, chúng tôi chấp nhận để cho người ta nhìn mình như kẻ điên (miễn là
tạm quên nỗi buồn của cõi người).” Với Nương, những con vịt chính là nơi có thể
nghe thấy rõ điều trái tim em muốn nói “Đêm nào cũng vậy, cũng rón rén, từ tốn,
hai chị em thắp một ngọn đèn giữa chuồng, để lúc bọn tôi ra, chúng nhìn, biết không
phải người lạ, không xao động. Vừa nhỏ nhẻ lấy trứng, tôi vừa hát một bài hát bâng
quơ, đôi chỗ vì hạ giọng thấp mà hụt hơi. Bầy vịt nhạy cảm khủng khiếp, sau này,
15
tôi cố sửa lại những chỗ hụt hơi ấy, chúng nhận ra ngay, và nhìn tôi với vẻ ngờ vực,
“Ủa, phải con – người hôm trước không ta?”. Một con vịt đui khịt mũi, cười, “Nó
chớ ai, giọng có khác, những rõ ràng là tiếng trái tim nó. Quen lắm. Chập chờn, thút
thít, đong đưa như sắp rụng…”. “Có nổ hôn đó, cha nội? “Sao không, mấy người
thử đui đi rồi biết”. Bất giác, tôi nhắm mắt để nghe lại tiếng tim mình”. Cũng chính
vì vậy, khi đàn vịt bị chôn sống bởi những nhà chức trách khi dịch cúm vịt kéo đến,
Nương vô cùng xót xa vì “tiếc thôi là tiếc sinh linh nhỏ bé đã thấu được tim mình”.
Không phải cha cũng chẳng phải một con người nào khác, với Nương chính loài vật
dường như vô tri vô giác ấy lại là nơi để cô bé gửi gắm tiếng nói trái tim đầy mệt
mỏi, đau thương. Với Điền, cậu luôn từ chối sự lớn lên bằng cách kìm hãm bản thân
vì nghĩa tình dục là xấu khi chứng kiến hành động của cha nhưng khi nhìn thấy hình
ảnh đạp mái của đàn vịt cậu đã thay đổi suy nghĩ, cách nhìn của mình, chính đàn vịt
đã dạy cho Điền về vẻ đẹp đích thực của tình dục: “tôi phát hiện ra chúng chẳng
bao giờ cưỡng đoạt và gạ gẫm nhau. Khoảng thời gian trước khi con trống trèo lên
con mái rất thật, mềm mại, êm đềm… Tuyệt không có gì thô tục (…), trong sự hoan
lạc (của những con vịt) đầy ắp thứ gọi là tình – yêu”. Chính loài vật đã gọi cho Điền
bài học sơ giản về sự hài hòa của tình dục và tình yêu. Bởi lẽ, ở thế giới của chúng
Điền nhìn thấy sự hài hòa, tự nhiên “có mối liên hệ giữa mỹ cảm với hoạt động tình
dục ở ngay loài vật (…) chuyện tính dục được bộc lộ đầy thi vị, mang sắc thái thẩm
mỹ”. Còn ở thế giới loài người, hoạt động đó chỉ mang trong sự ích kỉ, hận thù, xấu
xa. Như vậy, ta thấy được sự trái ngược hoàn toàn giữa thế giới loài người đầy toan
tính, xấu xa với thế giới tự nhiên đẹp đẽ, thanh sạch và cũng chỉ ở nơi đó Nương với
Điền những đứa trẻ mang trong mình đầy vết thương về tinh thần do đấng sinh thành
tạo nên có thể cảm thấy thật sự vui vẻ, cảm nhận được tình thương và sự trưởng
thành.
Truyện ngắn “Gió lẻ”, khi đứng trước thế giới con người đầy lừa lọc, toan tính nơi
người lớn toàn mang những bộ mặt dối trá nhân vật Em cũng đã từ chối tiếng nói
loài người nguyện trở thành “người câm” và chỉ giao tiếp bằng tiếng nói của loài vật.
Em đã chứng kiến biết bao lời nói dối của người lớn để rồi mang trong mình bao vết
thương không thể chữa lành: lời nói của cha gây nên cái chết đau đớn của mẹ nhưng
ông ta lại thản nhiên dựng nên một cái chết sai sự thật của mẹ “người đàn bà tuyệt
vọng vì phát hiện mình bị ung thư dạ dày”; lời nói và hành động dối trá của ông Tám
Nhơn Đạo, rồi của chị Băng, rồi của rất nhiều người xung quanh em. Từng lời từng
lời nói dối ấy đều khiến cho em cảm thấy khó chịu “nôn mửa” và “câm lặng”. Em

16
đã chọn cách làm bạn với loài vật vì “việc nói chuyện với con này con kia làm giấc
ngủ trở nên hấp dẫn và dễ chịu”, thậm chí, sự giao tiếp với con Cò (tên con chó) còn
làm em có cảm giác “ran khắp người” nhưng cảm xúc ấy lại chết “từ khi nghe lại
tiếng người, mùi người”. Em chấp nhận “vĩnh viễn nói kiểu của chim” vì “tiếng nói
của con vật không dùng làm để tổn thương nhau” như tiếng nói của con người. Như
vậy, ở đây, Nguyễn Ngọc Tư đã đưa ra một triết lý sinh thái về cái nhìn bình đẳng
với tự nhiên, con người giờ đây không còn là “trung tâm” của thế giới nữa. Con
người trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư đã không còn hoàn hảo mà mang đầy
những khiếm khuyết vì ích kỷ vì dục vọng và khi phát hiện ra điều đó các nhân vật
của chị phải từ bỏ tiếng nói loài người tìm đến ngôn ngữ của tự nhiên. Điều đó khẳng
định sự cô đơn khủng khiếp của loài người khi đang sống giữa thế giới của loài người
và họ chỉ tìm được bình yên nơi tâm hồn khi ở bên cạnh thiên nhiên. Đồng thời, khi
đặt con người vào sự đối lập với thế giới tự nhiên Nguyễn Ngọc Tư đã đề cập đến
sự thiếu sót lớn trong cuộc sống của con người hiện đại, khi con người rời bỏ tự
nhiên nghĩa là con người đã rời bỏ bản tính thiên nguyên tốt đẹp của mình.
Cũng có khi, thiên nhiên là nơi cưu mang, bao bọc con người khi họ muốn chút
bỏ đi những muộn phiền của hiện thực, họ cũng chạy trốn khỏi thế giới loài người
nhưng là để chút bỏ nỗi buồn, ẩn ức của cuộc sống. Đó là xóm Cồn trong “Khói trời
lộng lẫy” nơi của những con người tìm đến để “chờ đợi một sự lãng quên, giống ông
Sáu Câu từng chịu án giết người, giống chị Thắm lẩn tránh những đòn ghen của bà
vợ lớn, giống chị Thiện bỏ lại ở quê chồng con và món nợ hụi hè… Những người mà
họ nợ dù tình cảm hay tiền bạc, biết học ở đây, nhưng không ai đuổi theo. Cái cồn
nằm giữa dòng sông Mê mênh mông, tự nó như một chốn lưu đày”. Những con người
khốn khổ mang trong mình những món nợ ấy tìm đến tự nhiên như để tìm đến sự
bình yên, sự thanh thản trong tâm hồn. Hoặc cũng có thể giống như Di đến đó như
một cuộc chạy trốn nhưng lại với mong muốn “người ta còn tìm kiếm” mình, còn
nhớ đến mình. Và dù có ai đến, ai đi thì xóm Cồn nhỏ ấy vẫn cung cấp nơi ở, nước
sinh hoạt, cung cấp thực phẩm thậm chí cùng họ trút bỏ những nỗi buồn, những lỗi
lầm của quá khứ.
Thứ hai, thiên nhiên không chỉ là nơi nương tựa cho những con người cô
độc chạy trốn thế giới loài người mà còn là nơi để những người cô độc một thân
một mình giữa biển đời mênh mông chia sẻ, giãi bày. Trong truyện ngắn “Cái nhìn
khắc khoải” tình cảm của ông lão chăn vịt với con vịt Cộc chính vô cùng gắn bó và
thân thiết đến nỗi người ta phải than phiền rằng “Cha nội này sống thấy rầu quá trời
17
đất, mai mốt con vịt xiêm đó chết rồi, để coi ông sống với ai”. Ông lão chăn vịt sống
một cuộc đời lang bạt, cô độc gắn bó với ông chỉ có đàn vịt ngày ngày cùng ông đi
khắp nơi trên đồng khơi trong đó có con vịt Cộc như một người bạn của ông. Ông
giao tiếp trò chuyện với con vịt như một con người thực thụ “Cộc, biểu”; “Cộc, giận
gì mà xuống đó vậy mậy?”; “Mình đàn ông gì cũng được, giờ có thêm người…Ông
ngừng lại, vuốt cánh con vịt – vậy hen Cộc”; hay “Mai mốt mình đi nữa hen
Cộc…”;… Con vịt Cộc dường như luôn có thể hiểu lời nói của ông lão và nó luôn
có những hành động đầy ngộ nghĩnh để đáp lại câu chuyện của ông. Nó cũng biết
chia sẻ, biết cảm nhận sự khó khăn của ông lão “Con Cộc điềm đạm lại cái mẹ lúa,
nó ăn chậm rãi. Ý nói sao mà tôi tội nghiệp hai người quá đi, làm người mà khổ vậy,
làm vịt sướng hơn”, cũng biết cách an ủi, thấu hiểu, cảm thông “ gác đầu lên đùi
ông, cọ cọ an ủi”; “Con Cộc mổ vô ống quyển của ông, rồi nhóng cần cổ dòm ông
lom lom, có phải ông chờ bà đó quay lại không?”. Chính nhờ có con vịt Cộc mà
cuộc sống của ông Hai bớt cô độc hơn khi có người bầu bạn, an ủi.
Thứ ba, thiên nhiên còn là nơi con người được trút bỏ những mệt mỏi, ưu
phiền nơi trần gian, làm thanh lọc tâm hồn con người, giúp con người tự nhìn
nhận lại bản thân. Vĩnh (Sầu trên đỉnh Puvan) là một chàng trai thành phố ưa thích
khám phá, với niềm đam mê vẻ đẹp lạ lùng, huyền bí của hoa sầu đông chỉ nở hoa
vào cơn mưa đầu tiên sau 13 tháng nắng liên tiếp. Đứng trước sự huyền bí của thiên
nhiên “Vĩnh như phát điên, như đang mộng du khi những vòm lá chết của những cây
sầu bỗng phát sáng”. Với Vĩnh những bông sầu trên đỉnh Puvan chính là nơi thanh
sạch,vô tư nhất “không tùy thuộc vào tham vọng hay sự giàu có của anh” và anh
luôn “muốn tận mắt nhìn thấy” những bông sầu ấy. Nhưng cũng chính khi chinh
phục được vẻ đẹp tự nhiên dịu hiền, độc đáo ấy đã khiến Vĩnh cảm thấy cuộc sống
thật nhạt nhẽo “Và anh biết làm sao với ngày mai? Còn gì để mà chờ đợi, mà chinh
phục nữa? Anh còn níu được gì để ngồi dậy mỗi ban mai? Vĩnh quỳ trước vòm bông
sầu, rối bời vì ý nghĩ đó. Cô gái giang hồ kia sống vì con, vì mối tình ngắc ngoải, bị
xé lìa; thằng bé tên Củi thất học kia còn có mẹ; anh thì không vì ai, không vì cái gì
hết. Anh thấy sợ hãi ngày mai trống rỗng kia. Hoang mang. Ngơ ngác. Rã rời. Vụn
nát”. Đứng trước thiên nhiên, Vĩnh cảm thấy cô độc, cảm thấy mệt mỏi, thấy sự vô
nghĩa của kiếp người. Phát hiện ra điều đó, Vĩnh đã từ chối trở lại cuộc sống thành
thị xô bồ đầy mệt nhọc chán chường và lựa chọn cái chết giữa tự nhiên “Dịu thức
dậy, bông sầu đã rụng tả tơi, những bông sầu bầm lại như máu khô. Và Vĩnh treo
mình lơ lửng trên cành sầu khẳng khiu, trơ trụi. Trên đỉnh núi không có thêm đỉnh

