You are on page 1of 53

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHẠM VĂN ĐỒNG

KHOA SƯ PHẠM TỰ NHIÊN

BÀI GIẢNG VĂN HỌC 2


THI PHÁP HỌC – THI PHÁP VĂN HỌC
DÂN GIAN
DÙNG CHO HỆ CĐ NGÀNH GIÁO DỤC TIỂU HỌC

HỌ VÀ TÊN GV: Th.sĩ Nguyễn Thị Hồng Liên


BỘ MÔN : Giáo dục Tiểu học

Quảng Ngãi, tháng 5 /2016

1
MỤC LỤC
Trang
 LỜI NÓI ĐẦU 3
Chương 1: Một số vấn đề thi pháp học 4
1. Thi pháp và thi pháp học 4
2. Thi pháp nhân vật 8
3. Thi pháp không gian, thời gian nghệ thuật 9
4. Thi pháp chi tiết nghệ thuật 12
5. Thi pháp cốt truyện, kết cấu 13
6. Thi pháp giọng điệu và lời văn nghệ thuật 15
Chương 2: Những đặc điểm thi pháp của một số thể loại văn học dân gian
1. Thi pháp văn học dân gian 17
2. Thi pháp truyện dân gian 18
2.1. Đặc điểm thi pháp của thể loại thần thoại 19
2.2. Đặc điểm thi pháp của truyện truyền thuyết lịch sử 20
2.3. Đặc điểm thi pháp truyện cổ tích 23
2.4. Đặc điểm thi pháp truyện ngụ ngôn 27
2.5. Đặc điểm thi pháp truyện cười 29
3. Thi pháp văn vần dân gian 32
3.1. Đặc điểm thi pháp của tục ngữ 32
3.2. Đặc điểm thi pháp của câu đố 36
3.3. Đặc điểm thi pháp của ca dao 46
 TÀI LIỆU HỌC TẬP 51
 PHỤ LỤC: CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP THỰC HÀNH 52

2
LỜI NÓI ĐẦU
Bài giảng Văn học 2 do các tác giả ở Tổ Giáo dục Tiểu học, Trường Đại học Phạm
Văn Đồng biên soạn với mục đích trang bị cho sinh viên những hiểu biết nhất định về thi
pháp học nói chung, thi pháp văn học dân gian nói riêng nhằm dạy tốt môn Tiếng Việt ở
trường tiểu học trên tinh thần "dạy văn qua môn Tiếng Việt", đồng thời có thể vận dụng
vào nghiên cứu những tác phẩm văn học dành cho trẻ em trong và ngoài nhà trường.
Công trình là sự kế thừa những kiến thức lí luận về thi pháp, thi pháp học của các chuyên
gia nghiên cứu đi trước. Tuy nhiên khi vận dụng vào tìm hiểu văn học được dạy trong
chương trình tiểu học, chúng tôi đã có những điều chỉnh cho phù hợp với đặc trưng của
đối tượng nghiên cứu, khảo sát và đối tượng tiếp nhận bài giảng này.
Tổng số thời gian của chuyên đề là 30 tiết (2 tín chỉ) với 2 chương chính: Mở đầu
chương Thi pháp học: trình bày những vấn đề cơ bản về mặt thi pháp của các sáng tác văn
học như: Quan niệm nghệ thuật về con người, không - thời gian nghệ thuật, cốt truyện,
kết cấu và ngôn từ nghệ thuật trong văn học; chương 2: Thi pháp văn học dân gian: trình
bày những vấn đề đặc điểm của thi pháp truyện dân gian (thần thoại, truyền thuyết, cổ
tích, ngụ ngôn, truyện cười) trên phương diện cốt truyện, nhận vật, thời gian và không
gian nghệ thuật; đặc điểm thi pháp văn vần dân gian (tục ngữ, câu đố) và ca dao trên
phương diện ngôn ngữ, thể thơ, cấu tứ, nhân vật trữ tình, không gian và thời gian nghệ
thuật.
Lần đầu tiên, tài liệu được biên soạn theo chương trình và phương pháp mới, chắc
chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Chúng tôi mong nhận được nhiều ý kiến
chỉ giáo, góp ý để có thể hoàn thiện thêm nhằm cung cấp tài liệu học tập cho sinh viên, và
những ai quan tâm đến vấn đề còn rất mới mẻ này. Chúng tôi trân trọng cám ơn.
Quảng Ngãi tháng 5 năm 2016
Tác giả
Th.sĩ Nguyễn Thị Hồng Liên
 QUY ƯỚC VỀ VIẾT TẮT
- Vhdg: Văn học dân gian
- Nxb: Nhà xuất bản
- PK : Phong kiến
- XH : Xã hội

3
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ THI PHÁP HỌC

1. THI PHÁP VÀ THI PHÁP HỌC


1.1. Khái niệm về thi pháp
Việc xác định khái niệm thi pháp cũng có nhiều quan niệm. Ở đây chỉ trình bày
cách hiểu đơn giản nhất về thuật ngữ thi pháp như sau:
Theo lối chiết tự: Chữ “thi” dùng để chỉ toàn bộ văn học nói chung chứ không
riêng về thơ; Chữ “pháp” chỉ phương pháp, phép tăc làm văn, làm thơ. Vậy “thi pháp” có
nghĩa là hệ thống các nguyên tắc, biện pháp xây dựng hình tượng, tổ chức tác phẩm, sử
dụng ngôn từ để tạo thành tác phẩm nghệ thuật.
Theo nghĩa hẹp: thi pháp là sự tổng hợp các thành tố (hoặc các cấp độ) của hình
thức nghệ thuật của tác phẩm ngôn từ: Cốt truyện, kết cấu, các hiện tượng ngôn ngữ nghệ
thuật, nhịp và vần.
Theo nghĩa rộng, thi pháp không chỉ có những thành tố kể trên mà còn bao gồm cả
những vấn đề loại hình, thể tài, những nguyên tắc và phương pháp phản ánh thực tại và
các phạm trù: không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật của tác
giả về thế giới và con người.

1.2. Khái niệm về thi pháp học


Thuật ngữ “thi pháp học”(poétique, poetics, 诗 学) có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp
“Poietike”, chỉ một lĩnh vực tri thức về các quy tắc chuyên ngành sáng tác nghệ thuật,
phân loại về thể loại nghệ thuật, thể hiện tập trung trong công trình Poetica của Aristote
(384 – 322).
Thi pháp học thực tế không phải là mới mẻ mà nó đã có từ thời Arixtốt, nhà mĩ học
cổ đại Hi Lạp (khoảng 2400 năm về trước), đã đặt những viên gạch nền móng cho khoa
thi pháp học của nhân loại qua cuốn “Nghệ thuật sáng tác” (Poetika – nghĩa là sáng tạo).
Và được phát triển, biến tướng qua nhiều thế kỷ dưới nhiều dạng thức khác nhau.
Ở phương Tây, lịch sử phát triển của lý luận văn chương đã có một tiến khá dài,
trong đó có những công trình mang nội dung khá cụ thể về thi pháp:
* “Cuốn nghệ thuật thơ ca” của Boileau (Boalo 1636-1717) được xem như là những
nguyên tắc căn bản của thi pháp chủ nghĩa cổ điển thế kỷ XVII.
* “Tựa kịch Cromwell” của Huygo được xem như cương lĩnh sáng tác của chủ nghĩa lãng
mạn.
* “Tựa tấn trò đời” của Balzac trở thành nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa hiện thực.
Tuy nhiên, lý luận về thi pháp như một ngành chuyện biệt thì thực sự mới chỉ
hình thành từ thế kỷ XX và phát triển một cách mạnh mẽ ở Liên Xô (vào những năm 20)
4
với những tên tuổi lẫy lừng như Vichto Sôlốpxki, V.Êykhonbam và dần tới những năm 60
thì thi pháp học mới thực sự ảnh hưởng sâu rộng trong giới văn học Phương Tây với
nhiều nhà nghiên cứu tên tuổi: Bakhtine, Jakobson.
Lịch sử lý luận văn học Á Đông, nhiều vấn đề khá cụ thể của thi pháp cũng đã
được đề cập tới từ trong sách “Tả truyện” của nho gia. Hay những ý kiến về thi pháp thơ
của Lưu Hiệp trong “Văn tâm điêu long”.
Ở Việt Nam, thuật ngữ thi pháp mới chỉ được làm quen vào những năm 80 của thế
kỉ XX với những công trình nghiên cứu của PGS. Tiến sỹ Trần Đình Sử như Thi pháp thơ
Tố Hữu (1987), Những thế giới nghệ thuật thơ (1995) Thi pháp Truyện Kiều (2002)...đã
làm chấn động giới nghiên cứu, tạo nên một cơn sốt nghiên cứu thi pháp học.
Đầu thế kỷ XX, Thi pháp học hiện đại hình thành và chia làm nhiều khuynh
hướng: Thi pháp học thể loại, Ngôn ngữ - Hình thức, Cấu trúc - Ký hiệu học, Phê bình
Mới, Thi pháp học văn hóa - lịch sử. Thi pháp học ở Việt Nam cũng có đầy đủ các
khuynh hướng trên nhưng bước đường phổ biến khá gập ghềnh. Mãi đến cuối thế kỷ XX,
nó mới trở thành một phong trào nghiên cứu sâu rộng.
Thi pháp học là bộ môn khoa học của ngành nghiên cứu văn học chuyên nghiên
cứu hình thức nghệ thuật tác phẩm văn chương (đặc trưng, tổ chức, các phương thức,
phương tiện, nguyên tắc làm nên giá trị thẩm mĩ của văn học trong tính chỉnh thể của văn
bản. Đó là lĩnh vực nghiên cứu quy luật nội tại của tác phẩm, cấu tạo và phong cách, nó
phân biệt (chứ không đối lập) với các lĩnh vực nghiên cứu khác). Thi pháp về thực chất là
hệ thống ngôn ngữ (kí hiệu) nghệ thuật, mang tính mở.
Nếu thi pháp là nguyên tắc nằm bên trong tác phẩm văn học thì thi pháp học là một
khoa học dùng để phát hiện, khám phá các nguyên tắc thi pháp ấy.

1.3. Đối tượng và phương pháp ngiên cứu của thi pháp
1.3.1. Đối tượng
Nếu xưa nay chúng ta quen với cách khám phá các tác phẩm nghệ thuật theo lối
truyền thống như giới thiệu, cảm nhận, đánh giá, phân tích các yếu tố nghệ thuật riêng lẻ
thì ở thi pháp học hiện đại có cái nhìn và cách khám phá hoàn chỉnh, cụ thể và cách tiếp
cận văn chương với quy luật phổ quát hơn.
Xét theo chỉnh thể thế giới nghệ thuật, thi pháp học nghiên cứu các phạm trù thi
pháp phản ánh các yếu tố, các thuộc tính của thế giới nghệ thuật nói chung và của thế giới
nghệ thuật nói riêng. Các phạm trù đó là thế giới nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật về con
người, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, biến cố nghệ thuật, điểm nhìn nghệ
thuật, hình tượng tác giả, cốt truyện, kết cấu, nhịp điệu, giọng điệu, lời văn… thì
- Đối tượng của thi pháp học trước hết là các nguyên tắc thi pháp.
Xét tác phẩm văn học là một hình thái ý thức xã hội; tác phẩm văn học là một hiện
tượng ngôn ngữ, dưới sự tổ chức hình thức mang tính nội dung của sáng tác văn học, thì

5
đối tượng của thi pháp học không phải là hình thức mang tính cấu trúc, quan điểm ngôn
ngữ mà là hình thức mang tính nội dung.
- Đối tượng của thi pháp học còn là hình thức mang tính nội dung.
+ Nội dung của văn học tức là cuộc sống được ý thức và là ý thức về cuộc sống.
+ Hình thức của văn học tức là tính xác định của cuộc sống được ý thức và của ý thức về
cuộc sống.
Như vậy giữa hình thức và nội dung có mối quan hệ sâu sắc: nghiên cứu hinh thức
tức là nghiên cứu tính xác đinh của nội dung. Do gắn với nội dung nên hinh thức là cụ
thể. Cần phân biệt ý đồ với nội dung (tức điều muốn nói và điều đã nói). Cái trước là một
nội dung tiềm tàng, chưa có hình thức nghệ thuật, còn cái sau là nội dung đã được hình
thức hoá. Do đó ta nói ở đây là nội dung được xác định trong hình thức chứ không phải
nội dung trong ý nghĩa của người sáng tác. Còn hình thức là hình thức của nội dung,
mang nội dung cụ thể.
Tức là cuộc sống được ý thức và sự tự ý thức về cuộc sống thông qua hình thức
nghệ thuật. Vì vậy khi khám phá tác phẩm văn học dưới góc độ thi pháp ta sẽ thấy rằng
hình thức nghệ thuật luôn gắn với tính hệ thống, tính quan niệm và tính chất tinh thần.
Hoàn toàn không mang tính riêng lẻ. Cũng chính vì vậy mà tác phẩm văn học được soi rọi
sẽ hiện hữu khả năng phản ánh đời sống của một hình thức nghệ thuật được sự giới hạn và
chiều sâu ở từng góc độ thẩm mỹ của nó. Bên cạnh đó nó còn giúp ta thấy được sự vận
động và phát triển của tư duy, tính xác định của nội dung tác phẩm. Từ đó nâng cao khả
năng cảm thụ cho người đọc với tác phẩm văn học được khám phá.
Trong văn học, hình thức có những đặc điểm như sau:
a) Hình thức mang tính quan niệm (tính quan niệm của thi pháp)
Hình thức của một tác phẩm nghệ thuật không đơn giản là những thủ pháp phương
tiện, chất liệu, mà là những thủ pháp, phương tiện, chất liệu mang tính quan niệm. Chẳng
hạn trong Truyện Kiều, khi miêu tả Kiều, Nguyễn Du viết “Làn thu thuỷ nét xuân sơn…”,
khi miêu tả Tú bà thì “Thoắt trông lờn lợt màu da…”; hai cách miêu tả đó xuất phát từ
quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Du về hai loại nhân vật (nhân vật “đấng bậc”: đấng tài
hoa, bậc tài danh, đấng anh hùng, và nhân vật “vô loài”). Như vậy tính quan niệm về thi
pháp là những hình thức miêu tả các hiện tượng đời sống cụ thể, cảm tính trên cơ sở một
kiểu quan niệm cảm nhận nhất định về thế giới. Cho nên để miêu tả những người, những
cảnh, những sự vật cụ thể trong văn học bao giờ cũng có quan niệm trước về chúng, biết
phải miêu tả chúng bắt đầu từ đâu, kết thúc ở đâu. Vì vậy các hình thức thi pháp đều thấm
nhuần một quan niệm nhất định về thế giới và con người.
b) Hình thức có tính hệ thống (tính hệ thống của thi pháp)
Thi pháp là một hệ thống hình thức nhằm tạo ra một thế giới nghệ thuật nhất định,
thế giới nghệ thuật phản ánh thế giới thực tại cho nên cấu trúc của nó bao gồm các yếu tố:
con người, không gian thời gian, đồ vật, ngôn ngữ… đều mang phẩm chất nghệ thuật,
khác hẳn với thực tại. Trong hệ thống thi pháp, quan niệm con người có vai trò chủ đạo và
6
chi phối các yếu tố khác. Ví dụ, nhân vật trong truyện cổ tích được xem là chưa có đời
sống nội tâm (bởi con người xuất hiện như một cộng đồng xã hội. Nó tiêu biểu cho một
phẩm chất nào đó, là hiện thân của một quy ước xã hội) thì tương ứng với nó truyện chưa
có thời gian quá khứ và tương lai, chưa có ngôn ngữ, có sắc thái tâm lí nhân vật. Câu
chuyện được kể theo trật tự tự nhiên. Còn tiểu tuyết hiện đại được quan niệm là có đời
sống nội tâm thì nhà văn có thể kể từ đoạn giữa truyện, truyện có thời gian quá khứ, có lời
độc thoại của nhân vật v.v… Nghệ thuật là một hệ thống tự ý thức về đời sống của con
người, trong đó mối quan hệ giữa chủ thể cùng điểm nhìn của nó với thế giới được ý thức
là bất biến. Nếu thay đổi điểm nhìn thì toàn bộ thế giới được miêu tả cũng thay đổi theo
(ví dụ: trong văn học cổ điển Việt Nam, điểm nhìn của các nhà văn là “Thiên Nhân tương
cảm” do đó trong thơ văn chỉ xuất hiện một con người đứng trước đất trời. Vì thế lối trữ
tình trong thơ cổ điển cũng theo lối “Thể trọng” nghĩa là nói căm hờn thì “bầm gan tím
ruột”, nói buồn thì “đứt ruột, héo gan”…Nhưng sang đến văn học hiện thực phê phán thì
không còn con người hô ứng với thiên nhiên nữa mà là con người xã hội ). Đó là tính tự
điều chỉnh của hệ thống thi pháp. Những đặc điểm trên cho thấy cần nghiên cứu thi pháp
trong tính hệ thống, qua các yếu tố và mối quan hệ qua lại của chúng.
1.3.2. Phương pháp nghiên cứu thi pháp.
a) Xác lập các phạm trù thi pháp lí thuyết: các phạm trù thi pháp phản ánh các phương
diện, yếu tố của thế giới nghệ thuật trên hai cấp độ. Một là cấp độ thế giới hình tượng (có
quan niệm nghệ thuật về con người, không thời gian nghệ thuật, biến cố, chi tiết, nhân
vật, người kể chuyện…). Hai là cấp độ văn bản ngôn từ (có các hình thức lời văn trực
tiếp, gián tiếp, điểm nhìn trần thuật, giọng điệu, hình thức kịch hoá, trần thuật, tính đa
thanh, lời độc thoại nội tâm, tính đối thoại trong các hình thức…).
b) Nghiên cứu và khái quát các phạm trù thi pháp cụ thể.
c) Vận dụng phương pháp hệ thống
d) Phương pháp quy nạp, khái quát, so sánh, đối chiếu.
1.3.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu thi pháp
- Khả năng phản ánh đời sống của một hình tượng.
- Thấy sự vận động và phát triển của tư duy nghệ thuật.
- Nâng cao khả năng cảm thụ cho người tiếp nhận.
Chúng ta đã biết bản chất của văn học là phản ánh đời sống bằng hình tượng, chính
vì vậy mà hình tượng nghệ thuật là linh hồn của tác phẩm văn học nghệ thuật. Nghệ thuật
khẳng định vẻ đẹp tâm hồn con người, do đó nghiên cứu tác phẩm văn học là nghiên cứu
thế giới tinh thần do con người sáng tạo ra và đó cũng chính là hình thức tồn tại của tác
phẩm nghệ thuật. Cho nên khi nghiên cứu tác phẩm văn học dưới góc độ thi pháp sẽ giúp
chúng ta tránh được và hạn chế được việc chia tách tác phẩm theo cấu trúc văn bản để
nghiên cứu mà phải nhìn một cách vừa cụ thể vừa tổng quát về hình tượng nghệ thuật ở
từng mảng của nó như quan niệm nghệ thuật về con người, thời gian nghệ thuật, không
gian nghệ thuật, màu sắc nghệ thuật, hình tượng tác giả trong tác phẩm... Chẳng hạn khi
7
tìm hiểu con người trong văn học Việt Nam hiện đại ta sẽ thấy mỗi tác giả có cách quan
niệm riêng về con người trong tác phẩm của mình. Con người trong tác phẩm của Ngô
Tất Tố có hai dạng con người là con người oan trái (nhưng rất đẹp) và con người tạo ra
oan trái. Con người trong tác phẩm Nam Cao là con người bán dần sự sống để duy trì sự
sống vì vậy mà con người trong tác phẩm của Nam Cao luôn có ý thức về tâm trạng. Và
nó sẽ khác hoàn toàn với con người vũ trụ, con người chí khí, con người tỏ lòng...trong
văn học trung đại. Như ai cũng biết Kiều bị bán vào lầu xanh chịu bao tủi nhục ê chề.
Nhưng khi Từ Hải xuất hiện cứu nàng thì cái "lầu xanh" ấy lập tức biến thành "lầu hồng".
Vì màu hồng có cảm giác đem lại sự hạnh phúc ấm áp cho con người và người con gái kia
vẫn là một con người danh giá trong tâm khảm tác giả. Ngược lại màu trắng sẽ biểu hiện
đầy đủ sự tang tóc thê lương, lạnh lẽo và cả sự trong trắng của linh hồn người trinh nữ.
“Sáng nay vô số lá vàng rơi
Người gái trinh kia đã chết rồi
Có một chiếc xe màu trắng đục
Hai con ngựa trắng xếp hàng đôi
Đem đi một chiếc quan tài trắng
Và những bông hoa trắng lạnh người
Theo bước những người khăn áo trắng
Khóc hồn trinh trắng mãi không thôi.”
(Viếng hồn trinh nữ - Nguyễn Bính)
Bên cạnh những vấn đề trên, dưới góc nhìn thi pháp ta còn có cách nhìn chi tiết
hơn ở các khía cạnh như cốt truyện, tình tiết truyện, kết cấu, thi pháp thể loại, thi pháp
ngôn ngữ trong tác phẩm văn học một cách hoàn thiện hơn.
Vấn đề thi pháp học là một vấn đề lớn không phải trong vài bài viết mà nói hết
được. Nhưng ngày nay, có thể nói đây là một trong những món ăn tinh thần thời thượng.
Nó rất cần thiết trong việc nghiên cứu cũng như giảng dạy văn học trong nhà trường. Nó
giúp chúng ta khám phá một cách chính xác các cấu trúc hình thức mang tính nội dung
của tác phẩm văn học, phục vụ cho việc tìm hiểu nội dung tác phẩm một cách đích thực,
hoàn toàn không có sự gán ghép hoặc cảm nhận thiếu cơ sở. Bên cạnh đó nó còn giúp
chúng ta hiểu đủ, hiểu đúng các tác phẩm văn chương trong quá trình phát triển tư duy
nghệ thuật, đánh giá đúng tư duy nghệ thuật của mỗi tác phẩm văn chương và hình tượng
tác giả. Nhưng không sa vào hình thức chủ nghĩa.

