Professional Documents
Culture Documents
1
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU 3
Chương 1: Một số vấn đề thi pháp học 4
1. Thi pháp và thi pháp học 4
2. Thi pháp nhân vật 8
3. Thi pháp không gian, thời gian nghệ thuật 9
4. Thi pháp chi tiết nghệ thuật 12
5. Thi pháp cốt truyện, kết cấu 13
6. Thi pháp giọng điệu và lời văn nghệ thuật 15
Chương 2: Những đặc điểm thi pháp của một số thể loại văn học dân gian
1. Thi pháp văn học dân gian 17
2. Thi pháp truyện dân gian 18
2.1. Đặc điểm thi pháp của thể loại thần thoại 19
2.2. Đặc điểm thi pháp của truyện truyền thuyết lịch sử 20
2.3. Đặc điểm thi pháp truyện cổ tích 23
2.4. Đặc điểm thi pháp truyện ngụ ngôn 27
2.5. Đặc điểm thi pháp truyện cười 29
3. Thi pháp văn vần dân gian 32
3.1. Đặc điểm thi pháp của tục ngữ 32
3.2. Đặc điểm thi pháp của câu đố 36
3.3. Đặc điểm thi pháp của ca dao 46
TÀI LIỆU HỌC TẬP 51
PHỤ LỤC: CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP THỰC HÀNH 52
2
LỜI NÓI ĐẦU
Bài giảng Văn học 2 do các tác giả ở Tổ Giáo dục Tiểu học, Trường Đại học Phạm
Văn Đồng biên soạn với mục đích trang bị cho sinh viên những hiểu biết nhất định về thi
pháp học nói chung, thi pháp văn học dân gian nói riêng nhằm dạy tốt môn Tiếng Việt ở
trường tiểu học trên tinh thần "dạy văn qua môn Tiếng Việt", đồng thời có thể vận dụng
vào nghiên cứu những tác phẩm văn học dành cho trẻ em trong và ngoài nhà trường.
Công trình là sự kế thừa những kiến thức lí luận về thi pháp, thi pháp học của các chuyên
gia nghiên cứu đi trước. Tuy nhiên khi vận dụng vào tìm hiểu văn học được dạy trong
chương trình tiểu học, chúng tôi đã có những điều chỉnh cho phù hợp với đặc trưng của
đối tượng nghiên cứu, khảo sát và đối tượng tiếp nhận bài giảng này.
Tổng số thời gian của chuyên đề là 30 tiết (2 tín chỉ) với 2 chương chính: Mở đầu
chương Thi pháp học: trình bày những vấn đề cơ bản về mặt thi pháp của các sáng tác văn
học như: Quan niệm nghệ thuật về con người, không - thời gian nghệ thuật, cốt truyện,
kết cấu và ngôn từ nghệ thuật trong văn học; chương 2: Thi pháp văn học dân gian: trình
bày những vấn đề đặc điểm của thi pháp truyện dân gian (thần thoại, truyền thuyết, cổ
tích, ngụ ngôn, truyện cười) trên phương diện cốt truyện, nhận vật, thời gian và không
gian nghệ thuật; đặc điểm thi pháp văn vần dân gian (tục ngữ, câu đố) và ca dao trên
phương diện ngôn ngữ, thể thơ, cấu tứ, nhân vật trữ tình, không gian và thời gian nghệ
thuật.
Lần đầu tiên, tài liệu được biên soạn theo chương trình và phương pháp mới, chắc
chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Chúng tôi mong nhận được nhiều ý kiến
chỉ giáo, góp ý để có thể hoàn thiện thêm nhằm cung cấp tài liệu học tập cho sinh viên, và
những ai quan tâm đến vấn đề còn rất mới mẻ này. Chúng tôi trân trọng cám ơn.
Quảng Ngãi tháng 5 năm 2016
Tác giả
Th.sĩ Nguyễn Thị Hồng Liên
QUY ƯỚC VỀ VIẾT TẮT
- Vhdg: Văn học dân gian
- Nxb: Nhà xuất bản
- PK : Phong kiến
- XH : Xã hội
3
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ THI PHÁP HỌC
1.3. Đối tượng và phương pháp ngiên cứu của thi pháp
1.3.1. Đối tượng
Nếu xưa nay chúng ta quen với cách khám phá các tác phẩm nghệ thuật theo lối
truyền thống như giới thiệu, cảm nhận, đánh giá, phân tích các yếu tố nghệ thuật riêng lẻ
thì ở thi pháp học hiện đại có cái nhìn và cách khám phá hoàn chỉnh, cụ thể và cách tiếp
cận văn chương với quy luật phổ quát hơn.
Xét theo chỉnh thể thế giới nghệ thuật, thi pháp học nghiên cứu các phạm trù thi
pháp phản ánh các yếu tố, các thuộc tính của thế giới nghệ thuật nói chung và của thế giới
nghệ thuật nói riêng. Các phạm trù đó là thế giới nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật về con
người, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, biến cố nghệ thuật, điểm nhìn nghệ
thuật, hình tượng tác giả, cốt truyện, kết cấu, nhịp điệu, giọng điệu, lời văn… thì
- Đối tượng của thi pháp học trước hết là các nguyên tắc thi pháp.
Xét tác phẩm văn học là một hình thái ý thức xã hội; tác phẩm văn học là một hiện
tượng ngôn ngữ, dưới sự tổ chức hình thức mang tính nội dung của sáng tác văn học, thì
5
đối tượng của thi pháp học không phải là hình thức mang tính cấu trúc, quan điểm ngôn
ngữ mà là hình thức mang tính nội dung.
- Đối tượng của thi pháp học còn là hình thức mang tính nội dung.
+ Nội dung của văn học tức là cuộc sống được ý thức và là ý thức về cuộc sống.
+ Hình thức của văn học tức là tính xác định của cuộc sống được ý thức và của ý thức về
cuộc sống.
Như vậy giữa hình thức và nội dung có mối quan hệ sâu sắc: nghiên cứu hinh thức
tức là nghiên cứu tính xác đinh của nội dung. Do gắn với nội dung nên hinh thức là cụ
thể. Cần phân biệt ý đồ với nội dung (tức điều muốn nói và điều đã nói). Cái trước là một
nội dung tiềm tàng, chưa có hình thức nghệ thuật, còn cái sau là nội dung đã được hình
thức hoá. Do đó ta nói ở đây là nội dung được xác định trong hình thức chứ không phải
nội dung trong ý nghĩa của người sáng tác. Còn hình thức là hình thức của nội dung,
mang nội dung cụ thể.
Tức là cuộc sống được ý thức và sự tự ý thức về cuộc sống thông qua hình thức
nghệ thuật. Vì vậy khi khám phá tác phẩm văn học dưới góc độ thi pháp ta sẽ thấy rằng
hình thức nghệ thuật luôn gắn với tính hệ thống, tính quan niệm và tính chất tinh thần.
Hoàn toàn không mang tính riêng lẻ. Cũng chính vì vậy mà tác phẩm văn học được soi rọi
sẽ hiện hữu khả năng phản ánh đời sống của một hình thức nghệ thuật được sự giới hạn và
chiều sâu ở từng góc độ thẩm mỹ của nó. Bên cạnh đó nó còn giúp ta thấy được sự vận
động và phát triển của tư duy, tính xác định của nội dung tác phẩm. Từ đó nâng cao khả
năng cảm thụ cho người đọc với tác phẩm văn học được khám phá.
Trong văn học, hình thức có những đặc điểm như sau:
a) Hình thức mang tính quan niệm (tính quan niệm của thi pháp)
Hình thức của một tác phẩm nghệ thuật không đơn giản là những thủ pháp phương
tiện, chất liệu, mà là những thủ pháp, phương tiện, chất liệu mang tính quan niệm. Chẳng
hạn trong Truyện Kiều, khi miêu tả Kiều, Nguyễn Du viết “Làn thu thuỷ nét xuân sơn…”,
khi miêu tả Tú bà thì “Thoắt trông lờn lợt màu da…”; hai cách miêu tả đó xuất phát từ
quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Du về hai loại nhân vật (nhân vật “đấng bậc”: đấng tài
hoa, bậc tài danh, đấng anh hùng, và nhân vật “vô loài”). Như vậy tính quan niệm về thi
pháp là những hình thức miêu tả các hiện tượng đời sống cụ thể, cảm tính trên cơ sở một
kiểu quan niệm cảm nhận nhất định về thế giới. Cho nên để miêu tả những người, những
cảnh, những sự vật cụ thể trong văn học bao giờ cũng có quan niệm trước về chúng, biết
phải miêu tả chúng bắt đầu từ đâu, kết thúc ở đâu. Vì vậy các hình thức thi pháp đều thấm
nhuần một quan niệm nhất định về thế giới và con người.
b) Hình thức có tính hệ thống (tính hệ thống của thi pháp)
Thi pháp là một hệ thống hình thức nhằm tạo ra một thế giới nghệ thuật nhất định,
thế giới nghệ thuật phản ánh thế giới thực tại cho nên cấu trúc của nó bao gồm các yếu tố:
con người, không gian thời gian, đồ vật, ngôn ngữ… đều mang phẩm chất nghệ thuật,
khác hẳn với thực tại. Trong hệ thống thi pháp, quan niệm con người có vai trò chủ đạo và
6
chi phối các yếu tố khác. Ví dụ, nhân vật trong truyện cổ tích được xem là chưa có đời
sống nội tâm (bởi con người xuất hiện như một cộng đồng xã hội. Nó tiêu biểu cho một
phẩm chất nào đó, là hiện thân của một quy ước xã hội) thì tương ứng với nó truyện chưa
có thời gian quá khứ và tương lai, chưa có ngôn ngữ, có sắc thái tâm lí nhân vật. Câu
chuyện được kể theo trật tự tự nhiên. Còn tiểu tuyết hiện đại được quan niệm là có đời
sống nội tâm thì nhà văn có thể kể từ đoạn giữa truyện, truyện có thời gian quá khứ, có lời
độc thoại của nhân vật v.v… Nghệ thuật là một hệ thống tự ý thức về đời sống của con
người, trong đó mối quan hệ giữa chủ thể cùng điểm nhìn của nó với thế giới được ý thức
là bất biến. Nếu thay đổi điểm nhìn thì toàn bộ thế giới được miêu tả cũng thay đổi theo
(ví dụ: trong văn học cổ điển Việt Nam, điểm nhìn của các nhà văn là “Thiên Nhân tương
cảm” do đó trong thơ văn chỉ xuất hiện một con người đứng trước đất trời. Vì thế lối trữ
tình trong thơ cổ điển cũng theo lối “Thể trọng” nghĩa là nói căm hờn thì “bầm gan tím
ruột”, nói buồn thì “đứt ruột, héo gan”…Nhưng sang đến văn học hiện thực phê phán thì
không còn con người hô ứng với thiên nhiên nữa mà là con người xã hội ). Đó là tính tự
điều chỉnh của hệ thống thi pháp. Những đặc điểm trên cho thấy cần nghiên cứu thi pháp
trong tính hệ thống, qua các yếu tố và mối quan hệ qua lại của chúng.
1.3.2. Phương pháp nghiên cứu thi pháp.
a) Xác lập các phạm trù thi pháp lí thuyết: các phạm trù thi pháp phản ánh các phương
diện, yếu tố của thế giới nghệ thuật trên hai cấp độ. Một là cấp độ thế giới hình tượng (có
quan niệm nghệ thuật về con người, không thời gian nghệ thuật, biến cố, chi tiết, nhân
vật, người kể chuyện…). Hai là cấp độ văn bản ngôn từ (có các hình thức lời văn trực
tiếp, gián tiếp, điểm nhìn trần thuật, giọng điệu, hình thức kịch hoá, trần thuật, tính đa
thanh, lời độc thoại nội tâm, tính đối thoại trong các hình thức…).
b) Nghiên cứu và khái quát các phạm trù thi pháp cụ thể.
c) Vận dụng phương pháp hệ thống
d) Phương pháp quy nạp, khái quát, so sánh, đối chiếu.
