You are on page 1of 113

Luận văn Thạc sĩ -

- 1ĐÀO
BỘ GIÁO DỤC VÀ TẠO HÀ NỘI Đỗ Thanh Hương
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

HỌ VÀ TÊN: ĐỖ THANH HƯƠNG

ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG


VĂN XUÔI CỦA MA VĂN KHÁNG
ĐẦU THẾ KỶ XXI
Chuyên ngành: Thạc sĩ Văn học
Mã số: 60 22 32

LUẬN VĂN THẠC SĨ L Í LUẬN VĂN HỌC


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện

HÀ NỘI, 2011
Luận văn Thạc sĩ -2- Đỗ Thanh Hương

LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian khảo cứu, sưu tầm tài liệu để chấp bút cho công trình
nghiên cứu của mình, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân, chúng tôi đã
nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cá nhân và tập thể.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc nhất tới
Thầy hướng dẫn luận văn: PGS.TS NGUYỄN NGỌC THIỆN, người đã
hướng dẫn chỉ bảo tận tình và giúp đỡ tôi từ lúc chọn đề tài cũng như trong
suốt quá trình nghiên cứu hoàn thành Luận văn.
Tôi xin gửi lời cám ơn chân thành tới các thầy, cô giáo khoa Văn học,
trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu trường
Trung học phổ thông Minh Phú cùng bạn bè, đồng nghiệp gần xa và những
người thân trong gia đình đã động viên, tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn này.

Tác giả luận văn

Đỗ Thanh Hương
Luận văn Thạc sĩ -3- Đỗ Thanh Hương

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của tôi. Những số
liệu trong phạm vi nghiên cứu là do tôi trực tiếp thống kê, không sao chép từ
bất cứ nguồn tài liệu nào. Những trích dẫn tài liệu đã được sử dụng trong
Luận văn là đúng sự thật và được trích dẫn nguồn gốc từ các tài liệu, tạp chí,
công trình nghiên cứu đã được xuất bản, công bố. Các giải pháp nghiên cứu
nêu trong Luận văn được rút ra từ những cơ sở lý luận và nghiên cứu thực
tiễn, trong quá trình học tập và giảng dạy.

Tác giả Luận văn

ĐỖ THANH HƯƠNG
Luận văn Thạc sĩ -4- Đỗ Thanh Hương

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa 1

Lời cảm ơn 2

Lời cam đoan 3

Mục lục 4

MỞ ĐẦU 6

NỘI DUNG
CHƯƠNG I 14

1.1. Một đời văn cần mẫn, sáng tạo, một cây bút văn xuôi lực lưỡng 14

1.2. Những suy nghĩ của Ma Văn Kháng về văn chương. 20

1.2.1. Ý kiến về truyện ngắn 21

1.2.2. Ý kiến về Tiểu thuyết 25

1.2.3. Ý kiến về Hồi ký 31

CHƯƠNG II 34

2.1.1. Chủ đề con người bình thường và số phận bi kịch của con 35

người.
2.1.2. Nhân vật người phụ nữ nhan sắc, phồn thực, đa đoan. 44

2.1.3. Nhân vật trí thức. 50

2.2. Hình tượng tác giả với giọng điệu hài hước và xót xa thương 52

cảm.
2.3. Sự ùa vào ngôn ngữ của đời sống thường nhật. 58

2.4. Thể tài mới truyện ngắn – tiểu luận. 60

CHƯƠNG III 66

3.1. Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng. 67


3.1.1. Yếu tố kì ảo trong văn học. 67
3.1.2. Yếu tố kì ảo trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 68
Luận văn Thạc sĩ -5- Đỗ Thanh Hương

3.1.3. Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng ( Gặp gỡ ở La


69
Pan Tẩn, Một mình một ngựa, Bóng đêm).
3.2. Độc thoại nội tâm và dòng ý thức. 82

3.3. Khuynh hướng triết lý – Tiểu thuyết luận đề. 83

3.3.1 Quan niệm triết lý về con người trong tiểu thuyết Ma Văn 84

Kháng.
3.3.2. Quan niệm về lịch sử, cách mạng. 90

3.3.3. Quan niệm về cuộc sống. 92

3.4. Nghệ thuật tự sự tổng hợp. 94

3.4.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 95

3.4.2. Nghệ thuật kể chuyện. 98

3.4.3. Ngôn ngữ. 100

PHẦN KẾT LUẬN 103

TÀI LIỆU THAM KHẢO 107


Luận văn Thạc sĩ -6- Đỗ Thanh Hương

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Trong văn học Việt Nam hiện đại xuất hiện nhiều cây bút mới với
những phong cách viết khác nhau, mỗi nhà văn lựa chọn lối viết khác nhau
tạo nên một phong cách riêng cho bản thân.
Ma Văn Kháng là nhà văn có tên tuổi và vững vàng trong nền văn
xuôi đương đại Việt Nam. Ông được đánh giá là “ một cây bút văn xuôi lực
lưỡng, sung sức, một đời văn sáng tạo” của nền văn học Việt Nam đương
đại.
Trong sự nghiệp văn chương của mình, ông đã đóng góp cho nền văn xuôi
đương đại Việt Nam thời kỳ đổi mới 17 tập truyện ngắn và hơn 13 cuốn tiểu
thuyết.
Bước sang thế kỷ XXI Ma Văn Kháng luôn khao khát kiếm tìm cái
mới, không tự bằng lòng với chính mình, ông đã đổi mới về đề tài, cách tân
táo bạo về tư duy nghệ thuật và đã tạo cho mình một phong cách mới, độc
đáo trong đời văn của mình. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng cao quý.
Giải Nhì (không có giải nhất) cuộc thi truyện ngắn 1967-1968 báo
Văn nghệ (Xa Phủ); Tặng thưởng văn xuôi Hội nhà văn Việt Nam năm 1975
(Trăng soi sân nhỏ); Giải thưởng “Cây bút vàng” (giải cao nhất) cho truyện
ngắn San Cha Chải trong cuộc thi Truyện ngắn và Ký năm 1996-1998 do Bộ
Công an Hà Nội và Hội Nhà văn Việt Nam đồng tổ chức; Tập truyện ngắn
Trăng soi sân nhỏ nhận phần thưởng của Hội đồng văn xuôi Hội nhà văn
Việt Nam năm 1995 và nhận giải thưởng văn học Đông Nam Á tại thủ đô
Băng Cốc – Thái Lan năm 1998; Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ
Luận văn Thạc sĩ -7- Đỗ Thanh Hương

thuật năm 2001; Giải thưởng Hội nhà văn Hà Nội năm 2009 với tiểu thuyết
Một mình một ngựa…
1.2. Ở nước ta, thời kỳ sau đổi mới cùng với sự chuyển mình của đời sống
thì văn học cũng có những bước chuyển mình đáng kể nhất là thơ và văn
xuôi. Mỗi nhà văn khi cầm bút đều xuất phát từ nhu cầu giải phóng tư tưởng,
bộc lộ cái tôi cá nhân. Bởi vậy, ta thấy ở mỗi trang viết những trải nghiệm,
những suy ngẫm và cái tôi rất riêng của nhà văn.Vì thế văn xuôi của Ma Văn
Kháng khá hấp dẫn người đọc. Ông là nhà văn có phong cách rõ nét, ổn
định, không lẫn với mọi cây bút khác.
Đọc truyện của ông, người ta tìm thấy sự pha trộn mới mẻ, độc đáo
của văn phong hiện đại với những yếu tố thuộc về truyền thống rất gần gũi
quen thuộc.
Đọc văn của Ma Văn Kháng người đọc gặp lại cái chất trào phúng hài
hước của những câu chuyện tiếu lâm xưa cũ, gặp cái kỳ ảo trong câu chuyện
truyền kỳ trung đại đan cài với những nỗi đau đớn, chua chát về cuộc đời thế
sự.
Bên cạnh đó Ma Văn Kháng còn đem lại cảm giác ngọt ngào về niềm
yêu đời, yêu cuộc sống khiến người đọc băn khoăn, trăn trở, xót xa đến bức
xúc về lẽ đời qua những trang viết ngồn ngộn chất sống và chất chứa đầy ắp
nỗi niềm thương cảm ngậm ngùi của nhà văn đối với con người.
“ Dòng riêng” Ma Văn Kháng đặt trong “nguồn chung” của văn
chương Việt Nam hiện đại góp phần tạo nên một phong cách riêng của Ma
Văn Kháng.
Cho đến nay các công trình nghiên cứu về Ma Văn Kháng đã lên tới
hàng trăm gồm các đầu sách, bài nghiên cứu, chuyên luận, khóa luận …
cũng đủ để nhận thấy tầm ảnh hưởng và vai trò của những tác phẩm văn
chương mà Ma Văn Kháng đã đem lại cho cuộc sống.
Luận văn Thạc sĩ -8- Đỗ Thanh Hương

Có khá nhiều công trình nghiên cứu về Ma Văn Kháng nhưng chủ
yếu về những tác phẩm được công bố xuất bản trước năm 2000. Còn với
những bài viết đề cập đến những sáng tác sau năm 2000 thì mới chỉ dừng lại
ở một vài khía cạnh nhỏ chưa có công trình nghiên cứu công phu nào về
những sáng tác trong những năm gần đây của ông.
Việc khai thác nghệ thuật tự sự trong văn xuôi của Ma Văn Kháng
đầu thế kỷ XXI còn bỏ ngỏ nên chúng tôi thấy cần phải có một công trình
nghiên cứu quy mô mới có thể đánh giá hết những cách tân nghệ thuật mới
mẻ của nhà văn.
Từ lý do trên chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu khoa học:
Đặc sắc nghệ thuật tự sự trong văn xuôi của Ma Văn Kháng đầu thế kỷ XXI.
Nghiên cứu vấn đề này sẽ góp phần bổ sung vào việc đánh giá một cách
hoàn chỉnh, khái quát những thành tựu nổi bật của văn xuôi Ma Văn Kháng,
từ đó góp phần xác định vị trí của Ma Văn Kháng trong nền văn xuôi hiện
đại Việt Nam.
1.3.Về mặt nghề nghiệp, đối với một giáo viên giảng dạy văn học thì những
hiểu biết về văn học đương đại qua một tác giả tiêu biểu là rất cần thiết. Mặc
dù việc giảng dạy tác phẩm của Ma Văn Kháng trong nhà trường còn hạn
chế, nhưng việc nghiên cứu đánh giá về giá trị, văn xuôi của Ma Văn Kháng
sẽ tạo thuận lợi trực tiếp hoặc gián tiếp cho việc giảng dạy, giúp người viết
rèn luyện khả năng cảm thụ văn chương cũng như tư duy về văn học, về tác
gia văn học Việt Nam hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề
Với ngót 50 năm trong nghề cầm bút viết văn, Ma Văn Kháng là một
trong những nhà văn có nhiều đóng góp cho nền văn học Việt Nam thời kỳ
đổi mới. Ta có thể kể đến một số bài viết về tác giả Ma Văn Kháng như: Bài
viết “Mổ xẻ trốn nợ của Ma Văn Kháng” (In trên tạp chí Văn hóa toàn cảnh,
Luận văn Thạc sĩ -9- Đỗ Thanh Hương

ngày 21/8/2008) của tác giả Hồ Điệp. Bài viết dừng lại việc đánh giá nhận
xét về những thành công của Ma Văn Kháng trong việc kiến tạo ngôn ngữ
nghệ thuật.
Bài viết của tác giả Phạm Duy Nghĩa,“Phong cách văn xuôi miền núi
của Ma Văn Kháng” (8/2009) Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam. Theo
tác giả. “Ma Văn Kháng là nhà văn có phong cách rõ nét, ổn định, không
lẫn với mọi cây bút khác”.Nét nổi bật nhất của ông khi viết về miền núi là
cảm hứng trước vẻ phồn thực, cường tráng, bản tính hồn nhiên cùng sự phân
cực sâu sắc của con người và cuộc đời trần thế. Ở bài viết này người viết
mới chỉ đi sâu tìm hiểu vẻ đẹp con người được thể hiện trong những tác
phẩm của Ma Văn Kháng trong tập Trốn nợ mà chưa có điều kiện tìm hiểu
trên nhiều khía cạnh khác của tập truyện.
Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 696 ra ngày 3/2009, tác giả Nguyễn
Thanh Tú có bài viết: “Vốn sống, tài năng và tâm huyết” (từ trường hợp nhà
văn Ma Văn Kháng với tập Trốn nợ - NXB phụ nữ 2008). Bài viết là sự
đánh giá bản lĩnh nghệ sỹ của một nhà văn lão thành với tài quan sát, chiêm
nghiệm, cách kể, tả, dựng cảnh. Bên cạnh đó tác giả bài viết cũng tìm ra một
số điểm yếu của nhà văn trong quá trình thuyết lý lộ liễu gây cảm giác nặng
nề với người đọc.
Bài viết của Đoàn Minh Tâm “Sự độc đáo của thể tài truyện ngắn -
tiểu luận Ma Văn Kháng” in trên Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam. Số
166 (11/2008)tr 82 – 83.Tác giả cho rằng mỗi truyện ngắn trong tập Trốn nợ
khi kết thúc đều đang ở thì “hiện tại tiếp diễn”. Số phận nhân vật, diễn biến
câu chuyện còn lửng lơ chứ chưa kết thúc một cách rõ ràng. Ma Văn Kháng
để nhân vật của mình nhẩn nha trong quãng thời gian thật ngắn như trong
Trốn nợ là mấy ngày giáp tết của cặp vợ chồng nghèo….Đó thường là
khoảng thời gian gắn với những thời điểm, những sự kiện quan trọng của đời
Luận văn Thạc sĩ - 10 - Đỗ Thanh Hương

người. Bài viết mới chỉ dừng lại ở thủ pháp đối lập hai tầng và tính chất luận
đề của thể loại truyện ngắn - tiểu luận.
Tác giả Nguyễn Ngọc Thiện “Tiểu thuyết về đề tài dân tộc miền núi
của Ma Văn Kháng”. (Phong cách và đời văn, NXB Khoa học xã hội, H,
2005 tr 229 – 239). Bài viết cho ta thấy mảng đề tài này đã bổ sung cho nhận
thức hướng tới cái chân thật và đúng đắn về cái nhìn đối với đời sống và con
người miền núi ở nước ta ngay từ trước cách mạng tháng tám 1945. Cảnh
sắc thiên nhiên hùng vĩ còn nhiều hoang dã của Tây Bắc hoặc Tây Nam Bộ,
những con người của các dân tộc sống cực khổ, tăm tối, nhưng tính cách thật
thà hồn nhiên, bộc trực qua dáng điệu ngôn ngữ....Dưới ngòi bút ấm áp tình
cảm của ông, đã vạnh lên những đường cày đầu tiên xới lật một trong những
nguồn mạch phong phú của đời sống hiện thực, chứa đựng những nét đặc
sắc của văn học dân tộc.
Bài viết của Mai Thị Nhung “Giọng điệu nghệ thuật, trong tiểu thuyết
thời kỳ đổi mới của Ma Văn Kháng” (Nghiên cứu văn học số 10-2008) đã
khẳng định tiểu thuyết thời kỳ đổi mới của Ma Văn Kháng đã thu được những
thành công đáng kể.
Với 4 sắc thái giọng điệu: giọng trữ tình thiết tha sâu lắng, giọng triết lý
suy tư, giọng hài hước mỉa mai và giọng suồng sã, Ma Văn Kháng đã có
điều kiện đi sâu vào bản chất của cuộc sống từ đó góp phần khẳng định giá
trị nhân văn sâu sắc trong toàn bộ tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ đổi
mới.
Bài viết của Nguyễn Minh, “ Nhà văn hiện thực có phải chuyện đã
cũ”. (Văn nghệ trẻ 687/688 (3-10/1/2010) tr 24-27). Nói về cuốn tiểu thuyết
Gặp gỡ ở Lapan Tẩn cho rằng xuyên suốt câu chuyện ấy là khả năng miêu tả
tài tình của tác giả về những nét tinh tế của núi rừng Tây Bắc. Tác phẩm còn
thú vị ở điểm văn phong không hề có chút lên gân nào khi bàn về những vấn
Luận văn Thạc sĩ - 11 - Đỗ Thanh Hương

đề mang tính tư tưởng, chính trị như các tác phẩm cùng chủ đề khác gặp
phải. Những vấn đề ấy được hiện lên từ chính những dằn vặt, băn khoăn rất
thật của nhân vật, những người phải trực tiếp trải nghiệm và suy tư trong
hiện thực, từ những câu chuyện đời thường rất thật. Chính vì thế tuy bàn
chuyện đã cũ nhưng ta vẫn thấy những suy nghĩ ấy rất “thời sự” với thời
nay.
Hoàng Thị Huế - Nguyễn Thị Khánh Thu trong bài: “ Hình tượng
người kể chuyện trong tiểu thuyết mới của Ma Văn Kháng” (Diễn đàn Văn
nghệ Việt Nam số 11/2010. tr 25-27) thì cho rằng các tiểu thuyết của Ma
Văn Kháng mang khuynh hướng tự truyện giúp người đọc không chỉ giải mã
con người tác giả và thời đại qua những chi tiết gắn với tiểu sử, cuộc đời thật
mà qua những trải nghiệm sống và tự thú chân thành. Hình tượng người kể
chuyện trong Một mình một ngựa có nhiều điểm đặc sắc. Tác phẩm được
thực hiện bởi kiểu tự thuật “ đánh tráo” chủ thể trần thuật, một đặc tính mới
của tiểu thuyết hậu hiện đại. Một mình một ngựa có giọng kể quán xuyến tác
phẩm là của người kể chuyện khách quan như xuất phát từ nhân vật Toàn.
Tác phẩm còn khắc họa cuộc sống, bức tranh cảnh vật, con người mảnh đất
miền núi xa xôi một thời kỳ đã qua. Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng
đã thực sự đem lại những đóng góp cho việc đa dạng hóa thể tài văn xuôi
Việt Nam đương đại.
Qua các bài viết đó ta có thể khẳng định Ma Văn Kháng là một tài
năng đa dạng, ông thành công ở nhiều thể loại khác nhau (truyện ngắn, tiểu
thuyết, hồi ký-tự truyện….).Vậy mà hiện vẫn chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách có hệ thống xứng đáng với những cống hiến của ông cho văn
xuôi hiện đại Việt Nam đầu thế kỷ XXI. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài
nghiên cứu: Nghệ thuật tự sự trong văn xuôi Ma Văn Kháng đầu thế kỷ XXI.
Luận văn Thạc sĩ - 12 - Đỗ Thanh Hương

Đây là một trong số ít công trình đầu tiên nghiên cứu sâu về nội dung,
nghệ thuật và những đóng góp của Ma Văn Kháng cho nền văn xuôi đầu thế
kỷ XXI.
3. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài đã chọn, luận văn của chúng tôi định hướng đến mục đích sau:
3.1: Ghi nhận những đóng góp lớn cả về số lượng và chất lượng tác phẩm
của Ma Văn Kháng.
3.2: Làm rõ những đặc sắc về phong cách và bút pháp tự sự của Ma Văn
Kháng đầu thế kỷ XXI.
3.3: Từ kết quả nghiên cứu đã đạt được, luận văn góp phần khẳng định tài
năng, vị trí của Ma Văn Kháng trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Qua khảo sát 28 truyện ngắn và hai tiểu thuyết được Ma Văn Kháng cho
xuất bản từ đầu thế kỷ XXI đến nay, luận văn làm rõ tư tưởng nghệ thuật và
đặc điểm nghệ thuật tự sự độc đáo trong văn xuôi của Ma Văn Kháng.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các truyện ngắn được in từ năm 2000 đến nay trong các tập truyện:
Trốn nợ(18 truyện) - NXB Phụ nữ (2008)
Cỏ dại – NXB Phụ nữ (2002)
Cuộc đấu của gà chọi – NXB Công an nhân dân (2005)
Một vầng nắng nhỏ ( 2 truyện) - NXB Quân đội nhân dân (2007).
Người đàn bà chơi vĩ cầm. (6 truyện) Nhà xuất bản sân khấu Hà Nội năm
2007, Tiểu thuyết: + Gặp gỡ ở Lapan Tẩn – NXB công an nhân dân (2003)
+ Một mình một ngựa – NXB phụ nữ (2009)
+ Bóng đêm – NXB công an nhân dân (2011)
Luận văn Thạc sĩ - 13 - Đỗ Thanh Hương

5.2 Phạm vi nghiên cứu


Vận dụng lý thuyết tự sự học, thi pháp học để làm rõ cái nhìn nghệ
thuật về hiện thực và con người, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật
kết cấu và cốt truyện, ngôn ngữ, giọng điệu trong văn xuôi Ma Văn Kháng
đầu thế kỷ XXI.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1 Phương pháp hệ thống tổng hợp
6.2 Phương pháp phân loại thống kê
6.3 Phương pháp phân tích tác phẩm
6.4. Phương pháp so sánh
7. Dự kiến đóng góp mới
Đây là một trong số ít công trình nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong văn
xuôi của Ma Văn Kháng đầu thế kỷ XXI. Từ đó tiếp tục và khẳng định sự
phát triển của một phong cách văn xuôi đầy tài năng trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển nền văn xuôi đương đại nói riêng và nền văn học nói
chung một cách có cơ sở khoa học.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo. luận văn gồm 3
chương chính.
Chương I. Ma Văn Kháng – Đời văn và những suy nghĩ về văn
chương
Chương II. Đặc sắc nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Ma Văn
Kháng.
Chương III. Đặc sắc nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Ma Văn
Kháng.
Luận văn Thạc sĩ - 14 - Đỗ Thanh Hương

CHƯƠNG I:
MA VĂN KHÁNG – ĐỜI VĂN VÀ NHỮNG SUY NGHĨ
VỀ VĂN CHƯƠNG
1.1. Một đời văn cần mẫn, sáng tạo, một cây bút văn xuôi lực
lưỡng:
Sinh ra vào những năm 30 của thế kỉ trước, bản thân Ma Văn Kháng
đã sống gần như trọn vẹn với những biến thiên lớn lao của một Việt Nam thế
kỉ XX nhiều biến động. Ông đã sống và cống hiến, không chỉ với tư cách và
trách nhiệm của một con người – công dân, mà còn như một nghệ sĩ – nhà
văn, người thư kí trung thành của thời đại. Đi qua thập niên đầu tiên của thế
kỉ XXI, ngoảnh đầu nhìn lại một đời người, một đời văn, để ghi nhận, để
cảm kích và trân trọng trước Ma Văn Kháng – “Một đời văn cần mẫn, sáng
tạo, một cây bút văn xuôi lực lưỡng”
 Một đời văn cần mẫn:
Viết văn cũng là một sự lao động, một sự lao động nghệ thuật chân
chính. Nó chỉ dung nạp những người lao động thật sự nghiêm túc và say mê
với nghề. Trước cả tài năng nghệ thuật lẫn tầm vóc tư tưởng lớn lao, chính
sự cần mẫn, say mê ấy, mới chính là bí quyết để Ma Văn Kháng cũng như
tất cả những nhà văn chân chính khác có thể “bám trụ”, khẳng định tên tuổi
và thành danh với đời.
Ở Ma Văn Kháng, sự cần mẫn và nghiêm túc trong lao động nghệ
thuật được thể hiện ngay trong việc chủ động, say mê tích lũy vốn sống.
Không phải ngẫu nhiên khi những trang viết về đồng bào miền biên ải của
Ma Văn Kháng có một chất men riêng say lòng người. Không phải ngẫu
nhiên khi đọc Gió rừng, Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải…, nhiều
người lầm tưởng đó là sáng tác của một cây bút miền núi đích thực. Sự
Luận văn Thạc sĩ - 15 - Đỗ Thanh Hương

nhầm lẫn ấy không chỉ đến từ bút danh đậm sắc dân tộc, mà quan trọng hơn,
bắt nguồn từ bề rộng và chiều sâu của những vốn sống, sự hiểu biết về vùng
đất và con người nơi đây mà nhà văn đã phô diễn trong tác phẩm của mình.
Đó là kết quả của hàng chục năm trời “hăm hở, lặng lẽ kiếm tìm, lặng lẽ ghi
chép”, như lời nhà văn, trong bài viết “ Viết tiểu thuyết là cả một cuộc đi
săn hổ dữ”, đã trực tiếp thổ lộ:
“..Ngày tháng trôi qua, và bắt tay vào công việc chuẩn bị thật âm
thầm, nhẫn nại: sưu tầm tài liệu. May mắn, lúc này, lịch sử địa lý nhân văn
ở đây vẫn còn giữ nguyên nét vẽ thời sự của nó. Nó là một bào tàng còn lưu
giữ đầy đủ hiện vật, sự kiện, con người. Tình hình đó kích thích tôi hăm hở,
lặng lẽ tìm kiếm, lặng lẽ ghi chép. Cả mấy chục năm, sổ tay đầy kín các sự
việc làm cơ sở cho chất liệu văn học sau này” [47- tr 217]
Viết văn không phải là việc “tùy hứng” hay một cuộc dạo chơi. Sự
cần mẫn và nghiêm túc của Ma Văn Kháng, do đó, còn ở sự trăn trở không
ngừng về bản thân nghề viết. Không chỉ nhận thức về cuộc sống, mỗi tác
phẩm văn học còn là kết quả sự nhận thức theo cách riêng của nhà văn về
chính con người và công việc của mình. Ma Văn Kháng, trong suốt cuộc đời
cầm bút, đã hình thành cho mình một hệ thống quan điểm riêng về nghề viết,
về sáng tạo nghệ thuật, mà cụ thể là những suy nghĩ về những thể loại văn
chương ông chuyên chú, sở trường: Truyện ngắn, tiểu thuyết và hồi ký.
Những quan niệm riêng này của nhà văn, chúng tôi sẽ làm rõ trong mục 1.2.
Những suy nghĩ của Ma Văn Kháng về văn chương.
Cũng cần phải thấy rằng, sự cần mẫn, trong trường hợp Ma Văn
Kháng nói riêng và mọi nhà văn chân chính nói chung, tất yếu gắn liền với
nỗ lực sáng tạo không ngừng nghỉ. Nó khác cái cần mẫn của người công
nhân trong xưởng máy, người nông dân trên ruộng cày. Bởi lẽ, bản thân
công việc của những người cầm bút ấy đã là một công việc sáng tạo. Nói
Luận văn Thạc sĩ - 16 - Đỗ Thanh Hương

cách khác, cần mẫn trong lao động văn chương, chính là cần mẫn trên con
đường sáng tạo.
 Một đời văn sáng tạo:
Khi coi sáng tạo là bản chất của văn chương nghệ thuật, thì đồng thời
cũng cần phân biệt khái niệm sáng tạo như một “bản chất”, “thuộc tính tất
yếu” với cái “sáng tạo” như một “phẩm chất”, “tính chất riêng có”, của từng
nhà văn, từng tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Nhận định Ma Văn Kháng là
một cây bút sáng tạo, chính là muốn nhấn mạnh đến cái phẩm chất riêng độc
đáo ấy.
Sự sáng tạo của Ma Văn Kháng, có lẽ trước hết ở việc xử lý và chọn
lựa đề tài. Dẫu trong sự lựa chọn ấy ít nhiều có ảnh hưởng của yếu tố ngoại
cảnh, thì việc lựa chọn phạm vi đề tài mà nhà văn phản ánh trong tác phẩm
vẫn là ý thức tự giác của người nghệ sĩ. Hoàn cảnh đã đưa đẩy chàng trai gốc
Hà thành sớm “bén duyên” với mảnh đất Lào Cai, để từ đây, hình ảnh “miền
biên viễn” trong đời văn Ma Văn Kháng sẽ mãi trở thành duyên nợ. Và cũng
từ đó, văn xuôi viết về đề tài miền núi trở thành thứ đặc sản riêng của nhà
văn đã hơn 20 năm trai trẻ gắn bó với vùng đất này.
Có thể coi Ma Văn Kháng, trong nửa đầu của đời văn, là một cây viết
“chuyên canh” với mảng đề tài miền cao. Cùng với nhóm những tác giả
cùng sáng tác về miền núi, những sáng tác của ông đã góp một mảng màu
riêng, độc đáo cho bức tranh chung đa sắc đa màu của cả nền văn học nước
nhà. Bản thân sự đóng góp ấy, đã là một mảng màu mới đầy sáng tạo.
Tuy nhiên, trong các nét nghĩa hợp lại thành nội hàm ý nghĩa của hai
chữ “sáng tạo”, không thể không kể đến ý thức về sự đổi mới. Với trường
hợp Ma Văn Kháng, một trong những biểu hiện thuyết phục nhất của sự
sáng tạo, có lẽ chính là cuộc bứt phá đặc biệt, gắn với dấu mốc thời gian khi
nhà văn giã biệt Lào Cai, trở về với cuộc sống thành thị. Đó không chỉ đơn
Luận văn Thạc sĩ - 17 - Đỗ Thanh Hương

giản là sự thay đổi về địa bàn sinh sống, mà còn gắn với cuộc biến chuyển
âm thầm nhưng không kém phần gai góc, khốc liệt của một đất nước chuyển
giao từ thời chiến sang thời bình.
Ma Văn Kháng nằm trong số những người đã kịp dọn mình, hối hả
bước lên chuyến tàu mang tên “đổi mới” ấy. Ông từ giã mảnh đất “chuyên
canh” trong suốt hai mươi năm có lẻ, hăm hở bắt đầu cuộc hành trình khám
phá cái hiện thực rộng mở bề bộn, mới mẻ đang bày ra trước mắt. Những
sáng tác sau này của Ma Văn Kháng đều hướng tới phát hiện, khám phá,
phản ánh chính cuộc sống mới, với đầy đủ những góc cạnh phức tạp của
cuộc sống thành thị thời hậu chiến. Cảm hứng sử thi nhường chỗ cho niềm
xúc động bình dị trước những con người và cảnh ngộ đời thường. Một cách
hoàn toàn tự giác, Ma Văn Kháng đã tự nguyện hòa mình vào dòng chảy
chung của những nhà văn Việt Nam thời kì đổi mới, khi văn học đứng trước
yêu cầu tất yếu phải tự làm mới mình để bắt kịp với những yêu cầu của cuộc
sống và thời đại.
Công cuộc lột xác nói trên không phải không nhiều khó khăn và đau
đớn. Nó đòi hỏi rất nhiều can đảm, nghị lực của người nghệ sĩ. Và bản lĩnh
ấy, trước hết phải bắt nguồn từ ý thức về nỗ lực sáng tạo không bao giờ
ngừng nghỉ. Sự thành công của Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không
có giấy giá thú, Cỏ dại, Trốn nợ… đã một lần nữa khẳng định cho sự tìm
tòi sáng tạo của cây bút cần mẫn, say mê, quyết liệt tự làm mới mình.
Không chỉ thể hiện thông ở nội dung đề tài, sự sáng tạo còn là một
yếu tố hàng đầu đối với trong việc lựa chọn hình thức biểu hiện. Sự sáng tạo
ấy biểu hiện ra ở mọi phương diện của hình thức nghệ thuật. Có thể dẫn ra
những ví dụ về cách tổ chức ngôn từ, xây dựng hình tượng nhân vật hay lựa
chọn giọng điệu.
Luận văn Thạc sĩ - 18 - Đỗ Thanh Hương

Trở lại với giai đoạn đầu, những sáng tác về đề tài miền núi của nhà
văn Ma Văn Kháng. Có thể thấy một trong những điểm làm nên sức hấp dẫn
đặc biệt của mảng sáng tác này chính là việc nhà văn đã kể những câu
chuyện miền núi bằng chính ngôn ngữ của người bản địa. Tuy nhiên, đáng
lưu ý ở chỗ, dù có ý thức sử dụng hệ thống từ ngữ và lối phô diễn mang đặc
trưng cách cảm, cách nghĩ của người dân tộc nhưng Ma Văn Kháng không
hề lạm dụng. Tiếp thu một cách có chọn lọc và vận dụng linh hoạt trong
từng hoàn cảnh cụ thể, “sự vận dụng ngôn ngữ và cách viết sao cho có được
màu sắc bản địa mà vẫn không xa cách với lối diễn đạt hiện tại”, chính là sự
sáng tạo trong sử dụng ngôn ngữ của tác giả Đồng bạc trắng hoa xòe.
Với việc xây dựng hình tượng nhân vật, sự sáng tạo của nhà văn biểu
hiện ra ở việc dựa trên những nguyên mẫu có thật trong đời sống để dựng
lên thành một hình tượng sống động, đầy đặn. Điều này xuất phát từ quan
điểm riêng của nhà văn “Với tiểu thuyết, nhân vật phải hoạt động trong một
văn cảnh rộng dài thì việc dựa trên một nguyên mẫu để xây dựng nó là một
nguyên tắc sống còn của tôi [47, tr 221], (Đồng bạc trắng hoa xòe, Đám
cưới không có giấy giá thú, Mùa lá rụng trong vườn, Côi cút giữa cảnh
đời… đều là những trường hợp như thế) Việc cần đến những nguyên mẫu
ấy, không có nghĩa rằng nhà văn là người “kém cỏi về trí tưởng tượng”. Trái
lại, sáng tạo chính là ở chỗ sử dụng nguyên mẫu có thật, từ một hiện thực đã
thấy, đã biết, đã cảm nhận được, bồi đắp thêm bằng trí tưởng tượng và hư
cấu. Hiện thực không chỉ đơn thuần được phản ánh, mà còn được cấu tạo,
sắp xếp, bồi đắp, sáng tạo lại trong tác phẩm của nhà văn.
Về mặt giọng điệu, tiểu thuyết thời kì đổi mới của Ma Văn Kháng
cũng ghi dấu nhiều thành tựu sáng tạo. Cái nhìn đa chiều về cuộc sống tất
yếu dẫn đến sự xuất hiện và đan xen đa dạng giữa giọng điệu trữ tình thiết
tha sâu lắng, giọng điệu triết lý suy tư, giọng điệu hài hước mỉa mai và giọng
Luận văn Thạc sĩ - 19 - Đỗ Thanh Hương