2. THI PHÁP NHÂN VẬT


2.1. Nhân vật văn học – chức năng và cấu trúc.
2.1.1. Nhân vật văn học là hình thức thể hiện con người trong văn học
- Với ý nghĩa văn học là nhân học thì toàn bộ văn học đều là sự biểu hiện con người. Song
tập trung hơn hết văn là sự thể hiện con người qua hình thức nhân vật. - Nhân vật văn học
có thể là người mà cũng có thể là loài vật, đồ vật, cây cỏ.
8
- Xét theo vai trò, vị trí trong tác phẩm ta có thể chia ra: Nhân vật hành động (kẻ làm nên
mọi việc trong tác phẩm). Nhân vật kể chuyện – người thuyết minh, miêu tả trần thuật câu
chuyện cho người đọc. Nhân vật trữ tình – người bộc lộ cảm xúc thầm kín của mình trong
tác phẩm. Các hình thức nhân vật này cũng pha trộn nhau: vừa là nhân vật hành động, vừa
là người kể chuyện, vừa tự sự vừa trữ tình.
2.1.2. Chức năng chung của nhân vật văn học là khái quát các quy luật về nhân cách, vừa
tổ chức tác phẩm, vừa biểu hiện quan niệm tác giả về cuộc đời, vừa bày tỏ tư tưởng, thái
độ trước cuộc sống (ví dụ). Do vậy, khi nghiên cứu nhân vật văn học cần nhìn nhận toàn
diện chức năng của nó trong thế giới nghệ thuật.
2.1.3. Cấu trúc của nhân vật văn học.
a) Nhân vật văn học là một sáng tạo của nhà văn và được giới thiệu dần dần. Nhân vật văn
học được cấu tạo bởi các yếu tố sau:
- Nhân vật văn học thường có cái tên: tên riêng hay tên viết tắt, hoặc gọi theo đặc điểm,
nghề nghiệp… Đó là điểm để quy tụ các hành động, ý nghĩ khác nhau của một người.
- Nhân vật có tính cách, tính khí, mục đích xuyên suốt các hoạt động của nó.
- Nhân vật có ngoại hình, nội tâm, diện mạo, được biểu hiện trực tiếp hay gián tiếp.
b) Xét về mặt vận động thì nhân vật là người khắc phục trở ngại của môi trường (thể loại
tự sự). Nhân vật trong tác phẩm tự sự không tách rời với biến cố, cốt truyện.

2.2. Thi pháp nhân vật


Để nghiên cứu thi pháp nhân vật ta có thể xem xét rất nhiều yếu tố của nó. Nhưng
ở đây ta chỉ dừng lại ở các khía cạnh sau:
2.2.1. Chân dung – ngoại hình: đây là phương diện thể hiện thi pháp khá rõ nét. Đọc một
chân dung ta tìm hiểu quan niệm nghệ thuật được mã hoá và cách thức mã hoá của nó (ví
dụ: chân dung Thuý Vân trong Truyện Kiều thể hiện tính chất cao quý, phi phàm của con
người. Chân dung Chí Phèo là sản phẩm của hoàn cảnh).
2.2.2. Hành động – việc làm: hành động việc làm là phạm vi hoạt động của con người,
cách biểu hiện phẩm chất của nó trong thực tiễn. Trong văn học, hành động – việc làm
của nhân vật là biểu trưng tính chất nhân cách của nó, đồng thời cũng là biểu hiện cách
hiểu con người của tác giả, là sự đánh giá con người về mặt văn hoá (ví dụ: nhân vật sử
thi thường hành động vì nghĩa vụ, danh dự).
2.2.3. Ngôn ngữ: ngôn ngữ nhân vật phụ thuộc vào quan niệm nghệ thuật về nhân vật (ví
dụ: nhân vật trong cổ tích chưa có ngôn ngữ của mình, nếu có thì cũng mang hình thức rất
đặc biệt – vần vè. Nhân vật văn học hiện đại mang nội dung và hình thức cá tính, tâm lí cá
nhân).

3. THI PHÁP KHÔNG GIAN, THỜI GIAN NGHỆ THUẬT


Trong hiện thực, thời gian và không gian vận hành theo quy luật tự nhiên (gần - xa,
sớm – tối, xuân – hạ – thu – đông…). Trong sáng tạo nghệ thuật, người nghệ sĩ cũng có
9
thể sử dụng những chất liệu của không gian, thời gian tuân theo sự vận hành của tự nhiên
ấy. Nhưng khi đi vào nghệ thuật thời gian, không gian đã được lựa chọn sắp xếp tổ chức
sáng tạo lại thông qua quá trình chủ quan của người nghệ sĩ đó là thời gian, không gian
nghệ thuật.

3.1. Thi pháp không gian nghệ thuật


3.1.1. Khái niệm:
Không gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ thuật, là phương thức tồn tại
và triển khai của thế giới nghệ thuật. Không gian nghệ thuật bao giờ cũng gắn liền với
cảm xúc và mang ý nghĩa nhân sinh. Vì thế không gian nghệ thuật trở thành phương tiện
chiếm lĩnh đời sống và trở thành ngôn ngữ, biểu tượng nghệ thuật. Ví dụ: khi Tố Hữu viết
“Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Nhìn lên Việt Bắc mà nuôi chí bền”
thì Việt Bắc đã trở thành một hình tượng tượng trưng. Là một hiện tượng nghệ thuật.
3.1.2. Đặc điểm của không gian nghệ thuật
- Không gian trong tác phẩm nghệ thuật ngoài ba chiều còn có chiều không gian tâm
tưởng – không gian của cảm xúc, của hồi tưởng, của ước vọng (ví dụ: Giữa hai đứa mênh
mông là biển rộng), nên đó là một không gian tượng trưng, ước lệ.
- Không gian nghệ thuật không giản đơn là không gian vật chất mà chủ yếu là tái hiện lại
không gian tinh thần – chứ không phải là một hiện tượng cơ giới máy móc (nói cách khác
đó là hình tượng không gian). Vì thế, không gian nghệ thuật thường mở ra một trường
nhìn từ một điểm nhìn, cách nhìn. Không gian này có thể rất mênh mang (trông vời trời
biển mênh mang…) cũng có khi rất hẹp (ai đem ta đến chốn này, bên kia là núi bên này là
sông). Không gian này cũng có viễn cảnh, giá trị tình cảm.
- Không gian nghệ thuật có nhiều lớp: không gian vũ trụ, không gian xã hội, không gian
địa lí, không gian con người (có 2 bình diện: nơi con người cư ngụ và tất cả những gì tâm
tưởng con người có thể đạt đến).
Tất cả những vấn đề của không gian nghệ thuật ta thấy nó thể hiện rất rõ trong các
thể loại văn học. Thần thoại luôn gắn với không gian định tính, cổ tích gắn với không gian
không cản trở, thơ cổ điển gắn với không gian vị trí... Có điều khác với thời gian, không
gian nghệ thuật còn bị chi phối rất nhiều bởi tính dân tộc, tâm lý dân tộc. Chẳng hạn ta
thấy rất cụ thể cái hồn tính đó trong hai câu thơ trong bài Qua Đèo Ngang của Bà Huyện
Thanh Quan
“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”
Người Việt thường rất ngại đi xa vì nơi chốn nhau cắt rốn chính là nơi sống ở thác
về của mỗi con người, nơi đó có tất cả những gì quý báu nhất của tâm hồn. Cũng vì lẽ đó
10
mà chuyến vào Nam nhậm chức Cung trung giáo tập là một việc hết sức khó khăn nhưng
không thể từ chối được. Qua Đèo Ngang, một không gian quạnh quẽ hoang sơ dễ làm cho
con người cảm thấy cô độc, chạnh lòng mà nhớ thương da diết. Tiếng chim cuốc, chim đa
đa kêu chiều là tiếng gọi bầy lẻ bạn của đôi lứa sau một ngày đi kiếm ăn, đó cũng là tiếng
lòng kín đáo của người phụ nữ đi xa nhớ nhà nhớ chồng ở nơi xứ lạ quê người. Cái không
gian địa lý tràn ngập trong không gian tâm tưởng, không gian tâm tưởng chan hòa bất tận
vào không gian vị trí của con người.
3.1.3. Biểu hiện của không gian nghệ thuật
- Biểu hiện bằng các không gian điểm mang tính ước lệ, tượng trưng như Tây Trúc, làng
quê, trong nhà, ngoài vườn…
- Biểu hiện bằng các từ không gian vốn đã mã hoá sẵn về ý nghĩa trong đời sống: trên cao,
dưới thấp, rộng, hẹp, quanh co…
- Không gian được biểu hiện ở kích thước, tầm nhìn gần xa: Thể hiện tập trung vào cái
nhìn, điểm nhìn, điểm quan sát: xa, gần, cao , thấp… và điểm nhìn thời gian (nhớ lại, dạo
ấy, bây giờ…) cũng là chiều thứ tư của không gian.

3.2. Thời gian nghệ thuật


3.2.1. Khái niệm:
Thời gian nghệ thuật là một phạm trù của hình thức nghệ thuật, thể hiện phương
thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Hay nói cách khác thời gian nghệ thuật
là một hình tượng thời gian được sáng tạo nên trong tác phẩm nghệ thuật. Thời gian được
dùng làm phương tiện nghệ thuật để phản ánh đời sống.
3.2.2. Đặc điểm của thời gian nghệ thuật:
- Thời gian nghệ thuật cũng có 3 chiều như thời gian khách quan (sáng, trưa, chiều tối,
quá khứ, hiện tại, tương lai…). Ngoài thời gian khách quan, thời gian nghệ thuật luôn
mang cảm xúc và ý nghĩa nhân sinh. Nó mang đầy tính chất chủ quan.
- Thời gian nghệ thuật mang tính chất tự do hơn thời gian khách quan. Nó có thể đảo
ngược (thời gian có thể rong ruổi ngược xuôi, đảo chiều một cách tự do), không hoàn toàn
phụ thuộc vào thời gian vật lý. Nó luôn đóng vai trò là hình thức tồn tại, hình thức triển
khai hành động, cảm thụ trong tác phẩm nghệ thuật. Trong thời gian nghệ thuật luôn tồn
tại hai lớp là thời gian trần thuật và thời gian được trần thuật. Trong thời gian trần thuật
lại bao gồm nhiều thời gian khác nhau như thời gian nhân vật, thời gian tâm lý, thời gian
tập thể, thời gian lịch sử, thời gian sự kiện... các thời gian này đi cùng với các chiều (quá
khứ - Tương lai - hiện tại) để tạo nên cấu trúc thời gian hoàn chỉnh cho mỗi tác phẩm văn
học. Ta thử đọc đoạn thơ sau của Nguyễn Văn Tài
“Không còn trẻ để cùng hoa phượng vỹ
Và cùng em trầm lặng dưới sân trường
Mùa hạ thoáng ngậm ngùi trong ý nghĩ
Dặm đường đời em có vẹn yêu thương?”
11
(Trích Đường tim - Nguyễn Văn Tài)
Bốn câu thơ mang một chuỗi thời gian tâm trạng, đứng ở cái thời gian "không còn
trẻ" để nhìn một dấu ấn kỷ niệm "hoa phượng vỹ" và lui dần về quá khứ" cùng em trầm
lặng dưới sân trường" rồi lại trở về hiện tại mùa hạ...ngậm ngùi và ý nghĩ trôi dần vào một
tương lai nào đó đầy sự lo lắng pha chút trách hờn "Dặm đường đời em có vẹn yêu
thương". Một đoạn thơ ngắn nhưng có sự tổ chức thời gian tâm lý để làm nổi bật tâm
trạng của nhân vật trữ tình, đưa người thưởng thức trôi theo mạch, nhịp của thời gian
phiêu bồng lãng đãng vốn dĩ của dòng đời đầy bất trắc.
3.2.3. Biểu hiện của thời gian nghệ thuật
- Thời gian nghệ thuật được xây dựng theo cách cảm nhận thời gian của con người hoặc
được tạo thành bởi bởi quan hệ các sự kiện, các đoạn thời gian của sự kiện, hay tương
quan của thời gian miêu tả.
- Thông qua các trạng từ chỉ thời gian (ngày xửa ngày xưa, dạo ấy, cách đây không
lâu…), các từ chỉ đoạn thời gian, cách tính thời gian, hay được chỉ bằng các dấu hiệu thời
gian như tuổi trẻ, tuổi già, xuân hạ, thu đông, tiếng chuông chùa, phiên chợ ngày lễ kỉ
niệm…
3.3. Vận dụng phân tích không - thời gian nghệ thuật trong một số tác phẩm.
Phân tích thi pháp không gian, thời gian trong tác phẩm tức là khám phá mô hình
không gian – thời gian và ngôn ngữ không thời gian trong tác phẩm nghệ thuật đó để giúp
ta hiểu thêm cách biểu hiện của tác phẩm.
Ví dụ: “Chiều hôm nhớ nhà” – Bà huyện Thanh Quan
“Chiều về bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn”
Bài thơ nói về thời điểm nhớ nhà, song cả bài lại thể hiện tâm trạng, cảm giác cô
đơn lạc lõng gữa không gian xa lạ: xa đưa, ngàn mai gió cuốn, dặm liễu sương sa? khắc
hoạ thêm tính chất xa lạ, lạnh lẽo của không gian. Còn không gian thân thuộc của người
lữ thứ càng ở xa qua điển cố: liễu Chương Đài.

4. THI PHÁP CHI TIẾT NGHỆ THUẬT


4.1. Khái niệm chi tiết.
- Trong nghĩa rộng thì bao gồm tất cả những chi tiết tạo nên một thế giới nghệ thuật, một
chỉnh thể của tác phẩm nghệ thuật.

12
- Trong nghĩa hẹp chi tiết chỉ những yếu tố có tính chất tạo hình hay liệt kê. Nó bộc lộ
trạng thái của khách thể (chân dung, áo quần, cây cỏ, màu sắc, đường nét…). Vậy có thể
hiểu chi tiết là những bộ phận nhỏ, tự nó không có ý nghĩa độc lập, nhưng lại biểu hiện
được ý nghĩa của các chỉnh thể mà chúng thuộc vào. Do đó Hêghen ví chi tiết như là
những con mắt giúp ta nhìn thấu suốt đối tượng. Nghĩa là chi tiết nghệ thuật tạo thành
những điểm nhìn vào đối tượng, thể hiện cái nhìn và quan niệm về đối tượng.
Chẳng hạn qua chi tiết có thể nghiên cứu ánh sáng, bóng tối, ấm lạnh… tức là thế giới
khách thể của tác phẩm.
Ví dụ: Trong thơ Tố Hữu ánh nắng rất nhiều lại chói lọi, rực rõ “ Bừng nắng hạ…” “Nắng
chói sông Lô…”. Anh sáng thì bằng lửa, khối sao băng.
Thơ lãng mạn thì đầy hoàng hôn. Thơ cổ đầy trăng. Thơ Bác vừa đầy ánh trăng vừa đầy
ánh nắng.
4.2. Phân tích chi tiết nghệ thuật trong một số tác phẩm (SV tập phân tích)

5. THI PHÁP CỐT TRUYỆN, KẾT CẤU


5.1. Thi pháp cốt truyện
5.1.1. Khái niệm: Cốt truyện là yếu tố của tác phẩm tự sự. Theo định nghĩa truyền thống,
đó là tất cả các hành động, biến cố được phát triển trong tiến trình kể chuyện.
- Khi thuật lại truyện, ta có thể kể lại các biến cố ấy theo một trình tự logic.
- Khi phân tích các thành phần của cốt truyện người ta thường chỉ ra các thành
phần để nhận ra mạch truyện và sự vận hành của hành động, biến cố (sự kiện) của truyện
tạo thành ý nghĩa của truyện.
Vậy thi pháp cốt truyện không phải là chỉ ra đâu là khai đoạn, đâu là đỉnh điểm,
đâu là mở nút …, mà là tìm hiểu các ý nghĩa của truyện và các nguyên tắc, quan niệm chi
phối các ý nghĩa ấy cùng cách thức xây dựng truyện của tác phẩm.
5.1.2. Phân tích thi pháp cốt truyện
Cơ chế phát hiện cốt truyện: Mọi biến cố đều xuất hiện trên cấu trúc không có biến
cố. Ví dụ: “Cây tre trăm đốt”:
- Nếu anh Khoai thông minh, nghe phú ông hứa gả con gái cho, liền không tin?
không có truyện.
- Nếu phú ông giữ lời hứa thì cũng không có truyện.
- Ở đây có 2 hướng lệch chuẩn gây nên chuyện: 1/ anh Khoai nghe nói tưởng thật,
bập vào. Đó là sự ngờ nghệch làm cho truyện hàm chứa một nụ cười chế nhạo. 2/ Phú ông
nuốt lời hứa, gây tức tối cho anh Khoai và cho những ai ghét hạng người lừa dối như phú
ông và đồng tình với giải pháp của Bụt.
Vậy muốn hiểu ngữ nghĩa của truyện, trước hết phải tìm hiểu cấu trúc không có cốt
truyện (tính thứ nhất). Cấu trúc cốt truyện mang tính thứ hai. Nhưng một khi hành động
cốt truyện được thực hiện thì ý nghĩa của tình trạng không có chuyện được thay đổi.

13
Ví dụ: “Tấm Cám” là xung đột trong gia đình, mẹ ghẻ con chồng, sau thành truyện
tranh chồng hại chị.
Đây là truyện cậy mạnh hiếp yếu, thủ đoạn lừa dối trắng trợn, tàn bạo mang tính
chất một mất một còn. Truyện được tạo thành bởi một chuỗi gây hại (lấy giỏ tép, giết cá
bống, bắt nhặt thóc, giết người, giết chim, chặt cây, đốt khung cửi). Biện pháp gây hại thô
thiển, trần trụi không có phép thuật gì. Kẻ bị hại được cứu vớt nhờ lòng thương của bụt,
nhờ quy luật hóa sinh của tự nhiên (giỏ tép còn bống, bống chết còn xương, chim chết còn
lông, khung cửi đốt còn tro…).
Truyện thể hiện niềm tin vào sự sống bất diệt và thái độ không thể dung hòa của
thiện và ác.
Truyện có 3 giai đoạn: 1/ Tấm chỉ khóc; 2/ Tấm liên tiếp bị hại, Tấm căm thù; 3/
Tấm trả thù.

