You are on page 1of 37

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TIỂU LUẬN

VĂN HỌC CHÂU Á

ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG NGHỆ THUẬT TRONG TÁC PHẨM


TAM QUỐC CHÍ DIỄN NGHĨA CỦA LA QUÁN TRUNG

Mã học phần: 31741956


Nhóm học phần: 22SNV1
Giảng viên hướng dẫn: Th.S.Trần Ái Vân

Đà Nẵng - 01/2024
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
KHOA NGỮ VĂN

THÀNH VIÊN NHÓM


NGUYỄN LÊ KHÁNH DƯỢC
NGUYỄN QUANG THẮNG
LÊ TRẦN DIỄM HẰNG
NGUYỄN THỊ THÚY
A RẤT THỊ KIM OANH
BÙI VY NHẬT QUYÊN
NGUYỄN THỊ HẢI YẾN

ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG NGHỆ THUẬT TRONG TÁC PHẨM TAM QUỐC CHÍ
DIỄN NGHĨA CỦA LA QUÁN TRUNG

Chuyên ngành: Sư phạm Ngữ Văn


Mã ngành: 7140217

BÁO CÁO
VĂN HỌC CHÂU Á

Người hướng dẫn khoa học:


Th.S. TRẦN ÁI VÂN

ĐÀ NẴNG - 2024
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chương 1.......................................................................................................................2

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI.................................................................................2

1.1. Tư tưởng nghệ thuật.........................................................................................2

1.1.1. Khái niệm tư tưởng nghệ thuật...................................................................2

1.1.2. Quá trình hình thành nên tư tưởng nghệ thuật của nhà văn....................3

1.1.3. Mục đích của việc nghiên cứu tư tưởng nghệ thuật của nhà văn.............3

1.2. Tác giả La Quán Trung và tiểu thuyết Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa..............4

1.2.1. Tác giả La Quán Trung...............................................................................4

1.2.1.1. Tiểu sử........................................................................................................4

1.2.1.2. Tư tưởng nghệ thuật...................................................................................4

1.2.1.3. Sự nghiệp sáng tác.....................................................................................5

1.2.2. Tác phẩm Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa.........................................................6

1.2.2.1. Hoàn cảnh ra đời.......................................................................................6

1.2.2.2. Ý nghĩa nhan đề..........................................................................................6

1.2.2.3. Bố cục.........................................................................................................7

Chương 2.......................................................................................................................8

TƯ TƯỞNG NGHỆ THUẬT TRONG TAM QUỐC CHÍ DIỄN NGHĨA...............8

2.1. Những tư tưởng chính trong tác phẩm Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa..............8

2.1.1. Tư tưởng nhân nghĩa...................................................................................8

2.1.2. Tư tưởng Nho giáo.......................................................................................9

2.1.3. Tư tưởng Phật giáo....................................................................................13

2.1.4. Tư tưởng “ủng Lưu phản Tào”.................................................................14

2.2. Các yếu tố hình thành nên tư tưởng trong tác phẩm...................................17
2.2.1. Do yếu tố dân gian truyền lại.....................................................................17

2.2.2. Ảnh hưởng của tôn giáo sâu sắc...............................................................18

2.3. Các yếu tố làm nên thành công của tác phẩm..............................................19

2.3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình.................................................19

2.3.1.1 Nhân vật Gia Cát Lượng...........................................................................20

2.3.1.2. Nhân vật Lưu Bị.......................................................................................21

2.3.1.3. Nhân vật Trương Phi................................................................................22

2.3.1.4. Nhân vật Quan Công................................................................................24

2.3.1.5. Nhân vật Tào Tháo...................................................................................25

2.3.2. Nghệ thuật kể chuyện đặc sắc...................................................................25

2.3.3. Nghệ thuật miêu tả chiến tranh.................................................................26

KẾT LUẬN..........................................................................................................30

TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................32


MỞ ĐẦU

Trung Quốc - một trong những quốc gia châu Á có nền văn hóa, lịch sử lâu đời
với nhiều biến động, được xem là một trong những trung tâm lớn về văn hoá của thế
giới. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, Trung Quốc sở hữu một kho tàng văn hoá đồ sộ
với rất nhiều thành tựu đặc sắc. Nền văn hoá Trung Hoa đi theo khuynh hướng phát
triển liên tục nhưng vẫn giữ được nguyên vẹn bản sắc.

Đi cùng với sự phát triển đó, nền văn học Trung Quốc cũng mang những thành
tựu lớn chứa đựng những giá trị văn hoá truyền thống. Nhiều tác phẩm lưu danh ngàn
đời, trở thành một bức tượng đài có sức ảnh hưởng mạnh như bộ Sử ký của Tư Mã
Thiên, Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa của La Quán Trung, Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân,
Thủy Hử của Thi Nại Am, Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần,...Trong đó Tam Quốc
Chí Diễn Nghĩa là bộ tiểu thuyết chương hồi đầu tiên trong lịch sử văn học Trung
Quốc, cũng là tiểu thuyết lịch sử có tính tiêu biểu nhất của Trung Quốc. Thời nhà
Thanh, khi chỉnh lý bộ Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa gốc của La Quán Trung, Mao Tôn
Cương đã ca ngợi bộ tiểu thuyết này là “đệ nhất tài tử thư” (có nghĩa là cuốn sách đầu
tiên mà tài tử phải đọc). Với dung lượng đồ sộ (dài khoảng bảy mươi lăm vạn chữ,
hơn năm trăm nhân vật, cốt truyện thâu tóm gần một trăm năm lịch sử Trung Quốc),
Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa được xếp vào tứ đại danh tác của nền văn học Trung Hoa.
Không chỉ trong nước, mà sức ảnh hưởng của bộ tiểu thuyết này còn vượt khỏi biên
giới đến các nước trong khu vực và thế giới.

Tìm hiểu, khám phá về tư tưởng nghệ thuật của La Quán Trung trong Tam
Quốc Chí Diễn Nghĩa không chỉ đơn thuần giúp hiểu rõ về cách ông xây dựng tác
phẩm mà còn mang lại những hiểu biết sâu sắc về tâm hồn và tư duy triết lý của tác
giả. Nghệ thuật của ông không chỉ là phương tiện diễn đạt sự kiện lịch sử mà còn là
nguồn sáng tạo, phản ánh tầm nhìn triết lý về quyền lực, lòng nhân ái, và tâm lý con
người. Qua việc tìm hiểu, ta có cơ hội khám phá những chiều sâu văn hóa, xã hội, và
tư tưởng đằng sau những trang văn của La Quán Trung, kết nối mối liên quan giữa
nghệ thuật và bối cảnh lịch sử, từ đó trải nghiệm tác phẩm một cách toàn diện và sâu
sắc hơn.

1
NỘI DUNG

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Tư tưởng nghệ thuật

1.1.1. Khái niệm tư tưởng nghệ thuật

Nói về tư tưởng, Lê Bá Hán quan niệm: “Tư tưởng tác phẩm là sự nhận thức, lí
giải và thái độ đối với toàn bộ nội dung cụ thể sống động của tác phẩm văn học, cũng
như những vấn đề nhân sinh đặt ra ở trong đó”. Tư tưởng được hiểu là sự sống trong
suy nghĩ, lối tư duy của con người. Nó không bị động hay bị gò bó bởi bất cứ điều gì,
nó luôn vận động biến đổi, chuyển biến linh hoạt. Cho nên, tư tưởng là một yếu tố cơ
bản trong nội dung của tác phẩm văn học.

Về tư tưởng nghệ thuật, theo nhà nghiên cứu, phê bình văn học Nguyễn Đăng
Mạnh thì ông cho rằng tư tưởng nghệ thuật là một hình thái nhận thức đặc thù của
người nghệ sĩ: nhận thức bằng “toàn bộ con người tinh thần với tất cả nội dung phong
phú và tính tổng thể toàn vẹn của nó” [11]. Hình thức này đòi hỏi nghệ sĩ phải huy
động toàn bộ mọi năng lực tinh thần của mình, bao gồm lí trí và tình cảm, cảm xúc kết
hợp hài hòa với nhau giống như xương cốt và máu thịt, như thể xác với linh hồn con
người. Như vậy, tư tưởng nghệ thuật phải bao gồm hai mặt thống nhất đó là giữa chủ
thể và khách thể nhưng xét đến cùng chủ thể đóng vai trò quyết định [11].

Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn được thể hiện trong tác phẩm văn học thông
qua các hình thức:

- Quan niệm về con người: Nhà văn quan niệm con người là gì ? Con người có
vai trò gì trong xã hội ? Con người có những phẩm chất gì ?
- Quan niệm về xã hội: Nhà văn quan niệm xã hội là gì ? Xã hội có những vấn đề
gì ? Nhà văn có mong muốn gì đối với xã hội ?

2
- Quan niệm về nghệ thuật: Nhà văn quan niệm nghệ thuật là gì ? Nghệ thuật có
vai trò gì trong đời sống ? Nhà văn có mong muốn gì đối với nghệ thuật ?

Tư tưởng nghệ thuật là kim chỉ nam, định hướng cho nhà văn trong quá trình lựa
chọn đề tài, xây dựng nhân vật, thể hiện chủ đề,...Tư tưởng nghệ thuật phong phú, sâu
sắc sẽ giúp nhà văn sáng tạo được những tác phẩm văn học có giá trị, có sức lay động
tâm hồn người đọc.

1.1.2. Quá trình hình thành nên tư tưởng nghệ thuật của nhà văn

Để biết được tư tưởng nghệ thuật của một nhà văn hình thành như thế nào thì ta
cần phải tìm hiểu quá trình sáng tác của tác giả đó từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc.
Quá trình hình thành tư tưởng nghệ thuật của nhà văn thường trải qua ba giai đoạn
chính:

- Giai đoạn hình thành ban đầu: Giai đoạn này thường diễn ra trong thời kỳ nhà văn
còn trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm sống và sáng tác. Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn
trong giai đoạn này thường mang tính chất cảm tính, chưa được định hình rõ ràng.

- Giai đoạn phát triển: Giai đoạn này thường diễn ra trong thời kỳ nhà văn trưởng
thành, có nhiều kinh nghiệm sống và sáng tác. Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn trong
giai đoạn này thường mang tính chất sâu sắc, chín chắn, thể hiện được những khám
phá, sáng tạo mới của nhà văn.

- Giai đoạn ổn định: Giai đoạn này thường diễn ra trong thời kỳ nhà văn già dặn, có
nhiều đóng góp cho văn học. Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn trong giai đoạn này
thường mang tính chất bền vững, có ảnh hưởng sâu sắc đến các thế hệ nhà văn sau
này.

Quá trình hình thành tư tưởng nghệ thuật của nhà văn là một quá trình phức tạp,
chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn có vai trò quan
trọng đối với việc sáng tạo tác phẩm văn học.

1.1.3. Mục đích của việc nghiên cứu tư tưởng nghệ thuật của nhà văn

3
Việc nghiên cứu tư tưởng nghệ thuật của nhà văn rất quan trọng. Nghiên cứu tư
tưởng nghệ thuật của nhà văn giúp ta hiểu rõ hơn quan niệm về thế giới, con người,
cuộc sống, xã hội,...Từ đó, ta có thể hiểu sâu sắc hơn về tác phẩm của nhà văn, về
những giá trị nội dung và nghệ thuật mà tác phẩm mang lại. Tư tưởng nghệ thuật của
nhà văn là biểu hiện của nhận thức, tư tưởng của nhà văn về đời sống, về xã hội.
Nghiên cứu tư tưởng nghệ thuật của nhà văn giúp ta thấy được những giá trị của văn
học, nghệ thuật đối với đời sống con người. Nghiên cứu tư tưởng nghệ thuật của nhà
văn là một công việc quan trọng, cần thiết đối với việc nghiên cứu, giảng dạy và tiếp
nhận văn học.