18
núi, và Vĩnh không muốn xuống núi, chẳng có gì đợi anh ở đó”. Cái chết giữa thiên
nhiên của Vĩnh như một cách giúp anh có thể trút bỏ nỗi cô đơn, sự ưu phiền giữa
trần gian nơi “anh sống không vì một ai” luôn cô độc trong hành trình vô định của
chính mình.
Với Bằng trong Thềm nắng sau lưng anh luôn khao khát được sống hòa mình với
thiên nhiên, chọn cách phiêu du trên những chiếc thuyền dù mẹ ngăn cấm. Bằng luôn
tận dụng cơ hội để lắng nghe tiếng nói của loài vật “Có bữa bơi xuồng qua nhà ngoại
chở nước mưa, trên đường về nghe bìm bịp kêu thâm u trong bờ dừa nước, cậu cũng
bắt chước kêu bịp bịp. Cả khúc sông nhói ran. Bà mẹ đợi lâu quá lội bộ đi kiếm, thấy
thằng con đang thả xuồng trôi dập dềnh bên những chùm gọng, đang nói tiếng chim
giữa chơi vơi nước lớn.” Có khi cảm thấy sợ nước mắt của Hiên – đứa em gái của
người chồng thứ hai của mẹ, Bằng cũng tìm đến tiếng nói của tự nhiên “Con Hiên
khóc tức khóc tưởi như Bằng vừa mới đánh nó. Bằng sợ nước mắt như ngày xưa ba
nó sợ nước mắt má nó, nên bỏ ra vườn, chọc ghẹo con tu hú, chim vừa kêu vừa bay,
Bằng vừa kêu vừa đi, theo hết chín mảnh vườn, băng qua chín hào ranh, mệt đứt
hơi”. Trong tâm trí Bằng luôn muốn được “thả chiếc xuồng chở đầy nước mưa trôi
theo tiếng kêu buồn trĩu của con bìm bịp, trong Bằng không còn thời gian, bờ bến,
thế giới không còn người, đến chính Bằng cũng không còn”. Trước sự kìm hãm, hi
vọng của người mẹ, trong thâm tâm Bằng luôn có ước muốn được giải thoát được
phiêu du và được hòa mình với thiên nhiên vì vậy mỗi lần có muộn phiền anh luôn
tìm cách giao tiếp với những con chim tu hú, chim bìm bịp để có thể khiến tâm hồn
trở nên thanh thản, bớt muộn phiền hơn.
Cũng có lúc thiên nhiên giúp con người tìm kiếm lại chính mình của ngày xưa,
ngày còn hồn nhiên chưa bị cuốn vào vòng xoáy của cuộc sống thành thị. Người cha
(Chuồn chuồn đạp nước) – thiên nhiên giúp ông có thể nhìn nhập lại, tự vấn lại mình.
Người cha – người trước giờ luôn tự tin trước vợ con về sự hiểu biết, về học thức
của mình nay vì không thể giúp con gái trả lời câu hỏi “Chuồn chuồn đạp nước là
gì” trong một chương trình trò chơi truyền hình đã khiến ông rất băn khoăn. Trước
sự kiện này, ông bỗng dưng trở nên tự ti, luôn suy nghĩ, lo sợ người khác cười chê
vì “người viết ra những trang văn đầy góc cạnh nóng bỏng, thấu đáo mọi sự được
mất, triết lý xâu xa, là một người mất căn bản trầm trọng về… chuồn chuồn.” và
điều đó khiến ông phải dừng lại suy nghĩ từ từ “cha chạy xe về quê. ha ngồi trong
khoảng vườn đượm nắng chiều, nơi cha vẫn thường về khi mệt mỏi hay căng thẳng,
tuyệt vọng, nhìn chuồn chuồn đậu trên đám chà trong ao, cào cào búng trên những
19
bụi cỏ ống, mấy con ong ve vãn bông đậu bắp.” Cha đã dừng lại trước cuộc sống thị
thành đầy bon chen, vội vã để kịp thời nhận ra mình đã bị cuốn vào cuộc sống đô thị
đó mà quên đi mình đã từng có tuổi thơ vui vẻ, hồn nhiên cùng với thiên nhiên “Cha
ở với đám chuồn chuồn cào cào ong mật suốt cả cơn nắng tắt, nghĩ mông lung, tụi
chuồn chuồn đã chơi với mình suốt một tuổi thơ sao không đẻ cho mình thấy, hay là
mình đã từng thấy nhưng cuộc sống thành thị khiến mình quên đi, tại sao không quên
chuyện gì khác mà quên chuyện chuồn chuồn đạp nước? Có quá nhiều chuyện nhân
tình thế thái mà cha không quên, có nhiều thằng cha xỏ lá cà khịa đâm sau lưng cha,
đáng lẽ nên quên đi cười trọn nụ, để đời nhẹ nhõm mà cha không quên, thì sao lại
quên vụ này?” Cha giật mình nhận ra, tuổi thơ gần gũi với thiên nhiên của mình đã
bị mình quên đi và ông đã tự băn khoăn, dằn vặt vô cùng. Ông nhận thấy rằng mình
giờ đây phải câm lặng trước người em trai luôn say xỉn ở quê không chỉ đơn giản vì
ông không biết “Chuồn chuồn đạp nước là cái gì?” mà là vì chính ông cảm thấy hổ
thẹn với chính mình, với tuổi thơ, với gốc gác quê hương của mình vì đã lãng quên
đi nó khi ông lên thành thị sống và làm việc. Băn khoăn trước việc không biết đến
kiến thức cơ bản của tập tính chuồn chuồn, cha đã tìm lại bình yên nơi quê nhà, lắng
nghe tiếng nói của tự nhiên để tự suy xét, tự nhìn nhận lại bản thân từ đó mới giúp
ông thanh thản hơn. Chính thiên nhiên là nơi giúp con người giải tỏa những suy tư
và cũng chính là nơi để con người hiện đại có thể dừng lại nhìn ngắm, lắng nghe, tự
vấn bản thân để hiểu chính mình, để không đánh mất bản thân mình trong những
cuộc chạy đua vội vã của cuộc sống.
Hoặc cũng có thể, con người tìm đến thiên nhiên để tìm đến sự bình an, giải tỏa
đi “cái ác” trong mình như ông Sáu trong “Khói trời lộng lẫy”. Ông Sáu – một người
đàn ông kì lạ đã từng chịu án giết người lưu lạc đến xóm Cồn sống một mình trong
“một cái chòi, vốn ở lưng chừng, nhưng giờ cũng chấm chân vào mép nước. Và trong
cái chòi lá quật quăng tơi tả, ông đối mặt với dòng sông, ngồi câu bất kể những ngày
mưa dầm tối tăm trời đất.” Điều đặc biệt là ông không mê câu cá mà là vì “ông hay
thèm giết người, đây cũng là lý do ông ra cồn Bần ở, khi mãn tù”. Ông tìm đến nơi
tự nhiên hoang sơ này, đối diện với dòng sông này là để giảm đi cái ham muốn thèm
giết người của mình “Ở đây, nếu sự ham muốn đó trỗi dậy, ông phải lội lội qua sông,
hay chờ tàu đò đi ngang. Có khi tàu tới thì ông ngủ quên dưới bóng mát mấy cây
bần. Có khi lội chạm bờ kia thì ông mệt rã rời, tạnh nguội cơn khát máu. Nằm thở
một lát, ông lội ngược lại cồn.” “Ông già đã bao nhiêu lần thả cây này vào sông chờ

20
tạnh cơn thèm muốn tím giết gã tình địch đã làm gia đình tan nát, khiến ông nhúng
tay vào tội ác”.
Như vậy, thiên nhiên chính là nguồn an ủi, là chỗ dựa tinh thần, là nơi để con
người tìm về để xóa bớt những nỗi đau, những muộn phiền, day dứt. Dường như
trước thiên nhiên, con người đã bộc lộ phần nhân tính tốt đẹp mà đôi khi bị những
hệ lụy của đời phủ kín. Thiên nhiên đã thanh lọc tâm hồn, gột rửa tội lội và lọc đi
những thù hận. Là một người con của sông nước Nam Bộ, Nguyễn Ngọc Tư đã đưa
ra cái nhìn rất chính xác về sự cần thiết, tầm quan trọng đối của thiên nhiên trong
cuộc sống người dân nơi đây. Sự nhận thức này cũng được thể hiện rõ trong từng
thiên truyện của nhà văn.
2.2. Thiên nhiên và con người trong khủng hoảng môi trường sinh thái.
2.2.1. Thiên nhiên bị hủy hoại, “biến mất”.
Cũng bởi sự trăn trở với thiên nhiên, sự sẻ chia hòa nhập cùng những sinh
vật đang tồn tại bên cạnh con người, nên Nguyễn Ngọc Tư viết về những câu chuyện
con người vô tình gây nên những tội ác với tự nhiên nhiều hơn phần viết về những
vẻ đẹp của tự nhiên. Trong Khói trời lộng lẫy, thiên nhiên đã bị hi sinh cho những
mục đích thực dụng của con người. Con người biến thiên nhiên thành đại công
trường, thành khu công nghiệp hay những nhà ở, thành phố.. Với Nguyễn Ngọc Tư,
điều này là cách con người “hạ nhục thiên nhiên”, “xua đuổi thiên nhiên đi xa" bởi
đã can thiệp thô bạo vào vẻ đẹp nguyên sơ vốn có của chúng. Tự nhiên cho con người
nương tựa nhưng con người lại vô tâm khai thác tự nhiên đến cùng kiệt. Trong truyện,
Nguyễn Ngọc Tư đã lí giải trực diện về nỗi ám ảnh đô thị từ góc nhìn của con người
Nam Bộ. Bởi nỗi sự hãi cơm áo gạo tiền qua nhân vật chị Sương “đói rã họng ở thị
thành mới chạy về quê" hay “bàn chân xua giờ đang vất vơ kiếm sống ở thị thành”.
Đô thị xâm lấn những cánh đồng đồng nghĩa với việc con người mất đất đai và điểm
tựa trong những ngày lưu lạc. Có thể thấy, đô thị là không gian sinh tồn của con
người nhưng lại không phải là nơi đem lại cho ta một cuộc sống hài hoà sinh thái và
bầu khí quyển tự nhiên. Bên cạnh đó, chính tên nhan đề truyện Khói trời lộng lẫy
cũng hàm chứa ý nghĩa ẩn dụ cho nội dung truyện với hình ảnh khói trời bay lên
mang vẻ đẹp lộng lẫy ở cuối truyện. Không ai có thể nắm khói trời và lưu giữ sự
lộng lẫy của nó. Đó là vẻ đẹp chỉ có thể ngắm nhìn và trân trọng vào phút giây khói
bay lộng lẫy trên bầu trời. Yêu thiên nhiên nhưng cách vĩnh viễn hoá vẻ đẹp cảnh
quan đôi khi chỉ mang lại ảo tưởng cho con người. Bởi vẻ đẹp đang bị nhốt trong
viện kia là những vẻ đẹp chết, ở đó không có sinh sắc của sự sống.
21
Bên cạnh đó, trong Cánh đồng bất tận Nguyễn Ngọc Tư có đề cập tới vấn đề
đô thị hóa. Đô thị hoá là một quá trình không cưỡng lại được của xã hội hiện đại, thế
nhưng mặt trái của quá trình ấy khiến chúng ta trở nên ưu tư, day dứt. Kéo theo quá
trình đô thị hoá là không gian sống bị thu hẹp lại. Những hoạt động của công nghiệp
và đô thị phải trả giá bằng việc đánh đổi những cánh đồng trù mật, đôi khi kéo theo
sự suy giảm của môi trường tự nhiên. Tự nhiên cho con người nương tựa, sẵn sàng
ban tặng cho con người những gì mình có, thế nhưng con người lại vô tâm khai thác
tự nhiên đến cùng kiệt. Người ta phá bỏ không gian xanh để xây dựng một “không
gian xanh khác", rồi đẩy người nông dân rời xa cõi sống quen thuộc của họ.. Và kéo
theo đó là sự suy giảm của môi trường sống được đặt ra ở “Cánh đồng bất tận” của
Nguyễn Ngọc Tư, qua đôi dòng cảm nhận của Nương “Những cánh đồng trở thành
đô thị; những cánh đồng ngoa ngoắt thay đổi vị của nước, từ ngọt sang mặn chát...,
đã hất hủi cây lúa và gián tiếp từ chối đàn vịt. Đất dưới chân chúng tôi thu hẹp dần”.
Hành động tàn phá môi trường khiến con người phải trả giá. “Cánh đồng bất tận”
đã mở ra một bức tranh khô hạn “mùa hạn hung hãn dường như cũng gom hết nắng
đổ xuống nơi này", “trong một mùa hạn nóng bỏng bất thường" hay “mùa mưa vẫn
còn xa lắm" rồi là “nắng võ vàng trên những cánh đồng hoang lạnh". Thậm chí là
“những trưa nóng rát, nắng như tát lửa". Thực tế, hạn hán là thảm hoạ đối với người
nông dân, bởi “những cây lúa chết non trên đồng, thân đã khô cong như tàn nhang
chưa rụng, nắm vào tay là nát vụn", “lúa chết khô, bông lúa khô quắt queo trên
đồng" và “nắng quay quắt như vắt như vo con người thành những hòn đá khô khốc
có thể lăn cọc cạch". Đối diện với những thảm hoạ từ môi trường đem lại thì mọi
người dân đều mong thoát khỏi cái nắng nhưng có lẽ “mùa mưa vẫn còn xa lắm".
Cụ thể hơn, sự suy giảm môi trường sống trong “Cánh đồng bất tận” được hiện
ra từ những trải nghiệm của nhân vật Nương khi cô ở nơi: “những cánh đồng trở
thành đô thị, những cánh đồng ngoa ngoắt thay đổi vị của nước, từ ngọt sang mặn
chát, những cánh đồng vắng bóng người và lúa rày mọc hoang nhớ đau nhớ đớn bàn
chân xưa nghẽn trong bùn quánh giờ đang vất vơ kiếm sống ở thị thành. Những cánh
đồng đó đã hắt hủi cây lúa (và gián tiếp từ chối đàn vịt). Đất dưới chân chúng tôi bị
thu hẹp dần". Thế giới hoang sơ của Nương bị thu hẹp, tha hoá, phân huỷ trước sự
xâm thực của thế giới loài người (mà đô thị là biểu hiện đậm đặc nhất của nó, một
đô thị đầy nghịch lý, vừa đông đúc lại vừa hoang hoá bóng người), và khi cay đắng
nhận ra mình không thể nào tạo dựng một gia đình bình thường với một người đàn
ông nào nữa, thì Nương cũng nhận ra sự bất khả hoà nhập giữa hai thế giới. Thiên