điệu suồng sã. Chính điều này đã cho phép nhà văn đi sâu vào bản chất của
cuộc sống, từ đó góp phần khẳng định giá trị nhân văn sâu sắc trong toàn bộ
tiểu thuyết của nhà văn thời kì đổi mới.
Với sự lao động nghệ thuật nghiêm túc, cần mẫn, ý thức sáng tạo
không mệt mỏi như thế, Ma Văn Kháng đã khẳng định mình trên văn đàn
như một “cây bút văn xuôi lực lưỡng”, một tên tuổi lớn trong nền văn học
Việt Nam thời kì hiện đại.
 Một cây bút văn xuôi lực lưỡng:
Lịch sử văn học Việt Nam và thế giới không phải không ghi nhận
trường hợp những nhà văn, nhà thơ “một bài”. Tên tuổi của họ vẫn được lưu
giữ và tỏa sáng dẫu cả văn nghiệp lưu lại chỉ vỏn vẹn một hoặc một vài tác
phẩm. Tuy vậy, đại đa số, ở những cây bút tầm vóc thật sự, tài năng thường
đi liền với một bút lực dồi dào, sức viết bền bỉ. Đánh giá về Ma Văn Kháng,
giới nghiên cứu, phê bình đều thống nhất thừa nhận ông như một cây bút
văn xuôi có “bút lực sung mãn, cường tráng”.
Nhận định ấy, trước hết có thể được minh chứng qua số lượng tác
phẩm khá đồ sộ.Với văn nghiệp gần tám nghìn trang in, hàng trăm truyện
ngắn, hàng chục tiểu thuyết, 3 truyện viết theo lối hồi ký – tự truyện, Ma
Văn Kháng xứng đáng là một trong những cây bút có sức viết dồi dào nhất
trên văn đàn Việt. Chỉ dừng lại trong địa hạt văn xuôi, nhưng sáng tác của
Ma Văn Kháng cũng khá phong phú: truyện ngắn, tiểu thuyết, tự truyện –
hồi ký. Ma Văn Kháng đã tự khẳng định mình như một tài năng đa dạng.
Cây bút văn xuôi ấy còn được biết đến với một sức viết rất bền bỉ.
Nhìn vào mốc thời gian ra đời những tác phẩm của ông, ta thấy gần như
không có khoảng ngắt quãng nào đáng kể. Viết cần mẫn, say mê, Ma Văn
Kháng đã để lại một văn nghiệp không chỉ lớn về quy mô, đa dạng về thể
loại mà còn đều đặn và liền mạch. Quan trọng hơn, chất lượng sáng tác của
Luận văn Thạc sĩ - 20 - Đỗ Thanh Hương

nhà văn có thể đánh giá khá đều tay. Hầu hết đều là những tác phẩm giá trị.
Giai đoạn nào cũng có những sáng tác nổi bật, xuất sắc thật sự, mang dấu ấn
cá nhân đậm nét, gắn liền với tên tuổi Ma Văn Kháng.
Với những thành tựu to lớn ấy, Ma Văn Kháng xứng đáng được vinh
danh như một đời văn cần mẫn, sáng tạo, một cây bút văn xuôi lực lưỡng
của nền văn học hiện đại Việt Nam.
1.2. Những suy nghĩ của Ma Văn Kháng về văn chương:
Văn chương, bằng những phương tiện nghệ thuật đặc thù, trình bày
một cách nhận thức riêng về thế giới. Có thể coi thực tại cuộc sống chính là
đối tượng phản ánh, khám phá, lý giải, chiếm lĩnh của tác phẩm nghệ thuật
ngôn từ. Nhưng văn chương còn đặc biệt ở chỗ nó có khả năng nhận thức về
chính nó, người nghệ sĩ viết văn như một cách đối thoại với cuộc đời, và
cũng là đối thoại với chính mình. Khám phá vẻ đẹp, giá trị trong thế giới
thẩm mỹ mà nhà văn đã tạo dựng thông qua tác phẩm, không thể không để
tâm nghiên cứu quan niệm, tư tưởng thẩm mĩ, những chiêm nghiệm, suy
ngẫm của người cầm bút về cuộc đời và nghệ thuật.
Nhìn lại đời văn Ma Văn Kháng, cây bút cần mẫn và hết sức nghiêm
túc trong công việc lao động nghệ thuật, có thể thấy nhà văn đã hình thành
cho mình một hệ thống quan điểm riêng về công việc cầm bút. Những suy
nghĩ ấy có khi được phát biểu một cách trực tiếp qua những cuộc phỏng vấn,
tâm sự, trải lòng của người viết, cũng có khi hiện hữu sinh động qua từng
trang văn.
Ma Văn Kháng thử nghiệm và định hình phong cách ở ba thể loại đặc
trưng: truyện ngắn, tiểu thuyết và tự truyện- hồi ký. Khảo sát ở từng thể loại,
ta sẽ thu được cái nhìn tổng quan, toàn diện về hệ thống quan điểm, suy nghĩ
của Ma Văn Kháng dành cho văn chương.
Luận văn Thạc sĩ - 21 - Đỗ Thanh Hương

1.2.1. Ý kiến về truyện ngắn:


Phố cụt được biết đến như tác phẩm đầu tay, đánh dấu sự khởi
nghiệp của một văn nghiệp rộng dài. Với Ma Văn Kháng, một truyện ngắn
đích thực, “nên là” và “cần là” “một lát cắt gọn ghẽ”. Nhà văn quan niệm
“Theo tôi hiểu, một tác phẩm trên dưới mười ngàn chữ không nên ngổn
ngang quá [35 - tr 56, 57) Nghĩa là, dung lượng câu chữ trong tác phẩm
được đặt trong mối tương quan phù hợp với dung lượng đời sống mà nó
phản ánh qua những trang viết của mình.
Thực tế, nếu như tiểu thuyết là trọn vẹn một thân cây cổ thụ ngàn
năm, thì truyện ngắn chỉ nên là một lát cắt. Qua lắt cắt ấy, người ta có thể
hiểu về cả một đời cây, đời người. Đếm số vòng trên tiết diện lát cắt thân
cây suy ra số tuổi cây, ngẫm nghĩ những biến cố dồn nén trong một tình
huống, lát cắt cuộc sống để hiểu cả một đời người. Truyện ngắn Ma Văn
Kháng một lần nữa minh họa một cách sinh động và thuyết phục cho quan
niệm ấy về truyện ngắn.
Thoạt kì thủy là nước đâu có kể chuyện gì ghê gớm. Chỉ là những
một buổi sáng như bao buổi sáng của một khu dân cư mới hình thành mỏi
mòn xếp hàng chờ nước. Những chuyện dở khóc dở cười xoay quanh cuộc
vật lộn của bọn người thấp cổ bé họng với quyền uy của Ông nước máy.
Trong khoảng nhỏ hẹp của cái sân chờ quanh vòi nước máy,
trong khoảng ngắn ngủi từ tinh mơ đến trời sáng của một ngày, ngần ấy con
người chen chúc, chờ đợi, đối thoại, tranh luận, cãi vã, xô xát, nhường nhịn,
giúp đỡ, chia sẻ, cãi nhau, can nhau, đánh nhau, thậm chí là cả bắt đầu yêu
nhau. Đủ mọi sắc thái. Cuộc sống muôn hình vạn trạng dồn lại trong một
khoảnh khắc đời sống đậm đặc, nơi con người bộc lộ đầy đủ và trọn vẹn
nhất phẩm chất cũng như bản chất của mình. Nhà văn chỉ cần chớp lấy cảnh
Luận văn Thạc sĩ - 22 - Đỗ Thanh Hương

tượng đặc biệt ấy, chỉ cần lọc lại cái lát cắt ấy, đã đủ để dựng lên cả một bức
tranh chân thực và sinh động.
Lũ tiểu mãn ngập bờ là một dẫn chứng khác cho cách quan niệm của
Ma Văn Kháng “chưa bao giờ tôi dồn cả một đời người trong một truyện
ngắn, mà chỉ lấy ra một đoạn, một thời gian nào đó, hoặc ghi lại một cảnh
đời với vài ba nhân vật” [35 -tr57) . Tác phẩm chỉ diễn ra trong khoảng thời
gian từ “ngả trưa sang chiều” ngày hôm trước, khi nhân vật tên Biên, người
của huyện ủy đi công tác xuống xã, đứng mắc kẹt bên “dải nước mênh
mông, đỏ ngầu, sùng sục như thác đổ” cho đến sáng hôm sau, khi nhận tin
về cái chết tự sát của My, cô gái đêm qua chèo thuyền đưa anh vượt dòng
nước lũ. Chỉ chưa đầy một ngày ngắn ngủi, anh đã vỡ lẽ ra cái điều mà nhiều
khi cả đời người mới kịp thấm thía: “Cuộc sống tưởng là dung dị mà có biết
bao ngóc ngách ẩn khuất những hung bao bất ngờ khủng quá và con người
sao mà yếu đuối khốn khổ thế”. Một cơn lũ có thật gắn với một cơn thác lũ
oan nghiệt đời người. Một dòng nước mênh mông có thật gắn với “một dòng
sông suy tưởng không đáy” mở ra miên man trong tâm tưởng. Từ một
khoảnh khắc ngắn ngủi, từ một lát cắt nhỏ bé, câu chuyện đã mở ra bao điều
suy tưởng lớn lao.
Truyện ngắn chỉ là một lát cắt cuộc sống. Và đã là truyện ngắn thì
không nên dông dài. Quan niệm của Ma Văn Kháng là vậy. Nhưng vấn đề ở
chỗ, trong dòng chảy bất tận không cùng của cuộc sống, biết “cắt” lấy khúc
nào! Dồn nén những gì trong một câu chuyện không dài, để dù viết ngắn,
nhưng không tạo cho người đọc cảm giác viết thiếu, viết chưa tới. Đó cũng
là vấn đề chung đặt ra cho mọi cây bút muốn thành danh ở thể loại truyện
ngắn.
Giải quyết vấn đề này, có người dùng khái niệm hoàn cảnh điển hình.
Phải tạo ra một hoàn cảnh điển hình, để khi đặt nhân vật vào hoàn cảnh đó,
Luận văn Thạc sĩ - 23 - Đỗ Thanh Hương

nhân vật có thể bộc lộ trọn vẹn đầy đủ và trọn vẹn mọi phẩm chất. Phải chọn
lựa một hoàn cảnh điển hình, nơi thực tại đời sống phô diễn đầy đủ và trọn
vẹn những biểu hiện chân thực và sống động, để ý tưởng, chủ đề, cái góc
cạnh cuộc sống mà nhà văn muốn phản ánh, trở nên gần gũi, thuyết phục
nhất với bạn đọc.
Lựa chọn hoàn cảnh điển hình như vậy, thực chất chính là vấn đề xây
dựng tình huống. Nắm được tình huống là nắm được ý đồ và tư tưởng tác
giả. Bởi lẽ, tình huống chính là điểm mấu chốt của diễn biến truyện ngắn, là
điểm hội tụ, châu tuần, chi phối và quyết định mọi yếu tố nghệ thuật trong
truyện ngắn: không thời gian, nhân vật, ngôn ngữ…. Ta có thể thấy được vai
trò đặc biệt quan trọng của tình huống truyện ngắn ngay trong hai ví dụ vừa
phân tích ở trên. Việc dồn nén một loạt diễn biến, sự kiện, tình tiết trong một
khoảng thời gian hạn hẹp, đẩy câu chuyện lên đến cao trào với những chi tiết
đắc địa chính là những biểu hiện cụ thể của việc xây dựng tình huống trong
Thoạt kì thủy là nước và Lũ tiểu mãn tràn bờ, hai trong số những tác
phẩm tiêu biểu của truyện ngắn Ma Văn Kháng giai đoạn về sau.
Tình huống đắc địa có khả năng hàm chứa một dung lượng tư tưởng
rất cao, do đó giúp truyện ngắn vượt qua sự hạn chế về dung lượng câu chữ
để vẫn có phát huy thế mạnh đặc biệt trong việc khả năng truyển tải những
chủ đề mang tầm vóc tư tưởng lớn lao.
Bàn về vai trò của xây dựng tình huống là câu chuyện quen thuộc với
người viết truyện ngắn. Nhưng đặt ra vấn đề đi tìm một cái tứ cho những
truyện ngắn của mình, lại là câu chuyện riêng của Ma Văn Kháng:
“Bắt đầu viết truyện, tôi gắng tìm ra một cái tứ. Nó là gì ư, nó là chủ
đề đấy, nhưng gắn với hình ảnh, với chất liệu” [35 – tr55]. Nói cách khác,
cái tứ mà nhà văn nhắc tới, chính là hóa thân của tư tưởng chủ đề trong một
hinh hài cụ thể.
Luận văn Thạc sĩ - 24 - Đỗ Thanh Hương

Có thể lấy truyện ngắn Dòng suối nhỏ làm ví dụ. Chủ đề tác phẩm
hướng tới là ca ngợi công lao của những người chiến sĩ cách mạng với bản
làng. Chủ đề ấy viết không khéo sẽ rất dễ rơi vào tình trạng sống sượng,
cứng nhắc như khẩu hiệu hô hào. Ma Văn Kháng chọn cho mình một cách
riêng: Gắn chủ đề với một hình ảnh cụ thể: dòng suối. Ở một nơi như vùng
Mèo Cao Sơn, “nơi nước rất hiếm. Có khi Tết đến, gạn lắm, mỗi nhà cũng
chỉ được chia có nửa thùng nước”, thì hình ảnh so sánh “người chiến sĩ kia
như một con suối nhỏ, mang lại tươi mát cho đời sống bản làng” có một sức
biểu cảm đặc biệt.
Tương tự như vậy, liên hệ giữa người và cỏ, gợi lên sự dẻo dai, bền bỉ,
sức sống âm ỉ mà mạnh mẽ, mãnh liệt không gì tiêu diệt nổi, cũng là khởi
đầu của cái tứ trong một truyện ngắn khác của Ma Văn Kháng. Có thể nói,
thế mạnh của những “cái tứ” chính là việc làm cho chủ đề tác phẩm trở nên
gần gũi, dễ hiểu, dễ cảm, đi vào lòng người. Mặt khác, cũng giống như tình
huống, việc xác định được cái tứ cụ thể cho tác phẩm, sẽ giúp cho nhà văn
viết truyện “gọn gàng, thoải mái hơn”.
Và cũng chính những cái tứ ấy, làm nên một chất thơ riêng rất đặc
trưng của truyện ngắn Ma Văn Kháng, mà bản thân nhà văn đã gọi bằng cái
tên “Chất thơ chân chính”. Ma Văn Kháng quan niệm “Truyện ngắn phải có
cái gì hơi bay bay một tí, không nên mơ màng quá, mà trần trụi quá cũng
không ổn”. Đó là lý do tại sao Ma Văn Kháng cho rằng “viết như ông
Pautopxki là hơi lạm phát chất thơ”. Theo ông, mối quan hệ giữa cái thơ với
cái thực nên ở thế cân bằng, hài hòa: “Tôi thích những truyện có một cốt
truyện thực, lại phải có một cái bóng đằng sau, giúp cho người đọc liên
tưởng sang nhiều chuyện khác” [35 – tr54,55]
Bàn về nghệ thuật viết truyện ngắn, Ma Văn Kháng cũng chú ý nhấn
mạnh tới nhiều mặt của phương diện nghệ thuật, từ việc xây dựng nhân vật
Luận văn Thạc sĩ - 25 - Đỗ Thanh Hương

(nhân vật của truyện ngắn không thể phức tạp, theo kiểu truyện dài, nhưng
vẫn có thể có nhiều khía cạnh, khiến cho người đọc cảm thấy cả nhân vật
của nó và tác giả của nó không giản đơn) cho đến tầm quan trọng của việc
cân nhắc, sử dụng câu chữ, lựa chọn từng kiểu câu cho phù hợp. Tuy nhiên,
đau đáu trong trái tim người nghệ sĩ ấy, vẫn là một nỗi niềm rưng rưng: Dù
thế nào chăng nữa, “cái nguồn đời vẫn là quyết định tất cả”. Bởi xét cho
cùng, mọi lý thuyết cũng đều là màu xám, chỉ có cây đời sẽ mãi mãi xanh
tươi.
1.2.2. Ý kiến về Tiểu thuyết:
a) Tiểu thuyết trong mối tương quan với truyện ngắn:
Với tác phẩm đầu tay Phố cụt, Ma Văn Kháng đã “chạm ngõ” văn
chương bằng truyện ngắn. Tại sao không phải là tiểu thuyết hay tự truyện,
hồi ký? Bản thân suy nghĩ, cách nhìn của nhà văn về đặc trưng của từng thể
loại chính là chìa khóa cất giấu câu trả lời.
Nếu coi truyện ngắn như một lát cắt của cuộc sống thì tiểu thuyết lại
là cả cuộc sống toàn vẹn với mọi chiều kích. Nếu truyện ngắn chỉ là một mắt
xích, một quãng đoạn, thì tiểu thuyết chính là trọn vẹn quá trình. Hay như
chính Ma Văn Kháng đã dẫn lời G.Mackét: “Viết tiểu thuyết là xây các viên
gạch, viết truyện ngắn là chuẩn bị hồ và vữa. Truyện ngắn là mũi tên cắm
vào bia. Tiểu thuyết là cuộc đi săn thỏ. Truyện ngắn là quãng nghỉ xả hơi, là
bước thực tập” [34 – tr14] Điều đó đã giải thích tại sao một nhà văn trẻ sau
khi đã thành công ở thể loại tự sự cỡ nhỏ là truyện ngắn, không bao giờ chịu
dừng lại ở đó lâu. “Tiểu thuyết mới là cái đích họ nhắm tới. Nó là giấc mộng
huy hoàng ở một đời văn. Nó là món nợ đời canh cánh chưa trả được còn
chưa sống yên ổn được”.[ 47 – tr225]
Bàn về tiểu thuyết, Ma Văn Kháng luôn có ý thức đặt nó trong mối
tương quan, đối chiếu với truyện ngắn, để làm nổi bật những khác biệt căn
Luận văn Thạc sĩ - 26 - Đỗ Thanh Hương

bản của thể loại tự sự cỡ lớn này. Là một nhà văn cần mẫn, say mê với
nghề, với sức sáng tạo bền bỉ không mệt mỏi, nhưng Ma Văn Kháng cũng
phải thừa nhận, “viết văn nói chung, viết tiểu thuyết nói riêng, chưa bao giờ
là dễ cả. Như tôi, một đời người có thể viết cả trăm cái truyện ngắn, nhưng
tiểu thuyết chỉ được vài cái thôi” [47- tr 223]. Như thế, đủ để hiểu rằng, nơi
gửi gắm tài năng, tâm huyết cả một đời văn, không gì khác chính là tiểu
thuyết!
b) Yêu cầu đối với tiểu thuyết:
Đặc biệt coi trọng vị trí của tiểu thuyết trong sự nghiệp sáng tác của
một người cầm bút, Ma Văn Kháng, bằng vốn kinh nghiệm tích lũy của bản
thân mình, đồng thời chỉ ra những yêu cầu gắt gao với một người muốn
thành công ở thể loại nắm giữ “giấc mộng huy hoàng của mọi đời văn” này.
Muốn viết được tiểu thuyết, theo ông, “cần một vốn sống tổng hợp lớn, nếu
không nói là khổng lồ. Một tư tưởng đặc sắc. Một sức viết bền. Một kho chữ
nghĩa phong phú, dồi dào”. [47 – tr224]
Với tiêu chí đầu tiên, bản thân Ma Văn Kháng chính là một tấm
gương lớn về việc không ngừng quan sát, học hỏi, tích lũy vốn sống. Câu
chuyện sưu tầm, ghi chép tài liệu kín đầy những sổ tay, với ý định làm tư
liệu cho công việc viết lách, của anh nhà báo, thư kí tuổi đôi mươi ngày nào
chính là sự chuẩn bị cho vốn sống tổng hợp khổng lồ ấy. Vốn sống ấy phát
huy sức mạnh đặc biệt, không chỉ trong tiểu thuyết,mà cả ở truyện ngắn lẫn
hồi kí – tự truyện viết ở giai đoạn sau này.
Không có vốn sống và sự trải nghiệm, Ma Văn Kháng không thể có
được những trang viết đầy sống động và chân thực về cuộc sống, con người
vùng cao, miền đất nơi chàng trai Hà thành chân ướt chân ráo thưở ban đầu
đặt chân đến hoàn toàn xa lạ! Cũng như vậy, chính vốn sống phong phú, đã
làm nên sự hấp dẫn của những trang văn Ma Văn Kháng trong những trang
Luận văn Thạc sĩ - 27 - Đỗ Thanh Hương

viết về cuộc sống thị thành những năm đổi mới. Viết về nhân vật có thú chơi
chim ( Bát ngát tròi xanh) , nhà văn làm ta thán phục sự hiểu biết cặn kẽ
loài chim gáy, từ cái giọng thổ mổ tứ đến tập quán sống ưa tự do không tù
hãm. Viết về giới văn nghệ sĩ ( Nữ họa sĩ vẽ chân dung, Bức tranh người
đàn bà chơi vĩ cầm), người đọc lại được dịp ngạc nhiên khi nhà văn quá
rành rẽ những mánh lới, thủ đoạn, góc khuất trong việc buôn tranh lẫn
những am tường về kiến thức hội họa.
Với mảng đề tài nào, khi đã đặt bút viết, nhà văn cũng ý thức sâu sắc
về việc tích lũy vốn tư liệu, tự mình trải nghiệm để mang những vốn sống
tươi ròng vào trang viết. Chính vốn sống ấy sẽ trở thành thứ chất liệu vô giá
cho các tác phẩm ra đời. “Vì chất liệu, không có nó thì một thiên tài cũng vô
nghĩa!” ( Oóctêga Ygasset )
Vấn đề tích lũy vốn sống là bước chuẩn bị quan trọng đối với mỗi cây
bút, tuy nhiên, với Ma Văn Kháng, trong tư cách một tiểu thuyết gia, những
vốn sống ấy còn có thêm một ý nghĩa đặc biệt. Điều này xuất phát từ quan
niệm riêng của nhà văn trong việc sáng tác tiểu thuyết. Ông tự nhận mình là
người “viết theo khuynh hướng hiện thực”. Và dù “không phải là người kém
về trí tưởng tưởng”, nhưng tác giả luôn đặt cho mình tâm niệm “Tôi chỉ
tưởng tượng, hư cấu trên một hiện thực đã thấy, đã biết, đã cảm nhận
được”.[47 -tr 221]
Quan niệm này đã dẫn đến một nguyên tắc riêng trong việc xây dựng
nhân vật tiểu thuyết Ma Văn Kháng. Hầu hết các hình tượng nhân vật trong
các cuốn tiểu thuyết của ông đều có nguyên mẫu từ đời thực. Lý giải điều
này, Ma Văn Kháng tâm sự “với tiểu thuyết, nhân vật phải hoạt động trong
một văn cảnh rộng dài thì việc dựa trên một nguyên mẫu để xây dựng nó là
một nguyên tắc sống còn của tôi”[47 – tr221]
Luận văn Thạc sĩ - 28 - Đỗ Thanh Hương

Thật vậy, nếu truyện ngắn chỉ khắc họa nhân vật trong một khoảnh
khắc hay một đoạn đời, thì tiểu thuyết, với đặc trưng riêng thể loại, lại đòi
hỏi việc xây dựng một nhân vật đầy đặn, trong một bối cảnh nhiều chiều
kích của không gian lẫn thời gian. Nhân vật tiểu thuyết phải được dựng lên
với một lịch sử đời sống riêng và những diễn biến phức tạp trong bối cảnh
rộng lớn của đời sống.
Có thể lấy ví dụ từ Đồng bạc trắng hoa xòe, tác phẩm tiêu biểu của
Ma Văn Kháng với tư cách một cây bút viết về miền núi. Như chính lời nhà
văn sau này kể lại, các nhân vật trong truyện đều được xây dựng từ những
hình mẫu ở đời. Nhân vật đồng chí Bí thư Tỉnh bộ Việt Minh Lê Chính được
xây dựng từ nguyên mẫu đồng chí Lê Khanh, sau này là phó ban Kinh tế
Trung ương Đảng. Từ hình mẫu một chàng trai H’Mông đã làm việc, gắn bó
với Ma Văn Kháng hơn 10 năm là hình mẫu để tác giả xây dựng nhân vật
chính tên Pao. Cũng ở cuốn tiểu thuyết ấy, các ông thổ ty Hoàng Văn Thao,
Nông Vĩnh Yêng, La Văn Đờ… đều có thể liên hệ với một nguyên mẫu có
thật ngoài đời sống.
Những cuốn tiểu thuyết thời kì sau này của Ma Văn Kháng vẫn xây
dựng nhân vật theo nguyên tắc tương tự. Thế giới nhân vật trong Mùa lá
rụng trong vườn có sụ tương đồng với hình ảnh quen thuộc của chính các
thành viên trong gia đình Ma Văn Kháng. Câu chuyên được kể trong tiểu
thuyết, với những biến cố, những tình tiết, sự kiện, cũng được “bứng” ra từ
chính đời thực của nhà văn. Đám cưới không có giấy giá thú, Ngược dòng
nước lũ cũng không phải trường hợp ngoại lệ. Thậm chí, nhà văn còn tự tin
“Tôi có thể nói rõ chi tiết này tôi lấy từ ai, dáng vẻ này, câu nói này tôi
mượn từ người nào” [ 47 – tr222]. Rõ ràng, nguyên mẫu đời sống đã thực sự
trở thành một nguyên tắc sống còn trong nghệ thuật xây dựng nhân vật trong
tiểu thuyết Ma Văn Kháng.
Luận văn Thạc sĩ - 29 - Đỗ Thanh Hương

Tuy nhiên, vấn đề mối quan hệ giữa nguyên mẫu đời sống và hình
tượng trong tác phẩm, không đơn giản dừng lại ở việc chọn lựa và xử lý chất
liệu, dùng thực tế cuộc sống làm nguyên mẫu xây dựng nhân vật hay cốt
truyện. Nó thực chất còn liên quan đến một nguyên tắc chi phối ở tầm cao
hơn trong quan niệm về tiểu thuyết của Ma Văn Kháng. Nhà văn cho rằng
“Với riêng tôi, mỗi cuốn tiểu thuyết đều ứng với một đoạn đời, một phần
cuộc sống của mình. Không phải là tự thuật, nhưng tôi luôn thấy, không
nhiều thì ít, mình luôn phải có mặt trong những cuốn truyện loại tự sự dài
hơi như vậy” [47 – tr224]
Quan niệm tiểu thuyết ứng với một “đoạn đời”, một phần đời mình,
tất yếu sẽ dẫn đến việc các câu chuyện trong tiểu thuyết chính là hình bóng
câu chuyên mà tác giả đã trực tiếp sống, trải nghiệm, tham dự hoặc quan sát,
những nhân vật trong tiểu thuyêt là những người tác giả đã gặp, đã biết, đã
hiểu, đã gắn bó. Lối viết ấy có thế mạnh đặc biệt ở sự chân thực và sức nặng
từ chính những suy ngẫm, trải nghiệm của bản thân nhà văn. “Vì rốt cuộc”,
như lời chính tác giả đã trải lòng “viết tiểu thuyết là viết về cái mình đã có
trong gan ruột mà thôi” [47 – tr227] .
Nói như vậy, còn có nghĩa rằng cần phải đặt ra một tiêu chí cho cách
sống của người nghệ sĩ. Vì nếu sống hời hợt, lấy đâu ra những điều gan ruột
để trải vào trang viết? Cụ Nguyễn Du xưa viết Truyện Kiều mà như máu
chảy đầu ngọn bút, chính là bởi tấm lòng nhân đạo sâu sắc đã xót xa trước
“những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Nếu chỉ bằng lòng với cái hiện
thực bề mặt của đời sống, nhà văn liệu có thể viết những tác phẩm thật sự
sâu sắc, lay động và chinh phục trái tim độc giả được chăng? Tiểu thuyết,
cũng như mọi loại hình văn học nghệ thuật chân chính khác, phải đi vào
khám phá, chiếm lĩnh, lý giải cuộc đời ở “tầng sâu nhất của nó”. Với quan
niệm như vậy, Ma Văn Kháng đòi hỏi “tiểu thuyết hay” phải là cuốn tiểu
Luận văn Thạc sĩ - 30 - Đỗ Thanh Hương

thuyết đưa người đọc đến một “cuộc sống toàn vẹn”, phải là “sự tiếp cận tối
đa với sự thật, với hiện thực cuộc đời”. [34 – tr 26,27]
Đặt ra tiêu chí “năng lực tiếp cận sự thật, hiện thực cuộc đời”, Ma
Văn Kháng đã chạm đến những khía cạnh bản chất của tiểu thuyết nói riêng,
và văn học nói chung. Nó không chỉ là vấn đề chất liệu hiện thực, phạm vi
đề tài hay nội dung, chủ đề mà còn liên quan đến chức năng, giá trị văn học,
sứ mệnh của văn chương và người nghệ sĩ. Sống đã rồi hãy viết. Người nghệ
sĩ một khi không “đứng ở giữa dòng chảy lớn của cuộc đời”, “bắt vào đúng
nhịp của cuộc sống”, “sống nghiêm túc, hết lòng thật sự với cuộc sống ở tất
cả các chiều kích của nó, nuôi dưỡng hướng thẩm mỹ lớn” [47 – tr227] thì
không thể đảm đương vai trò là người thư ký của thời đại, ghi chép, phản
ánh, lý giải và cao hơn là định hướng, kiến tạo cho những bước đi lên của xã
hội ấy. Đó là tâm sự gan ruột một đời văn Ma Văn Kháng.
Khi xác định yêu cầu đối với người viết tiểu thuyết, ngoài vấn đề vốn
sống, Ma Văn Kháng còn đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề tầm vóc tư tưởng
và bút lực nhà văn. Nếu như tầm vóc tư tưởng thuộc về phạm trù nội dung,
thì thực chất tiêu chí về bút lực nhà văn, nói rộng ra, còn hàm ý chỉ về tổng
hợp các khía cạnh của hình thức nghệ thuật tác phẩm. Bởi lẽ, không thể duy
trì sức viết bền néu ngòi bút nghệ thuật còn non. Từ xây dựng cốt truyện, tổ
chức thế giới nhân vật đến vận dụng chữ nghĩa, từ vựng phong phú đều là
những vấn đề cốt tử của kỹ thuật viết. Thuần thục, nhuần nhuyễn những kỹ
thuật ấy, mới có thể viết dai sức, viết bền, viết trúng, viết hay. Không có
chúng, tư tưởng nhà văn cũng vẫn chỉ là “thứ tư tưởng nằm thẳng đơ trên
trang giấy”, vĩnh viễn không được hóa thân sống động vào trong những hình
sắc đa dạng của nghệ thuật ngôn từ.
Những quan niệm trên thể hiện rõ qua hơn chục cuốn tiểu thuyết đề
tên Ma Văn Kháng. Nhìn lại cả sản nghiệp văn chương đồ sộ ấy, thấy rằng,
Luận văn Thạc sĩ - 31 - Đỗ Thanh Hương

dẫu số truyện ngắn lên đến con số hàng trăm, thì những cuốn tiểu thuyết kia
cũng vẫn mới đích thực là “giấc mộng huy hoàng” của một đời văn sĩ. Thừa
nhận “viết tiểu thuyết là cả một cuộc đi săn hổ dữ” nhưng phải chăng chính
khát vọng chinh phục thử thách ấy đã trở thành niềm say mê bản năng không
thể cưỡng lại hay chối từ. Ma Văn Kháng cầm bút hơn năm mươi năm, viết
hàng trăm truyển ngắn, hàng chục tiểu thuyết, thử sức với cả hồi kí, tự
truyện, nhưng cuối cùng, với nhà văn ấy “Tiểu thuyết vẫn là một giá trị
không thể thay thế” của một đời văn.
1.2.3. Ý kiến về Hồi ký:
So với số lượng truyện ngắn và tiểu thuyết đã ra mắt công chúng, hồi
ký – tự truyện chỉ chiếm một vị trí nhỏ trong sự nghiệp văn chương Ma Văn
Kháng. Tuy nhiên, đứng từ góc độ người đọc hay người nghiên cứu, đây lại
là một bộ phận văn chương rất thú vị. Người đọc muốn hiểu thêm về cuộc
đời tác giả mình yêu mến, tiểu sử, cuộc đời, những chiêm nghiệm, trăn trở
và khắc khoải sâu kín... Giới nghiên cứu phê bình thêm một nguồn tư liệu
quý để giải mã một đời văn. Nhưng dù là với mục đích nào, cả công chúng
lẫn giới phê binh học thuật, đều gặp nhau ở một điểm: Đọc hồi ký, tự truyện
Ma Văn Kháng để thêm hiểu về một đời văn cần mẫn, sáng tạo, một cây bút
văn xuôi lực lưỡng của nền văn học Việt Nam.
Ma Văn Kháng không phải là tạng nghệ sĩ ưa giấu mình trên trang
viết. Bản thân nhà văn, trong nhiều lần tâm sự, đã nhắc đến ý thức thường
trực đem cái tôi của mình lồng vào trong những trang văn. Ông quan niệm
“mỗi cuốn tiểu thuyết đều ứng với một đoạn đời, một phần cuộc sống của
mình”. Mỗi nhân vật trong tiểu thuyết của ông hầu hết cũng là những con
người ông đã tiếp xúc, gặp gỡ, gắn bó, quan sát, nói cách khác, là những
nguyên mẫu có thật trong đời sống. Với quan niệm như vậy, có thể thấy
rằng, tiểu thuyết Ma Văn Kháng có khá nhiều yếu tố tự truyện. Thậm chí,
Luận văn Thạc sĩ - 32 - Đỗ Thanh Hương