5.2. Thi pháp kết cấu


5.2.1. Khái niệm thi pháp kết cấu
- Kết cấu là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động của tác phẩm nhằm phản ánh đời
sống, biểu hiện sự cảm nhận trước đời sống và thức tỉnh những thái độ, tình cảm nhất
định đối với thực tại. Cụ thể là xây dựng nhân vật, tính cách, biểu hiện quan niệm về con
người, về không gian, thời gian, sắp xếp chi tiết để tạo thành bức tranh sống động, tạo khả
năng cảm thụ cuộc sống ấy sao cho có thể rút ra được những ý nghĩa nhân sinh, những
phản ứng tình cảm như tác giả mong đợi.
- Mục đích của kết cấu là tạo thành một thế giới nghệ thuật mang nội dung khái
quát của tác giả. Đưa thế giới hình tượng mà người đọc có thể cảm nhận được bằng trí
tưởng tượng vào dòng liên tục của phương tiện ngôn từ (từ ngữ, câu, đoạn, liên kết, chỗ
ngừng, nhịp điệu, vần, trùng điệp…).
- Về bản chất, có thể nói kết cấu cũng có nghĩa là tổ chức cho người đọc con
đường đi vào tác phẩm, tổ chức cho họ một trường nhìn, một cái nhìn để thấy được hình
tượng nghệ thuật với tất cả chiều sâu và chiều rộng.
- Kết cấu bao gồm các phương diện:
a) Hệ thống hình tượng nhân vật, sự kiện và chi tiết nghệ thuật: sắp xếp sao cho các nhân
vật, sự kiện, chi tiết có thể tương phản, đối chiếu bổ sung cho nhau.
Ví dụ: Anđrây chết – Natasa rơi vào khủng hoảng tinh thần vậy truyện tiếp diễn
như thế nào? Nhà văn đưa cái chết của Pêchia vào… (Anna Karenina, Lev Tolstoy)
b) Hệ thống điểm nhìn và tổ chức văn bản: (tức là hiện tượng đời sống được nhìn theo con
mắt của ai, chủ thể nào: người kể chuyện – nhân vật, nhân vật trữ tình, nhân vật chính hay
nhân vật phụ… Cuộc sống ấy được nhìn theo điểm nhìn thời gian và không gian nào…).
Hệ thống điểm nhìn quy định cách thức tổ chức văn bản (văn bản được bắt đầu từ đâu, từ
khi sự việc phát sinh hay kể từ giữa rồi hồi tưởng lại quá khứ…).
Vậy hệ thống các nguyên tắc kết cấu của tác phẩm, thể loại tạo thành thi pháp kết
14
cấu của văn học.
5.2.2. Phân tích thi pháp kết cấu (SV tập phân tích)

6. THI PHÁP GIỌNG ĐIỆU VÀ LỜI VĂN NGHỆ THUẬT


6.1. Khái niệm giọng điệu
- Trong đời sống hàng ngày giọng điệu là giọng nói, lời nói biểu thị một thái độ nhất định.
- Trong văn học giọng điệu là thái độ, tình cảm của nhà văn đối với sự vật, hiện tượng
được miêu tả mà người đọc có thể cảm nhận được qua sắc thái biểu cảm lời văn.
Ví dụ: + Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
+ Lạ gì bỉ sắc tư phong. Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen
(Biểu hiện thái độ khinh bỉ, chì chiết, căm ghét của Nguyễn Du đối với “thuyết tài mệnh
tương đố”; “cái thói” ghanh ghét vô lý nghiệt ngã, ngang trái của cuộc đời).
+ “Bài tiếng chổi tre’ dùng từ “em” thể hiện giọng điệu tâm tình mang màu sắc độc
thoại.
- Giọng điệu được bộc lộ qua nhiều yếu tố, phương diện khác nhau của lời văn nghệ thuật
như cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa – gần, thân – sơ,
thành kính hay suồng sã, gợi ca hay châm biếm…
Ví dụ: + “Chí Phèo” giọng điệu suồng sã, đay nghiến.
+ “Dế Mèn phiêu lưu kí” giọng điệu hóm hỉnh.
- Trong văn chương, giọng điệu không phải được thể hiện ở chỗ nói cái gì (nội dung nói)
mà là ở chỗ nói như thế nào (hình thức nói). Tuy nhiên giữa nội dung và hình thức có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Chính nhờ đó mà từ giọng nói có thể nhận ra người nói, từ
giọng điệu có thể xác định được tác giả. Giọng điệu có vai trò rất lớn trong việc tạo nên
phong cách nhà văn. Thiếu một giọng điệu nhất định nhà văn chưa thể viết ra được tác
phẩm mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp hệ thống nhân vật. Ví dụ: “Trăm năm cô đơn”
của G.Macket (Mỹ la tinh) 5 năm sau mới tìm được giọng điệu: mượn cách kể của một bà
già nói về những chuyện hoang đường siêu nhiên, không khí huyền thoại đầy hấp dẫn.
- Giọng điệu thường thể hiện ngay từ những dòng đầu tiên của tác phẩm (ví dụ).
- Trong một tác phẩm văn học thường có giọng điệu chủ yếu và những giọng điệu khác.
Giọng điệu chủ yếu tạo thành âm hưởng chung bao trùm lên toàn bộ tác phẩm. Nó quyết
định nhiều khâu, nhiều yếu tố trong việc xây dựng tác phẩm, kể cả phương thức, cách
thức xây dựng nhân vật.
Ví dụ: Nam Cao ngoài giọng điệu buồn thương da diết còn có giọng khách quan
lạnh lùng tàn nhẫn bên ngoài mà cảm thông thương xót bên trong (một cách ngụy trang
của Nam Cao nhằm tái hiện cuộc sống theo nguyên tắc chủ nghĩa hiện thực – phản ánh
cuộc sống với tất cả sự trần trụi, làm rõ bản chất vốn có của nó. Tsêkhôp nhận xét “Chỉ có
sự lạnh lùng mới nhìn được sự việc một cách tỏ tường”).
+ “Bà lão ấy hờ con suốt một đêm. Bao giờ cũng vậy cứ hết đường đất làm ăn là bà
lại hờ con. Làm như chính tại con bà nên bây giờ bà phải đói” (Một bữa no).
15
+ “Thế là xong. Anh chết rồi đấy nhỉ? Không lẽ tôi lại vui khi được cái tin như thế.
Nhưng thật tôi cũng không biết có nên buồn không đây” (Điếu văn).
- Phân tích tác phẩm văn học mà bỏ qua giọng điệu, tức là tước đi cái phần rất quan trọng
tạo nên bản sắc độc đáo của tác phẩm. Ví dụ: “Tướng về hưu” (Nguyễn Huy Thiệp) giọng
điệu rời rạc, cộc lốc qua cách kể rời rạc, nhát ngừng kiểu “ông bảo, cô bảo, tôi bảo, cha
tôi bảo…”, thể hiện mối quan hệ lỏng lẻo, rời rạc không giao cảm. Tác phẩm là tiếng
chuông cảnh tỉnh về sự rạn vỡ của truyền thống đạo lý.
- Không nên lẫn lộn giọng điệu với ngữ điệu (là phương tiện của biểu hiện của lời nói thể
hiện qua cách lên giọng xuống giọng, nhấn mạnh, nhịp điệu, chỗ ngừng…
- Giọng điệu là một phạm trù thẩm mỹ của tác phẩm văn học. Nó đòi hỏi người trần thuật,
kể chuyện hay nhà thơ phải có khẩu khí, có giọng và có điệu.

6.2. Khái niệm lời văn nghệ thuật


6.2.1. Khái niệm
- Dạng phát ngôn được tổ chức một cách nghệ thuật, tạo thành cơ sở ngôn từ của văn bản
nghệ thuật, là hình thức ngôn từ nghệ thuật của tác phẩm văn học (lời thơ, lời trần thuật,
lời nhân vật, lời thoại trong kịch và các dạng của chúng đều là các bộ phận tạo thành lời
văn nghệ thuật).
- Khác với lời nói thường, lời văn nghệ thuật có tính cố định, tính độc lập hoàn chỉnh
trong bản thân nó, có tính vĩnh viễn, tính hình tượng và tính tổ chức cao.
- Thành phần cơ bản của lời văn nghệ thuật là: lời gián tiếp (người kể chuyện), lời trực
tiếp (của nhân vật) được tổ chức theo cách thức hoạt động gián tiếp (đối thoại, độc thoại)
và theo loại hình (tự sự, trữ tình, kịch), cách tư duy nghệ thuật (lãng mạn, hiện thực,
tượng trưng…), loại hình văn hóa nghệ thuật (dân gian, thành văn), ý thức nghệ thuật
(một giọng, hai giọng, nhiều giọng…).
6.2.2. Các phương tiện ngôn ngữ của lời văn nghệ thuật
- Để xây dựng ngôn ngữ nghệ thuật, nhà văn nhà thơ khai thác các phương tiện biểu hiện
vốn có của ngôn ngữ tự nhiên như vần, giọng điệu, bằng trắc, các phương thức tu từ, các
kiểu lặp lại, từ láy, từ tượng thanh, tượng hình, các biểu tượng, các thành ngữ, cách chơi
chữ …
- Phương tiện của lời văn nghệ thuật là từ ngữ, cụm từ, câu (các kiểu câu, lời phát ngôn
với giọng điệu lập trường chủ thể trong câu đó: lời độc thoại, độc thoại nội tâm, lời quê
kệch, suồng sã hay tao nhã, quý phái, trau chuốt…), văn bản (với các nguyên tắc liên kết
như phép lặp câu, phép chiếu ứng, sự tương ứng đoạn mở đầu và đoạn cuối…).
6.2.3. Thi pháp lời văn nghệ thuật là cách sử dụng các phương tiện lời văn để tạo ra tính
hình tượng, theo những nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc sử dụng, tổ chức ngôn ngữ
thành văn bản nghệ thuật là thi pháp lời văn.
- Thi pháp học lời văn nghệ thuật là chỉ ra nguyên tắc dùng từ, dùng câu trong tác phẩm.
Khám phá tính nội dung, tính quan niệm của các phương tiện ấy trong tác phẩm.
16
6.2.4. Phân tích thi pháp lời văn nghệ thuật trong một số tác phẩm
- Thăng long thành hoài cổ (Bà huyện Thanh Quan), Tùng (Nguyễn Trãi)
- Mời trầu (Hồ Xuân Hương).
CHƯƠNG 2
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP CỦA MỘT SỐ THỂ LOẠI
VĂN HỌC DÂN GIAN

1: THI PHÁP VĂN HỌC DÂN GIAN


1.1. Khái niệm thi pháp Văn học dân gian
- Ở Việt Nam, thuật ngữ thi pháp vhdg được sử dụng khá muộn (1980)
- Theo chu Xuân Diên:
“Thi pháp vhdg là toàn bộ các đặc điểm về hình thức nghệ thuật, về phương thức
và thủ pháp miêu tả, biểu hiện; về cách cấu tạo đề tài, cốt truyện và phương pháp xây
dựng hình tượng con người…”.
Như vậy, việc nghiên cứu thi pháp vhdg bao gồm từ việc khảo sát những yếu tố thi
pháp riêng lẻ như phép so sánh thơ ca, các biểu tượng và luật thơ, các mô típ và cách cấu
tạo cốt truyện, cách mô tả diện mạo bên ngoài và tâm lý bên trong của nhân vật… đến
việc khảo sát những đặc điểm thi pháp chung của từng thể loại, và cuối cùng là việc nêu
lên những đặc điểm phổ thông và những đặc điểm dân tộc của thi pháp vhdg nói chung.

1.2. Nghiên cứu thi pháp Văn học dân gian:


Văn học dân gian là nghệ thuật ngôn từ. Vì thế thành phần ngôn từ là chủ yếu. Do
đó, đối tượng nghiên cứu chính của vhdg là ngôn từ (cái hồn) tồn tại trong tác phẩm
(chỉnh thể nghệ thuật) cụ thể thuộc thể loại cụ thể. Điều này có nghĩa là:
- Phân tích tác phẩm vhdg là phải nắm được đặc trưng thể loại của tác phẩm được phân
tích.
1.2.1. Khái niệm thể loại:
Thể loại là tổng thể các tác phẩm cùng có chung mấy dấu hiệu (tiêu chí) sau:
a) Hệ đề tài (mỗi thể loại vhdg, trên thực tế, đều chú trọng khai thác một số phạm vi nhất
định những hiện tượng cuộc sống – đó là hệ đề tài của nó).
* Đề tài là phạm vi những hiện tượng cuộc sống được phản ánh và lý giải trong tác phẩm
nghệ thuật từ những lập trường, quan điểm tư tưởng nhất định. Đề tài không tách rời tư
tưởng của tác phẩm.
Vậy có thể hiểu: Đề tài là vấn đề mà nhà văn đặt ra trong tác phẩm và thể hiện,
trình bày giải thích nó bằng chất liệu cuộc sống.
* Hệ đề tài: là toàn bộ, là tổng thể những đề tài được đề cập trong những tác phẩm thuộc
một thể loại (hoặc của một nghệ sĩ…).
Ví dụ: Truyền thuyết lịch sử đều kể về những sự kiện, những nhân vật lịch sử thời quá
khứ hoặc về nguồn gốc các địa danh.
17
b) Thi pháp
c) Chức năng (chủ yếu là chức năng sinh hoạt, tức là sự sử dụng theo phong tục tập quán
các tác phẩm thuộc mỗi thể loại trong sinh hoạt nhân dân).
d) Phương thức diễn xướng (tức là hình thức trình diễn các tác phẩm
1.2.2. Thi pháp thể loại:
Là tổng thể các yếu tố thuộc về hình thức và thủ pháp nghệ thuật mà các tác phẩm
thuộc cùng một thể loại đều thống nhất sử dụng. Xét chung những yếu tố này gồm:
- Thể văn: bao gồm các thể thơ ca, văn xuôi, câu nói vần vè.
- Kết cấu: bao gồm các kiểu kết cấu tác phẩm gắn với các thể văn nói trên của nghệ thuật
truyền miệng.
- Thủ pháp nghệ thuật: bao gồm các thủ pháp xây dựng hình tượng nhân vật, cấu tạo hình
ảnh và chi tiết nghệ thuật, biểu đạt không – thời gian nghệ thuật, v.v…
Tóm lại: thi pháp thể loại là toàn bộ hệ thống nghệ thuật của một thể loại.

1.3. Mục đích, ý nghĩa của việc nghiên cứu thi pháp thể loại
- Giúp ta khai thác sâu hơn giá trị thẩm mỹ của vhdg, một giá trị ít được chú ý hơn so với
giá trị nhận thức và giá trị giáo dục.
- Mỗi thể loại vhdg có cách nói riêng của nó nhằm biểu đạt nội dung riêng của nó – thi
pháp thể loại chính là cách nói riêng ấy. Vì thế, có nắm được thi pháp thể loại mới có khả
năng giải mã được các tác phẩm thuộc thể loại vhdg.
- Trong nhà trường, kể cả nhà trường tiểu học, dạy tác phẩm không chỉ là truyền đạt
những gì người giáo viên cảm nhận được, nhận thức được ở tác phẩm. Do đó, cần quy
cách thức giải mã tác phẩm ấy thành một hệ thống thao tác hợp lý. Và những thao tác này
phải được thực hiện một cách nhất quán đối với các tác phẩm cùng một thể loại. Như vậy
việc nghiên cứu thi pháp thể loại giúp người giáo viên không những có khả năng tự mình
hiểu đúng, hiểu sâu tác phẩm vhdg trong chương trình mà còn có khả năng hoàn thiện hệ
thống thao tác phân tích tác phẩm nhằm luyện cho HS cách thức đọc – hiểu tác phẩm
ngay chính trong quá trình các em được hướng dẫn tìm hiểu tác phẩm.

2. THI PHÁP TRUYỆN DÂN GIAN


2.1. Đặc điểm thi pháp của thể loại thần thoại
Trong hệ thống phân loại vhdg, thần thoại được xác định là một thể loại.

2.1.1. Hệ đề tài: Có 2 nhóm đề tài


a) Thần thoại suy nguyên: là những thần thoại giải thích nguồn gốc của một số sự vật,
hiện tượng tự nhiên và xã hội mà con người thời cổ nói chung và cộng đồng tộc người
chủ nhân của mỗi “hệ” thần thoại nói riêng cho là có quan hệ đến sự sống còn của họ.
Ví dụ: truyện kể về trời đất, núi sông, loài người, vạn vật,… như: Thần trụ trời, Đi san
mặt đất, Cóc kiện trời, Kinh và Ba na là anh em, Đẻ đất đẻ nước, Quả bầu mẹ.
18
b) Thần thoài sáng tạo văn hoá: là những thần thoại giải thích nguồn gốc của những sự
vật, hiện tượng tạo thành “thiên nhiên thứ hai” của con người (tức là nền văn hoá). Đó là
những chuyện kể về những “anh hùng văn hoá” – những vị thần đã lập nên những kỳ tích
khai phá địa bàn sinh tụ và chế ngự những quái vật gây hại cho cộng đồng (như Lạc Long
Quân diệt ngư tinh, mộc tinh và hồ tinh; Sơn Tinh Thuỷ Tinh; Thần sắt; Âu Cơ dạy cách
trồng lúa, dệt vải, làm bánh; Thần Kim Quy và Cao Lỗ chế nỏ thần…).
- Một bộ phận lớn thần thoại sáng tạo, về sau đã được lịch sử hoá biến thành những
truyền thuyết về thời các Vua Hùng hoặc truyền thuyết địa danh như: Lạc Long Quân –
Âu Cơ (Truyền thuyết con rồng cháu tiên), Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Truyền thuyết về Hồ
Tây,… Một số biến thành truyện cổ tích hoặc để lại những mảnh võ trong truyện cổ tích
như: Bánh trưng bánh dày, sự tích dưa hấu,…
- Chức năng cơ bản của thần thoại là nhận thức và “giáo dục phổ cập” của cộng đồng
(người nguyên thuỷ khi sáng tạo thần thoại không phải là để làm nghệ thuật mà là để cất
giữ những tri thức kinh nghiệm để phổ biến cho mọi người hoặc cho đời sau) và chính
chức năng này quy định đặc trưng về phương thức diễn xướng của thể loại này.