1.3.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu thi pháp
- Khả năng phản ánh đời sống của một hình tượng.
- Thấy sự vận động và phát triển của tư duy nghệ thuật.
- Nâng cao khả năng cảm thụ cho người tiếp nhận.
Chúng ta đã biết bản chất của văn học là phản ánh đời sống bằng hình tượng, chính
vì vậy mà hình tượng nghệ thuật là linh hồn của tác phẩm văn học nghệ thuật. Nghệ thuật
khẳng định vẻ đẹp tâm hồn con người, do đó nghiên cứu tác phẩm văn học là nghiên cứu
thế giới tinh thần do con người sáng tạo ra và đó cũng chính là hình thức tồn tại của tác
phẩm nghệ thuật. Cho nên khi nghiên cứu tác phẩm văn học dưới góc độ thi pháp sẽ giúp
chúng ta tránh được và hạn chế được việc chia tách tác phẩm theo cấu trúc văn bản để
nghiên cứu mà phải nhìn một cách vừa cụ thể vừa tổng quát về hình tượng nghệ thuật ở
từng mảng của nó như quan niệm nghệ thuật về con người, thời gian nghệ thuật, không
gian nghệ thuật, màu sắc nghệ thuật, hình tượng tác giả trong tác phẩm... Chẳng hạn khi
7
tìm hiểu con người trong văn học Việt Nam hiện đại ta sẽ thấy mỗi tác giả có cách quan
niệm riêng về con người trong tác phẩm của mình. Con người trong tác phẩm của Ngô
Tất Tố có hai dạng con người là con người oan trái (nhưng rất đẹp) và con người tạo ra
oan trái. Con người trong tác phẩm Nam Cao là con người bán dần sự sống để duy trì sự
sống vì vậy mà con người trong tác phẩm của Nam Cao luôn có ý thức về tâm trạng. Và
nó sẽ khác hoàn toàn với con người vũ trụ, con người chí khí, con người tỏ lòng...trong
văn học trung đại. Như ai cũng biết Kiều bị bán vào lầu xanh chịu bao tủi nhục ê chề.
Nhưng khi Từ Hải xuất hiện cứu nàng thì cái "lầu xanh" ấy lập tức biến thành "lầu hồng".
Vì màu hồng có cảm giác đem lại sự hạnh phúc ấm áp cho con người và người con gái kia
vẫn là một con người danh giá trong tâm khảm tác giả. Ngược lại màu trắng sẽ biểu hiện
đầy đủ sự tang tóc thê lương, lạnh lẽo và cả sự trong trắng của linh hồn người trinh nữ.
“Sáng nay vô số lá vàng rơi
Người gái trinh kia đã chết rồi
Có một chiếc xe màu trắng đục
Hai con ngựa trắng xếp hàng đôi
Đem đi một chiếc quan tài trắng
Và những bông hoa trắng lạnh người
Theo bước những người khăn áo trắng
Khóc hồn trinh trắng mãi không thôi.”
(Viếng hồn trinh nữ - Nguyễn Bính)
Bên cạnh những vấn đề trên, dưới góc nhìn thi pháp ta còn có cách nhìn chi tiết
hơn ở các khía cạnh như cốt truyện, tình tiết truyện, kết cấu, thi pháp thể loại, thi pháp
ngôn ngữ trong tác phẩm văn học một cách hoàn thiện hơn.
Vấn đề thi pháp học là một vấn đề lớn không phải trong vài bài viết mà nói hết
được. Nhưng ngày nay, có thể nói đây là một trong những món ăn tinh thần thời thượng.
Nó rất cần thiết trong việc nghiên cứu cũng như giảng dạy văn học trong nhà trường. Nó
giúp chúng ta khám phá một cách chính xác các cấu trúc hình thức mang tính nội dung
của tác phẩm văn học, phục vụ cho việc tìm hiểu nội dung tác phẩm một cách đích thực,
hoàn toàn không có sự gán ghép hoặc cảm nhận thiếu cơ sở. Bên cạnh đó nó còn giúp
chúng ta hiểu đủ, hiểu đúng các tác phẩm văn chương trong quá trình phát triển tư duy
nghệ thuật, đánh giá đúng tư duy nghệ thuật của mỗi tác phẩm văn chương và hình tượng
tác giả. Nhưng không sa vào hình thức chủ nghĩa.
12
- Trong nghĩa hẹp chi tiết chỉ những yếu tố có tính chất tạo hình hay liệt kê. Nó bộc lộ
trạng thái của khách thể (chân dung, áo quần, cây cỏ, màu sắc, đường nét…). Vậy có thể
hiểu chi tiết là những bộ phận nhỏ, tự nó không có ý nghĩa độc lập, nhưng lại biểu hiện
được ý nghĩa của các chỉnh thể mà chúng thuộc vào. Do đó Hêghen ví chi tiết như là
những con mắt giúp ta nhìn thấu suốt đối tượng. Nghĩa là chi tiết nghệ thuật tạo thành
những điểm nhìn vào đối tượng, thể hiện cái nhìn và quan niệm về đối tượng.
Chẳng hạn qua chi tiết có thể nghiên cứu ánh sáng, bóng tối, ấm lạnh… tức là thế giới
khách thể của tác phẩm.
Ví dụ: Trong thơ Tố Hữu ánh nắng rất nhiều lại chói lọi, rực rõ “ Bừng nắng hạ…” “Nắng
chói sông Lô…”. Anh sáng thì bằng lửa, khối sao băng.
Thơ lãng mạn thì đầy hoàng hôn. Thơ cổ đầy trăng. Thơ Bác vừa đầy ánh trăng vừa đầy
ánh nắng.
4.2. Phân tích chi tiết nghệ thuật trong một số tác phẩm (SV tập phân tích)
13
Ví dụ: “Tấm Cám” là xung đột trong gia đình, mẹ ghẻ con chồng, sau thành truyện
tranh chồng hại chị.
Đây là truyện cậy mạnh hiếp yếu, thủ đoạn lừa dối trắng trợn, tàn bạo mang tính
chất một mất một còn. Truyện được tạo thành bởi một chuỗi gây hại (lấy giỏ tép, giết cá
bống, bắt nhặt thóc, giết người, giết chim, chặt cây, đốt khung cửi). Biện pháp gây hại thô
thiển, trần trụi không có phép thuật gì. Kẻ bị hại được cứu vớt nhờ lòng thương của bụt,
nhờ quy luật hóa sinh của tự nhiên (giỏ tép còn bống, bống chết còn xương, chim chết còn
lông, khung cửi đốt còn tro…).
Truyện thể hiện niềm tin vào sự sống bất diệt và thái độ không thể dung hòa của
thiện và ác.
Truyện có 3 giai đoạn: 1/ Tấm chỉ khóc; 2/ Tấm liên tiếp bị hại, Tấm căm thù; 3/
Tấm trả thù.
1.3. Mục đích, ý nghĩa của việc nghiên cứu thi pháp thể loại
- Giúp ta khai thác sâu hơn giá trị thẩm mỹ của vhdg, một giá trị ít được chú ý hơn so với
giá trị nhận thức và giá trị giáo dục.
- Mỗi thể loại vhdg có cách nói riêng của nó nhằm biểu đạt nội dung riêng của nó – thi
pháp thể loại chính là cách nói riêng ấy. Vì thế, có nắm được thi pháp thể loại mới có khả
năng giải mã được các tác phẩm thuộc thể loại vhdg.
- Trong nhà trường, kể cả nhà trường tiểu học, dạy tác phẩm không chỉ là truyền đạt
những gì người giáo viên cảm nhận được, nhận thức được ở tác phẩm. Do đó, cần quy
cách thức giải mã tác phẩm ấy thành một hệ thống thao tác hợp lý. Và những thao tác này
phải được thực hiện một cách nhất quán đối với các tác phẩm cùng một thể loại. Như vậy
việc nghiên cứu thi pháp thể loại giúp người giáo viên không những có khả năng tự mình
hiểu đúng, hiểu sâu tác phẩm vhdg trong chương trình mà còn có khả năng hoàn thiện hệ
thống thao tác phân tích tác phẩm nhằm luyện cho HS cách thức đọc – hiểu tác phẩm
ngay chính trong quá trình các em được hướng dẫn tìm hiểu tác phẩm.
23
- Người con riêng (Tấm Cám…) triển tương ứng với
- Người mồ côi (Chử Đồng Tử…) xã hội, mang tính
- Người mang lốt vật (Sọ dừa…) cách loài người.
- Người đi ở (Cây tre trăm đốt…) Tiếp cận truyện
* Kiểu nhân vật kỳ tài, trí xảo - (khờ khạo) ngụ ngôn.
- Người dũng sĩ (Thạch Sanh…)
- Nhóm người có tài lạ (Bốn anh tài…)
Gọi là kiểu nhân vật là vì những nhân vật này có
những nét tương đồng căn bản về tính cách, hành
động và số phận; thường xuất hiện trong cổ tích
thần kỳ và có cốt truyện đại thể giống nhau.
Theo quan điểm xã hội học: phân loại nhân vật
chính của cổ tích theo tiêu chuẩn “nguồn gốc
xuất thân”. Theo tiêu chuẩn này , nhân vật được
phân thành 2 loại: Loại có nguồn gốc “thần kỳ”
(gọi là nhân vật cao quý), Loại có nguồn gốc
“tầm thường” (gọi là nhân vật thấp hèn). Loại thứ
nhất được trời phú cho sức mạnh thần kỳ từ lúc
ra đời. Loại thứ hai (thường là nông dân, người
nghèo khổ) chỉ bộc lộ tài trí phi thường, hoặc
được nhân vật trợ thủ thần kỳ (thần, phật, tiên,
thánh…) ban cho sức mạnh thần kỳ khi gặp khó
khăn, thử thách bất thường.
Cách phân loại này có ý nghĩa: giúp ta nhận rõ
hơn mối quan hệ giữa nhân vật và kết cấu truyện
cổ tích (kết cấu của truyện có nhân vật “thấp
hèn” thường phức tạp hơn so với truyện nhân vật
có nguồn gốc “cao quý”). Ví dụ...
Kiểu kết cấu này có ý nghĩa: thể hiện ước mơ
nêu cao tài trí của những “con người bé nhỏ”,
“kẻ nghèo trở thành giàu”, thể hiện niềm tin vào
chiến thắng cuối cùng của chính nghĩa.
Hình tượng nhân vật “con người bé nhỏ” trong
TCT là kết quả của lối tư duy NT mới hướng vào
cuộc sống đời thường.
Về Xung đột Có 2 loại xung đột: - Xung đột giữa
- Xung đột xã hội. con người và loài
- Xung đột giữa con người và trở lực thiên nhiên. vật.
24
Đây là sự tiếp nối hợp quy luật về đề tài cuộc đấu
Dấu vết ấy thể
tranh của con người nhằm tìm hiểu và chế ngự hiện:
thiên nhiên trong thần thoại. + Ở những môtíp
Xung đột thường được giải quyết nhờ can thiệp rất cổ gắn với tín
của các lực lượng thần kỳ. Nhân vật chính ngưỡng tôtem (vật
thường thụ động. (lực lượng thần kỳ có 2 loại: 1tổ).
trợ giúp người bất hạnh – phía thiện, 2 trợ giúp+ Thể hiện gián
các thế lực đen tối – phía ác). tiếp qua môtíp gọi
Lực lượng thần kỳ về bản chất là những môtíp là “dư âm của cái
thần thoại. Chúng tạo nên cái lõi của cổ tích TK.
thời con người bắt
Môtíp XH tạo nên khung cảnh của câu chuyện. thú về nuôi.