đứng từ phương diện đặc trưng thể loại, có thể tìm thấy một vài đặc điểm
của hồi kí, tự truyện trong các sáng tác văn xuôi của ông.
Để làm rõ điều này, trước hết, ta trở lại với khái niệm về thể loại Hồi
ký: “Hồi ký là một thể loại thuộc loại hình kí, kể lại những biến cố đã xảy ra
trong quá khứ mà tác giả là người tham dự hay chứng kiến”.
Trên thực tế, ranh giới giữa hồi kí giữa tự truyện không dễ để phân
định. Có thể hiểu một cách đơn giản, rằng nếu tự truyện xoáy vào cá nhân
người viết, thì hồi kí là bức tranh về một thời đại, bên cạnh câu chuyện đời
mình, tác giả đi sâu vào tìm hiểu những mảnh đời khác. Tức là, tự truyện là
thể loại hướng vào thế giới bên trọng cá nhân người viết, được soi rọi bằng
một cái nhìn nội quan.
Với những cách quan niệm ấy, có thể thấy, mặc dù chỉ chính thức xuất
bản 3 cuốn hồi kí- tự truyện, nhưng trên thực tế, dấu vết của thể loại này đã
hòa lẫn vào trong phần lớn những sáng tác văn chương trong sự nghiệp cầm
bút Ma Văn Kháng. Có lẽ bởi với tác giả, viết, trước hết là một cách trải
lòng ra giấy. Ông quan niệm viết tiểu thuyết cũng chính là viết về những
điều mình gan ruột, mình cảm, mình nghĩ, mình trăn trở và suy tư.
Nhưng tiểu thuyết, dù sao, trên danh nghĩa vẫn là nói chuyện người,
phải là hồi ký, tự truyện, nhà văn mới có cớ, có đất để thật kể chuyện mình.
Đọc hồi ký Ma Văn Kháng, để thấy một cách chân thực nhất những suy
nghĩ, gan ruột của nhà văn về con người và cuộc đời. Bức chân dung người
nghệ sĩ hiện lên sống động qua những nét phác họa của chính chủ thể nội
cảm. Những suy nghĩ và cách nhìn nhận, lý giải về con người, về cuộc sống-
cả cuộc sống trong thời quá khứ đã hoàn thành, với cái cuộc sống bề bộn
đang diễn ra trước mắt- với đủ góc cạnh, chiều kích, tương quan hiện lên
mồn một, như người ta đọc to dòng chữ đen trên trang giấy trắng. Rõ ràng,
Luận văn Thạc sĩ - 33 - Đỗ Thanh Hương

hồi ký, tự truyện, vẫn có ưu thế hơn cả, trong việc phô bày trực tiếp cái tôi
của người nghệ sĩ.
Ở thời điểm đã chín về cả sự nghiệp và tuổi đời, hồi ký, tự truyện viết
ra, âu cũng như một thôi thúc tự nhiên muốn tự nhìn lại mình, nhìn lại đời,
như chính những dòng bộc bạch giản dị của nhà văn cuối trang sách, ông
viết cuốn sách này “chỉ để ghi chép những câu chuyện đã qua của đời mình
đó là việc nên làm và không có tham vọng gì, chỉ là một cuộc trò chuyện với
chính mình, một cuộc độc thoại hoặc mở rộng ra đôi chút là để tâm tình
cùng người thân và bạn bè thân thiết mà thôi” [74,21]
Dẫu với tâm ý ban đầu như vậy, nhưng những cuốn hồi ký, tự truyện
của ông, đã vượt ra ngoài cái ranh giới viết cho chính mình, cho “người thân
và bạn bè thân thiết” nhiều lắm. Độc giả đón nhận những trang viết ấy, lắng
nghe những tâm sự, sẻ chia, ai cũng ngỡ như ta với tác giả, đang trong một
cuộc đối thoại tâm tình…
Luận văn Thạc sĩ - 34 - Đỗ Thanh Hương

CHƯƠNG II
ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
CỦA MA VĂN KHÁNG

2.1 Sự biến đổi trong phạm vi đề tài, chủ đề tác phẩm:


Nhìn lại văn nghiệp Ma Văn Kháng, có thể thấy sáng tác của ông chia
thành hai mảng khá rõ rệt: Giai đoạn đầu gắn với những sáng tác về miền đất
và con người nơi biên ải, giai đoạn sau lại là sự trải nghiệm, tìm tòi, khám
phá với mảng đề tài cuộc sống nơi thị thành, khi bản thân tác giả chuyển về
sinh sống và làm việc ở miền xuôi. Hiện thực phức tạp, bề bộn của cuộc
sống đô thị ấy đã dồn dập bước vào trang văn Ma Văn Kháng cùng những
hơi thở mới mẻ, đem đến nhiều biến đổi rõ rệt trong đề tài, chủ đề sáng tác.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, sự biến đổi trong phạm vi đề tài và chủ
đề nói trên, không chỉ đơn giản là hệ quả của sự chuyển đổi địa bàn sinh
sống của nhà văn. Xét ở bề sâu, nó là kết quả của một sự thay đổi căn bản
trong tư duy nghệ thuật người cầm bút. Đặt văn xuôi Ma Văn Kháng trong
bối cảnh chung của nền văn học thời kì này, càng thấy rõ hơn vị trí quan
trọng của một trong những cây bút tiên phong đi đầu, nỗ lực đổi mới nền
văn học Việt Nam.
Nếu như đề tài là phạm vi hiện thực mà nhà văn chọn lựa và miêu tả,
thể hiện, tạo thành chất liệu của thế giới hình tượng trong tác phẩm thì chủ
đề lại là vấn đề mà tác giả quan tâm đặt ra thông qua thế giới hình tượng đó.
Cùng khai thác, đào xới một mảng đề tài, một phạm vi hiện thực đời sống,
mỗi nhà văn lại gửi vào trang viết những băn khoăn, suy tư, trăn trở mang
đậm màu sắc chủ quan. Chính những nét khác biệt ấy mới làm nên giá trị,
chỗ đứng riêng của người nghệ sĩ. Nói như vậy để thấy rằng, nếu đơn giản
Luận văn Thạc sĩ - 35 - Đỗ Thanh Hương

nhìn nhận sự khác biệt trong hai giai đoạn sáng tác của Ma Văn Kháng trên
tiêu chí phạm vi hiện thực phản ánh (miền núi và thành thị), mà không thấy
được sự khác biệt, bước phát triển trong tư duy nghệ thuật cùng hệ thống
quan niệm về cuộc sống và con người, thì không thể có cái nhìn thỏa đáng
và đánh giá chính xác về tài năng, tầm vóc của nhà văn.
Nhìn lại truyện ngắn Ma Văn Kháng từ năm 2000 trở lại đây, có thể
thấy chủ đề bao trùm các sáng tác của nhà văn giai đoạn này chính là cuộc
sống thế sự đời tư của con người đời thường. Nổi lên trên đó là những bi
kịch thân phận kiếp người, hình tượng nhân vật người phụ nữ nhan sắc,
phồn thực, đa đoan và hình tượng nhân vật người trí thức.
2.1.1. Chủ đề con người bình thường và số phận bi kịch của con
người:
Nhạc sĩ Văn Cao viết Mùa xuân đầu tiên sau khi chiến tranh đã kết
thúc, với những ca từ cho đến hôm nay vẫn có sức lay động lòng người
“…Mùa bình thường, mùa vui nay đã về…”. Mùa xuân độc lập đầu tiên ấy
là mùa vui, có phải trước hết chính ở cái ý nghĩa giản dị của nó - một mùa
xuân “bình thường”. Chiến tranh không có chỗ cho những thứ “bình
thường” như vậy.
Trong một hoàn cảnh bất thường như thời chiến, con người buộc phải
gồng mình lên để sống một cách phi thường. Văn học cách mạng là bản
hùng ca về những con người phi thường, là khúc tráng ca về những anh hùng
đại diện cho ý chí, sức mạnh của cả một công đồng và dân tộc. Con người,
dù là người anh hùng cách mạng, hay con người quần chúng, cũng là những
cá thể đại diện cho tập thể; được khắc họa với tính cách, phẩm chất, sức
mạnh không của riêng họ mà là mẫu số chung cho muôn vàn những con
người giống như họ. Cuộc đời của những con người ấy gắn liền sứ mệnh và
vận mệnh cộng đồng. Họ là những con người gần như không có đời tư.
Luận văn Thạc sĩ - 36 - Đỗ Thanh Hương

Những chi tiết đời tư, nếu được nhắc tới, cũng chỉ có tác dụng phụ giúp
minh họa rõ thêm phẩm chất, tính cách điển hình mà kiểu loại nhân vật đó
đại diện.
Văn học thời đổi mới, mà cụ thể ở đây là truyện ngắn Ma Văn Kháng,
đã đi ngược lại quỹ đạo ấy, khi đưa con người đời tư, từ vị trí ngoại diên,
đường hoàng trở thành nhân vật trung tâm của bức tranh văn học. Câu
chuyện được kể trong truyện ngắn Ma Văn Kháng những năm sau này, là
những câu chuyện bình thường của những con người đời thường. Sáng tác
của ông đã chuyển từ cảm hứng sử thi sang thế sự đời tư.
Văn học thế sự không phải là sân khấu cho những người anh hùng.
Hiện diện trong bức tranh văn học chính là cuộc sống hỗn tạp, bình dị với đủ
mọi kiếp người nhỏ bé trong xã hội. Người ta bắt gặp trong truyện ngắn Ma
Văn Kháng đủ loại người, thành phần, địa vị, hoàn cảnh, xuất thân. Đó có
thể là giới trí thức, nghệ sĩ như ông giáo, bác sĩ, nhà báo, nhà văn, họa sĩ; là
lớp dân nghèo thành thị xoay xở đủ mọi nghề kiếm sống: Đạp xích lô, phe
vé, thợ cắt tóc, cửu vạn, bốc vác, bán hàng nước; là những người phụ nữ ở
với đủ mọi hoàn cảnh, cảnh ngộ riêng, là hưu trí, là công an, thậm chí không
thiếu cả những kẻ lưu manh, côn đồ, đĩ điếm…
Có thể nói, truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kì này đã từng bước tiệm
tiến và bắt kịp với nhịp sống đương đại. Thế giới nhân vật trong sáng tác của
ông bỗng trở nên đông đúc, bề bộn và phức tạp như chính cuộc sống thường
ngày, một cuộc sống nhạt “chất thơ”, mà đậm chất “văn xuôi”.
Đọc Thoạt kì thủy là nước, người ta bị ám ảnh bởi “cảm giác hoang
mang buồn nản” khi nhìn cảnh “Từ chỗ đặt cái vòi nước công cộng, thùng
xếp hàng nối đuôi nhau, dài dặc vòng vèo như vô tận” Người ta huy động
“đủ hết các loại hình” thùng chậu, miễn là “vật thể có sức chứa”, từ “Thùng
sắt. Thùng gỗ. Thùng tôn. Thùng nhựa. Thùng cao su. Chậu nhôm. Chậu
Luận văn Thạc sĩ - 37 - Đỗ Thanh Hương

đồng. Thậm chí cả những chiếc xô và những cái bô nhỏ” [44, tr32]. Một loạt
câu văn ngắn đứt đoạn. Thành phần câu giản lược chỉ còn lại duy nhất một
danh từ định danh gọi tên sự vật, để đếm, để kể, để liệt kê. Chiếu ứng với vô
vàn loại thùng chậu ấy, cũng là vô vàn mặt người, kiếp người đang mòn mỏi
xếp hàng chờ nước, đàn ông đàn bà, người già trẻ con.
Con người được khắc họa trong những khoảnh khắc đời thường.
Không cần thiết phải đưa họ lên trận tuyến, phải đặt họ trong những thử
thách sinh tử ngặt nghèo, nhà văn để nhân vật của mình tự bộc lộ bản thân
ngay giữa những sự kiện thường nhật, đơn giản nhất. Khi kiên quyết, lúc
khéo léo, “người phụ nữ áo trắng” đứng ra dàn xếp ổn thỏa những cãi vã,
tranh chấp nhỏ nhặt giữa những người đang sốt ruột, bực bội đứng xếp hàng.
Chị không ngần ngại giúp đỡ “ người đàn ông kính cận è cổ, choãng chân
gồng vai đẩy hai thùng nước” [44, tr34]. Chị nhiệt thành chia sẻ với người
khác thùng nước quý giá của mình. Vẻ đẹp và tâm hồn người phụ nữ ấy đã
làm rung động tâm hồn ông giáo Moan.
Theo một cách nào đó, sân chờ nước khu chung cư đông đúc ấy được
miêu tả như một góc nhỏ cuộc sống, bề bộn nhưng sống động, phập phồng
chất nhựa hiện thực. Trong cái góc nhỏ đó, người ta sống bên cạnh nhau, trò
chuyện, cãi vã, tranh chấp nhau, cảm thông, chia sẻ và yêu thương nhau.
Nếu như Thoạt kì thủy là nước mở ra không thời gian của buổi sáng
tinh mơ nơi chung cư đông đúc, thì Chuyến xe buýt cuối ngày lại lựa chọn
khoảnh khắc ngắn ngủi cuối cùng sau một ngày mệt nhọc. Vẫn là khoảng
không gian công cộng, nhưng khác với tác giả sử thi đứng từ trên cao nhìn
ngắm, mô tả đám đông như một tập thể quần chúng, cây bút thế sự Ma Văn
Kháng lặng lẽ lựa chọn một góc nhìn từ một ánh mắt, một nỗi lòng rất đỗi cá
nhân. Giữa đông đúc bao kẻ xuống người lên ở chuyến xe cuối ngày mệt
Luận văn Thạc sĩ - 38 - Đỗ Thanh Hương

mỏi ấy, rưng rưng một mối rung động, một tấm chân tình của anh bác sĩ
nghèo tên Đoan.
Người phụ nữ với tờ bạc 500 000 và Đoan - những con người nhỏ bé
lặng lẽ giữa đời thường. Chỉ lặng lẽ chạm mặt nhau trên chuyến xe buýt cuối
ngày, ở họ không có những kì tích lớn lao, không có những tính cách phi
thường, không có hành động nổi bật gây chú ý. Những người tưởng chừng
chỉ xứng đáng làm nhân vật phụ mờ nhạt trên sân khấu cuộc đời ấy, vẫn tìm
được một chỗ đứng đầy trân trọng trong truyện ngắn Ma Văn Kháng. Văn
của ông là câu chuyện về những con người đời thường như họ. Nhà văn trân
trọng kể về họ, về cả tấm rung động chân tình khi “cả hai đều rưng rưng
cảm động khi nhìn thấy nhau” [44, tr165]
Và sau này, dẫu đã biết sự thật cay đắng nguồn gốc tờ bạc 500 000
của chị, dù nghe người ta kháo nhau rằng chị “từ hoa hậu xuống thành
cave”, thì sự biến mất của người phụ nữ trên chuyến xe cuối ngày ấy vẫn
làm Đoan giật mình “mở choàng mắt trong thoảng thốt bàng hoàng” [44,
tr169], khi chuyến xe lặng lẽ lướt qua bến xe quen. Chị biến mất, nhưng
“cái bóng nhỏ mỏng mảnh đơn độc xuống xe và chìm vào màn đêm” [44,
tr165] thì sẽ còn ám ảnh khắc sâu trong trí nhớ của Đoan, và những ai đã
từng đọc trang văn ấy. Bởi chị có thể chỉ là số phận nhỏ bé bị lãng quên giữa
đời thường, nhưng sẽ sống trong nỗi nhớ của một người đàn ông yêu thương
chị, và một nhà văn trân trọng chị.
Viết về người đàn bà tên Bỉnh (Trốn nợ), người phụ nữ đầy dục
vọng, quyết liệt, bằng mọi giá làm giàu đến mức liều lĩnh đánh bạc, rồi thua
bạc phải trốn nợ, “một cái bóng ma chập chờn, là bản nháp sơ sài, là mới hồ
sơ tạp nham giữa cuộc đời này thôi, nào ai biết”. Cuộc đời này có biết bao
nhiêu người như Bỉnh “ lẫn vào cả ngàn người tứ xứ quần cư ở ngõ phố này.
Thì cũng như đám chúng sinh nhan nhản, vật vờ, vô hình, vô ảnh, không bản
Luận văn Thạc sĩ - 39 - Đỗ Thanh Hương

sắc, diện mạo cá thể, cùng chìm nghỉm vào bối cảnh cõi đời tù mù này, ai
mà biết được, nếu kẻ đó không gây chuyện động trời” [44, tr 69]. Chính
“đám chúng sinh nhan nhản” ấy, những giáo Moan, Bỉnh, Thiệu, bác sĩ
Đoan, người phụ nữ áo trắng, người thiếu phụ xinh đẹp với tờ bạc
500.000… sẽ trở thành nhân vật chính trong thế giới nhân vật, thế giới nghệ
thuật của truyện ngắn Ma Văn Kháng- nhà văn của những câu chuyện và
cuộc sống đời thường.
* Ma Văn Kháng – Nhà văn của những con người đời thường:
Viết về cuộc sống đời thường, Ma Văn Kháng cũng đồng thời là nhà
văn của những con người đời thường. Nhận định này có liên quan chặt chẽ
đến quan niệm nghệ thuật về con người mà tác giả, thông qua những hình
tượng nghệ thuật chân thực mà sống động, đã trình bày trong tác phẩm của
mình.
Con người đời thường, trong truyện ngắn Ma Văn Kháng, trước hết là
một con người đa diện, đa chiều. Đó là một hình mẫu hoàn toàn xa lạ với
khuôn thước của văn học thời chiến, văn học cách mạng. Hoàn cảnh chiến
tranh đòi hỏi văn học nghệ thuật phải nhanh chóng chuyển mình, thích ứng
với chức năng mới – một thứ vũ khí cổ vũ chiến đấu, tiêu diệt kẻ thù. Con
người được xây dựng trong văn học thời đó phải là những người phân biệt
rạch ròi thù – bạn, yêu – ghét, địch – ta. Tốt – Xấu trở thành hai thái cực
không thể dung hòa. Chính vì vậy, kiểu nhân vật lẫn lộn “ người xấu – kẻ
tốt”, “rồng phượng- rắn rết”, “thiên thần – ác quý” rất hiếm, thậm chí hoàn
toàn vắng bóng trong văn học. Bước vào thời kì đổi mới, khi cả một thế hệ
nhà văn thừa nhận sự cần thiết phải Đọc lời ai điều cho một giai đoạn văn
học minh họa, quan niệm về con người đời tư, con người đa chiều đã dẫn
đến sự xuất hiện của một thế giới nhân vật phong phú, đầy đặn và cực kì
sống động.
Luận văn Thạc sĩ - 40 - Đỗ Thanh Hương

Ma Văn Kháng, cũng như những nhà văn thế hệ sau này, miêu tả con
người không như một thực thể đơn nhất, bất biến, hoàn toàn tốt hoặc hoàn
toàn xấu. Mỗi cá nhân đều là phức hợp muôn vàn đặc điểm, trong số đó có
không ít thói tật rất “con người”: Lòng tham, dục vọng, sự đố kỵ, ghen ghét,
lòng ích kỉ, thậm chí cả sự bội bạc, phản trắc, xấu xa.
Liệu nên coi bà Mùi tổ trưởng trong Trốn nợ là người tốt hay kẻ xấu?
Bà ưa ngồi lê đôi mách, hay đưa chuyện, thích nhòm ngó, chọc ngoáy vào
chuyện gia đình người khác, đến mức khiến Bỉnh muốn “gang mồm” bà ra.
Nhưng cũng không thể phủ nhận bà thực tâm lo lắng cho gia đình Thiệu và
Bỉnh, bà chẳng ngần ngại giúp đỡ khi họ rơi vào đường cùng, “hăm nhăm
tết, Thiệu đã phải sang nhà bà Mùi ngửa tay vay mười ngàn bạc để mua gạo
cho hai bố con nấu ăn”. [44, tr78]
Nhìn cảnh Thoa ( Khách trọ) “mặt đỏ căng, tay lăm lăm chiếc gậy gỗ
lim dài hơn một thước, to tròn bằng ngón tay cái, môi bậm đến nhợt máu,
mắt quăng quắc như mắt thú” [44, tr108], trong cơn cuồng nộ với đứa con
trai hư hỏng, thật khó tin rằng cũng chính người đàn bà ấy, đã khiến Quang
sững sờ bởi vẻ đẹp “thuần khiết, cao quý” khi ngồi đan len trong “căn buồng
trưa mùa đông hanh hao, ửng ửng long lanh như rắc kim nhũ vàng”:
“Gương mặt nhìn nhìn nghiêng cắt một lát van vát tinh tế, thanh thản trong
cái áo len vàng màu hoa cúc, với đôi bàn tay xinh xắn đang nhịp nhàng đưa
đẩy hai mũi kim đan”[44, tr106]. Sự đa diện, phức chiều ấy đã làm nên một
nhân vật đầy góc cạnh. Đối lập gay gắt giữa cơn cuồng nộ điên dại với vẻ
đẹp dịu dàng, thuần hậu đầy nữ tính của Thoa, để càng chua xót và thấu hiểu
cho nỗi đau của người đàn bà “úp mặt vào tường ri rỉ khóc ở chân cầu
thang”. Chị khóc vì nhớ lại câu chị đã thỏ thẻ hỏi Quang hôm nào “ Những
khi cáu giận, em xấu xí lắm, phải không anh?” [44, tr110]
Luận văn Thạc sĩ - 41 - Đỗ Thanh Hương

Ranh giới giữa hai phần tốt xấu trong nhân vật, nhiều lúc khiến người
ta khó có thể phân định nổi nhân vật đáng giận hay đáng thương. Không
đáng thương sao được một người đàn bà sinh ra trót không nhan sắc! Thị
Nhi “Mắt trắng dã. Mũi hếch. Mồm vẩu. Mày dựng đứng. Mặt đầy tàn
nhang. Lưỡng quyền cao. Giọng á thanh khàn rè. Đã thế lại chân thấp chân
cao” [44, tr112]. Năm mười chín tuổi đã bị chồng bỏ. Thị Nhi đi giúp việc,
rồi làm lẽ ông Pào- lão già đã 65 tuổi, hai đời vợ, một bị lão bóp cổ chết vì
ngoại tình, một bị ông trói đánh đến què quặt vì cũng hay ghen. Đời Thị Nhi
nào có sáng sủa hơn khi làm vợ người đàn ông hung hãn ấy. Ứa nước mắt
nghe thị kể lại cuộc đời mình “ Uống rượu sâm và thuốc kích thích vào là
ông hành con suốt đêm. Ông có tật vừa ngủ với con vừa cào cấu, cắn xé,
đánh đập con. Có bận ông ngoạm răng nhay nghiến bật cả máu ở vú con”.
[44, tr117].
]Duy nhất tình yêu với Giẳng đã cứu vớt đời thị, đem đến cho Thị Nhi
tháng ngày hạnh phúc, êm đẹp ngắn ngủi. Nhưng thương thị bao nhiêu, pháp
luật cũng không thể dung thứ người đàn bà dám đầu độc giết chồng. Dẫu xét
cho cùng, thị vừa là tội nhân, lại cũng vừa là nạn nhân.
Miêu tả con người đời thường như những nhân vật đa tính cách đầy
phức tạp, Ma Văn Kháng cũng không ngần ngại chỉ ra những thói tật xấu xí
của con người. Lòng tham khiến vợ chồng anh trai và lũ cháu “mất dạy”
(Khách trọ) vào hùa với nhau “không còn thiếu một hành vi bỉ ổi nào, kể từ
cạnh khóe, chửi bới, gây khó và vu khống, đe dọa” [44, tr100,101] hòng đuổi
Quang ra đường, chiếm đoạt toàn bộ tài sản thừa kế gia đình. Sự ám ảnh với
đồng tiền khiến Bỉnh (Trốn nợ) trở nên táo tợn, liều lĩnh kiếm tiền bằng mọi
cách “Tiền! Tiền! Tiền! Y chỉ có mỗi một ao ước là có thật nhiều tiền thôi”
[44, tr85].
Luận văn Thạc sĩ - 42 - Đỗ Thanh Hương

Thói ích kỉ, ganh ghét cũng là thứ thuốc độc gặm nhấm, giết dần phần
nhân tính tốt đẹp của con người. Trong rất nhiều truyện ngắn của Ma Văn
Kháng thời kì này, nhà văn không ngần ngại mạnh mẽ, công kích thói ích kỉ,
ghen ghét ấy bằng những lời trực diện: “Đó là bởi vì thói ganh ghét nhỏ
nhen, cái ý muốn độc chiếm ngấm ngầm độc ác của ông anh trai và chị dâu
vốn là cái thói ích kỷ thâm canh cố đế không sửa chữa được của con người”
( Khách trọ) [44, tr100], “Ôi chao! Cái hạn hẹp và độ sâu tăm tối của lòng
người, thói đời! Nó là cái lòng đố kỵ sẵn có. Nó là thói đời ganh ghét cố
hữu. Nó là cái tức tối nhỏ nhen vốn ẩn sâu trong lòng người..Nó coi tất cả
những ai tốt đẹp, tài giỏi hơn nó là đối tượng để thù ghét; ấy thế, cái thói
xấu thâm canh của con người” (Một lần về phép Tết) [44, tr93], “Con
người ta là về một khía cạnh nào đó, là một kẻ không sống yên ổn với đồng
loại của mình. Mỗi kẻ là một đơn nguyên biệt lập. Ganh ghét đố kỵ với
người khác là thuộc tính của nó. Nó ganh ghét để thỏa lòng ganh ghét của
nó, một thói xấu thâm canh, một cơn điên khùng, bất chấp cả lẽ phải thông
thường”. ( Một vầng nắng nhỏ) [42, tr142]
Có thể nói, thói ghen ghét, đố kỵ ấy, không phải là đặc điểm riêng của
bọn côn đồ, của vợ chồng anh chị nhà báo Quang, của bà Lân hay của riêng
một nhân vật nào trong truyện ngắn Ma Văn Kháng. Nó tiềm ẩn trong mỗi
con người, như là một phần của con người “đời thường” mà nhà văn dụng
tâm miêu tả. Đi ngược lại lối lý tưởng hóa con người, nhìn con người như
một thực thể đa nhân cách, phức tạp và bất toàn, nhà văn đã dựng lên trong
tác phẩm của mình một thế giới người chân thực, sống động, phức tạp như
chính bản chất bề bộn, đa dạng và bất ổn của cái cuộc sống thực đang ngày
ngày tiếp diễn.
Tuy vậy, cũng cần thấy rằng, bên cạnh việc chỉ ra những khiếm
khuyết của con người, Ma Văn Kháng cũng còn là cây bút phát hiện và trân
Luận văn Thạc sĩ - 43 - Đỗ Thanh Hương

trọng những vẻ đẹp bình dị của con người đời thường. Truyện ngắn Ma Văn
Kháng còn là những trang văn cảm động về tính người và tình người.
Tình người ấy hiện hữu trong mọi mối quan hệ. Là tình cảm bình dị,
đơn sơ giữa đôi vợ chồng nghèo, là sự thân tình, xuề xòa mà ấm áp của
những người lao động dưới đáy cùng xã hội, và cũng còn là tình yêu. Nhất
là tình yêu!
Nhìn lại văn xuôi Ma Văn Kháng, hiếm có câu chuyện tình yêu nào lạ
lùng, vô lý mà cũng mê say như câu chuyện của người đàn bà xấu xí, hai đời
chồng, với Giăng, cậu trai mười bảy tuổi ở Bãi vàng. Người ta chợt vỡ lẽ,
tình yêu nào phải “thứ sở hữu đặc quyền”, “là thứ đặc sản của một đời sống
tinh thần thuộc đẳng cấp cao”.. “Hóa ra, nó là tài sản chung của nhân loại.
Nó là thuộc tính của những kẻ mang danh tính là con người”. [44, tr118].
Không thực sự trân trọng con người, không thể có được cái nhìn rộng lượng
và nhân văn như thế! Chính niềm trân trọng và nâng niu thứ tình cảm đẹp
đẽ, cao thượng mà cũng rất con người này sẽ khiến nhà văn thêm nhiều lần
nữa kín đáo hay trực diện, miêu tả và ca ngợi tình yêu, như một phần thiên
tính và nhân tính con người, trong rất nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết cùng
thời.
Viết về chủ đề cuộc sống đời thường, truyện ngắn Ma Văn Kháng còn
thấm thía những bi kịch của số phận kiếp người.
Bi kịch ấy trước hết là sự thiếu thốn, khốn khó của cuộc sống vật chất.
Vì nghèo, người nghệ sĩ phải chấp nhận hi sinh nghệ thuật (Nữ họa sĩ vẽ
chân dung, Bức tranh người đàn bà chơi vĩ cầm), người đàn bà phải chấp
nhận hi sinh phẩm giá ( Chuyến xe buýt cuối cùng). Nghèo túng đẩy người
ta vào bước đường cùng, dung túng cho thói liều lĩnh táo tợn, hun đúc dục
vọng và cuồng vọng với đồng tiền: “Y chỉ có mỗi một ao ước là có thật
nhiều tiền thôi. Tiền để đổi đời, để y thoát ra cảnh cơ khổ bần hàn” [44,
Luận văn Thạc sĩ - 44 - Đỗ Thanh Hương

tr77]. Cái nghèo là thứ “nợ tông đồ”, là “cái gông xiềng của chúng sinh”.
Đâu chỉ một mình Bỉnh thua bạc phải “trốn nợ”. Chạy trốn khỏi thứ “nợ
tông đồ” nghèo đói, đó là nỗi ám ảnh đau đớn của biết bao kiếp người. Có
phải cũng vì vậy, nên Ma Văn Kháng đã lấy tên Trốn nợ đặt cho cả một tập
truyện ngắn của mình chăng?
Nhưng cao hơn nỗi túng quẫn, khốn cùng về vật chất, con người còn
đau đớn gấp bội trong những tấn bi kịch tinh thần. Bi kịch là nỗi đau của
những con người nhận ra hoặc những người quanh mình, hoặc chính bản
thân mình, đang từng ngày bị tha hóa trong cuộc hành trình tuyệt vọng chạy
trốn nợ đời. Là khi người ta nhận ra sự ghẻ lạnh, ích kỉ, tham lam, đố kị,
ghen ghét của thói đời. Bi kịch ấy thường là của những con người có nhân
cách, có tri thức, những người vì hiểu, nên đau trước sự xuống dốc của đạo
đức con người.
Mỗi người một cảnh ngộ và nỗi đau riêng. Đó có thể là bi kịch của
những người nghệ sĩ dẫu phải bán rẻ nghệ thuật đích thực vì nhu cầu vật
chất, cơm áo. Bi kịch của những người phụ nữ trong tình yêu, hôn nhân. Họ,
hoặc không thể có được tình yêu, hoặc từng có rồi đánh mất tình yêu vì bị
phụ bạc, tráo trở. Có thể nói, người phụ nữ và người trí thức là hai hình
tượng nhân vật có một chỗ đứng đặc biệt trong văn xuôi nói chung và truyện
ngắn Ma Văn Kháng nói riêng. Những bi kịch, và rộng hơn là đặc điểm của
hai nhóm nhân vật này, chúng tôi sẽ lần lượt làm rõ thêm ở những luận điểm
tiếp theo của luận văn.
2.1.2. Nhân vật người phụ nữ nhan sắc, phồn thực, đa đoan:
Thế giới nhân vật trong tác phẩm nghệ thuật của nhà văn không là sự
mô phỏng đơn thuần thế giới con người trong thực tại đời sống. Mỗi nhân
vật được nhà văn lựa chọn đưa vào trong tác phẩm là một phương tiện nghệ
thuật quan trọng, thông qua đó nhà văn gửi gắm một triết lý nhân sinh về sự
Luận văn Thạc sĩ - 45 - Đỗ Thanh Hương