22
tai đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi sinh và chất lượng cuộc sống của con người
Nam Bộ, khiến cho tính cách của con người nơi đây dần trở nên bí ẩn và hoang tàn.
Hay trong “Nước như nước mắt”, dưới bối cảnh biến đổi khí hậu, Nam Bộ là
vùng đất chịu ảnh hưởng vô cùng nghiêm trọng. Đó là về mùa nước nổi, về sự xâm
thực của biển cả khiến cho người nông dân ngày một lùi xa vào đất liền “Ngó nước
bắt đầu linh đình bờ bãi, người ở xóm Rẫy thở dài ứ hự, chắc năm sau ăn Tết trên
ghe", sống trong tình cảnh “cứ mỗi năm nước đuổi lại sớm hơn, mùa mỗi năm lại
dài hơn…nước theo sông ngày càng vào sâu hơn, trên bờ bãi, ngấm vào chân
ruộng…đắp tới đâu, nước theo tới đó, cơi nhà tới đâu, nước ngập tới đó". Sự vùng
trả của thiên nhiên dành cho con người ngày một tăng lên khi “cây trán tàn rụi, chỉ
có cỏ đuôi mèo là sống được" hay “những con cá nước đục còn sót lại, ốm ròm, trên
mình đầy ghẻ lở". Hoặc thậm chí là hình ảnh đôi cá bạc đầu huyền thoại cũng trở
nên “đờ đẫn, như dịu dàng lại như kiệt sức" bởi sự xuống cấp của môi trường sống
xung quanh”. Tất cả mọi vật từ đất đai, cây cối đến ngôi nhà thậm chí là đất để chôn
cất ở nơi này đều đã bị nước mặn nhấn chìm. Tự nhiên ở đây đã và đang phải oằn
mình hứng chịu sự biến đổi khí hậu khi nước biển ngày càng vào sâu vào trong đất
liền.
Khi con người tàn phá tự nhiên cũng là lúc con người phá hủy chính ngôi
nhà của mình. Nó đã thể hiện qua những thảm họa, thiên tai, những biến đổi của
thời tiết, khí hậu... mà chỉ cần một cái “lắc mình” của tự nhiên, con người trở nên
nhỏ bé và đáng thương như thế nào. Con người cần ý thức về thân phận “nạn nhân”
trong mối quan hệ với tự nhiên, “nhắc nhở nhân loại về địa vị thực sự của mỗi thành
tố trong sinh quyển, biết cách kính sợ sinh mệnh tự nhiên để được yên ổn và hạnh
phúc”. Nguyễn Ngọc Tư đã thay cho tiếng nói của nhiều nhà văn miền Nam gióng
lên hồi chuông cảnh tỉnh về khủng hoảng sinh thái nơi đây, phơi bày nguy cơ sinh
thái trong xã hội hiện đại ngày nay.
2.2.2. Cuộc sống của con người trước khủng hoảng môi sinh.
Nguyễn Ngọc Tư đã đặt ra một cách nhìn trực diện về số phận của con người
trong thời đại khủng hoảng môi sinh. Trong trang văn của Nguyễn Ngọc Tư không
ít những cảnh miêu tả cuộc sống cơ cực của con người Nam Bộ trên nền thiên nhiên
đã bị hủy hoại nặng nề do biến đổi khí hậu, do bị tàn phá nặng nề bởi chính bàn tay
con người. Mối quan hệ giữa nghèo đói và môi trường được Nguyễn Ngọc Tư khai
thác một cách sâu sắc trong các truyện ngắn của mình. Con người khai thác thiên
nhiên, làm tổn thương thiên nhiên vì mưu sinh, vì sinh tồn nhưng họ cũng đang tự
23
tàn phá mình, săn đuổi tự nhiên và bị tự nhiên săn đuổi lại. Cuối cùng họ đều phải
đối diện với cái nghèo đói, cái tăm tối, cô độc, đối mặt với thiên tai, với hậu quả của
biến đổi khí hậu.
Đọc truyện ngắn “Nước như nước mắt” người đọc chắc hẳn sẽ luôn bị ám
ảnh bởi câu văn mở đầu “Chồng Sáo chết vì mấy lá ngò gai”. Một câu văn ngắn
nhưng lại dẫn đến một cái chết rất vô lý, tưởng chừng không thể xảy ra con người ta
lại chết chỉ vì mấy lá ngò gai. Vậy sự thực ẩn đằng sau câu văn ấy có thật như vậy?
Cái chết của chồng Sáo vốn dĩ không phải là vì “mấy lá ngò gai” mà thực chất là do
phải sống trong tình cảnh với rời xa đất liền, sự xâm thực của biển vào đất liền đã
bắt buộc vợ chồng Sáo cũng như bao người nông dân nghèo khác ngày một lùi xa
đất liền sống lênh đênh trên sông nước nhiễm mặn “Ngó nước bắt đầu linh đinh bờ
bãi, người ở xóm Rẫy thở dài ứ hự, chắc năm sau ăn tết trên ghe”. Môi trường sinh
thái bị hủy hoại nặng nề kéo theo đó cuộc sống của con người khi chống chọi với
mùa nước nổi đã cực lại càng cực hơn. Họ đã cạn kiệt sức lực “mệt mỏi và đuối sức
như con cá nước đục khắc khoải sống với cái vị mặn mòi xa xót của biển”, “vì nước
đã đuổi 2 tháng rồi, đến con người cũng phờ phạc đi”. Cuộc sống của họ dường như
đã bị “bưng lìa xa khỏi mặt đất”, sinh hoạt thiếu thốn đôi khi họ chỉ thèm một thứ
gì tưởng chừng rất đơn giản như “những bụi hành, sả, vài cây ớt, ít hẹ, ngò om…”.
nhưng cũng không thể vì đất đâu mà trồng? Nước nhiễm mặn nên cho dù họ sống
lênh đênh trên ghe nhưng cũng không có nước để tắm “Sống giữa trời nước bao la
vầy mà không có nước để tắm cho đúng điệu, nghĩ mà tức”; “Gọi là tắm khô, kỳ cọ
bằng mồ hôi xong sẽ tắm ướt bằng 2 gầu nước”. Gặp phải mùa nước nổi, cuộc sống
của họ cũng bị vậy mà nghèo càng thêm nghèo “Mùa đó là mùa dưa cuối cùng trên
đất nhà Sáo. Năm sau nước đuổi tới nơi, cứ nghĩ nước tràn quanh quẩn những vùng
gần biển thôi, nhưng nước theo sông ngày càng vào sâu hơn, tràn bờ bãi, ngấm vào
chân ruộng. Người ta kéo nhau đi đào đất đắp bờ, nhưng đắp tới đâu, nước theo tới
đó, cơi nhà tới đâu nước ngập tới đó, không lẽ ở trên mái nhà, thôi kéo nhau lên ghe
ở cho rồi Cây tàn trái tụi, chỉ còn cỏ Đuôi Mèo là sống được, đem bán rẻ mạt cho
những người chăn nuôi bò ở bên kia biên giới, chẳng được bao nhiêu tiền.” Đến
ngay cả cái chết của con người cũng “không phải xa lạ” vì họ “cũng mệt mỏi và đuối
sức như những con cá nước đục khắc khoải sống với cái vị mặn mòi xót xa của biển,
họ chới với, khi bị bưng lìa khỏi đất liền, khỏi cái màu xanh rười rượi của cây cỏ.
Cả cái chết cũng không phải xa lạ, nó diễn ra mỗi ngày, người ta chết đuổi, chết vì
khát, vì thèm tắm, vì nhớ vị của trái ổi chát, vì giành nhau cành củi trôi sông…”. Và

24
chồng Sáo cũng “chết vì thèm rau, vì nghèo” và xót xa hơn nữa là vì “Thời thế loạn
rồi, đất không còn thì có thứ gì còn”. Thật vậy, đất đã bị xâm nhập mặn hết cả rồi,
cây cỏ không có chỗ để trồng, người không có nơi ở cố định trên đất liền, đến ngay
cả khi chết cũng “không thể chôn xuống đất, chờ nước rút, mới đem âm thổ”. Sự
thiếu thốn, nghèo khổ do biến đổi khí hậu ấy còn bám theo đến tận khi họ chết.
Cậu bé Củi trong truyện ngắn “Sầu trên đỉnh Puvan” vì ngôi làng của cậu
sống có khí hậu hết sức khắc nghiệt, hạn hán liên miên “13 tháng nắng hạn liên tấp”
tức là “hơn bốn trăm ngày nắng như thiêu như rang”, “dường như nước mắt cũng
bị cái nắng dai dẳng rút cạn, bay hơi đi” đã xua những con người ở nơi ấy phải tha
hương đến những nơi khác để kiếm sống. Củi ở với mẹ, công việc hàng ngày là chăn
dê và cậu bé cũng chỉ có những con dê này làm bạn. Củi đã phải sống lủi thủi chơi
một mình khi các bạn cùng tuổi đã theo bố mẹ đi nơi khác và em đã chơi và coi
những con dê đó là những người bạn thân của mình. Cuộc sống nghèo đói đã hiện
hữu ngay trên thân hình cậu bé “một linh hồn mười lăm tuổi trong cơ thể đứa bé lên
chín, ở trần, gầy nhom, lem luốc, hai xương vai bén ngót, nhô cao lên, môi nẻ ra,
bong những cái vảy nhỏ.” Và những con dê – những người bạn thân của cậu bé cũng
không khá hơn chúng chết hết chỉ còn một con “nhưng con dê đó cũng chui vào hốc
đá trốn nắng, nó kiệt sức lắm rồi”, một con dê tên Danh (do cậu đặt tên) gầy gò
mỏng dính. Thế nên, khi buộc phải chứng minh cho hai người khách về sự tồn tại có
thực của người “bạn” tên Chương (con dê đã chết), Củi đã “lôi ngay trong cái bị
bàng rách rưới một cái đầu lâu dê với những cái hốc xương trống rỗng, hai sừng
nhọn vút ra phía sau, “Tui nói thiệt. Đây là con Chương nè, tụi tui thân nhau lắm,
nó toàn nằm ngủ chung với tui. Năm ngái nó dám đánh nhau với cả chó rừng để cứu
tui, nhưng giờ nó chết rồi, tui nhớ nó muốn khùng…”. Sự nghèo đói vây hãm lấy
đứa bé tội nghiệp đang ngày ngày phải oằn mình vì hạn hán, mọi suy nghĩ và ước
mong của cậu bé cũng rất đơn giản, đó là làm sao để thoát khỏi cái khát, cái đói.
Thằng Củi nhận đưa đường cho hai vị khách lên đỉnh Puvan hòng kiếm được khoản
tiền công quá hời, một giá trị thực sự lớn với nó lúc này, ba chục ngàn “Thằng bé
lẩm nhẩm, ba chục ngàn hả, ba chục ngàn thì mua được ba chục gói mì tôm. Những
gói mì mới tinh từ tay ông Tàu chủ quán cứ lào xáo trong tâm trí của thằng bé khiến
đôi mắt khô vàng sáng lên”. Củi lúc nào cũng mong được mưa “trễ lắm là tối nay
xóm tui có mưa” – trong cơn hưng phấn, đứa bé khoái chí chỉ về phía làng mình,
nhưng ngay lập tức ngón tay nó hơi cong lại, như thế chỉ cần thẳng ra là tay nó
hướng ngay vào sự nghèo khó, hắt hiu.” Trái ngược với Vĩnh mong đợi cơn mưa