1.2. Tác giả La Quán Trung và tiểu thuyết Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa

1.2.1. Tác giả La Quán Trung

1.2.1.1. Tiểu sử

La Quán Trung tên thật là La Bản, hiệu là Hồ Hải Tản Nhân, người huyện Thái
Nguyên, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc, ông sinh vào cuối đời nhà Nguyên, mất vào đầu
đời Minh (1330 –1400 ?). Thời đại ông sống là thời đại mà mâu thuẫn dân tộc và mâu
thuẫn giai cấp cực kì gay gắt và phức tạp. Vì thế mà cuộc sống của bản thân ông cũng
không ổn định, phải nay đây mai đó. La Quán Trung xuất thân từ một gia đình quý
tộc. Tuổi thanh niên ông nuôi chí phò vua giúp nước nhưng triều đình nhà Nguyên lại
đang suy tàn, ông bỏ đi phiêu lãng nên có biệt hiệu là Hồ Hải Tản Nhân. Ông là một
trong những người “có chí mưu đồ sự nghiệp bá vương”.

Người đời cho rằng tính cách của La Quán Trung thích cô độc, lẻ loi. Các sáng
tác của ông cho thấy ông chịu ảnh hưởng khá sâu đậm tư tưởng Nho giáo. Ông quan
sát hiện thực xã hội bằng con mắt sắc sảo. Thông qua tác phẩm, ông miêu tả và vạch
trần bản chất của cái xã hội “dân đen chết đói nơi thôn xóm, anh tài mai một trong
rừng sâu, người trung lương chết oan dưới gươm giáo…”. Chính nhận thức đúng đắn
và thái độ yêu ghét phân minh của La Quán Trung trước thật giả, tốt xấu đã khiến tầm
tư tưởng của ông cao hơn tầng lớp trí thức đương thời một bậc. Những hoài bão chính

4
trị lớn lao mà ông hằng ấp ủ đã không thể trở thành hiện thực. Sau năm 1364, không
ai rõ về tung tích của ông nữa.

1.2.1.2. Tư tưởng nghệ thuật

- Quan niệm về con người:

La Quán Trung quan niệm con người là trung tâm của vũ trụ, là tác nhân quyết
định vận mệnh của lịch sử. Trong tiểu thuyết Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, ông đã xây
dựng thành công nhiều nhân vật anh hùng, tài năng, mang những phẩm chất cao đẹp
của con người. Đó là những người yêu nước, yêu dân, sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn.
Họ là những tấm gương sáng về ý chí, nghị lực, tài năng, và nhân cách. Ví dụ như Lưu
Bị, Quan Vũ, Trương Phi, Tào Tháo, Gia Cát Lượng,...

- Quan niệm về xã hội:

La Quán Trung quan niệm xã hội là một thực thể phức tạp, luôn vận động và biến
đổi. Ông đã phản ánh chân thực những mâu thuẫn, xung đột trong xã hội Trung Quốc
thời Tam Quốc. Đó là mâu thuẫn giữa các tập đoàn phong kiến, giữa giai cấp thống trị
và nhân dân. Ông cũng thể hiện niềm tin vào sự thay đổi của xã hội, vào thắng lợi của
chính nghĩa như sự sụp đổ của nhà Hán, sự thành lập của Thục Hán,...

- Quan niệm về nghệ thuật:

La Quán Trung quan niệm nghệ thuật phải có tính chân thực, tính thẩm mỹ và
tính giáo dục. Trong tiểu thuyết Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, ông đã sử dụng nhiều thủ
pháp nghệ thuật đặc sắc để xây dựng hình tượng nhân vật, khắc họa tính cách, tâm lý,
và hành động của nhân vật. Ông cũng sử dụng ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh,
nhịp điệu,...để tác phẩm thêm sinh động, hấp dẫn. Trong đó có việc sử dụng bút pháp
phóng đại, khoa trương để khắc họa hình tượng các nhân vật anh hùng, hoặc việc sử
dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhịp điệu để miêu tả các trận chiến,...

Tư tưởng nghệ thuật của La Quán Trung trong tiểu thuyết Tam Quốc Chí Diễn
Nghĩa có giá trị to lớn đối với đời sống văn học và xã hội. Tác phẩm đã góp phần bồi
đắp nhân cách, khơi dậy tinh thần yêu nước, yêu dân, và khát vọng vươn lên của con

5
người. Tác phẩm cũng là một kho tàng tri thức phong phú về lịch sử, văn hóa, và quân
sự của Trung Quốc.

1.2.1.3. Sự nghiệp sáng tác

La Quán Trung có tài văn chương, rất giỏi về từ khúc, câu đối, viết kịch, nhưng
nổi tiếng nhất vẫn là về tiểu thuyết. Ông là tác giả của cuốn tiểu thuyết Tam Quốc Chí
Diễn Nghĩa và là người đóng góp xuất sắc cho trường phái tiểu thuyết lịch sử đời
Minh - Thanh. Về tiểu thuyết thì ngoài Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, tương truyền có tất
cả hơn mười bộ, còn có: Tùy Đường chí, Tản Đường ngũ đại sử diễn ca, Tam toại
bình yêu truyện...(hiện nay những bản còn lưu truyền đã bị người đời sau sửa đổi, viết
lại, không còn nguyên bản của ông nữa).

1.2.2. Tác phẩm Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa

1.2.2.1. Hoàn cảnh ra đời

Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa là bộ tiểu thuyết dài được tác giả sáng tác vào đầu
thời Minh (thế kỉ XIV), dựa theo tư liệu lịch sử và truyền thuyết có sẵn. Nội dung chủ
yếu miêu tả tình hình phức tạp của cuộc đấu tranh chính trị và quân sự kéo dài suốt
một thế kỷ (từ năm 184 đời Linh đế thời Đông Hán đến năm 280 đời Vũ đế thời Tây
Tấn). Toàn bộ tác phẩm gồm 120 hồi, kể về sự kiện một nước chia ba. Đó là cuộc
phân tranh dữ dội giữa ba tập đoàn phong kiến quân phiệt: Nguỵ - do Tào Tháo cầm
đầu, chiếm giữ phía Bắc từ Trường Giang trở lên (Bắc Ngụy); Thục - do Lưu Bị cầm
đầu, chiếm giữ Tây Nam (Tây Thục); Ngô - do Tôn Quyền cầm đầu, chiếm giữ phía
Đông Nam (Đông Ngô).

1.2.2.2. Ý nghĩa nhan đề

Nhan đề Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa mang tính hình tượng hóa, sử dụng để miêu
tả sự khó khăn, rối ren và phức tạp giữa ba bên hoặc nhiều bên liên quan trong một
tình huống. Trong đó:

6
Quốc (三國): “Tam Quốc” đề cập đến thời kỳ lịch sử của Trung Quốc chia thành
ba quốc gia lớn là Tây Ngụy, Đông Ngụy và Đông Hán. Tam Quốc cũng có thể hiểu
là sự chia rẽ và mâu thuẫn trong quốc gia.

Chí (志) có thể được hiểu là chính trị, sử sách, hay bản ký. Việc sử dụng từ này
trong nhan đề có thể chỉ ra rằng tác phẩm có tính chất như một bản ghi chép về lịch sử
và chính trị của thời kỳ đó.

Diễn Nghĩa (演義) được dịch là diễn giả, trình bày hay sáng tác. Việc sử dụng từ
này có thể ám chỉ rằng tác giả đã sáng tạo và biến đổi các sự kiện lịch sử để tạo nên
một câu chuyện có tính nghệ thuật và giáo dục.

1.2.2.3. Bố cục

Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa là một tác phẩm văn học cổ điển của Trung Quốc,
được chia thành ba phần chính.

Phần 1: Thời suy vi của nhà Hán khi mà những Hoàng đế cuối cùng của nhà Hán quá
tin vào giới hoạn quan mà gạt bỏ những bề tôi trung trực.
Phần 2: Các cuộc chiến tranh giữa những tập đoàn phong kiến vô cùng khốc liệt.
Phần 3: Thời đại Tam Quốc cuối cùng cũng chấm dứt sau gần một thế kỷ đầy xung
đột.

7
Chương 2

TƯ TƯỞNG NGHỆ THUẬT TRONG TAM QUỐC CHÍ DIỄN NGHĨA

2.1. Những tư tưởng chính trong tác phẩm Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa
2.1.1. Tư tưởng nhân nghĩa
Chọn chủ đề xuất phát ở thực tại của xã hội loạn lạc những năm cuối Đông Hán
và từ khát vọng của quần chúng nhân dân, tác giả La Quán Trung đặc biệt chú trọng
đến quan niệm về chữ Nhân trong tư tưởng Nho gia xuyên suốt tác phẩm. Quan niệm
cốt lõi của chữ Nhân là đề cao nhân nghĩa thông qua việc giáo hóa để cai trị đất nước.
Điều này luôn được thể hiện nhất quán trong suốt cuộc đời hoạt động chính trị của
nhân vật Lưu Bị, tự Huyền Đức [9]. Qua đó, nó được xem như là một phần đóng góp
không nhỏ để hình thành nên tư tưởng “ủng Lưu phản Tào” trong tác phẩm Tam Quốc
Chí Diễn Nghĩa của La Quán Trung.
Tư tưởng nhân nghĩa ở đây có thể nhận thấy một cách rõ nét thông qua việc tác
giả đặt hết ý nghĩa của hai chữ “nhân” và “nghĩa” lên hình tượng Lưu Bị - một vị
minh quân, luôn hết lòng vì nhân dân, vì sinh mệnh của đất nước. Không chỉ vậy, Lưu
Bị còn là đại diện cho khát vọng của quần chúng nhân dân trong thời kỳ loạn lạc. La
Quán Trung đã tập trung xây dựng hình tượng Lưu Bị với một phẩm chất cao đẹp mà
đặc biệt ông đã để cho nhân vật của mình tự nhận định về tư tưởng này thông qua lời
thoại: “Tháo dĩ cấp, ngô dĩ khoan, Tháo dĩ bạo, ngô dĩ nhân, Tháo dĩ nguyệt, ngô dĩ
trung” (Tháo nhanh, ta thong thả, Tháo dùng bạo lực, ta dùng nhân nghĩa, Tháo dùng
âm mưu xảo trá, ta lấy lòng trung thành đối đãi). Trong cuộc đời của mình, Lưu Bị
luôn giữ vững cho mình phương châm sống là “dĩ nhân vi bản” (lấy nhân làm gốc).
Ông từng nói “thà ta chết, chứ không làm điều phụ nghĩa” đã trái ngược hoàn toàn với
quan điểm sống của Tào Tháo. Nhờ có một tấm lòng nhân từ rộng lượng, thương dân,
thương lính cho nên từ hai bàn tay trắng, Lưu Bị đã làm đến Hán Trung Vương, lên

8
ngôi Hoàng đế và chia ba thiên hạ. Nhân tố chủ yếu để Lưu Bị giành thắng lợi chính
là đạo “nhân hoà”. Hình tượng nhân vật Lưu Bị trong tác phẩm đã vượt qua con người
Lưu Bị trong lịch sử, từ đó thể hiện lý tưởng, nguyện vọng của nhân dân về một ông
vua chân chính, về một người anh em bằng hữu hết lòng vì bạn bè.