sống và con người. Do vậy, giữa muôn vàn những kiểu, loại “nguyên mẫu”
người trong thực tại đời sống, người nghệ sĩ thường vẫn tạo dựng cho mình
một kiểu loại nhân vật ưa thích riêng. Với kiểu nhân vật này, ngòi bút nhà
văn trở nên linh hoạt và sống động hơn cả, thâu góp những nét đặc sắc, cá
tính riêng biệt, tạo nên một dấu ấn riêng không thể trộn lẫn.
Với trường hợp truyện ngắn Ma Văn Kháng, hình tượng người phụ nữ
là một kiểu nhân vật đặc biệt quan trọng. Người phụ nữ trong văn xuôi Ma
Văn Kháng gây ấn tượng và đặc biệt ám ảnh bởi một tính cách phong phú,
phức tạp và một số phận nhiều éo le. Đó là những người phụ nữ nhan sắc,
phồn thực, đa đoan.
Ma Văn Kháng, khi viết về phụ nữ, đặc biệt nhấn mạnh đến vẻ đẹp
hình thể. Tuyệt đại đa số nhân vật nữ trong văn xuôi Ma Văn Kháng đều là
những người phụ nữ có nhan sắc. Với nhà văn, người phụ nữ bao giờ cũng
gắn với “cái đẹp, sự tươi mát, sức quyến rũ”. Từ những người phụ nữ
H’mong với nhan sắc rực rỡ say lòng người Seo Ly, Seo Say, Seo Cả, Pàng,
Seo Mùa…trong Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải; những Loan, Lý,
Hoan, An, Xuyến, Thoa, Phượng trong Mưa mùa hạ, Đám cưới không có
giấy giá thú, Mùa lá rụng trong vườn, Ngược dòng nước lũ, Gặp gỡ ở La
Pán Tẩn, cho đến những người phụ nữ trong những truyện ngắn giai đoạn
sau này Trốn nợ, Cỏ dại, Người đàn bà chơi vĩ cầm, Cuộc đấu của gà
chọi, Một vầng nắng nhỏ.. mỗi người một vẻ riêng tạo nên sự “phong phú,
nhiều màu sắc” cho bức tranh cuộc sống. Có thể nói, đúng như tác giả Đỗ
Phương Thảo đã viết trong tập chuyên luận của mình, ca ngợi vẻ đẹp của
người phụ nữ là cách Ma Văn Kháng gửi gắm niềm tin yêu và hạnh phúc
vào con người, hạnh phúc và tương lai.
Viết về những người phụ nữ có nhan sắc, nhưng thứ nhan sắc mà Ma
Văn Kháng tìm kiếm, phát hiện và ca ngợi ở những nhân vật nữ của mình,
Luận văn Thạc sĩ - 46 - Đỗ Thanh Hương

mang một màu sắc riêng. Đó là một vẻ đẹp đậm thiên tính nữ. Một vẻ đẹp
nghiêng hẳn về màu sắc giới tính, đầy nhục cảm. Một vẻ đẹp được người
đàn ông bất ngờ phát hiện trong khoảnh khắc choáng váng, với tất cả nỗi say
mê sững sờ, chiêm bái, ngưỡng mộ:
“Một ngộ thức vừa bừng dậy lan chuyển đến gốc rễ tâm hồn đàn ông
của Moan. Moan, một người đàn ông. Chỉ có Moan, trong chủ thể đàn ông
lúc này mới có được cái may mắn, cái hạnh phúc tràn trề và đột ngột này;
cái may mắn, cái hạnh phúc trong khoảnh khắc hiếm hoi được nhận ra toàn
bộ vẻ đẹp giới tính thật tự nhiên và căng tràn sự sống lo toan của người đàn
bà”. ( Thoạt kì thủy là nước) [44, tr43].
“Trời! Một khoảnh khắc vô cùng kì lạ với Thịnh đã xuất hiện. Tim đập
dồn, Thịnh thót người nghẹt thở…..Vội quay đi, lập cập chui vào khoang
thuyền mũi, Thịnh ngồi ngẩn bên mâm cơm ngượng ngập như người bị bắt
quả tang” ( Mênh mông sông nước miền Tây) [44, tr58]
Vẻ đẹp người đàn bà trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thường được
phát lộ một cách bất ngờ và tình cờ như thế. Chính sự khám phá bất ngờ làm
vẻ đẹp càng gây ấn tượng mạnh mẽ, ám ảnh. Nhưng đáng chú ý ở chỗ, Ma
Văn Kháng dường như luôn cố ý sắp đặt và lựa chọn không chỉ thời điểm,
mà cả những người có may mắn phát hiện, khám phá vẻ đẹp ấy. Đó là Biên,
người may mắn được My đưa qua sông trong Lũ tiểu mãn ngập bờ, là ông
giáo Moan trong Thoạt kì thủy là nước, là Thịnh, chiến sĩ công an trong
Lênh đênh sông nước miền Tây… Họ là những người có năng lực cảm thụ
cái đẹp, và trên hết, là những người biết trân trọng và yêu thương, chiêm bái
cái đẹp. Bức tranh về vẻ đẹp người đàn bà, hiện lên trong đôi mắt và những
xúc động bàng hoàng của họ, vì thế đã dừng lại ở bên này cái ranh giới
mong manh của vẻ đẹp đậm giới tính, nhục cảm, mà chưa bước sang bên kia
là sự lõa lồ, dâm dục, phản cảm.
Luận văn Thạc sĩ - 47 - Đỗ Thanh Hương

Vẻ đẹp của Út Sâm ( Lênh đênh sông nước miền Tây) vừa phồn
thực nhục cảm, vừa lộng lẫy, huyền thoại: “Út Sâm vừa nhô nửa thân mình
lên cao, như nữ thủy thần trong ánh chiều nạm vàng, phô bầy toàn bộ bầu
ngực tròn đầy căng nở nuột nà của đàn bà đang ở trong thời điểm cực kì
hoan lạc” [44, tr58].
Cũng là hình ảnh người phụ nữ khỏa thân, Thoa (Khách trọ) dẫu
không đậm vẻ huyền thoại như một “nữ thủy thần” vẫn là một tuyệt tác của
tạo hóa với “Suối tóc đen nhánh chảy sau lưng. Cả phần ngực trần trụi
mênh mông với hai bầu vú mụp mạp nhuầy nhuậy cùng hai núm vú đỏ hồng
cong vểnh căng tràn sinh lực của chị in trong làn gương sáng, tạo nên một
hình dạng đặc thù, vừa hiện thực vừa hư ảo lạ lùng” [44, tr104]. Vẻ đẹp vừa
“hiện thực” mà “hư ảo lạ lùng” ấy của Thoa đã bám riết lấy Quang nỗi “ám
ảnh thiêng liêng và huyền bí” đến mức mỗi lần đặt chân vào căn phòng tắm
ấy, “anh lại run rẩy bồi hồi như đang ở nơi thánh địa” [44, tr105].
Cũng có khi, vẻ đẹp nhục cảm của nhân vật không cần phô bày trọn
vẹn trong trạng thái khỏa thân. Chỉ qua những đường cong bung nở nuột nà
nơi hông eo, qua ánh mắt, qua bờ vai thon, cánh tay tròn lẳn…, vẻ đẹp đầy
nữ tính của những người phụ nữ cũng đã hiện lên sống động trong trang văn
Ma Văn Kháng. Vẻ đẹp ấy tuy đậm màu sắc nhục cảm, mà vẫn gọi dậy mĩ
cảm. Một vẻ đẹp khiến người ta phải khao khát, trân trọng, say mê.
Được miêu tả với vẻ đẹp đậm màu sắc nhục cảm, người phụ trong
truyện ngắn Ma Văn Kháng cũng được đặc biệt nhấn mạnh với những dục
vọng bản năng.
Ông Quyết Định (Một mình một ngựa) không thể hiểu nổi vợ mình
“Là vợ một bí thư tỉnh ủy, chị còn ao ước nào hơn?”. Ông thành công trong
cương vị người lãnh đạo, cống hiến hết mình cho công việc chung. Nhưng
ông đã thất bại trong cương vị một người chồng, bởi lẽ “toàn bộ dục năng
Luận văn Thạc sĩ - 48 - Đỗ Thanh Hương

của ông đã được thăng hoa thành khát vọng chiến đấu, đã biến thành ngọn
lửa lý tưởng” [42, tr 242, 243].
Ông không hiểu nổi những khao khát bản năng rất đàn bà của cô vợ
“ba con rồi” nhưng vẫn là “một tâm hồn lãng mạn”, “vẫn tung tăng như thời
son trẻ”. Với ông, “ hôn hít, đùa bỡn đâu có phải là giá trị một con người”.
Ông cho rằng “Tuổi đã lớn, lâu lâu nhớ hơi hướng nhau thì lôi nhau lên
giường, rú rít rập rình một chập cho tơi bời khói lửa là thỏa mãn cơn thèm,
có gì mà rắc rối!” [42, tr243]. Ở bên cạnh một người chồng như vậy, sự vụ
tày trời khi Giang phải lòng giáo Cầu, có phải hoàn toàn là lầm lỗi của người
phụ nữ nhẹ dạ ấy không?
Không chỉ mình Giang, đại đa số những nhân vật nữ trong truyện
ngắn Ma Văn Kháng đều được khắc họa với những khát khao nhục cảm bản
năng đời thường. Họ dám sống thật với những cảm xúc của mình, thậm chí
kiêu hãnh, thách thức những ai dám khinh rẻ, coi thường họ. Quyết liệt đến
như Bỉnh (Trốn nợ): “ Nghe em hỏi đã. Có phải con mụ Mùi tổ trưởng nó
bảo em là con ma không? Khoan! Có phải không đã? Phải thì em để gang
mồm nó ra. Ừ ừ. Em phải hơi chồng em, em đại dâm với chồng em đấy. Em
là người vợ yêu của anh đấy, có phải không, anh Thiệu à?” [44, tr85]
Ma Văn Kháng không ngần ngại đưa lên giấy trắng mực đen những
chủ đề một thời vẫn bị xem là địa hạt cấm kị của văn chương: một tình yêu
không tách rời tình dục. Nhà văn cảm thông, chia sẻ với những khát vọng
bản năng chính đáng của người đàn bà. Họ có quyền được yêu thương, được
sống đúng với những khao khát bản năng của mình. Xét cho cùng, nghĩa vụ
của nhà văn là gì, nếu không phải là nâng đỡ và bảo vệ những giá trị nhân
bản, nhân văn như thế!
Đầy dục vọng bản năng, khao khát hạnh phúc ái ân, nhưng người phụ
nữ mà Ma Văn Kháng trìu mến, yêu thương miêu tả trong tác phẩm của
Luận văn Thạc sĩ - 49 - Đỗ Thanh Hương

mình không phải chỉ những người chỉ tìm cách thỏa mãn dục vọng cá nhân.
Tình dục với họ gắn liền với tình yêu. Tình yêu làm sống dậy người đàn bà
cằn cỗi, xâu xí, khiến Thị Nhi (Bãi vàng) cũng “như cây cối vào mùa trổ
hoa. Xuân sắc trở lại, biến đổi từng nét thô kệch xấu xí trên gương mặt..”.
Chỉ tình yêu mới đủ sức mạnh làm nên biến đổi diệu kì ấy. Thị hiểu rằng
“Sắc dục dẫu có đắm chìm đê mê thì cũng khác với tình yêu lắm”. “Ở thằng
nhóc là sự giao tình, là mối yêu đương. Còn ở ông Pào thì chỉ đơn thuần là
làm tình thôi” [44, tr114].
Đáng thương biết mấy Út Sâm, người con gái sông nước miền Tây đã
yêu và dâng hiến hết mình, để rồi bị phụ bạc : “Tui đã yêu Tám Thanh. Tui
đã cho hắn tất cả thân xác, hồn vía tui. Tui là đàn bà. Đàn bà yêu là hết
mình luôn. Là dướn tới tận cùng luôn. Không ngang ngửa, dở dang..” [44,
tr62]
Nhan sắc, phồn thực, người phụ nữ trong truyện ngắn Ma Văn Kháng
còn là những kiếp đa đoan. Đa đoan vì gặp nhiều éo le, ngang trái. Phận má
hồng truân chuyên vì gánh nặng cơm áo gạo tiền: nghèo khó mà phải bán
mình như người phụ nữ có tờ bạc 500.000 trong Chuyến xe buýt cuối ngày,
nghèo đói mà táo tợn, liều lĩnh làm mọi thứ để mong đổi đời giàu có như
như Bỉnh (Trốn nợ); Túng quẫn nợ nần mà phải hi sinh cảm hứng nghệ
thuật, làm những điều trái với lương tâm người nghệ sĩ như Huê( Nữ họa sĩ
vẽ chân dung), như Khanh ( Bức tranh người đàn bà chơi vĩ cầm) . Đó
cũng còn là bi kịch người phụ nữ trong tình yêu: vì yêu và dâng hiến hết
mình rồi bị phụ bạc như Út Sâm (Lênh đênh sông nước miền Tây), vì yêu
mà gây nên tội như Thị Nhi (Bãi vàng), vì bị chồng phản bội, quay lưng mà
thắt cổ tự vẫn như My (Lũ tiểu mãn ngập bờ)… Xét đến cùng, nhân vật nữ
trong truyện ngắn Ma Văn Kháng giai đoạn này, vẫn là những người phụ nữ
Luận văn Thạc sĩ - 50 - Đỗ Thanh Hương

của gia đình. Bi kịch lớn lao nhất của họ cũn không ngoài bi kịch hôn nhân
gia đình, những bất hạnh ngang trái trong tình yêu.
Thế giới nhân vật nữ trong truyện ngắn Ma Văn Kháng dường như
không có mấy số phận êm đẹp. Họ là minh chứng cho nỗi bất hạnh của
những kiếp hồng nhan đa truân. Nhưng giữa dòng xoáy cuộc đời, dẫu họ chỉ
như những chiếc thuyền “nhỏ bé, mỏng mảnh và tiều tụy” (Lũ tiểu mãn
ngập bờ), thì chiếc thuyền ấy cũng vẫn gồng mình vượt qua ghềnh qua lũ
kiên gan. Họ đầy quyết liệt. Út Sâm yêu quyết liệt và dâng hiến hết mình, dù
rằng đau đớn vì bị bội phản. Bỉnh kiếm tiền quyết liệt bằng mọi cách thoát
nghèo. Hoàng Lan ( Bức tranh người đàn bà chơi vĩ cầm) quyết liệt đổi
đời tự đi lên từ hai bàn tay trắng. Hai mươi năm son sắt tấm chân tình với
một người đàn biền biệt nơi xa, Huê – Nữ họa sĩ vẽ chân dung cũng là một
cách quyết liệt – Quyết liệt tin yêu, quyết liệt đợi chờ. Những người phụ nữ
ấy, họ sống quyết liệt, và cũng có khi lựa chọn cái chết một cách quyết liệt
như My, như một sự phản đối mạnh mẽ, quyết không thỏa hiệp với nghịch
cảnh hiện tại. Đó là một cái chết quyết liệt, dẫu nhiều oan khuất, xót xa.
2.1.3. Nhân vật trí thức:
Cùng với người phụ nữ nhan sắc, phồn thực, đa đoan, người trí thức
cũng là một kiểu nhân vật có vị trí đặc biệt trong truyện ngắn Ma Văn
Kháng. Đó là những người có học thức, có vốn hiểu biết uyên sâu, có cái
nhìn tỉnh táo và sâu sắc, thấu hiểu sự đời. Trái tim họ cũng đồng thời chan
chứa một tình yêu thương, cảm thông sâu sắc với những cảnh ngộ, bất hạnh
trong cuộc sống.
Có thể điểm lại một số thành phần trí thức trong truyện ngắn Ma Văn
Kháng: ông giáo, nhà báo, bác sĩ, họa sĩ, nhà thơ.
Người trí thức trong truyện ngắn Ma Văn Kháng được xây dựng như
những người thức ngộ, thấu hiểu sự đời, có năng lực để nhận rõ những triết
Luận văn Thạc sĩ - 51 - Đỗ Thanh Hương

lý sâu sắc về cuộc sống. Biên trong Lũ tiểu mãn ngập bờ, trước cái chết
đau đớn và oan khốc của My, đã nhận ra tất cả cái mong manh của một kiếp
người, chẳng khác gì con thuyền nan tiều tụy, đáng thương giữa dòng nước
lũ. Huê trong Nữ họa sĩ vẽ chân dung nhận rõ bản chất của từng người đến
đặt vẽ, những ích kỉ, giả dối tầm thường, những dục vọng xấu xa của những
kẻ không xứng đáng với nghệ thuật đích thực.
Người trí thức ấy, còn là người có khả năng nhận biết cái đẹp, và trân
trọng cái đẹp ấy bằng tất cả tâm hồn, sự ngưỡng bộ, lòng chiêm bái. Không
phải ngẫu nhiên, khi vẻ đẹp của người phụ nữ - cái đẹp lớn nhất được mô tả
trong truyện ngắn Ma Văn Kháng- hầu hết đều được khám phá, mô tả dưới
cảm nhận của những người trí thức. Moan nhận ra vẻ đẹp của người phụ nữ
áo trắng ( Thoạt kì thủy là nước). Quang phát hiện và làm sống dậy vẻ đẹp
đầy nữ tính, dịu dàng của Thoa ( Khách trọ). Vẻ đẹp người phụ nữ với tờ
bạc 500000 đồng trong Chuyến xe buýt cuối ngày cũng hiện lên dưới đôi
mắt và những xúc động của bác sĩ Đoan: “ Và ngắm chị ở các cung độ xa
gần, Đoan đã phải thầm thán phục sự tài tình của tự nhiên…Người phụ nữ
này mang vẻ đẹp tiên nhiên, xa cách hoàn toàn với cái thông tục trần ai”
[44, tr164]. Cũng chính tâm hồn nhạy cảm của người trí thức ấy, đã nhận ra
những dự cảm xót xa về số phận, cuộc đời chị, vì “bên kia của sự tuyệt mĩ là
nỗi e sợ và những rủi ro”, vì hiểu được cái “mong manh đơn chiếc yếu đuối
của cái đẹp” [44, tr165].
Dự cảm của Đoan trong Chuyến xe buýt cuối cùng, cũng như những
dự cảm của Biên, gắn với hình ảnh chiếc thuyền mong manh giữa dòng
nước lũ – ẩn dụ số cho phận mong manh, đau đớn của người con gái tên My,
hay sự đồng cảm thấu hiểu sâu sắc và lòng cảm thương mà người chiến sĩ
công an Thịnh dành cho Út Sâm (Lênh đênh sông nước miền Tây) chính là
Luận văn Thạc sĩ - 52 - Đỗ Thanh Hương

hệ quả của “cái năng lực chia sẻ siêu phàm” ( Chuyến xe buýt cuối cùng)
mà Ma Văn Kháng đã phú cho những người trí thức của mình.
Người trí thức, trong truyện ngắn Ma Văn Kháng, cũng còn là những
người đau nỗi đau đời. Họ đau đớn trước những cái đẹp bị chà đạp (Chẳng
lẽ cái đẹp cần được nâng niu trân trọng lại nhận phải sự chà đạp phũ
phàng- Chuyến xe khách cuối cùng ) [44, tr169], trước số phận của những
người phụ nữ, những kiếp người bé nhỏ, đáng thương ( Cuộc sống tưởng là
dung dị mà có biết bao ngóc ngách ẩn khuất những hung bao bất ngờ khủng
khiếp quá và con người sao mà yếu đuối khốn khổ thế - Lũ tiểu mãn ngập
bờ) [44, tr141], trước sự lạnh lẽo của thói đời, sự tha hóa của đạo đức.
Là người nghệ sĩ, một chủng loại đặc biệt trong giới trí thức, những
người như Huê, như Khanh còn mang một nỗi đau riêng, đó là nỗi đau khi
phải hi sinh nghệ thuật đích thực vì những gánh nặng cơm áo đời thường:
“Sống, đồng nghĩa với chấp nhận. Cảm hứng là điều kiện để làm tác phẩm
lớn- niềm mớ ước của họa sĩ vốn rất hiếm. Trong khi đó, người ta vẫn phải
sống”- Nữ họa sĩ vẽ chân dung [44, tr24].
Thế giới nhân vật truyện ngắn Ma Văn Kháng, thêm phần phong phú
và đa dạng, cũng chính nhờ những người trí thức đó – những người hiểu đời,
thương đời, đau đời.
2. 2. Hình tượng tác giả với giọng điệu hài hước và xót xa thương
cảm:
Tác phẩm văn học là đứa con tinh thần của người nghệ sĩ. Nhà văn,
với tài năng và tâm huyết của mình, biến những cảm hứng, ý đồ nghệ thuật
thành hình hài sắc vóc cụ thể bằng chất liệu ngôn từ. Dẫu không thể phủ
nhận tính độc lập tương đối của tác phẩm và chủ thể sáng tạo ra nó, thì dấu
ấn cá nhân của người cầm bút để lại trên những trang viết là điều tất yếu
hiển nhiên.
Luận văn Thạc sĩ - 53 - Đỗ Thanh Hương

Một tác phẩm văn học ra đời không thể không có hình ảnh nhà văn.
Nói như Goethe “Mỗi nhà văn, dù muốn hay không đều miêu tả chính mình
trong các tác phẩm một cách đặc biệt”. Sự hiện diện ấy của các nhà văn
trong những trang viết, chính là hình tượng tác giả.
Hình tượng tác giả là hình ảnh của chủ thể sáng tác hiện diện trong tác
phẩm văn học. Nhận định đó rất gần gũi với cách đặt vấn đề của M.Bakhtin
khi xem xét khái niệm “hình tượng tác giả” trong cuốn Ngữ cảnh “Chúng tôi
quan niệm người sáng tạo trong sáng tác của anh ta chứ không thể nào bên
ngoài sáng tác của anh ta”. Cách quan niệm như trên xác lập cho chúng ta
một cách thức mới để đánh giá hình tượng nhà văn – chủ thể sáng tạo: Thay
vì tập trung vào các yếu tố ngoài văn bản ( Tiểu sử, xuất thân, cuộc đời, bối
cảnh xã hội, hoàn cảnh sáng tác…), phải căn cứ vào bản thân văn bản và
chính những yếu tố cấu trúc nên văn bản đó như ngôn ngữ, giọng điệu, cái
nhìn nghệ thuật, nhân vật…
Cũng cần phải thấy rằng, với mỗi thể loại khác nhau, hình tượng tác
giả được thể hiện theo những cách khác nhau. Đối với thơ ca, hình tượng tác
giả chính là cái tôi trữ tình, chủ thể cảm xúc của văn bản nghệ thuật. Với văn
xuôi, hình tượng tác giả đã gắn bó chặt chẽ với hình tượng người kể chuyện.
Do vậy, xem xét hình tượng tác giả trong truyện ngắn Ma Văn Kháng, cần
đặc biệt chú ý tới hệ thống người kể chuyện mà nhà văn đã lựa chọn xây
dựng.
Cùng với người kể chuyện, giọng điệu kể chuyện cũng là một yếu tố
quan trọng góp phần thể hiện hình tượng tác giả. Giọng điệu ấy có mối quan
hệ gắn bó chặt chẽ với hình tượng người kể chuyện. Thông qua giọng điệu
kể chuyện, người kể chuyện thể hiện thái độ, quan điểm của mình đối với
câu chuyện được trần thuật. Hai yếu tố này bổ sung cho nhau, cùng hoàn
thiện bức chân dung hình tượng tác giả.
Luận văn Thạc sĩ - 54 - Đỗ Thanh Hương

Khảo sát một loạt truyện ngắn của Ma Văn Kháng trong giai đoạn sau
này, không khó để nhận ra rằng ngôi kể ưa thích nhất của nhà văn vẫn là
ngôi thứ ba số ít. Ma Văn Kháng sắm vai người kể chuyện toàn tri, biết hết,
thấy hết. Cũng có khi câu chuyện được kể lại từ một người kể chuyện ngôi
thứ nhất xưng tôi hoặc kết hợp cả hai ngôi kể để tạo thành kiểu ngôi trần
thuật “người kể chuyện trung gian động”. Tuy nhiên, dẫu kể lại câu chuyện
từ góc nhìn, từ ngôi kể nào, cũng có thể nhận thấy hai giọng điệu nổi bật
trong truyện ngắn Ma Văn Kháng: giọng điệu hài hước, châm biếm và giọng
xót xa thương cảm. Sáng tác của Ma Văn Kháng là những câu chuyện về
cuộc sống đời thường, những con người đời thường. Tư duy tiểu thuyết hiện
đại đã xóa nhòa khoảng cách sử thi giữa người kể chuyện với câu chuyện, sự
kiện, nhân vật. Dẫu là người kể chuyện toàn tri biết hết, thấy tất, hay người
kể chuyên ngôi thứ nhất, người kể chuyện trung gian di động, thì câu chuyện
vẫn được kể chủ yếu bằng một giọng văn thông cảm, sẻ chia. Nhà văn đứng
giữa cuộc đời, đứng bên cạnh những con người đời thường nhỏ bé ấy để kể,
để hiểu, để sẻ chia và thông cảm với họ những nỗi lo toan, những cảnh ngộ,
những nỗi đau.
Nhân vật người phụ nữ được ưu ái dành một vị trí đặc biệt trong
truyện ngắn Ma Văn Kháng. Người ta bắt gặp giọng điệu trìu mến, thân
thương của nhà văn khi miêu tả vẻ đẹp dung dị, thuần khiết của người phụ
nữ trong Một vầng nắng nhỏ mùa thu, vẻ đẹp mà nhờ có nó “trong cái im
lìm bất động sâu thẳm của một hiện tại không trôi đi, trong suốt khôn cùng,
đang chập chờn đâu đó một giấc mộng hư huyền, hội tụ tất cả niềm sung
sướng của con người về một hạnh phúc có thật ở cõi đời này” [42, tr33].
Giọng điệu trân trọng, thán phục mê say là nét chung thường gặp
trong những khúc đoạn miêu tả nhan sắc, vẻ đẹp nhục cảm, phồn thực của
người phụ nữ. Logic tâm trạng thông thường nhiều khi đã phải nhường chỗ
Luận văn Thạc sĩ - 55 - Đỗ Thanh Hương

cho cơn say mê mị vì choáng ngợp trước vẻ đẹp “tòa thiên nhiên”: “Út Sâm
vừa nhô nửa thân mình lên cao, như nữ thủy thần trong ánh chiều nạm vàng,
phô bầy toàn bộ bầu ngực tròn đầy căng nở nuột nà của đàn bà đang ở
trong thời điểm cực kì hoan lạc” ( Lênh đênh sông nước miền Tây) [44,
tr58]. “Suối tóc đen nhánh chảy sau lưng. Cả phần ngực trần trụi mênh
mông với hai bầu vú mụp mạp nhuầy nhuậy cùng hai núm vú đỏ hồng cong
vểnh căng tràn sinh lực của chị in trong làn gương sáng, tạo nên một hình
dạng đặc thù, vừa hiện thực vừa hư ảo lạ lùng”. ( Khách trọ) [44, tr104].
Viết về những phận hồng nhan đa truân, văn Ma Văn Kháng không
thể thiếu đi giọng điệu xót xa thương cảm cho những mảnh đời phận bạc.
Những suy tưởng ngậm ngùi và lòng xót thương mà Biên dành cho cô gái
trẻ, cũng là tiếng lòng day dứt của nhà văn: “Lênh đênh trên một sông suy
tưởng không đáy, Biên có cảm giác đã buột ra khỏi tay một cái gì đó vô
cùng hệ trọng và quý giá, quý giá hơn tất cả, kể cả các danh hiệu, những
phù du vô nghĩa. Cuộc sống tưởng là dung dị mà có biết bao ngóc ngách ẩn
khuất những hung bạo bất ngờ khủng khiếp quá, và con người sao mà yếu
đuối khốn khổ thế”. (Lũ tiểu mãn ngập bờ) [44, tr141].
Những đoạn trữ tình ngoại đề như trên rất phổ biến trong truyện ngắn
Ma Văn Kháng. Dường như nó chính là cái phần còn lắng lại sau mỗi câu
chuyện, mỗi cảnh huống và cuộc đời. Nó dồn nén bao suy tư sâu lắng của
nhà văn. Nó nhân rộng và nối dài niềm xúc động, từ người nghệ sĩ thấm tràn
sang bạn đọc trong mối rung cảm và đồng cảm lặng lẽ, sâu xa.
Với nhân vật chính chủ yếu là những người thuộc tầng lớp trí thức,
vốn học thức sâu rộng và một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, giàu tình thương,
người ta còn bắt gặp ở truyện ngắn Ma Văn Kháng giọng điệu triết lý, suy
tư, tranh biện. Giọng điệu ấy đặc biệt trở nên hữu dụng khi nhà văn cần bày
tỏ những suy nghĩ, chiêm nghiệm về cuộc đời, về con người, khi đứng trước
Luận văn Thạc sĩ - 56 - Đỗ Thanh Hương

những hiện tượng phức tạp gợi nhiều suy tư: “Chao ôi! Cuộc sống thường
nhật giản dị, đơn điệu là vậy, chứ có gì là phiêu lưu mạo hiểm đâu mà sao
lại lắm kịch tính như vậy hả trời! Đơn giản làm sao cái việc hứng nước mà
như gieo cả số phận mình vào đó, mà như thế cả kiếp người khổ ải, vật vờ ở
đó”( Thoạt kì thủy là nước) [44, tr41]
Nỗi day dứt của Đoan khi khám phá sự thật về người phụ nữ với tờ
bạc 500 000đồng gần như tiếng kêu thảng thốt, xót xa : “Nhưng mà chẳng lẽ
đó lại là sự thật? Chẳng lẽ cái đẹp cần được nâng niu trân trọng lại nhận
phải sự chà đạp phũ phàng. Chẳng lẽ cuộc đời này lại ẩn chứa nhiều tai họa
đến thế, lại thiếu hoản sự bảo trợ an toàn đến thế!” [44, tr169]
Có thể nói, giọng điệu chia sẻ, xót xa, thương cảm, mới là cung đàn
chủ đạo trong chuyện ngắn Ma Văn Kháng. Bên cạnh đó, giọng điệu hài
hước châm biếm được sử dụng một cách linh hoạt, phù hợp với từng cảnh
huống và đối tượng nhân vật, đã góp phần quan trọng trong việc thể hiện
hình tượng tác giả và chuyển tải tư tưởng, chủ đề tác phẩm.
Giọng điệu hài hước phát huy tác dụng trong việc mô tả những cảnh
huống chứa đựng yếu tố mâu thuẫn, những nghịch cảnh, éo le hoặc những
chân dung khác lạ, kệch cỡm, gây cười.
Cảnh xếp hàng rồng rắn đợi lấy nước trong khoảng sân chật chội của
khu chung cư (Thoạt kì thủy là nước) là một cảnh huống vừa đáng ái ngại
vừa lắm phen tức cười! Ngần ấy con người chen chúc trong chờ đợi mòn
mỏi. Họ lấp đi cảm giác bức bối, sốt ruột bằng những câu chuyện phiếm hài
hước, bằng những câu đùa, mẩu chuyện thanh tục, tục thanh: “Tôi đố các
ông các bà, bộ phận quan trọn nhất trong con người ta là cái gì? Tay?
Chân? Mặt? Sai toét.. Haha. Quan trọng nhất là…”[44, tr34]
Hài hước nhìn cảnh “người đàn ông kính cận è cổ, choãng chân gồng
vai đẩy hai thùng nước” để rồi rút ra chân lý: Trong con người ta, tay chân
Luận văn Thạc sĩ - 57 - Đỗ Thanh Hương

tai mắt đều không quan trọng. Quan trọng là…đôi vai” [44, tr34]. Kiểu khái
quát triết lý trào phúng, đậm chất dân gian, kết hợp với giọng kể dân dã,
sảng khoái tạo cho trang văn một giọng điệu hài hước nhẹ nhàng.
Cũng là hài hước, nhưng cảnh “đối đầu” giữa đại tá Bân với ông
tướng Xùng lại nghiêng về màu sắc châm biếm. Cái cười sảng khoái bật ra
khi chứng kiến sự thay đổi từ chỗ khúm núm sợ sệt lúc ban đầu đến thái độ
giận dữ quyết liệt, quyết không đầu hàng của ông Tổ trưởng dân phố. “Ông
Bân cũng đứng phắt lên, nghiến răng gầm ghè: Ông Sùng, ông đã nói tục thì
tôi cũng nói theo. Ông là tướng bị về hưu vì tội tham ô. Ông là tướng đi ỉa.
Các cụ xưa có câu “Tướng mất sĩ như đĩ mất váy. Sĩ ở đây có thể hiểu là sĩ
diện, là danh dự, ông có hiểu không” [44, tr152- 153]. Một ông tổ trưởng
dân phố bé mọn mà dám chửi vỗ mặt tướng Xùng như thế, thử hỏi bạn đọc
không hả hê, thích thú được sao!
Giọng văn hài hước ấy còn tiếp tục phát huy hiệu quả trong việc dựng
lên những bức chân dung kệch cỡm, đáng cười. Hình dạng, tính cách của
nhân vật Trư ( Thử thách cuối cùng) chính là một ví dụ sinh động: “Trư là
tay ăn chơi có hạng. Khèn hay. Sáo giỏi. Bắn súng tài. Ở vùng xa này những
Trư đâu có là anh ngố. Trư có bằng A tiếng Anh. Trư biết nhảy Cha Cha
Cha và thích điệu Híp Hốp. Trư thích giao du. Đội mũ rộng vành, đeo kính
râm, bụng giắt điện thoại di động, lưng gài dao găm vỏ khảm bạc, Trư nhưu
cao bồi miền Tây viễn xứ nước Hoa Kỳ khi rập rình trên mình ngưa” [44,
tr247]
Tương tự như thế, không đợi đến khi xem bức tranh vẽ theo đặt hàng
của nữ họa sĩ Huê (Nữ họa sĩ vẽ chân dung), người ta đã phải bật cười vì sự
đối lập hài hước trên gương mặt người đàn ông hàng xóm, ngoài sáu mươi
tên Choan. “ Tráng kiện. Sức lực phương cường. Ông là phi công về hưu.
Phong tư có vẻ như là kẻ có oai vọng, cốt cách có nét giống người có tư chất
Luận văn Thạc sĩ - 58 - Đỗ Thanh Hương

thanh kỳ xuất tục. Nhưng gương mặt tròn phính và hai con mắt thô lố - một
gương mặt giới họa sĩ cho là nó trẻ con cho đến già đã phản lại ấn tượng
ban đầu từ ông. Hơn nữa, khuôn miệng rộng như mồm cá trê và cái hàm
bạnh cóc hạ ông xuống hạng người cực kì dung phàm” [44, tr22].
Từ những hành động phàm tục, đến những lời tán tỉnh thô thiển, từ
việc ông Choan bị “Bốp đớp sơ sơ thế mà chảy máu thật. Ông phải đi tiêm
phòng dại ba tuần liền” đến lúc “Trước khi đi, ông sang nhà Huê chửi con
chó một hồi dài”, rồi lại quay sang ngọt nhạt với nữ chủ nhân, tất cả những
sự kiện ấy đều được kể lại với một giọng văn tưng tửng, như cười cợt, như
giễu nhại. Cái cười vạch trần bản chất nhân vật, cái cười thể hiện thái độ,
cách nhìn của hình tượng tác giả.
Kết hợp linh hoạt giữa giọng điệu hài hước mỉa mai, giễu nhại, với
giọng điệu trữ tình, xót xa thương cảm, giọng điệu triết lý, tranh biện, suy tư,
đã tạo nên sự cuốn hút và chất duyên riêng cho những trang viết của Ma Văn
Kháng, nhất là ở những truyện ngắn sáng tác ở giai đoạn trở về sau.
2.3. Sự ùa vào ngôn ngữ của đời sống thường nhật:
Văn học là tác phẩm nghệ thuật bằng ngôn từ. Không sai khi khẳng
định rằng, ngôn ngữ chính là yếu tố đầu tiên của văn học. Do đó, ngôn ngữ
văn học luôn được coi như một trong những đối tượng quan trọng của ngành
lý luận văn học. Nghiên cứu bất cứ giai đoạn, thể loại, trào lưu, hiện tượng,
tác giả, tác phẩm văn học nào, cũng phải chú ý đến yếu tố ngôn ngữ. Đặc
biệt, ở cấp độ tác giả văn học, cần thấy rằng việc tổ chức và lựa chọn ngôn
ngữ trong tác phẩm là một trong những đặc điểm và tiêu chí quan trọng làm
nên phong cách nghệ thuật của một người nghệ sĩ. Tìm hiểu đặc điểm ngôn
ngữ trong truyện ngắn Ma Văn Kháng, có thể thấy nổi bật lên đặc điểm là sự
ùa vào ngôn ngữ đời sống thường ngày.
Luận văn Thạc sĩ - 59 - Đỗ Thanh Hương