25
đầu tiên sau hơn bốn trăm ngày nắng như thiêu như rang là vì anh sẽ được ngắm nhìn
“sầu trổ những bông hoa đầu tiên” thì với Củi người phải hứng chịu trực tiếp cuộc
sống nhọc nhằn trên mảnh đất quanh năm hạn hán bông sầu ấy là “Đồ quỉ - cây đó
xài không được, dê còn chê, hổng biết mọc làm chi mà vô duyên vô dùng, tui đái vô
mấy gốc cây đó hoài cho đỡ tức. Má tui nói cây sầu sống bằng xương dê, xương trâu
bò, năm nào bầy dê nhà tôi chết nhiều cây sầu mới trổ bông…” hay “Trong mắt nó
bông sầu còn tệ hơn bông bí vì bông bí ăn được”. Có lẽ với Củi bông sầu huyền bí
mà Vĩnh muốn được ngắm nhìn kia chỉ là một bông hoa bình thường thậm chí còn
vô dùng bởi cuộc đời cậu chỉ toàn những lo toan vì nghèo đói và một khát khao có
được một cơn mưa sau những ngày hạn hán đến héo mòn. Củi dửng dưng khi nhìn
thấy bông sầu nở dù đó cũng là lần đầu tiên trong đời cậu nhìn thấy, Củi chỉ cảm
thấy sung sướng trước cơn mưa vừa đến mà thôi “Mưa bắt đầu nặng hạt, thằng Củi
quay tròn dưới làn mưa, nó muốn xuống núi để cho má hay, mưa rồi, mưa thiệt rồi.
Củi sướng như sắp ngất đi, nó lôi cái đầu lâu con dê tên Chương ra nói như khóc,
tắm mưa nè mầy, tao đã biểu mầy ráng chờ, thế nào cũng được tắm mưa, mầy không
nghe, mầy chết.”
Với thế giới trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”, đó là thế giới của sự
tàn phá và hủy diệt, và biểu tượng nước là biểu tượng tập trung nhất của cái logic tàn
phá, hủy diệt đó của tự nhiên và số phận của những con người sống trong thảm họa
đó. Khi mà thế giới đó tràn ngập những trớ trêu và nghịch lý: có nước, thậm chí tràn
ngập nước, nhưng nước không còn ý nghĩa nuôi dưỡng nữa, mà chỉ là thứ nước phèn
“đã sắc lại thẫm một màu vàng u ám”. Cuộc hành trình bất tận đẩy họ đến những
vùng đất khô hạn, bị vắt kiệt sự sống, tình yêu, hạnh phúc: “Mùa đến sớm. Vì vậy
mà nắng rất dài. Mới rồi, chúng tôi dừng chân ở một xóm nhỏ bên bờ sông lớn mênh
mang. Mỉa mai, người ở đây lại không có nước để dùng (như chúng tôi đi trên đất
dằng dặc mà không có cục đất chọi chim)”. Ở những vùng đất ấy, không có chỗ cho
hạnh phúc, hy vọng, tình yêu và sự thay đổi: “Hai gàu nước ít ỏi của má anh, tôi nỡ
nào sẻ nửa?”. Hầu hết các nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư sống, lớn lên và vật lộn
trên mảnh đất của mình nên đó là cái nhìn của người trong cuộc, đứng trước đổi thay,
phai nhạt của quê hương thấy xót xa, đắng đót. Trong “Cánh đồng bất tận”, Nguyễn
Ngọc Tư đã nhìn thấy sự phai màu của đất, sự biến mất của tự nhiên tươi đẹp, những
thảm họa thiên nhiên trút xuống… Là nhà văn của miền sông nước, Nguyễn Ngọc
Tư phát hiện ra rằng nước được coi là yếu tố quan trọng nhất cấu thành sự cân bằng
sinh thái tự nhiên, thiếu nước là hạn hán nhưng tác giả cũng phát hiện ra nghịch cảnh

26
“dừng chân bên bờ sông lớn mênh mang, mỉa mai, người ở đây lại không có nước
để dùng”. Tình cảnh thiếu nước sạch thật tội nghiệp: “Họ đi mua nước ngọt bằng
xuồng chèo, nín thở để nước khỏi sánh ra ngoài… tụt xuống ao tắm táp thứ nước
chua lét vì phèn, rồi xối lại đúng hai gàu. Nước vo cơm dùng để rửa rau, nước rửa
rau xong dành rửa cá”. Điều kiện thiếu nước sạch đến nỗi “Bế lom khom rửa chén,
thứ nước sông mà khi nãy cậu thấy chị dùng để nấu cơm, kho cá, thứ nước cậu đã tè
vào và đang tắm táp”. Trong bối cảnh chúng ta đang đặt vấn đề về “an ninh nước”,
phát hiện này của Nguyễn Ngọc Tư quả đã chạm vào những điều thiết cốt của sinh
thái môi trường.
Đọc “Cánh đồng bất tận”, người đọc hiểu thấu nỗi cùng cực và chua xót
trong cuộc sống của những cuộc đời lênh đênh, phiêu dạt của người dân trước thảm
họa tự nhiên. Mối quan hệ giữa nghèo đói và môi trường được phơi bày trực tiếp. Vì
mưu sinh nên con người lên rừng khai thác những không gian hoang dã để sinh tồn.
Tự mình tàn phá tự nhiên để rồi phải trả giá đắt. Cuối cùng trở về với cuộc sống cô
độc, nghèo khổ với thiên tai và dịch bệnh. Tuy thiên nhiên trở mình, gây ra những
khó khăn, nguy hiểm cho cuộc sống con người nhưng chưa bao giờ thiên nhiên đuổi
cùng tận để tước đoạt đi cuộc sống con người. Những cái chết trong các truyện đều
bắt nguồn từ sự xung đột lợi ích giữa cá nhân con người mà gây nên (như Sáo trong
“Nước như nước mắt” hay nhiều nhân vật đã bỏ đi trong “Cánh đồng bất tận” như
mẹ Nương, Điền…) Trên thực tế, trong những cánh đồng đói kém nghèo nàn, thiên
nhiên vẫn chở che cho con người trong kiếp sống nhọc nhằn, cằn cỗi đó.
2.2.3. Con người nhận thức về môi trường sinh thái
Mảnh đất Nam Bộ dễ tổn thương do biến đổi khí hậu. Là hạ nguồn của Mê
Kông đổ ra biển, vùng đất này dễ bị tổn thương từ hai phía: những tác động cả từ
thượng du và từ phía biển. Do vậy, hạn hạn xâm nhập mặt, đất lở, núi lở… đều là
những vấn đề môi trường thường trực. Và hơn ai hết, những người nông dân quanh
năm sống bên sông nước là những người cảm nhận rõ nhất những thảm họa của tự
nhiên. Chứng kiến những cảnh tượng ấy họ luôn thở ra những tiếng thở dài xót xa,
đẳng đót. Trong suốt cuộc hành trình lưu lạc khắp các cánh đồng bất tận cùng cha và
Điền, Nương cảm nhận được rõ sự biến đổi khắc nghiệt của thiên nhiên “thiên nhiên
ngày càng trở nên hung dữ hơn, khắc nghiệt hơn. Bằng những sấm chớp, gầm gừ,
dường như trời đất đã nhín nhịn nhiều, cuồng nộ bắt đầu rồi đây.” Chứng kiến sự
xâm lấn của đô thị hóa, Nương cũng nhanh chóng nhận ra rằng “Đất dưới chân
chúng tôi thu hẹp dần”. Ông bán xôi dạo trong “Nước như nước mắt” cũng phải thốt

27
lên “thời thế loạn rồi, đất không còn thì thứ gì còn”. Thật vậy, khi nước biển ngày
càng lấn sâu vào đất liền, cướp đi nhà cửa, ruộng vườn của con người, họ đã phải
lênh đênh trên sông nước để níu kéo một sự sống nghèo đói, khốn khổ. Con người
không còn đất để ở, không còn nơi để níu giữ, đến cả khi chết cũng không có một
mảnh đất nhỏ để yên nghỉ mồ mả vậy thì con người còn gì? Câu nói của ông lão bán
xôi đã thể hiện rõ sự đau đớn, bất lực của người nông dân nghèo khi không thể giữ
được nhà, mảnh vườn trên đất liền vì quanh năm họ phải đối diện với sự khắc nghiệt
của thiên nhiên, với sự xâm lấn của nước mặn. Cuộc sống của họ thiếu thốn, mệt
mỏi đến cùng cự khi mà họ sống gần sông nhưng đến cả nước ngọt để cũng không
có dùng.
Các tập truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư đều mang nỗi trăn trở về sự suy
thoái của môi trường và mỗi tập truyện đều được đặt tên bằng những hình ảnh thiên
nhiên. Nếu như ở “Gió lẻ” là lấy cái cô độc của thiên nhiên để biểu hiện sự cô đơn
của con người, “Cánh đồng bất tận” ta thấy thiên nhiên bao giờ cũng mênh mông,
trải dài và bất tận thì ở “Khói trời lộng lẫy” là một lời khẳng định những gì thuộc về
tự nhiên đều khoáng đạt, lộng lẫy. Có lẽ vì vậy mà tư tưởng chủ đạo của tập truyện
ngắn “Khói trời lộng lẫy” là nỗi đau môi trường mà trong đó truyện ngắn cùng tên
thể hiện rõ nhất cái tư tưởng đó. Đến với truyện ngắn “Khói trời lộng lẫy” ta nghe
thấy một tiếng nói khẩn thiết của một tấm lòng mê đắm thiên nhiên, một tiếng nấc
đau đớn, chua chát trước sự biến mất dần của thiên nhiên dưới bàn tay tàn phá của
con người. Tác phẩm như một hồi chuông cảnh bảo về việc con người đã biến thiên
nhiên thành đại công trường, khu công nghiệp, nhà ở, thành phố. Chính con người
đã “xua đuổi thiên nhiên đi xa”, “Con người hủy hoại thiên nhiên bằng cách hạ
nhục nó. Thiên nhiên trả thù bằng cách nó biến mất”. Những người làm việc trong
Viện Di sản thiên nhiên và con người luôn nghiêm túc với kí tưởng níu giữ, làm sống
lại vẻ đẹp vốn có của tự nhiên: Em – Di lúc nào cũng “ăn gấp, thở gấp, ngủ gấp”
chỉ để “đi níu kéo những mong manh”; Anh – một “kẻ nghiện rừng”, Nhứt một kẻ
“mê đắm những xóm làng miên man bên bờ sông Ngó Ý”. Họ đều nhận ra “cái chết
của thiên nhiên” “Những vẻ đẹp được nhốt trong phòng lưu giữ của Viện là những
tiếng kêu thét tuyệt vọng, bất lực trước mất mát, sự run rẩy của nỗi buồn, bởi quá
nhiều thứ ta không bao giờ thấy lại ngoài đời”. Chính hành động của con người đã
làm mất đi vẻ đẹp của tự nhiên vì vậy chị Trúc đã đưa đơn xin thôi việc khi vùng đất
Thổ Sầu “người ta bắt đầu tới vùng thảo nguyên Thổ Sầu xới tung nó lên khai thác
quặng, nơi đó biến thành một đại công trường”. Nhân vật Anh bồn chồn, bối rối, sốt
ruột vì “cánh rừng hai trăm năm tuổi… Năm sau, người ta sẽ san phẳng chúng và
trồng lên một khu công nghiệp lớn nhất đất nước”. Anh chấp nhận chức viện phó