Qua thời gian
* Cổ tích sinh hoạt: Chủ yếu tập trung vào đề tài
XH. Cụ thể là đã chuyển hóa
- Đạo đức (= CTTK đề tài xung đột gia đình). thành xung đột sinh
- Trí khôn (= CTTK đề tài sức khỏe và tài lạ). hoạt xã hội.
- Xung đột giữa kẻ
yếu và kẻ mạnh (là
xung đột nổi bật.
Nhưng không có sự
lý tưởng hóa nhân
vật).
Về kết cấu Xây dựng theo một sơ đồ chung nhất định. Cơ sở Do đề tài đơn giản
để xác lập sơ đồ kết cấu là hành động của nhân nên kết cấu phổ
vật chính. biến là hình thức kể
1/ Xuất hiện : a) Thấp hèn, chuyện ngắn – đối
b) thần kỳ thoại. Vì thế, câu
2/ Phiêu lưu : a) Ra đi (hoặc bước chuyện thường
vào tình huống khó khăn) mang dáng dấp một
b) Gặp thử thách hành động kịch.
c) Chiến thắng - Có 2 kiểu kết cấu:
3/ Đổi đời (thay đổi số phận) + Đơn tình tiết
a) Thưởng (phạt) + Đa tình tiết (Cóc
b) Được đền bù kiện trời: 1 là đoàn
* Cổ tích SH: Kết cấu linh động.Tuy vậy có thể kết, 2 là giao đấu.
phân biệt hai kiểu kết cấu:
+ Kết cấu kể sự việc (kết cấu này được sử dụng
rộng rãi trong đề tài đạo đức).
+ Kết cấu xâu chuỗi (sử dụng rộng rãi trong đề
25
tài trí khôn).
Không gian - Không gian không cản trở nên hành động của - không gian của
nghệ thuật con người không bị trở ngại của hoàn cảnh. Tính những quan niệm
chất thần kỳ của truyện cổ tích là do không gian hư cấu.
không cản trở này tạo nên. Bởi thế, nhân vật của - Hư cấu nảy sinh
truyện cổ tích không biết đến mệt mỏi, ốm đau, từ sự thống nhất
núi sông không ngăn chặn được bước chân của các mặt đối lập của
con người. Con người có thể làm được nhiều thế giới người và
điều kỳ diệu. loài vật làm một
- Không gian, hoàn cảnh không chịu trách nhiệm không gian, một
gì về hành động của nhân vật. Tất cả là do nhân môi trường. Đó
vật chịu trách nhiệm. là một thế giới đặc
+ Nếu là thiện thì bất khả chiến bại. biết “quái đản”
+ Nếu có lòng thành thì ác lai trong khoảnh khắc không phải thế giới
có thể được lên cõi niết bàn dù anh ta vốn là một người mà cũng
kẻ cắp (Sự tích cá he) không phải thế giới
Con người cổ tích không có tính tích cực vật loài vật (thế giới
chất, không phải khắc phục gì cả (khóc một cái là của những quan
lập tức bụt hiện lên giúp). Thế nên, nhân vật cổ niệm thực tế lẫn
tích thường không khéo léo, không có trí tuệ cá lộn).
nhân, tất cả tài ba đều là do trời phú. Ví dụ: những con
- Không gian không cản trở cho phép tạo nên vật trò truyện nói
một thế giới đa dạng trong truyện cổ tích. năng với nhau, làm
*Cổ tích SH: Không gian làng xã Việt Nam: thơ phú v.v… như
+ Cảnh nông thôn người.
+ Cảnh chợ - Không gian môi
+ Cảnh trường thi trường sinh thái tự
+ Chốn cửa quan nhiên (bờ sông,
Môtíp xã hội chiếm một vị trí lớn, nên hư cấu rừng núi, ngọn
thường không mang tính kì ảo mà được xây dựng cây…).
trên sự miêu tả phi lí (phóng đại) của nét tính
cách nào đó của nhân vật tính chất gây cười.
Thời gian nghệ 2/ Thời gian cổ tích - Thời gian 3 chiều
thuật - Mang tính chất sự kiện không có thời gian tâm của tự nhiên.
lý, thời gian đợi chờ. Là dòng chảy của chuỗi
hành động nhân vật.
- Thời gian khép kín, bao giờ cũng là “chuyện
đời xưa”.
26
- Nhân vật khong biết hồi tưởng, không biết ước
mơ, nghĩa là luôn sống với thời hiện tại. Do đó,
không xác định được lịch sử, không thể nối liền
thời gian cổ tích với một thời gian lịch sử nào.
Có những công thức cố định trong lời kể (sáo
ngữ không thay đổi).
*Cổ tích SH: Thời gian 3 chiều của quy luật tự
nhiên.
- Chi tiết miêu tả thường phóng đại miêu tả phi
lý.
Căn cứ vào những đặc điểm thi pháp truyện cổ tích, có thể xác định công việc phân
tích truyện cổ tích:
- Cần tập trung vào nhân vật (hành động) và cốt truyện, từ đó gợi ra những nhận xét, suy
nghĩ về nhân vật và ý nghĩa câu chuyện.
- Phân tích các chi tiết và thủ pháp so sánh đóng vai trò đặc biệt quan trọng
Ví dụ: chi tiết “chim phượng hoàng” (Cây khế) không đóng vai trò thưởng phạt mà làm
cho sự đối lập của hai anh em càng hết sức hiển nhiên và làm rõ kết cấu tương phản của
truyện.
“Sọ Dừa” là nhân vật dị dạng nên chỉ có một người (ngoại trừ cha mẹ đẻ) không
khinh rẻ, xa lánh còn tất cả mọi người không chỉ kinh rẻ, xa lánh mà còn tìm cách chế
giễu. Kết cục mọi người đều “thua” chỉ riêng người yêu người xấu xí ấy được hạnh phúc.
27
2.4.1. Hệ đề tài của ngụ ngôn là những kinh nghiệm sống và đấu tranh xã hội. Vì thế, ngụ
ngôn cũng được coi là một thể loại triết lý dân gian.
Mối quan hệ giữa truyện ngụ ngôn với tục ngữ và truyện cổ tích loài vật
- Ngụ ngôn gần với tục ngữ về nội dung: Tục ngữ là nguồn vô tận những hiểu biết và kinh
nghiệm được nhân dân rút ra thành những bài học, những điều răn dạy để gửi vào truyện
ngụ ngôn dân gian.
- Ngụ ngôn gần với cổ tích loài vật về hình thức: Cổ tích loài vật và thành ngữ tục ngữ có
dùng hình ảnh loài vật trong phép so sánh (cao như sếu, nhanh như cắt….) là nguồn vật
liệu cốt truyện và nhân vật.
b) Xung đột
Tiêu biểu là xung đột giữa cái đúng với cái sai, giữa chân lý với ngụy lý. Xét đến
cùng, thực chất đó là phản ánh những xung đột xã hội : xung đột giữa người bị áp bức với
kẻ áp bức, xung đột giữa cái tốt với cái xấu trong đời sống xã hội. Ví dụ: “Con cò chết rũ
28
trên cây/ Cò con giở sách xem ngày làm ma/ Cà cuống uống rượu la đà/ Chim ri ríu rít bò
ra chia phần”.
- Xung đột này biểu hiện ở những lý lẽ hành động, ở triết lý ứng xử của nhân vật. Đặc
điểm này giúp ta nhận ra những xung đột cụ thể ở những truyện chỉ có một nhân vật và
nhân vật này cũng không gặp trở lực nào của hoàn cảnh. Ví dụ: “Nhìn bề ngoài dễ bị lừa”
(xung đột nằm phía sau hành động của nhân vật). Truyện “Sói và Cừu non”:
- sao nhà người làm đục vùng nước ta đang uống
- Đâu dám ạ! Giả sử có đục thì không phải tại con, bởi nước từ chỗ ông uống chảy xuống
chỗ con kia mà?
- Thôi được, thế sao mày dám chửi rủa tao giờ này năm ngoái ?
- Đâu có ạ! Bây giờ con mới có nửa tuổi
- Tao không biết, nếu không phải là mày thì là bố mày.
Dứt lời nó vồ lấy cừu non đáng thương. Cừu cnon chỉ kịp thốt lên: “Lời ngụy biện
nào cũng chỉ có lợi cho bạo chúa” (xung đột về lý lẽ: cừu non luôn đúng, sói toàn ngụy
biện. Nhưng rút cục, lẽ phải vẫn thuộc về sói). ? “Cái lý của kẻ mạnh bao giờ cũng đúng
hơn”.
- Xung đột này còn được biểu hiện ở dưới dạng: xung đột giữa tác giả (hoặc người sử
dụng truyện) với nhân vật trong câu chuyện kể. Nghĩa là trong truyện chỉ có một nhân vật
hành động với lý lẽ, triết lý ứng xử của nó. Còn tác giả đứng ở phía sau màn kịch (câu
chuyện kể) hoặc chỉ xuất hiện qua lời răn dạy ở cuối truyện. Ví dụ: “Cái bống đi chợ cầu
canh/ Cái tôm đi trước củ hành theo sau/ Con cua lạch đạch theo hầu/ Cái chày rơi xuống
vỡ đầu con cua.) một lũ chết dẫm đua nhau làm đồ ăn cho người ta, người ta đập cho
vỡ đầu mà không biết. Chế giễu, cảnh tỉnh tất cả những ai đang sống u mê trong triết
lý “nhắm mắt đưa chân”.
c) Kết cấu: Giống một màn kịch
Đặc trưng của kiểu kết cấu này là: 1/ Tình huống hoàn cảnh được chỉ dẫn cụ thể. 2/
Nhân vật được miêu tả sắc nét. 3/ Có đối thoại (hoặc độc thoại), hành động diễn ra mau
lẹ. Không có chi tiết, lời lẽ thừa (Lời kể cô đúc, giọng điệu châm biếm).
d) Không gian thời gian nghệ thuật
- Không gian xã hội
- Thời gian sự kiện (vận động theo quy luật nhân quả).
30
trong một tình huống bình thường (câu khác thường (câu chuyện diễn ra trong thế
chuyện diễn ra trong cuộc đời hàng ngày). giới cổ tích).
- Đối tượng của sự cười cợt, sự phê phán. - Đối tượng của sự lý tưởng hóa, sự ca
ngợi.
- Cả hai loại nhân vật này đều được đặt cùng vào loại tình huống – đó là tình huống sinh
hoạt “đời thường”. Chỗ khác nhau của hai loại nhân vật này là ở tính chất của hành vi ứng
xử. Ví dụ: “Phương pháp nào tốt hơn” (Truyện hài hước. Ta không cười cái tằn tiện mà
cười cái phương pháp kì quặc – cười hành vi). “May không đi giày” (Truyện châm biếm.
Ta cười cái hành vi của anh ta vì nó gắn với tính cách hà tiện – cười chính nhân vật).
- Trong truyện cười, còn có nhân vật chính và nhân vật phụ
+ Nhân vật phụ là đối tượng của cái cười hài hước. Có chức năng làm lộ ra cái đáng cười
tiềm ẩn nơi hành vi của nhân vật chính, biến nó thành nhân vật đối tượng của cái cười
châm biếm (ví dụ: “Đậu phụ”, “R … của con”).
+ Nhân vật chính là đối tượng của cái cười châm biếm.
b) Xung đột
- Thường là xung đột giữa cái thật với cái giả, giữa “sự thật và điều dối trá”.
Xung đột này biểu hiện ở mâu thuẫn ngay trong hành vi (buồn cười) của nhân vật.
- Cái giả, cái dối trá là cái hình thức bên ngoài có vẻ hợp tự nhiên, hợp lẽ thường.