Việc sử dụng và lựa chọn ngôn ngữ tổ chức nên thế giới nghệ thuật
trong tác phẩm luôn có mối quan hệ chặt chẽ với đối tượng mà nhà văn miêu
tả và phản ánh. Truyện ngắn Ma Văn Kháng lại là câu chuyện về cuộc sống
và những con người đời thường. Vì vậy, như một lẽ tự nhiên, hệ thống ngôn
ngữ xây dựng thế giới nghệ thuật trong tác phẩm cũng chính là vốn ngôn
ngữ đời sống mà những con người đời thường – hệ thống nhân vật của Ma
Văn Kháng – sử dụng.
Gần gũi, giản dị và chân thực đúng như lời ăn tiếng nói hàng ngày là
đặc điểm ngôn ngữ hội thoại trong truyện ngắn Ma Văn Kháng. Người ta có
thể nghe thấy câu quát con trong bất cứ gia đình nào, đúng như Thoa quát
mắng thằng con trai lười hỏng, mải chơi:
- Hoàng! Mày đi đâu, giờ mới về?
- Hoàng! Tao còn dậy được mày nữa không? Hả? ( Khách trọ)
Trên cơ sở vốn ngôn ngữ chung của nhân dân, với mỗi đối tượng cá
biệt, Ma Văn Kháng lại sử dụng một hệ thống ngôn từ riêng phù hợp. Là
những kẻ đầu đường xó chợ, ngôn ngữ của Thiệu, Lâm, Môn không thiếu
tiếng lóng và những lời tục tĩu:
- Tôi đố đứa nào dám sờ đến cái nhà này đấy!
- A, chú dám thách bọn đầu gấu.. [44, tr74]
-…
- Việc đ. Gì đến bà mà lắm mồm thế! Rõ điếc đít! [44, tr74]
- Đố thằng nào con nào động đến nhà cửa, đồ đạc nhà tôi đấy. Vớ
vẩn tôi đấm cho bỏ mẹ chứ đùa[44, tr74]. ( Trốn nợ)
Vốn ngôn ngữ ấy cũng thay đổi cho phù hợp với vùng miền. Đây là
đoạn đối thoại của những con người lao động trên vùng sông nước miên
Tây, dày đặc phương ngữ và lối nói ví von:
Luận văn Thạc sĩ - 60 - Đỗ Thanh Hương

- Kiến, ngồi xuống đây, mầy. Cái ly đâu? Đưa anh Tư khai cuộc
nào. Lẹ lên! [44, tr47]
- Ôi dà, Hà Tiên. Đất đai, con người, tiếng nói vùng đó lạ thấy mồ.
Một lần, tui ở đó hai tuần, bao một em bản địa, ăn bánh trả tiền
sòng phẳng, đối xử rất chu đáo mà sau nó chưởi mình. Nè, nó
chưởi : “Cà đui mè ngẩy, chờ moong múc anh”. Đố mấy chú biết
là có nghĩa chi? Chèn đét ơi! Tui là người tỉnh bên mà nghe cũng
không hiểu hết chi hết trọi. Hóa ra là: Mẹ mầy, nhớ cái mặt tao
nhé! [44, tr51]
Sử dụng lớp từ ngữ bình dân thông dụng, các truyện ngắn thời kì sau
của Ma Văn Kháng, xét về mặt ngôn ngữ, hoàn toàn không có khoảng cách
với đời sống thường nhật của con người. Chính sự gần gũi ấy đã góp xóa đi
khoảng cách giữa đời thực và tác phẩm, khiến cho mỗi truyện ngắn càng trở
nên chân thực, sống động như chính những câu chuyện ngoài đời sống. Sự
bề bộn của thực tại đời sống, cũng qua ngôn ngữ, tràn vào trong những trang
văn, mang theo cả hơi thở và thứ nhựa sống mới mẻ của chất liệu hiện thực.
Với việc sử dụng linh hoạt và hiệu quả vốn ngôn ngữ đời sống ấy, Ma Văn
Kháng càng tỏ rõ vị trí là một cây bút viết về cuộc sống đời thường và
những con người, số phận đời thường, một trong những cây bút thế sự đi đầu
trong công cuộc đổi mới nền văn học hiện đại Việt Nam.
2.4. Thể tài mới truyện ngắn – tiểu luận:
Tập truyện ngắn Trốn nợ được Ma Văn Kháng cho xuất bản vào năm
2007, như một chứng minh cho bút lực dồi dào và nguồn sáng tạo vẫn chưa
bao giờ với cạn của nhà văn đã hơn 70 tuổi đời, hơn 50 tuổi nghề…Với hơn
mười tám truyện ngắn, Ma Văn Kháng không chỉ tiếp tục khẳng định sự
thành công ở thể loại truyện ngắn hiện đại, mà theo như cách nhận định của
Luận văn Thạc sĩ - 61 - Đỗ Thanh Hương

hai nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thiện và Lã Nguyên, ông còn dần định
hình phong cách ở một thể tài mới : Truyện ngắn- tiểu luận.
Tác giả Đoàn Minh Tâm, trong bài viết Sự độc đáo của thể tài
truyện ngắn – tiểu luận Ma Văn Kháng” đã đưa ra định nghĩa sơ lược:
Truyện ngắn- tiểu luận là kiểu truyện mà ở đó “ Ma Văn Kháng bằng cách
này hay cách khác đều in đậm những tư tưởng – nghệ thuật, nghĩ suy của
ông về một phương diện nào đó trong muôn mặt cuộc đời phồn tạp. Khi ông
để nhân vật phát ngôn trực tiếp, khi trong vai trò người kể chuyện ông xen
vào triết luật, đôi lúc ông lại để nghĩ suy của mình ẩn chìm trong cách bài
trí, dựng truyện” [63, tr83].
Chúng tôi đồng tình với quan điểm của những nhà nghiên cứu, đã đề
xuất việc định danh một thể tài mới: truyện ngắn – tiểu luận như một “đặc
sản” riêng của văn xuôi Ma Văn Kháng.
Theo cách hiểu của chúng tôi, điểm then chốt khu biệt thể tài này với
những sáng tác truyện ngắn khác loại, chính là ở tính triết luận đậm đặc mà
tác giả đã dồn nén trong dung lượng truyện ngắn. Giọng điệu triết luận, suy
tư, tranh biện, những đoạn văn trữ tình ngoại đề ( những đặc điểm chúng tôi
đã phân tích làm rõ trong mục 2.2. Hình tượng tác giả với giọng điệu hài
hước và xót xa, thương cảm) có thể xem như những biểu hiện trực tiếp, dấu
hiệu gắn liền với sự xác lập thể tài truyện ngắn – tiểu luận. Những luận điểm
trong mục 2.1. Sự thay đổi trong phạm vi đề tài, chủ đề tác phẩm sẽ là cơ sở
để chúng tôi xác định những “luận đề” lớn mà tác giả Ma Văn Kháng đã
trình bày trong mười tám truyện ngắn tập Trốn nợ
Nhìn một cách khái quát, có thể điểm ra một số luận đề lớn của tập
Trốn nợ như sau: Luận đề con người bé mọn giữa dòng đời; Luận đề Con
người bản năng; Luận đề Cái đẹp bị chà đạp; Luận đề Tình yêu (Bi kịch tình
yêu và Vẻ đẹp, sức mạnh tình yêu) ; Luận đề Nghệ thuật – Giá trị bị đe dọa
Luận văn Thạc sĩ - 62 - Đỗ Thanh Hương

trước thế lực đồng tiền; Luận đề Những thói tật tầm thường và con người bị
tha hóa.
Trên thực tế, việc phân chia ra các luận điểm như trên không đồng
nghĩa với phân nhóm rạch ròi từng tác phẩm. Sẽ có trường hợp một tác
phẩm bao chứa nhiều luận đề khác nhau. Có thể lấy Lũ tiểu mãn ngập bờ
và Trốn nợ như hai trong rất nhiều ví dụ tiêu biểu.
Gói gọn tác phẩm trong khoảng thời gian ngắn ngủi không đến một
ngày, Lũ tiểu mãn ngập bờ vẫn là một truyện ngắn giàu sức hàm chứa. Câu
chuyện là bi kịch của một người đàn bà bị phụ bạc. Anh chồng nghệ sĩ của
My trót phải lòng một cô người mẫu trên Hà Nội nên “vợ mới trong nhà, vợ
cũ ra sân” ( Luận đề bi kịch tình yêu). Tác phẩm cũng còn là tiếng lòng thổn
thức của người người đàn bà với nỗi khổ nhục mấy người hay biết: “Mình
thì ở nhà gìn vàng giữ ngọc cho nó, nhịn thèm cả năm cả tháng vì nó. Chỉ
chờ nó về để dành cho nó, thôi thì nó tha hồ vần vò, vầy vọc, ngấu nghiến
sao cũng chiều. Nhưng mà nó thì được mới nới cũ, có thèm ngó ngàng gì
đến mình. Ôi giời ôi, cái lúc ấy mới bẽ bàng ê chề làm sao” [44, tr 137]
(Luận đề con người bản năng)
Hai lần trong tác phẩm, nhà văn để hình ảnh con thuyền xuất hiện
trong suy tưởng của nhân vật Biên. Lần thứ nhất khi cùng My vượt sông,
hình ảnh “Giữa mênh mang hoang vắng của sông nước lúc xâm xẩm tối, con
thuyền mới lộ ra cái thân phận mong manh đơn chiếc yếu đuối của nó” [44,
tr 127] phải chăng đã là những dự cảm xót xa về một kiếp người. Lần thứ
hai, bàng hoàng nhận tin về cái chết bất ngờ, đau đớn của người phụ nữ trẻ,
hình ảnh chiếc thuyền ấy đã trở lại, đầy ám ảnh: “Đứng lặng trong cơn chấn
động tâm thể kinh hoàng, anh nhìn thấy chiếc thuyền nan chiều qua My đã
chở anh sang sông đang bập bềnh cạnh một gốc cam, giờ anh mới nhận ra
chiếc thuyền vượt qua dòng sóng dữ sao mà nhỏ bé, mỏng mảnh và tiều tụy
Luận văn Thạc sĩ - 63 - Đỗ Thanh Hương

thế” [44, tr 140]. Thật vậy, giữa dòng sóng dữ là cuộc đời, thân phận con
người, thân phận những người phụ nữ có khác chi những chiếc thuyền nan
nhỏ bé, mong manh, tiều tụy. Luận đề “Con người bé mọn” đã được phát
biểu một cách đầy xót xa!
Trốn nợ, tác phẩm được chọn làm tên tiêu đề cho cả tập truyện, cũng
là một truyện ngắn bao gói nhiều luận đề sâu sắc. Xây dựng một nhân vật
phụ nữ quyết liệt như Bỉnh, táo tợn, liều lĩnh bằng mọi giá để kiếm tiền
mong đổi đời, nhà văn không chỉ phác lên bức tranh chân thực về những con
người dưới lớp đáy cùng xã hội, nhỏ bé, đáng thương, bất lực trong vòng
luẩn cái đói, cái nghèo “Nghèo khổi bần hàn là cái tội cái nợ, là nỗi đau đớn
của cả kiếp người. Của bao kiếp người! Nghèo khổ, cái nợ tông đồ! Cái
gông xiềng của chúng sinh!” [44, tr 77] (Luận đề con người bé mọn). Ma
Văn Kháng còn gửi gắm vào đó cả những nỗi lo lắng về việc gìn giữ, bảo
toàn nhân tính, những giá trị đẹp đẽ của con người trước vòng xoáy oan
nghiệt ấy: Nghèo khó(…)Cái gông xiềng của chúng sinh! Nhưng để thoát ra
khỏi nó mà vẫn là người lương thiện đâu có dễ dàng gì!” [44, tr 77] ( Luận
đề Con người bị tha hóa).
Không né tránh chủ đề “cấm kị”, với Trốn nợ, Ma Văn Kháng để
nhân vật của mình mạnh mẽ, đầy thách thức và tự tin lên tiếng bảo vệ quyền
được sống thật với con người bản năng. Có gì là tội lỗi, là xấu xa, khi Bỉnh
thừa nhận “Ừ, ừ. Em phải hơi chồng em, em đại dâm với chồng em đấy. Em
là ngời vợ yêu của anh đấy, có phải không, anh Thiệu à” [44, tr 85] (Luận
đề con người bản năng). Không chỉ tình dục được “giải oan” và trân trọng,
tác giả còn dành những dòng văn tâm huyết ca ngợi vẻ đẹp, giá trị và sức
mạnh của tình yêu: “Y khóc như đứa trẻ ngộ ra điều gì oan uổng. Khóc vì
thương mình, vì thương vợ. Vì nhận ra cái trớ trêu của cuộc sống là bây giờ
đây bỗng may mắn vớt vát được chút hạnh phúc lứa đôi trong cái cuộc đời
Luận văn Thạc sĩ - 64 - Đỗ Thanh Hương

khốn nạn này, cái cuộc đời coi con người như một bóng ma, một bản nhâp
sơ sài, một mớ hồ sơ tạp nham này” [44, tr 84]. Tình yêu đã trở thành cứu
cánh, nâng đỡ con người, luận đề Vẻ đẹp và giá trị tình yêu đã được phát
biểu thật thấm thía.
Thay vì mở rộng dung lượng trang viết, Ma Văn Kháng chú trọng đào
sâu vào những vỉa tầng ý nghĩa hàm ẩn. Chính việc đan cài, lồng ghép nhiều
chủ đề, luận đề như trên đã tạo cho tác phẩm nhiều tầng bậc ý nghĩa sâu xa.
Với những ví dụ như trên, ta có thể thấy rằng, rõ ràng tính chất ý
nghĩa, luận đề của truyện ngắn Ma Văn Kháng không chỉ thể hiện thông qua
những đoạn văn trữ tình ngoại đề, những đoạn văn giàu chất suy tưởng, triết
lý (thường là lời của người kể chuyện hàm ẩn – hình tượng tác giả) mà thực
chất, nó nằm sâu ngay trong cấu trúc của tác phẩm, từ cách xây dựng nhân
vật, tình huống đến việc chọn lựa chi tiết, hình ảnh, giọng điệu. Nó là kết
quả của cả một quá trình, từ tư duy, ý đồ nghệ thuật của nhà văn, trải dài
suốt quá trình người nghệ sĩ “thi công”, cấu thành nên tác phẩm.
Chính vì vậy, khi tìm hiểu tính chất luận đề của truyện ngắn Ma Văn
Kháng, phải xem xét một cách tổng thể cả nội dung và nghệ thuật. Các thủ
pháp nghệ thuật, từ xây dựng nhân vật, tình huống, tổ chức kết cấu, cốt
truyện cho đến việc lựa chọn từng hình ảnh, chi tiết đều có ý nghĩa quan
trọng trong việc “hiện thực hóa” những luận đề ý nghĩa mà nhà văn muốn
gửi gắm trong truyện ngắn của mình.
Với cách quan niệm như vậy, chúng tôi cho rằng việc tác giả Đoàn
Minh Tâm chỉ ra kết cấu hai tầng như một thủ pháp quan trọng trong việc
xây dựng truyện ngắn – tiểu luận là thỏa đáng, thuyết phục, nhưng kết cấu
hai tầng đó chỉ là một trong cả một hệ thống phức tạp những thủ pháp nghệ
thuật ở mọi cấp độ tác phẩm ( chi tiết, ngôn ngữ, giọng điệu nhân vật, tình
Luận văn Thạc sĩ - 65 - Đỗ Thanh Hương

huống…) góp phần tạo nên diện mạo và giá trị của thể tài truyện ngắn – tiểu
luận Ma Văn Kháng.
Luận văn Thạc sĩ - 66 - Đỗ Thanh Hương

CHƯƠNG III
ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA MA VĂN KHÁNG

Với tác phẩm đầu tay Phố cụt, Ma Văn Kháng “chạm ngõ” văn
chương bằng truyện ngắn. Hơn 200 truyện ngắn rải đều trong già nửa thế kỉ
cầm bút đủ để khẳng định tên tuổi và vị trí của Ma Văn Kháng với tư cách
một trong những cây bút truyện ngắn tiêu biểu của văn học Việt Nam. Tuy
nhiên, như bất cứ nhà văn chân chính nào, tiểu thuyết mới thật là đích đến
cuối cùng, là nơi gửi gắm tài năng, tâm huyết người nghệ sĩ, là “giấc mơ huy
hoàng” (“Đối thoại với nhà văn Ma Văn Kháng” – “Từ cõi ảo” – Chu Thị
Thơm – Trang 225) của cả một đời văn, đúng như ông đã tâm sự: “Viết văn
nói chung, viết tiểu thuyết nói riêng, chưa bao giờ là dễ cả. Như tôi, một đời
người có thể viết cả trăm cái truyện ngắn, nhưng tiểu thuyết chỉ được vài cái
thôi”. (“Đối thoại với nhà văn Ma Văn Kháng” – “Từ cõi ảo” – Chu Thị
Thơm – Trang 223)
Có thể nói, mỗi cuốn tiểu thuyết ra đời là kết quả của cả một quá trình
lao động nghệ thuật nghiêm túc, vất vả, những khám phá, tìm tòi, sáng tạo
không mệt mỏi của nhà văn. Nó dồn nén và kết tinh những đặc sắc trong tư
tưởng, nghệ thuật tác giả trong từng giai đoạn sáng tác. Ma Văn Kháng cũng
không phải trường hợp ngoại lệ. Những năm trở lại đây, đọc Gặp gỡ ở La
Pan Tẩn, Một mình một ngựa, Bóng đêm , người ta không chỉ có cảm giác
thân quen khi gặp lại một phong cách nghệ thuật tiểu thuyết đã định hình mà
còn thú vị, lạ lẫm với những tìm tòi, đổi mới trong nghệ thuật văn xuôi Ma
Văn Kháng.
Luận văn Thạc sĩ - 67 - Đỗ Thanh Hương

Đặc sắc nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng nói riêng và
trong ba cuốn tiểu thuyết Gặp gỡ ở La Pan Tẩn, Một mình một ngựa, Bóng
đêm thể hiện phong phú ở rất nhiều phương diện. Trong phạm vi luận văn
này, người viết chỉ xin đi sâu trình bày một vài phương diện của nghệ thuật
tự sự , mà theo chúng tôi là những điểm nổi bật, làm nên nét riêng của tiểu
thuyết Ma Văn Kháng thời kì này: Yếu tố kì ảo; Độc thoại nội tâm và dòng
tâm tư; Khuynh hướng triết lý – Tiểu thuyết luận đề; Sự thâm nhập của yếu
tố tự truyện; Nghệ thuật tự sự tổng hợp.
3.1. Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng:
3.1.1. Yếu tố kì ảo trong văn học:
Cái kì ảo là một phạm trù thẩm mỹ trong văn học. Trước khi trở thành
một đối tượng được giới nghiên cứu, phê bình đặc biệt quan tâm như hiện
nay, cái kì ảo đã hiện diện trong hầu hết các nền văn học thế giới ngay từ
những bước đầu sơ khởi. Dù vậy, cho đến nay, quan niệm về cái kì ảo vẫn
còn nhiều điểm chưa thật thống nhất. Những vấn đề tranh luận chủ yếu tập
trung vào quanh việc trả lời câu hỏi: một tác phẩm thỏa mãn những tiêu chí
như thế nào thì được xếp vào dòng văn học kì ảo? Thực tế ấy làm nảy sinh
nhu cầu cần thiết phân biệt rạch ròi những khái niệm dễ gây nhầm lẫn: Cái
kì ảo (fantastic), cái phóng túng hư huyễn thuần túy (fantasy), cái huyền diệu
(marvelous).
Trong bài viết Về khái niệm cái kì ảo và văn học kì ảo trong nghiên
cứu văn học, thạc sĩ Lê Văn Long đã cố gắng phân tách những khái niệm
này, bằng việc đặt chúng trong mối quan hệ đối chiếu, song hành với cái
thực ( reality). Tác giả cho rằng “Cái kì ảo chỉ tồn tại khi đối diện với nó,
người ta luôn có ý thức về một sự đối lập giữa những cái siêu nhiên hư
huyễn với thế giới thực tại”. (Về khái niệm cái kì ảo và văn học kì ảo trong
nghiên cứu văn học - )
Luận văn Thạc sĩ - 68 - Đỗ Thanh Hương

Theo cách quan niệm như trên, sự xuất hiện những yếu tố siêu nhiên
(supernatural), cái không thể xảy ra (impossible) trong truyện cổ tích thần kì
có thể được xem như các yếu tố kì ảo. Xét về bản chất, chúng hoàn toàn
khác với những chi tiết đậm tính màu nhiệm, hoang đường trong những câu
chuyện thần thoại, cổ xưa. Nếu như người sáng tác và người đọc cổ tích đều
ý thức được tính “không có thật” ( unreal) của các chi tiết hoang đường, thì
thần thoại lại được xây dựng với xác tín rằng tất cả những điều hoang đường
được kể đều là sự thật. Điều này xuất phát từ sự mâu thuẫn giữa một bên là
khao khát khám phá, tìm hiểu và chiếm lĩnh hiện thực, giải thích nguồn gốc
thế giới và sự xuất hiện của các hiện tượng tự nhiên, với bên kia trình độ
nhận thức còn ở mức vô cùng sơ giản.
Như vậy, cái “siêu nhiên” chỉ trở thành cái “kỳ ảo” khi người ta ý thức
đặt nó trong mối quan hệ đối lập với cái thực. “Cái thực” và “Cái kì ảo” trở
thành phương tiện nhà văn sử dụng một cách tự giác, có ý thức trong quá
trình tiếp cận, chiếm lĩnh, phản ánh và lý giải hiện thực. Bởi lẽ, hiện thực
cuộc sống vốn nhiều tầng bậc; Bản chất của sự vật, hiện tượng không đồng
nhất với biểu hiện bề mặt. Bằng việc sử dụng, kết hợp “cái thực” và “cái kì
ảo” nhà văn tạo ra khả năng tiếp cận một cách chân xác, đầy đủ nhất toàn bộ
tính hiện thực nhiều tầng bậc của cuộc sống.
3.1.2. Yếu tố kì ảo trong văn xuôi Việt Nam sau 1975:
Thực trạng đời sống xã hội và đời sống văn học Việt Nam những năm
sau 1975 là mảnh đất màu mỡ cho yếu tố kì ảo tiếp tục nảy nở, phát triển.
Điều đó thể hiện rõ qua những sáng tác của một loạt những cây bút văn xuôi
tiêu biểu thời kì này: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Võ
Thị Hảo..
Sau 1975, xã hội Việt Nam chuyển từ thời chiến sang thời bình. Cơ
chế thị trường dần được định hình và ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt đời
Luận văn Thạc sĩ - 69 - Đỗ Thanh Hương

sống xã hội. Hệ thống giá trị cũ đứng trước sự đổi thay như vũ bão của thời
đại, sự va đập tất yếu với những luồng văn hóa, tư tưởng ngoại nhập đã
không còn giữ được địa vị độc tôn, tính duy nhất đúng. Những giá trị và xác
tín, những hiện thực tất yếu của thời đại đã qua khiến người ta hoài nghi.
Đâu là “cái thực”, đâu là chân lý thật sự? Thế giới hiện lên không còn hiển
nhiên như nó vốn có, kho phân biệt rạch ròi ta- địch, thù – bạn, yêu – ghét ,
đúng – sai… Sự hoang mang, mất phương hướng, thậm chí là đổ vỡ niềm tin
trở thành một mẫu số tâm lý chung.
Mặt khác, xã hội càng tiến nhanh về phía hiện đại, con người càng trở
nên cô đơn. Họ quay trở về với đời sống tâm linh, tìm cho mình một điểm
tựa tinh thần, niềm tin trong tôn giáo, trong những siêu hình, kì ảo..
Tính phức tạp của đời sống xã hội và đời sống văn học chính là những
tiền đề quan trọng cho sự bùng nổ của yếu tố kì ảo trong văn học, thứ
phương tiện đặc biệt hữu dụng trong mô tả những hiện thực phong phú, đa
chiều. Hơn bao giờ hết, nhà văn thời kì này càng ý thức sâu sắc hơn tầm
quan trọng của cái kì ảo trong chiếm lĩnh, miêu tả hiện thực:
Phản ánh hiện thực không phải là sự sao chép hiện thực mà là sự sáng tạo
của người nghệ sĩ nhằm tạo ra hiện thực. Cho nên, tính hiện thực của tác phẩm
lúc này nằm ở chỗ nó đã đề cập và giải quyết được những vấn đề gì của thực
tế”… “Hiện thực lúc này không đồng nghĩa với tính có thật, giống như thật, mà
cao hơn thế, nó là “vẻ đẹp huyền thoại của sự tái hiện tự nhiên theo cách nhìn
độc đáo của nhà văn về sự vật” (Đỗ Đức Hiểu, Trần Hữu Tá, Nguyễn Huệ Chi,
Phùng Văn Tửu, Từ điển văn học (bộ mới), NXB Thế giới, 2004 )
3.1.3. Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng ( Gặp gỡ ở La
Pan Tẩn, Một mình một ngựa, Bóng đêm)
Yếu tố kì ảo xuất hiện dưới nhiều biểu hiện phong phú, tham gia vào
hầu hết các khâu quan trọng trong quá trình xây dựng tiểu thuyết Ma Văn
Luận văn Thạc sĩ - 70 - Đỗ Thanh Hương

Kháng, trong đó có thể đến không gian nghệ thuật- thời gian nghệ thuật;
nhân vật; cốt truyện.
a. Yếu tố kì ảo trong kết cấu không gian – thời gian nghệ thuật:
Không gian và thời gian là những phạm trù triết học chỉ sự tồn tại của
thế giới vật chất. Không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại bên ngoài không
gian và thời gian. Sự tồn tại của chúng trong tác phẩm văn học cũng không
nằm ngoài quy luật ấy. Mỗi nhân vật, tình huống, sự kiện, chi tiết văn học
đều được cấu trúc trên nền một khoảng không gian và thời gian xác định.
Tuy nhiên, không gian và thời gian được xác định trong tác phẩm văn học
không đơn thuần là một đại lượng vật lý, một phạm trù triết học, mà còn là
một đơn vị quan trọng trong ý đồ cấu trúc nghệ thuật tác phẩm. Nó trở thành
một phương tiện giúp thể hiện tư tưởng, chủ đề của nhà văn.
Trong Một mình một ngựa, Gặp gỡ ở La Pan Tẩn, Bóng đêm, người
đọc nhiều lần bắt gặp những bối cảnh không gian – thời gian mang đậm màu
sắc kì ảo.
Gặp gỡ ở La Pan Tẩn là câu chuyện cảm động về cuộc đời nhiều
thăng trầm của thầy giáo Thiêm. Câu chuyện gắn liền với vùng đất người
Mèo, với Bãi Đá, với La Pan Tẩn. Đó là nơi Thiêm đã sống những năm
tháng tuổi trẻ đẹp đẽ, với khát vọng lập thân, với giấc mơ mười năm xây
dựng “tòa lâu đài văn hóa”. Là nơi anh gặp và yêu Seo Mùa, tình yêu đẹp đẽ
mà nhiều ngang trái. Nơi ghi khắc những thành quả, những chiến công, cũng
là nơi ngậm ngùi những oan ức cay đắng đời Thiêm. Vùng đất Mèo đã trở
thành bức phông nền chung, là bối cảnh cho toàn bộ câu chuyện. Vùng đất
ấy, dưới ngòi bút Ma Văn Kháng, hiện lên như “xứ lạ” kì ảo, lung linh:
“Xứ này, gió xuân hây hẩy mùi men rượu. Gió hè nồng đậm hương
trà thơm, gió thu mang vị trầm và mùa đông gió dông lên trời, lạnh mùi
Luận văn Thạc sĩ - 71 - Đỗ Thanh Hương

băng tuyết. Xú này thiên nhiên nguyên vẹn hình con sắc khởi thủy cùng
những tình cảm ban sơ của đồng loại quấn quýt nhau” [40, tr504]
Màu sắc kì ảo của vùng đất hiện diện trong sắc vẻ trầm tĩnh, cô độc,
sự vĩnh hằng như ngưng đọng tĩnh tại muôn đời, không có chiều kích hiện
tại, quá khứ lẫn tương lai: Nơi đây “là bảo tàng lưu giữ tập tục sinh hoạt,
đời sống vật chất, quan hệ tinh thần đã có cả ngàn năm của bộ tộc. Nơi đây,
dấu tích tổ chức cộng động thị tộc còn đậm đà. Nơi đây ngoại trừ hạt muối,
là trọn vẹn đời sống tự cấp. Nơi đây xa cách hết thảy. Nơi đây không có chữ.
Nơi đây, đời sống tâm linh dồi dào, thời cúng sầm uất đủ các loại ma, lời thề
còn giữ nguyên sự thiêng liêng nguyên thủy”… “ Nơi đây con người chưa bị
lý tính, khôn ngoan chi phối”, “sự sống còn chưa vong thân”..[40, tr504]
Trên cái phông nền chung là xứ Mèo đầy kì ảo ấy, hiện lên hình ảnh
bãi đá La Pan Tẩn, bối cảnh quan trọng, trở đi trở lại rất nhiều lần trong cả
thiên tiểu thuyết. Chính bãi đá sống dậy trong niềm thương nỗi nhớ của anh,
hoan lạc ngỡ ngàng cả một giấc mơ tình ái. Chính bãi đá mà lần đầu nhìn
thấy “đưa mắt xa gần giữa ngổn ngang đá lớn đá nhỏ, đá phiến đá hòn, như
phế tích, di chỉ thời cổ đại” [40, tr501], Thiêm đã choáng ngợp “cảm giác bé
nhỏ” trước trời đất bao la. Bãi đá nơi Thiêm đã gục xuống vì kiệt sức khi
kéo chiếc bánh xe sắt về bản. Nơi anh thức ngủ suốt những đêm trăng hạ
tuần khi Quốc Thanh họp chi bộ Đảng, suy ngẫm về bản thân, cuộc đời và
vũ trụ bao la. Nơi cơn mưa đá oan nghiệt giáng xuống. Nơi chứng nhân đêm
tình yêu giữa Thiêm và Seo Mùa. Nơi vua Mèo gieo chữ cho bản làng. Nơi
tha thiết khúc hòa âm nức nở “Mổng cà! Chi tu sa! Đi nhé! Đừng đứt lòng”
khi Thiêm cay đắng nói lời từ giã. Nơi suốt một đời Thiêm yêu dấu, nhớ
nhung.
Có thể nói, bãi đá Mèo, với tất cả sự kì vĩ, lạ lùng, cô độc của nó, bối
cảnh cho những khúc đoạn quan trọng, lạ lùng, bí ẩn trong cuộc đời Thiêm,
Luận văn Thạc sĩ - 72 - Đỗ Thanh Hương