Cái nhân nghĩa của Lưu Bị được thể hiện ở lòng tin sắt đá, không hề mảy may
nghi ngờ với những huynh đệ kết nghĩa. Sau khi Lưu - Quan - Trương bị đại quân Tào
Tháo đánh tan tác, trong chiến loạn Lưu Bị chỉ còn lại đơn thân một mình chạy thoát
đến Thanh Châu, được Viên Thiệu bảo hộ. Quan Vũ bảo vệ phu nhân Lưu Bị đã rơi
vào tay quân Tào. Sau này Tào Tháo và Viên Thiệu nổ ra chiến tranh, Lưu Bị ở trong
quân Viên Thiệu lần đầu nhìn thấy Quan Vũ ở trong doanh trại Tào Tháo, niệm đầu
tiên trong tâm là: “Tạ ơn Trời Đất, thì ra em ta quả nhiên là ở chỗ Tào Tháo”. Ông
không mảy may hoài nghi Quan Vũ thay lòng đổi dạ, việc này thì người phổ thông
bình thường không thể nào làm nổi, người thường ai có thể không có nghi tâm ? Từ
đó, ta thấy được việc xây dựng hình tượng nhân vật Lưu Bị mang một khuynh hướng
là con người sống theo hai chữ “nhân – nghĩa” thể hiện tư tưởng nghệ thuật của La
Quán Trung. Đây không còn là một nhân vật được dựng theo lịch sử nữa mà còn là
con người lý tưởng trong xã hội bấy giờ.

2.1.2. Tư tưởng Nho giáo

Tư tưởng Nho giáo là một trong những luồng tư tưởng có sự tác động, chi phối
mạnh mẽ trong tiến trình văn học Trung Quốc. La Quán Trung khi sáng tạo Tam
Quốc Chí Diễn Nghĩa cũng chịu sự chi phối ấy.
Trước hết, tư tưởng Nho giáo lấy con người làm trung tâm. Nho học quan niệm
tính thiện của con người gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín hay còn gọi là Ngũ thường.
Để thực hiện Ngũ thường, mỗi người phải thực hiện Tam cương, Ngũ luân. Tam
cương là ba mối quan hệ cơ bản của xã hội: Vua - Tôi, Cha - Con, Chồng - Vợ. Ngũ
luân là năm mối quan hệ: Vua - Tôi, Cha - Con, Chồng - Vợ, Anh - Em, Bạn - bè. Ngũ
thường là bản tính của con người. Ngay từ khi ra đời, Nho giáo đã có nhiều điểm khác
biệt căn bản với tư tưởng của các tôn giáo khác, nhất là vấn đề con người. Nho giáo
rất chú trọng dạy đạo làm người, giáo dục con người khiến cho con người từ ác thành

9
thiện [17, tr.35]. Nho giáo xem đạo đức của con người quan trọng hơn tài sản. Khổng
Tử nói “Người quân tử quan tâm đến đạo đức, kẻ tiểu nhân khao khát ruộng vườn nhà
cửa. Người quân tử quan tâm đến phép tắc, kẻ tiểu nhân mong cầu ân huệ”. Ảnh
hưởng bởi tư tưởng Nho giáo, La Quán Trung xây dựng hình tượng người quân tử
theo khuynh hướng Ngũ thường. Xuyên suốt tác phẩm, tác giả luôn đề cập đến hình
tượng người anh hùng Lưu Bị, đây là nhân vật được tác giả đặt vào khuôn khổ chuẩn
mực của người anh hùng nhiều nhất bởi vì Lưu Bị hội tụ đủ năm yếu tố Nhân – Nghĩa
– Lễ – Trí – Tín. “Nhân” trong cách đối nhân xử thế, quả thật kể cả Lưu Bị trong lịch
sử hay Lưu Bị trong ngòi bút phác họa của La Quán Trung thì vẫn chiếm một vị trí ưu
thế trong lòng nhân dân, vì vậy có thể khẳng định Lưu Bị là một người thấu hiểu và
gắn liền với đời sống nhân dân nên mới được người dân ủng hộ như vậy. “Nghĩa”
trong tư tưởng đúng đắn, luôn làm điều đúng với đạo lý luân thường, nhân vật này
một lòng hướng về cơ đồ của đất nước, được La Quán Trung xây dựng là người trung
trực, trái ngược hoàn toàn so với cái “gian” của Tào Tháo. Cái “Lễ” của Lưu Bị được
miêu tả qua dáng vẻ của ông, bởi Khổng Tử đã từng nói: “Người quân tử giữ đạo lý
nên đặc biệt coi trọng ba điều: Cử chỉ, dung mạo điềm đạm, dáng điệu khoan thai,
đàng hoàng sẽ giữ cho mình tránh thô bạo và phóng túng. Giữ sắc mặt đoan trang sẽ
giúp mình giữ được chân thật và thành thực với mọi người. Nói năng chú ý giữ được
điệu bộ, giọng điệu sẽ giúp mình tránh được thô bỉ và sai sót”. Ấn tượng về Lưu Bị là
người anh hùng không thích đọc sách, tính ôn hoà, ít cười nói, mừng giận không hề lộ
ra mặt, có trí lớn, thích kết giao với những tay hào kiệt trong thiên hạ. Bởi thế Lưu Bị
tuy mới xuất hiện trên vũ đài chính trị chưa làm nên công trạng gì nhưng được Tào
Tháo quả quyết: “Anh hùng trong thiên hạ chỉ có Sứ quân (Lưu Bị) và Tháo mà thôi”.
Bên cạnh đó, Lưu Bị còn có tài “Trí” lược, tuy nhiên vẫn không thể so được với sự am
hiểu tinh thông của Khổng Minh, tài cầm quân của Tào Tháo. Ông khôn khéo trong
việc dựa vào lòng dân, lòng quân, tinh thông trong việc dùng người và chiêu mộ nhân
tài. Chữ “Tín” cũng có mặt tích cực khi thể hiện kết nghĩa huynh đệ, đó là lúc con
người cần hợp sức nhau trong thời đại tao loạn, kết nghĩa vườn đào, không thay lòng
đổi dạ, sống chết có nhau là tín nghĩa của Quan Vũ. Quan Vũ giải cứu Tào Tháo tại
Bạch Mã, chém hai tướng của Viên Thiệu, suýt nữa làm Lưu Bị bỏ mạng tại doanh

10
trại họ Viên nhưng Quan Vũ lại hết lòng với chị dâu, qua ngăn cửa quan chém sáu
tướng giỏi của Tào Tháo.
Cùng với sự chi phối, ảnh hưởng của Nho giáo, La Quán Trung còn thành công
khi vận dụng thuyết “thiên mệnh” nhằm lý giải số phận, khả năng thiên định của đời
người, lý giải sự biến đổi của quy luật sinh tồn đồng thời giúp độc giả nhận thức được
sự vận động mạnh mẽ của hai lực lượng chính trong tác phẩm đó là lực lượng siêu
nhiên và xã hội loài người – bởi vì trong tín ngưỡng của Nho giáo luôn tin rằng “thiên
nhân tương dữ”. Nho giáo vốn tin có trời làm chủ tế cả vũ trụ thì tất là ý chí rất mạnh
để khiến sự biến hoá ở trong thế gian cho hợp lẽ điều hoà. Cái ý chí ấy gọi là “thiên
mệnh” hay “đế mệnh”. Theo Khổng Tử, trời hay thượng đế là một đấng có tình cảm,
có tư duy. Ông cho rằng mỗi cá nhân, sự sống – chết, phú quý hay nghèo hèn đều là
do “thiên mệnh” quy định. Phú quý không thể cầu mà có được do vậy bất tất phải cầu.
Trong Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, La Quán Trung chịu sự chi phối rất mạnh mẽ của
tư tưởng “thiên mệnh”. Tư tưởng ấy được tác giả vận dụng nhằm minh chứng cho sự
suy vong của một dòng họ, cho năng lực tri thiên mệnh của mỗi cá nhân, nhằm thể
hiện quan niệm về sự biến đổi lịch sử xã hội cũng như việc lý giải số phận của mỗi
nhân vật. Trong Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa hầu như số phận của mỗi nhân vật quan
trọng đều có sự can thiệp của “thiên mệnh” trong sự ra đời, sự tồn tại và kể cả cái
chết. Tuy nhiên đối với hơn bốn trăm nhân vật, bốn trăm vận mệnh trong Tam Quốc ta
thấy rằng họ quan niệm và hành động không giống nhau theo mệnh số. Một số nhân
vật cho rằng vận mệnh con người do trời quyết định, con người chỉ hoà theo dòng
định mệnh.
Quan niệm “thiên mệnh” còn được biểu hiện khi tác giả nhìn nhận về sự biến đổi
của lịch sử – xã hội. Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa nhìn lịch sử xã hội trong cái “thế lớn
trong thiên hạ, cứ tan lâu rồi lại hợp, hợp lâu rồi lại tan. Như cuối đời nhà Chu, bảy
nước tranh giành xâu xé nhau rồi lại hợp về nhà Tần. Đến khi nhà Tần mất, thì Hán Sở
tranh hùng rồi sau thiên hạ lại hợp về tay nhà Hán”. Tác giả đã để cho Thôi Châu Bình
– một vị ẩn sĩ phân tích về lẽ hợp phân, nói đến “thiên mệnh” lẽ huyền vi của tạo hoá,
sức mạnh của siêu nhiên rất rõ. Có thể nói mọi biến cố của thế giới trần gian, sự hưng
vong của các triều đại, các cuộc chiến tranh, thắng, bại, chết chóc, vinh nhục, sướng
khổ... đều là biểu hiện ý muốn của trời, đều do một bàn tay vô hình sắp đặt cả. “Mệnh

11
trời” đã được thể hiện bằng điềm báo, chỉ những người thông thiên văn, tường địa lý,
những người sáng suốt mới hiểu và giải được các điềm ấy. Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa
bao quát một không gian rộng lớn với hàng trăm trận đánh xảy ra hầu khắp các châu
quận trên đại lục Trung Hoa. Trận đánh nào cũng căng thẳng hấp dẫn bởi tài năng
thao lược của các tướng lĩnh thời Tam Quốc. Cái ý chí ấy được La Quán Trung thể
hiện thông qua hàng loạt những chi tiết, những điềm báo. Có những điềm báo giúp các
tướng lĩnh tăng thêm sức mạnh để chiến đấu, có những điềm báo giúp các tướng lĩnh
chủ động phòng bị, có những điềm báo ngăn cản việc xuất quân (trong trường hợp này
nếu con người cố tình chống đối thì sớm muộn gì cũng chuốc lấy sự thất bại đáng
tiếc), lại có những điềm báo mở đường chỉ lối cho họ hành động. Trong trận đối chiến
với Tào Tháo ở Phàn Thành, Đan Phúc đang ngồi bàn bạc với Huyền Đức bỗng có
cơn gió giật đùng đùng nổi lên. Phúc nói rằng đêm nay Tào Nhân chắc đến cướp trại.
Phải chăng ở tình huống này “mệnh trời” đã giúp Lưu Huyền Đức chủ động hơn khi
đối phó với quân Tào, phải chăng mệnh trời đã giúp Lưu Huyền Đức đánh úp được
Phàn Thành, không hẳn như thế bởi chiến thắng ở Phàn Thành là kết quả của trí tuệ và
sức lực của Lưu Huyền Đức, Đan Phúc và các binh sĩ song nó cũng là một trong
những yếu tố giúp quân Thục – Hán thành công.
“Điềm trời” biểu hiện của “thiên mệnh” trong Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa có khi
được thể hiện qua việc sử dụng tối đa ngọn gió của vũ trụ để truyền tải thông tin.
Ngay đầu câu chuyện “Tam phân” đã có nhiều điềm lạ: “Gió to ầm ầm nổi lên, một
con rắn xanh lớn trên sàn nhà rơi xuống quấn ngay vào ngai vua. Động đất, nước bể
tràn vào, gà mái hóa thành gà trống, mây đen bay vào điện Ôn Đức”. Việc miêu tả cho
thấy có sự rung động dữ dội của cả phong và thuỷ. Đó là sự giận dữ của vũ trụ, của
“mệnh trời”. Sự giận dữ ấy của vũ trụ còn được thể hiện khi Tào Phi cướp ngôi, phế
vua Hiến Đế, khi Tào Phi lên ngôi. Cũng có lúc ngọn gió báo hiệu những điều tốt
lành, báo hiệu sự thuận lợi như khi Tào Tháo đem quân đến Tiểu Bái, khi Chu Du
chuẩn bị ra quân ở cửa Tam Giang, khi Huyền Đức cùng Khổng Minh đem quân tiếp
ứng Vân Trường (đi lấy Trường Sa). Có thể nói ngọn gió vũ trụ luôn có mặt trong
Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa để mang lại thông tin, truyền đạt “mệnh trời”. Điều này tạo
ra sự thần bí đầy hấp dẫn đối với bạn đọc từ cổ chí kim.