28
bởi anh tin “Anh sẽ cứu được những cánh rừng bằng tiếng nói của mình. Anh sẽ giữ
được chúng bằng quyền lực. Hơn ai hết, anh hiểu cái mà Viện đang giữ gìn là vẻ đẹp
không hoàn hảo, chúng đã chết một phần, chúng không có cảm giác trên da thịt,
không có mùi vị… Chúng là sự níu kéo vô vọng của con người”.Làm việc ở Viện Di
càng thấu hiểu rõ hơn sự thay đổi hàng ngày của thiên nhiên“Cảm giác mất mát trở
nên thật rõ ràng khi làm việc ở Viện di sản thiên nhiên và con người…”. Khi còn
làm trong Viện Di luôn hối hả tìm cách để giữ lại nét đẹp nguyên sơ của tự nhiên.
Cô yêu đại ngàn cây cỏ, yêu thảo nguyên bát ngát mang vẻ đẹp nguyên sinh và dù là
những điều nhỏ bé nhất của tự nhiên thì đối với cô đều là một kiệt tác”. Cô luôn
mang trong mình thắc mắc “cái đẹp nào đang và sắp mất. Để tìm câu trả lời, tôi bắt
đầu rời khỏi thành phố, bắt đầu những chuyến đi xa. Vì thành phố đã xua đuổi thiên
nhiên đi xa”. Nhưng đến khi làm và rời bỏ công việc nhân vật cũng nhận thức được
rõ ràng với một cái nhìn đầy thực tế mà xót xa: con người bức tử tự nhiên rồi lại tự
an ủi mình bằng những hình thức lưu giữ đầy giả tạo thế giới tự nhiên. Cô nhận ra
những vẻ đẹp bị nhốt trong Viện là những vẻ đẹp chết, không có sinh sắc của sự
sống: “Còn người ở Viện đối mặt với mất mát hàng ngày, hàng giờ, ở trong nó, ăn
nó, uống nó. Họ buộc phải lựa chọn, hoặc không yêu bất cứ gì, hoặc tập chai sạn
trước nỗi đau. Cách nào thì dẫn con người về một chỗ: vô cảm. Họ có thể giẫm lên
những mầm cây vì tin rằng những cái cây này không bao giờ sống sót được mười
năm tuổi, khi cái xóm nghèo đang chực hờ gần đó. Họ có thể nhấm nháp rượu rắn
với chim sẻ nướng dù biết đó là những con cuối cùng, họ đã giữ cuộc đời chúng bằng
tiếng hót, bằng hình ảnh chúng sà xuống sân như một bầy lá rụng… và đem cất trong
Viện, là xong”. Hay như cậu Nhứt đau đớn khi “những xóm ấp ven sông trong lòng
Nhứt không còn. Lúc đầu Nhứt còn nhăn nhó lác đác, than vãn lai rai khi cái đình
thần Thạnh Hưng xây lại, sơn phết như “ tuồng hát bội ”, khi người ta làm cửa cho
những ngôi nhà vốn bao đời mở phơi lòng, khi người ta dẫn nhập nước mặn vào
đồng…”. Cậu đã đau đớn thốt lên rằng “Quê tui còn mẹ gì, giống như cái biển
vậy…”. Trước sự mất mát của thiên nhiên, Nhứt cũng giống chị Trúc “không chịu
nổi sự mất mát” mà rời khỏi Viện Di sản nơi tưởng chừng có thể lưu giữ được vẻ
đẹp nguyên bản của thiên nhiên nhưng đó cũng là “cái đẹp đã chết”. Cả Nhứt, cả chị
Trúc, Anh và Di đều nhận ra những việc làm níu giữ cái đẹp tự nhiên ấy của họ đều
là “tuyệt vọng” vì nhận ra “không con nào tàn phá gây hại như con người, đi tới đâu
thiên nhiên lụn bại tới đó”. Nhưng con người nào có nhận ra được tội ác mình đã
gây ra với thiên nhiên bởi họ cho rằng “con người mà không đẹp thì có gì đẹp nữa”.
Họ đâu biết họ cũng có những lúc không đẹp khi “mông bẹp lên xác kẹp cao su của
họ, mặt dính dấp nước bọt của họ, mắt thấy vũng ghèn và những bợ rau trên răng
của họ, tôi bỗng nghĩ mười năm trước hẳn họ vẫn còn rất đẹp, họ còn biết run rẩy,
29
xốn xang, đau nhói trước cuộc đời, nhưng không ai giữ vẻ đẹp của những người giữ
gìn vẻ đẹp, cũng như không ai lãnh đạo những người lãnh đạo, không ai chiến đấu
cho những người chiến đấu. Bỗng dưng cái sự gấp gáp trỗi dậy, tôi sực nhớ mình
cần đi tới sông kia, suối nọ”. Ở đây, một lần nữa ta thấy được tư tưởng của phê bình
sinh thái được Nguyễn Ngọc Tư nhấn mạnh tới đó là sự phủ nhận tư tưởng “con
người là trung tâm” mà bao lâu nay con người tự cho là như vậy. Nhà văn như muốn
giành lại sự công bằng cho thiên nhiên, đặt vị trí của thiên nhiên ngang hàng với vị
trí của con người. Bên canh đó, Nguyễn Ngọc Tư đã chỉ ra tư tưởng sùng thượng con
người một cách thâm căn cố đế trong tư tưởng nhân loại dẫn đến sự khủng hoảng
của con người thời hiện đại. Con người phải từ bỏ cái trung tâm luận là chính mình
ñể soi vào vạn vật và nhận ra vẻ đẹp vô tư, không vụ lợi của tự nhiên. Và đây cũng
là vấn đề nhức nhối cần được đặt ra trong cuộc sống ngày nay khi những nỗ lực tìm
cách bảo vệ vẻ đẹp nguyên tồn của tự nhiên đang ngày càng trở nên vô vọng bởi con
người có mấy ai thực sự bảo vệ nó, đấu tranh bằng tất cả sự sống chết để bảo tồn
những gì còn lại của nó?

30
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI
3.1. Cốt truyện
Cốt truyện của Nguyễn Ngọc Tư vừa mang nét truyền thống vừa có cả nét
hiện đại.
Cốt truyện truyền thống là những truyện có cốt truyện tiêu biểu, ở đó, “kể”
nhiều hơn “tả” và “phân tích”, từ đó mở ra các đặc điểm về tính cách, số phận của
con người bằng các tình huống truyện cụ thể. Cốt truyện truyền thống gồm các phần:
trình bày, thắt nút, phát triển, đỉnh điểm và kết thúc (mở nút). Tùy vào từng tình
huống, không nhất thiết bất cứ tác phẩm nào sở hữu cốt truyện truyền thống đều tuân
thủ đầy đủ các phần trên. Nước như nước mắt, Cánh đồng bất tận, Sầu trên đỉnh
Puvan, Núi lở, Khói sóng trên sông … là những truyện có sử dụng kiểu cốt truyện
này. Với kiểu truyện này, dù cốt truyện thường mang các yếu tố thắt nút đỉnh điểm,
câu chuyện diễn ra với nhiều cảm xúc cao trào, song đôi khi bị làm mờ đi bởi những
yếu tố nằm ngoài cốt truyện, hay nói cách khác, câu chuyện được chồng lên nhau
bởi nhiều tầng lớp ý nghĩa, mà ở đó, cốt truyện liên quan đến góc nhìn sinh thái của
tác giả thường được ẩn sau lớp cốt truyện nổi.
“Nước như nước mắt” mở đầu bằng cách trình bày về sự việc người chồng của
Sáo bị giết chết, kể về những ngày tháng của vợ chồng Sáo, những người dân vùng
sông nước trong cuộc sống của họ, và vào những ngày mùa nước nổi về. Phần thắt
nút bắt đầu bằng việc Sáo phát hiện chồng mình chết có liên quan đến người đàn ông
tên Giang. Phần phát triển gồm một loạt các sự kiện liên quan đến việc Sáo tìm cách
để trả thù cho chồng của mình. Xuyên suốt quá trình ấy, cô dường như luôn tìm cơ
hội để kéo dài thời gian cho sự trả thù của mình. Cô luôn thuyết phục bản thân chắc
rằng có điều gì đó quan trọng hơn khiến Giang quyết định giết chồng cô để bảo vệ
nó. Kết thúc câu chuyện, người đọc nhận ra Giang là người yêu cũ của Sáo, hai người
họ cùng nhau rời khỏi vùng đất ấy.
Thế nhưng, cốt truyện khá gay cấn đó lại được xây dựng dựa trên cảm nhận của
nhân vật Sáo về mùa nước nổi, về nỗi khổ của họ và của những người dân khác khi
đứng trước thiên nhiên. Đó là những ngày tháng nước biển xâm lấn vào đất liền
“Mùa đó là mùa dưa cuối cùng trên đất nhà Sáo. Năm sau nước đuổi tới nơi, cứ
nghĩ nước tràn quanh quẩn những vùng gần biển thôi, nhưng nước theo sông ngày
càng vào sâu hơn, tràn bờ bãi, ngấm vào chân ruộng” khiến dân làng họ chẳng thể

31
đi được nơi đâu tránh nước “người ta kéo nhau đi đào đất đắp bờ, nhưng đắp tới
đâu nước theo tới đó, cơi nhà tới đâu nước ngập tới đó, không lẽ ở trên mái nhà,
thôi kéo nhau lên ghe ở cho rồi”. Đó còn là những ngày thiếu ăn và nghèo khó bởi
thiên nhiên ảnh hưởng, khó khăn đến mức mấy con cá Bạc Đầu luôn quấn quýt đi
thành đôi nay chỉ “chạm trâu vào nhau khẽ khàng, như âu yếm như đờ đẫn, như dịu
dàng lại như kiệt sức”. Những con cá luôn có đôi có cặp ấy dường như còn chính là
hình ảnh của vợ chồng Sáo, vợ chồng những người như Sáo. Mùa nước nổi khiến họ
phờ phạc, mệt mỏi và cận kề cái chết. Sống trong cái cảnh đó, đột nhiên cảm giác vô
lí về cái chết của chồng Sáo “Chồng Sáo chết vì mấy lá ngò gai” dường như nhạt đi.
Bởi, môi trường sống ngày càng xuống cấp khiến con người đói lả, cuộc sống đảo
lộn, ngay cả những nhu cầu cơ bản thiết yếu cũng không được đảm bảo: tắm khô,
một quả ớt cũng không thể có trong bữa cơm, không thể mắc võng nằm,… thì việc
chồng cô chết cũng chỉ là một điều hiển nhiên giữa vô vàn cái chết bất ngờ khác: “nó
diễn ra mỗi ngày, người ta chết đuối, chết vì khát, chết vì thèm tắm, vì nhớ vị của
trái ổi chát, vì giành nhau cành củi trôi sông…”
Trong các truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, tác phẩm có cốt truyện như vậy
tuy có xuất hiện nhưng không nhiều, đại bộ phận truyện ngắn của chị có cốt truyện
phi truyền thống. Nội dung của loại truyện này khó có thể kể lại được vì cốt truyện
không tiêu biểu, dàn trải, kết cấu truyền thường phân mảnh chứ không xâu chuỗi,
thông thường là những lát cắt của cuộc sống. Nếu có thì đó là ‘cốt truyện bên trong”,
“cốt truyện tâm lí” để diễn tả tâm trạng nhân vật. Truyện tập trung vào “tả” hơn
“kể”, hướng về những cảm nhận riêng tư, buông thả nội tâm, tiềm thức… Trong
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, đôi khi chỉ gồm một sự việc rất nhỏ bé, đời
thường, không có xung đột gay cấn, căng thẳng nhưng lại gây ám ảnh cho người đọc,
dù chỉ là một câu văn.
Nguyễn Ngọc Tư đặt nhân vật của mình vào những va chạm mang tính chất đời
thường, những xung đột tình cảm mang tính cá nhân riêng tư nhiều hơn là những
tình cảm lớn. Ở đây, những dòng cảm xúc của nhân vật được đặt trong sự biến đổi
nhỏ bé, là những tình cảm bình thường của những người dân bình thường. Loại tình
huống này ta thường bắt gặp trong những truyện ngắn gần như không có cốt truyện.
Trong kiểu cốt truyện này, mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người thường được
hiện lên qua những dòng suy nghĩ tản mạn của nhân vật. Giữa bộn bề suy tư, thiên
nhiên hiện lên vừa là nơi nương tựa, an ủi tâm hồn, đôi khi lại càng khắc nghiệt, thể
hiện con người đã tác động như thế nào đến cảnh vật.
32
Chuồn chuồn đạp nước kể về một lần tham gia gameshow đứa con gái và cha của
nhỏ là người trợ giúp. Với câu hỏi được đặt ra: “người ta hay nói chuồn chuồn đạp
nước, vậy câu ấy mô tả trạng thái nào của chuồn chuồn?”, người cha đã gợi ý sai,
thay vì nói đáp án “đẻ trứng”, người cha khăng khăng là “tìm kiếm bạn tình.”. Điều
đó khiến ông cảm thấy xấu hổ với chính bản thân mình, xấu hổ với con cái, từ đó
đọc nhiều sách hơn về thiên nhiên. Xuyên suốt câu chuyện không hề có sự xuất hiện
của những tình tiết đẩy đến cao trào mà đều là những dòng suy tư cùng hành động
của nhân vật, từ khi trên gameshow, tới khi về nhà, đi gặp người bạn cùng những
ngày sau đó. Đó là sự hoài nghi về đáp án đúng khi hỏi người bạn của mình, là nỗi
sợ hãi mất đi sự tín nhiệm trong cuộc sống hàng ngày: “Bữa nhậu thằng bạn trả tiền.
Cha không mất gì nhưng thấy mất gì đó. Cha tới cơ quan và bỗng cảm thấy hụt chân
như những bậc thang biến đâu rồi.”. Thế nhưng, bên cạnh nỗi tủi hổ và niềm hi vọng
trở thành niềm tự hào trong mắt vợ và con gái của mình, người đọc sẽ còn phát hiện
một khía cạnh khác của vấn đề: con người đang dần lãng quên thiên nhiên; chạy theo
những gì xa hoa của thành thị, họ dần quên đi những gì gắn với tuổi thơ khi còn thơ
bé. Và điều này được thể hiện đan xen trong những dòng suy tư, qua hành động của
nhân vật: “Cha ở với đám chuồn chuồn cào cào ong mật suốt cả cơn nắng tắt, nghĩ
mông lung, tụi chuồn chuồn đã chơi với mình suốt một tuổi thơ sao không đẻ cho
mình thấy, hay là mình đã từng thấy nhưng cuộc sống thành thị khiến mình quên đi,
tại sao không quên chuyện gì khác mà quên chuyện chuồn chuồn đạp nước?”
3.2. Biểu tượng nghệ thuật
3.2.1. Biểu tượng sông nước
Là người con của miền sông nước Cà Mau, gắn bó thiết tha với những gì
thuần hậu, chất phác nơi đây, Nguyễn Ngọc Tư không thể bỏ qua biểu tượng sông
nước của miền Tây Nam Bộ khi đưa vào những trang sách của mình. Sông nước
Nam Bộ đã trở thành hình ảnh biểu tượng mang tính cụ thể và góp phần làm nên đặc
trưng trong những sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư. Cảnh sông nước được nhà văn
miêu tả hết sức chân thực và chi tiết: “Sông cách nhà một cái bến dài chẻ ngang đám
dừa nước. Nếu không vướng tầm mắt vào đám ô rô mọc lởm chởm chồm từ mé lá
lên, không vướng mấy bụi ráng, bụi lức dại, có thể thấy lồng lộng một khúc sông.
Đêm sáng trăng, ngồi trên nhà có thể thấy một dòng chảy líu ríu, sáng loáng. Ban
đêm, con sông trước nhà tôi không ngủ, nó thức theo những chiếc tàu rầm rì chảy
qua, theo tiếng mái chèo quẫy chách bụp rất đều. Dài từ ngã ba Vàm đến đây, nước
chảy êm, khuất gió, những chiếc ghe đi đêm hay đậu lại, nghỉ ngơi”(Dòng nhớ).