đã trở thành một không gian – thời gian nghệ thuật đầy sức ám ảnh trong
suốt cả thiên tiểu thuyết.
Không chỉ có tác dụng như tấm phong nền cho diễn biến cốt truyện,
bối cảnh không gian – thời gian đậm màu sắc kì ảo được nhà văn lựa chọn
xây dựng nhiều khi còn trở thành một chi tiết quan trọng, mang ý nghĩa biểu
tượng, thể hiện tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Không gian cái “ngõ hoang”
hun hút, tăm tối trong tiểu thuyết Bóng đêm chính là một trường hợp như
thế!
Lạc vào trong cái ngõ hoang dẫn vào nhà Thuyên, tên tội phạm ghê
rợn, phi nhân tính, kẻ ác độc và nhẫn tâm đến mức không chỉ giết hại mà
còn “xả thịt” một con người, hai chiến sĩ công an Nhâm và Trừng có cảm
giác “như đang rơi xuống một cái giếng sâu, đang đi vào một đường hầm
kín mít” [33, tr24]. Tối tăm, lạnh lẽo, ghê rợn, cái ngõ hoang ấy có khác chi
con đường dẫn xuống âm ti, địa ngục: “Đây là cái ngõ hoang, là con đường
liên thông với cõi giới âm ti địa ngục; từ ngõ hoang này quỷ sứ mang hình
người ngày ngày từ địa phủ đi lên, gia nhập vào thế giới loài người” [ 33,
tr26].
Thiên tiểu thuyết mang tựa đề Bóng đêm. Bóng đêm ngự trị không chỉ
nơi ngõ hoang thông thiên với địa ngục ấy. Bóng đêm còn là màn tăm tối vô
minh. Nơi “xa cách nền văn minh”, “quãng khuyết sử mênh mông”. “Nơi
ngự trị các quy luật rừng rú, vô thường”. Bóng đêm của sự man rợ, của tội
ác. Rõ ràng, “đêm tối” trong tác phẩm này không chỉ đóng vai trò như bối
cảnh không gian – thời gian nghệ thuật mà đã hóa thân thành một biểu tượng
nghệ thuật, một lực lượng vô hình nhưng sống động hiện diện, len lỏi trong
từng ngõ ngách. Nó tồn tại trong thế đối nghịch với ánh sáng, như tội ác đối
nghịch với cái thiện, thiên lương. Nó là đối tượng cần phát hiện, cần thanh
trừng và tiêu diệt. Nó hiện lữu, hóa thân sống động trong những phân thân
Luận văn Thạc sĩ - 73 - Đỗ Thanh Hương

khác nhau, khi là màn đêm tối khi Nhâm và Trừng rượt bắt tội phạm, khi là
bãi tha ma hoang vắng, lạnh lẽo trong đêm đen nơi xử bắn những tên tử tù…
Nhưng có lẽ, phân thân quan trọng nhất của hình tượng bóng đêm ấy, chính
là những tội ác ghê rợn của những tên tội phạm đã mất hết tính người: Bóng
đêm của sự tàn ác, vô lương tâm ẩn khuất trong chính bản thân con người.
Đây là điểm đặc sắc trong việc lựa chọn, tổ chức và sử dụng linh hoạt không
gian – thời gian nghệ thuật của nhà văn.
Sắc thái kì ảo còn xuất hiện trong nhiều bối cảnh không gian – thời
gian khác ở ba cuốn tiểu thuyết, nổi bật là những bối cảnh cho những lễ nghi
mang màu sắc tâm linh, tôn giáo: Đám tang của ông nội Thiêm, lễ hố pẩu
cúng gọi hồn Thiêm khi anh kiệt sức, mê man ở bãi đá ( Gặp gỡ ở La Pan
Tẩn) , lễ gọi vong hồn người chết và đưa nạn nhân xấu số lên chùa ( Bóng
đêm) …
La Pan Tẩn là vùng đất còn lưu giữ nguyên vẹn những tập tục cổ xưa,
nơi “thờ cúng sầm uất các loại ma”. Con người nơi đây chữa bệnh, đuổi tà,
cầu cúng vụ mùa bội thu hay làm tang ma… đều thông qua những lễ nghi
đậm chất tâm linh, kì bí. Để lại những ấn tượng mạnh mẽ với người đọc là
hình ảnh hố pẩu “như lão kỵ sĩ đang trên mình con tuấn mã phóng xuống địa
ngục thực hiện lớp đuổi bắt con ma ác trong buổi cúng cứu vong hồn Thiêm.
Lão kỵ sĩ đang tả xung hữu đột với đủ các loại ma cản đường, quyết xông
vào vào con ma ác để dành lại hồn vía Thiêm đang bị nó giam giữ” [40,
tr521,522]. Con người sống trọn vẹn với niềm tin vào thế giới tâm linh, nơi
có ma ác ma tà, những kẻ hãm hại con người. Và cuộc vật lộn để mưu sinh,
để tồn tại còn là chiến đấu với những thế lực ma tà, những bí ẩn siêu nhiên
để giành giật sự sống.
Ma Văn Kháng mở ra trước mắt người đọc một khoảng vời vợi, đầy bí
ẩn, huyền hoặc, vô thường của đời sống tâm linh. Chết chưa phải là kết thúc.
Luận văn Thạc sĩ - 74 - Đỗ Thanh Hương

Thế giới không chỉ gói gọn trong thực tại hữu hình. Và cuộc sống còn là vô
vàn những linh diệu, huyền bí vượt ra ngoài tầm con người có thể nắm với.
Người chết vẫn có thể trò chuyện với người sống. Như cuộc trò chuyện giữa
người lái xe Ford với thầy giáo Thiêm, giữa Thiêm với ông nội ( Gặp gỡ ở
La Pan Tẩn) , hay như khi Bội hiện hồn về kêu oan trong thân xác người chị
gái ( Bóng đêm)
Chứng kiến cái chết của một con người luôn gợi lên cho người ta nỗi
buồn vợi vợi và sự cảm thương. Nhưng với một cái chết “bất đắc kì tử, thảm
khốc, phi tự nhiên” như của Bội, ấn tượng đối cho người đọc còn là sự ghê
rợn, sợ hãi. Có lẽ cũng vì vậy, nên nếu như đám tang ông nội Thiêm trong
Gặp gỡ ở La Pan Tẩn nghiêng về màu sắc buồn bã, trang nghiêm, thì đám
tang Bội (Bóng đêm) lại đầy ám ảnh day dứt. Cảm giác rợn người gợi lên từ
nỗi mơ hồ về sự hiện diện đâu đây của một linh hồn oan khuất:
“ ngọn gió quẫy lộng khiến những tàu chuối ướt đầm rung soàn soạt
và dựng đứng hết cả dậy; như một linh hồn sống động nào đó vừa thức tỉnh;
trở về”.. [33, tr63]
Tâm thức người Á Đông còn lưu giữ bao câu chuyện rùng rợn về
những án oan, chuyện người chết hiện về báo oán. Người đọc không khỏi
rùng mình trước giấc mơ hằng đêm của người anh trai, kể rằng Bội hiện về
đòi đầu. Có bao nhiêu nỗi bấn loạn, hoảng sợ trong lời phân trần đau đớn
của ông với người em đã khuất: “ Đây là đầu anh, còn đầu em các anh công
an đã tìm thấy rồi, đã an táng tiếp cho em rồi…”[33, tr65].
Mối giao linh giữa kẻ sống, người chết không chỉ có ở tộc người Mèo.
Lễ gọi hồn người đã chết trong đám tang Bội đã bổ sung thêm một bằng
chứng về niềm tin vào sự tồn tại một thế giới hư ảo, một thế giới bên kia lằn
ranh giới sự sống- cái chết, vẫn hằng in đậm trong tâm thức người Á Đông.
Luận văn Thạc sĩ - 75 - Đỗ Thanh Hương

Không gian của buổi lễ rước vong hồn Bội lên chùa hiện lên đầy kì bí,
hư ảo: Tất cả đều như “chập chờn trong ảo giác hoang mê”, “trong tiếng
mõ đều đều buồn tẻ, tiếng kinh tụng những mật ngữ bí hiểm, giữa tiếng
chuông đồng như một dao động nguyên thủy phản hồi lần lần nới rộng
không gian” khiến chính Nhâm “cũng rơi vào trạng thái mê mị, mịt mù”.
[33,tr 65].
Có thể nói, yếu tố kì ảo trong việc lựa chọn, xây dựng không gian –
thời gian nghệ thuật đã hỗ trợ đắc lực trong việc mô tả thế giới như một thực
thể phức diện, đa chiều. Cùng với sự xuất hiện của yếu tố kì ảo, đọc tiểu
thuyết Ma Văn Kháng, người ta thấy hiện lên sống động và phong phú
những mảng màu bí ẩn của đời sống tâm linh, huyền diệu vẫn đang song
hành cùng thế giới con người, thấy nổi lên những góc cạnh khuất lấp của
một cuộc sống còn nhiều “bóng đêm”, với cái xấu, cái ác vẫn đang thường
trực khắp nơi rình rập đe dọa. Một quan niệm mới về hiện thực đã được biểu
hiện sống động ngay từ cách kết cấu không, thời gian.
b) Yếu tố kì ảo trong xây dựng nhân vật:
Yếu tố kì ảo trong xây dựng nhân vật ở tiểu thuyết Ma Văn Kháng
giai đoạn này trước hết thể hiện qua nhóm nhân vật có liên quan trực tiếp
đến đời sống tâm linh. Đó thường là những người có năng lực đặc biệt, có
khả năng giao tiếp với thế giới siêu hình, huyền bí. Cô đồng Hồng ( Một
mình một ngựa), cô đồng Thúy ( Gặp gỡ ở La Pan Tẩn) , người gọi hồn
(Bóng đêm). Họ chính là cầu nối giữa hai thế giới, là thực thể mà ở đó người
sống và người chết, thế giới vô hình và hữu hình thông linh với nhau. Sự tồn
tại của họ là bằng chứng cho sự xác tín về một thế giới bí ẩn, huyền diệu
nằm ngoài hiểu biết của con người.
Cũng được coi như cũng là nhân vật thông linh, nối liền hai thế giới,
nhưng khác với các cô đồng, thầy gọi hồn – những nhân vật chỉ đơn thuần
Luận văn Thạc sĩ - 76 - Đỗ Thanh Hương

giữ chức năng lễ nghi, thực thi những nghi lễ tâm linh- nhân vật hố pẩu
trong Gặp gỡ ở La Pan Tẩn còn được khắc họa như biểu tượng đẹp đẽ của
giá trị tinh thần của con người và miền đất nơi đây. Ở nhân vật này có sự
hòa trộn giữa một vốn sống thực tiễn phong phú, với những niềm tin xác tin
về sự màu nhiệm của thế giới tâm linh bí ẩn. Ông đại diện cho những giá trị
tinh thần đẹp đẽ trong truyền thống, trong vốn văn hóa và tín ngưỡng dân
gian bản địa. Ông đối diện và đón nhận những biến chuyển, đổi thay của
thời đại với một cái nhìn cởi mở nhưng thấu thị, điềm tĩnh. Con người ấy
bình tĩnh, an nhiên để tỉnh táo để nhận ra những hạn chế, sai lầm của một
giai đoạn lịch sử nhiều thăng trầm, biến động.
Yếu tố kì ảo cũng được Ma Văn Kháng sử dụng trong việc khắc họa
nhóm những nhân vật lý tưởng, mang tính biểu tượng. Ngoài hình tượng hố
pẩu, ông nội Thiêm( Gặp gỡ ở La Pan Tẩn), bố Nhâm, ông Tầm ( Bóng
đêm) cũng thuộc về nhóm nhân vật này. Điểm chung giữa họ là vẻ đẹp trong
tư cách đạo đức, trong lý tưởng sống. Họ là những nhân cách, những khí
phách cao đẹp đáng được trân trọng, nể phục. Tính lý tưởng, biểu tượng ở
nhóm nhân vật đẹp đẽ, phi thường này còn thể hiện ở chỗ cuộc đời họ được
miêu tả, được bao bọc trong bầu không khí ít nhiều mang màu sắc kì ảo,
huyền diệu. Cả bố Nhâm và ông nội Thiêm biết trước ngày mất của mình.
Họ hoàn thành những việc còn dang dở, căn dặn con cháu, đón nhận cái chết
trong tâm thế bình thản, an nhiên. Khoảnh khắc nhắm mắt xuôi tay của ông
nội Thiêm đồng thời với sự động lòng, tiếc thương không chỉ của con người
mà cả muôn loài, cỏ cây: “Đúng lúc ấy, cây mít già bung nở các cánh hoa
dày, tỏa hương thơm nức khắp vườn. Những cây có hoa đều theo gương cây
mít già. Các cây không hoa phút chốc lá đều bạc phếch. Gia súc trong
chuồng bỗng cất tiếng kêu thảm thiết”. [40, 717].
Luận văn Thạc sĩ - 77 - Đỗ Thanh Hương

Màu sắc kì ảo trong hình tượng nhân vật ông Tầm (Bóng đêm) , người
chiến sĩ công an dạn dày kinh nghiệm lại chủ yếu thể hiện qua những cảm
giác, linh giác nhạy bén, khả năng thông ngộ với một thế lực siêu thường
nào đó ngoài tầm hiểu biết của con người. Những linh giác, cảm giác, sự
mách bảo của đấng bí ẩn, của vô thức, thông linh là góp phần quan trọng,
giúp những chiến sĩ công an như ông Tầm, như Trừng, như Nhâm phá án
thành công.
Không có những khả năng siêu phàm, hình tượng ông Quyết Định
(Một mình một ngựa) dường như vẫn được bao bọc bởi bầu không khí như
huyền thoại. Cảm giác ấy có lẽ xuất phát từ tư thế hiên ngang Một mình một
ngựa lao vào vòng vây quân thù, bản lĩnh và tư thế hiên ngang của một con
người hội tụ đầy đủ những phẩm chất anh hùng thời đại. Và đúng như Ma
Văn Kháng đã thừa nhận trong những trang văn của mình: “Những bậc quân
tử, bậc anh hùng thường gây cho người ta ảo giác”.
Một biểu hiện quan trọng khác của yếu tố kì ảo trong xây dựng nhân
vật tiểu thuyết Ma Văn Kháng là việc đặc biệt tô đậm đời sống tinh thần,
tâm linh của con người. Sự xuất hiện của giấc mơ, của vô thức, dòng ý thức
hay những cảm giác, linh giác đã làm phong phú hơn quan niệm con người
đa chiều, phức diện mà văn học Việt Nam thời kì đổi mới nói chung, tiểu
thuyết Ma Văn Kháng nói riêng tập trung khắc họa.
Giấc mơ giữ một vị trí quan trọng trong diễn biến cốt truyện Gặp gỡ ở
La Pan Tẩn. Chủ thể những giấc mơ ấy hầu hết chính là nhân vật thầy giáo
Thiêm. Trong tác phẩm, giấc mơ xuất hiện như nguồn chia sẻ, an ủi động
viên và nâng đỡ nhân vật vượt qua khó khăn. Người lái xe Ford chia sẻ, tri
ân với những nỗ lực và thành quả lớn lao mà Thiêm đã gây dựng ở vùng đất
La Pan Tẩn, động viên, cổ vũ anh; ông nội luôn hiện về như một nguồn cổ
vũ, động lực tinh thần giúp Thiêm đứng vững trong cuộc sống, ông cũng là
Luận văn Thạc sĩ - 78 - Đỗ Thanh Hương

người trong giấc mơ, với phép lạ của mình chữa lành những vết thương cho
Thiêm- cả vết thương thể xác và những chấn thương tinh thần.
Không chỉ vậy, Những giấc mơ đến với Thiêm còn ẩn chứa yếu tố dự
báo, tiên tri. Người lái xe Ford trong đêm mưa đá kì lạ trăm năm chưa từng
thấy ở vùng đá Mèo La Pan Tẩn đã dự báo trước về “cảnh biến” sắp diễn ra.
Một lần nữa sự huyền nhiệm, khó nắm bắt của cuộc sống lại được nhấn
mạnh. Cuộc sống là những định đề đã sắp sẵn dưới bàn tay một thế lực vô
hình.
Cùng với sự phát triển của khoa học, đã có nhiều công trình nghiên
cứu về các giấc mơ: nguồn gốc, nguyên nhân, cơ chế hình thành. Theo đó,
có thể thấy giấc mơ là một hoạt động đặc biệt của não bộ. Khi xem xét lý
giải giấc mơ, Freud đặc biệt quan tâm đến những ẩn ức tình dục bị đè nén
trong bề sâu tiềm thức, vốn chịu sự chế ngự của quy chuẩn đạo đức xã hội
hoặc những kiềm chế do hoàn cảnh cá nhân. Ông cho rằng giấc mơ chính là
một hình thức giải phóng những ẩn ức bị đè nén ấy. Xét trên một phương
diện nào đó, lý thuyết của Freud có thể áp dụng để lý giải sự xuất hiện của
giấc mơ tình ái đậm màu sắc nhục cảm của Thiêm.
“Giấc mộng mơ vừa xảy ra chính là cái ước ao sở cầu bị dồn nén
được đột ngột phô bày bằng chuỗi biểu tượng trá hình qua một dãy xuyên
tạc ngọt ngào. Ngọt ngào quá là mộng mơ, ôi, nỗi ham muốn thầm kín mãnh
liệt ở ngoài mọi chế ngự và trói buộc của Thiêm” [40, tr484].
Giấc mơ là sự giải phóng của bản năng bị kìm nén, là sự hoạt động và
thăng hoa của vùng vô thức dưới tầng sâu bản ngã con người. Chính vì vậy,
dù “ngẩn ngơ”, “không hiểu sao trong sự kiện này, hình ảnh tạo lập được
lại giống như một sản phẩm hư cấu dị thường, một kết hợp đầu Ngô mình Sở
giữa những tình tiết đã trải nghiệm và những sự việc chưa hề xảy ra. Nghĩa
là hết sức chắp vá, tùy tiện, chúng hoàn toàn không có cái trật tự thông
Luận văn Thạc sĩ - 79 - Đỗ Thanh Hương

thường”, Thiêm cũng phải thừa nhận giấc mơ ấy “hợp với tâm cảm và thú vị
vô cùng”[40, tr484].
Nghĩa là, giấc mơ kia là huyễn hoặc, huyền ảo và hoàn toàn không có
thật, nhưng lại đã diễn tả trọn vẹn những khao khát bản năng bị kìm giữ
trong nội tâm sâu kín nhân vật. Cái kì ảo phát huy sức mạnh trong việc khám
phá, mô tả những ẩn ức sâu kín và đời sống tinh thần vô cùng tinh diệu,
phức tạp của con người. Với yếu tố kì ảo, Ma Văn Kháng có thêm một công
cụ đắc lực để biểu đạt quan niệm sống động về con người đa chiều, con
người của đời sống bản năng.
c. Yếu tố kì ảo trong xây dựng tình tiết, cốt truyện:
Tình tiết và cốt truyện là bộ xương kết cấu của tác phẩm tự sự. Yếu tố
kì ảo chi phối và tham gia, xuất hiện ở cả cấp độ này của tiểu thuyết Ma
Văn Kháng.
Gặp gỡ La Pan Tẩn xoay quanh câu chuyện về cuộc đời nhiều thăng
trầm của thầy giáo Thiêm. Tiểu thuyết mở ra với giấc mơ tình ái, dồn nén
những khao khát ẩn ức và cả nỗi niềm thương nhớ của nhân vật hướng về
vùng đất Mèo, và nhất là bãi đá La Pan Tẩn. Câu chuyện khép lại cũng bằng
một giấc mơ. Giấc mơ hóa giải mọi oan khiên, chữa lành mọi vết thương thể
xác lẫn tâm hồn. Cuộc đời là vòng định mệnh. Sự kiện này là điềm báo, là sự
chuẩn bị cho chuỗi sự kiện tiếp theo. Cuộc đời Thiêm linh ứng đúng như
những gì cô đồng Thúy và ông nội từng đoán định. Kết cục số phận từ phút
đầu tiên con người sinh ra đã được an bài.
Ở hiền gặp lành, người tốt sẽ được cứu giúp, triết lý của truyện cổ tích
được hiện thực hóa sinh động trong cuốn tiểu thuyết hiện đại này. Thiêm và
An sẽ gặp lại nhau, mắt và vết thương trên mặt Thiêm được chữa lành; anh
trở lại La Pan Tẩn tiếp tục giấc mơ xây dựng “tòa lâu đài” văn hóa. Kết thúc
có hậu khiến tiểu thuyết phảng phất dáng dấp của một câu chuyện cổ tích kì
Luận văn Thạc sĩ - 80 - Đỗ Thanh Hương

ảo. Yếu tố kì ảo – sự linh ứng của số phận – trở thành trục chính quy định
chiều hướng phát triển và kết cục của diễn biến cốt truyện.
Cái chết của Trừng (Bóng đêm) cũng là sự linh ứng lời tiên báo của
ông nội ngay từ khi Trừng còn là một thiếu niên. Con người sinh ra thực sự
đã có số mệnh. Hầu hết các nhân vật trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng được
xây dựng theo quan điểm này. Số phận ấy có thể được gọi rõ qua những lời
tiên tri, trực tiếp, hoặc hé lộ qua những điềm báo ở ngoại hình, tướng mạo.
có thể thấy rằng Ma Văn Kháng là nhà văn đặc biệt coi trọng việc miêu tả
ngoại hình còn người theo mối quan hệ giữa tướng mạo – tính cách – số
phận. Ngoại hình đã trở thành yếu tố được cài trước từ những phần đầu tiên
của diễn biến cốt truyện, báo trước kết cục số phận đã được an bài.
Bàn về vị trí của yếu tố kì ảo trong diễn biến cốt truyện Ma Văn
Kháng, cần đặc biệt chú ý đến tiểu thuyết Bóng đêm. Viết về đề tài an ninh,
hình sự, tác phẩm xoay quanh việc điều tra, phá án của các chiến sĩ công an,
mà đại diện cụ thể ở đây là ông Tầm, Trừng và Nhâm. Diễn biến cốt truyện
ở tác phẩm này có quan hệ chặt chẽ đến quá trình giải quyết vụ án, từng
bước tiến trong quá trình điều tra. Đáng nói ở chỗ, thúc đẩy bước việc tìm ra
manh mối, giải quyết vụ án, ngoài nghiệp vụ chuyên môn, vốn kinh nghiệm,
Ma Văn Kháng đặc biệt nhấn mạnh đến sự tham gia mách bảo của những
cảm giác, trực giác, linh giác. Chúng có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình
diễn biến cốt truyện.
Ngay lần đầu tiên đặt chân tới cái ngõ hoang dẫn vào nhà Thuyên,
bóng đêm mù mịt khiến Nhâm và Trừng “vừa kinh sợ vừa linh cảm thấy có
cái gì đó rất đáng ngờ”. Linh cảm cũng theo suốt quá trình hai chiến sĩ phá
vụ án đó, cũng như hầu hết các vụ án mà ông Tầm kể lại trong tập hồi kí của
mình. Không dưới năm lần trong tác phẩm, Ma Văn Kháng để cho các nhân
vật của mình trực tiếp phát biểu, hoặc ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm về sự kì lạ
Luận văn Thạc sĩ - 81 - Đỗ Thanh Hương

và vai trò của những cảm giác, linh giác ấy. Ông Tầm khuyên Nhâm và
Trừng “Rất nên coi trọng cảm giác, linh giác”; “ Tôi vẫn muốn nhấn mạnh
một lần nữa, chúng ta làm công việc này phải bằng tất cả sức mạnh tinh
thần, kể cả sức mạnh tâm linh có sẵn ở trong mình và tiếp nhận từ bên
ngoài”. [33, tr115].
Nhưng linh cảm ấy không hoàn toàn là phi thường, siêu nhiên, không
thể giải thích, mà là kết quả của vốn sống, vốn kinh nghiệm tích lũy: “Tổng
số kinh nghiệm thu được, tập trung lại ở nơi gọi là tàng thức, và chính đây
là nơi góp phần tạo ra linh cảm, linh giác, sức mạnh bí ẩn của con người”
[33, tr ] .
Cái kì ảo hiện hình trong cốt truyện, đôi khi còn dưới dạng thức
những chi tiết nghệ thuật đậm chất kì ảo: Đó là bánh xe sắt chiếc xe Ford mà
Thiêm đã theo một sự điều khiển của một sức mạnh siêu nhiên nào đó phát
hiện thấy và mang về La Pan Tẩn; nó trở thành cái kẻng khai tâm vỡ lòng,
trở thành linh vật của dân làng, quân phỉ phản loạn sau này cũng không thể,
không dám phá hủy. Đó là câu chuyện vua Mèo làm mất chữ mà ông chủ
tịch xã kể cho đám trẻ trong buổi tiễn chúng đi học. Câu chuyện kì ảo, hoang
đường nhưng lại gần gũi và cảm động bởi chứa đựng trọn vẹn cả niềm kiêu
hãnh tự hào truyền thống văn hóa; nỗi ngậm ngùi về thua kém, lạc hậu, thất
học và khao khát đổi thay; sự khích lệ, niềm hi vọng gửi gắm vào những
đứa trẻ rồi đây sẽ gánh vác vận mệnh tương lai của bản làng.
Tóm lại, yếu tố kì ảo biểu hiện sinh động ở mọi cấp độ nghệ thuật
trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng, từ không gian – thời gian nghệ thuật, nhân
vật đến tình tiết, cốt truyện. Chúng góp phần quan trọng trong việc thể hiện
tư tưởng chủ đề của tác phẩm, trong đó đặc biệt nhấn mạnh quan niệm mới
về con người và thế giới hết sức phức tạp, đa chiều với nhiều tầng bậc,
phương diện phong phú.
Luận văn Thạc sĩ - 82 - Đỗ Thanh Hương

3.2. Độc thoại nội tâm và dòng ý thức:


Quan niệm con người là một phức thể đa diện, trong đó đặc biệt chú
trọng tới đời sống tinh thần, tình cảm, những trạng thái vô thức, tiềm thức
con người ( luận điểm này chúng tôi đã bàn tới trong mục 3.1. Yếu tố kì ảo
trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng và sẽ tiếp tục trở lại trong mục 3.3. Khuynh
hướng triết lý và tiểu thuyết luận đề) , tiểu thuyết Ma Văn Kháng như một lẽ
tự nhiên tìm đến với độc thoại nội tâm và dòng ý thức như một kĩ thuật trần
thuật hết sức hữu dụng.
Chúng tôi cho rằng, tiểu thuyết Ma Văn Kháng chưa thực sự được xếp
vào kiểu tiểu thuyết dòng ý thức, mà ở đây, dòng ý thức, dòng tâm trạng mới
chỉ được sử dụng như một kĩ thuật trần thuật, hỗ trợ nhà văn trong việc khắc
họa, xây dựng nhân vật, tổ chức kết cấu cốt truyện, truyền tải những tầng
bậc nội dung tư tưởng, chủ đề.
Độc thoại nội tâm gắn với việc di chuyển điểm nhìn trần thuật vào bên
trong nhân vật. Chỉ với điểm nhìn nội cảm, tức là để nhân vật tự do bộc lộ
những suy nghĩ, quan điểm, cách nhìn nhận, đánh giá của mình về sự vật,
hiện tượng, mới có thể xuất hiện những khúc đoạn độc thoại nội tâm.
Có thể lấy Một mình một ngựa là một ví dụ. Truyện được kể từ ngôi
thứ ba, số ít. Nhưng, điểm tựa để từ đó nhìn ra thế giới, cảm xúc và cảm
nghĩ, lại chủ yếu đặt vào nhân vật Toàn. Vì lẽ đó, trong tác phẩm, những
khúc đoạn độc thoại nội tâm hầu hết là của nhân vật Toàn. Tuy nhiên, trong
Một mình một ngựa, Ma Văn Kháng sử dụng kĩ thuật di chuyển điểm nhìn
rất thường xuyên và hiệu quả. Nhân vật ông Ké Lanh, Ông Văn Hiến, ông
Gia, ông Đồng, ông Quyết Định… lần lượt thay nhau được chọn để đặt điểm
nhìn nội cảm. Mỗi lần thay đổi điểm nhìn như vậy, người đọc lại có cơ hội
Luận văn Thạc sĩ - 83 - Đỗ Thanh Hương

khám phá những tầng sâu ý thức trong nội tâm nhân vật. Ứng với mỗi điểm
nhìn nội cảm, lại có những chủ thể độc thoại nội tâm khác nhau.
Tuy nhiên, nhìn chung, độc thoại nội tâm dường như là thế mạnh, là
sở trường riêng của những cá tính phức tạp, nhạy cảm, hay trăn trở. Họ là
những sinh thể có tư duy, những người có tri thức, có văn hóa, có vốn sống,
có cái nhìn tinh nhạy trước cuộc đời, những người có tài, có bản lĩnh, có
tâm. Thiêm ( Gặp gỡ ở La Pan Tẩn), Toàn ( Một mình một ngựa), Nhâm
(Bóng đêm) là những nhân vật như vậy.
Bằng việc khai thác hiệu quả của thủ pháp độc thoại nội tâm, Ma Văn
Kháng đã hé mở những tầng bậc sâu kín trong đời sống nội tâm phong phú,
phức diệu của con người, làm hoàn chỉnh quan niệm về con người đa diện.