- Cái thật, sự thật là cái nội dung bên trong trái tự nhiên, trái lẽ thường của hành vi ấy.
- Biểu hiện và diễn hóa của xung đột truyện cười như sau: cái giả và cái thật cùng tồn tại
trong hành vi của nhân vật: cái giả là hình thức bên ngoài che đậy cái thật, cái thật là nội
dung bên trong ẩn dưới cái giả. Qua trung gian của cái cười cái giả và cái thật được được
phân biệt, cùng lộ rõ.
- Cơ sở xã hội của xung đột trong truyện cười: 1/ Sự khủng hoảng suy sụp của chế độ
phong kiến (vua không ra vua, quan lại rặt một phường tham nhũng, bất tài…); 2/ Sự phát
triển của cuộc đấu tranh nhân dân chống ách chuyện chế phong kiến.
c) Kết cấu: Để có cái cười đòi hỏi hai điều kiện:
1/ Có hiện tượng buồn cười (điều kiện cần); 2/ Người cười phải tự mình nhận ra cái đáng
cười (điều kiện đủ). Do đó, mấu chốt của nghệ thuật gây cười là ở chỗ phải làm sao cho
cái đáng cười tự nó bộc lộ ra một cách cụ thể, sống động và thật tức cười để người nghe,
người đọc tự mình phát hiện ra nó mà cười. Muốn thế người ta phải:
- Đặt nhân vật có thói xấu vào hoàn cảnh thích hợp (VD: tham ăn phải vào bữa ăn –
nhưng là ăn giỗ nhà bố vợ, ăn cỗ … thì mới bộc lộ tính tham ăn).
- Tiếp theo, người ta phải đẩy tình thế ban đầu tới chỗ gay cấn, khiến mâu thuẫn tiềm tàng
phải bộc lộ. Muốn vậy phải tạo ra “biến cố” bất ngờ buộc nhân vật phải hành động (Kịch
tính, điểm nút của truyện).
- Mâu thuẫn tiềm tàng phát triển thành mâu thuẫn cụ thể và phải bộc lộ (Mở nút và kết
thúc truyện).
31
- Truyện cười có kết cấu mang dáng dấp một màn hài kịch :
+ Giới thiệu hiện tượng có mâu thuẫn tiềm tàng
+ Mâu thuẫn tiềm tàng phát triển tới đỉnh điểm
+ Mâu thuẫn bộc lộ (có thể hiểu là mâu thuẫn được giải quyết)
- Vai trò của yếu tố bất ngờ trong kết cấu: 1/ đóng vai trò tình huống diễn ra cái đáng
cười; 2/ thể hiện bản chất của cái đáng cười thông qua hành vi nhân vật. Ví dụ: “Được
một bữa thả cửa” biến cố “con gà” là yếu tố bất ngờ thuộc về tình huống (hoàn cảnh). Còn
cử chỉ “vơ cả đĩa trút vào bát” là yếu tố bất ngờ thuộc về hành vi nhân vật, nó tương phản
1800 với cái “từ tốn lịch sự” lúc đầu của nhân vật. Đấy là yếu tố bất ngờ gắn liền với bản
chất của hiện tượng buồn cười.
d) Ngôn ngữ
- Lời văn cô đúc, giản dị (ít bị thay đổi cốt truyện và chi tiết).
- Ngôn ngữ đối thoại đóng vai trò quan trọng trong lời văn kể chuyện. Gồm hai phần:
+ Phần đối thoại là “tiêu điểm” của hành động và diễn hóa hành động của nhân vật.
+ Phần còn lại của lời văn kể chuyện là những chỉ dẫn về hoàn cảnh và diễn hóa của hoàn
cảnh.
- Ngôn ngữ chắt lọc từ nguồn khẩu ngữ dân gian nên mang tính hài hước, tự nhiên, sinh
động, sắc bén.
- Sử dụng thủ pháp phóng đại nhằm mục đích lố bịch hóa cái đáng cười, khiến cho mâu
thuẫn trong hành vi buồn cười tác động mạnh mẽ vào nhận thức, ý thức tư tưởng của
người nghe, người đọc. Như vậy phóng đại trong truyện cười có sự gặp gỡ và hòa nhập
với lối nói khoác, tạo nên một lối “đại ngôn” đặc sắc.
• Nhóm (1): Cấu trúc so sánh định nghĩa gồm các dạng
a là b a như b a => b
- Cái răng cái tóc là góc con - Lòng vả như lòng sung - Tấc đất, tấc vàng.
người. - Tiền vào nhà khó như gió - Người sống, đống vàng.
- Cờ bạc là bác thằng bần vào nhà trống.
Ý nghĩa căn bản của cấu trúc so sánh định nghĩa: là dùng b để cụ thể hóa, nhấn
mạnh một đặc tính nào đó thuộc bản chất của a.
• Nhóm (2): Cấu trúc so sánh thứ bậc gồm các dạng
33
con đẻ. bằng đũa vênh. chẳng bằng một bó - Cái nết đánh chết
- Một hòn đất nỏ đuốc. cái đẹp.
bằng một giỏ phân. - Trăm nghe…
• Nhóm (3): Cấu trúc suy luận lôgic gồm các dạng
a thì b Muốn a phải b Chưa a đã b a mà a- Càng a càng a-
có a thì có b a nhưng a-
- Ở hiền gặp - Muốn ăn thì - chưa học bò - Con nhà lính, - Càng thắm thì
lành. lăn vào bếp. đã lo học chạy. tính nhà quan. lại càng phai.
- Có cây mới có - Chạy buồm, - Chưa đỗ ông - Miệng thơn - Tốt quá hóa
dây leo. xem gió. nghè đã đe hàng thớt, dạ ớt ngâm lốp.
- Không thầy đố tổng. - Yêu nhau lắm
mày làm nên. cắn nhau đau.
A = A’ A = B (= C)
- Buôn có bạn, bán có phường. - Hàm chó, vó ngựa, cựa gà, ngà voi.
- Không gấp đi đâu tối, không vội đi đâu - Dưa La, cà Láng, nem Bảng, tương Bần,
đêm. nước mắm Vạn Vân, cá rô đầm Sét
Ý nghĩa của kiểu cấu trúc so sánh trùng điệp là liên kết những phán đoán có nội
dung và cấu trúc tương tự (A và A’) hoặc có hàm nghĩa tương đương (A và B) thành một
phán đoán chung nhằm làm nổi bật ý nghĩa chung của câu tục ngữ bằng phép bồi trợ.
• Nhóm (2): Cấu trúc so sánh thứ bậc gồm các dạng
A > B ( > C): Nhất A, nhì B A < B: A không bằng B
- Thứ nhất cày nỏ, thứ nhì bỏ phân. - Giặc bên ngô không bằng bà cô…
- Thứ nhất đom đóm vào nhà, thứ nhì… - Làm ruộng ba năm không bằng chăn tằm
- Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò. một lứa.
34
Ý nghĩa của kiểu cấu trúc so sánh thứ bậc đối xứng kép cũng tương tự như kiểu
cấu trúc so sánh thứ bậc đối xứng đơn. Chỗ khác biệt là: 1/ A và B tuy là 2 vế của câu tục
ngữ nhưng bản thân chúng cũng có ý nghĩa của một phán đoán (tức cả A và B cũng là
kinh nghiệm). 2/ A > B là so sánh thứ bậc đúng mức, còn A < B luôn luôn có tính chất
phóng đại nhằm thuyết phục bằng “gây ấn tượng”.
• Nhóm (3): Cấu trúc suy luận lôgic gồm các dạng
A thì B A =/= B A + A- A + A’ + A”
- Cá không ăn muối - Bà con vì tổ vì tiên - Mềm nắn rắn - Ba tháng biết lẫy,
cá ươn … chứ không … buông. bảy tháng biết bò
- Nứa trôi sông - Con có cha có mẹ, - Sáng tai họ, điếc - Gái một con trông
chẳng dập thì gãy. không ai ở lỗ nẻ tai cày. mòn con mắt
- Gái chồng dẫy chui lên. - Đàn bà không biết Gái hai con vú quặt
Chẳng chứng nọ thì - Khách nhớ nhà nuôi heo đàn bà đằng sau.
tật kia. hàng, nhà hàng nhác. Đàn ông Gái ba con đụng đâu
không nhớ khách. không biết cột lạt ngồi đấy.
đàn ông hư.
Ý nghĩa của kiểu cấu trúc này là: 1/ mượn A để khẳng định B, 2/ phủ định B để
khẳng định A, 3/ đối chiếu A, A- để vạch rõ mâu thuẫnn của đối tượng được đề cập, 4/ so
sánh theo thời gian chỉ rõ sự biến đổi đi lên hoặc đi xuống của đối tượng.
b) Từ ngữ, nhịp và vần của tục ngữ
b.1) Từ ngữ :
- Sắc sảo mà giản dị (vì tục ngữ là hình thức tinh luyện của khẩu ngữ dân gian.
- Sử dụng nhiều từ Hán – Việt (Vô phúc đáo tụng đình, tụng đình rình vô phúc).
- Tính hình ảnh của sự diễn đạt những khái niệm, những ý tưởng trừu tượng (qua biện
pháp so sánh. Có ba loại quan hệ so sánh trong tục ngữ: so sánh hình ảnh, so sánh giữa
hai vế để biểu đạt một lập luận, so sánh khi sử dụng tục ngữ vào các hoạt động nói năng –
ứng xử).
Ví dụ : Một giọt máu đào hơn ao nước lã.
1/ Họ hàng = máu đào
Người dưng = nước lã
2/ Vế 1 so sánh vế 2 : a hơn b
3/ trong ứng dụng: câu tục ngữ trở thành tỷ dụ => Đề cao quan hệ huyết thống
b.2) Nhịp của câu tục ngữ :
Nhịp tự nhiên, đồng thời là nhịp lôgic (do yêu cầu của nội dung).
- Câu có trục đối xứng nhịp nằm ở giữa hai vế. Nếu ba vế có hai trục
- Kiểu câu hô ứng (bao nhiêu… bấy nhiêu) có trục đối xứng xoáy.
Dấu hiệu hình thức của đối xứng thường là những liên từ, trợ từ nhưng tục ngữ ít
sử dụng các loại từ ấy (làm cho câu tục ngữ chắc gọn hơn), nên trục đối xứng thường ẩn
trong nhịp và vần.
35
Ví dụ : Vỏ quýt dày / móng tay nhọn.
Không thầy / đố mày làm nên.
Ăn cây nào / rào cây ấy.
Đầu năm buôn muối / cuối năm buôn vôi.
Một nghề thì kín / chín nghề thì hở.
b.3) Vần của tục ngữ
Vần là yếu tố giữ nhịp, tạo ra sự hài hòa âm thanh cho câu tục ngữ, đồng thời góp
phần làm nâng nổi những từ có ý nghĩa quan trọng trong câu.
- Vần tục ngữ linh hoạt, bắt với nhau rất tự nhiên.
+ Vần liền: Ví dụ câu 4 tiếng, 6 tiếng, 8 tiếng (cốc mò cò xơi / có tật giật mình…).
+ Vần cách : Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm / Hay làm thì đói, hay nói thì no.