33
Không gian ấy hiện lên đầy chất thơ và chất nhạc, đó là hình ảnh những khúc sông
lồng lộng với những bụi ô rô, bụi nước dại, những cây đước và với vẻ đẹp lung linh
của ánh trăng soi tỏ khúc sông. Con sông vận động theo những chi lưu, có hành trình
đi rõ ràng, có những lúc dữ dội nhưng có những lúc êm đềm, dịu dàng. Gắn liền với
cảnh sông nước ấy là những nét sinh hoạt hết sức quen thuộc của người dân miền
Tây Nam Bộ: “Những buổi tối, buộc ghe vô gốc tra bông nở vàng cặp mé sông, ông
Chín dạy chị em Giang học. Có được chút vốn học hành nhỏ nhoi, ông dạy bằng
hết” (Nhớ sông). Nét dân dã, mộc mạc cũng toát lên từ khung cảnh một lễ cưới:
“Hôm nay là nhóm họ, qua đám dừa nước thưa, thấy đằng trước rạp đã lùm xùm
những tàu dừa bẻ vòng nguyệt, lá đùng đình vắt xòa quanh mấy cây cột rạp ốp bẹ
chuối non”. (Dòng nhớ). Không chỉ gắn liền với đời sống sinh hoạt của người dân,
biểu tượng sông nước còn mang trách nhiệm lớn lao, nó trở thành nguồn sống của
con người nơi đây:“Sau nầy, khi vợ chết, không hoàn toàn vì miếng ăn mà cả nhà
ông Chín trôi dạt hết dòng sông nầy đến con kinh kia. ở đáy con sông nào đó, còn là
nơi gửi gắm xương thịt của người đàn bà xấu số - má Giang” (Nhớ sông).
Biểu tượng sông nước cũng được thể hiện qua những nỗi nhớ nhung của
người dân Nam Bộ khi phải xa cách. Chỉ cần nghe tiếng nước chảy, tiếng mái chèo
là bao nhiêu ký ức vọng về trong tâm hồn con người: “Ba tôi là người của sông.
Không phải ông nhớ vườn xưa mà chống gậy về, ông nhớ sông, một ngày ba bốn
lượt lủi thủi chống gậy ra bến, đôi mắt như đang nhìn da diết, mà không biết nhìn
ai, chỉ thấy mông mênh vậy thôi. Chơ vơ cô độc. Tựa như ông đang ở đây nhưng tâm
hồn ông, trái tim ông, tấm lòng ông tan chảy vào nước tự lâu rồi” (Dòng nhớ). Bên
cạnh đó, biểu tượng sông nước còn được xuất hiện mang đến nỗi buồn và sự hiu
quạnh: “Lúc vào nách một con sông gầy gò chảy cắt qua đồng. Thổ Sầu như một
đứa trẻ tuyệt vọng níu tìm vú mẹ. Dọc triền sông, có kết dày, từ trên bờ thò xuống
nước như đất đang gục đầu gội tóc, những cây bần de xa khỏi mé sông, những cây
sộp rũ rượi xõa chùm rễ nâu, những thân cây lau lẻ đâm thẳng lên trời, vài tiếng gà
nhói lên xa xa... tất cả những gì đó làm vẻ mặt của Thổ Sầu buồn thiu” (Thổ Sầu).
Hay ở Mút Cà tha, cái nghèo và cuộc sống lay lắt, buồn bã cũng khiến người đọc
không khỏi xót xa: “Cù lao Mút Cà tha nằm gần cuối sông Dài, trên nó một chút có
một nhánh sông khác rẽ về phía mặt trời, rộp rịp được đoạn đó rồi thôi. Mút Cà tha
nằm hiu hắt, lâu lâu mới thấy bóng dáng một con tài lớ ngớ chạy vào rồi lại tẽn tò
quay ra vì lầm đường, vì không biết đằng sau cù lao sông cụt” (Thương quá rau
răm). Biểu tượng sông nước cũng khiến cuộc sống người dân nơi đây trở nên lênh

34
đênh, trôi dạt, trong Nước như nước mắt, khung cảnh sông nước hiện ra với “ngó
nước bắt đầu linh đinh bờ bãi, người ở xóm Rẫy thở dài ứ hự, chắc năm sau ăn tết
trên ghe”, sống trong tình cảnh “cứ mỗi năm nước đuối lại sớm hơn, mùa mỗi năm
lại dài hơn (...) nước theo sông ngày càng vào sâu hơn, trên bờ bãi, ngấm vào chân
ruộng... đắp tới đâu, theo nước tới đó, cơi nhà tới đâu, nước ngập tới đó”, môi
trường sống xung quanh ngày một xuống cấp nghiêm trọng: “cây trái tàn lụi, chỉ có
cỏ đuôi mèo là sống được”, “những con cá nước đục còn sót lại, ốm ròm, trên mình
đầy ghẻ lở”, đôi cá bạc đầu huyền thoại “đờ đẫn, như dịu dàng lại như kiệt sức”,
sức chống chọi với mùa của con người cũng “mệt mỏi và đuối sức như con cá nước
đục khắc khoải sống với cá vị mặn mòi xa xót của biển”, “nước đuối đã hai tháng
rồi, đến con người cũng phờ phạc đi”. “Khi bị bứng lìa ra khỏi mặt đất”, sống trên
ghe mọi sinh hoạt bị đảo lộn: chỉ được tắm khổ, giữa bữa cơm bất chợt thèm ớt, nắng
mà không có bóng cây mắc võng nằm, chết cũng phải chờ nước rút thì mới đem âm
thổ...
Thế nhưng,biểu tượng dòng sông tự nhiên ấy dường như cũng là dòng sông
cuộc đời, thấm thía tình người của con người Nam Bộ. Người dân ở đây sống chân
thành, nhân hậu và cũng rất hiếu khách : “Đêm chúng tôi ở lại nhà bà con, ngủ trên
những chiếc vạc cau gồ ghề, cọt kẹt hay bộ ván đã bị mọt đục nham nhở. Ngày lại,
chúng tôi đi dọc những triền sông mải miết những hàng dừa nước, những lùm chùm
gọng, những bụi ráng, ô rô...”.
Với hình tượng dòng sông có chiều kích mênh mang, rộng lớn, nhà văn
Nguyễn Ngọc Tư đã lột tả tất thảy những vẻ đẹp phẩm chất, đặc trưng sức sống của
con người Nam Bộ. Họ ngâm mình, soi mình, hòa mình vào dòng sông để gạt bỏ
những ảnh hưởng tiêu cực mà nó mang lại, để từ đó tìm lại cho mình sức sống đậm
chất phù sa, châu thổ.
3.2.2. Biểu tượng cánh đồng
Bên cạnh biểu tượng sông nước, thiên nhiên miền Tây Nam Bộ trong sáng
tác của Nguyễn Ngọc Tư còn được thể hiện qua biểu tượng cánh đồng. Những cánh
đồng xuất hiện trong các truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư đi liền với những tên
xóm, tên làng: xóm Rạch Giồng, vườn Xóm Lung (Một dòng xuôi mải miết), đồng
Rạch Mũi, Nhà Phấn Ngọn, Cái Bát (Cái nhìn khắc khoải),... Nguyễn Ngọc Tư đưa
biểu tượng cánh đồng vào trong sáng tác của mình nhằm bước đầu khái quát về đặc

35
trưng của kiểu nhân vật làm nghề nghiệp gắn với đồng ruộng, có cuộc đời lang bạt
từ nơi này sang nơi khác.
Biểu tượng cánh đồng mang nét hiền dịu, đi liền với nét sinh hoạt, niềm vui
nỗi buồn trong cuộc sống của nhân vật: “Ông đậu ghe, dựng lều, lùa vịt lên những
cánh đồng vừa mới gặt xong, ngó chừng chừng sang những cánh đồng lúa vừa mới
chín tới và suy nghĩ về một vạt đồng khác lúa vừa no đòng đòng.” (Cái nhìn khắc
khoải). Cuộc sống của nhân vật ngày qua ngày, dường như đều gắn bó với cánh
đồng, đó là địa điểm để ông làm nghề nuôi vịt kiếm kế sinh nhai: “Buổi sáng, ông
lùa bầy vịt ra đồng, tay cầm cây trúc không róc đọt, bù xù. Bầy vịt ngàn hai trăm
con, ngoi quẫy, vẫy vùng, rúc vào những nùi rạ mới, nhặt từng hột lúa...”. Không
những là nơi để những người nông dân kiếm sống, biểu tượng cánh đồng còn mang
đến những ám ảnh về cái đói, cái chết và sự tàn lụi: “Con kình nhỏ nằm vắt qua một
cánh đồng ruộng. Khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hung hãn dường như
cũng gom hết nắng đổ xuống nơi này. Những cây lúa chết non trên đồng, thân đã
khô cong như tàn nhang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn” (Cánh đồng bất
tận). Những cánh đồng nứt nẻ, khô cạn, bị bỏ hoang: “Nửa đêm nghe mưa, ông
choàng dậy, ra đứng chái sau, ngó về phái đồng đất tối mịt. Ngoài ấy, đất bắt đầu
mềm lại, từng thớ vỡ ra, tràn xuống chỗ nẻ...”. Dường như biểu tượng cánh đồng đã
có sự biến chuyển dữ dội, những cánh đồng khô cằn vì thiên nhiên mang lại đã không
còn đủ sức để nuôi dưỡng những mầm lúa, đó cũng là lí do khiến cuộc đời người
chăn vịt phải lang bạt, từ đồng này qua đồng khác. Bên cạnh đó, sáng tác của Nguyễn
Ngọc Từ còn phản ánh thực trạng đô thị hóa ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Trong
Cánh đồng bất tận, sự thay đổi nhanh chóng và đột ngột khiến người nông dân ngỡ
ngàng: “Những cánh đồng trở thành đô thị, những cánh đồng ngoa ngoắt thay đổi
bị của nước, từ ngọt sang mặn chát, những cánh đồng vắng bóng người, và lúa rày
mọc hoang nhớ đau nhớ đớn bàn chân xưa nghẽn trong bùn quánh giờ đang vất vơ
kiếm sống ở thị thành. Những cánh đồng đó đã hắt hủi cây lúa (và gián tiếp từ chối
đàn vịt). Đất dưới chân chúng tôi thu hẹp dần”. Những người nông dân, họ phải
kiếm kế sinh nhai khác, tuy nhiên cũng không ít người không làm chủ được bản thân
mình và sao vào những tệ nạn xã hội: “Chúng tôi đã gặp nhiều, rất nhiều người phụ
nữ giống chị. Cứ mỗi mùa gặt, họ lại dập dìu trên đê, lượn lờ quanh lều của những
thợ gặt, những người đàn ông giữ lúa và bọn nuôi vịt chạy đồng. Họ cố làm ra vẻ
trẻ trung, tươi tắn nhưng mặt và cổ đã nhão, nhìn kỹ phải ứa nước mắt. Đêm đến,
sau các đụn lúa, họ thả tiếng cười chút chít, tiếng thở mơn man...lên trời, làm nhiều