3.3. Khuynh hướng triết lý – Tiểu thuyết luận đề:


Tác phẩm văn học không bao giờ là sự mô phỏng, sao chép đơn thuần
thực thế giới thực tại. Hình ảnh cuộc sống bước vào văn học đã được lọc qua
lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ, trở thành phương tiện để truyền tại tư
tưởng, tình cảm nhà văn. Do vậy, tính ý hướng, tính tư tưởng là một thuộc
tính tất yếu của văn chương. Tuy nhiên, cũng cần phân biệt tính tư tưởng-
với tư cách một thuộc tính tất yếu, với những giá trị sâu sắc, lớn lao trong
nội dung, tư tưởng chủ đề của một tác phẩm – yếu tố giúp đánh giá năng lực,
tầm vóc của một nhà văn. Độ đậm nhạt, mức độ phân bố những quan điểm,
cách nhìn nhận, quan niệm, suy tư trăn trở của nhà văn trải trên trang giấy
giúp người đọc cảm nhận được mức độ, chiều sâu của tính triết lý gửi gắm
trong tác phẩm.
Với tiểu thuyết Ma Văn Kháng, đây chính là đặc điểm nổi bật của
nghệ thuật tự sự. Nếu như với truyện ngắn, ông sáng tạo ra một thể tài riêng:
truyện ngắn – tiểu luận, thì với tiểu thuyết, tính chất triết lý đậm đặc là tiền
Luận văn Thạc sĩ - 84 - Đỗ Thanh Hương

đề phát triển thể tài tiểu thuyết luận đề. Khảo sát ba tiểu thuyết Một mình
một ngựa, Gặp gỡ ở La Pan Tẩn, Bóng đêm, người viết muốn hệ thống hóa
lại những nội dung triết lý mà nhà văn đã trình bày, gửi gắm. Một cách khái
quát, có thể nhận ra những phạm trù nội dung chính: quan niệm triết lý về
con người; quan niệm triết lý về lịch sử và cách mạng, quan niệm về thơ ca
nghệ thuật; quan niệm triết lý về cuộc sống.
3.3.1 Quan niệm triết lý về con người trong tiểu thuyết Ma Văn
Kháng.
“Con người còn là cả một vùng cần tìm hiểu, khám phá” (Bóng đêm)
Quan niệm coi con người là đối tượng chiếm lĩnh, lý giải, khám phá như trên
đã chi phối hầu hết những sáng tác Ma Văn Kháng trong giai đoạn này. Ông
quan tâm tìm hiểu, xem xét con người trong mối quan hệ “tam thể”: thiên –
địa – nhân, “ tự nhiên – con người – xã hội, coi đó là một khối, một quá
trình biện chứng để con người ra đời với sự xuất hiện lần lần của ý thức,
tinh thần” (Bóng đêm).
Phát hiện lớn nhất của văn học thời kì đổi mới nói chung, và văn xuôi
Ma Văn Kháng nói riêng, chính là việc khắc họa sinh động và chân thực
hình tượng con người như một khối đa diện, đánh dấu sự hiện diện của con
người đa chiều trong bức tranh văn học.
Cái hình ảnh con người “lẫn lộn người xấu – kẻ tốt, rồng phượng –
rắn rết, thiên thần- ác quỷ” không chỉ xuất hiện trong truyện ngắn Bức
tranh ( Nguyễn Minh Châu). Đọc tiểu thuyết Ma Văn Kháng, nhất là ba tiểu
thuyết Một mình một ngựa, Gặp gỡ ở La Pan Tẩn, Bóng đêm, người đọc
một lần nữa được chiêm bái những hình tượng người cụ thể, đa diện, sống
động, với không chỉ vẻ đẹp, sự cao quý mà cả những thói tật, những góc
cạnh xấu xa, tàn ác, nhỏ mọn của loài người.
Luận văn Thạc sĩ - 85 - Đỗ Thanh Hương

Niềm tin yêu, trân trọng con người được Ma Văn Kháng dồn nén
trong hình tượng những nhân vật cao cả, đẹp đẽ: Hố pẩu, ông nội Thiêm,
Thiêm ( Gặp gỡ ở La Pan Tẩn); Ông Quyết Định, ông Đồng, Toàn ( Một
mình một ngựa), Ông Tầm, Nhâm, Trừng (Bóng đêm). Họ là những người
sống có lý tưởng đẹp đẽ, là những nhân cách cao thượng và cả một khối ý
chí kiên cường.
Thiêm, người giáo viên trẻ, tạm biệt quê hương để lên với vùng đá
Mèo La Pan Tẩn. Anh như “hạt mầm đã gieo nằm lại trong đất”, gắn bó hơn
mười lăm năm với mảnh đất hoang sơ, đói nghèo, lạc hậu này. Anh mang cái
chữ về cho dân làng. Anh đánh kẻng mỗi sớm mai thức dậy những gì tốt
đẹp, thiên lương, trong sáng. Thiêm đã trở thành ân nhân nhân, thành “dở
sấu”- ông tiên, của cả tộc người Mèo. Cuộc đời Thiêm là cả một ngọn đuốc
luôn cháy rực lý tưởng, sự kiên cường và đức nhẫn nại, hi sinh.
Cũng đẹp đậm chất lý tưởng với tư cách người mở đường, nhưng nếu
Thiêm mở đường cho cái chữ, cho nền văn minh, thì ông Quyết Định, trong
tư thế hiên ngang lẫm liệt “một mình một ngựa” lại là biểu tượng sáng ngời
của những người chiến sĩ cách mạng thời kì đầu, mở đường cho cả một kỉ
nguyên bảo vệđộc lập, tự do, cho thắng lợi hai cuộc kháng chiến thần thánh
của dân tộc. Ông Quyết Định hội tụ tất cả vẻ đẹp, sức mạnh, khí phách của
cả một thế hệ, một thời đại, một trang sử oai hùng.
Ông Tầm, Nhâm, Trừng ( Bóng đêm) là một kiểu nhân vật lý tưởng
khác: Những người chiến đấu âm thầm không mệt mỏi với “Bóng đêm” của
sự vô minh, của tội ác vẫn ngày đêm rình rập, đe dọa sự sống, sự bình yên
của con người. Cuộc chiến của họ cũng có tiếng súng, có đổ máu, có mất
mát và hi sinh. Họ dâng đời không chỉ bầu nhiệt huyết, tuổi trẻ, tài năng, trí
lực của mình, mà nhiều khi là cả sinh mạng, sự sống. Không có bản lĩnh
kiên cường, lý tưởng cao đẹp và tình yêu sâu sắc dành cho cuộc sống và con
Luận văn Thạc sĩ - 86 - Đỗ Thanh Hương

người, những chiến sĩ công an ấy không thể có đủ sức mạnh tạo nên những
kì tích như vậy.
Xây dựng những nhân vật lý tưởng, hội tụ đầy đủ vẻ đẹp phẩm chất,
nhân cách, đạo đức, Ma Văn Kháng thể hiện một niềm tin yêu tha thiết vào
những giá trị tốt đẹp của con người. Đặc biệt hơn, vẻ đẹp ấy không chỉ ngời
sáng ở những nhân vật thuần khiết lý tưởng, mà còn lấp lánh trong những
con người bình dị, đời thường. Họ không phải những anh hùng, những
khuôn hình lý tưởng, nhưng vẫn được được phát hiện, ngợi ca ở những điểm
sáng trong tài năng, nhân cách.
Tuy nhiên, nếu chỉ ca ngợi một chiều phẩm chất đạo đức, vẻ đẹp lý
tưởng của con người, tác phẩm sẽ rơi vào lối mòn đơn điệu như văn học thời
kì trước đổi mới. Bước tiến mới trong tư duy thẩm mỹ, trong quan niệm
nghệ thuật của nhà văn, chính là việc chỉ ra những khiếm khuyết, bất toàn
của con người. Con người không còn được coi như một thực thể toàn bích,
đồng nhất, hoặc hoàn toàn lý tưởng đẹp đẽ, hoặc hoàn toàn xấu xa, bỉ ổi, bất
lương. Mỗi nhân vật là một tính cách đa diện, là sự hòa trộn của nhiều đối
nghịch, mâu thuẫn.
Sau Toàn, ông Quyết Định, ông Đồng, Văn Hiến cũng là một nhân vật
có sức nặng trong tiểu thuyết Một mình một ngựa. Dù mang bản chất là
một “tay cố nông láu cá”, hạn chế không chối cãi về trình độ học vấn và tầm
nhận thức, nhưng vẫn cần thừa nhận rằng Văn Hiến có “cái miệng ăn nói sắc
sảo, cái đầu chịu khó tư duy và có tác phong quyết đoán”. Những điểm
mạnh ấy trong tính cách con người Văn Hiến, phải chăng chính là lý do
khiến ông được lựa chọn là người thay thế ông Quyết Định sau này.
Năm con ngựa kéo cỗ xe ban thường vụ, như cách nói hình ảnh của
ông Đồng, hiện lên mỗi người một vẻ đầy tì vết: Duy có ông Quyết Định có
thể coi là tuấn mã, nhưng “còn rất hay nể nang, ngại va chạm, thấy đúng
Luận văn Thạc sĩ - 87 - Đỗ Thanh Hương

không dám bênh, thấy sai không dám chống lại…Ngựa Gia thì nóng nảy,
bộp chộp. Ngựa Văn Hiến thì láu cá, tinh ma, hăng xằng vô lối. Ngựa Ké
Lanh thì già nua lẩm cẩm. Ngựa Đình thì lờ ngờ, ngô ngọng món tập đọc
còn chưa sạch nước cản…”. [46, tr 72].
Bản thân những người giúp việc trong Văn phòng O Tròn, cũng được
khắc họa như những thực thể hòa trộn đầy đủ cả ưu và khuyết điểm: Ông
Căn có quá rình, đã kinh qua lãnh đạo cấp Ty, nhưng bị kỷ luật, bất mãn, lại
buông tuồng, bộp chộp, thiếu hẳn nề nếp khoa học trong công việc… Ông
Bình thì chín chắn, căn cơ, tốt bụng đấy, nhưng hiền lành, rụt rè quá… Kiến
thì dám đốp chát đương đầu. Nhưng Kiến tính tình tếu táo, bỗ bã, giao cho
trách nhiệm phó văn phòng, trông nom việc hậu cần, nhà bếp là quá sức
rồi…” [46, tr276].
Con người là vậy, không có ai là hoàn hảo, toàn bích. Ma Văn Kháng
không ngần ngại chỉ ra những thói tật trong bản chất con người, kể cả ở
những cán bộ lãnh đạo, những hạt nhân cốt cán của bộ máy lãnh đạo cầm
quyền. Đọc tiểu thuyết Ma Văn Kháng, người ta nhận ra con người, trong
quá trình vươn lên không ngừng để hoàn thiện bản thân mình, vẫn còn rơi
rớt lại biết bao thói tật, xấu xa. Đó là sự nhỏ nhen, ích kỉ, đố kỵ lẫn nhau
giữa những người trong cùng một tập thể, giữa những đồng nghiệp, đồng
chí. Văn Hiến luôn đố kỵ với vị thế của ông Quyết Định ( Một mình một
ngựa). Ông Khoái, vì thói tiểu nhân đố kị ghen ghét, vì những lợi ích cá
nhân mà tìm cách buộc ông Tầm về hưu sớm, thuyên chuyển công tác của
Trừng, giao cho Nhâm những nhiệm vụ khó khăn nhất hòng hạ uy tín của
anh trong mắt bạn bè đồng nghiệp. Con người ấy không từ mọi thủ đoạn để
tranh đoạt quyền lợi, mưu cầu lợi ích riêng, kể cả việc vu oan cho đồng
nghiệp, khiến Nhâm bị giáng chức với nghi vấn dính lứu đến đường dây
buôn bán thuốc phiện của Thuyên. Trong nội bộ những lãnh đạo cao nhất
Luận văn Thạc sĩ - 88 - Đỗ Thanh Hương

của một tỉnh, một tổ chức, hay thậm chí là của một cơ quan công an – nơi
chiến đấu để bảo vệ sự trong sạch của xã hội, vẫn còn đầy rẫy những thói tật
xấu của con người. Xét cho cùng, con người, đúng như trên thực tế bản thể
của nó, luôn là những khối đa diện, bất toàn. Quan niệm mới ấy về con
người đã hiện hữu sống động trong từng gương mặt thế giới nhân vật phong
phú trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng.
Viết về con người bất toàn, Ma Văn Kháng còn khai thác một phương
diện độc đáo, là tâm lý, tính cách của những tên tội phạm bị loại ra ngoài lề
xã hội: Giết người, cướp của, hãm hiếp, buôn lậu, buôn bán tàng trữ vận
chuyển ma túy...Những tội ác ấy vẫn hiện hữu khắp nơi trong xã hội, là thứ
ung nhọt đe dọa cuộc sống bình an của con người, phần lương thiện, đẹp đẽ,
trong sáng của tính người. Bóng đêm – với thế mạnh và đặc trưng riêng của
một cuốn tiểu thuyết thuộc đề tài an ninh, hình sự - đã cho phép nhà văn
khám phá thêm một góc cạnh phức tạp trong bản chất con người: Những ẩn
ức sâu xa, động cơ phạm tội, phần bản năng thú tính, cơn hoảng loạn, chấn
động tâm thể và những ám ảnh tội phạm… Đây chính là một điểm đóng góp
quan trọng của Ma Văn Kháng trong việc trình bày quan niệm về con người
đa diện của văn học thời kì đổi mới.
Quan niệm con người là một khối đa diện, Ma Văn Kháng còn đặc
biệt quan tâm đến đời sống tinh thần, tâm linh . Ngòi bút nhà văn chạm tới
cả những phần mong manh, bí ẩn, khó nắm bắt nhất: Giấc mơ, những ẩn ức
kìm nén, vô thức, khao khát bản năng. Phần bí ẩn của vô thức con người đã
được người viết bàn đến trong mục 3.1. Yếu tố kì ảo- phần xây dựng nhân
vật và diễn biến cốt truyện, tình tiết, mục 3.2. Độc thoại nội tâm và dòng ý
thức. Ở đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh vị trí của con người bản năng trong
việc xây dựng nhân vật.
Luận văn Thạc sĩ - 89 - Đỗ Thanh Hương

Bấy lâu nay, con người bản năng, tính dục bị ngầm coi như địa hạt
cấm kị của miêu tả văn chương. Văn học thời kì đổi mới đã cởi trói, giải
phóng cho những khát vọng bản thể chính đáng ấy. Con người được nhìn
không chỉ trên bình diện xã hội, đạo đức, mà cần được coi trọng cả những
phần thuộc về cá nhân, bản thể, trong đó có những khát vọng tính dục tự
nhiên. Giấc mơ tình ái của Thiêm mở đầu cuốn tiểu thuyết Gặp gỡ ở La Pan
Tẩn không chỉ sự thăng hoa từ vô thức niềm thương nỗi nhớ hướng về vùng
đất nghĩa tình, mà còn là kết quả của những ẩn ức tình dục bị đè nén trong
bề sâu tiềm thức.
Khát vọng bản năng là một đặc điểm nổi bật trong nhiều nhân vật nữ
của tiểu thuyết Ma Văn Kháng : Yên ( Một mình một ngựa), Thúy ( Gặp gỡ
ở La Pan Tẩn), Quyến (Bóng đêm).
Mối tình vụng trộm của Yên với giáo Cầu bị phát hiện. Nhưng người
phụ nữ ấy không chỉ đáng giận mà còn đáng thương. Những khát khao sôi
nổi, bản năng mãnh liệt luôn đòi hỏi được yêu thương, được thỏa mãn của
Yên trở thành nỗi dày vò khi sống bên cạnh người chồng như ông Quyết
Định “ Anh Quyết Định anh ấy không biết hôn. Chưa bao giờ anh ấy hôn
môi Yên cả”. Trước đây, Yên đến với ông Quyết Định trong niềm say mê,
cảm phục và ngưỡng mộ, bằng một tình yêu thuần phục, dâng hiến; nhưng
kết cục mối tình tài tử - giai nhân ấy lại rơi vào bi kịch, khi Quyết Định
không thể đáp ứng, không thể theo kịp được những khao khát nhục thể của
Yên. Yên là trọn vẹn những bản năng mạnh mẽ nhất. Yên là trọn vẹn đàn bà:
“Nàng luôn hối thúc ông. Nhiều lúc lên con tức hứng, nàng như một
kẻ phát rồ phát dại. Nàng đòi hỏi ông phải đam mê hơn, phải mạnh mẽ hơn.
Những lúc ấy, nàng bắt ông vứt bỏ tất cả mọi ý nghĩ trong đầu, chỉ nhăm
nhăm vào từng thao tác ái ân, vào mỗi bộ phận trên cơ thể nàng. Nàng đòi
đổi thay tư thế, nàng hành động thuần túy là đàn bà với mục tiêu tối thượng
Luận văn Thạc sĩ - 90 - Đỗ Thanh Hương

là thỏa mãn tối đa, là leo tới đỉnh điểm cơn dục lạc này và tiếp theo, cơn dục
lạc khác”. [46, tr234].
Cũng giống như Yên ( Một mình một ngựa), Thúy ( Gặp gỡ ở La
Pan Tẩn), Thúy cũng là một người đàn bà mạnh mẽ với những khao khát
bản năng. Chỉ văn học thời kì đổi mới mới đủ dũng cảm xây dựng hình
tượng những người đàn bà – giống cái sống động như vậy!
3.3.2. Quan niệm về lịch sử, cách mạng:
Mỗi cuốn tiểu thuyết ra đời trong một bối cảnh lịch sử nhất định. Nhà
văn gửi gắm trong tác phẩm của mình không chỉ quan niệm về con người và
cõi nhân sinh, mà còn cả cảm quan thời đại và những suy ngẫm về lịch sử.
Với ba cuốn tiểu thuyết viết ở thời kì sau nay, khoảng lùi cần thiết của lịch
sử cho phép nhà văn nhìn lại những biến động, những thăng trầm đã qua với
một cái nhìn trầm tĩnh mà thấu suốt.
“Phải tôn trọng sự thật”, nhưng “sự thật cũng có dăm bảy đường chứ
đâu chỉ có một’’[40, tr17] . Lời chiêm nghiệm gửi vào câu thoại của nhân
vật Duyễn ( Một mình một ngựa) chính là sự đòi hỏi phải nhìn nhận, đánh
giá lại lịch sử một cách công tâm, tỉnh táo và bao dung. Bởi lẽ “Có lúc nào
lịch sử không rắc rối, không bí ẩn”, “Sai lầm là bình thường. Chỉ có điều là
chớ có giở trò quyền lực bạo tàn và thói trả thù tiền sử. Lịch sử sẽ nhìn nhận
lại tất cả” [46, tr718].
“Cách mạng là cuộc phiêu tán lớn nhất của loài người” (Một mình
một ngựa”. Cuộc chiến đã qua còn lưu danh những chiến công oai hùng,
nhưng lịch sử cũng ngậm ngùi những hạn chế, sai lầm của một thời đại. Đó
là bệnh chủ quan duy ý chí, chống lại quy luật của tự nhiên, của xã hội, dẫm
lên con người cá nhân, quyền lợi cá nhân để máy móc xây dựng một chủ
nghĩa tập thể lý tưởng, bình quân chủ nghĩa: “Xưa, cứ nghĩ, xóa bỏ hết tư
hữu, công hữu hóa tất cả tư liệu sản xuất, hết giai cấp bóc lột là con người
Luận văn Thạc sĩ - 91 - Đỗ Thanh Hương

được giải phóng, là con người sẽ trong sạch, là đẹp đẽ hoàn toàn” [46,
tr167].
Dù cho động cơ, lý tưởng là tốt đẹp “thì cũng phải tính đến một điều:
Mỗi người là bao giờ cũng là mỗi người, mỗi gia đình vẫn là mỗi gia đình,
thiên tính là không thể coi thường, không thể áp đặt. Hơn nữa, làm ăn mà
không tính toán, chỉ vụ hình thức, kết cụ là lương thực không có mà ăn thì
còn gì là tốt đẹp, công bằng” [ 40, tr 664]
Một cuộc cách mạng chân chính, theo Ma Văn Kháng, không được
phép bỏ qua lợi ích cá nhân : “Con người ta, trước hết là một cá thể. Làm gì
thì làm cũng không thể quên điều ấy. Nói rộng ra thì một cuộc cách mạng
càng không thể quên điều ấy, không thể triệt tiêu lợi ý cá nhân được. Vấn đề
của mọi cuộc cách mạng là giải phóng sức sáng tạo của mỗi cá nhân”. [46,
tr99].
Quá đề cao chủ nghĩa tập thể, là điều kiện để không ít người nhân
danh tập thể, đứng lên trên tập thể, dùng quyền lực để áp đặt, để chi huy,
thống trị người khác. Bắt người khác “làm ngựa cho mình cưỡi” như ông
Quốc Thanh (Gặp gỡ ở La Pan Tẩn), bắt cả xã Mèo đào con mương chắc
chắn không thể có nước. Bất chấp quy luật tự nhiên, tình hình thực tiễn,
dùng cái uy tập thể để bắt người dân đồng loạt trồng lúa mỳ, đưa chiếc máy
xúc khổng lồ lên đỉnh dốc cheo leo như ông Văn Hiến ( Một mình một
ngựa). Thất bại là dĩ nhiên. Sai lầm và hạn chế ấy đã được lịch sử nhìn nhận
lại, rút ra bài học thấm thía cho công cuộc đổi mới lao động, đổi mới sản
xuất.
Nhìn lại lịch sử và cách mạng, Ma Văn Kháng không quên nhắc tới
vai trò đặc biệt quan trọng của những người cách mạng xung kích đi đầu.
Ông Quyết Định là biểu tượng kết tinh vẻ đẹp của lịch sử, của thời đại, của
thế hệ. Từ ông tỏa ra một ảo giác mê hoặc của một nhà chính trị, một chiến
Luận văn Thạc sĩ - 92 - Đỗ Thanh Hương

sĩ cách mạng lỗi lạc, ông là hiện thân sống động cho quan niệm về chính trị
mà Ma Văn Kháng đã khẳng định: “Chính trị là thủ đoạn, là quyền biến, là
sự từng trải, là một thái độ khẳng định và khéo léo. Hơn nữa còn là một sự
mê hoặc” [46, tr44].
Mượn lời nhân vật, từ góc nhìn của nhân vật, tác giả kín đáo thể hiện
một cái nhìn chia sẻ và cảm thông với những thiếu sót, hạn chế, sai lầm:
“Mấy tháng qua, sống với mọi người ở môi trường mới, Toàn đã nhận ra
chân dung của lớp người này. Chính trị là cả một công cuộc mò mẫm gian
nan và luôn quá sức với họ. Họ có nhiều nhược điểm. Họ chẳng tốt hơn
những người ở các lĩnh vực khác nhưng cũng chẳng xấu đâu. Và đặt Toàn
vào vị trí của họ, chắc gì Toàn có thể làm nổi như họ”. “Nhọc nhằn quá,
cuộc sống có bao giờ hiện ra ở hình thái hoàn hảo đâu. Mọi người ai cũng
phải đánh vật với chính mình, chả ai sung sướng trọn vẹn cả. Tội nghiệp”.
[46, tr246].Dù vậy, tựu chung, đứng từ hiện tại nhìn lại một thời đại đã qua,
thấm đượm trong những tiểu thuyết Ma Văn Kháng vẫn là một cái nhìn thể
tất, bao dung.
3.3.3. Quan niệm về cuộc sống:
Các nhân vật trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng ít người có cuộc đời
suôn sẻ. Họ luôn phải đấu tranh với khó khăn, thử thách để vượt lên, để
khẳng định mình. Bởi lẽ “Cuộc sống không dễ dàng. Thất bại luôn là bạn
đường. Lực bất tòng tâm, muốn mà không được luôn là tình trạng phổ biến”
[ 33, 252] ; Bất trắc và cạm bẫy luôn thường trực, đe dọa: “..điều hung hiểm
luôn chờ đợi con người sau những bước tiến tới của họ” [40, tr 628].
Cuộc sống bất trắc và khó khăn khôn lường là vậy, nhưng con người
không bao giờ chịu khuất phục và đầu hàng. Sức mạnh bắt nguồn từ niềm hi
vọng, niềm tin: “Con người không bao giờ thôi hướng tới hi vọng và những
Luận văn Thạc sĩ - 93 - Đỗ Thanh Hương

buồn đau của họ lại là một miền đất nuôi nấng vẻ đẹp bất hủ của con
người”.
Quan niệm ấy về cuộc sống không phải chỉ được phát biểu qua những
lời văn theo dạng đúc kết, chiêm nghiệm. Nó hiện hữu một cách sinh động
qua cuộc đời, tính cách của chính những nhân vật, những con người có thật
đang hiện diện, vật lộn để linh tồn giữa cái cuộc sống “không dễ dàng” ấy.
Cuộc đời thầy giáo Thiêm là một chuỗi những thăng trầm, nhiều cay
đắng, nhiều oan khuất: Bị vu oan, ghép tội oan, bị hành hung đến thành
thương tật, bị buộc phải chôn vùi bao lý tưởng, hoài bão đẹp đẽ tuổi trẻ
trong công việc mòn mỏi đánh trống trường…Nhưng vượt lên trên tất cả
những trở lực của hoàn cảnh, Thiêm vẫn sống đúng như những lời ông nội
từng căn dặn: không bao giờ chịu khuất phục, sống là phải có bản lĩnh “đi
trong dấu chân beo”..
Chống lại tội phạm, những thế lực bạo tàn, tăm tối trong xã hội, các
chiến sĩ an ninh như ông Tầm, Trừng, Nhâm cũng chính những người anh
hùng anh hùng bảo vệ sự trong sạch, yên bình của xã hội. Hiểm nguy, thậm
chí là cái chết, không khuất phục được bản lĩnh và ý chí của những người
chiến sĩ quả cảm, kiên cường, những người thấu hiểu triết lý: “Con người
sống trên đời không phải để ra lộc ra hoa mà còn để mang thương tích”
(Bóng đêm)
Như vậy, cùng với quan niệm về cuộc sống đa chiều, phức tạp, còn
tồn tại nhiều cái xấu, cái ác, sự bất công, nhà văn cũng đồng thời trình bày
một quan niệm về cách sống của con người: bản lĩnh kiên cường, ý chí vượt
lên trên mọi trở ngại của hoàn cảnh.
Cuộc sống với mọi chiều kích đa dạng của nó là vô vàn những phạm
trù. Đọc tiểu thuyết Ma Văn Kháng, ta hiểu thêm quan niệm của nhà văn về
nhiều khía cạnh của cuộc sống: Quan niệm về sự sống, cái chết, về sự cô
Luận văn Thạc sĩ - 94 - Đỗ Thanh Hương

đơn của con người, về hạnh phúc và tình yêu. Dẫu không phải dòng mạch
chủ đạo, chỉ là những mệnh đề có tính chất chêm xen, những quan niệm ấy
cũng làm đầy thêm vẻ đẹp triết lý sâu sắc của tác phẩm, mang đến những
phát hiện, trải nghiệm, suy ngẫm thú vị cho bạn đọc.

Với khuynh hướng triết lý đậm đặc, những tiểu thuyết thời kì sau này
của Ma Văn Kháng mang dáng dấp và đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết luận
đề. Mỗi tiểu thuyết là sự biểu hiện sống động, làm rõ cho một luận đề tư
tưởng – nghệ thuật mà nhà văn tâm huyết. Bóng đêm là cuộc chiến đấu
không khoan nhượng của những chiến sĩ công an hình sự, quét sạch bóng
đêm của sự tăm tối, của tội ác, của tệ nạn xã hội để gìn giữ sự trong sạch, an
bình của cuộc sống. Gặp gỡ ở La Pan Tẩn và Một mình một ngựa lấy bối
cảnh là một giai đoạn chưa xa của lịch sử dân tộc, xây dựng những bức kí
họa chân thực và sống động về con người một thời đại, thấm thía những triết
lý và bài học lịch sử sâu sắc. Chính khuynh hướng triết lý ấy đã làm nên một
sức hấp riêng của tiểu thuyết Ma Văn Kháng nói chung, chùm ba tiểu thuyết
Một mình một ngựa, Gặp gỡ ở La Pan Tẩn, Bóng đêm nói riêng.
3.4. Nghệ thuật tự sự tổng hợp:
Năm mươi năm gắn bó với nghề viết, Ma Văn Kháng để lại tên tuổi
và dấu ấn trên văn đàn như một cây bút văn xuôi lực lưỡng, một đời văn cần
mẫn, sáng tạo. Mạch nguồn sáng tạo ấy dường như chưa bao giờ vơi cạn
theo năm tháng. Tiểu thuyết Bóng đêm được công bố thời gian gần đây đã
thêm một bằng chứng sống động cho tài năng, tâm huyết và bút lực dồi dào
của tác giả Một mình một ngựa, Gặp gỡ ở La Pan Tẩn ngày nào.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thiện trong bài viết “Bóng đêm và
nghệ thuật tự sự tổng hợp mới” đã bước đầu chỉ ra một số đặc sắc trong giá
trị nội dung và nghệ thuật của tập tiểu thuyết. Ông cũng là người đề xuất
Luận văn Thạc sĩ - 95 - Đỗ Thanh Hương

khái niệm Nghệ thuật tự sự tổng hợp như một đặc trưng nổi bật của Bóng
đêm, triển khai chủ yếu trên ba phương diện: Nghệ thuật xây dựng nhân vật,
nghệ thuật kể chuyện và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ.
3.4.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
Nhân vật văn học là phương tiện khái quát hiện thực của nhà văn. Tư
tưởng chủ đề của một tác phẩm cũng được thể hiện tập trung qua thế giới
nhân vật văn học. Với Bóng đêm, Ma Văn Kháng xây dựng hai tuyến nhân
vật đối lập: Các chiến sĩ công an hình sự (đại diện là ông Tầm, Nhâm,
Trừng) với bên kia là bọn tội phạm, hung thủ trong những vụ án mạng, cướp
bóc, hãm hiếp… man rợ. Thế giới nhân vật ấy là mô hình phản ánh cuộc
chiến có thật bên ngoài thực tế xã hội, nơi cái thiện và cái ác chưa bao giờ
ngừng đấu tranh, loại trừ lẫn nhau.
Một điểm cần chú ý trong việc khắc họa nhân vật ở Bóng đêm, là việc
nhà văn miêu tả ngoại hình nhân vật như là một biểu hiện gắn liền với tính
cách, bản chất của nhân vật. Ông Tầm, người chiến sĩ quả cảm “gan góc hơn
người”, “ một trí tuệ vững vàng, một tầm nhìn sâu xa và một tấm lòng rộng
mở” được miêu tả bằng một ngoại hình tương xứng: “Lưng tròn, vai rộng,
mặt to, miệng vuông, hai con mắt hiền từ có ánh nhìn âu yếm như mắt voi,
mũi nở, tiếng nói nghiêm chỉnh, đàng hoàng” [33, tr152].
Trong khi đó, bọn tội phạm, những kẻ gây tội ác, hầu hết đều hiện lên
với dáng vẻ kì hình dị tướng. Ngay vẻ bề ngoài đã tố cáo bản chất độc ác
đầy dã tâm. Chân dung tên giết người man rợ Thuyên là một ví dụ: “Một cái
đầu đầy lởm khởm tóc và gồ ghề, méo mó, với một dải trán hẹp bẹp dí, một
cặp lông mày đen nhẫy giao nhau và xoắn ốc. Một khuôn mặt nửa kín nửa
hở với cặp mắt lồi trành ra ba góc, vàng ệch, đỏ lừ tia máu. Một cái sống
mũi vặn vẹo. Một đôi môi rúm ró không che nổi hàm răng nhọn như răng
Luận văn Thạc sĩ - 96 - Đỗ Thanh Hương

chó. Tỏa ra từ gương mặt dị tướng nọ, không gì khác hơn là cảm giác về sự
lại giống, mông muội, biển lận và bất lương”[33, tr 77].
Tuy là tác phẩm thuộc đề tài công an hình sự nhưng Bóng đêm không
đi sâu vào mô tả tình tiết diễn biến phá án, điều tra, những cuộc đối đầu,
giao tranh trực diện trong các vụ án như những tiểu thuyết hình sự thông
thường. Trọng tâm miêu tả của Ma Văn Kháng chính là thế giới tinh thần
phức tạp, bí ẩn của con người: Đối với người chiến sĩ công an, tô đậm đời
sống tình cảm, những mối quan hệ đẹp đẽ như tình đồng nghiệp, tình yêu lứa
đôi, đời sống tâm linh, những yếu tố cảm giác, linh giác trong phá án; Đối
với bọn tội phạm: Tập trung tìm hiểu những căn nguyên sâu xa, động cơ
phạm tội và diễn biến tâm lý khi gây án, khi đối mặt sự trừng trị của pháp
luật.
Tâm hồn những người chiến sĩ công an hình sự tràn ngập những tình
cảm nhân văn trong sáng. Đó là tình yêu, sự cảm phục, ngưỡng mộ mà
Trừng và Nhâm dành cho ông Tầm, người thủ trưởng, người cha tinh thần,
tấm gương sáng mà hai người đồng nghiệp vong niên suốt đời phấn đấu noi
theo. Đó là tình cảm ấm áp, gắn bó keo sơn trong sinh tử có nhau ở Nhâm và
Trừng. Nỗi đau đớn khi người đồng đội ngã xuống. Khoảng trống. Sự tiếc
thương. Nỗi nhớ. Màu hoa cẩm chướng và những câu thơ về màu áo hoa cúc
ngày nào Trừng đọc đều nhức nhối, rưng rưng.
Tình yêu lứa đôi cũng là một khía cạnh trong đời sống tinh thần của
những người chiến sĩ. Khác với tình yêu tận hiến nhưng mù quáng mà người
đàn bà trồng hoa Đà Lạt dành cho tên tội phạm gian ác, tình yêu đôi lứa của
Nhâm, của Trừng được khắc họa với những rung cảm đẹp đẽ, sáng trong.
Tình yêu mới chớm của Trừng và Cúc, tình yêu nhiều cung bậc, nồng nẫu,
tha thiết của Quyến và Nhâm. Đặc biệt là tình yêu của Quyến và Nhâm.
Luận văn Thạc sĩ - 97 - Đỗ Thanh Hương