Tháng bảy heo may chuồn chuồn bay thì bão
Tháng năm đi trước, tháng năm Chẳng ngược về sau
Tiền lĩnh quần chị không bằng tiền chỉ quần em
37
- Ẩn dụ ca dao, thơ bao giờ cũng mang ý, chứa những hàm ý sâu sắc, gợi cảm, bao
hàm cả thái độ, suy ngẫm của tác giả đối với đối tượng biểu hiện. Ví dụ: Ẩn dụ “bà hai
đầu” ở câu đố: “Trong nhà có bà hai đầu”
Chỉ có nghĩa là cái võng, ngoài ra không có nghĩa gì khác. Do đó, việc “giải mã” ẩn dụ
câu đố thường giới hạn ở chỗ suy từ B ra A, từ hình ảnh ẩn dụ ra vật đố, từ hai đầu ra cái
võng. Nhưng tiếp nhận ẩn dụ ca dao, thơ không đơn giản chỉ là sự “dịch nghĩa” B ra A,
“thuyền” là chàng trai, “bến” là cô gái. Chỗ mà ẩn dụ câu đố, ta có thể dừng lại, thì với ẩn
dụ văn học, đó chỉ là chỗ bắt đầu. Vậy nên người ta còn có thể nói tiếp, chẳng hạn, về ẩn
dụ “thuyền - bến”. Khi người con gái hát: “Thuyền về có nhớ bến chăng…” cô gái không
chỉ diễn tả nỗi nhớ mong, niềm hy vọng, lòng son sắt và thoáng lo âu của những đợi chờ,
mà cả cảm nghĩ về thân phận đáng thương của mọi cô gái của một thời đại. Người con trai
giống như con thuyền nay đây mai đó, đâu có thể là bến là bờ của dòng – sông – cuộc –
đời. Trong ca dao xưa, chỉ có “anh đi” mà thôi! Còn người con gái như bến nước, không
chuyển dời, chỉ biết chờ đợi…
Sự khác biệt tiểu biểu giữa ẩn dụ câu đố và ẩn dụ văn học là ẩn dụ câu đố thường là
sự so sánh cái cụ thể với cái cụ thể (có rất ít trường hợp so sánh cái cụ thể với cái trừu
tượng) còn ẩn dụ ca dao, thơ là đi từ trừu tượng đến cụ thể. Có thể lập bảng so sánh sau:
Giống nhau Đều là phương thức chuyển nghĩa
(từ nghĩa này sang nghĩa khác, từ nghĩa đen sang nghĩa bóng)
Khác nhau Ẩn dụ câu đố Ẩn dụ ca dao, thơ
- Liên tưởng tương cận (bên ngoài) - Liên tưởng tương đồng (bên
- Không bắt buộc hàm chứa một ý trong)
nghĩa khác. - Luôn hàm chứa những ý nghĩa
- So sánh cái cụ thể với cái cụ thể. sâu sắc khác.
(ít so sánh cái cụ thể với cái trừu - So sánh cái trừu tượng với cái
tượng) cụ thể.
Tuy nhiên ẩn dụ câu đố và ẩn dụ ca dao, thơ có khả năng tiếp cận với nhau.
Có hai trường hợp tiếp cận:
Một, đó là trường hợp ẩn dụ câu đố có ngụ ý. Tức câu đố ngoài mục đích đánh đố,
người đố muốn gửi vào ẩn dụ câu đố một ngụ ý nào đó (gần với ca dao ngụ ngôn). Ví dụ,
câu đố về cái bắp ngô: “Còn duyên đánh phấn phơi màu
Hết duyên má hóp răng vàng phơi khô”
(Vừa nói về trái ngô, vừa gợi liên tưởng về thân phận người phụ nữ).
Ta thấy sự liên tưởng ấy, có sự hỗ trợ của những câu ca dao có cấu trúc “Còn
duyên/ Hết duyên” như:
Còn duyên như tượng tô vàng
Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa
*
Còn duyên kẻ đón người đưa
38
Hết duyên vắng ngắt như chùa Bà Đanh
*
Còn duyên kén những trai tơ,
Hết duyên ông lão cũng vơ là chồng
Hai, đó là trường hợp những ẩn dụ câu đố dễ hiểu, chính xác và gợi cảm.
Ví dụ: Mười người thợ lo đỡ mọi bề
(Câu đố về hai bàn tay)
Nắng ba năm ta không bỏ bạn
Mưa một ngày bạn lại bỏ ta
(Câu đố về cái bóng)
Không có tui đui cả nhà (Ngọn đèn)
Có thể nói, ẩn dụ câu đố dễ hiểu, chính xác và gợi cảm đến mức nào đó thì cũng
sánh được với ẩn dụ ca dao, thơ. Ngược lại, ẩn dụ ca dao, thơ khó hiểu đến mức nào đó
cũng dễ biến thành câu đố.
b) Thế giới vật đố và thế giới liên tưởng từ vật đố.
Trong câu đố có hai đối tượng được đề cặp: vật đố và hình ảnh ẩn dụ của nó. Tập
hợp những vật đố hợp thành thế giới vật đố. Tập hợp những hình ảnh ẩn dụ của vật đố tạo
nên thế giới liên tưởng từ vật đố.
b.1) Thế giới vật đố: Vật đố có thể chia thành ba nhóm:
- Những đồ dùng lao động và đồ dùng sinh hoạt hàng ngày của nhân dân
+ Những đồ dùng lao động nông nghiệp: cày, bừa, cuốc, rựa, liềm, hái, gầu tát nước,
guồng nước, hòn đá, trục lúa… Ví dụ: Có răng mà chẳng có mồm,
Nhai cỏ nhồm nhồm cơm chẳng chịu ăn (Cái liềm)
“Đời em uốn gối cong lưng,
Lưỡi em giọng nói ra chừng thép gang.
Mỗi khi em bước ra đàng,
Yêu em anh bế, anh mang, anh bồng.” (Cái gầu sòng)
+ Những đồ dùng thủ công: khung cửi, xa (xa cán bong, xa kéo sợi), thoi, bào, bễ thổi
lửa, vạch, kéo, kim,… Ví dụ: Người thì một thước,
Đuôi dài thước năm.
Khi đi thì nằm
Khi ngồi thì đứng
Trên cầu dưới cầu,
Con trâu đi lọt. (cái thoi)
+ Những đồ dùng sinh hoạt thông thường: cối xay lúa, cối giã gạo, nồi, bát đĩa, chum
gáo, dao thớt, đá mài, chổi, chiếu, trầu, bình vôi, ấm chén, áo, yếm, lược, quạt, nón, tơi…
Ví dụ: “Hai đầu một mặt bốn chân
Có đàn em nhỏ quay quần xung quanh.” (bàn và ghế)
“Vừa bằng cái thúng,
39
Lăn đúng giữa nhà,
Con cháu ông bà,
Toàn gia quay lại.” (mâm cơm)
- Những công việc và thao tác lao động, sinh hoạt
+ Lao động nông nghiệp: nhổ mạ, cấy lúa, tát nước, trục lúa,…; kéo vó, bỏ chuôm,
móc cua, đi nhủi, chăn vịt….
+ Lao động thủ công: ươm tơ, dệt vải, xẻ gỗ, rèn sắt,…
+ Sinh hoạt: xay lúa, giã gạo, ăn cơm, hút thuốc, nhai trầu, xâu kim,…
- Những sự vật và hiện tượng quen thuộc khác
+ Gia súc, gia cầm và những con vật thường thấy: trâu , bò, ngựa, chó, mèo, gà, cá,
cua, tôm, ốc, ếch, đỉa, tằm, nhộng, nhện, ruồi, muối, chuột, rận, chấy,…
+ Những cây, quả thường dùng: lúa, ngô, khoai, rau muống, chuối (hoa), mía, cao,
dừa( quả), mít, bưởi, xoan, tre, quả na, quả ổi, quả chanh, quả cà, quả ớt…
+ Những bộ phận của nhà cửa: mái nhà, xà nhà, bậc cửa, cột nhà, máng nước,…
+ Quà bánh và những đồ dùng vui chơi: bánh đa, bánh dì, bánh rán, bánh chưng, bánh
trôi,...; cái diều, đèn kéo quân, bộ tam cúc, bài tổ tôm,…
+ Chữ nghĩa và đồ dùng học tập: quyển vở, trang sách, cái bút (bút long, bút chì) và
một số chữ Hán…
+ Một số vật hiện tượng tự nhiên: mặt trời, mặt trăng, sao, hạt mưa, nước, biển, núi,…
+ Con người và một số bộ phận của cơ thể người: cái mặt, đôi mắt, mũi, miệng, hàm
răng, đôi bàn tay, ống chân, bàn chân,….
Ví dụ: - Mồm bò mà không phải mồm bò, mà lại mồm bò
- Ông già đội nón đỏ, thằng nhỏ đội nón xanh
- Đầu đội thúng tro, đít đo cây cột
- Công tử bột đi tìm nước ngọt
- Sóng ba đào công tử nổi lên.
- Mười người thợ lo đỡ mọi bề
Nhìn chung, thế giới vật đố trong câu đố dân gian của người Việt phản ánh khá chân
thực môi trường sinh thái và sinh hoạt của người nông dân ở nông thôn xưa kia. Ở đây tất
cả những sự vật hiện tượng, hoạt động quen thuộc mà người nông dân thường thấy,
thường dùng, thường làm trong cuộc sống hằng ngày, đời này qua đời khác. Trong trò
chơi câu đố, có một luật chơi được tôn trọng nghiêm ngặt, đó là: người ta không đố về
những sự vật, hiện tượng xa lạ với người trong cuộc. Do đó, câu đố không thể là phương
tiện truyền dạy tri thức về sự vật, “có tác dụng bồi dưỡng tri thức về thế giới khách quan
cho nhân dân”. Thật ra, câu đố không cho người ta biết thêm về một sự vật gì mới và
cũng không cho người ta biết thêm điều gì mới về các sự vật quen thuộc. Ví dụ câu đố về
cái cày: “Khi đi lè lưỡi, khi về cũng lè lưỡi” ở câu đố này không đem lại cho trẻ em nông
thôn một kiến thức gì mới về cái cày. Nhưng vấn đề là ở chỗ không phải tất cả những ai
đã biết cái cày đều thấy nó như một con vật “khi đi thè lưởi khi về cũng thè lưỡi”. Chính
40
“phát hiện” ấy đem lại cho người ta niềm thích thú. Có thể nói toàn bộ chức năng giải trí
và giáo dục của câu đố đều dựa trên sự khai thác cái cách nhìn mới lạ, bất ngờ, độc đáo
đối với các sự vật, hiện tượng quen thuộc.
b.2) Thế giới những vật thay thế cho vật đố
Thế giới những vật thay thế cho vật đố là thế giới được “sáng tác” ra từ nguyên mẫu
vật đố chủ yếu dựa vào liên tưởng, tưởng tượng.
- Tính chất kì dị của những hình ảnh ẩn dụ câu đố.
Phần lớn những sự vật, hiện tượng vốn hết sức quen thuộc với người ta, khi trở thành
vật đố, đều được mô tả thành những sự vật, hiện tượng kì dị. Ví dụ:
+ Cái gối nằm được hình dung thành một vật:
Đánh ngã đàn ông
Đánh ngã đàn bà
Đánh ngã kẻ chợ
Đánh ngã vợ vua
+ Cái ống chân được mô tả thành một con vật:
Lưng đi trước, bụng đi sau
Cái mắt cái đầu cách nhau một thước
“ Kỳ dị hóa” những sự vật, hiện tượng quen thuộc của thế giới chung quanh là một xu
hướng nổi bật trong cách cấu tạo câu đố dân gian.
- Tính chất thân quen của những hình ảnh bộ phận trong ẩn dụ câu đố
Ần dụ câu đố có một đặc điểm chung là: nhìn cả tổng thể thì ra một vật kì dị, thậm chí
quái đản; nhưng từng bộ phận hợp thành của nó thì lại là những hình ảnh về những sự vật
hiện tượng thân quen với những người lao động.
Ví dụ : Ẩn dụ về sàng gạo nhìn tổng thể thì quả là một vật rắc rối:
Một trăm tấm ván
Một vạn thằng dân
Thằng nào cởi trần
Thằng ấy chui lọt
Nhìn chung, trí tưởng tượng của những người sáng tác câu đố dù phóng túng đến đâu
cũng không thể không dựa vào nguồn vật liệu sẵn có của thực tiễn lao động và sinh hoạt
cung cấp cho họ.