12
“Mệnh trời” còn được tác giả thể hiện ở những dấu hiệu của thiên văn. Qua thiên
văn với “phương nam vượng khí chói lọi” – Tào Tháo hiểu rằng vị tất đã đánh được
Giang Nam, với “các vì sao tụ cả ở Thục quận, trong các ngôi sao có một ngôi to sáng
lắm, hình như mặt trăng đó là tượng đế vương” – Khổng Minh, Tiêu Chu và mọi
người hiểu rằng Lưu Bị lên ngôi là hợp lẽ. Trong Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa còn một
loại thông tin của “mệnh trời” nữa là các giấc mộng. Đây được xem là một lối hình
tượng hoá thiên mệnh. My Chúc được thần báo mộng có họa lửa cháy nhà nên thoát
chết. Cái chết của Mã Đằng ứng với giấc mộng của Mã Siêu. Khi ở Tây Lương, Mã
Siêu đêm ngủ mơ thấy mình nằm trên vùng đất có tuyết, một đàn hổ đến ăn thịt, giật
mình tỉnh dậy hỏi điềm ấy là điềm gì. Bàng Đức nói mộng ấy là điềm dữ lắm. Có lẽ
Lão tướng quân ở Hứa Xương có việc gì chăng ? Đức nói chưa dứt lời có người tất tả
chạy vào khóc lăn xuống đất nói “chú và các em bị hại cả rồi”. Vương Phủ nằm mơ
chúa công máu me khắp cả mình – Vân Trường đã bị hại. La Quán Trung với việc vận
dụng một cách linh hoạt thuyết “thiên mệnh” đã giúp bạn đọc nhận thức được sự vận
động mạnh mẽ của hai lực lượng chính trong tác phẩm.
2.1.3. Tư tưởng Phật giáo
Bên cạnh tư tưởng Nho giáo, Phật giáo cũng là một tư tưởng lớn được phản ánh
một cách đặc sắc trong tiểu thuyết Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa. Tư tưởng Phật giáo
trong tác phẩm được thể hiện ở chi tiết Quan Công cầu pháp với thiền sư Phổ Tĩnh –
điểm son đạo lý trong Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa. Một điều rất đáng được quan tâm
đó là sau khi chết Quan Công cầu pháp với thiền sư phổ tĩnh, bởi lẽ Khổng giáo, Đạo
giáo và nhiều tập tục khác cũng đã và đang thịnh hành thời bấy giờ nhưng không được
tác giả đề cập mà nhân vật Quan Công được xây dựng như một tượng đài của sự trung
nghĩa lại đi cầu pháp với một thiền sư Phật Giáo. Điều đó một phần nào nói lên tầm
ảnh hưởng rất lớn của Phật giáo với quần chúng xã hội thời Tam Quốc hay có thể thời
sinh tiền của tác giả. Một Quan Công khí khái Hiếu Trung Nghĩa như vậy được xem
như một phần tư tưởng chủ đạo của Khổng Mạnh lại quy y, nương tựa với Tam Bảo.
Có nhiều người cho rằng Quan Công chỉ là hạng võ biền, bị chém chết như bao nhiêu
người bình thường khác, điều này đúng chứ không sai, vì thời đó đa phần xuất thân là
nông dân, thành phần đa số của xã hội nông nghiệp. Thế nhưng con người điểm xuất
phát không phải là điều quan trọng, điều quan trọng chính là đạo đức, nhân cách, tư

13
cách và sự cống hiến của người đó cho cuộc đời. Dù hình ảnh Quan Công có bị người
đời sau hiểu sai lệch, tô vẽ khác đi cũng do chính những sự ích kỷ, tham lam của con
người, thế nhưng điểm khởi đầu và mong muốn của tác giả đáng được trân quý.
Tư tưởng Phật giáo được vận dụng trong tiểu thuyết Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa
đã góp phần làm nổi bật lên được những giá trị nhân sinh tốt đẹp của con người trong
cuộc đời. Các pháp từ nhân duyên sinh và cũng từ nhân duyên mà diệt. Bao nhân vật
kiệt xuất rồi cũng chỉ còn trên trang sử, vạn vật thay đổi không lường. Và hơn thế nữa,
tất cả những thành bại đó đều xuất phát từ con người chứ không phải là sự cầu xin
thần thánh, các bậc siêu nhiên hay dựa vào người khác, và chính bản thân của mình
cũng không thể hoàn toàn giúp người khác được.

2.1.4. Tư tưởng “ủng Lưu phản Tào”

Khi xét đến tư tưởng “Ủng Lưu phản Tào” trong Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa nói
riêng và trong truyền thuyết dân gian nói chung, nghĩa là chúng ta đang xét đến hai thế
lực hoàn toàn đối lập nhau trong thời Tam quốc đó là Tào Tháo và Lưu Bị, là tập đoàn
Tào Ngụy và tập đoàn Lưu Thục (riêng Đông Ngô chỉ được xem là lực lượng trung
gian giữ vai trò là đối tượng tranh thủ của cả hai phía). Trong tư tưởng “Ủng Lưu
phản Tào” thì Tào Ngụy được cho là tập đoàn phi nghĩa, còn Lưu Thục lại được xếp
vào tập đoàn chính nghĩa vì đấu tranh để khôi phục lại vương quyền nhà Hán. “Ủng
Lưu” là theo về Lưu Bị, đứng trên lập trường đối đầu với phe Tào Tháo. Tuy nhiên
cần thấy rằng, trong Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, việc đề cao Lưu Bị không đơn thuần
chỉ vì Lưu Bị là dòng dõi nhà Hán mà còn vì Lưu Bị gần gũi với nhân dân, có những
chính sách đường lối đáp ứng được nguyện vọng của người dân. Khuynh hướng đề
cao Lưu Bị và mạt sát Tào Tháo đã có từ rất lâu trong dã sử và truyền thuyết dân gian.
Nó thể hiện nguyện vọng của nhân dân về một ông vua tốt, một triều đại mà vai trò
của người dân được đặt lên hàng đầu. La Quán Trung đã tiếp thu khuynh hướng đó
trong tình cảnh nhân dân đang bị quân Mông Cổ thống trị, đời sống nhân dân đói khổ.
Vì thế khuynh hướng “Ủng Lưu phản Tào” còn bao hàm ý thức dân tộc và tinh thần
yêu nước. Lưu Bị không còn là một ông vua cụ thể của thời Tam quốc nữa mà trở
thành một hình tượng tượng trưng cho một vị minh chúa. Triều đình Lưu Thục cũng

14
không còn là một chính quyền cụ thể nữa mà thành hình ảnh tượng trưng cho giang
sơn xã tắc.
* Nguồn gốc của tư tưởng “Ủng Lưu phản Tào”:
Quan niệm chính trị của người Đông Phương căn bản là sùng bái nhân nghĩa đạo
đức, triệt để bài bác quyền thuật cơ mưu. Chịu ảnh hưởng của bọn học phiệt có tư
tưởng chính thống và đạo thống. Như vậy thì bộ Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa tuy
phương diện biên soạn chủ yếu là công lao của La Quán Trung, nhưng sự thực bộ tiểu
thuyết này đã có một quá trình sáng tác của nhiều người. Ở Tam Quốc Chí Diễn
Nghĩa ta còn thấy nhà văn La Quán Trung sử dụng đến mức tuyệt diệu nghệ thuật văn
học để làm nổi bật hai bộ mặt thiện, ác tương phản của Tào và Lưu, cùng khơi sâu tâm
lý yêu Bị ghét Tháo vẫn sẵn có từ trước.
Đối với La Quán Trung thì tiểu thuyết viết Tào Tháo không phải là tạo ra nhân
vật lịch sử nguyên hình như cũ, mà là mượn nhân vật lịch sử để sáng tạo ra hình tượng
nhân vật và tính cách điển hình phong phú phức tạp. Chủ yếu của tiểu thuyết là sáng
tạo ra một nhân vật điển hình để vạch rõ thói hung tàn nham hiểm của bọn thống trị
phong kiến, để cho nhân dân quần chúng nhận thức được một cách cụ thể. Phản ánh
như vậy so với cách trực tiếp bộc lộ càng khẳng định mạnh mẽ hơn một sự thống nhất
hoàn chỉnh giữa tư tưởng và nghệ thuật.
* Biểu hiện của tư tưởng “Ủng Lưu phản Tào”:
Như đã nói tư tưởng “Ủng Lưu phản Tào” thể hiện trong tác phẩm chủ yếu về bề
nổi, về phương diện tư tưởng của hai tập đoàn Ngụy – Thục mà đứng đầu là Tào Tháo
– Lưu Bị. “Ủng Lưu” là ủng hộ tôn thất nhà Hán, ủng hộ và yêu mến những con
người, những việc làm thể hiện nhân đức – tài trí mà Lưu Bị và những quân thần bên
mình đã được La Quán Trung xây dựng để thể hiện điều đó. “Phản Tào” nghĩa là
không chấp nhận, căm giận, và chống lại những con người và việc làm đi ngược lại
với quan điểm chính thống và quan điểm sùng bái nhân nghĩa, đạo lý của Tào Tháo và
tập đoàn của ông.
Với Trương Phi, lòng cương trực quyết định lối sống cương trực. Trương Phi
sống ngay thẳng, đường hoàng, không dung hoà nhân nhượng, không quanh co giấu
giếm, thẳng như làn tên bắn, trong sáng như gương soi. Trương Phi cướp trên 150 con
ngựa tốt của Lã Bố với lý do hết sức giản đơn: “Sao tao cướp ngựa của mày thì mày