2.1.2. Đặc điểm thi pháp của thần thoại


Các nhà thần thoại học chú ý đến việc giải mã ý nghĩa bí ẩn của thần thoại hơn là đi sâu
vào việc tìm hiểu nguyên nhân của sức hấp dẫn về mặt thẩm mỹ của thần thoại đối với
chúng ta ngày nay. Hơn nữa nguồn tư liệu mà ta hiện có thì khoảng cách so với thần thoại
đích thực còn xa hơn nhiều. Cho nên, không có cơ sở để nói về “thi pháp của thần thoại”
như với các thể khác. Ở đây, chỉ có thể nêu ra một vài nét chung nhất về mặt thi pháp thần
thoại như sau:
a) Về kết cấu:
Thần thoại không phải là những tác phẩm có cốt truyện hoàn chỉnh và ổn định mà
thường chỉ là những mẩu truyện hoặc tình tiết mà người kể hoặc người biên soạn có thể
tuỳ ý sắp xếp theo những hệ thống ít nhiều khác nhau. Cũng vì vậy mà tuy có thể căn cứ
vào nội dung đề tài phân thành 2 nhóm, song những đề tài ấy vẫn thường xen kẽ nhau
trong cùng một truyện.
Ví dụ: Sơn Tinh Thuỷ Tinh vừa phản ánh hiện tượng lũ lụt, vừa gắn với các sự
kiện lịch sử thời Hùng Vương. Truyện ông Dóng kể chiến công của người anh hùng bảo
vệ bộ lạc, lại có khá nhiều mẫu đề thần thoại suy nguyên…
Trong quá trình lưu truyền về sau, thần thoại thường trải qua nhiều sự thay đổi
thêm bớt. Điều đó làm cho kết cấu của thần thoại thường rất phức tạp về chủ đề và về các
tầng lịch sử văn hoá.
b) Về nhân vật:
Trong thần thoại thế giới là thế giới các thần, “nhân vật” trong đó là các vị thần.
Con người chưa có vai trò gì (đến sử thi, lần đầu tiên con người mới thật sự xuất hiện và
là nhân vật trung tâm; tuy thế thế giới các thần vẫn ngự trị).
19
Các vị thần trong thần thoại là sản phẩm của quan niệm vạn vật đều có linh hồn,
quan niệm “thần” và người đồng hình, đồng tính… của tư duy vốn mang những nét đặc
thù của người thời cổ. (chữ thần đặt trong ngoặc kép là để tránh nhầm lẫn với khái niệm
thần thánh, ngọc hoàng của các tôn giáo đời sau. Hai là để có tên gọi chung cho cả họ nhà
thần).
Các vị thần trong thần thoại đều chưa có tính cách (như các nhân vật cổ tích). Họ
khác nhau ở chức năng.
Ví dụ: Thần trụ trời chỉ có chức năng phân chia trời đất, tạo ra núi đồi, sông biển.
Còn các vị thần khác có nhiệm vụ làm tiếp công việc đó, mỗi người một việc.
Những nét miêu tả, kể cả miêu tả tính tình, nếu không phải do người đời sau hoặc
nhà biên soạn thêm thắt vào, đều chỉ có ý nghĩa giải thích sự vật hiện tượng. Ví dụ: Thần
sét (Thiên lôi, ông sấm) là một người mặt mũi rất nanh ác, tiếng quát tháo rất dữ dội, tính
rất nóng nảy… đều liên quan đến sự giải thích hiện tượng sét. Thần biển là một con rùa to
khi thở ra… lúc hít vào… là hiện tượng thuỷ triều.
Tóm lại, thần thoại không biết đến nghệ thuật xây dựng chân dung. Con người
trong thần thoại chỉ quy về một bình diện, một năng lực, làm một việc nào đó.
c) Thời gian và không gian nghệ thuật trong thần thoại
c.1) Thời gian nghệ thuật trong thần thoại là:
- Thời gian tĩnh tại, không đầu không cuối, không có trật tự và người ta không bao giờ
cảm thấy thiếu thời gian, không bao giờ phải hồi hộp.
- Các yếu tố dàn hàng ngang, không có thứ tự trước sau (đó là cách tư duy của người cổ
đại – giống như trẻ thơ chưa ý thức được thời gian).
c.2) Không gian nghệ thuật trong thần thoại:
Không gian định tính. Đó là không gian các thần tồn tại (không ai biết thần ở đâu).
Không gian ấy gắn liền với phép lạ. Cho nên nhân vật tồn tại trong không gian mà như
tồn tại ngoài không gian. Ví dụ: Thần trụ trời sinh ra từ một khối hỗn mang (ta gọi là vật
chất). Khối hỗn mang đó không biết có tư bao giờ. Thần tách đôi khối hỗn mang đẩy một
nửa lên cao, nửa còn lại, thần ra sức đào bới để đắp cột chống nửa trên, tạo thành địa hình
như ngày nay… (câu chuyện này thể hiện một quan niệm về vũ trụ, về mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức).

2.2. Đặc điểm thi pháp của truyền thuyết lịch sử


Truyền thuyết ra đời sau thần thoại, khi xã hội phân chia giai cấp, khi nền kinh tế
đã khá phát triển. Con người lúc này không chỉ có nhu cầu nhận thức tự nhiên mà còn có
nhu cầu nhận thức xã hội.
Ở nước ta truyền thuyết bắt đầu phát triển từ thời các Vua Hùng dựng nước. Theo
đặc trưng tiêu biểu nhất của truyền thuyết là gắn với lịch sử, phản ánh lịch sử cách riêng
của mình, trong đó thể hiện sự đánh giá của nhân dân. Tuy nhiên truyền thuyết chưa bao
giờ nói sự thật một trăm phần trăm. Ở giai đoạn đầu tiên, những yếu tố hoang đường kỳ
20
diệu rất nhiều, về sau có giảm đi nhưng vẫn không rũ bỏ hết được. Như vậy ở đây còn có
xu hướng thứ hai, xu hướng kỳ ảo hoá sự thật lịch sử. Con đường kỳ ảo hoá sự thật là con
đường của sáng tạo nghệ thuật (lịch sử không trần trụi mà đã được nhào nặn thêm thắt).

2.2.1. Hệ đề tài: Có 3 nhóm


a) Truyền thuyết địa danh (phản ánh quá trình chung của của lịch sử)
Là truyện kể dân gian về nguồn gốc lịch sử của những tên gọi địa lý khác nhau
hoặc về nguồn gốc của bản thân những địa điểm, địa hình, sự vật địa lý ấy. (giải thích tên
đất). Ví dụ: Sự tích hồ Tây (Lạc Long Quân đánh Hồ tinh), Sự tích hồ gươm, Sự tích núi
ngũ hành, Sự tích đầm nhất Dạ và bãi tự nhiên…
b) Truyền thuyết phổ hệ
Là những truyện kể dân gian về nguồn gốc của các thị tộc, bộ lạc, gia tộc, các làng
xã, thành thị, xưởng máy… cùng các đại biểu tài năng nhất của các nghề thủ công mỹ
nghệ … (giải thích cội nguồn). Ví dụ: căn cứ vào khái niệm trên thì chuỗi truyền thuyết
về thời các Vua Hùng là truyền thuyết phổ hệ. Nhưng đây là một trường hợp đặc biệt và
duy nhất (vừa là truyền thuyết phổ hệ vừa là truyền thuyết lịch sử mang màu sắc sử thi
của thời đại dựng nước).
c) Truyền thuyết về nhân vật và sự kiện lịch sử (truyền thuyết lịch sử)
Là những truyện kể có mục đích tái hiện chính bản thân sự thật lịch sử. Đây là biến
thể tiêu biểu nhất của truyền thuyết Việt Nam.
Truyền thuyết lịch sử được chia thành 2 nhóm: 1/ Những truyền thuyết về thời các
Vua Hùng (nhóm truyện này gồm những nhân vật thần thoại về anh hùng văn hoá thời cổ
đại đã được lịch sử hoá và nhất loạt quy về thời đại Hùng Vương. Nhằm suy tôn các Vua
Hùng và ca ngợi công lao dựng nước, giữ nước của các vua Hùng trong buổi bình minh
của lịch sử dân tộc), 2/ Những truyền thuyết đời sau (nhằm chỉ những toàn bộ truyền
thuyết lịch sử sau thời các Vua Hùng. Vì thế truyện không phản ánh những quá trình
chung của lịch sử thời dựng nước mà hướng hẳn vào những sự kiện và nhân vật lịch sử cụ
thể. Do đó nó bao quát một phạm vi rộng lớn những sự kiện và nhân vật lịch sử được
nhân dân quan tâm).
Chức năng cơ bản của truyền thuyết là vừa làm sử vừa gắn với thực hành tín
ngưõng, nghi lễ thờ cúng.

2.2.2. Đặc điểm thi pháp của truyền thuyết


a) Về cốt truyện
Cốt truyện đơn giản (đơn điệu) mang dáng dấp của lược đồ 3 phần:
Hoàn cảnh xuất hiện Sự nghiệp của Chung cục thân thế
Nhân vật chính nhân vật nhân vật
(con người nhân vật chính) (chiến công) (vinh phong, hiển thánh)
b) Về nhân vật
21
- Là nhân vật lịch sử (có chọn lựa) được tái tạo lại, được dựng lại diện mạo, tầm vóc rồi lý
tưởng hoá những việc, những người mình muốn ca ngợi.
- Hành động trong sự kiện lịch sử, nên không có phép màu nào có thể đảo ngược được sự
thật lịch sử. (truyện cổ tích có thể đảo ngược nhờ yếu tố thần kỳ).
- Tìm hiểu nhân vật truyền thuyết nhất thiết phải lý giải được thái độ và cách đánh giá của
nhân dân đối với nhân vật và sự kiện mà nhân vật này là trung tâm.
c) Xung đột trong truyền thuyết
- Ở những truyền thuyết thời cổ (nhân vật trung tâm là những anh hùng văn hóa) xung đột
chính là xung đột giữa con người với thiên nhiên (Truyện thần Tản Viên – một trong Tứ
bất tử của người Việt).
- Trong những truyền thuyết đời sau, xung đột nổi bật, trước hết là xung đột giữa dân tộc
và xâm lược.
- Giai đoạn TKXV đến nửa đầu XIX là xung đột giữa nhân dân và chính quyền phong
kiến (do mâu thuẫn xã hội gay gắt đặc biết là mâu thuẫm giữa nhân dân và địa chủ phong
kiến). Phản ánh xung đột này có những thái độ và cách đánh giá khác hẳn chính sử của
nhà nước phong kiến).
- Những truyền thuyết về danh nhân văn hóa không miêu tả những xung đột dữ dội, quyết
liệt như truyền thuyết về anh hùng chồng xâm lược và chồng áp bức phong kiến. Ở đây có
phần tương tự như ở truyện cổ tích sinh hoạt về nhân vật tài trí và đức hạnh.
d) Không gian thời gian nghệ thuật
- Không gian thường gắn với các chiến trường, các địa danh làng xã.
- Thời gian là thời gian quá khứ tuyệt đối (đối với người nghe), là thời gian khép kín.
e) Lịch sử và hư cấu trong truyền thuyết
- Truyền thuyết dân gian là sự thật lịch sử đã được lý tưởng hóa theo trí tưởng tượng của
dân gian. Nghĩa là “sự thật lịch sử” là những sự kiện và nhân vật lịch sử có tên tuổi hẳn
hoi. Nhưng sự thật lich sử là đối tượng phản ánh, là “cái lõi” chứ không phải là bối cảnh,
là đường viền. Nhân vật và sự kiện được phản ánh trong truyền thuyết cũng không trần
trụi mà còn bao hàm cả cách đánh giá của nhân dân.
- Hư cấu trong truyền thuyết không phải là yếu tố chỉ tô điểm thêm cho sự thật lịch sử mà
nó can thiệp cả vào sự thật lịch sử: nó có thể thêm chi tiết, tình tiết, nhân vật phụ,… và
thậm chí nhào nặn lại sự thật lịch sử trong chất “thơ và mộng”, trong chất kỳ ảo, nhằm lý
tưởng hóa những con người làm nên lịch sử và thể hiện tâm tình của nhân dân đối với
những con người anh hùng của quê hương.
f) Lời kể của truyền thuyết
- Kém điêu luyện về mặt nghệ thuật.
- Sử dụng một số thủ pháp (dẫn ra một vài chi tiết cụ thể về hoàn cảnh, sự việc, hành động
kể cả lời nói cô đúc của nhân vật chính…) nhằm tô đậm tính chất xác thực của câu
chuyện kể. Trong những chi tiết cụ thể nói trên, có loại chi tiết cũng được gọi bằng “cổ
tích” (tức là chứng tích xưa còn lại). Ví dụ: cả vùng trung Châu hiện vẫn còn những dấu
22
vết của Thánh Gióng đánh đuổi giặc Ân: chân ngựa thành ao, chuôm (Thuận Thành - Quế
Võ); roi sắt gãy cắm trên đỉnh Châu Sơn.
- Nhưng “cổ tích” trong truyền thuyết là chứng tích (bằng chứng) về tính xác thực của câu
chuyện kể. Còn “cổ tích” trong truyện cổ tích chỉ là những chi tiết nghệ thuật nhằm đem
lại cho câu chuyện tưởng tượng, không có thực một màu sắc có vẻ như thật, được người
nghe tiếp nhận với nụ cười ý nhị hóm hỉnh hơn là với một niềm kính tín hồn nhiên.

2.3. Đặc điểm thi pháp truyện cổ tích


2.3.1. Hệ đề tài
Truyện cổ tích là một thể loại lớn gồm ba nhóm đề tài (ba tiểu loại): Cổ tích thần
kỳ, cổ tích về loài vật, cổ tích sinh hoạt (cổ tích thế sự). Những biến thể này của truyện cổ
tích có sự khác nhau đáng kể về mặt thi pháp. Tuy nhiên giữa chúng vẫn có sự tương
đồng về những đặc trưng cơ bản, kể cả ở đặc trưng thi pháp đó là thế giới cổ tích.
Thế giới cổ tích là một sáng tạo độc đáo của trí tưởng tượng dân gian: từ những
yếu tố của thực tế trí tưởng tượng dân gian đã cải biến thành một thứ vật liệu, đem nhào
nặn trong một chất “phụ gia” đặc biết gọi là “hư cấu” để xây dựng nên một thế giới khác
với thế giới thực tại, mà ta gọi là “thế giới cổ tích” – thế giới không có thực. Cố nhiên, khi
cần ta có thể dựa vào dân tộc học và khoa học tương cận, để quy nó về một thực tế, thực
tại nào đó, xác định những phương diện nào đó của thực tế, của sinh hoạt (như tập tục, tín
ngưỡng, những quan hệ xã hội và xung đột xã hôi thời cổ…) đã làm nảy sinh những cốt
truyện, những mẫu đề (môtíp) ấy hoặc đã được phản ánh trong những câu chuyện kỳ lạ
ấy.
Điều hấp dẫn đối với người nghe truyện cổ tích, có ý nghĩa đối với họ chính là cái
thế giới cổ tích ấy, chứ không phải ở chỗ thế giới ấy phản ánh thực tế nào.
- Định nghĩa: Truyện cổ tích là truyện kể về những chuyện không thể xảy ra trong thực
tế. Người kể và người nghe đều mơ ước về những điều “nên có và có thể có” diễn ra trong
thế giới cổ tích, nhưng không ai, cả người kể lẫn người nghe, coi câu chuyện kể là có thật.
Đây chính là điểm khác biết căn bản giữa thể loại cổ tích với thể loại truyền thuyết.

2.3.2. Những đặc điểm thi pháp truyện cổ tích

Các phương Các tiểu loại loại truyện


diện
Cổ tích thần kỳ Cổ tích sinh hoạt Cổ tích loài vật
Về nhân vật Chỉ có một số kiểu nhân vật chính nhất định đó Là các con vật.
là: Nhằm hiểu biết về
* Kiểu nhân vật bất hạnh, đức hạnh - (xấu xa) đời sống tập tính
- Người em út (Bánh chưng…, Cây khế) của loài vật, phát

23
- Người con riêng (Tấm Cám…) triển tương ứng với
- Người mồ côi (Chử Đồng Tử…) xã hội, mang tính
- Người mang lốt vật (Sọ dừa…) cách loài người.
- Người đi ở (Cây tre trăm đốt…)  Tiếp cận truyện
* Kiểu nhân vật kỳ tài, trí xảo - (khờ khạo) ngụ ngôn.
- Người dũng sĩ (Thạch Sanh…)
- Nhóm người có tài lạ (Bốn anh tài…)
Gọi là kiểu nhân vật là vì những nhân vật này có
những nét tương đồng căn bản về tính cách, hành
động và số phận; thường xuất hiện trong cổ tích
thần kỳ và có cốt truyện đại thể giống nhau.
Theo quan điểm xã hội học: phân loại nhân vật
chính của cổ tích theo tiêu chuẩn “nguồn gốc
xuất thân”. Theo tiêu chuẩn này , nhân vật được
phân thành 2 loại: Loại có nguồn gốc “thần kỳ”
(gọi là nhân vật cao quý), Loại có nguồn gốc
“tầm thường” (gọi là nhân vật thấp hèn). Loại thứ
nhất được trời phú cho sức mạnh thần kỳ từ lúc
ra đời. Loại thứ hai (thường là nông dân, người
nghèo khổ) chỉ bộc lộ tài trí phi thường, hoặc
được nhân vật trợ thủ thần kỳ (thần, phật, tiên,
thánh…) ban cho sức mạnh thần kỳ khi gặp khó
khăn, thử thách bất thường.
Cách phân loại này có ý nghĩa: giúp ta nhận rõ
hơn mối quan hệ giữa nhân vật và kết cấu truyện
cổ tích (kết cấu của truyện có nhân vật “thấp
hèn” thường phức tạp hơn so với truyện nhân vật
có nguồn gốc “cao quý”). Ví dụ...
Kiểu kết cấu này có ý nghĩa: thể hiện ước mơ
nêu cao tài trí của những “con người bé nhỏ”,
“kẻ nghèo trở thành giàu”, thể hiện niềm tin vào
chiến thắng cuối cùng của chính nghĩa.
Hình tượng nhân vật “con người bé nhỏ” trong
TCT là kết quả của lối tư duy NT mới hướng vào
cuộc sống đời thường.
Về Xung đột Có 2 loại xung đột: - Xung đột giữa
- Xung đột xã hội. con người và loài
- Xung đột giữa con người và trở lực thiên nhiên. vật.

24
Đây là sự tiếp nối hợp quy luật về đề tài cuộc đấu
Dấu vết ấy thể
tranh của con người nhằm tìm hiểu và chế ngự hiện:
thiên nhiên trong thần thoại. + Ở những môtíp
Xung đột thường được giải quyết nhờ can thiệp rất cổ gắn với tín
của các lực lượng thần kỳ. Nhân vật chính ngưỡng tôtem (vật
thường thụ động. (lực lượng thần kỳ có 2 loại: 1tổ).
trợ giúp người bất hạnh – phía thiện, 2 trợ giúp+ Thể hiện gián
các thế lực đen tối – phía ác). tiếp qua môtíp gọi
Lực lượng thần kỳ về bản chất là những môtíp là “dư âm của cái
thần thoại. Chúng tạo nên cái lõi của cổ tích TK.
thời con người bắt
Môtíp XH tạo nên khung cảnh của câu chuyện. thú về nuôi.
 Qua thời gian
* Cổ tích sinh hoạt: Chủ yếu tập trung vào đề tài
XH. Cụ thể là đã chuyển hóa
- Đạo đức (= CTTK đề tài xung đột gia đình). thành xung đột sinh
- Trí khôn (= CTTK đề tài sức khỏe và tài lạ). hoạt xã hội.
- Xung đột giữa kẻ
yếu và kẻ mạnh (là
xung đột nổi bật.
Nhưng không có sự
lý tưởng hóa nhân
vật).
Về kết cấu Xây dựng theo một sơ đồ chung nhất định. Cơ sở Do đề tài đơn giản
để xác lập sơ đồ kết cấu là hành động của nhân nên kết cấu phổ
vật chính. biến là hình thức kể
1/ Xuất hiện : a) Thấp hèn, chuyện ngắn – đối
b) thần kỳ thoại. Vì thế, câu
2/ Phiêu lưu : a) Ra đi (hoặc bước chuyện thường
vào tình huống khó khăn) mang dáng dấp một
b) Gặp thử thách hành động kịch.
c) Chiến thắng - Có 2 kiểu kết cấu:
3/ Đổi đời (thay đổi số phận) + Đơn tình tiết
a) Thưởng (phạt) + Đa tình tiết (Cóc
b) Được đền bù kiện trời: 1 là đoàn
* Cổ tích SH: Kết cấu linh động.Tuy vậy có thể kết, 2 là giao đấu.
phân biệt hai kiểu kết cấu:
+ Kết cấu kể sự việc (kết cấu này được sử dụng
rộng rãi trong đề tài đạo đức).
+ Kết cấu xâu chuỗi (sử dụng rộng rãi trong đề

25
tài trí khôn).
Không gian - Không gian không cản trở nên hành động của - không gian của
nghệ thuật con người không bị trở ngại của hoàn cảnh. Tính những quan niệm
chất thần kỳ của truyện cổ tích là do không gian hư cấu.
không cản trở này tạo nên. Bởi thế, nhân vật của - Hư cấu nảy sinh
truyện cổ tích không biết đến mệt mỏi, ốm đau, từ sự thống nhất
núi sông không ngăn chặn được bước chân của các mặt đối lập của
con người. Con người có thể làm được nhiều thế giới người và
điều kỳ diệu. loài vật làm một
- Không gian, hoàn cảnh không chịu trách nhiệm không gian, một
gì về hành động của nhân vật. Tất cả là do nhân môi trường.  Đó
vật chịu trách nhiệm. là một thế giới đặc
+ Nếu là thiện thì bất khả chiến bại. biết “quái đản”
+ Nếu có lòng thành thì ác lai trong khoảnh khắc không phải thế giới
có thể được lên cõi niết bàn dù anh ta vốn là một người mà cũng
kẻ cắp (Sự tích cá he) không phải thế giới
 Con người cổ tích không có tính tích cực vật loài vật (thế giới
chất, không phải khắc phục gì cả (khóc một cái là của những quan
lập tức bụt hiện lên giúp). Thế nên, nhân vật cổ niệm thực tế lẫn
tích thường không khéo léo, không có trí tuệ cá lộn).
nhân, tất cả tài ba đều là do trời phú. Ví dụ: những con
- Không gian không cản trở cho phép tạo nên vật trò truyện nói
một thế giới đa dạng trong truyện cổ tích. năng với nhau, làm
*Cổ tích SH: Không gian làng xã Việt Nam: thơ phú v.v… như
+ Cảnh nông thôn người.
+ Cảnh chợ - Không gian môi
+ Cảnh trường thi trường sinh thái tự
+ Chốn cửa quan nhiên (bờ sông,
 Môtíp xã hội chiếm một vị trí lớn, nên hư cấu rừng núi, ngọn
thường không mang tính kì ảo mà được xây dựng cây…).
trên sự miêu tả phi lí (phóng đại) của nét tính
cách nào đó của nhân vật  tính chất gây cười.
Thời gian nghệ 2/ Thời gian cổ tích - Thời gian 3 chiều
thuật - Mang tính chất sự kiện không có thời gian tâm của tự nhiên.
lý, thời gian đợi chờ. Là dòng chảy của chuỗi
hành động nhân vật.
- Thời gian khép kín, bao giờ cũng là “chuyện
đời xưa”.