36
người đàn bà đang cắm cúi nấu cơm, cho con bú trong lều thắt lòng lại”. Trong
những sáng tác của mình, Nguyễn Ngọc Tư đã khắc họa biểu tượng cánh đồng, đó
không còn là cánh đồng thiên nhiên mà còn là cánh đồng cuộc đời, là không gian để
cho các nhân vật được bộc lộ, như nhà văn Nguyễn Khắc Phê từng nhận xét:“Những
cánh đồng ở đây tôi còn muốn nghĩ là cánh đồng cuộc đời. Nguyễn Ngọc Tư đã ném
mình và nhân vật của mình ra cánh đồng cuộc đời để xem họ và mình vật lộn thế
nào. Và cả nhà văn cùng nhân vật đã thành công”.
3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật và giọng điệu trần thuật
3.3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật
3.3.1.1. Ngôn từ đậm chất Nam Bộ
Trong các sáng tác của mình, Nguyễn Ngọc Tư đã dựng nên một thế giới
ngôn từ đặc sệt chất Nam Bộ. Trước hết, chất Nam Bộ được thể hiện qua những từ
ngữ chỉ địa danh: chợ Ba Bảy Chín (Dòng nhớ); Đập Sậy (Nhớ sông); ngã ba Sương
(Cải ơi), sông Bìm Bịp, Bàu Sen, Cỏ Úa (Cánh đồng bất tận),... Mỗi địa danh gắn
với những con người, những câu chuyện đời thường, những tình cảm đẹp đẽ. Những
trang văn của Nguyễn Ngọc Tư như đưa ta lạc vào chuyến đò xuôi ngược trên sông
nước, tìm về với những gì chân chất, nồng hậu của miền Tây Nam Bộ.
Cách xưng hô của các nhân vật trong tác phẩm cũng thể hiện rõ nét đặc trưng
của người Nam Bộ. Điểm đặc biệt trong cách đặt tên và gọi tên của người dân nơi
đây là tên gọi thường được kèm theo vai vế hay thứ tự sinh ra trong gia đình: ông
Hai (Cái nhìn khắc khoải), ông Năm Nhỏ (Cải ơi), ông Tư Mốt (Thương quá rau
răm), ông Chín (Nhớ sông), ông Mười (Mối tình năm cũ), anh Năm Gìa (Duyên phận
so le),... Việc gọi tên như vậy tạo cảm giác thân thuộc, gần gũi giữa những con người
Nam Bộ. Bên cạnh đó, trong các tập truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư cũng xuất
hiện cách cách xưng hô bằng các đại từ nhân xưng rất đỗi Nam Bộ như: tui, tía, má,
chế, bây, mầy, cưng, ngoại,... hay các từ biến thể trong trạng thái hợp âm như: cổ (cô
ấy), ổng (ông ấy), ảnh (anh ấy),... Trong truyện ngắn Nhà cổ: “Trời ơi, ngồi với
thẳng chả, mỏi lưng quá, má coi, yêu đương chi cho mệt vậy không biết” hay “Con
không đành lòng để tía ở lại một mình”. Sự hội tư cư dân từ nhiều nơi tạo nên sự đa
dạng trong cách xưng hô. Với cá tính cởi mở, phóng khoáng của mình, cách xưng
hô của cư dân Nam Bộ đơn giản, thân thiết, không câu nệ quá nhiều chuyện tôn ti,
lễ giáo.

37
Không chỉ trong xưng hô, ngôn ngữ Nam Bộ trong đời sống hàng ngày cũng
xuất hiện với tần suất lớn trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư. Một số từ ngữ biến
âm hoặc biến âm rút gọn của phương ngữ Nam Bộ được sử dụng như: bi nhiêu, hông,
hy sanh, gởi, lá thơ, lâu rày, thây kệ,... hay một số tình thái từ như: ủa, hen, nghen,
vậy ta, dà, quá trời, khỉ khô,... Khảo sát các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, ta cũng
bắt gặp hàng loạt các động từ mang màu sắc Nam Bộ như: tạt, ụp, càm ràm, na,
nách, nắm nuối, ngó, cặm, lịnh,... và các tính từ chỉ trạng thái, tính chất: bằn bặt,
buồn hiu, cà chớn, giả bộ, lãng xẹt, sương sương, tạnh hột, xin,...
Sống giữa mênh mông sông nước, thế nên không lạ khi những hình ảnh sông nước
đã đi vào từ ngữ hàng ngày của cư dân Nam Bộ: quá giang (đi nhờ), đi (xe) đò... và
được phản ánh trong văn học với hệ thống dày đặc những từ chuyên dùng để nói về
địa lý Đông Nam Bộ: kênh, rạch, sông,...; các từ chỉ các loại cây cối đặc trưng của
vùng sông nước: cây đước, cây mắm, cây tra bông vàng,...; các từ chỉ phương tiện
đi lại: tàu, xuồng, ghe,...
Ngôn ngữ trong văn chương Nguyễn Ngọc Tư không màu mè, hoa mỹ ngược
lại nó mang vẻ đẹp bình dị, chân chất, mộc mạc như cuộc sống thường ngày của con
người miền biển. “Ngôn từ trong tất cả các truyện ngắn của chị, từ ngôn ngữ dẫn
truyện đến ngôn ngữ nhân vật, nhất là ngôn ngữ nhân vật, đều khá thuần chất Nam
Bộ”. Số lượng từ ngữ Nam Bộ được dùng trong tác phẩm của chị khá dày đặc và sử
dụng thích hợp. Đó là ngôn ngữ “của tỉnh lẻ, của ruộng vườn và nhất là của sông,
của mưa”. Có thể thấy, việc sử dụng ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ đã làm nên nét độc
đáo, mới lạ cho văn chương nước nhà và làm nên nét cá tính, riêng biệt trong các
sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.
3.3.1.2. Cách diễn đạt mộc mạc, giản dị
Trang văn của Nguyễn Ngọc Tư càng thể hiện đậm đặc hơn chất Nam Bộ
qua cách diễn đạt mộc mạc, giản dị của các nhân vật và của chính tác giả.
Trước hết, Nguyễn Ngọc Tư đưa vào trong tác phẩm của mình cách miêu tả
độc đáo và giàu tính hình tượng. Để diễn tả nụ cười mà nhà văn có hàng loạt cách
viết: cười héo hắt, cười hề hề, cười héo queo héo quắt (Cải ơi), cười thê thiết, cười
lạt nhách (Duyên phận so le), cười hề hề, cười cay đắng, cười khào (Cánh đồng bất
tận),... Hay khi diễn tả các trạng thái của con người mà nhà văn sử dụng cách viết
rất độc đáo: chạy ngời ngời, ế ngoi ngóp, chạy xịt khói, cười thúi mũi, buồn ác chiến,
mặt tỉnh bơ ba khía, buồn tê tái, ngồi chình ình (Cải ơi),... Có thể thấy, Nguyễn Ngọc
38
Tư rất đa dạng về ngôn từ và cách diễn đạt tinh tế, diễn tả đặc sắc những sắc thái tình
cảm, những hoạt động đời thường của con người Nam Bộ.
Bên cạnh đó, người Nam Bộ rất chuộng cách nói ví von, so sánh; vì thế, trong
các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư cũng đã xuất hiện lối so sánh gần gũi, gắn liền
với cuộc sống xung quanh: buồn xao xác như lá rụng hoa rơi (Cải ơi), lóng ngóng
như bị nước nóng đổ đít (Sầu trên đỉnh núi Puvan), thân đã khô cong như tàn nhang
chưa rụng, mặt buồn như phủ một lớp sương giá (Cánh đồng bất tận),... hay cũng
rất độc đáo và đầy sáng tạo: những đám mây bắt đầu sà xuống, bịu xịu như một cô
gái sắp khóc (Núi lở),... Việc sử dụng những cách so sánh này khiến cho câu văn
trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư giàu hình ảnh hơn giúp cho những sự vật, sự
việc quen thuộc của người dân miền biển trở nên thú vị, độc đáo và đầy ấn tượng.
Điểm đặc biệt trong phong cách sử dụng ngôn ngữ ở người miền Tây Nam
Bộ còn ở chỗ, họ nói về tình yêu nhưng họ rất ít khi dùng chữ “yêu”, thay vào đó họ
dùng chữ “thương”. Điều này cũng làm nên sự mới mẻ trong cách biểu đạt tình cảm,
cảm xúc trong các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư. Chữ “thương” được hiểu là bao
gồm cả chữ “yêu”, và nghĩa rộng hơn chữ “yêu”. Chữ “thương” của người Nam Bộ
bao hàm trong đó nhiều ý nghĩa, nhẹ nhàng nhưng sâu sắc. Đó là tình thương với cha
mẹ, anh bạn, bạn đời, hay thương những người xung quanh và thương cả chính bản
thân mình. Trong Cái nhìn khắc khoải, hình ảnh người phụ nữ đem lòng thương anh
thợ gặt dù không biết cội nguồn, gốc gác: “Ai cũng nói em ngu, cực cỡ nào em cũng
chịu, miễn là mình thương người ta”, để rồi, chị phải đánh đổi bằng một cuộc hôn
nhân không hạnh phúc khi chồng để lại đống nợ và bỏ đi biệt xứ. Trong tác phẩm
Nhớ sông, Thủy lém lỉnh khi chọc chị Giang về tình cảm của Hiệu: “ảnh thương chế
đó”. Giang vỗ đầu em: “Thương khỉ khô gì mà không chịu nói, hả”. Trong tác phẩm
Cải ơi, thằng Thàn nhớ nhà khi đi làm xa, vả lại sợ quay về sẽ bị bố chê cười khi
không làm được việc, rơm rớm nước mắt: “Con thương ông già con quá, tía ơi”. Có
thể thấy, người Nam Bộ có lối sống tình nghĩa, thủy chung, tình cảm ấy không biểu
hiện ồn ào, nồng cháy ra bên ngoài mà ngược lại, nó được thể hiện một cách âm
thầm, lặng lẽ, chân thành từ tận sâu đáy lòng.
Đến đây, chúng ta có thể thấy rằng, ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư rất giản dị, mộc mạc nhưng cũng giàu tính tạo hình, giàu xúc cảm
và sinh động, mới mẻ. Nguyễn Ngọc Tư đã tạo nên một lối kể chuyện đậm chất Nam
Bộ rất hồn hậu, chất phác và cũng đầy sáng tạo rất đỗi Nguyễn Ngọc Tư.