Hai người gặp và yêu nhau như mối duyên lành sắp đặt của bàn tay
tạo hóa. Bất chấp quá khứ của Quyến, những lời thị phi ngăn trở, Nhâm vẫn
yêu Quyến bằng một tình yêu chân thành. Trên mọi bước đường, khi rong
ruổi trong những hành trình mờ mịt, hiểm nguy, khi đối mặt với những tên
tội phạm gian ác, khi đứng giữa ranh giới sự sống và cái chết, bất cứ khi nào
Quyến cũng hiện lên như một nguồn suối mát lành, một niềm an ủi, một
điểm tựa tinh thần, một sợi dây neo đậu. Trái tim và tình yêu của người phụ
nữ trở thành nơi trú ẩn, nơi Nhâm tìm thấy nghị lực, sức mạnh và niềm tin.
Đời sống tinh thần phong phú của những người chiến sĩ công an còn
được tô đậm ở những linh cảm, linh giác đặc biệt. Nó là những thế lực siêu
thường, xuất hiện trong những hoàn cảnh đặc biệt, có ý nghĩa đặc biệt giúp
họ tìm ra manh mối và từng bước phá án. Có thể kể đến cảm giác rợn người
của Trừng và Nhâm khi lần đầu tiên đặt chân tới ngõ hoang – cái ngõ thông
thiên với âm ty địa ngục nhà Thuyên, cảm giác về màu sắc kì lạ của cỏ cây
tại ngôi nhà nhuốm máu tội ác, hình ảnh chú chim sẻ dẫn đường, đàn ong
báo hiệu sự có mặt của tên tội phạm trong ngôi nhà người phụ nữ trồng hoa
Đà Lạt… Là một thế lực, một sức mạnh siêu thường giúp Nhâm tránh được
những lưỡi dao hiểm ác của tên tội phạm…Là thứ cảm giác đặc biệt quan
trọng mách bảo đầu mối phá án mà ông Tầm luôn căn dặn Trừng và Nhâm
phải đặc biệt coi trọng, tin theo.
Với bọn tội phạm, đời sống tinh thần được quan tâm khắc họa chủ yếu
ở động cơ gây án, căn nguyên sâu xa của tội ác. Tên tội phạm chuyên rạch
mặt trẻ con, gieo rắc nỗi kinh hoàng cho người dân khắp thành phố, hóa ra
lại sa vào con đường phạm tội vì một lý do hết sức bất ngờ. Lí nhí, cúi gằm
mặt tại phòng hỏi cung, nó thừa nhận: Vì, cháu ức! Ức trước sự bất công khi
cái thằng đầu têu đua xe máy, đốt xe công an, đâm chết người lại được tha
bổng, trong khi thằng bạn vô tội của nó lại phải chịu tội. Người ta vỡ lẽ ra
Luận văn Thạc sĩ - 98 - Đỗ Thanh Hương

cái thực tế oan nghiệt: Xã hội ngày một phát triển hiện đại, nhưng “số người
giật lùi vào nghèo khổ không bớt đi và lòng căm phẫn của họ trước các hành
vi làm giàu bất chính của những kẻ có chức có quyền đã có lúc trở thành
những vụ trả thù manh động. Bất công đã và đang trở thành cội nguồn của
tội ác”.
Với trường hợp của Thuyên, tên giết người man rợ. Tội ác ngày hôm
nay của hắn có lẽ xuất phát căn nguyên sâu xa từ những ẩn ức sâu kín trong
tuổi thơ. Kí ức kinh hoàng về người cha- tên lái xe khát máu đã chẹt chết
hàng trăm con chó dưới bánh xe mình, kẻ đâm chết người mà tàn nhẫn dửng
dưng như không. Ám ảnh về công việc man rợ, đẫm máu- giết mổ lợn- của
mẹ và vợ. Đúng như ông Tầm đã nhận định “Tiếp xúc nhiều với cảnh giết
chóc man rợ, kể cả trong chiến tranh, những cảm xúc nhân tính sẽ trơ mòn
đi. Tội ác về một phương diện nào đó chính là sự phóng đại những động tác
hàng ngày đó thôi”[33, tr 122, 123].
3.4.2. Nghệ thuật kể chuyện :
Bóng đêm, cũng giống như hầu hết các tiểu thuyết khác của Ma Văn
Kháng, được kể từ ngôi thứ 3: người kể chuyện toàn tri. Vị thế của người
biết hết, thấy tất cho phép tác giả miêu tả, trần thuật, dẫn dắt câu chuyện một
cách linh hoạt, tự do. Với ngôi kể ấy, nhà văn dễ dàng tham gia phân tích, lý
giải, đánh giá nhân vật, tình huống, sự kiện từ cái nhìn khách quan, lồng
ghép những quan niệm, những đoạn trữ tình ngoại đề đậm tính triết lý. Đây
chính là một trong những tiền đề tạo nên màu sắc, đặc trưng riêng của Bóng
đêm như một tiểu thuyết luận đề.
Tuy nhiên, ngôi kể toàn tri không phải là ngôi kể độc tôn duy nhất
trong tác phẩm. Nhà văn thường xuyên sử dụng những kỹ thuật di chuyển
điểm nhìn, đặt câu chuyện dưới góc nhìn của bản thân các nhân vật. Điểm
nhìn nội cảm, đặt vào nhân vật như trên mang cho phép người đọc đi sâu
Luận văn Thạc sĩ - 99 - Đỗ Thanh Hương

khám phá thế giới tâm hồn, những diễn biến phức tạp trong chiều sâu tâm lý,
tiềm thức.
Buổi hỏi cung tên tội phạm giết người là cuộc giằng co, đấu trí giữa
Nhâm và Thuyên. Diễn biến tâm lý, những suy nghĩ, phán đoán của Nhâm
được bộc lộ rất chân thực của dòng độc thoại nội tâm: “Nhâm chợt thấy
người rỗng rễnh trống không và uể oải lạ lùng. Anh đã tóm được tên đại ác
rồi. Chắc chắn là thế…”, những cảm giác mơ hồ, nỗi lo lắng về cuộc sống
mất ý nghĩa, đang cùn mòn dần đi cùng hiện hình cụ thể trong những dòng
tâm tư ấy: “Cảm giác mình đang kém cỏi, cùn mòn đi đã có lúc như lúc này
đang chế ngự anh; vì sao vậy, vì chẳng lẽ cái công việc tưởng là li kỳ, lắt
léo, có thể là môi trường thử thách trí thông minh, tài xét đoán, có khả năng
lôi cuốn hàng triệu người vào cuộc thách đố, hình như chỉ mang hình dạng
một lược đồ đơn giản? Vì chẳng lẽ ở đây chỉ có sự vận hành của phép tính
quy tắc tam xuất đơn. Ở đây chỉ có hiện thực trần trụi, ở đây chỉ có sự giản
lược và thật là như thế thì thật là đáng buồn lắm sao?” [33, tr93,94].
Để nhân vật tự bộc lộ mình qua chính những suy nghĩ, độc thoại nội
tâm, dòng ý thức như trên là một đặc điểm quan trọng trong xây dựng nhân
vật ở tiểu thuyết Ma Văn Kháng.
Bóng đêm được kể theo một cốt truyện thống nhất: Xuyên suốt cả
cuốn tiểu thuyết là hai vụ án lớn : Vụ án giết người chặt đầu và đường dây
buôn bán vận chuyển ma túy của Thuyên. Thú vị ở chỗ, trong quá trình triển
khai câu chuyện theo trục chính đó, nhà văn thường xuyên đan cài nhiều
mẩu chuyện, nhiều vụ án nhỏ. Bảy vụ án trong tập hồi kí của ông Tầm
(Chương mười bày) , những vụ án nhỏ lẻ mà Nhâm và Trừng Tham gia, có
tác dụng như những lực li tâm, tạm thời phân tán sự chú ý của độc giả. Có
lúc người đọc có cảm giác trong khoảnh khắc, thấy mình như rơi vào một
không gian khác, một bối cảnh khác, một thế giới khác, để rồi sau đó, như
Luận văn Thạc sĩ - 100 - Đỗ Thanh Hương

chịu sự chi phối của một lực hướng tâm đặc biệt, lại bị hút về cái cốt truyện
trung tâm. Chính kiểu kết cấu truyện trong truyện và lối kể chuyện, lúc như
lơi lỏng, lúc lại dồn dập căng thẳng với diễn biến nghẹt thở của hai vụ án cốt
yếu, đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho cuốn tiểu thuyết ít nhiều mang màu
sắc trinh thám này.
3.4.3. Ngôn ngữ:
Nhận định về đặc sắc trong trong ngôn ngữ nghệ thuật của tiểu thuyết
Bóng đêm, nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thiện đã viết : “ Xét về mặt ngôn
ngữ tác phẩm, Bóng đêm bộc lộ tài năng bậc thầy của Ma Văn Kháng, trong
dụng ngữ miêu tả thiên nhiên và môi trường bao quanh con người, những
rung động tế vi trong đời sống tình cảm sâu kín; cái mơ hồ bảng lảng, bất
định của tâm linh, trực giác; niềm hân hoan của những giây phút thăng hoa
thiên khải khi Thiên – Địa – Nhân giao cảm hòa thành một khối gắn kết”
[76].
Vẻ đẹp của thiên nhiên trong khoảnh khắc giao thời cuối hạ đầu thu
được cảm nhận qua tâm hồn Nhâm thật trong sáng, tinh khiết, đẹp mơ màng:
“Dưới những tán cây cổ thụ tỏa hương u nhã, là con đường nhựa mảnh mai
như một suối tóc điểm mấy phiến lá vàng khô, chạy giữa hai bờ tường hoa,
bên trên đặt những chậu hoa cây cảnh, và những mảnh vườn hoa nho nhỏ
bên cạnh cây sung già ngả mình soi bóng lên mặt hồ mùa này nước trong
lặng như gương” [33, tr187]..
Mỗi vùng đất Nhâm đặt chân qua cũng lưu dấu lại trong ký ức anh
những bức họa sống động sắc vẻ mây trời. Đó là vẻ kỳ thú của vùng “Đồng
bằng sông Cửu Long mênh mông nước tràn… Đất đai phẳng lì, vừa thân
mật vừa mông quạnh, bí mật. Con chim bói cá in hình tận chân trời lênh
láng một sắc vàng vàng xanh xanh cỏ năm già và màu lá tràm trên đất ngập
mặn. Kệnh rạch thẳng như mực thợ mộc…” [33, tr172].
Luận văn Thạc sĩ - 101 - Đỗ Thanh Hương

Chính những bức tranh thiên nhiên ấy là chất thơ tô điểm, làm dịu lại
nhịp độ căng thẳng, bỏng gắt của những điều tra, phá án, làm bừng sáng màn
đêm vô minh tăm tối của tội ác, dã man. Chúng là những “quãng nghỉ” đặc
biệt, mà Ma Văn Kháng đã khéo léo sắp bày, một không gian nghệ thuật đặc
biệt của cuốn tiểu thuyết.
Trong thế giới nhân vật của Bóng đêm hiện lên đông đúc đủ những
hạng người. Bao nhiêu nhân vật là bằng đấy kiểu loại ngôn ngữ. Mật ngữ,
tiếng lóng của giới tội phạm, giang hồ, ngôn ngữ đường chợ của những
người lao động, thổ ngữ, từ địa phương… tất cả kết hợp với nhau tạo nên
một bức tranh ngôn ngữ đầy sống động.
Ngôn ngữ cũng còn là một phạm trù mang tính cá nhân sâu sắc. Cùng
là những chiến sĩ công an hình sự, sát cánh bên nhau trong cùng một chiến
tuyến, nhưng ngôn ngữ của ông Tầm, của Trừng, của Nhâm vẫn mang
những sắc thái khác nhau. Là con đẻ của đồng ruộng, lăn lộn với cuộc sống
thực tiễn, ngôn ngữ của Trừng có cái thô ráp, bỗ bã của hiện thực cuộc sống.
Trong khi đó, tâm hồn văn chương, vốn kiến thức sách vở khiến ngôn ngữ
mà Nhâm sự dụng cũng có phần nho nhã, hiền hòa hơn hẳn. Ngôn ngữ của
Nhâm đặc biệt lộ ra ở những khúc đoạn độc thoại nội tâm, nhưng suy ngẫm,
trăn trở của một tâm hồn nhạy cảm. Đứng ở một tầm cao hơn hẳn về vốn
kinh nghiệm, sự hiểu biết, từng trải và am hiểu cuộc đời, ngôn ngữ của ông
Tầm mang một đặc trưng riêng. Ngay cả khi ông cải trang thành một người
khác, cố tình đổi tiếng cho khác lạ hơn, Nhâm vẫn nhận ra vì “lẫn làm sao
được cái kiểu nói của ông. Ngôn ngữ có phần bản nguyên, có phần công
dụng trong kiểu nói của ông. Ông bao giờ cũng vậy, vừa sâu tới phần gốc
rễ, vừa vươn tới sự ích dụng. Ông thâm trầm sâu xa hơn người”[33, tr190,
191].
Luận văn Thạc sĩ - 102 - Đỗ Thanh Hương

Như vậy, với những đặc trưng riêng trong nghệ thuật xây dựng nhân
vật, nghệ thuật kể chuyện và ngôn ngữ, với Bóng đêm, Ma Văn Kháng đã
thành công trong việc “thực hiện một bước tổng hợp mới của nghệ thuật tự
sự”. Nó thể hiện sự tìm tòi, sáng tạo không mệt mỏi của một nhà văn đã suốt
đời gắn bó và nỗ lực đổi mới văn xuôi hiện đại Việt Nam.
Luận văn Thạc sĩ - 103 - Đỗ Thanh Hương

PHẦN KẾT LUẬN

Văn học là một dòng chảy không bao giờ ngừng nghỉ. Mỗi thời kì,
mỗi giai đoạn văn học đều mang những đặc trưng riêng, được sáng tạo nên
bởi một đội ngũ nhà văn với những đặc thù riêng biệt. Văn học Việt Nam
những năm đầu thế kỉ XX đến nay cũng không phải một trường hợp ngoại
lệ. Dù vậy, cũng cần thấy rằng, như một sự tất yếu của quy luật nối tiếp, văn
học giai đoạn này không chỉ là tiếng nói của những cây bút trẻ. Đó còn là
mảnh đất nơi không ít nhà văn mà tên tuổi đã được khẳng định từ thời kì
trước tiếp tục ghi dấu những tìm tòi, thể nghiệm, sáng tạo mới mẻ.
Ma Văn Kháng nằm trong số những nhà văn như vậy. Những đặc sắc
nghệ thuật tự sự trong văn xuôi Ma Văn Kháng những năm đầu thế kỉ XX
trở lại đây một lần nữa chứng tỏ tài năng, tâm huyết của cây bút suốt đời
cống hiến và gắn bó với nghề văn.
Nhắc đến Ma Văn Kháng là nhắc đến một đời văn cần mẫn, sáng tạo,
một cây bút văn xuôi lực lưỡng. Chính sự cần mẫn, nghiêm túc trong lao
động nghệ thuật và khao khát tìm tòi, đổi mới không ngừng đã giúp nhà văn
tạo dựng được một văn nghiệp đồ sộ với gần tám nghìn trang in, hàng trăm
truyện ngắn, hàng chục tiểu thuyết.
Nhìn lại đời văn Ma Văn Kháng, có thể thấy nhà văn đã hình thành
cho mình một hệ thống quan điểm riêng về công việc cầm bút. Những suy
nghĩ ấy có khi được phát biểu một cách trực tiếp qua những cuộc phỏng vấn,
tâm sự, trải lòng của người viết, cũng có khi hiện hữu sinh động qua từng
trang văn.
Luận văn Thạc sĩ - 104 - Đỗ Thanh Hương

Thành tựu văn xuôi Ma Văn Kháng tập trung ở hai thể loại cơ bản,
truyện ngắn và tiểu thuyết. Khảo sát những tác phẩm truyện ngắn, tiểu
thuyết nổi bật của thời kì này là cơ sở giúp khái quát những đặc sắc nghệ
thuật tự sự trong văn xuôi Ma Văn Kháng những năm đầu thế kỉ XX.
Ở truyện ngắn, đáng chú ý là sự thay đổi trong pham vi, chủ đề tác
phẩm. Đó không đơn thuần là sự khác biệt trên tiêu chí phạm vi hiện thực
phản ánh (miền núi và thành thị), mà còn đánh dấu bước phát triển mới
trong tư duy nghệ thuật cùng hệ thống quan niệm về cuộc sống và con người
của nhà văn. Chủ đề con người bình thường và số phận bi kịch của con
người trở thành trung tâm của truyện ngắn Ma Văn Kháng. Trong đó, phải
kể đến sức sống đặc biệt của hình tượng nhân vật người trí thức và nhất là
nhân vật người phụ nữ nhan sắc, phồn thực, đa đoan.
Bên cạnh đó, hình tượng tác giả với giọng điệu hài hước và xót xa
thương cảm; sự ùa vào ngôn ngữ của đời sống thường nhật; sự xuất hiện của
thể tài mới Truyện ngắn – tiểu luận cũng là những đặc trưng quan trọng
trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kì này.
Đặc sắc nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng nói riêng và
trong ba cuốn tiểu thuyết Gặp gỡ ở La Pan Tẩn, Một mình một ngựa, Bóng
đêm thể hiện phong phú ở rất nhiều phương diện. Luận văn này chỉ đi sâu
khai thác, khám phá một vài phương diện nổi bật: Vị trí của yếu tố kì ảo
trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng ; Kỹ thuật độc thoại nội tâm và dòng tâm
tư; Khuynh hướng triết lý – Tiểu thuyết luận đề; Nghệ thuật tự sự tổng hợp.
Yếu tố kì ảo xuất hiện dưới nhiều biểu hiện phong phú, tham gia vào
hầu hết các khâu quan trọng trong quá trình xây dựng tiểu thuyết Ma Văn
Kháng, trong đó có thể đến không gian nghệ thuật- thời gian nghệ thuật;
nhân vật; cốt truyện. Đây không chỉ đơn thuần là một kĩ thuật tiểu thuyết,
Luận văn Thạc sĩ - 105 - Đỗ Thanh Hương

mà còn góp phần quan trọng trong việc thể hiện một quan niệm, cách nhìn
mới của nhà văn về cuộc sống và con người.
Có thể nói, tiểu thuyết Ma Văn Kháng chưa thực sự được xếp vào
kiểu tiểu thuyết dòng ý thức, mà ở đây, dòng ý thức, dòng tâm trạng mới chỉ
được sử dụng như một kĩ thuật trần thuật, hỗ trợ nhà văn trong việc khắc
họa, xây dựng nhân vật, tổ chức kết cấu cốt truyện, truyền tải những tầng
bậc nội dung tư tưởng, chủ đề. Bằng việc khai thác hiệu quả của kĩ thuật độc
thoại nội tâm, Ma Văn Kháng đã hé mở những tầng bậc sâu kín trong đời
sống nội tâm phong phú, phức diệu của con người, làm hoàn chỉnh quan
niệm về con người đa diện.
Với tiểu thuyết Ma Văn Kháng, tính triết lý là đặc điểm nổi bật của
nghệ thuật tự sự. Nếu như với truyện ngắn, ông sáng tạo ra một thể tài riêng:
truyện ngắn – tiểu luận, thì với tiểu thuyết, tính chất triết lý đậm đặc là tiền
đề phát triển thể tài tiểu thuyết luận đề. Một cách khái quát, có thể nhận ra
những phạm trù nội dung chính trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kì này:
quan niệm triết lý về con người; quan niệm triết lý về lịch sử và cách mạng,
quan niệm triết lý về cuộc sống.
Ở Bóng đêm, với những đặc trưng riêng trong nghệ thuật xây dựng
nhân vật, nghệ thuật kể chuyện và ngôn ngữ, Ma Văn Kháng đã thành công
trong việc “thực hiện một bước tổng hợp mới của nghệ thuật tự sự”, thể hiện
chủ yếu trên ba phương diện: Nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật kể
chuyện và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Nó thể hiện sự tìm tòi, sáng tạo
không mệt mỏi của một nhà văn đã suốt đời gắn bó và nỗ lực đổi mới văn
xuôi hiện đại Việt Nam.
Nhìn lại những đặc sắc nghệ thuật tự sự trong văn xuôi Ma Văn
Kháng những năm đầu thế kỉ XX, càng thêm cảm phục và yêu mến một nhà
văn thực sự có tài, có tâm. Suốt một đời văn cần mẫn, Ma Văn Kháng đã
Luận văn Thạc sĩ - 106 - Đỗ Thanh Hương

khẳng định tên tuổi mình như một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn
xuôi hiện đại Việt Nam. Ông vẫn đang bền bỉ trên con đường mình đã chọn,
dùng chính nghị lực và sức sáng tạo của mình để tiếp sức cho thế hệ những
người đi sau.
Luận văn Thạc sĩ - 107 - Đỗ Thanh Hương

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Phạm Mai Anh (1997), Đặc điểm nghệ thuật trong truyện ngắn
Ma Văn Kháng 1980, Luận văn thạc sỹ, ĐHSP, H.
[2 ]. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại nhận thức và
thẩm định, NXB KH và XH, H.
[3]. Thái Phan Vàng Anh (2008), “ Ngôn ngữ trần thuật trong truyện
ngắn Việt Nam đương đại”, Tạp chí sinh hoạt, (237).
[4]. Thái Phan Vàng Anh (2010), “ Trần thuật từ điểm nhìn bên trong
ở tiểu thuyết Việt Nam đương đại”, Tạp chí Non Nước tháng 6, trang 67-70.
[5 ]. Hà Ân (1998), “Đọc mùa lá rụng trong vườn”, Báo người Hà
Nội.
[6 ]. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB ĐHQG, H.
[7]. Yên Ba (1993)’ “ Ma Văn Kháng sống rồi mới viết”, Báo văn hóa
hàng ngày 13.9 (9).
[8 ]. Ban chấp hành hội nhà văn Hà Nội, Giải thưởng hội nhà văn Hà
NỘi 2009, Báo Người Hà Nội số 38 (18/9/2009)
[9]. Lê Huy Bắc (2008), “Cốt truyện trong tự sự” , Nghiên cứu văn
học, (7).
[10 ]. Lê Huy Bắc (2005), Truyện ngắn lý luận tác giả và tác phẩm,
tập 2 NXB GD, H.
[11 ] Đinh Hương Bình(2009), “Ma Văn kháng viết tự truyện?, Báo
An ninh thủ đô – Trang Văn hóa nghệ thuật, 23-3-2009 ( 11) .
[12]. Hà Trọng Mão (2008), “Triết lý nhân sinh trong truyện ngắn của
Ma Văn Kháng”, phongdiep.net.
Luận văn Thạc sĩ - 108 - Đỗ Thanh Hương

[13]. Nguyễn Minh Chung (2007), tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ
đồi mới, Luận văn thạc sĩ, ĐH KHXH và Nhân Văn, H.
[14]. Trần Cương (1982), “Đọc mưa mùa hạ”, Tạp chí văn học (5)
[15]. Lê Văn Chính (2004), Đặc điểm tiểu thuyết viết về đề tài thành
thị của Ma Văn Kháng, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội.
[16]. Tô Đức Chiêu, Gặp người vừa Ngược dòng nước lũ, Tuần báo
du lịch (14)
[17] Trương Đăng Dung, Từ văn bản đến tác phẩm văn học, NXB
Khoa học xã hội, H.
[18]. Phan Cự Đệ (1986), “ Mấy vấn đề văn xuôi hiện đại Việt Nam”,
Tạp chí văn học. (5)
[19]. Hà Minh Đức (1998), Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Văn học,
H.
[20]. Hà Minh Đức (2002), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX,
NXB ĐHQG, H.
[21]. Hà Minh Đức ( chủ biên 2006), Lý luận văn học, NXB Giáo dục,
H.
[22]. Hàn Giang. (1998), “Người đạt giải cây bút vàng vẫn viết ở độ
tuổi 60”, Vietnam courier (18-24)
[23]. Võ Thị Hảo, “Nhà văn Ma Văn Kháng: Tôi luôn là người tình
nhân của văn chương..”, (tài liệu do nhà văn Ma Văn Kháng cung cấp)
[24]. Lê Bá Hãn, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên)
(1997), Từ điển thuật ngữ văn học. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội.
[25]. Lê Hiền (2010) , Trò chuyện về tiểu thuyết Một mình một ngựa
của Ma Văn Kháng, Tạp chí xuất bản Việt Nam.
[26]. Bùi Hiển (1995), “Vẻ đẹp thuần khiết trong Trăng soi sân nhỏ”,
Văn nghệ (12)
Luận văn Thạc sĩ - 109 - Đỗ Thanh Hương

[27]. Nguyễn Hoa (2003), “ Ma Văn Kháng đoạt cây bút vàng”, An
ninh thủ đô (2002), tr.10.
[28]. Nguyễn Thị Huệ (1999), Đổi mới tư duy nghệ thuật trong sáng
tác của Ma Văn Kháng những năm 80, Tạp chí văn học số 2, trang 51-57.
[29]. Nguyễn Thị Huế, Nguyễn Thị Khánh Thu (2010), Hình tượng
người kể chuyện trong tiểu thuyết mới của Ma Văn Kháng, DĐ VNVN,
(190), tr25-27.
[30]. Dương Thanh Hương (2008), Cảm hứng nghệ thuật gắn với
nhân vật trong tiểu thuyết về đề tài dân tộc miền núi của Ma Văn Kháng,
Luận văn thạc sĩ, ĐHSP, H.
[31]. Bùi Lan Hương (2004), Cảm hứng bi kịch nhân văn trong tiểu
thuyết của Ma Văn Kháng, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Trường Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
[32]. Trần Hoàng Thiên Kim (2003), “Những cuộc tổng kê của nhà
văn Ma Văn Kháng”, Tiền phong chủ nhật (43), tr 9.
[33]. Ma Văn Kháng (2011), Bóng đêm, NXB Công an nhân dân, H.
[34]. Ma Văn Kháng (2002), “Đổi mới tư duy tiểu thuyết”, NXB Hội
nhà văn, H.
[35]. Ma Văn Kháng (1980), “Chất thơ chân chính”, “Sổ tay người
viết truyện ngắn”, NXB Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam, 1980.
[36]. Ma Văn Kháng (1989), “ Ngẫu hứng tự do và sáng tạo”, Tạp chí
văn học, (2).
[37]. Ma Văn Kháng (2002), Truyện ngắn chọn lọc, NXB Hội nhà
văn, H.
[38]. Ma Văn Kháng (2003), Cỏ dại (Tập truyện ngắn), NXB Phụ nữ.
[39]. Ma Văn Kháng (2003), Tập truyện ngắn, NXB Công an nhân
dân, H.
Luận văn Thạc sĩ - 110 - Đỗ Thanh Hương

[40]. Ma Văn Kháng (2003), Tiểu thuyết 2, NXB Công an nhân dân,
H.
[41]. Ma Văn Kháng (2006), Năm mươi truyện ngắn chọn lọc của Ma
Văn Kháng, NXB Văn hóa Sài Gòn. TP HCM.
[42]. Ma Văn Kháng (2007), Một vầng nắng nhỏ ( Tập truyện ngắn)
NXB Quân đội nhân dân VN.
[43]. Ma Văn Kháng (2007), Người đàn bà chơi vĩ cầm (Tập truyện
ngắn) NXB Sân khấu.
[44]. Ma Văn Kháng (2008), Trốn nợ (Tập truyện ngắn), NXB Phụ
nữ.
[45]. Ma Văn Kháng (2009), Năm tháng nhọc nhằn năm tháng nhớ
thương, NXB Hội nhà văn, H.
[46]. Ma Văn Kháng (2009), Một mình một ngựa, NXB Phụ nữ.
[ 47] Ma Văn Kháng, “Viết tiểu thuyết là cả một cuộc đi săn hổ dữ”,
“Từ cõi ảo” – Chu Thị Thơm.
[48]. KH RAPCHENKO (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự
phát triển văn học, NXB tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam.
[ 49]. Phong Lê (2005), “ Trữ lượng Ma Văn Kháng”, Văn nghệ (20),
tr 19.
[ 50]. Phong Lê (2005), “ Trữ lượng Ma Văn Kháng”, Văn nghệ (21),
tr 19,21
[51]. Mã A Lềnh (2010) “ Mạch nguồn dòng chảy từ đây”, Tạp chí
Phan Si Păng số 111, tr 72-78.
[52]. Lê Thị Kim Liên (2010), Hồi ký – tự truyện trong hồi ký của Ma
Văn Kháng và Đặng Thị Hạnh, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP, H.
Nguyễn Diệu Linh, Nguyễn Long (2010), Cảm nhận thời gian, Nhà
xuất bản hội, H.
Luận văn Thạc sĩ - 111 - Đỗ Thanh Hương

[53]. Nắng Mai (2000), Tính nghệ thuật, một đối tượng nghiên cứu
riêng và một cách tiếp cận riêng, DĐ VNVN (3+4).
[54]. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Nhà văn tư tưởng và phong cách,
NXB Văn học, H.
[ 55]. Tôn thảo Miên (2006), Một số khuynh hướng nghiên cứu phong
cách, Nghiên cứu văn học số 5 – 2006.
[56]. Nguyễn Minh (2010) Nhà văn hiện thực có phải chuyện đã cũ ,
Tạp chí Văn nghệ trẻ sô 687,688 (24)
[57]. Mai Thị Nhung (2008), “ Giọng điệu nghệ thuật trong tiểu thuyết
thời kỳ đổi mới của Ma Văn Kháng”, Nghiên cứu văn học (10).
[58]. Lã Nguyên (1999), “Khi nhà văn đào bới bản thể ở chiều sâu
tâm hồn”, Tạp chí văn học, tr 63, 72.
[59 ]. Đỗ Hải Ninh, Khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết Một
mình một ngựa của Ma Văn Kháng, Báo văn nghệ.
[60]. Phạm Duy Nghĩa (2008) “ Phong cách văn xuôi miền núi của
Ma Văn Kháng”, Văn nghệ quân đội, (10).
[61]. Đào Thủy Nguyên, Nguyễn Thu Trang (2009), “ Nét đặc sắc của
lời trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng viết về đề tài dân tộc miền
núi sau 1975”, Văn nghệ quân đội, (8).
[62 ]. Minh Quyên (2009) , Ma Văn Kháng Một mình một ngựa, Báo
Người lao động 11/4/2009
[63]. Đoàn Minh Tâm (2008), “ Sự độc đáo của thể tài truyện ngắn –
tiểu luận Ma Văn Kháng” , Diễn đàn Văn nghệ VN, (166).
[64]. Đoàn Minh Tâm (2008) “ Tranh luận của Ma Văn Kháng” Diễn
đàn văn nghệ VN, tr 11.
[65]. Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái, Luận văn
thạc sỹ, ĐHSP, HN.
Luận văn Thạc sĩ - 112 - Đỗ Thanh Hương

[66]. Hồ Anh Thái (1987), Trò chuyện với nhà văn ma Văn Kháng –
Nhà văn người Hà Nội”, Người Hà Nội (7), tr 4.
[67]. Bùi Việt Thắng (2009), “ Văn xuôi gần đây và quan niệm về con
người”, Tạp chí Văn học, (6).
[68]. Đỗ Phương Thảo (2005), “ Quan niệm về văn chương nghệ thuật
của Ma Văn Kháng”, Tạp chí Khoa học, (5).
[69]. Đỗ Phương Thảo (2006), “ Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết
Ma Văn Kháng thời kỳ đầu”, Tạp chí Khoa học, (2).
[70]. Đỗ Phương Thảo (2007), Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma
Văn Kháng, Luận án tiến sĩ, ĐHSP HN.
[71]. Nguyễn Ngọc Thiện (1998), “Hỏi chuyện nhà văn Ma Văn
Kháng”, Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh (45).
[72]. Nguyễn Ngọc Thiện (2000), Tài năng và bản lĩnh nghệ sĩ, NXB
Hội nhà văn, H.
[73]. Nguyễn Ngọc Thiện (2005), Phong cách và đời văn, NXB Khoa
học, H.
[74]. Nguyễn Ngọc Thiện (2009), “ Ma Văn Kháng và cuốn hồi ký tự
truyện mới”, Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, (1978), tr 20-23.
[75]. Nguyễn Ngọc Thiện (2010), Lý luận phê bình và đời sống văn
chương (Tiểu luận – phê bình), NXB Hội nhà văn Việt Nam, 580tr.
[76]. Nguyễn Ngọc Thiện, Bóng đêm và nghệ thuật tự sự tổng hợp
mới của Ma Văn Kháng.
[77]. Đào Tiến Thi (1999), phong cách Ma Văn Kháng trong truyện
ngắn sau 1975, Luận văn thạc sĩ, ĐH SPHN.
[78]. Nguyễn Nghĩa Trọng (2010) , Đọc lý luận, phê bình và đời sống
văn chương, Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số 190.
Luận văn Thạc sĩ - 113 - Đỗ Thanh Hương

[79]. Nguyễn Thanh Tú (2009) , “Vốn sống, tài năng và tâm huyết”
(Từ trường hợp nhà văn Ma Văn Kháng với tập Trốn nợ - NXB Phụ nữ,
2008), Văn học và người lính, NXB Văn học, Hà Nội, 2009.
[80]. Nguyễn Cảnh Tuấn (2010) , “Đường tôi đi, người tôi gặp”, Nhà
xuất bản phụ nữ, H.
[ 81]. Ông Văn Tùng 91995), “Trăng soi sân nhỏ”, Văn nghệ (41).
[82]. Trần Tế (2002), “ Một vài cảm nhận sau khi đọc Gặp gỡ ở
Lapantẩn của nhà văn Ma Văn Kháng”, Tạp chí Sách (1).

You might also like