26
- Nhân vật khong biết hồi tưởng, không biết ước
mơ, nghĩa là luôn sống với thời hiện tại. Do đó,
không xác định được lịch sử, không thể nối liền
thời gian cổ tích với một thời gian lịch sử nào.
 Có những công thức cố định trong lời kể (sáo
ngữ không thay đổi).
*Cổ tích SH: Thời gian 3 chiều của quy luật tự
nhiên.
- Chi tiết miêu tả thường phóng đại miêu tả phi
lý.

Căn cứ vào những đặc điểm thi pháp truyện cổ tích, có thể xác định công việc phân
tích truyện cổ tích:
- Cần tập trung vào nhân vật (hành động) và cốt truyện, từ đó gợi ra những nhận xét, suy
nghĩ về nhân vật và ý nghĩa câu chuyện.
- Phân tích các chi tiết và thủ pháp so sánh đóng vai trò đặc biệt quan trọng
Ví dụ: chi tiết “chim phượng hoàng” (Cây khế) không đóng vai trò thưởng phạt mà làm
cho sự đối lập của hai anh em càng hết sức hiển nhiên và làm rõ kết cấu tương phản của
truyện.
“Sọ Dừa” là nhân vật dị dạng nên chỉ có một người (ngoại trừ cha mẹ đẻ) không
khinh rẻ, xa lánh còn tất cả mọi người không chỉ kinh rẻ, xa lánh mà còn tìm cách chế
giễu. Kết cục mọi người đều “thua” chỉ riêng người yêu người xấu xí ấy được hạnh phúc.

2.4. Đặc điểm thi pháp truyện ngụ ngôn


Theo cách hiểu thông thường: Ngụ ngôn nguyên nghĩa là “lời nói ngoài nghĩa đen
còn ngụ ý nghĩa sâu xa” (ngụ nghĩa là gửi; ngôn nghĩa là lời nói. Vậy ngụ ngôn nghĩa là
“lời nói có ngụ ý” được thay bằng “câu chuyện có ngụ ý”).
Trong Vhdg thuật ngữ truyện ngụ ngôn được dùng để chỉ thể loại truyện kể ở đó
người ta mượn một câu chuyện nhỏ mà nhân vật thường là loài vật để gửi vào đó một ý
tưởng – một nhận xét về nhân tâm, thế sự, một kinh nghiệm sống, một điều răn dạy về
đạo lý, về triết lý…
Mục đích mượn một câu chuyện để biểu đạt một ý tưởng, truyện ngụ ngôn về thực
chất là cách nói bóng gió để: 1/ người nói bày tỏ ý mình một cách kín đáo, ý nhị (câu
chuyện có tác dụng như một tấm màn che tư tưởng của họ). 2/ ý tưởng muốn nói nhờ thế
trở nên dễ nghe và có sức thuyết phục hơn.
Như vậy, truyện ngụ ngôn là một thể văn vừa có tính chất chính luận (xét theo mục
đích sáng tác và sử dụng) vừa có tính chất nghệ thuật (câu chuyện kể được biểu đạt bằng
hình tượng). Từ những vấn đề trên có thể nói:

27
2.4.1. Hệ đề tài của ngụ ngôn là những kinh nghiệm sống và đấu tranh xã hội. Vì thế, ngụ
ngôn cũng được coi là một thể loại triết lý dân gian.
Mối quan hệ giữa truyện ngụ ngôn với tục ngữ và truyện cổ tích loài vật
- Ngụ ngôn gần với tục ngữ về nội dung: Tục ngữ là nguồn vô tận những hiểu biết và kinh
nghiệm được nhân dân rút ra thành những bài học, những điều răn dạy để gửi vào truyện
ngụ ngôn dân gian.
- Ngụ ngôn gần với cổ tích loài vật về hình thức: Cổ tích loài vật và thành ngữ tục ngữ có
dùng hình ảnh loài vật trong phép so sánh (cao như sếu, nhanh như cắt….) là nguồn vật
liệu cốt truyện và nhân vật.

2.4.2. Đặc điểm thi pháp truyện ngụ ngôn


a) Nhân vật: Nhân vật chính thường là loài vật có khi là đồ vật, cây cỏ…
- Giống cổ tích loài vật: cũng nói năng, có tâm tính như người và đủ cả muôn loài.
- Khác cổ tích loài vật:

Cổ tích loài vật Ngụ ngôn


- Các con vật đều ít nhiều có liên quan đến - Các con vật được lựa chọn theo một tiêu
cuộc sống của chủ nhân nguồn truyện kể chuẩn hoàn toàn khác – có thể bất cứ con
này. vật nào (kể cả các thứ khác) miễn giúp ta
biểu đạt được ý tưởng một cách vừa bóng
gió, vừa rõ ràng, thú vị.
- Thái độ đối với các con vật; luôn thể hiện - Thái độ đối với các con vật trong ngụ
một tình cảm cụ thể (yêu ghét rõ ràng). ngôn thể hiện ở mặt lý trí, suy lý hơn tình
Ví dụ “Thỏ và Ốc sên” ta thích thú khi thỏ cảm, cảm xúc.
kiêu căng bị mất mặt vì ốc sên cho một bài Ví dụ “Thỏ chạy thi với Rùa” ta không xúc
học. động trước việc thắng, bại của thỏ hay rùa
mà ta suy ngẫm về câu chuyện này hơn là
buồn vui với các nhân vật.
- Miêu tả, kể chuyện là đúc kết kinh nghiệm - Về nội dung miêu tả, kể chuyện: mượn
và hiểu biết về đời sống và tập tính của con loài vật để nói về con người và XH loài
vật để truyền cho đời sau, do đó, miêu tả và người, do đó, điều ngụ ý mới là linh hồn
giải thích đặc điểm của con vật là phần cốt câu chuyện kể. Vì thế, các con vật không
lõi câu chuyện. được miêu tả kĩ (Bẻm mép).

b) Xung đột
Tiêu biểu là xung đột giữa cái đúng với cái sai, giữa chân lý với ngụy lý. Xét đến
cùng, thực chất đó là phản ánh những xung đột xã hội : xung đột giữa người bị áp bức với
kẻ áp bức, xung đột giữa cái tốt với cái xấu trong đời sống xã hội. Ví dụ: “Con cò chết rũ

28
trên cây/ Cò con giở sách xem ngày làm ma/ Cà cuống uống rượu la đà/ Chim ri ríu rít bò
ra chia phần”.
- Xung đột này biểu hiện ở những lý lẽ hành động, ở triết lý ứng xử của nhân vật. Đặc
điểm này giúp ta nhận ra những xung đột cụ thể ở những truyện chỉ có một nhân vật và
nhân vật này cũng không gặp trở lực nào của hoàn cảnh. Ví dụ: “Nhìn bề ngoài dễ bị lừa”
(xung đột nằm phía sau hành động của nhân vật). Truyện “Sói và Cừu non”:
- sao nhà người làm đục vùng nước ta đang uống
- Đâu dám ạ! Giả sử có đục thì không phải tại con, bởi nước từ chỗ ông uống chảy xuống
chỗ con kia mà?
- Thôi được, thế sao mày dám chửi rủa tao giờ này năm ngoái ?
- Đâu có ạ! Bây giờ con mới có nửa tuổi
- Tao không biết, nếu không phải là mày thì là bố mày.
Dứt lời nó vồ lấy cừu non đáng thương. Cừu cnon chỉ kịp thốt lên: “Lời ngụy biện
nào cũng chỉ có lợi cho bạo chúa” (xung đột về lý lẽ: cừu non luôn đúng, sói toàn ngụy
biện. Nhưng rút cục, lẽ phải vẫn thuộc về sói). ? “Cái lý của kẻ mạnh bao giờ cũng đúng
hơn”.
- Xung đột này còn được biểu hiện ở dưới dạng: xung đột giữa tác giả (hoặc người sử
dụng truyện) với nhân vật trong câu chuyện kể. Nghĩa là trong truyện chỉ có một nhân vật
hành động với lý lẽ, triết lý ứng xử của nó. Còn tác giả đứng ở phía sau màn kịch (câu
chuyện kể) hoặc chỉ xuất hiện qua lời răn dạy ở cuối truyện. Ví dụ: “Cái bống đi chợ cầu
canh/ Cái tôm đi trước củ hành theo sau/ Con cua lạch đạch theo hầu/ Cái chày rơi xuống
vỡ đầu con cua.)  một lũ chết dẫm đua nhau làm đồ ăn cho người ta, người ta đập cho
vỡ đầu mà không biết.  Chế giễu, cảnh tỉnh tất cả những ai đang sống u mê trong triết
lý “nhắm mắt đưa chân”.
c) Kết cấu: Giống một màn kịch
Đặc trưng của kiểu kết cấu này là: 1/ Tình huống hoàn cảnh được chỉ dẫn cụ thể. 2/
Nhân vật được miêu tả sắc nét. 3/ Có đối thoại (hoặc độc thoại), hành động diễn ra mau
lẹ. Không có chi tiết, lời lẽ thừa (Lời kể cô đúc, giọng điệu châm biếm).
d) Không gian thời gian nghệ thuật
- Không gian xã hội
- Thời gian sự kiện (vận động theo quy luật nhân quả).

2.5. Đặc điểm thi pháp truyện cười


“Con người có mắt có môi/ Khi buồn thì khóc, khi vui thì cười”
Cái cười xét chung có 3 loại: 1/ Cái cười có nguyên nhân về mặt thể xác (do cảm
giác nhột…). 2/ Cái cười có nguyên nhân về mặt tâm lý, tình cảm (do sư vui sướng…). 3/
Cái cười do hiện tượng buồn cười gây ra.
Ở đây ta nói về cái cười do hiện tượng buồn cười gây ra. Và hiện tượng buồn cười
nói ở đây là hiện tượng buồn cười được kể thành truyện cười.
29
- Hiện tượng buồn cười là hiện tượng về bề ngoài có vẻ hợp tự nhiên, hợp lẽ thường,
nhưng về thực chất thì trái tự nhiên, trái lẽ thường (khác hẳn lẽ thường).
Ví dụ: “Gà mẹ hỏi gà con: đã ngủ chưa đấy hả?
Cả đàn gà nhao nhao. Ngủ cả rồi đấy ạ!”
Thực chất là trái tự nhiên, đã ngủ rồi sao còn trả lời được.
Ví dụ: Một người ngã. Vừa đứng dậy, lại ngã tiếp. Anh ta phàn nàn: sớm biết hãy
còn ngã một cái nữa, thì không đứng dậy còn hơn!
- Cái cười là hành động cười nảy sinh khi tự ta phát hiện ra thực chất trái tự nhiên, trái lẽ
thường dưới bề ngoài có vẻ hợp tự nhiên, đã khiến ta thoạt tiên tưởng lầm, của một hiện
tượng. Như vậy cái cười là sản phẩm của hoạt động trí óc, mà cụ thể là của óc suy lý.
2.5.1. Hệ đề tài
Là truyện kể về những hiện tượng đáng cười trong cuộc sống, trong hành vi của
người đời, nhằm gây cười.
Căn cứ vào tính chất của hiện tượng đáng cười và tính chất của cái cười, chia
truyện cười thành hai tiểu loại:
a) Truyện hài hước (truyện khôi hài): gắn với những nhược điểm thông thường nhưng
không bị coi là cái xấu (đãng trí, cận thị, câm điếc, nói khoác, tính tằn tiện..). Mục đích
chủ yếu là mua vui.
b) Truyện châm biếm (truyện trào phúng): Gắn với những thói xấu thông thường hoặc
thói xấu thuộc về bản chất (tham ăn, sĩ diện, khoe khoang, mê tín, hà tiện, nịnh hót, lối
học đòi của kẻ hãnh tiến…). Dụng ý là nhằm đả kích, phê phán.
Ví dụ : “Ai nuôi tôi”? 1/ Phê phán từ quan điểm của lý tính: ta tưởng anh ta khóc vì
vấn đề tuổi thọ (62 tuổi), vì cô đơn 2 năm nhưng hóa ra vì “ai nuôi tôi”. 2/ Phê phán ở ý
thức tư tưởng: hành vi khóc và lời giải thích của ông con đã phơi bày tính cách ăn bám
một cách lố bịch, nực cười? cái cười bật ra, mang cả phản ứng của tư duy xã hội.
Ranh giới giữa hài hước và châm biếm không phải lúc nào cũng rõ ràng rành
mạch. Nhưng việc phân biệt này thường được nhấn mạnh như một yêu cầu có tính chất
nguyên tắc trong sử dụng cái cười.
2.5.2. Đặc điểm thi pháp truyện cười
Truyện cười là truyện kể ngắn gọn bậc nhất (dài cũng chỉ 15 – 20 câu, ngắn thì
khoảng 5 – 7 câu). Tuy ngắn nhưng cũng là “cả một câu chuyện” có mở đầu có diễn biến,
có kết thúc.
a) Nhân vật: là hành vi ứng xử trong một hoàn cảnh nhất định (có hai loại nhân vật ứng
với hai tiểu loại truyện cười).
Truyện cười Truyện cổ tích
- Chỉ xuất hiện trong một tình huống nhất - Có cả một cuộc đời, một số phận.
định, với một hành vi nhất định. - Thực hiện những hành động phi thường
- Biểu lộ một hành vi ứng xử trái lẹ thường trong những hoàn cảnh, những tình huống

30
trong một tình huống bình thường (câu khác thường (câu chuyện diễn ra trong thế
chuyện diễn ra trong cuộc đời hàng ngày). giới cổ tích).
- Đối tượng của sự cười cợt, sự phê phán. - Đối tượng của sự lý tưởng hóa, sự ca
ngợi.

- Cả hai loại nhân vật này đều được đặt cùng vào loại tình huống – đó là tình huống sinh
hoạt “đời thường”. Chỗ khác nhau của hai loại nhân vật này là ở tính chất của hành vi ứng
xử. Ví dụ: “Phương pháp nào tốt hơn” (Truyện hài hước. Ta không cười cái tằn tiện mà
cười cái phương pháp kì quặc – cười hành vi). “May không đi giày” (Truyện châm biếm.
Ta cười cái hành vi của anh ta vì nó gắn với tính cách hà tiện – cười chính nhân vật).
- Trong truyện cười, còn có nhân vật chính và nhân vật phụ
+ Nhân vật phụ là đối tượng của cái cười hài hước. Có chức năng làm lộ ra cái đáng cười
tiềm ẩn nơi hành vi của nhân vật chính, biến nó thành nhân vật đối tượng của cái cười
châm biếm (ví dụ: “Đậu phụ”, “R … của con”).
+ Nhân vật chính là đối tượng của cái cười châm biếm.
b) Xung đột
- Thường là xung đột giữa cái thật với cái giả, giữa “sự thật và điều dối trá”.
Xung đột này biểu hiện ở mâu thuẫn ngay trong hành vi (buồn cười) của nhân vật.
- Cái giả, cái dối trá là cái hình thức bên ngoài có vẻ hợp tự nhiên, hợp lẽ thường.
- Cái thật, sự thật là cái nội dung bên trong trái tự nhiên, trái lẽ thường của hành vi ấy.
- Biểu hiện và diễn hóa của xung đột truyện cười như sau: cái giả và cái thật cùng tồn tại
trong hành vi của nhân vật: cái giả là hình thức bên ngoài che đậy cái thật, cái thật là nội
dung bên trong ẩn dưới cái giả. Qua trung gian của cái cười cái giả và cái thật được được
phân biệt, cùng lộ rõ.
- Cơ sở xã hội của xung đột trong truyện cười: 1/ Sự khủng hoảng suy sụp của chế độ
phong kiến (vua không ra vua, quan lại rặt một phường tham nhũng, bất tài…); 2/ Sự phát
triển của cuộc đấu tranh nhân dân chống ách chuyện chế phong kiến.
c) Kết cấu: Để có cái cười đòi hỏi hai điều kiện:
1/ Có hiện tượng buồn cười (điều kiện cần); 2/ Người cười phải tự mình nhận ra cái đáng
cười (điều kiện đủ). Do đó, mấu chốt của nghệ thuật gây cười là ở chỗ phải làm sao cho
cái đáng cười tự nó bộc lộ ra một cách cụ thể, sống động và thật tức cười để người nghe,
người đọc tự mình phát hiện ra nó mà cười. Muốn thế người ta phải:
- Đặt nhân vật có thói xấu vào hoàn cảnh thích hợp (VD: tham ăn phải vào bữa ăn –
nhưng là ăn giỗ nhà bố vợ, ăn cỗ … thì mới bộc lộ tính tham ăn).
- Tiếp theo, người ta phải đẩy tình thế ban đầu tới chỗ gay cấn, khiến mâu thuẫn tiềm tàng
phải bộc lộ. Muốn vậy phải tạo ra “biến cố” bất ngờ buộc nhân vật phải hành động (Kịch
tính, điểm nút của truyện).
- Mâu thuẫn tiềm tàng phát triển thành mâu thuẫn cụ thể và phải bộc lộ (Mở nút và kết
thúc truyện).
31
- Truyện cười có kết cấu mang dáng dấp một màn hài kịch :
+ Giới thiệu hiện tượng có mâu thuẫn tiềm tàng
+ Mâu thuẫn tiềm tàng phát triển tới đỉnh điểm
+ Mâu thuẫn bộc lộ (có thể hiểu là mâu thuẫn được giải quyết)
- Vai trò của yếu tố bất ngờ trong kết cấu: 1/ đóng vai trò tình huống diễn ra cái đáng
cười; 2/ thể hiện bản chất của cái đáng cười thông qua hành vi nhân vật. Ví dụ: “Được
một bữa thả cửa” biến cố “con gà” là yếu tố bất ngờ thuộc về tình huống (hoàn cảnh). Còn
cử chỉ “vơ cả đĩa trút vào bát” là yếu tố bất ngờ thuộc về hành vi nhân vật, nó tương phản
1800 với cái “từ tốn lịch sự” lúc đầu của nhân vật. Đấy là yếu tố bất ngờ gắn liền với bản
chất của hiện tượng buồn cười.
d) Ngôn ngữ
- Lời văn cô đúc, giản dị (ít bị thay đổi cốt truyện và chi tiết).
- Ngôn ngữ đối thoại đóng vai trò quan trọng trong lời văn kể chuyện. Gồm hai phần:
+ Phần đối thoại là “tiêu điểm” của hành động và diễn hóa hành động của nhân vật.
+ Phần còn lại của lời văn kể chuyện là những chỉ dẫn về hoàn cảnh và diễn hóa của hoàn
cảnh.
- Ngôn ngữ chắt lọc từ nguồn khẩu ngữ dân gian nên mang tính hài hước, tự nhiên, sinh
động, sắc bén.
- Sử dụng thủ pháp phóng đại nhằm mục đích lố bịch hóa cái đáng cười, khiến cho mâu
thuẫn trong hành vi buồn cười tác động mạnh mẽ vào nhận thức, ý thức tư tưởng của
người nghe, người đọc. Như vậy phóng đại trong truyện cười có sự gặp gỡ và hòa nhập
với lối nói khoác, tạo nên một lối “đại ngôn” đặc sắc.