15
biết tức, mày cướp Từ Châu của anh tao sao mày không nói”. Cũng là những người
anh em kết nghĩa vườn đào nhưng quan niệm về “nghĩa” của Trương Phi rành rọt hơn
Quan Vũ, dứt khoát hơn Lưu Bị. Nếu Trương Phi bị khốn tại Thổ Sơn thì chắc hẳn
Trương Phi chịu chết chứ không chịu nương tựa Tào - hình ảnh Trương Phi là hình
ảnh tuyệt đẹp của con người thượng võ, người anh hùng biết kết hợp giữa mưu mô và
sức lực. Với các tướng còn lại trong “ngũ hổ tướng” như Hàn Trung, Mã Siêu thì là do
được cảm hóa từ chính cái nhân nghĩa, lòng kính trọng các bậc kiện tướng trong thiên
hạ của Lưu Bị, chứ không hẳn vì tình thế phải quy thuận, cũng đã hết sức hết lòng
chiến đấu dưới trướng của Lưu Bị. Việc Lưu Bị phong cho những tướng vốn trước đối
đầu với mình vào hạng “ngũ hổ tướng” thân cận đã chứng tỏ rõ nhất sự độ lượng và
kính trọng người tài của Lưu Bị.
Với riêng Triệu Vân, một tướng mà ngay từ lần đầu mới gặp nhau, cả hai người
đã như gắn bó từ lâu. Về sau Triệu Vân hết lòng trung thành với Lưu Bị. Mà nổi bật
nhất chính là chi tiết Triệu Vân một mình phá vòng vây của Tào Tháo, hai lần đoạt
con về cho Lưu Bị là A Đẩu (hồi thứ 41 và 61). Lưu Bị cũng chính trong lần đầu tiên
ở hồi 41, sau khi Triệu Vân giữa trận chiến Đương Dương Trường Bản, anh dũng giết
chết 54 tướng, một mình phò ấu chúa vượt vòng vây quân Tào để mang ấu chúa về,
thì Lưu Bị đã từng ném A Đẩu xuống đất mà nói: “Vì đứa trẻ này mà suýt làm ta mất
một đại tướng”. Dù có ý kiến cho rằng đây chỉ là “chiêu trò” của Lưu Bị hòng làm
Triệu Vân cảm mến, nhưng suy cho cùng thì đấy cũng xuất phát từ sự xem trọng đối
với Tử Long.
Về Gia Cát Lượng, chỉ cần diễn biến sự việc “Lưu Bị ba lần đến lều cỏ” để mời
Gia Cát Lượng về làm quân sư cũng đủ để nói lên sự kính trọng của Lưu Bị. Chưa kể,
trong suốt sự nghiệp binh đao của mình, Lưu Bị luôn kính nể Gia Cát Lượng, gần như
trong tất cả mọi phương kế (duy có lần Lưu Bị nhất quyết đánh Đông Ngô trả thù cho
Quan Vũ mà không nghe theo kế sách của Gia Cát Lượng). Sau này khi gần mất, Lưu
Bị còn dặn con là Lưu Thiện phải kính trọng Quân sư như cha đẻ và giao công việc
dang dở cho Gia Cát Lượng đảm trách. Gia Cát Lượng thì từ ngày rời lều tranh đã
cống hiến hết tài sức phò tá Lưu Bị và sau này khi cả minh chủ mất ông vẫn hết lòng
lo cho an nguy của nước Thục Hán. Trước và sau khi có Gia Cát Lượng thì Lưu Bị lần
lượt có hai quân sư đều rất tài giỏi, là Từ Thứ và Bàng Thống. Với tất cả, Lưu Bị đều

16
đối đãi bằng tất cả lòng kính nể và trân trọng. Từ Thứ vì gian kế mà phải bỏ Lưu về
Tào nhưng đã từng thề “suốt đời không thi hành một kế nào cho Tào Tháo”. Lưu Bị
chia tay và gặp lại Từ Thứ đều rơi nước mắt trân trọng, lưu luyến. Bàng Thống cũng
hết sức giúp đỡ Lưu Bị, nhất là trong trận Xích Bích.
Về Tào Tháo, những việc làm tàn ác mà tác giả viết về Tào Tháo thì Tào Tháo
vẫn mang dáng vẻ một kẻ gian thần ác độc, một mẫu nhân vật có thể khiến người đời
phải khiếp đảm khi nghĩ đến ông ta. Tác giả La Quán Trung viết Tam Quốc Chí Diễn
Nghĩa với quan điểm chính thống phò Hán Lưu mà tư tưởng chủ yếu được hình thành
do ảnh hưởng của học thuyết Khổng giáo kết hợp với vài yếu tố của Phật giáo và Đạo
giáo. Với ông, họ Tào không phải dòng dõi họ Lưu (Hán) nên được xem là đối nghịch
với Lưu Bị và người dòng dõi Trung Sơn Tĩnh Vương. Đứng trên quan điểm tiến bộ,
La Quán Trung nói lên nguyện vọng của nhân dân được sống trong hòa bình và dưới
triều của một ông vua anh minh. Vì thế, đương nhiên kẻ đối nghịch là Tào Tháo phải
được mô tả như một tên gian thần. Có thể nói tư tưởng “Ủng Lưu phản Tào” đã được
biểu hiện ngầm ngay từ chính tư tưởng của La Quán Trung khi viết Tam Quốc Chí
Diễn Nghĩa (chính xác là tiếp nhận và đồng tình với tư tưởng của nhân dân đã có từ
trước).
Các giai thoại về Tào Tháo với châm ngôn “chết người”: “Thà ta phụ người còn
hơn để người phụ ta”. Trong cái “bảy thực ba hư” của Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, tác
giả mượn Tào Tháo để mô tả một cách khái quát và sống động tính gian hùng, đa
nghi, tàn ác, xảo quyệt của giai cấp thống trị đương thời và của nhiều thời đại. Chính
vì La Quán Trung đã dùng cách tập trung hóa và điển hình hóa những mặt gian ác của
Tào Tháo nên từ đó tạo cho người đọc nghiêng về chiều hướng căm giận, kinh sợ về
nhân cách Tào Tháo. Biến Tào Tháo tiêu biểu cho tính cách phản diện, là sự phát triển
cao hơn, sâu hơn cái tàn bạo của Đổng Trác và cái tráo trở của Lữ Bố. Cũng vì tính
chất tàn bạo của Tào Tháo cùng tập đoàn ông đại diện mà lòng nhân dân và nhiều bậc
mưu sĩ mới ngã về hướng Lưu Bị với tập đoàn lý tưởng của Lưu Bị, chống lại phe Tào
Tháo.

2.2. Các yếu tố hình thành nên tư tưởng trong tác phẩm

2.2.1. Do yếu tố dân gian truyền lại

17
Các tích truyện Tam quốc vốn đã được lưu truyền trong dân gian truyền miệng,
các nghệ nhân kể chuyện, các nhà văn học nghệ thuật viết kịch, diễn kịch. Cuối đời
Nguyên đầu đời Minh, nhà tiểu thuyết La Quán Trung đã viết bộ Tam quốc chí thông
tục diễn nghĩa chính là đã dựa trên cơ sở sáng tác tập thể rất hùng hậu đó của nhân dân
quần chúng. Dĩ nhiên trong khi viết ông có tham khảo những bản ghi chép của các nhà
viết sử và các nhà văn khác (Tam Quốc Chí của Trần Tho, Tam Quốc Chí chú của
Bùi Tùng Chi), nhưng quan trọng hơn là phần thể nghiệm cuộc sống phong phú của
bản thân ông và tài năng văn học kiệt xuất của ông. Ngay từ trong các câu chuyện, cơ
hồ đã xây dựng những ấn tượng tốt đẹp về các nhân vật nhà Thục Hán, dù quan điểm
về tính chính thống của các thời đại khác nhau. Thời Tống, khi việc kể chuyện Tam
quốc đã trở nên phổ biến, có ghi chép rằng: “Những trẻ em trong xóm ngõ, thường
xúm lại nghe kể truyện Tam quốc, thấy nói đến Lưu Bị thua thì cau mày không vui, có
em khóc. Thấy kể Tào Tháo bại trận thì khoái chí reo mừng”. Điều ấy cho thấy từ
trước cả khi Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa ra đời, cơ hồ dân chúng đã có sự yêu mến nhất
định cho nhà Thục Hán, dù có thể coi quan điểm chính sử thời ấy xem nhà Tào Ngụy
mới là chính thống (vì nhận ngôi vị từ nhà Hán, và nắm giữ Trung Nguyên, không
như Thục Hán chỉ nắm được phần đất ở Tây Thục xa xôi). Đến hai đời Minh - Thanh,
tác phẩm tiếp tục được đề cao và vị thế được củng cố hơn nữa, cũng vì những lý do
như vậy.
Nói tóm lại La Quán Trung đã đem những phần phong phú trong truyện Tam
quốc mà nhân dân quần chúng và những nghệ nhân kể chuyện đã sáng tác ra, nâng cao
lên thành một tác phẩm văn học lớn lao nổi tiếng.

2.2.2. Ảnh hưởng của tôn giáo sâu sắc

Học thuyết Lão Trang và Khổng Mạnh đóng một vai trò vô cùng quan trọng, chi
phối gần như toàn bộ đời sống văn hóa tư tưởng triết học của toàn bộ các triều đình
nhà Hán đến Tam Quốc. Bên cạnh đó còn có vô số những tập tục, hủ tục,...tác giả
cũng đề cập như những phản ánh về nội tâm, văn hóa ứng xử của con người thời bấy
giờ. Đặc biệt học thuyết Lão Trang được giới bình dân bấy giờ hưởng ứng tôn trọng
một cách mạnh mẽ. Thế nhưng tư tưởng cao siêu đầy tính nhân bản của Lão Trang
nhanh chóng bị biến tướng do những thành phần tham cầu danh lợi. Cụ thể từ triều

18
đình Tiền Hán - Hậu Hán đều có những ảnh hưởng tệ hại này. Các quan nịnh bợ vua
bằng những phương thuốc trường sinh bất lão, như linh dược công hiệu như thuốc
tiên. Điều tệ hại là tất cả những chiêu bài này đa phần đều núp dưới hình bóng của
Lão Trang.
Có một sự kiện được phân tích mà giới học giả chỉ nhận ra việc lợi dụng sự hiển
thánh của Quan Vũ để bảo vệ giai cấp thống trị trong chế độ phong kiến [2, tr.33 - 34]
lại không chú ý tới chi tiết câu nói của sư Phổ Tĩnh khiến linh hồn oán hận của Quan
Vũ thức tỉnh cúi đầu lạy tạ rồi biến mất. Thông qua lời của nhân vật nhà thơ Phổ Tĩnh,
ta thấy tác giả đã xác định được: “Xưa trái nay phải, tất cả không bàn, nhân trước quả
sau bao giờ vẫn thế, nay Tướng quân một mực đòi đầu thế thì đầu của Nhan Lương,
Văn Xú cùng những đầu của sáu tướng ở năm cửa ải và biết bao cửa khác biết đòi vào
đâu” [2, tr. 88 - 89]. Có thể nói ở đây tác giả đã có một nhận thức tiến bộ để hóa giải
nỗi oan khiên nhiều đời sa trường trận mạc, mà cũng là giúp quần chúng nhờ nhận ra
đạo lý này mà thay đổi tư tưởng căm phẫn kẻ gian hại người trung nghĩa. Ở điểm này
cho thấy, xu hướng yêu Nhạc Phi ghét Tần Cối đã làm cho chúng ta không nhận thức
được toàn diện khách quan nguyên nhân cái chết của Nhạc Phi một phần quan trọng là
do chính tính cách hành xử của ông nữa.
Nói về sự việc này người viết cho rằng, có thể đây chỉ là một chi tiết nhỏ bị lu
mờ giữa khuynh hướng tư tưởng Đạo - Nho xen tạp vào thuyết nhân quả báo ứng của
Phật Giáo bởi bối cảnh khách quan của nó hay chính khí chất của tác giả đã ảnh
hưởng sâu sắc đến tư tưởng tác phẩm thì giá trị nhận thức tiến bộ này cũng là một dấu
hiệu đáng khen vì nỗi oan khiên đã có lối thoát.
Sau cũng có những chi tiết còn nhiều mâu thuẫn chúng ta bắt gặp như: Quan Vũ
từ lúc bị chặt đầu “linh hồn không tan, cứ là là bay trên không” [2, tr.87 - 88] và gọi to
“đem trả đầu ta đây”. Điều này cho thấy đứng từ góc độ Phật giáo thì đã rõ vì người
sống chấp thân này là ta, là của ta, một mai thình lình thân mạng mất đi không chấp
nhận được, nên cứ loay hoay đi tìm thân thể bị mất đó, nhất là bị lấy mất. Tác giả đã
tạo ra linh hồn Quan Vũ còn có tính sân hận, không thể siêu thoát, phải chăng nếu có
nhân tương ứng thì quả không thành tựu. Phải chăng tác giả đã thấm nhuần tư tưởng
Phật dạy trong sự thay đổi chi phối của vô thường. Thế gian đều chịu sự tác động của
quy luật thành, trụ, hoại, không, có thịnh ắt có suy, có thành có bại. Nguyên lý Duyên

19
khởi Sinh diệt của vạn pháp đã được đức Phật soi sáng vào trong từng ngõ ngách của
vũ trụ nhân sinh. Do đó Duyên khởi là chân lý khẳng định một sự thật hùng hồn “Các
pháp đều do Duyên sinh” [15], do đó không thể có một ngã tính nào, không có sự
thường hằng nào bất biến.
Tư tưởng Phật học trong Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa dừng lại ở Tam giáo hợp
lưu, đáp ứng tín ngưỡng của quần chúng thì nhìn tổng thể bức tranh thời chiến loạn
thay ngôi đổi vị trong lịch sử cũng cho ta một cảm khái về thế sự vô thường. Nhìn
thấy được lẽ thịnh suy thay đổi này, khi đối diện với những được, mất, thành bại, hơn
thua, tâm thái dễ chấp nhận hơn nhiều.