- Tính chất sống động, có hồn của những hình ảnh ẩn dụ câu đố
Câu đố thường mô tả sự vật trong trạng thái hoạt động hoặc biến đổi của nó. Ví dụ:
+ Bát đĩa được mô tả ở trạng thái đang đứng rửa, sau bữa ăn, để gác lên chạn:
Một đàn cò trắng phau phau
Ăn no tắm mát rủ nhau đi nằm
+ Cái kéo được mô tả ở trạng thái lăm lăm “hành chức”:
Vừa bằng lá tre xun xoe đánh vật
41
Ngay cả những câu đố có ẩn dụ thuộc dạng tranh “tĩnh vật” cũng tìm ẩn một nét
“động”. Ví dụ: “Vừa bằng cánh của nằm ngửa giữa trời” (câu đố về tàu lá chuối), “Vừa
bằng con bò nằm co giữa ruộng” (câu đố về cái mả)
Điều quan trọng là tất cả các sự vật được mô tả đều có hồn, có sinh khí. Để tạo nên
những hình ảnh sống động, có hồn như thế, người sáng tạo câu đố cần có cái nhìn có tình
đối với tạo vật. Những hình ảnh ẩn dụ câu đố luôn xuyên thấm tình yêu của người lao
động đối với tạo vật, yêu công việc làm ăn, yêu những vật cùng họ dãi nắng dầm sương…
b.3) Thế giới vật đố có tính “tục” giảng “ thanh”
Bên cạnh chất kì dị, ẩn dụ câu đố còn có tính chất thường được gọi là “đố thô, giảng
thanh”. Tính chất này được chình câu đố xác nhận một cách hồn nhiên. Ví dụ: Đố tục
(thô) giảng thanh: “Miệng chào anh/ Hai tay nâng đít”.
“Đố tục, giảng thanh” có nghĩa là vật đố thì “ thanh” nhưng vật thay thế nó thì “ thô”.
Khái niệm “thô” ở đây được hiểu là: nói đến cơ quan sinh thực khí và hoạt động liên quan
đến sinh thực khí, hoặc nói đến cơ quan bài tiết và hoạt động bài tiết. Nhiều hình ảnh ẩn
dụ câu đố là sản phẩm của sự liên tưởng từ vật đố đến những cái “thô”, cái “ tục”. Ví dụ
Một cột ba chia
Chọc vô cái lỗ
Thọc lia thọc lịa
Máu trào đỏ loét
Le lưỡi liếm liền (ống ngoáy trầu)
Quả thật khi trí tưởng tượng đã hướng theo ngả này thì hầu như sự vật hiện tượng nào
cũng có thể được hình dung, mô tả thành “cái ấy” và “chuyện ấy”. Ví dụ:
- Thương em anh dắt sau hè
Hai tay anh đè cái đít lắc lia (mài dao, kéo)
- Trên cũng da dưới cũng da
Đúc vô thì ấm, rút ra lạnh lùng (chân và giày)
Hiện tượng này là hiện tượng đã tồn tại và một số người vẫn thích chơi trò “đố tục,
giảng thanh”. Nhưng không thể coi đó là một xu hướng liên tưởng lành mạnh, nhất là đối
với trẻ em.
c) Kết cấu của ẩn dụ câu đố
Ẩn dụ câu đố có hai kiểu kết cấu: kết cấu đơn và kết cấu kép.
c.1) Kết cấu đơn.
Ẩn dụ có kết cấu đơn là ẩn dụ chỉ gồm một hình ảnh đơn nhất, tức là hình ảnh chỉ
của một sự vật. Hình ảnh được tạo nên có thể có một hay nhiều “đặc điểm” nhưng bao giờ
cũng chỉ tương ứng với một sự vật. Ví dụ:
- Hình ảnh đơn nhất có một “đặc điểm”: Trong nhà có bà ăn cơm trước (Câu đố về đôi
đũa cả). Trong nhà có bà hay la hét (Câu đố về cái chổi)
- Hình ảnh đơn nhất có nhiều “đặc điểm”:
+ Hai “đặc điểm” : Vừa bằng hạt đỗ, ăn giỗ cả làng (Câu đố về con ruồi)
42
+ Bốn “đặc điểm”: Vừa bằng cái kim, chìm xuống ao, đào chẳng thấy, lấy chẳng
được (Câu đố về cái râu tôm)
Có thể mô hình hóa câu đố ẩn dụ có kết câu đơn như sau:
a1-----------------------------------------------b1
A a2-----------------------------------------------b2 B
a3-----------------------------------------------b3
Vật đố A và các đặc điểm a1, a2, a3…được mô tả thành ẩn dụ B với các “ đặc điểm”
tương ứng b1, b2, b3…Nhìn chung những câu đố có kết cấu đơn có phần dễ giải hơn
những câu đố có kết cấu kép. Là vì những ẩn dụ này chỉ tương ứng với một sự vật, cho
nên việc khoanh vùng tìm kiếm vật đố không bị phân tán theo nhiều hướng cùng một lúc.
Trong số những ẩn dụ có kết cấu đơn thì ẩn dụ càng có nhiều “đặc điểm” càng có vẻ rắc
rối, nhưng lại càng có nhiều căn cứ để người giải đố suy lý và liên tưởng.
c.2) Kết cấu kép:
- Ẩn dụ câu đố có kết cấu kép rắc rối, kỳ dị hơn so với ẩn dụ có kết cấu đơn và, đặc
biệt, thường có chút ít tính truyện.
Khi vật đố là một sự vật gồm nhiều bộ phận (những bộ phận này đều có thể quan sát
bằng mắt thường và quen thuộc với mọi người) hoặc một hoạt động gồm nhiều thao tác
(những thao tác này cũng quen thuộc với mọi người như: ăn trầu, hút thuốc lào…) thì ẩn
dụ của nó thường có kết cấu kép.
Ví dụ: Bốn ông đập đất (= bốn chân trâu giẫm lên đất cày)
Một ông phất cờ (= cái đuôi trâu ve vẩy đuổi ruồi)
Một ông vơ cỏ (= mõm trâu “tranh thủ” vơ ít cỏ ven bờ)
Một ông bỏ phân (= đít trâu cũng làm cái việc của nó!)
Trong phức hợp ẩn dụ, quan hệ giữa các ẩn dụ “nhỏ” thường khá chặt nhằm tạo ra một
hình ảnh chung ít nhiều có nghĩa lý hoặc, tài tình hơn, một “mẫu chuyện” ly kỳ. Ví dụ:
Trong câu đố về con trâu (đang đi cày) những ẩn dụ nhỏ hợp thành một cấu trúc tương đối
chặt chẽ (bốn ông + một ông + một ông + một ông) tạo nên cảnh tượng “bảy ông vừa đập
đất, vừa phất cờ, vừa vơ cỏ, vừa bỏ phân, cứ như một lực điền đang hội làm mùa vậy!
Mô hình hóa ẩn dụ có kết cấu kép: được mô tả thành
A1------------------------------------------------B1
A2 A ------------------------------------------------ B B2
A3------------------------------------------------- B3
Vật đố A với các phức hợp ẩn dụ B
bộ phận hợp thành với các ẩn dụ “nhỏ”
A1, A2, A3 B1, B2, B3(tương ứng
với A1, A2,A3)
Ta phân tích một câu đố có kết cấu kép để nhận rõ lại một lần nữa những nét đặc thù
về kết cấu của ẩn dụ câu đố.
Ba ông lỏng khỏng
43
Cõng bà đế vương
Súng bắn tứ phương
Cò bay rào rạt (Câu đố về rang ngô)
Ta thấy vật đố A – hiện tượng rang ngô – gồm bốn bộ phận hợp thành: 1/ ba ông đầu
rau (A1) ; 2/ cái nồi rang ( A2) ; 3/ ngô nổ ( A3) ; 4/ ngô nở ( A4). Bốn bộ phận hợp thánh
của vật đố A được mô tả thành bốn ẩn dụ “nhỏ” tương ứng : 1/ ba ông lỏng khỏng (B1) ;
2/ cõng bà đế vương ( B2) ; 3/ sung bắn tứ phương (B3); 4/ cò bay rào rạt ( B4). Như vậy
ta có mô hình:
A1--------------------------------------------------------------B1
A2--------------------------------------------------------------B2
A3-------------------------------------------------------------- B3
A4---------------------------------------------------------------B4
Ta có thể nhận xét là các so sánh A1 – B1
A2 – B2
A3 – B3
A4 – B4
Dựa trên những nét giống nhau hết sức mong manh. Như ta đã biết, đấy chính là đặc
trưng tiêu biểu của ẩn dụ câu đố. Quả thật, chỉ có trong sáng tác câu đố người ta mới so
sánh một cách phóng túng:
Ba ông đầu rau với Ba ông lỏng khỏng
trên đặt cái nồi rang cõng bà đế vương
Và:
tiếng ngô nổ với súng bắn tứ phương
những hạt ngôn nổ bung ra cò bay rào rạt
Trong khâu giảng đố, người ta thường chỉ giải thích, chứng minh nét giống nhau giữa
b1 với a1, b2 với a2…(câu đố có kết cấu đơn) hoặc giữa B1 với A1, B2 với A2… (câu đố
có kết cấu kép), mà không đả động đến tính chất thích đáng và ý nghĩa của ẩn dụ (B) với
vật đố (A).
d) Cách mô tả của câu đố - ngôn ngữ của câu đố
d.1) Cách mô tả của câu đố:
Xây dựng câu đố bắt đầu từ sự quan sát và lựa chọn những “đặc điểm” của vật đố.
Có 5 đặc điểm cơ bản:
- Hình thể
- Về cấu tạo
- Tính năng, tác dụng
- Hoạt động thao tác
- Nguồn gốc, xuất xứ
Mấu chốt của việc xây dựng câu đố là sự mô tả những “đặc điểm” của vật đố. Ở đây
mô tả đi đôi với so sánh nhằm tạo ra những ẩn dụ. Trong câu đố, mô tả cũng thường kết
44
hợp với nhân hóa. Ở đây nhân hóa không đơn thuần như một thủ pháp mô tả mà nó còn là
vấn đề của thế giới quan. Do đó, nhân hóa được sử dụng rất phổ biến trong câu đố. Ví dụ :
Sừng sững mà đứng giữa nhà,
Ai vô không hỏi, ai ra không chào.