3. THI PHÁP VĂN VẦN DÂN GIAN


3.1. Đặc điểm thi pháp của tục ngữ
3.1.1. Định nghĩa tục ngữ
Tục ngữ là những câu nói gọn, chắc, xuôi tai, diễn đạt những kinh nghiệm lâu đời
của nhân dân về thiên nhiên và lao động sản xuất, về con người và xã hội; nó thường
được nhân dân vận dụng trong suy nghĩ, trong nói năng, và trong những hoạt động thực
tiễn của mình (như làm ăn, giao tiếp, ứng xử…).
- Tục ngữ được coi là thể loại tiêu biểu nhất của triết lý dân gian.
- Tục ngữ đúc kết kinh nghiệm dân gian dưới hình thức câu nói – hình thức biểu đạt tự
nhiên nhất đối với kinh nghiệm đời sống có ý nghĩa thực hành.
- Tục ngữ có một khối lượng đơn vị tác phẩm rất lớn nhưng hình thức lại cực nhỏ.

3.1.2. Đặc điểm thi pháp tục ngữ


a) Về cấu trúc
- Mỗi câu tục ngữ là một câu hoàn chỉnh về mặt ngữ pháp, diễn đạt một ý trọn vẹn.
- Có hai đặc điểm nổi bật về cấu trúc:
32
a.1) Tính chất gọn chắc :
- Mỗi tiếng, mỗi từ trong câu đều có vai trò ý nghĩa quan trọng và được ép chặt với nhau
không có chữ nào thừa.
- Câu ngắn nhất chỉ có 3 tiếng : “May hơn khôn”, “Túng thì tính”
- Câu dài nhất là câu lục bát : “Rượu ngon bất luận be sành/ Áo rách khéo vá…”
- Thông thường là những câu 4 – 8 tiếng : “Ác giả ác báo”, “Bụt chùa nhà…”, “Con giun
xéo lắm cũng…”, “Chưa đỗ ông nghè…”.
a.2) Tính chất đối xứng :
- Là câu có sự tương ứng đều đặn của các thành phần trong câu. Cụ thể, đó là câu có
những dấu hiệu (đặc điểm) sau :
+ Cấu tạo thành những vế (thường là hai vế đối ứng với nhau, có quan hệ lôgic chặt chẽ
với nhau.
+ Giữa các vế có sự cân bằng về số lượng từ và sự đối ứng về từ loại (đôi khi chỉ cân
bằng tương đối).
- Muốn giải thích đúng và sâu nghĩa, ý của câu tục ngữ, trước hết cần nắm chắc cấu trúc
đối xứng của nó.
- Căn cứ vào tiêu chí cú pháp và lôgic, chia câu tục ngữ đối xứng làm hai loại: đối xứng
đơn và đối xứng kép.
a.2.1. Cấu trúc đối xứng đơn là câu:
- Về mặt lôgic, biểu đạt một phán đoán
- Về mặt cú pháp là câu đơn (vế tương đương với thành phần của câu)
Ta dùng kí hiệu a, b và a- (biểu thị mặt tương phản, mặt trái của a).
 Cấu trúc đối xứng đơn được mô hình hóa như sau

• Nhóm (1): Cấu trúc so sánh định nghĩa gồm các dạng

a là b a như b a => b
- Cái răng cái tóc là góc con - Lòng vả như lòng sung - Tấc đất, tấc vàng.
người. - Tiền vào nhà khó như gió - Người sống, đống vàng.
- Cờ bạc là bác thằng bần vào nhà trống.

Ý nghĩa căn bản của cấu trúc so sánh định nghĩa: là dùng b để cụ thể hóa, nhấn
mạnh một đặc tính nào đó thuộc bản chất của a.

• Nhóm (2): Cấu trúc so sánh thứ bậc gồm các dạng

a = n.b (n > 1) a không bằng b n.a không bằng b a hơn b


- Một con sa bằng ba - Vợ dại không hại - Trăm đom đóm - May hơn khôn.

33
con đẻ. bằng đũa vênh. chẳng bằng một bó - Cái nết đánh chết
- Một hòn đất nỏ đuốc. cái đẹp.
bằng một giỏ phân. - Trăm nghe…

• Nhóm (3): Cấu trúc suy luận lôgic gồm các dạng
a thì b Muốn a phải b Chưa a đã b a mà a- Càng a càng a-
có a thì có b a nhưng a-
- Ở hiền gặp - Muốn ăn thì - chưa học bò - Con nhà lính, - Càng thắm thì
lành. lăn vào bếp. đã lo học chạy. tính nhà quan. lại càng phai.
- Có cây mới có - Chạy buồm, - Chưa đỗ ông - Miệng thơn - Tốt quá hóa
dây leo. xem gió. nghè đã đe hàng thớt, dạ ớt ngâm lốp.
- Không thầy đố tổng. - Yêu nhau lắm
mày làm nên. cắn nhau đau.

a.2.2. Cấu trúc đối xứng kép là câu:


- Về mặt lôgic có sự liên kết hai hoặc hơn hai phán đoán tương tự, tương đương hoặc
tương phản thành một suy lý.
- Về mặt cú pháp là câu ghép (vế tương đương với câu đơn).
Ta dùng kí hiệu A, B và A’ (Biểu thị vế phán đoán có nội dung và cấu trúc tượng tự như
A), A- (Biểu thị vế phán đoán có nội dung tương phản và cấu trúc đối liên với A). Cấu
trúc đối xứng kép được mô hình hóa như sau
• Nhóm (1): Cấu trúc so sánh trùng điệp gồm các dạng

A = A’ A = B (= C)
- Buôn có bạn, bán có phường. - Hàm chó, vó ngựa, cựa gà, ngà voi.
- Không gấp đi đâu tối, không vội đi đâu - Dưa La, cà Láng, nem Bảng, tương Bần,
đêm. nước mắm Vạn Vân, cá rô đầm Sét

Ý nghĩa của kiểu cấu trúc so sánh trùng điệp là liên kết những phán đoán có nội
dung và cấu trúc tương tự (A và A’) hoặc có hàm nghĩa tương đương (A và B) thành một
phán đoán chung nhằm làm nổi bật ý nghĩa chung của câu tục ngữ bằng phép bồi trợ.
• Nhóm (2): Cấu trúc so sánh thứ bậc gồm các dạng
A > B ( > C): Nhất A, nhì B A < B: A không bằng B

- Thứ nhất cày nỏ, thứ nhì bỏ phân. - Giặc bên ngô không bằng bà cô…
- Thứ nhất đom đóm vào nhà, thứ nhì… - Làm ruộng ba năm không bằng chăn tằm
- Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò. một lứa.

34
Ý nghĩa của kiểu cấu trúc so sánh thứ bậc đối xứng kép cũng tương tự như kiểu
cấu trúc so sánh thứ bậc đối xứng đơn. Chỗ khác biệt là: 1/ A và B tuy là 2 vế của câu tục
ngữ nhưng bản thân chúng cũng có ý nghĩa của một phán đoán (tức cả A và B cũng là
kinh nghiệm). 2/ A > B là so sánh thứ bậc đúng mức, còn A < B luôn luôn có tính chất
phóng đại nhằm thuyết phục bằng “gây ấn tượng”.
• Nhóm (3): Cấu trúc suy luận lôgic gồm các dạng
A thì B A =/= B A + A- A + A’ + A”
- Cá không ăn muối - Bà con vì tổ vì tiên - Mềm nắn rắn - Ba tháng biết lẫy,
cá ươn … chứ không … buông. bảy tháng biết bò
- Nứa trôi sông - Con có cha có mẹ, - Sáng tai họ, điếc - Gái một con trông
chẳng dập thì gãy. không ai ở lỗ nẻ tai cày. mòn con mắt
- Gái chồng dẫy chui lên. - Đàn bà không biết Gái hai con vú quặt
Chẳng chứng nọ thì - Khách nhớ nhà nuôi heo đàn bà đằng sau.
tật kia. hàng, nhà hàng nhác. Đàn ông Gái ba con đụng đâu
không nhớ khách. không biết cột lạt ngồi đấy.
đàn ông hư.
Ý nghĩa của kiểu cấu trúc này là: 1/ mượn A để khẳng định B, 2/ phủ định B để
khẳng định A, 3/ đối chiếu A, A- để vạch rõ mâu thuẫnn của đối tượng được đề cập, 4/ so
sánh theo thời gian chỉ rõ sự biến đổi đi lên hoặc đi xuống của đối tượng.
b) Từ ngữ, nhịp và vần của tục ngữ
b.1) Từ ngữ :
- Sắc sảo mà giản dị (vì tục ngữ là hình thức tinh luyện của khẩu ngữ dân gian.
- Sử dụng nhiều từ Hán – Việt (Vô phúc đáo tụng đình, tụng đình rình vô phúc).
- Tính hình ảnh của sự diễn đạt những khái niệm, những ý tưởng trừu tượng (qua biện
pháp so sánh. Có ba loại quan hệ so sánh trong tục ngữ: so sánh hình ảnh, so sánh giữa
hai vế để biểu đạt một lập luận, so sánh khi sử dụng tục ngữ vào các hoạt động nói năng –
ứng xử).
Ví dụ : Một giọt máu đào hơn ao nước lã.
1/ Họ hàng = máu đào
Người dưng = nước lã
2/ Vế 1 so sánh vế 2 : a hơn b
3/ trong ứng dụng: câu tục ngữ trở thành tỷ dụ => Đề cao quan hệ huyết thống
b.2) Nhịp của câu tục ngữ :
Nhịp tự nhiên, đồng thời là nhịp lôgic (do yêu cầu của nội dung).
- Câu có trục đối xứng nhịp nằm ở giữa hai vế. Nếu ba vế có hai trục
- Kiểu câu hô ứng (bao nhiêu… bấy nhiêu) có trục đối xứng xoáy.
Dấu hiệu hình thức của đối xứng thường là những liên từ, trợ từ nhưng tục ngữ ít
sử dụng các loại từ ấy (làm cho câu tục ngữ chắc gọn hơn), nên trục đối xứng thường ẩn
trong nhịp và vần.
35
Ví dụ : Vỏ quýt dày / móng tay nhọn.
Không thầy / đố mày làm nên.
Ăn cây nào / rào cây ấy.
Đầu năm buôn muối / cuối năm buôn vôi.
Một nghề thì kín / chín nghề thì hở.
b.3) Vần của tục ngữ
Vần là yếu tố giữ nhịp, tạo ra sự hài hòa âm thanh cho câu tục ngữ, đồng thời góp
phần làm nâng nổi những từ có ý nghĩa quan trọng trong câu.
- Vần tục ngữ linh hoạt, bắt với nhau rất tự nhiên.
+ Vần liền: Ví dụ câu 4 tiếng, 6 tiếng, 8 tiếng (cốc mò cò xơi / có tật giật mình…).
+ Vần cách : Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm / Hay làm thì đói, hay nói thì no.
Tháng bảy heo may chuồn chuồn bay thì bão
Tháng năm đi trước, tháng năm Chẳng ngược về sau
Tiền lĩnh quần chị không bằng tiền chỉ quần em

3.2. Đặc điểm thi pháp của câu đố


3.2.1. Định nghĩa
- “Câu đố là một thể loại văn học dân gian mà chức năng chủ yếu là phản ánh đặc
điểm của sự vật, hiện tượng bằng phương pháp giấu tên và nghệ thuật chuyển hóa gây
nhiễu (chuyển vật nọ thành vật kia), được nhân dân dùng trong sinh hoạt tập thể để thử tài
suy đoán, kiểm tra sự hiểu biết và mua vui, giải trí”.(Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb giáo
dục, 2007)
- Câu đố là câu nói thường mang tính hình thức vần vè ám chỉ một vật đố nhằm đòi
hỏi người ta đoán ra nó. Trong câu đố, vật đố là sự vật, hiện tượng nào đó mà người ta
muốn nói đến, nhưng không nói thẳng tên nó ra, mà nói ám chỉ (nửa kín nửa hở). Giải đố
là dựa vào chỗ hở trong ám chỉ về vật đố mà đoán ra vật đố và gọi tên nó ra (Theo PGS.
Đỗ Bình Trị)
Ví dụ: - Hai năm rõ mười, còn người còn của. (hai bàn tay)
- Đầu cá, mình cá, đuôi cá nhưng không phải cá. (con mắm, con khô)
- Một cái xương sống/ Một đống xương sườn. (mái nhà)
 Như vậy, câu đố là lời nói có tính nghệ thuật, mô tả sự vật, hiện tượng bằng lối nói
ám chỉ, giấu không cho biết sự vật, hiện tượng để người nghe tự đoán ra.
 Cốt lõi của thi pháp câu đố nằm ở cách nói ám chỉ nửa kín nửa hở của nó.
- Câu đố được đặt ra tất nhiên là để…đố. Nhưng đố nhằm mục đích gì?
+ Tránh cách nói trực tiếp, gọi sự vật bằng tên tục của nó (do kiêng kị bản chất thiêng
của sự vật,…)
+ Thử tài
+ Giải trí
+ Chức năng giáo dục của câu đố.
36
3.2.2. Những đặc điểm thi pháp của câu đố dân gian.
a) Đặc trưng bản chất của câu đố: Ẩn dụ câu đố (không giới hạn) và ẩn dụ ca dao, thơ (có
giới hạn).
a.1) Trong câu đố, vật đố thường được mô tả thành một “con gì” đó hoặc một “cái gì” đó
kỳ dị, khác với nó. Ví dụ:
- Loài cóc nhái được mô tả thành một con gì đó:
Đi ngồi, đứng ngồi, nằm ngồi. (loài cóc nhái)
- Cái tay áo được mô tả thành cái gì đó: Không có nhà mà lại có cửa (tay áo)
Nếu biểu thị vật đố bằng A thì, trong câu đố, vật đố A được giấu tên và được so sánh
với B – vật thay thế cho nó. Như vậy câu đố thực chất là một ẩn dụ, tức là so sánh ngầm,
một so sánh trong đó chỉ có thành phần B.
Ví dụ: - Câu đố về cây dầu lai: “Ông khoe ông sống dài lâu,
Rày ai thấy mặt ông đâu trong nhà.”
Câu đố này sử dụng lối nói lái, những vẫn tạo ra một ẩn dụ: ở đây, vật thay thế (B) có
vẻ là một cái gì đó như là một ông già (sống dài lâu), nhưng không thấy ông trong nhà.
- Câu đố về chữ “ tuổi”
Phần đầu là kẻ ăn chay
Phần sau là loại trái cây ngon lành.
Câu đố này sử dụng lối “chiết tự” tách chữ “tuổi” ra thành hai từ thì có chữ “tuổi”.
Nhưng cả câu đố vẫn là một ẩn dụ: ở đây, vật thay thế (B) có vẻ là một cái gì đó nửa
người (ăn chay), nửa cây (trái cây ngon lành). Câu đố dù sử dụng phương pháp mô tả hay
chơi chữ cũng là những ẩn dụ.
a.2) Giữa ẩn dụ câu đố và ẩn dụ ca dao, thơ có điểm giống nhau và khác nhau.
 Giống nhau:
Đều sử dụng phương thức chuyển nghĩa từ nghĩa đen của một từ (hoặc một thành ngữ,
một hình ảnh) sang nghĩa bóng theo cùng một phương cách là sự so sánh ngầm. Ví dụ:
Cây khô mà nở được hoa,
Đậu được một quả khi già khi non
Đôi bên quân tử giao ngôn,
Suy đi tính lại vẫn còn hồ nghi. (cái cân)
Ví dụ: Nghe câu ca dao: “Thuyền ơi có nhớ bến chăng/ Bến thì một dạ khăng khăng đợi
thuyền” có lẽ ai cũng biết “thuyền” là chàng trai, “bến” là cô gái.
 Khác nhau:
- Mục đích của ẩn dụ câu đố là để…đánh đố, cho nên nó phải lắt léo, khó hiểu. Ngược
lại, ẩn dụ văn học dễ hiểu, vì mục đích của nó là “mô tả hiện tượng một cách chính xác và
rõ ràng về mặt nghệ thuật”.
- Ẩn dụ câu đố chỉ đem lại cho từ (hoặc thành ngữ, hình ảnh) một nghĩa mới, và nghĩa
này không bắt buộc phải hàm chứa một ý nghĩa gì khác.

37
- Ẩn dụ ca dao, thơ bao giờ cũng mang ý, chứa những hàm ý sâu sắc, gợi cảm, bao
hàm cả thái độ, suy ngẫm của tác giả đối với đối tượng biểu hiện. Ví dụ: Ẩn dụ “bà hai
đầu” ở câu đố: “Trong nhà có bà hai đầu”
Chỉ có nghĩa là cái võng, ngoài ra không có nghĩa gì khác. Do đó, việc “giải mã” ẩn dụ
câu đố thường giới hạn ở chỗ suy từ B ra A, từ hình ảnh ẩn dụ ra vật đố, từ hai đầu ra cái
võng. Nhưng tiếp nhận ẩn dụ ca dao, thơ không đơn giản chỉ là sự “dịch nghĩa” B ra A,
“thuyền” là chàng trai, “bến” là cô gái. Chỗ mà ẩn dụ câu đố, ta có thể dừng lại, thì với ẩn
dụ văn học, đó chỉ là chỗ bắt đầu. Vậy nên người ta còn có thể nói tiếp, chẳng hạn, về ẩn
dụ “thuyền - bến”. Khi người con gái hát: “Thuyền về có nhớ bến chăng…” cô gái không
chỉ diễn tả nỗi nhớ mong, niềm hy vọng, lòng son sắt và thoáng lo âu của những đợi chờ,
mà cả cảm nghĩ về thân phận đáng thương của mọi cô gái của một thời đại. Người con trai
giống như con thuyền nay đây mai đó, đâu có thể là bến là bờ của dòng – sông – cuộc –
đời. Trong ca dao xưa, chỉ có “anh đi” mà thôi! Còn người con gái như bến nước, không
chuyển dời, chỉ biết chờ đợi…
Sự khác biệt tiểu biểu giữa ẩn dụ câu đố và ẩn dụ văn học là ẩn dụ câu đố thường là
sự so sánh cái cụ thể với cái cụ thể (có rất ít trường hợp so sánh cái cụ thể với cái trừu
tượng) còn ẩn dụ ca dao, thơ là đi từ trừu tượng đến cụ thể. Có thể lập bảng so sánh sau:
Giống nhau Đều là phương thức chuyển nghĩa
(từ nghĩa này sang nghĩa khác, từ nghĩa đen sang nghĩa bóng)
Khác nhau Ẩn dụ câu đố Ẩn dụ ca dao, thơ
- Liên tưởng tương cận (bên ngoài) - Liên tưởng tương đồng (bên
- Không bắt buộc hàm chứa một ý trong)
nghĩa khác. - Luôn hàm chứa những ý nghĩa
- So sánh cái cụ thể với cái cụ thể. sâu sắc khác.
(ít so sánh cái cụ thể với cái trừu - So sánh cái trừu tượng với cái
tượng) cụ thể.