2.3. Các yếu tố làm nên thành công của tác phẩm

2.3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình

Trong nghiên cứu văn học, nhân vật nghệ thuật được xem là yếu tố trung tâm
trong loại hình tự sự. Đây chính là một trong những yếu tố nghệ thuật khiến cho nhà
văn tốn nhiều công sức nhất [8]. Nhân vật trong tiểu thuyết chương hồi đa phần là
nhân vật có thật trong lịch sử để làm đề tài viết như vua chúa, quan lại, tướng sĩ,
những người anh hùng... Và thường được khắc họa thông qua ngoại hình, hành động
để nổi bật cho đặc trưng tâm lý, tính cách. Vậy nên, khác với các thể loại khác, khi
đọc tiểu thuyết chương hồi thì sẽ thấy rất ít đoạn đi sâu vào miêu tả nội tâm của nhân
vật mà thay vào đó là chú trọng vào miêu tả vẻ mặt, lời nói, dáng vẻ, hành động để
phù hợp nhất với hình tượng nhân vật mà mình khắc họa. Điểm đáng chú ý trong việc
xây dựng nhân vật là các tác giả tiểu thuyết chương hồi đã sử dụng bút pháp ước lệ
tượng trưng khiến cho “những nhân vật trong tác phẩm trở thành biểu tượng điển hình
nghệ thuật đặc sắc, trở thành “khuôn mẫu” xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết cổ
điển Trung Hoa và có những ảnh hưởng đối với việc xây dựng nhân vật ở các nền văn
học khác” [8, tr.64]. Trong Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, có hơn bốn trăm nhân vật
được phân thành nhiều tuyến khác nhau. Trong đó có những nhân vật thể hiện lý
tưởng, ước mơ của nhân dân và tư tưởng của chính tác giả. Mỗi nhân vật có vẻ đẹp
riêng, họ đều là những người anh hùng có tài của thời đại, là sự cụ thể hoá quan niệm
ngũ thường của nho gia phong kiến: Nhân - Lễ - Nghĩa - Trí - Tín.

20
2.3.1.1 Nhân vật Gia Cát Lượng

Người đời sau gọi Gia Cát Lượng là nhà cầm quân thông thiên văn, tường địa
lý, biết pháp thuật, hiểu âm dương. Nếu Lưu Bị được chiếu sáng bởi chữ “nhân”, thì
hình tượng Gia Cát Lượng lại được chiếu sáng bởi chữ “trí”. Ông chính là hoá thân
cho trí tuệ của quần chúng. Trí tuệ của Gia Cát Lượng được thể hiện trong các lĩnh
vực chính trị, ngoại giao và quân sự. Ông vừa là một nhà chính trị, một nhà ngoại giao
đồng thời vừa là một nhà quân sự thiên tài của tập đoàn Thục Hán.

Là người có học vấn uyên bác, nhìn xa trông rộng, công lao lớn nhất của Gia
Cát Lượng là đã đề ra sách lược đối ngoại đúng đắn và kiên trì thực hiện nó, duy trì
được sự nghiệp Thục Hán trên ba mươi năm. Với công lao này, Gia Cát Lượng có vai
trò đặc biệt quan trọng đối với sự thành công của tập đoàn Lưu Thục.

Nguyên nhân vì sao Gia Cát Lượng một mực tận trung với Lưu Bị cả đời luôn
là đề tài mà nhiều năm qua các học giả Trung Quốc vẫn luôn tranh cãi. Có người cho
rằng Khổng Minh theo Lưu Bị vì được tận tình phát huy “sở học” của mình. Cũng có
người cho rằng đó là vì lý tưởng chính trị Nho gia của Lưu Bị phù hợp với ông. Theo
Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa của La Quán Trung, dân gian vẫn lưu truyền câu chuyện
về Lưu Bị ba lần đến lều tranh mời Gia Cát Lượng. Lưu Bị sau này còn nói: “Cô gia
nay có Khổng Minh, giống như cá gặp nước vậy”. Lưu Bị và Gia Cát Lượng trở thành
hình mẫu chuẩn trong quan hệ quân - thần. Theo các nghiên cứu lịch sử, lý tưởng trị
quốc của Khổng Minh là chính trị Nho giáo - đề cao chữ “nhân”. Lưu Bị khi ấy lại
được nhiều người biết tới với hình tượng “nhân nghĩa”, đề cao con người và làm theo
lẽ phải. Trong khi đó, Tào Tháo lại là người có xu hướng cường quyền, một tay nắm
chính trị. Vì trung thành tuyệt đối với tư tưởng Nho giáo, dĩ nhiên Gia Cát Lượng sẽ
không theo Tào Ngụy. Thêm vào đó, hành động thao túng chính quyền trung ương của
Tào Tháo chính là một hành động phản Hán – điều đi ngược với tôn chỉ của Khổng
Minh. Đây cũng là lý do cơ bản khiến Khổng Minh đi theo Lưu Bị - người có huyết
thống hoàng gia. Vì đi theo tư tưởng Nho giáo, lại thấy được sự “nhân nghĩa” của Lưu
Bị, Khổng Minh đã bị thu hút theo phò tá bậc quân chủ này.

21
Gia Cát Lượng vừa là một nhà chính trị, một nhà ngoại giao đồng thời là một
thiên tài quân sự. Sau khi rời khỏi lều tranh Gia Cát Lượng đã liên tiếp lập được
những chiến công hiển hách. Trí tuệ của ông được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, ngoại giao, quân sự. Đặc biệt ông là người có tài suy đoán biết trước được sự
phát triển của tình thế nhiều mưu mẹo, linh hoạt trong chiến thuật. Trong các cuộc đấu
tranh căng thẳng giữa ba tập đoàn. Gia Cát Lượng luôn là người trung tâm của các
cuộc đấu tranh đó. La Quán Trung đặc biệt đề cao trí tuệ của ông, xây dựng ông thành
một nhân vật có trí tuệ vẹn toàn. Gia Cát Lượng vừa thể hiện trí tuệ của quần chúng
vừa thể hiện lý tưởng của tác giả về một mưu sĩ trác việt.
2.3.1.2. Nhân vật Lưu Bị
Kế thừa xu hướng “Ủng Lưu phản Tào” của các truyền thuyết trước đó, với sự
chi phối của tư tưởng chính thống của bản thân, La Quán Trung đã xây dựng nhân vật
Lưu Bị thành một nhân vật lý tưởng. Nét tính cách nổi bật ở nhân vật này đó là tấm
lòng nhân đức, thương dân, thương lính.

Từ những dòng đầu, tác giả đã miêu tả Lưu Bị là người có dáng dấp của người
anh hùng hứa hẹn làm nên việc lớn. Khi mới xuất hiện trên vũ đài chính trị, chưa có
công cán gì nhưng đã được Tào Tháo (sau này là kẻ đối địch) quả quyết: “anh hùng
trong thiên hạ chỉ có sứ quân (Lưu Bị) và Tháo mà thôi” (hồi 21). Đặc biệt, trong Tam
Quốc Chí tác giả đề cao Lưu Bị, xây dựng ông thành một ông vua anh minh, nhân từ,
một ông vua chân chính luôn lấy chữ “nhân” làm gốc.

Lưu Bị xuất thân là hoàng thân quốc thích - thuộc dòng dõi Sơn Tĩnh Vương
Lưu Thắng, cháu năm đời của vua Cảnh Đế nhà Hán, nhưng đến đời Lưu Bị gia đình
đã bị phá sản, ông phải làm nghề đóng dép, dệt chiếu kiếm ăn. Ông được miêu tả là
người mình cao tám thước, hai tai chảy xuống gần vai, hai tay buông xuống đầu gối,
mặt đẹp như ngọc, môi đỏ như son. Là người không thích đọc sách, tính ôn hoà, ít
cười nói, mừng giận không lộ ra mặt, có chí lớn, thích kết giao với những tay hào kiệt
trong thiên hạ.

Tấm lòng nhân nghĩa của Lưu Bị được thể hiện rõ qua phương châm sống,
quan niệm sống của ông. Khi mới bắt đầu xây dựng cơ nghiệp Lưu Bị đã có chí

22
hướng: “thượng báo quốc gia, hạ an lê thứ” (trên báo đền nợ nước, dưới làm cho dân
yên). Lưu Bị luôn hành động theo chữ “nhân”, ông luôn lấy chữ “nhân” làm gốc: “cử
đại sứ giả, tất dĩ nhân vi bản” (người làm việc lớn phải lấy chữ nhân làm gốc). Lòng
nhân từ, đức độ của Lưu Bị được thể hiện qua sự đối chiếu, so sánh chí hướng và quan
niệm đối nhân xử thế của hai vị đầu lĩnh, của hai tập đoàn Thục - Ngụy. Nếu như quan
niệm sống của Tào Tháo là “thà ta phụ người chứ không để người phụ ta” thì quan
niệm sống của Lưu Bị lại hoàn toàn đối lập “ta thà chết chứ không làm điều phụ
nghĩa”.
2.3.1.3. Nhân vật Trương Phi
Không nằm trong tứ tuyệt như đời sau gọi Lưu Bị “tuyệt nhân”, Quan Công
“tuyệt nghĩa”, Tào Tháo “tuỵêt gian”, Gia Cát Lượng “tuyệt trí”. Nhưng khi đề cập
đến những nhân vật tiêu biểu trong Tam Quốc, đặc biệt là những nhân vật lý tưởng mà
không đề cập đến Trương Phi thì quả là một điều thiếu sót.
Mình cao tám thước, đầu như đầu báo, hai mắt tròn xoe, râu hùm hàm én, tiếng
vang như sấm. Con người mình hổ tay vượn ấy cũng là một con người bộc trực ngay
thẳng, lòng dạ trước sau như một và con người này cũng là một anh hùng dũng mạnh.
Trương Phi được xem là một nhân vật ít chịu sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến,
thấy việc phải thì làm, không cần phải suy tính.

Xuất phát từ tư tưởng “Ủng Lưu phản Tào”, tác giả xây dựng hình ảnh Trương
Phi xuất hiện trong tác phẩm là một võ tướng có tấm lòng bộc trực ngay thẳng, hết
lòng vì chính nghĩa. Ngay ở hồi đầu chúng ta đã được thấy Trương Phi với thái độ
giận dữ, toan giết hết quân lính để cứu Lư Thực. “Trương Phi nghe nói nổi giận đùng
đùng, toan giết hết quân áp giải để cứu Lư Thực.” (hồi 1). Bản chất bộc trực, ngay
thẳng nhiều khi dẫn đến sự nóng nảy trong con người này. Chúng ta không lạ gì với
câu cửa miệng của dân gian “nóng như Trương Phi”. Nhưng nóng ở đây là nóng lòng
xóa sạch những bất công ngang trái, nóng lòng tìm kiếm lẽ phải chứ không phải là
nóng do gàn dở hay do bản tính bạo ngược.