(cây cột nhà)
Chị em con bác con dì. Chị thì đẻ trứng, em thì đẻ con. (ốc nhồi và ốc hột)
d.2) Ngôn ngữ câu đố
Ngôn ngữ câu đố có những đặc điểm rất nổi bật – đó là tính chất cô đúc và tính gợi
hình, gợi cảm. Câu đố phải gọn ghẽ, chặt chẽ như đề toán, cho nên ngôn từ phải chính xác
và không gian ngôn ngữ câu đố phải hết sức tiết kiệm. Không gian ngôn ngữ câu đố phải
thông thoáng, sống động và nổi sắc nổi hình. Ngoài những thủ thuật chơi chữ đủ các kiểu,
người sáng tác câu đố còn tập trung vào giải pháp khai thác giá trị gợi tả của từ ngữ tiếng
Việt, nhất là động từ và tính từ tình thái. Do đó, mật độ của những từ loại này trong không
gian ngôn ngữ câu đố rất cao, cao hơn cả tục ngữ và ca dao. Ví dụ:
“Mẹ gai góc, con trọc đầu” (cây bưởi)
“Chân đen mình trắng đứng nắng giữa đồng” (con cò)
Nghệ thuật câu đố có được sự thành công hay không là nhờ một phần vào sức gợi tả
của ngôn ngữ câu đố- một thứ ngôn ngữ vừa lấp lửng vừa chính xác, vừa hồn nhiên vừa
tinh quái, vừa sát sạt vừa bay bổng…Tuy nhiên, câu đố là thể loại văn học dân gian, nó là
những sáng tác của lớp người bình dân nên đôi khi ngôn ngữ câu đố có một số từ rất thô
kệt. Ví dụ: “Có mái mà không có trống. Có đái mà không có ỉa” (Mái nhà)
Tóm lại, ngôn ngữ câu đố mang những đặc điểm tiêu biểu của ngôn ngữ dân gian.
e) Thể thơ trong câu đố:
Trong câu đố, thể thơ lục bát dùng rất phổ biến và được thể hiện rất đa dạng:
“Sừng sững mà đứng giữa trời. Trời xô không đổ, trời mời không đi” (Núi)
“Thưở bé em có hai sừng
Đến tuổi nửa chừng mặt đẹp như hoa
Ngoài hai mươi tuổi đã già
Quá hai mươi tuổi mọc ra hai sừng” (Mặt trăng)
- Thể vãn là thể thơ ngắn, mỗi câu năm chữ hoặc dưới năm chữ. Câu đó có tính chất
giải đố nên đại bộ phận câu đố đều được viết theo những thể thơ ngắn, tương đối đơn giản
về tiết tấu, nhịp điệu cách gieo vần rất linh hoạt.
- “Trên trời bảy ngọn đèn
Hình móc câu xếp nên
Ban đêm người đi lạc
Nhìn biết phương hướng liền” (Sao)
- “Ăn nằm ngửa
Ngủ nằm nghiêng
Uống rượu thì kiêng
45
Chỉ khuyên ăn thịt
Ăn rồi lại quỵt
Rửa mặt đi nằm
Ai hỏi thì câm
Ai mời thì tới” (Cái thớt)
- Câu đố thường mang tính cô đúc, cân đối nhịp nhàng về cách gieo vần.
Đi phe phẩy, về nhà giãy ra mà chết. (Cái áo dài)
Một nhà làm quan, cả nhà đi tàn. (Khóm khoai)
3.2.3. Kết luận chung.
Sau truyện cười, câu đố là thể đem lại nhiều tiếng cười trong kho tàng văn học dân
gian. Hầu như câu đố nào đọc lên, ta cũng thấy ngộ nghĩnh, hóm hỉnh tươi mát, đôi khi
tục tĩu nữa, song hiện thực sự vật, sự việc lại không ngộ nghĩnh tục tĩu tí nào. Giải được
hay không giải được, cả người đố và người đoán đều buồn cười. Do đó, câu đố ngoài việc
thử tài nhau, nó còn là phương tiện để thư giãn sau những giờ lao động và để mua vui
trong lúc nghỉ ngơi.
Câu đố phản ánh các sự vật, hiện tượng của thế giới quan theo lối nói chệch đi, lối nói
một đàng hiểu một nẻo,“nửa kín nửa hở” bằng hình thức liên tưởng, tưởng tượng. Ngôn
ngữ sinh động, giàu có cùng với các thủ thuật so sánh, ẩn dụ, tu từ, lộng ngữ… cũng đã
góp phần tạo nên chất nghệ thuật trong câu đố. Với những đặc trưng của thi pháp, câu đố
đã tồn tại cùng với nhân dân, không ngừng được nhân dân sáng tạo thêm làm cho lưu loát
hơn. Sự ra đời và phát triển của câu đố đã làm cho nền văn hóa dân gian Việt Nam thêm
phong phú giàu màu sắc.
46
cảm xúc và tình cảm trong ca dao không phải là cảm xúc và tình cảm của một cái tôi cá
nhân riêng biệt mà là của một quần thể, một cộng đồng.
Ví dụ : Em như con hạc đầu đình
Muốn bay không cất nổi mình mà bay
c) Các thể loại ca dao
Ca dao là một khái niệm chỉ loại. Đó là loại trữ tình của Vhdg, tương ứng với loại
tự sự, kịch dân gian. Để phân loại người ta căn cứ vào tiêu chí về mối quan hệ với nghi lễ
chia ca dao làm hai nhóm thể loại :
- Ca dao nghi lễ : nghi lễ lao động, nghi lễ sinh hoạt, nghi lễ tế thần.
- Ca dao phi nghi lễ: CD lao động, CD sinh hoạt, CD giao duyên.
Trong phạm vi thơ ca dân gian, ca dao được xác định là thơ ca trữ tình dân gian
(đối ứng với vè, thơ ca tự sự).
Như vậy, tìm hiểu những đặc điểm thi pháp của ca dao là tìm hiểu những đặc điểm
thi pháp của toàn bộ thơ ca trữ tình dân gian.
3.3.2. Đặc trưng thi pháp ca dao
a) Nhân vật trữ tình
- Trong ca dao truyền thống, chủ thể trữ tình (tác giả) luôn đồng nhất với nhân vật trữ tình
(nhân vật mà cảm nghĩ của nó được diễn tả trong bài ca). và nhân vật ấy có một số kiểu
nhất định :
+ Cô gái và chàng trai (trong quan hệ bạn bè, lứa đôi)
+ Người chồng và người vợ, người mẹ và người con (trong đời sống gia đình)
+ Người con gái, con dâu, người vợ (trong gia đình gia trưởng)
+ Người lính và người vợ lính (trong cảnh ngộ biệt ly, xa cách)
+ Người làm ruộng và người làm thợ, người dân chài (trong lao động, sinh hoạt và quan
hệ làng xóm quê hương).
- Qua tập hợp trữ tình tên chung của nhân vật trữ tình trong ca dao, xu hướng chung nhân
dân muốn diễn tả những nét bản chất của con người thời đại lúc bấy giờ đó là :
+ Cảm nghĩ về thân phận mình (buồn, khổ): cất lên bài ca than thở về nỗi khổ đau, bất
hạnh.
+ Cảm nghĩ về những người thương mến, những vật, những nơi thân thuộc (thấy yêu
thương): cất lên thành bài ca ân tình, ân nghĩa (tình gia đình, bạn bè, đôi lứa, quê hương,
đất nước…)
Như vậy ca dao xưa chủ yếu là tiếng hát than thân – phản kháng và tiếng hát yêu
thương – tình nghĩa.
b) Không gian thời gian nghệ thuật (Hoàn cảnh điển hình trong ca dao)
- Không gian (hoàn cảnh) giàu màu sắc ước lệ.
+ Đó là khung cảnh nơi diễn ra cuộc gặp gỡ, trò chuyện, trao gởi tâm tình như: ruộng
vườn, giếng khơi, cây đa bến nước, sân đình v.v…
47
+ Nhìn chung đó là cảnh vật thiên nhiên gần gũi, phong cảnh làng quê thân thuộc được tái
hiện bằng mấy nét chung nhất: non xanh nước biếc, mây bạc trời hồng… Không gian đó
nhằm thực hiện chức năng cảm xúc – tâm lý, tạo ra bối cảnh thích hợp với sắc điệu trữ
tình của mỗi bài ca.
ví dụ : Chiều chiều dóng dả đi chơi
Uốn roi giục ngựa tới nơi vườn đào
=> thực tế chân đi đất
Đồn đây là chốn đào nguyên
Trăng thanh gió mát cắm thuyền dạo chơi
=> nơi chờ bạn hát
- Thời gian nghệ thuật trong ca dao cũng vừa thực vừa ước lệ
+ Thực vì nó hợp với cảnh, với sự, với tình trong bài ca
+ Ước lệ vì nó rất chung, không xác định: đêm ấy, buổi sáng ấy, buổi chiều ấy…
- Đêm hè gió mát trăng thanh / Em ngồi chẻ lạt cho anh chắp thừng.
- Sáng ngày em đi hái dâu / Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn
Đôi khi thời gian tuy là thực tế (tháng giêng, tháng 2/ tháng 3, tháng 4/ tháng khốn,
tháng nạn…) nhưng cũng rất ước lệ (không nói về nỗi khổ do đói kém mà nói về những
mất mát, những nông nỗi khác. Vì thế bài ca gợi nhiều nỗi niềm hơn, đó có thể là nỗi
“mất đó” (bạn tình), “cháy quán” (mất nơi bạn nghèo gặp nhau); cảnh ngộ vừa được cực
tả (đã khó chó cắn thêm), vừa mang ý nghĩa khái quát.
- Thời gian trong ca dao là thời gian của hành động (tức là lúc diễn ra cuộc gặp gỡ, trò
chuyện, trao gửi tâm tình hoặc nhân vật trữ tình có tâm trạng hát lên khúc tự tình) để thực
hiện chức năng cảm xúc – tâm lý, tạo ra bối cảnh thi vị cho sự khởi phát cảm hứng trữ
tình. Ví dụ : “Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng…” hoặc trong ca dao cổ truyền có nhóm
bài ca mở đầu bằng “Chiều chiều…” những bài thuộc nhóm này có nội dung rất đa dạng :
+ Nỗi nhớ bạn: Chiều chiều én liệng nhạn bay/ Ta đây nhớ bạn, bạn rày nhớ ai?
+ Nỗi cô đơn: Chiều… mây phủ ải vân/ Chim kêu ghềnh đá ngẫm thân lại buồn
+ Lời tỏ tình: Chiều… vịt lội bờ ao/ thương người áo trắng vá quàng nửa vai
+ Niềm đau xót: Chiều… ra ngõ ngó xuôi / Ngó không thấy mẹ bùi ngùi nhớ…
c) Kết cấu của ca dao
- Ca dao có kết cấu ngắn (2 dòng, 4 dòng, 10 dòng v.v…) và đơn điệu về hình thức
(thường có hai hình thức chính).
c.1) Lối đối đáp (hình thức kết cấu đặc trưng của thơ ca dân gian trữ tình):
- Là những lời trò chuyện trực tiếp bằng thơ. Chủ thể của bài ca này phần lớn là chàng
trai, cô gái (ca dao nảy sinh trong sinh hoạt ca hát đối đáp nam nữ).
- Dấu hiệu hình thức của chúng là:
+ Sự hiện hữu của cặp từ xưng hô (chồng – thiếp, mình – ta, đó – đây…)
+ Sự tồn tại “theo vế” của bài ca
Ví dụ: - “Em đố anh từ Nam chí Bắc
48
Sông nào là sông sâu nhất
Núi nào là núi cao nhất nước ta?
Anh mà giảng được cho ra
Thì em kết nghĩa giao hòa cùng anh
Sâu nhất là sông Bạch Đằng
Ba lần giặc đến, ba lần giặc tan
Cao nhất là núi Lam Sơn
Có ông Lê Lợi trong ngàn bước ra”
- “Búp sen lai láng giữa hồ
Anh muốn đưa tay ra bẻ sợ chùa có sư
Có sư thì mặc có sư
Anh cứ đưa tay ra bẻ có hư em bồi”
c.2) Lối kể chuyện (hình thức kết cấu đặc trưng của thơ ca đân gian tự sự):
- Nhân vật trữ tình tự kể chuyện mình.
- Câu chuyện trong ca dao là chuyện tâm tình. Đó là một nỗi niềm được kể hơn là một
cảnh ngộ được thuật lại. Do đó, câu chuyện kể không có chuyện và thường không mạch
lạc.
Ví dụ : Bài ca dao “Lính thú đời xưa”
Ba năm chấn thủ lưu đồn Ngang lưng thì thắt…
Ngày thì canh điếm tối dồn việc quan Đầu đội nón dấu…
Chém tre đốn gỗ trên ngàn Thùng thùng trống đánh…
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai? Bước chân xuống thuyền…
Những lời trần thuật trên không chỉ miêu tả công việc của người lính thú cùng
trang thiết bị bên ngoài của anh ta mà còn nhằm chuẩn bị cho con người bên trong anh ta
xuất hiện. Đó là cảnh ngộ, nỗi niềm của người lính vừa chi tiết mà lại kín đáo.