 Tuy nhiên ẩn dụ câu đố và ẩn dụ ca dao, thơ có khả năng tiếp cận với nhau.
Có hai trường hợp tiếp cận:
Một, đó là trường hợp ẩn dụ câu đố có ngụ ý. Tức câu đố ngoài mục đích đánh đố,
người đố muốn gửi vào ẩn dụ câu đố một ngụ ý nào đó (gần với ca dao ngụ ngôn). Ví dụ,
câu đố về cái bắp ngô: “Còn duyên đánh phấn phơi màu
Hết duyên má hóp răng vàng phơi khô”
(Vừa nói về trái ngô, vừa gợi liên tưởng về thân phận người phụ nữ).
Ta thấy sự liên tưởng ấy, có sự hỗ trợ của những câu ca dao có cấu trúc “Còn
duyên/ Hết duyên” như:
Còn duyên như tượng tô vàng
Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa
*
Còn duyên kẻ đón người đưa
38
Hết duyên vắng ngắt như chùa Bà Đanh
*
Còn duyên kén những trai tơ,
Hết duyên ông lão cũng vơ là chồng
Hai, đó là trường hợp những ẩn dụ câu đố dễ hiểu, chính xác và gợi cảm.
Ví dụ: Mười người thợ lo đỡ mọi bề
(Câu đố về hai bàn tay)
Nắng ba năm ta không bỏ bạn
Mưa một ngày bạn lại bỏ ta
(Câu đố về cái bóng)
Không có tui đui cả nhà (Ngọn đèn)
Có thể nói, ẩn dụ câu đố dễ hiểu, chính xác và gợi cảm đến mức nào đó thì cũng
sánh được với ẩn dụ ca dao, thơ. Ngược lại, ẩn dụ ca dao, thơ khó hiểu đến mức nào đó
cũng dễ biến thành câu đố.
b) Thế giới vật đố và thế giới liên tưởng từ vật đố.
Trong câu đố có hai đối tượng được đề cặp: vật đố và hình ảnh ẩn dụ của nó. Tập
hợp những vật đố hợp thành thế giới vật đố. Tập hợp những hình ảnh ẩn dụ của vật đố tạo
nên thế giới liên tưởng từ vật đố.
b.1) Thế giới vật đố: Vật đố có thể chia thành ba nhóm:
- Những đồ dùng lao động và đồ dùng sinh hoạt hàng ngày của nhân dân
+ Những đồ dùng lao động nông nghiệp: cày, bừa, cuốc, rựa, liềm, hái, gầu tát nước,
guồng nước, hòn đá, trục lúa… Ví dụ: Có răng mà chẳng có mồm,
Nhai cỏ nhồm nhồm cơm chẳng chịu ăn (Cái liềm)
“Đời em uốn gối cong lưng,
Lưỡi em giọng nói ra chừng thép gang.
Mỗi khi em bước ra đàng,
Yêu em anh bế, anh mang, anh bồng.” (Cái gầu sòng)
+ Những đồ dùng thủ công: khung cửi, xa (xa cán bong, xa kéo sợi), thoi, bào, bễ thổi
lửa, vạch, kéo, kim,… Ví dụ: Người thì một thước,
Đuôi dài thước năm.
Khi đi thì nằm
Khi ngồi thì đứng
Trên cầu dưới cầu,
Con trâu đi lọt. (cái thoi)
+ Những đồ dùng sinh hoạt thông thường: cối xay lúa, cối giã gạo, nồi, bát đĩa, chum
gáo, dao thớt, đá mài, chổi, chiếu, trầu, bình vôi, ấm chén, áo, yếm, lược, quạt, nón, tơi…
Ví dụ: “Hai đầu một mặt bốn chân
Có đàn em nhỏ quay quần xung quanh.” (bàn và ghế)
“Vừa bằng cái thúng,
39
Lăn đúng giữa nhà,
Con cháu ông bà,
Toàn gia quay lại.” (mâm cơm)
- Những công việc và thao tác lao động, sinh hoạt
+ Lao động nông nghiệp: nhổ mạ, cấy lúa, tát nước, trục lúa,…; kéo vó, bỏ chuôm,
móc cua, đi nhủi, chăn vịt….
+ Lao động thủ công: ươm tơ, dệt vải, xẻ gỗ, rèn sắt,…
+ Sinh hoạt: xay lúa, giã gạo, ăn cơm, hút thuốc, nhai trầu, xâu kim,…
- Những sự vật và hiện tượng quen thuộc khác
+ Gia súc, gia cầm và những con vật thường thấy: trâu , bò, ngựa, chó, mèo, gà, cá,
cua, tôm, ốc, ếch, đỉa, tằm, nhộng, nhện, ruồi, muối, chuột, rận, chấy,…
+ Những cây, quả thường dùng: lúa, ngô, khoai, rau muống, chuối (hoa), mía, cao,
dừa( quả), mít, bưởi, xoan, tre, quả na, quả ổi, quả chanh, quả cà, quả ớt…
+ Những bộ phận của nhà cửa: mái nhà, xà nhà, bậc cửa, cột nhà, máng nước,…
+ Quà bánh và những đồ dùng vui chơi: bánh đa, bánh dì, bánh rán, bánh chưng, bánh
trôi,...; cái diều, đèn kéo quân, bộ tam cúc, bài tổ tôm,…
+ Chữ nghĩa và đồ dùng học tập: quyển vở, trang sách, cái bút (bút long, bút chì) và
một số chữ Hán…
+ Một số vật hiện tượng tự nhiên: mặt trời, mặt trăng, sao, hạt mưa, nước, biển, núi,…
+ Con người và một số bộ phận của cơ thể người: cái mặt, đôi mắt, mũi, miệng, hàm
răng, đôi bàn tay, ống chân, bàn chân,….
Ví dụ: - Mồm bò mà không phải mồm bò, mà lại mồm bò
- Ông già đội nón đỏ, thằng nhỏ đội nón xanh
- Đầu đội thúng tro, đít đo cây cột
- Công tử bột đi tìm nước ngọt
- Sóng ba đào công tử nổi lên.
- Mười người thợ lo đỡ mọi bề
Nhìn chung, thế giới vật đố trong câu đố dân gian của người Việt phản ánh khá chân
thực môi trường sinh thái và sinh hoạt của người nông dân ở nông thôn xưa kia. Ở đây tất
cả những sự vật hiện tượng, hoạt động quen thuộc mà người nông dân thường thấy,
thường dùng, thường làm trong cuộc sống hằng ngày, đời này qua đời khác. Trong trò
chơi câu đố, có một luật chơi được tôn trọng nghiêm ngặt, đó là: người ta không đố về
những sự vật, hiện tượng xa lạ với người trong cuộc. Do đó, câu đố không thể là phương
tiện truyền dạy tri thức về sự vật, “có tác dụng bồi dưỡng tri thức về thế giới khách quan
cho nhân dân”. Thật ra, câu đố không cho người ta biết thêm về một sự vật gì mới và
cũng không cho người ta biết thêm điều gì mới về các sự vật quen thuộc. Ví dụ câu đố về
cái cày: “Khi đi lè lưỡi, khi về cũng lè lưỡi” ở câu đố này không đem lại cho trẻ em nông
thôn một kiến thức gì mới về cái cày. Nhưng vấn đề là ở chỗ không phải tất cả những ai
đã biết cái cày đều thấy nó như một con vật “khi đi thè lưởi khi về cũng thè lưỡi”. Chính
40
“phát hiện” ấy đem lại cho người ta niềm thích thú. Có thể nói toàn bộ chức năng giải trí
và giáo dục của câu đố đều dựa trên sự khai thác cái cách nhìn mới lạ, bất ngờ, độc đáo
đối với các sự vật, hiện tượng quen thuộc.
b.2) Thế giới những vật thay thế cho vật đố
Thế giới những vật thay thế cho vật đố là thế giới được “sáng tác” ra từ nguyên mẫu
vật đố chủ yếu dựa vào liên tưởng, tưởng tượng.
- Tính chất kì dị của những hình ảnh ẩn dụ câu đố.
Phần lớn những sự vật, hiện tượng vốn hết sức quen thuộc với người ta, khi trở thành
vật đố, đều được mô tả thành những sự vật, hiện tượng kì dị. Ví dụ:
+ Cái gối nằm được hình dung thành một vật:
Đánh ngã đàn ông
Đánh ngã đàn bà
Đánh ngã kẻ chợ
Đánh ngã vợ vua
+ Cái ống chân được mô tả thành một con vật:
Lưng đi trước, bụng đi sau
Cái mắt cái đầu cách nhau một thước
“ Kỳ dị hóa” những sự vật, hiện tượng quen thuộc của thế giới chung quanh là một xu
hướng nổi bật trong cách cấu tạo câu đố dân gian.
- Tính chất thân quen của những hình ảnh bộ phận trong ẩn dụ câu đố
Ần dụ câu đố có một đặc điểm chung là: nhìn cả tổng thể thì ra một vật kì dị, thậm chí
quái đản; nhưng từng bộ phận hợp thành của nó thì lại là những hình ảnh về những sự vật
hiện tượng thân quen với những người lao động.
Ví dụ : Ẩn dụ về sàng gạo nhìn tổng thể thì quả là một vật rắc rối:
Một trăm tấm ván
Một vạn thằng dân
Thằng nào cởi trần
Thằng ấy chui lọt
Nhìn chung, trí tưởng tượng của những người sáng tác câu đố dù phóng túng đến đâu
cũng không thể không dựa vào nguồn vật liệu sẵn có của thực tiễn lao động và sinh hoạt
cung cấp cho họ.
- Tính chất sống động, có hồn của những hình ảnh ẩn dụ câu đố
Câu đố thường mô tả sự vật trong trạng thái hoạt động hoặc biến đổi của nó. Ví dụ:
+ Bát đĩa được mô tả ở trạng thái đang đứng rửa, sau bữa ăn, để gác lên chạn:
Một đàn cò trắng phau phau
Ăn no tắm mát rủ nhau đi nằm
+ Cái kéo được mô tả ở trạng thái lăm lăm “hành chức”:
Vừa bằng lá tre xun xoe đánh vật

41
Ngay cả những câu đố có ẩn dụ thuộc dạng tranh “tĩnh vật” cũng tìm ẩn một nét
“động”. Ví dụ: “Vừa bằng cánh của nằm ngửa giữa trời” (câu đố về tàu lá chuối), “Vừa
bằng con bò nằm co giữa ruộng” (câu đố về cái mả)
Điều quan trọng là tất cả các sự vật được mô tả đều có hồn, có sinh khí. Để tạo nên
những hình ảnh sống động, có hồn như thế, người sáng tạo câu đố cần có cái nhìn có tình
đối với tạo vật. Những hình ảnh ẩn dụ câu đố luôn xuyên thấm tình yêu của người lao
động đối với tạo vật, yêu công việc làm ăn, yêu những vật cùng họ dãi nắng dầm sương…
b.3) Thế giới vật đố có tính “tục” giảng “ thanh”
Bên cạnh chất kì dị, ẩn dụ câu đố còn có tính chất thường được gọi là “đố thô, giảng
thanh”. Tính chất này được chình câu đố xác nhận một cách hồn nhiên. Ví dụ: Đố tục
(thô) giảng thanh: “Miệng chào anh/ Hai tay nâng đít”.
“Đố tục, giảng thanh” có nghĩa là vật đố thì “ thanh” nhưng vật thay thế nó thì “ thô”.
Khái niệm “thô” ở đây được hiểu là: nói đến cơ quan sinh thực khí và hoạt động liên quan
đến sinh thực khí, hoặc nói đến cơ quan bài tiết và hoạt động bài tiết. Nhiều hình ảnh ẩn
dụ câu đố là sản phẩm của sự liên tưởng từ vật đố đến những cái “thô”, cái “ tục”. Ví dụ
Một cột ba chia
Chọc vô cái lỗ
Thọc lia thọc lịa
Máu trào đỏ loét
Le lưỡi liếm liền (ống ngoáy trầu)
Quả thật khi trí tưởng tượng đã hướng theo ngả này thì hầu như sự vật hiện tượng nào
cũng có thể được hình dung, mô tả thành “cái ấy” và “chuyện ấy”. Ví dụ:
- Thương em anh dắt sau hè
Hai tay anh đè cái đít lắc lia (mài dao, kéo)
- Trên cũng da dưới cũng da
Đúc vô thì ấm, rút ra lạnh lùng (chân và giày)
Hiện tượng này là hiện tượng đã tồn tại và một số người vẫn thích chơi trò “đố tục,
giảng thanh”. Nhưng không thể coi đó là một xu hướng liên tưởng lành mạnh, nhất là đối
với trẻ em.
c) Kết cấu của ẩn dụ câu đố
Ẩn dụ câu đố có hai kiểu kết cấu: kết cấu đơn và kết cấu kép.
c.1) Kết cấu đơn.
Ẩn dụ có kết cấu đơn là ẩn dụ chỉ gồm một hình ảnh đơn nhất, tức là hình ảnh chỉ
của một sự vật. Hình ảnh được tạo nên có thể có một hay nhiều “đặc điểm” nhưng bao giờ
cũng chỉ tương ứng với một sự vật. Ví dụ:
- Hình ảnh đơn nhất có một “đặc điểm”: Trong nhà có bà ăn cơm trước (Câu đố về đôi
đũa cả). Trong nhà có bà hay la hét (Câu đố về cái chổi)
- Hình ảnh đơn nhất có nhiều “đặc điểm”:
+ Hai “đặc điểm” : Vừa bằng hạt đỗ, ăn giỗ cả làng (Câu đố về con ruồi)
42
+ Bốn “đặc điểm”: Vừa bằng cái kim, chìm xuống ao, đào chẳng thấy, lấy chẳng
được (Câu đố về cái râu tôm)
Có thể mô hình hóa câu đố ẩn dụ có kết câu đơn như sau:
a1-----------------------------------------------b1
A a2-----------------------------------------------b2 B
a3-----------------------------------------------b3
Vật đố A và các đặc điểm a1, a2, a3…được mô tả thành ẩn dụ B với các “ đặc điểm”
tương ứng b1, b2, b3…Nhìn chung những câu đố có kết cấu đơn có phần dễ giải hơn
những câu đố có kết cấu kép. Là vì những ẩn dụ này chỉ tương ứng với một sự vật, cho
nên việc khoanh vùng tìm kiếm vật đố không bị phân tán theo nhiều hướng cùng một lúc.
Trong số những ẩn dụ có kết cấu đơn thì ẩn dụ càng có nhiều “đặc điểm” càng có vẻ rắc
rối, nhưng lại càng có nhiều căn cứ để người giải đố suy lý và liên tưởng.
c.2) Kết cấu kép:
- Ẩn dụ câu đố có kết cấu kép rắc rối, kỳ dị hơn so với ẩn dụ có kết cấu đơn và, đặc
biệt, thường có chút ít tính truyện.
Khi vật đố là một sự vật gồm nhiều bộ phận (những bộ phận này đều có thể quan sát
bằng mắt thường và quen thuộc với mọi người) hoặc một hoạt động gồm nhiều thao tác
(những thao tác này cũng quen thuộc với mọi người như: ăn trầu, hút thuốc lào…) thì ẩn
dụ của nó thường có kết cấu kép.
Ví dụ: Bốn ông đập đất (= bốn chân trâu giẫm lên đất cày)
Một ông phất cờ (= cái đuôi trâu ve vẩy đuổi ruồi)
Một ông vơ cỏ (= mõm trâu “tranh thủ” vơ ít cỏ ven bờ)
Một ông bỏ phân (= đít trâu cũng làm cái việc của nó!)
Trong phức hợp ẩn dụ, quan hệ giữa các ẩn dụ “nhỏ” thường khá chặt nhằm tạo ra một
hình ảnh chung ít nhiều có nghĩa lý hoặc, tài tình hơn, một “mẫu chuyện” ly kỳ. Ví dụ:
Trong câu đố về con trâu (đang đi cày) những ẩn dụ nhỏ hợp thành một cấu trúc tương đối
chặt chẽ (bốn ông + một ông + một ông + một ông) tạo nên cảnh tượng “bảy ông vừa đập
đất, vừa phất cờ, vừa vơ cỏ, vừa bỏ phân, cứ như một lực điền đang hội làm mùa vậy!
Mô hình hóa ẩn dụ có kết cấu kép: được mô tả thành
A1------------------------------------------------B1
A2 A ------------------------------------------------ B B2
A3------------------------------------------------- B3
Vật đố A với các phức hợp ẩn dụ B
bộ phận hợp thành với các ẩn dụ “nhỏ”
A1, A2, A3 B1, B2, B3(tương ứng
với A1, A2,A3)
Ta phân tích một câu đố có kết cấu kép để nhận rõ lại một lần nữa những nét đặc thù
về kết cấu của ẩn dụ câu đố.
Ba ông lỏng khỏng
43
Cõng bà đế vương
Súng bắn tứ phương
Cò bay rào rạt (Câu đố về rang ngô)
Ta thấy vật đố A – hiện tượng rang ngô – gồm bốn bộ phận hợp thành: 1/ ba ông đầu
rau (A1) ; 2/ cái nồi rang ( A2) ; 3/ ngô nổ ( A3) ; 4/ ngô nở ( A4). Bốn bộ phận hợp thánh
của vật đố A được mô tả thành bốn ẩn dụ “nhỏ” tương ứng : 1/ ba ông lỏng khỏng (B1) ;
2/ cõng bà đế vương ( B2) ; 3/ sung bắn tứ phương (B3); 4/ cò bay rào rạt ( B4). Như vậy
ta có mô hình:
A1--------------------------------------------------------------B1
A2--------------------------------------------------------------B2
A3-------------------------------------------------------------- B3
A4---------------------------------------------------------------B4
Ta có thể nhận xét là các so sánh A1 – B1
A2 – B2
A3 – B3
A4 – B4
Dựa trên những nét giống nhau hết sức mong manh. Như ta đã biết, đấy chính là đặc
trưng tiêu biểu của ẩn dụ câu đố. Quả thật, chỉ có trong sáng tác câu đố người ta mới so
sánh một cách phóng túng:
Ba ông đầu rau với Ba ông lỏng khỏng
trên đặt cái nồi rang cõng bà đế vương
Và:
tiếng ngô nổ với súng bắn tứ phương
những hạt ngôn nổ bung ra cò bay rào rạt
Trong khâu giảng đố, người ta thường chỉ giải thích, chứng minh nét giống nhau giữa
b1 với a1, b2 với a2…(câu đố có kết cấu đơn) hoặc giữa B1 với A1, B2 với A2… (câu đố
có kết cấu kép), mà không đả động đến tính chất thích đáng và ý nghĩa của ẩn dụ (B) với
vật đố (A).
d) Cách mô tả của câu đố - ngôn ngữ của câu đố
d.1) Cách mô tả của câu đố:
Xây dựng câu đố bắt đầu từ sự quan sát và lựa chọn những “đặc điểm” của vật đố.
Có 5 đặc điểm cơ bản:
- Hình thể
- Về cấu tạo
- Tính năng, tác dụng
- Hoạt động thao tác
- Nguồn gốc, xuất xứ
Mấu chốt của việc xây dựng câu đố là sự mô tả những “đặc điểm” của vật đố. Ở đây
mô tả đi đôi với so sánh nhằm tạo ra những ẩn dụ. Trong câu đố, mô tả cũng thường kết
44
hợp với nhân hóa. Ở đây nhân hóa không đơn thuần như một thủ pháp mô tả mà nó còn là
vấn đề của thế giới quan. Do đó, nhân hóa được sử dụng rất phổ biến trong câu đố. Ví dụ :
Sừng sững mà đứng giữa nhà,
Ai vô không hỏi, ai ra không chào.
(cây cột nhà)
Chị em con bác con dì. Chị thì đẻ trứng, em thì đẻ con. (ốc nhồi và ốc hột)
d.2) Ngôn ngữ câu đố
Ngôn ngữ câu đố có những đặc điểm rất nổi bật – đó là tính chất cô đúc và tính gợi
hình, gợi cảm. Câu đố phải gọn ghẽ, chặt chẽ như đề toán, cho nên ngôn từ phải chính xác
và không gian ngôn ngữ câu đố phải hết sức tiết kiệm. Không gian ngôn ngữ câu đố phải
thông thoáng, sống động và nổi sắc nổi hình. Ngoài những thủ thuật chơi chữ đủ các kiểu,
người sáng tác câu đố còn tập trung vào giải pháp khai thác giá trị gợi tả của từ ngữ tiếng
Việt, nhất là động từ và tính từ tình thái. Do đó, mật độ của những từ loại này trong không
gian ngôn ngữ câu đố rất cao, cao hơn cả tục ngữ và ca dao. Ví dụ:
“Mẹ gai góc, con trọc đầu” (cây bưởi)
“Chân đen mình trắng đứng nắng giữa đồng” (con cò)
Nghệ thuật câu đố có được sự thành công hay không là nhờ một phần vào sức gợi tả
của ngôn ngữ câu đố- một thứ ngôn ngữ vừa lấp lửng vừa chính xác, vừa hồn nhiên vừa
tinh quái, vừa sát sạt vừa bay bổng…Tuy nhiên, câu đố là thể loại văn học dân gian, nó là
những sáng tác của lớp người bình dân nên đôi khi ngôn ngữ câu đố có một số từ rất thô
kệt. Ví dụ: “Có mái mà không có trống. Có đái mà không có ỉa” (Mái nhà)
Tóm lại, ngôn ngữ câu đố mang những đặc điểm tiêu biểu của ngôn ngữ dân gian.
e) Thể thơ trong câu đố:
Trong câu đố, thể thơ lục bát dùng rất phổ biến và được thể hiện rất đa dạng:
“Sừng sững mà đứng giữa trời. Trời xô không đổ, trời mời không đi” (Núi)
“Thưở bé em có hai sừng
Đến tuổi nửa chừng mặt đẹp như hoa
Ngoài hai mươi tuổi đã già
Quá hai mươi tuổi mọc ra hai sừng” (Mặt trăng)
- Thể vãn là thể thơ ngắn, mỗi câu năm chữ hoặc dưới năm chữ. Câu đó có tính chất
giải đố nên đại bộ phận câu đố đều được viết theo những thể thơ ngắn, tương đối đơn giản
về tiết tấu, nhịp điệu cách gieo vần rất linh hoạt.
- “Trên trời bảy ngọn đèn
Hình móc câu xếp nên
Ban đêm người đi lạc
Nhìn biết phương hướng liền” (Sao)
- “Ăn nằm ngửa
Ngủ nằm nghiêng
Uống rượu thì kiêng
45
Chỉ khuyên ăn thịt
Ăn rồi lại quỵt
Rửa mặt đi nằm
Ai hỏi thì câm
Ai mời thì tới” (Cái thớt)
- Câu đố thường mang tính cô đúc, cân đối nhịp nhàng về cách gieo vần.
Đi phe phẩy, về nhà giãy ra mà chết. (Cái áo dài)
Một nhà làm quan, cả nhà đi tàn. (Khóm khoai)
3.2.3. Kết luận chung.
Sau truyện cười, câu đố là thể đem lại nhiều tiếng cười trong kho tàng văn học dân
gian. Hầu như câu đố nào đọc lên, ta cũng thấy ngộ nghĩnh, hóm hỉnh tươi mát, đôi khi
tục tĩu nữa, song hiện thực sự vật, sự việc lại không ngộ nghĩnh tục tĩu tí nào. Giải được
hay không giải được, cả người đố và người đoán đều buồn cười. Do đó, câu đố ngoài việc
thử tài nhau, nó còn là phương tiện để thư giãn sau những giờ lao động và để mua vui
trong lúc nghỉ ngơi.
Câu đố phản ánh các sự vật, hiện tượng của thế giới quan theo lối nói chệch đi, lối nói
một đàng hiểu một nẻo,“nửa kín nửa hở” bằng hình thức liên tưởng, tưởng tượng. Ngôn
ngữ sinh động, giàu có cùng với các thủ thuật so sánh, ẩn dụ, tu từ, lộng ngữ… cũng đã
góp phần tạo nên chất nghệ thuật trong câu đố. Với những đặc trưng của thi pháp, câu đố
đã tồn tại cùng với nhân dân, không ngừng được nhân dân sáng tạo thêm làm cho lưu loát
hơn. Sự ra đời và phát triển của câu đố đã làm cho nền văn hóa dân gian Việt Nam thêm
phong phú giàu màu sắc.