Tình cảm của Trương Phi thật chân thành thẳng thắn. Trương Phi không kiêu
căng, tự phụ mà luôn khiêm tốn, nhún nhường những bậc anh tài như Khổng Minh.
Những hành động thể hiện tính bộc trực, ngay thẳng của Trương Phi đồng thời cũng

23
cho ta thấy khí phách anh hùng của nhân vật này. Trương Phi là một người có võ nghệ
cao cường, chỉ biết nói chuyện với kẻ thù bằng những đường mâu, mũi giáo - đánh tay
đôi với Lữ Bố, Hứa Chử, thắp đuốc đánh liền mấy ngày với Mã Siêu, đại náo cầu
Trường Bản... Đó là những bức tranh tuyệt đẹp về tinh thần thượng võ của Trương
Phi.

Trong suốt cả cuộc đời phụng sự cho tập đoàn Thục Hán, ông là một người có khí
phách, có sức mạnh vô song, có tinh thần dũng cảm. Trong “hồi Trương Dực Đức đại
náo cầu Trường Bản” chúng ta đã được chiêm ngưỡng sức mạnh của Trương Phi.
Trương Phi chưa cần ra tay, chỉ mới quát mắng mà quân địch đã khiếp sợ. Trong trận
Trường Bản, Trương Phi để người đời thấy được “dũng khí”. Trong trận đấu với
Nghiêm Nhan, ông đã bộc lộ chữ “nghĩa”. Đến khi đấu với Trương Cáp, ông đã thể
hiện tài năng “mưu lược”.

Dưới sự ảnh hưởng của tư tưởng trung hiếu Nho gia, Trương Phi hiện lên
không chỉ là một người ngay thẳng, dũng mạnh mà còn là một người thuỷ chung. Ông
suốt đời trung thành với lời kết nghĩa vườn đào, trung thành với sự nghiệp Lưu Thục.
Cùng với Quan Công, Lưu Bị, Gia Cát Lượng, Trương Phi là một nhân vật lý tưởng
trong Tam Quốc, ông là một con người ngay thẳng có dũng khí và tinh thần thuỷ
chung như nhất.

2.3.1.4. Nhân vật Quan Công

Quan công (162-220) hay còn được gọi là Quan Vũ, tự là Vân Trường, là một vị
tướng quân đội thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc. Quan Vũ người Giải
Châu, ông là người đóng góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục Hán với vị Hoàng
đế đầu tiên chính là Lưu Bị. Ông là anh em kết nghĩa của Lưu Bị và Trương Phi và là
người “tuyệt nghĩa”. Chữ “nghĩa” ở đây có hai mặt trung nghĩa (trung thành với vua
và lí tưởng của nhà Hán) và tín nghĩa (lòng tin trong quan hệ anh em, bạn bè). Ông có
cách thể hiện riêng của mình chứ không máy móc, cứng nhắc như Trương Phi. Trong
tình thế bị mắc lại ở trên núi, phải chăm sóc vợ con Lưu Bị. Vì sự an toàn của chị dâu,
Quan Công đã phải chấp nhận hàng Tào, núp dưới trướng của Tào Tháo, hành động
này cũng thể hiện tấm lòng trung nghĩa của ông.

24
Hình ảnh Quan Vũ hiện lên với “bộ mặt đỏ như gấc, bộ râu dài hai thước, tay cắp
thanh long đao, cưỡi ngựa Xích thố ngày đi nghìn dặm, oai phong lẫm liệt”. Về tính
cách, ông là người hào hiệp, ghét kẻ ác, thường bênh vực người yếu, cũng do bênh
vực người yếu nên ông phạm tội giết người, phải rời bỏ quê hương để nương náu ở
quận Trác. Tại Trác ông gặp gỡ và trở nên thân thiết với Lưu Bị và Trương Phi. Bên
cạnh đó ông còn được coi là người trung nghĩa, ta có thể thấy qua việc tác giả lặp đi
lặp lại một số sự kiện như: “Gương trung vằng vặc soi trời bể - Nghĩa khí âm thầm nổi
gió mưa…”. Trước sau ông đều trung thành với nhà Thục Hán, lúc thất thế về với Tào
Ngụy, mặc dù được đối đãi hậu hĩnh, Quan Công vẫn hướng về Lưu Bị, sa cơ lỡ vận
bọn Đông Ngô dụ hàng ông vẫn một lòng một dạ “Ngọc khả toái bất nhi bất khả cải
kỳ bạch, trúc khả phần nhi bất khả hủy kì tiết” có nghĩa là “Ngọc tuy đập vụn được
nhưng không sao đổi được sắc trắng, trúc đốt cháy được nhưng không hủy được gióng
thẳng”.

Quan Vũ được xem là hóa thân của con người trung nghĩa, được đưa lên tôn
sùng tột bực. Vua Càn Long đời Thanh thậm chí còn phong Quan Vũ làm Quan Đế,
lập đền thờ cúng ở khắp nơi. Qua việc xây dựng nhân vật tác giả cũng đề cao tư tưởng
trung nghĩa, hiếu tận, ông là biểu tượng của “Danh lợi không đổi lòng, giàu sang
không dâm loạn, nghèo hèn không nhụt chí, oai vũ không khuất phục”.

2.3.1.5. Nhân vật Tào Tháo

Tào Tháo trong tác phẩm Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa mang tính cách tượng trưng
cho sự nham hiểm, tàn bạo, hại nhân. Ngoại hình của Tào Tháo được miêu tả có dáng
cao bảy thước, mắt nhỏ, râu dài.

Về tính cách, là một nhân vật độc ác ông đã làm những việc “giết thái y Cát
Bình”, “chèn ép vua Hiền Đế”, “treo cổ Đồng Quý Phi đang mang long thai”, “đánh
phục Hoàng Hậu đến chết”. Dù là người tàn bạo nhưng ông mang trong mình nhiều tài
năng đặc biệt là việc chiêu hiền đãi sĩ, tầm nhìn xa và bao quát thiên hạ. Câu nói “Đa
nghi như Tào Tháo” ám chỉ sự nham hiểm, ta có thể thấy được điều đó qua chi tiết
trước khi chết ông dặn vợ con đắp 72 mộ ngoài thành ngừa sau này có kẻ đào trộm
hay cả trong chi tiết “người chửi ta ai cũng biết cả, không giết họ, ta được cho là

25
người độ lượng, nhưng người rõ được ý nghĩ của ta mà không giết là nguy”. Còn “thà
ta phụ người chứ quyết không để người phụ ta” ông lấy câu này làm phương châm xử
thế.

Tào tháo là nhân vật tiêu biểu cho vai phản diện. Dù tác giả không ủng hộ Tào
Tháo, coi ông là “Giặc nhà Hán” nhưng La Quán Trung thông qua nhận xét của những
nhân vật trong truyện đều không phủ nhận vai trò của ông đối với giai đoạn lịch sử
loạn lạc, thậm chí thừa nhận ông được nhân dân gọi là ứng với “thiên mệnh”. Tào
Tháo với tài năng và cả những mặt hạn chế đã trực tiếp góp phần đẩy nhanh tiến trình
phát triển của lịch sử Trung Hoa, đồng thời có nhiều công lao trong những cải cách xã
hội cho đất Trung Nguyên vào thời ấy. Qua nhân vật Tào Tháo, tác giả cũng gửi gắm
tư tưởng đạo đức đến con người, các yếu tố như đạo đức và tình cảm luôn quan trọng
và các tài năng chỉ có thể trở nên thành công nếu xây dựng được một nền tảng đạo đức
tốt.

2.3.2. Nghệ thuật kể chuyện đặc sắc

Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa được xem như người “anh cả” của dòng họ tiểu
thuyết chương hồi Trung Hoa, mang đậm yếu tố truyền thống trong cách kể. Kiểu
người kể chuyện trong tiểu thuyết diễn nghĩa thường là người kể chuyện ở ngôi ba,
“biết tuốt” mọi việc. Trong Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, kiểu người kể chuyện truyền
thống này hiện lên rõ rệt, “bao giờ cũng kể về các sự kiện của quá khứ và chính truyền
thống mang lại cho bản thân nó sức mạnh” [5, tr.139]. Việc để cho người kể chuyện
ngôi ba tràn ngập tác phẩm khiến Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa mang đậm phong vị cổ
điển, đi thẳng một mạch từ gốc đến ngọn. Quyền năng của người kể chuyện ngôi ba
đã đưa đến một kiểu người kể chuyện đáng tin cậy. Điều này không có gì phải bàn cãi
khi một tác phẩm kế thừa từ sách sử và truyền thuyết về các anh hùng lịch sử, nội
dung chủ yếu kể về cuộc chiến tranh giữa ba nước thì việc cần và phải có một người
kể chuyện có sức thuyết phục là đương nhiên. Cái khô khan của những sự kiện lịch sử
được “tưới mát” bằng lối kể chêm xen thơ ca, những đoạn tạt ngang về lai lịch, những
câu chuyện phù phép kì lạ. Những motif, những chi tiết nghệ thuật được vận dụng một
cách có chủ ý khiến cho câu chuyện giãn nở ra. Và đến lượt những hư cấu văn học đó

26
lại được những sự kiện lịch sử tiết chế bớt những chi tiết mang tính giai thoại không
cần thiết, đồng thời cấp cho nó tính chân thực không gì sánh nổi.
Bên cạnh đó, cũng phải nói rằng lời văn của Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa vừa dễ
hiểu rõ ràng nhưng không vì thế mà đánh mất tính nghệ thuật. La Quán Trung sử dụng
lối kể chuyện khéo léo, lời văn sinh động, kết hợp nhuần nhuyễn giữa tự sự và miêu
tả, khiến cho bức tranh thiên hạ thời Hán mạt của Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa hiện lên
cực kỳ sinh động.
Dưới ngòi bút kỳ tài của La Quán Trung, các cuộc giao tranh lớn nhỏ mở ra hết
cảnh này đến cảnh khác, thiên biến vạn hóa, không thể trùng lặp, phản ánh tính chất
phức tạp và đa dạng của chiến tranh. Mỗi lần tả một trận đánh, tác giả lại giới thiệu
tường tận tính cách của chủ tướng, cách bố trí, phối hợp binh lực, tương quan lực
lượng giữa hai bên, sự vận dụng uyển chuyển, linh hoạt các chiến lược, chiến thuật,
diễn biến và kết thúc trận đánh. Người đọc bị lôi cuốn, hấp dẫn bởi từng trang truyện,
nhiều trang truyện mô tả cảnh chiến trận ác liệt và hoành tráng, đậm chất sử thi.
2.3.3. Nghệ thuật miêu tả chiến tranh

Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa tường thuật lại các cuộc phân tranh quyền lực và lãnh
thổ của ba tập đoàn quân phiệt gồm Ngụy, Thục, Ngô. Tác phẩm đã nói lên lòng bất
mãn của tác giả đối với hiện thực xấu xa và lý tưởng mà ông theo đuổi. Để mà thành
công trong tác phẩm không thể không kể đến cách miêu tả đời sống chiến tranh cũng
như chính trị của vương hầu tướng lĩnh. Những cảnh vì tham đoạt quyền lợi mà chèn
ép về mặt chính trị, những cuộc chiến diễn ra dồn dập, xã hội loạn lạc làm cho đời
sống nhân dân trở nên khốn khổ hơn bao giờ hết. Tác giả đã thể hiện sự khéo léo của
các sự kiện trong lịch sử bằng hình tượng nghệ thuật, tái hiện được sự thực lịch sử
thông qua các hành vi của các nhân vật trong tác phẩm như lôi kéo, mưu mô, hợp tác,
đấu tranh,….