- Các hình thức kể chuyện :
+ Kể chuyện bâng quơ (hát ru): Đây là những mẩu chuyện đứt đoạn mà miên man
với những hình ảnh chập chờn, chắp nối. Nhưng cũng chính là tâm tình của mẹ.
+ Kể chuyện ngược xuôi (kết cấu đối đáp + kết cấu kể chuyện). Bề ngoài như một
trò chơi xếp chữ. Nhưng thật ra mượn cách nói này để diễn tả hai chiều của một quan hệ
tình cảm. Ví dụ :
“Sớm mai tôi lên trên núi Chú thím rầy lộn với nhau
Tôi xách cái rựa còng queo Thôi tôi trả buồng cau lại cho chú
Bắt được con công Trả bánh ú lại cho cô
Đem về cho ông, ông cho trái thi Trả cá rô lại cho chị
Đem về cho chị, chị cho cá rô Trả trái thị lại cho ông
Đem về cho cô, cô cho bánh ú Tôi xách con công về rừng.
Đem về cho chú, chú cho buồng cau
+ Kể chuyện vòng tròn v.v …
49
- Nhận xét chung về các lối kết cấu của ca dao
Mỗi bài ca dao là một mảnh cảm nghĩ âm vang thành câu hát (mang tính chất
phiến đoạn) hồn nhiên tự tâm hồn. Do đó luôn tươi mát, chân thực, tính hàm xúc tự nhiên.
d) Hệ thống hình ảnh và ngôn ngữ trong ca dao
d.1) Hệ thống hình ảnh trong ca dao rất phong phú.
Hình ảnh so sánh: nhằm thể hiện nhân vật trữ tình, nhân vật đối thoại
+ So sánh “hạ thấp”: “Anh như tán tía, tán vàng
Em như mảnh chiếu rách nhà hàng bỏ quên”
+ So sánh hơn (nâng cao): “Anh như chiếc kỷ nhà quan
Em như chiếc nón mê tàn che mưa”
+ So sánh hài hòa: “Em như tố nữ trong tranh
Anh như ngòi bút chấm cành hoa mai”
+ So sánh kép: Em như cây quế giữa rừng/ Thơm tho ai biết, ngát lừng ai hay?
Thân em như thể hàng săng/ Anh nào muốn chết thì quăng mình vào
+ So sánh đơn
+ So sánh kiên hợp: Nhãn lồng trong bịt ngoài bao
Con ong châm còn được huống chi quả hồng đào chín cây
So sánh nhằm biểu hiện cảm xúc mạnh mẽ, bóng bảy. Giúp chủ thể trữ tình dễ
dàng nói và nói một cách cô đọng tế nhị sâu sắc những điều khó nói. So sánh nêu cái khái
quát, cái chung, nét bản chất. So sánh đi đôi với miêu tả trực tiếp “Cổ tay em trắng như
ngà/ con mắt em liếc như là dao cau/ miệng cười như thể hoa ngâu/ cái khăn đội đầu như
thể hoa sen”
Hình ảnh miêu tả: Miêu tả phải dựa vào so sánh.
- Miêu tả để nêu bật cái riêng, cái chi tiết của đối tượng
- Đối tượng của miêu tả là cảnh vật thiên nhiên, làng quê, ruộng vườn, sông nước và sản
vật của quê hương. Qua đó bộc lộ niềm tự hào của con người xứ xở.
- Miêu tả là để ngụ tình: tình quê hương, đất nước; tình cảm tự nhiên đối với cái đẹp của
tạo vật; tình yêu đôi lứa…
Nghệ thuật miêu tả đóng vai trò quan trọng trong việc khắc họa những “hoàn cảnh
điển hình” (Miêu tả thường kết hợp với phóng đại ==> ca dao trào lộng) qua đó góp phần
thể hiện nhân vật trữ tình.
Hình ảnh ước lệ :
- Là hình ảnh có sự thống nhất trực tiếp cái chung với cái riêng, khái quát với cụ thể
(Loan – Phượng, Trúc – Mai, Rồng – Mây, chỉ sự tương sứng hài hòa gắn bó của đôi lứa).
- Ước lệ của hình ảnh không tách rời xu hướng ước lệ hóa sự diễn tả chính tâm trạng, cảm
nghĩ của nhân vật trữ tình. Cho nên câu hát của một người có thể là mẫu số chung cho
mọi người.
=> Tính ước lệ thể hiện rõ trong hình ảnh so sánh
=> Tính chân thực tự nhiên thể hiện rõ trong hình ảnh miêu tả.
50
- Ước lệ còn biểu hiện trong cách sử dụng con số trong ca dao
+ Con số ước lệ: “Tìm em đã tám hôm nay / Hôm qua là tám hôm nay là mười”
+ Con số chính xác chặt chẽ “Thương nhau cau 6 bổ ba…Cả thương cả ghét 72…”.
Vì thế những hình ảnh ước lệ trong ca dao không bị khô cứng, sáo mòn.
Hình ảnh tượng trưng có ý nghĩa khái quát rộng rãi (người phụ nữ và nông dân).
d.2) Ngôn ngữ ca dao
- Văn bản tạo hình và biểu hiện : “Bây giờ mận mới hỏi đào…”
“ Trời mưa / Qủa dưa vẹo vọ…”
- Ngôn ngữ giản dị, sinh động, màu sắc địa phương
e) Thể thơ trong ca dao
- Thể thơ lục bát (chiếm 95% số tác phẩm). Số lời từ 2 đến 4 dòng chiếm 75%. Và ít có
kiến trúc cân đối (3 -3, 4 -4) so với văn học hiện đại.
- Lục bát trong ca dao có hình thức biến thể
“Bao giờ rừng quế hết cay/ Dừa Tam Quan hết nước thì em đây mới hết tình”
- Thể song thất lục bát (chiếm khoảng 2%)
“Lụa làng trúc vừa xanh vừa bóng
May áo chàng cùng sóng áo em
Chữ tình cùng với chữ duyên
Xin đừng thay áo mà quên lời nguyền”
Với nhịp chênh: 3/2/2 xen với nhịp đôi, vần trắc cài vào vần bằng, bốn câu thành
một khổ tự nhiên láy đi láy lại, … thích hợp với sự kể lể những nỗi niềm, những tâm tư u
uẩn, trở trăn (những câu hò sông nước mênh mang, dàn trải).
- Các thể thơ khác: thể hỗn hợp
“Qủa cau nho nhỏ/ Cái vỏ vân vân… Anh lấy em từ thủa mười ba…”
“Đất Lam Kiều ngỡ ngàng khó bước/ Động đào nguyên lạch nước quanh co
- Thể vần (vần năm, đôi khi xen vần bốn): tiêu biểu là hát dặm Nghệ Tĩnh
+ Thể vần thích hợp với thơ ca dân gian tự sự hơn là ca dao.
+ Lối ngắt nhịp cứng, không đổi trong toàn bài: 3/2 hoặc 1/2/2.
+ Bắt vần dễ dãi, khiến cấu trúc thơ chắc gọn thích hợp với cách kể chuyện hơn là trữ tình
(đồng dao).
PHỤ LỤC
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP THỰC HÀNH
Sinh viên đọc tài liệu, tìm hiểu, nghiên cứu trả lời và làm các bài tập sau:
I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG:
Bên cạnh mục đích củng cố những kiến thức cơ bản về văn học mà sinh viên đã được
học trước đây như: Khái niệm, đặc trưng cơ bản, các chặng đường phát triển của văn học
Việt Nam, yêu cầu trọng tâm của chương 1 là người học có những hiểu biết về các khái
niệm thi pháp, thi pháp học, nắm được đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ và phương pháp
nghiên cứu của thi pháp học, xác định đúng vai trò của bộ môn khoa học này trong khoa
nghiên cứu văn học và văn học dân gian. Từ đó, sinh viên có thể chủ động vận dụng lí
luận về thi pháp học để thâm nhập, nghiên cứu tác phẩm văn học dành cho học sinh tiểu
học trong và ngoài trường tiểu học.
1. Xác định được khái niệm không gian, thời gian nghệ thuật, các hình thức không
gian, thời gian nghệ thuật tiêu biểu trong tác phẩm văn học.
2. Xác định được nhân vật, cốt truyện, và giọng điệu lời văn nghệ thuật trong văn bản
nghệ thuật.
3. Vận dụng lí thuyết để xác định, phân tích không gian, thời gian nghệ thuật trong
cấu trúc văn bản nghệ thuật.
4. Xác định được đặc điểm thi pháp của một số thể loại văn học dân gian đã học trong
chương trình.
5. Vận dụng lí thuyết để xác định, phân tích kết cấu cốt truyện Tấm Cám, Cây tre
trăm đốt, Hai anh em và cây khế.
II. CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP THỰC HÀNH
1. Sự khác biệt giữa không gian thần kì trong văn học dân gian với không gian thần kì
trong văn học thiếu nhi hiện đại?
2. Phân tích không gian nghệ thuật của bài thơ sau:
TRÊN HỒ BA BỂ
Thuyền ta chầm chậm vào Ba Bể
Núi dựng cheo leo hồ lặng im
52
Lá rừng với gió ngân se sẽ
Họa tiếng lòng ta với tiếng chim.
Thuyền ta lướt nhẹ trên Ba Bể
Trên cả mây trời trên núi xanh
Mây trắng bồng bềnh trôi lặng lẽ
Mái chèo khua bóng núi rung rinh.
Thuyền ta quanh quất trên Ba Bể
Đỏ ối vườn cam biếc bãi ngô...
Thuyền ơi, chầm chậm chờ ta nhé
Muốn ở đây thôi chẳng muốn về! (Hoàng Trung Thông)
3. Phân tích thi pháp kết cấu của bài hát ru (hoặc một số bài ca dao)
“Cái ngủ mày ngủ cho lâu
Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về
Bắt được lũ cá rô trê
Cầm cổ lôi về cho cái ngủ ăn…”
4. Phân tích truyện cười: “MẤT RỒI”
Một người sắp đi chơi xa dặn con:
- Ở nhà có ai hỏi, thì bảo bố đi chơi vắng nhé !
Sợ con mải chơi quên mất, lại cẩn thận lấy bút viết vào giấy rồi bảo:
- Có ai hỏi thì con cứ đưa cái giấy này.
Con cầm tờ giấy bỏ vào túi áo. Cả ngày chẳng thấy ai hỏi. Tối đến, sẵn có ngọn đèn, nó
lấy giấy ra xem, Chẳng may vô ý để giấy cháy mất.
Hôm sau có người đến nhà chơi, hỏi:
- Thầy cháu có nhà không ?
Nó ngồi ngẩn ngơ hồi lâu, mới sực nhớ ra, sờ vào túi không thấy giấy, liền nói:
- Mất rồi !
Khách giật mình hỏi:
- Mất bao giờ ?
- Tối hôm qua.
- Sao mà mất ?
- Cháy. (Theo tiếng cười dân gian Việt Nam)
5. Phân tích truyện cổ tích Tấm Cám dưới góc độ thi pháp học:
- Truyện cổ tích Tấm Cám có những yếu tố kì ảo nào tham gia vào cốt truyện? những yếu
tố đó có tác dụng như thế nào đối với diễn biến số phận của nhân vật Tấm?
- Hãy chọn và phân tích những chi tiết tiêu biểu trong truyện Tấm Cám để chứng tỏ rằng
“truyện cổ tích là một giấc mơ đẹp” của nhân dân lao động.
6. SV chọn một số bài tập đọc trong sgk tiểu học để phân tích dưới góc độ thi pháp học.
53