39
3.3.2. Giọng điệu trần thuật
3.3.2.1. Giọng tha thiết, xót xa
Trong những sáng tác của mình, Nguyễn Ngọc Tư hầu hết đều hướng ngòi
bút đến cuộc sống thường nhật của con người miền sông nước Nam Bộ với những
gì quen thuộc, gần gũi, thuần hậu. Bởi vậy, nhà văn thường dùng giọng điệu thiết
tha, xót xa và dạt dào cảm xúc trong lời nói của nhân vật như cách chính nhà văn
đang tâm tình với bạn đọc, chia sẻ với bạn đọc.
Nhà văn khiến người đọc trượt dài với nỗi xót xa cùng những người nông
dân quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” trên những “cánh đồng bất
tận”: “Suốt những năm tháng sống tù đọng trên đồng, tôi có biết ai ngoài những
người đàn ông quê mùa cũ kỹ. Tôi biết lấy ai trong số đó?Lấy một người cắm mặt
xuống đất, mệt nhừ với vườn ruộng để mỗi khi giáp hạt, tôi nghe tiếng cạo cơm cháy
của con, tiếng muổng dừa vét gạo dưới đáy thạp mà rát bỏng trong lòng? Hay tôi sẽ
chọn một người chăn vịt, mê mỏi với những chuyến đi xa, sống cuộc sống hờ hửng
tạm bợ, thấp thỏm với rủi ro...” (Cánh đồng bất tận) . Giọng điệu xót xa cũng được
bật lên khi những mặt trái của đô thị hoá nông thôn làm nảy sinh nhiều vấn nạn tiêu
cực như trong truyện ngắn Cải ơi!: “Mùa nắng quay trở lại, ngã ba Sương mọc thêm
chừng chục quán nhậu nữa, muốn hay không quán công an phòng chống tệ nạn xã
hội cũng phải để ý cái chòm lu bù nầy. Phía báo đài đang dòm ngó. Một bữa, họ ập
vào, quay phim chụp hình búa la xua. Đám tiếp viên che mặt, ôm đầu, chỉ còn Diễm
Thương là điềm nhiên trơ mắt ngó”. Đó là giọng mếu máo của thằng Củi sống dưới
chân núi Puvan chịu ảnh hạn hán mười ba tháng liên tiếp, “cỏ cây cháy lá hết, nguồn
nước cũng cạn kiệt”, đàn dê chỉ còn một con những cũng đã kiệt sức: “Tui nói thiệt.
Đây là con Chương nè, tụi tui thân lắm, nó toàn nằm ngủ chung với tui. Năm ngoái
nó dám đánh nhau với chó rừng để cứu tui, nhưng giờ nó chết rồi, tui nhớ nó muốn
khùng”. Thằng bé mếu máo nhưng hai mắt ráo hoảnh, dường như nước mắt cũng bị
cái nắng dai dẳng rút cạn, bay hơi đi”. Thằng bé cũng bày tỏ sự hằn học, ấm ức
trước sự tàn nhẫn của thiên nhiên: “Đồ quỉ – cây đó xài không được, dê còn chê,
hổng biết mọc làm chi mà vô duyên vô dùng, tui đái vô mấy gốc cây đó hoài cho đỡ
tức. Má tui nói cây sầu sống bằng xương dê, xương trâu bò, năm nào bầy dê nhà tui
chết nhiều sầu mới trổ bông…”. (Sầu trên đỉnh Puvan). Đó còn là nỗi lòng của chị
em Điền giãi bày về hoàn cảnh sống trong Cánh đồng bất tận: “Họ có nhà để
về,chúng tôi thì không. Họ sống giữa chòm xóm đông đúc, chúng tôi thì không. Họ
ngủ với những giấc mơ đẹp, chúng tôi thì không. Nằm chèo queo, co rúm, chen chúc
40
nhau trên sạp ghe, chúng tôi đánh mất thói quen chiêm bao. Điều này làm tôi và
Điền buồn biết bao nhiêu, vì cách duy nhất để được nhìn lại hình bóng má cũng tan
rồi”. Và họ cũng xót xa, chua chát khi nhìn nhận về số phận cuộc đời mình: “Sống
đời mục đồng, chúng tôi buộc mình đừng yêu thương, quyến luyến bất cứ ai, để khỏi
ngậm ngùi, để lòng dửng dưng khi cuốn lều, nhổ sào đi sang cánh đồng khác, dòng
kinh khác”.
Nhân vật trong các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư luôn chứa đầy tâm sự, mỗi
nhân vật đều chịu hoàn cảnh éo le, ngang trái; chính vì lẽ đó mà giọng thiết tha, xót
xa trở thành kiểu giọng điệu phổ biến nhất. Nhân vật giãy bài lòng mình với những
người xung quanh, nhưng cũng có khi nỗi lòng không thể nói ra, không thể chia sẻ
với ai, chỉ có thể tự mình chia sẻ với mình.
3.3.2.2. Giọng triết lý, suy tư
Bên cạnh đó, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư cũng mang đến những triết lý, suy
tư mang tính chiêm nghiệm về con người, cuộc đời. Nhà văn bày tỏ thái độ suy tư
về ý thức trách nhiệm của người trẻ: “Nhân viên y tế nào mới về ngó câu khẩu hiệu
ấy cũng cười, cũng thương. Nhưng rồi nửa khuya ngồi ăn mì gói, nghe cú kêu lẫn
tiếng radio khọt khẹt (để chút âm thanh đấy cho đỡ quạnh), vạch đi vạch lại tờ báo
cũ mèm, họ sực nhớ phải về quê lấy vợ, lấy chồng, sực nhớ vợ mình mới sinh, sực
nhớ tội nghiệp ba má đã già... Và họ từ giã cù lao... Họ ngoắt đò đi rồi chú còn đứng
mãi trên bến, giận đám trẻ cù lao đã được học hành nhưng chẳng đứa nào chịu quay
về” (Thương quá rau răm). Cả những người con của mảnh đất sông nước cũng phải
rời ra nơi chôn rau cắt rốn để thay đổi cuộc sống cho gia đình: “Trong một thoáng,
ông thấy mình chùng chình, với được khúc cây bình bát, ông chống vào đất. Bên
ngoài cái đất Mút Cà Tha dường như đã có sự thay đổi lớn. Thí dụ như con cá, lá
rau, hạt gạo mến thương của người cù lao không ràng buộc được một con người
(như đã từng rịt chân ông lại), thì cái bóng nhỏ nhoi của đứa con gái đang tuyệt
vọng đứng ngóng chờ dưới bến không có ý nghĩa gì sao? Tuyệt không đáng gì à?”
(Thương quá rau răm). Nguyễn Ngọc Tư cũng bày tỏ nỗi băn khoăn về sự trừng
phạt, trả giá trước những hành động tiêu cực của con người trước thiên nhiên: “Và
tôi chợt nghĩ, sự bất thường của Điền, chẳng qua nằm trong chuỗi rất dài của sự
trừng phạt. Điều đó lý giải cho việc thiên nhiên ngày càng trở nên hung dữ hơn, khắc
nghiệt hơn. Bằng những sấm chớp, gầm gừ, dường như trời đất đã nín nhịn nhiều,
cuồng nộ bắt đầu rồi đây . Có lần, tôi lấy cao su gói lại mớ mùng chiếu, nhìn mưa
thè cái lưỡi ướt nhão nhớt vào lều, khoái trá nếm từng tấc đất, tôi tự hỏi, không biết
41
chỗ khác (chỗ không có chúng tôi) có mưa nhiều như vầy không. (Cánh đồng bất
tận).
Thông qua việc khắc họa thân phận, cuộc đời của những nhân vật bằng giọng
điệu tha thiết, xót xa nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã sử dụng chất giọng mang tính triết
lý, suy tư để bạn đọc và chính nhà văn có cơ hội để chiêm nghiệm về con người,
cuộc đời bởi lẽ chính con người đang ngày càng phải trả giá bởi những hành động
tiêu cực của mình trước thiên nhiên.
3.3.2.3. Giọng hài hước, dí dỏm
Trong những trang sách của mình Nguyễn Ngọc Tư thường khéo léo đưa
thêm vào những chi tiết dí dỏm, hài hước giúp cho tác phẩm của mình giảm bớt sự
buồn thường, chua xót. Giọng văn hài hước, dí dỏm ấy có khi là lời của nhân vật hòa
trộn với lời kể của nhà văn: “Thàn bùi ngùi, người ta Quách Phú Thành nổi tiếng
Hồng Kông, tui thiếu có chữ h, lẹt đẹt bên hông Chợ Lớn. Nhiều bữa hát ế ngoi ngóp
nằm nghe mưa dầm, nhiều bữa đứng soát vé bị bọn du đãng địa phương rượt chạy
xịt khói. Thàn muốn về nhà nhưng sợ ông già cười thúi mũi” (Cải ơi). Tiếng cười
cũng được bộc lộ trong lời của tác giả đứng ở ngoài nhìn nhận: “Nhà mấy cưng chỗ
nào? Thằng Điền đổ quạo: “Biết chết liền!”. Hay cuộc hội thoại nhưng không phát
ra tiếng của hai chị em Điền: “Thằng Điền nói, mùi cá kho quẹt thơm dễ sợ. Ừ, tôi
gật đầu, nhưng cái mùi nghèo quá. Vậy mùi gì giàu, thằng Điền hỏi vặn lại. Tôi cười,
thịt kho tàu. Rõ ràng hai đứa tôi có cãi qua cãi lại, vậy mà sau đó một người thợ gặt
tỏ vẻ ngạc nhiên, “Hai đứa bây ngồi chù ụ cả buổi trời, không nói câu nào, vậy mà
cũng chịu nổi sao?” Thằng Điền cười, “Ủa, tụi mình hỏng nói tiếng – người !?”.
Tôi nhận ra nó không hề máy môi, tôi đọc được những ý nghĩ trong Điền” . Hay lúc
nhận thông báo chính quyền sẽ dồn tất cả vịt trên cánh đồng lại và đào hố chôn vì sợ
dịch cúm gia cầm: “Thằng Điền mếu máo : - Mấy ông ơi, vịt tui sân sẩn, có bệnh tật
gì đâu… Một người càu cạu : - Sao cậu biết ?- Rõ ràng tụi vịt nói với tui.”(Cánh
đồng bất tận). Và cả dáng vẻ của con vịt Cộc trong Cái nhìn khắc khoải cũng mang
đến tiếng cười: “Nói dừng lại, đủng đỉnh quay đi. Chị khịt mũi cái sột, lau nước mắt
kêu: “Trời, vịt gì mà khôn quá vậy?” Con vịt ngoắc ngoắc cái đầu lại, ý nói, vịt Xiêm
chớ Vịt gì, thiệt tình”.
Giọng điệu dí dỏm, hài hước tuy không được đưa vào sử dụng nhiều trong
những trang văn của Nguyễn Ngọc Tư. Tuy nhiên, nó có vai trò quan trọng trong
việc thể hiện tính cách nhân vật, khắc họa rõ hơn số phận, hoàn cảnh của nhân vật

42
đồng thời làm giảm cảm giác buồn bã, chua xót khi người đọc tiếp nhận các tác
phẩm.
Quả thực, Nguyễn Ngọc Tư đã rất tài tình, khéo léo và đầy sáng tạo khi sử
dụng các kiểu giọng điệu trần thuật trong những trang văn của mình. Chất Nam Bộ,
giọng điệu Nam Bộ ngấm ngầm trong từng câu chữ điều đó góp phần làm nên phong
cách nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư. Nói như Trần Thị Ngọc Lang: “mỗi người một
ít, như những con ong rừng gom từng giọt mật một bồi đắp cho văn hóa, văn học
Việt Nam thêm phong phú, đa dạng, bằng cách đóng góp cho văn hóa, văn học Nam
Bộ ngày càng phát triển với sắc thái riêng, phong cách riêng.”

KẾT LUẬN
Qua khảo sát và phân tích ba tập truyện ngắn “Khói trời lộng lẫy”, “Cánh
đồng bất tận” và “Gió lẻ và 9 câu chuyện khác” của Nguyễn Ngọc Tư chúng tôi nhận
thấy ngòi bút của tác giả hướng đến các vấn đề về sinh thái một cách rất trực tiếp,
thẳng thắn nhưng cũng rất tinh tế. Tác giả đã nhìn nhận, khám phá, lí giải và khắc
hoạ mối quan hệ tương quan giữa tự nhiên và con người trong hệ sinh thái: thiên
nhiên và con người bình đẳng với nhau, thiên nhiên bản nguyên tốt đẹp và là nguồn
sống của con người, con người cũng là một phần của hệ sinh thái vì vậy con người
không có quyền làm tổn thương đến thiên nhiên; đồng thời tác giả cũng phản ánh
một thực trạng đáng báo động thiên nhiên đang bị con người huỷ hoại, tàn phá và
chính thế nên người đã, đang và sẽ phải chịu sự trừng phạt của thiên nhiên. Khắp các
trang viết của chị đều ẩn chứa nỗi niềm hoài cảm trước vẻ đẹp bản nguyên của thiên
nhiên đang dần bị nhạt phai; phập phồng nỗi lo âu về những thảm hoạ tự nhiên có
thể khiến cuộc sống con người héo khô, lụi tàn. Đặc biệt, cũng hướng sự quan tâm
đến thiên nhiên, sinh thái nhưng cách khai thác của Nguyễn Ngọc Tư có những điểm
khác biệt nổi bật so với các tác giả khác. Cách viết mang tâm thế của một con người
hiện đại bị văn minh dồn đuổi khác hẳn với Sơn Nam trong tập Hương rừng Cà Mau
với cảm hứng sử thi về khát vọng chinh phục tự nhiên, sự kiêu hùng của con người
trước thiên nhiên; cũng khác với Đoàn Giỏi trong Đất rừng phương Nam là tình yêu
thiên nhiên hòa lẫn vào tình yêu đất nước. Nguyễn Ngọc Tư ghi dấu ấn với lối viết
đậm chất Nam Bộ, từ cốt truyện giao hoà giữa nét truyền thống và nét hiện đại, với
các biểu tượng tự nhiên vừa thân thuộc gần gũi vừa hàm chứa những ý nghĩa sâu sắc.
Cùng với ngôn ngữ chân chất, mộc mạc thấm đẫm hơi thở sông nước Nam Bộ và
giọng điệu đa dạng khi đậm triết lí suy tư lúc thân gần, dí dỏm. Tất cả đã làm nên
43
những sáng tác mang màu sắc rất riêng vừa phản ánh được những vấn đề cấp thiết
về sinh thái vừa là những áng văn chân thực, xúc động chạm đến những xúc cảm
riêng tư nhất của con người

44

You might also like