Chiến tranh được coi là nguồn sống duy nhất của các tập đoàn quân phiệt, là
phương thức duy nhất để có thể tranh quyền đoạt lợi. Vì thế mà các quan đã không trừ
một thủ đạo nào cả. Trong Tam Quốc Chí La Quán Trung đã thống kê được hàng trăm
các cuộc chiến tranh. Từ những trận nhỏ đến trận lớn với quy mô và các cách tổ chức
khác nhau, mở ra được nhiều cảnh. Dưới ngòi bút của La Quán Trung các trận chiến

27
được miêu tả không trùng lặp, biến đổi linh hoạt, mỗi trận đều mang một nét độc đáo
riêng, đa dạng và phức tạp.

Thứ nhất, trước mỗi một cách miêu tả của tác giả trong mỗi trận chiến, ông đều
giới thiệu tường tận cách chủ tướng, người cầm quân, dàn binh khiển tướng, tương
quan lực lượng hai bên, sự thay đổi vị trí, bày trí dựng binh hay sự vận dụng các chiến
lược trước khi đi đến một quyết định. Và những trận đánh ấy có thể là lục chiến, thủy
chiến hay kết hợp giữa thủy và bộ. Có những trận dùng phương thức tấn công hoặc
phòng thủ. Cách bài trí và dụng binh được sử dụng rất hợp lý như phục kích đánh lén
hoặc tạo ra trận địa, cách bày bố binh trận thuận lợi cho việc tác chiến. Trong những
trận đánh giáp lá cà thì tác giả chú trọng việc miêu tả chi tiết chủ tướng, cách bày trận
đến hai quân khi hỗn chiến. Hình thức sử dụng nghệ thuật miêu tả trong từng trận
chiến rất đa dạng khiến cho mỗi trận đánh đều mang sức hấp dẫn mà người đọc khó
lòng đoán được kết quả của trận chiến.

Thứ hai, tác giả thể hiện sự thông thạo chiến thuật ở chỗ ông kết hợp rất hài hòa
giữa hành động quân sự và sách lược chính trị. Ví dụ như Tào Tháo xâm chiếm phía
nam cũng không phải là không có mục đích, bởi đó là bàn đạp giúp ông hoàn thành
thống nhất đại nghiệp. Hay Lưu Bị liên quân với Ngô kháng Tào là vì muốn có đất đặt
chân sau đó chấn hưng Lưu, buộc Hán thất bại. Gia Cát Lượng chinh phạt phương
Nam là vì giải quyết tranh cãi và bất ổn định giữa các sắc tộc sau đó dồn toàn lực đối
phó với Tào Ngụy.

Thứ ba, điểm mấu chốt cho sự thành bại trong mỗi trận chiến chính là sự am hiểu
về binh pháp, túc trí đa mưu của người cầm quân. Thuật dùng người đúng cách chính
là tài năng của một vị tướng lĩnh. Thắng thua phụ thuộc vào kế sách và óc phán đoán
địch thủ. Sự bình tĩnh và bản lĩnh của người cầm quân nằm ở chỗ luôn có kế sách cho
thế lùi, không để rơi vào thế bị động mà chống trả.

Thứ tư, cách miêu tả chiến tranh độc đáo phải kể đến trận Xích Bích – trận đánh
hình thành thế chân vạc chia ba thiên hạ. Xích Bích là trận chiến có sự kết hợp của
thủy chiến, hỏa công, chiến tranh ngoại giao, gián điệp, tâm lý,…Đó không chỉ là trận
đánh giữa hai phe Tào Ngụy và Đông Ngô mà còn là trận đấu giữa Chu Du và Gia Cát

28
– người mà “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý”. Và đặc sắc của trận chiến này
nằm ở việc lấy đấu trí làm phần chính để chiến tranh, miêu tả sự thông minh trong
cách bày trí chiến lược. Trong trận Xích Bích tác giả đã miêu tả rõ các chi tiết đánh
nhau bằng các công cụ thô sơ như nỏ, cung, ngựa, thuyền hay tay không đấu võ,…
Trong trận chiến ban đầu, ai cũng nghĩ rằng quân Tào với những sách lược chặt chẽ,
chỉ huy tài giỏi, quân sĩ hùng mạnh thì giành thắng lợi là điều hiển nhiên, nhưng thông
qua cách miêu tả tỉ mỉ của diễn biến trận đấu thì độc giả lại ngỡ ngàng trước kết quả
cuối cùng là quân Tào thất bại.

La Quán Trung không tiếc bút mực để miêu tả trận Xích Bích và liên minh Tôn
Quyền Lưu Bị. Tác giả mở rộng tình tiết câu chuyện một cách tỉ mỉ đã kể sáu hồi dài
để miêu tả quá trình chuẩn bị trận đánh. Điều đó không chỉ tỏ ra tài năng nghệ thuật
hơn người mà còn tỏ rõ năng lực quan sát của ông đối với sự kiện lịch sử. Ông hiểu
được tính phức tạp của cuộc sống và tính khốc liệt của chiến tranh, không đơn giản
hóa mà miêu tả chiến tranh đa dạng thành một cuộc bày binh bố trận của hai bên.

Cuối cùng, bằng thủ pháp phóng đại, cường điệu hóa, mượn khó khăn thử thách
để bộc lộ tài năng phi phàm của tướng lĩnh hay để nói về võ nghệ của các anh hùng.
Các nhân vật luôn có vóc dáng khác người, những hành động phi thường và tâm hồn
họ cũng khác với người thường. Có lẽ vì thế, nhiều trận đánh ác liệt tử vong rất nhiều
nhưng không gây không khí bi thảm, trái lại, lại được coi là những “trận đánh đẹp”, có
sức lôi cuốn người đọc bởi tính chất gay cấn, thiên biến vạn hóa của diễn biến trận
đánh.

29
KẾT LUẬN

Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa là một bức tranh cụ thể và sống động về đời sống
chính trị của xã hội phong kiến thời Tam quốc – một xã hội phong kiến điển hình của
phương Đông với hai đường nét cơ bản, nổi bật là “Cát cứ phân tranh” và “Cá lớn
nuốt cá bé”. Bên cạnh đó tác giả còn vẽ nên một lịch sử sống động, tạo dựng được
những nhân vật lịch sử có xương thịt, có lời ăn tiếng nói riêng, có diện mạo riêng
không thể lẫn chung được với ai tạo nên các nhân vật lịch sử điển hình chịu đựng
được các thử thách của thời gian. Qua chính tác phẩm ấy ta cũng thấy được tư tưởng
của Nho gia đã ảnh hưởng sâu bên trong tác phẩm cả về nội dung và nghệ thuật.

Qua hành động thêu dệt của La Quán Trung, tư tưởng nghệ thuật trong tiểu
thuyết chương hồi càng hiện rõ hơn trong lòng độc giả và để lại nhiều bài học quý giá
cho đến thời điểm hiện tại. Đó là những bài học về lòng nhẫn nại và khiêm tốn – Tam
cố thảo lư, một mục tiêu một lý tưởng – Kết nghĩa đào viên, dùng người phù hợp và
chính xác – Lựa chọn Hoàng Trung, hợp tác chiến lực – Trận Xích Bích và xác định

30
đúng thị trường – Tiến chiếm Thành Đô. Bên cạnh những điểm tích cực đó vẫn còn
len lỏi một số điều tiêu cực trong lối viết của nhà văn, nhân vật Lưu Bị được tác giả
xây dựng vượt xa bộ mặt thật của lịch sử và đặc điểm của thời đại nên có phần mơ hồ
và tính chân thực bị giảm sút. Khi xây dựng nhân vật Gia Cát Lượng nhà văn quá chú
trọng miêu tả trí tuệ vô song của ông nên còn nhiều hạn chế, nhân vật này “đa trí nhi
tử yêu” ý là nhiều mưu mẹo như yêu quái tạo cho hình ảnh nhân vật này kém giá trị
chân thực. Mặc dù có một số hạn chế trong lối viết nhưng La Quán Trung vẫn khẳng
định được vị thế của tiểu thuyết này, tiểu thuyết đã trở thành tượng đài bất hủ theo
thời gian bởi kho tàng tư tưởng mang nhiều giá trị ẩn trong tác phẩm.

Từ việc nghiên cứu tư tưởng nghệ thuật trong tác phẩm của La Quán Trung, ta
phần nào cũng cảm nhận được tâm tư, tình cảm của nhà văn. Những tư tưởng đó
không chỉ là suy tư của riêng tác giả mà dần trở thành tiếng nói, tư tưởng chung của
toàn nhân loại, các nhân vật trong thước truyện lịch sử ấy trở thành những con người
tượng trưng cho thời đại, cũng chính là khát khao của nhân dân về xã hội đương thời.
Tất cả giá trị tư tưởng nghệ thuật trong Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa đã đem tác phẩm
trở thành một thiên kỷ kì bút, lưu danh muôn đời.

31
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lê Huy Bắc, Lê Thời Tân (2008), La Quán Trung và Tam quốc diễn nghĩa, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
[2] Phan Kế Bính dịch (1959), Tam Quốc Diễn Nghĩa, NXB Văn học.
[3] Mao Tôn Cương (1996), Luận bàn Tam Quốc, NXB Giáo dục.
[4] Lâm Hán Đạt, Tào Dư Chương (1997), Lịch sử Trung Quốc 5000 năm (tập 2),
NXB Văn Hóa Thông Tin.
[5] Trần Nguyên Hạnh (2009), Người kể chuyện trong “Tam Quốc Diễn Nghĩa” dưới
góc nhìn tự sự học hiện đại, Tạp chí Khoa Học Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh, số 17.
[6] Vương Quốc Hoa (2023), Tam Quốc Diễn Nghĩa - Bộ tiểu thuyết đời đầu của La
Quán Trung (1330-1400), Tạp chí Văn hóa và Phát triển số 247/GP.

[7] Đoàn Trọng Huy (2016), “La Quán Trung và Tam Quốc Diễn Nghĩa”, nguồn:
http://clbnguoiyeusach.net/bai-viet/moi-so-mot-chan-dung/phe-binh-va-binh-luan/la-
quan-trung-va-tam-quoc-dien-nghia-630.html, ngày truy cập: 05/01/2024

32
[8] Lê Đình Khanh (2007), Sự tương đồng và dị biệt trong nghệ thuật xây dựng nhân
vật của Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa và Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, Tạp chí Khoa học
xã hội Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, trang 64.

[9] Giai Kỳ (2023), “La Quán Trung: Nhà văn nổi tiếng với Tam quốc diễn nghĩa”,
nguồn: https://revelogue.com/la-quan-trung/, ngày truy cập: 7/1/2024

[10] Phương Lựu (1989), Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, NXB Giáo
dục, Hà Nội.

[11] Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
NXB Giáo dục.

[12] Nguyễn Khắc Phi (2002), Lịch sử văn học Trung Quốc (Tập II) , NXB Giáo dục.

[13] Nguyễn Khắc Phi và Lương Duy Thứ (1998) ,Giáo trình Văn học Trung Quốc,
Tập 2, NXB Giáo dục.

[14] Tịnh Tâm, “Tam Quốc Diễn Nghĩa dưới góc nhìn nghệ thuật (phần 1)”, nguồn:
https://mb.dkn.tv/van-hoa/nghe-thuat/tam-quoc-dien-nghia-duoi-goc-nhin-nghe-
thuat.html?amp=1 , ngày truy cập: 07/01/2024

[15] Thích Chơn Thiện (2006), Tăng già thời đức Phật, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
[16] Lương Duy Thứ (2000), Để hiểu tám bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, NXB
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
[17] Nguyễn Thị Thanh Vân (2016), Nho giáo và sự ảnh hưởng của Nho giáo đến
giáo dục ở Việt Nam hiện nay, Trường đại học Sư phạm Hà Nội 2, tr35.

33

You might also like