3.3. Đặc điểm thi pháp của ca dao


3.3.1. Giới thuyết ca dao
a) Khái niệm
Trước những năm 50 TK XX, ở nước ta chỉ có hai thuật ngữ được dùng để chỉ
chung những câu hát dân gian là: ca dao – dân ca.
- Nói dân ca là nói bài hát dân gian bao gồm lời ca cộng làn điệu nhạc.
- Nói ca dao là chỉ nói riêng lời ca của bài hát dân gian.
=> Ca dao và dân ca đều có cùng một nghĩa đó là những câu hát (bài hát) dân gian.
- Ca dao hiểu theo nghĩa rộng là một khái niệm bao hàm 3 yếu tố gắn bó chặt chẽ
+ Lối hát (hình thức sinh hoạt ca hát hay phương thức diễn xướng)
+ Điệu hát (làn điệu nhạc của những câu hát)
+ Lời hát (lời ca đã bỏ tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi)
b) Bản chất ca dao
Ca dao là tấm gương phản chiếu tâm hồn, tâm trạng của nhân dân, của dân tộc. Vì
thế bản chất của ca dao là bản chất trữ tình (nghĩa là mang tính chất chủ quan). Tuy nhiên

46
cảm xúc và tình cảm trong ca dao không phải là cảm xúc và tình cảm của một cái tôi cá
nhân riêng biệt mà là của một quần thể, một cộng đồng.
Ví dụ : Em như con hạc đầu đình
Muốn bay không cất nổi mình mà bay
c) Các thể loại ca dao
Ca dao là một khái niệm chỉ loại. Đó là loại trữ tình của Vhdg, tương ứng với loại
tự sự, kịch dân gian. Để phân loại người ta căn cứ vào tiêu chí về mối quan hệ với nghi lễ
chia ca dao làm hai nhóm thể loại :
- Ca dao nghi lễ : nghi lễ lao động, nghi lễ sinh hoạt, nghi lễ tế thần.
- Ca dao phi nghi lễ: CD lao động, CD sinh hoạt, CD giao duyên.
Trong phạm vi thơ ca dân gian, ca dao được xác định là thơ ca trữ tình dân gian
(đối ứng với vè, thơ ca tự sự).
Như vậy, tìm hiểu những đặc điểm thi pháp của ca dao là tìm hiểu những đặc điểm
thi pháp của toàn bộ thơ ca trữ tình dân gian.
3.3.2. Đặc trưng thi pháp ca dao
a) Nhân vật trữ tình
- Trong ca dao truyền thống, chủ thể trữ tình (tác giả) luôn đồng nhất với nhân vật trữ tình
(nhân vật mà cảm nghĩ của nó được diễn tả trong bài ca). và nhân vật ấy có một số kiểu
nhất định :
+ Cô gái và chàng trai (trong quan hệ bạn bè, lứa đôi)
+ Người chồng và người vợ, người mẹ và người con (trong đời sống gia đình)
+ Người con gái, con dâu, người vợ (trong gia đình gia trưởng)
+ Người lính và người vợ lính (trong cảnh ngộ biệt ly, xa cách)
+ Người làm ruộng và người làm thợ, người dân chài (trong lao động, sinh hoạt và quan
hệ làng xóm quê hương).
- Qua tập hợp trữ tình tên chung của nhân vật trữ tình trong ca dao, xu hướng chung nhân
dân muốn diễn tả những nét bản chất của con người thời đại lúc bấy giờ đó là :
+ Cảm nghĩ về thân phận mình (buồn, khổ): cất lên bài ca than thở về nỗi khổ đau, bất
hạnh.
+ Cảm nghĩ về những người thương mến, những vật, những nơi thân thuộc (thấy yêu
thương): cất lên thành bài ca ân tình, ân nghĩa (tình gia đình, bạn bè, đôi lứa, quê hương,
đất nước…)
Như vậy ca dao xưa chủ yếu là tiếng hát than thân – phản kháng và tiếng hát yêu
thương – tình nghĩa.
b) Không gian thời gian nghệ thuật (Hoàn cảnh điển hình trong ca dao)
- Không gian (hoàn cảnh) giàu màu sắc ước lệ.
+ Đó là khung cảnh nơi diễn ra cuộc gặp gỡ, trò chuyện, trao gởi tâm tình như: ruộng
vườn, giếng khơi, cây đa bến nước, sân đình v.v…

47
+ Nhìn chung đó là cảnh vật thiên nhiên gần gũi, phong cảnh làng quê thân thuộc được tái
hiện bằng mấy nét chung nhất: non xanh nước biếc, mây bạc trời hồng… Không gian đó
nhằm thực hiện chức năng cảm xúc – tâm lý, tạo ra bối cảnh thích hợp với sắc điệu trữ
tình của mỗi bài ca.
ví dụ : Chiều chiều dóng dả đi chơi
Uốn roi giục ngựa tới nơi vườn đào
=> thực tế chân đi đất
Đồn đây là chốn đào nguyên
Trăng thanh gió mát cắm thuyền dạo chơi
=> nơi chờ bạn hát
- Thời gian nghệ thuật trong ca dao cũng vừa thực vừa ước lệ
+ Thực vì nó hợp với cảnh, với sự, với tình trong bài ca
+ Ước lệ vì nó rất chung, không xác định: đêm ấy, buổi sáng ấy, buổi chiều ấy…
- Đêm hè gió mát trăng thanh / Em ngồi chẻ lạt cho anh chắp thừng.
- Sáng ngày em đi hái dâu / Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn
Đôi khi thời gian tuy là thực tế (tháng giêng, tháng 2/ tháng 3, tháng 4/ tháng khốn,
tháng nạn…) nhưng cũng rất ước lệ (không nói về nỗi khổ do đói kém mà nói về những
mất mát, những nông nỗi khác. Vì thế bài ca gợi nhiều nỗi niềm hơn, đó có thể là nỗi
“mất đó” (bạn tình), “cháy quán” (mất nơi bạn nghèo gặp nhau); cảnh ngộ vừa được cực
tả (đã khó chó cắn thêm), vừa mang ý nghĩa khái quát.
- Thời gian trong ca dao là thời gian của hành động (tức là lúc diễn ra cuộc gặp gỡ, trò
chuyện, trao gửi tâm tình hoặc nhân vật trữ tình có tâm trạng hát lên khúc tự tình) để thực
hiện chức năng cảm xúc – tâm lý, tạo ra bối cảnh thi vị cho sự khởi phát cảm hứng trữ
tình. Ví dụ : “Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng…” hoặc trong ca dao cổ truyền có nhóm
bài ca mở đầu bằng “Chiều chiều…” những bài thuộc nhóm này có nội dung rất đa dạng :
+ Nỗi nhớ bạn: Chiều chiều én liệng nhạn bay/ Ta đây nhớ bạn, bạn rày nhớ ai?
+ Nỗi cô đơn: Chiều… mây phủ ải vân/ Chim kêu ghềnh đá ngẫm thân lại buồn
+ Lời tỏ tình: Chiều… vịt lội bờ ao/ thương người áo trắng vá quàng nửa vai
+ Niềm đau xót: Chiều… ra ngõ ngó xuôi / Ngó không thấy mẹ bùi ngùi nhớ…
c) Kết cấu của ca dao
- Ca dao có kết cấu ngắn (2 dòng, 4 dòng, 10 dòng v.v…) và đơn điệu về hình thức
(thường có hai hình thức chính).
c.1) Lối đối đáp (hình thức kết cấu đặc trưng của thơ ca dân gian trữ tình):
- Là những lời trò chuyện trực tiếp bằng thơ. Chủ thể của bài ca này phần lớn là chàng
trai, cô gái (ca dao nảy sinh trong sinh hoạt ca hát đối đáp nam nữ).
- Dấu hiệu hình thức của chúng là:
+ Sự hiện hữu của cặp từ xưng hô (chồng – thiếp, mình – ta, đó – đây…)
+ Sự tồn tại “theo vế” của bài ca
Ví dụ: - “Em đố anh từ Nam chí Bắc
48
Sông nào là sông sâu nhất
Núi nào là núi cao nhất nước ta?
Anh mà giảng được cho ra
Thì em kết nghĩa giao hòa cùng anh
Sâu nhất là sông Bạch Đằng
Ba lần giặc đến, ba lần giặc tan
Cao nhất là núi Lam Sơn
Có ông Lê Lợi trong ngàn bước ra”
- “Búp sen lai láng giữa hồ
Anh muốn đưa tay ra bẻ sợ chùa có sư
Có sư thì mặc có sư
Anh cứ đưa tay ra bẻ có hư em bồi”
c.2) Lối kể chuyện (hình thức kết cấu đặc trưng của thơ ca đân gian tự sự):
- Nhân vật trữ tình tự kể chuyện mình.
- Câu chuyện trong ca dao là chuyện tâm tình. Đó là một nỗi niềm được kể hơn là một
cảnh ngộ được thuật lại. Do đó, câu chuyện kể không có chuyện và thường không mạch
lạc.
Ví dụ : Bài ca dao “Lính thú đời xưa”
Ba năm chấn thủ lưu đồn Ngang lưng thì thắt…
Ngày thì canh điếm tối dồn việc quan Đầu đội nón dấu…
Chém tre đốn gỗ trên ngàn Thùng thùng trống đánh…
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai? Bước chân xuống thuyền…
Những lời trần thuật trên không chỉ miêu tả công việc của người lính thú cùng
trang thiết bị bên ngoài của anh ta mà còn nhằm chuẩn bị cho con người bên trong anh ta
xuất hiện. Đó là cảnh ngộ, nỗi niềm của người lính vừa chi tiết mà lại kín đáo.
- Các hình thức kể chuyện :
+ Kể chuyện bâng quơ (hát ru): Đây là những mẩu chuyện đứt đoạn mà miên man
với những hình ảnh chập chờn, chắp nối. Nhưng cũng chính là tâm tình của mẹ.
+ Kể chuyện ngược xuôi (kết cấu đối đáp + kết cấu kể chuyện). Bề ngoài như một
trò chơi xếp chữ. Nhưng thật ra mượn cách nói này để diễn tả hai chiều của một quan hệ
tình cảm. Ví dụ :
“Sớm mai tôi lên trên núi Chú thím rầy lộn với nhau
Tôi xách cái rựa còng queo Thôi tôi trả buồng cau lại cho chú
Bắt được con công Trả bánh ú lại cho cô
Đem về cho ông, ông cho trái thi Trả cá rô lại cho chị
Đem về cho chị, chị cho cá rô Trả trái thị lại cho ông
Đem về cho cô, cô cho bánh ú Tôi xách con công về rừng.
Đem về cho chú, chú cho buồng cau
+ Kể chuyện vòng tròn v.v …
49
- Nhận xét chung về các lối kết cấu của ca dao
Mỗi bài ca dao là một mảnh cảm nghĩ âm vang thành câu hát (mang tính chất
phiến đoạn) hồn nhiên tự tâm hồn. Do đó luôn tươi mát, chân thực, tính hàm xúc tự nhiên.
d) Hệ thống hình ảnh và ngôn ngữ trong ca dao
d.1) Hệ thống hình ảnh trong ca dao rất phong phú.
 Hình ảnh so sánh: nhằm thể hiện nhân vật trữ tình, nhân vật đối thoại
+ So sánh “hạ thấp”: “Anh như tán tía, tán vàng
Em như mảnh chiếu rách nhà hàng bỏ quên”
+ So sánh hơn (nâng cao): “Anh như chiếc kỷ nhà quan
Em như chiếc nón mê tàn che mưa”
+ So sánh hài hòa: “Em như tố nữ trong tranh
Anh như ngòi bút chấm cành hoa mai”
+ So sánh kép: Em như cây quế giữa rừng/ Thơm tho ai biết, ngát lừng ai hay?
Thân em như thể hàng săng/ Anh nào muốn chết thì quăng mình vào
+ So sánh đơn
+ So sánh kiên hợp: Nhãn lồng trong bịt ngoài bao
Con ong châm còn được huống chi quả hồng đào chín cây
So sánh nhằm biểu hiện cảm xúc mạnh mẽ, bóng bảy. Giúp chủ thể trữ tình dễ
dàng nói và nói một cách cô đọng tế nhị sâu sắc những điều khó nói. So sánh nêu cái khái
quát, cái chung, nét bản chất. So sánh đi đôi với miêu tả trực tiếp “Cổ tay em trắng như
ngà/ con mắt em liếc như là dao cau/ miệng cười như thể hoa ngâu/ cái khăn đội đầu như
thể hoa sen”
 Hình ảnh miêu tả: Miêu tả phải dựa vào so sánh.
- Miêu tả để nêu bật cái riêng, cái chi tiết của đối tượng
- Đối tượng của miêu tả là cảnh vật thiên nhiên, làng quê, ruộng vườn, sông nước và sản
vật của quê hương. Qua đó bộc lộ niềm tự hào của con người xứ xở.
- Miêu tả là để ngụ tình: tình quê hương, đất nước; tình cảm tự nhiên đối với cái đẹp của
tạo vật; tình yêu đôi lứa…
Nghệ thuật miêu tả đóng vai trò quan trọng trong việc khắc họa những “hoàn cảnh
điển hình” (Miêu tả thường kết hợp với phóng đại ==> ca dao trào lộng) qua đó góp phần
thể hiện nhân vật trữ tình.
 Hình ảnh ước lệ :
- Là hình ảnh có sự thống nhất trực tiếp cái chung với cái riêng, khái quát với cụ thể
(Loan – Phượng, Trúc – Mai, Rồng – Mây, chỉ sự tương sứng hài hòa gắn bó của đôi lứa).
- Ước lệ của hình ảnh không tách rời xu hướng ước lệ hóa sự diễn tả chính tâm trạng, cảm
nghĩ của nhân vật trữ tình. Cho nên câu hát của một người có thể là mẫu số chung cho
mọi người.
=> Tính ước lệ thể hiện rõ trong hình ảnh so sánh
=> Tính chân thực tự nhiên thể hiện rõ trong hình ảnh miêu tả.
50
- Ước lệ còn biểu hiện trong cách sử dụng con số trong ca dao
+ Con số ước lệ: “Tìm em đã tám hôm nay / Hôm qua là tám hôm nay là mười”
+ Con số chính xác chặt chẽ “Thương nhau cau 6 bổ ba…Cả thương cả ghét 72…”.
Vì thế những hình ảnh ước lệ trong ca dao không bị khô cứng, sáo mòn.
 Hình ảnh tượng trưng có ý nghĩa khái quát rộng rãi (người phụ nữ và nông dân).
d.2) Ngôn ngữ ca dao
- Văn bản tạo hình và biểu hiện : “Bây giờ mận mới hỏi đào…”
“ Trời mưa / Qủa dưa vẹo vọ…”
- Ngôn ngữ giản dị, sinh động, màu sắc địa phương
e) Thể thơ trong ca dao
- Thể thơ lục bát (chiếm 95% số tác phẩm). Số lời từ 2 đến 4 dòng chiếm 75%. Và ít có
kiến trúc cân đối (3 -3, 4 -4) so với văn học hiện đại.
- Lục bát trong ca dao có hình thức biến thể
“Bao giờ rừng quế hết cay/ Dừa Tam Quan hết nước thì em đây mới hết tình”
- Thể song thất lục bát (chiếm khoảng 2%)
“Lụa làng trúc vừa xanh vừa bóng
May áo chàng cùng sóng áo em
Chữ tình cùng với chữ duyên
Xin đừng thay áo mà quên lời nguyền”
Với nhịp chênh: 3/2/2 xen với nhịp đôi, vần trắc cài vào vần bằng, bốn câu thành
một khổ tự nhiên láy đi láy lại, … thích hợp với sự kể lể những nỗi niềm, những tâm tư u
uẩn, trở trăn (những câu hò sông nước mênh mang, dàn trải).
- Các thể thơ khác: thể hỗn hợp
“Qủa cau nho nhỏ/ Cái vỏ vân vân… Anh lấy em từ thủa mười ba…”
“Đất Lam Kiều ngỡ ngàng khó bước/ Động đào nguyên lạch nước quanh co
- Thể vần (vần năm, đôi khi xen vần bốn): tiêu biểu là hát dặm Nghệ Tĩnh
+ Thể vần thích hợp với thơ ca dân gian tự sự hơn là ca dao.
+ Lối ngắt nhịp cứng, không đổi trong toàn bài: 3/2 hoặc 1/2/2.
+ Bắt vần dễ dãi, khiến cấu trúc thơ chắc gọn thích hợp với cách kể chuyện hơn là trữ tình
(đồng dao).

TÀI LIỆU HỌC TẬP


 Học liệu bắt buộc
[1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Văn Học, tập II, 1998,
[2]. Trần Đình Sử, Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, NXB KHXH, 1993.
[3]. Bộ GD&ĐT, Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian, NXB GD,
2002
 Học liệu tham khảo
[1]. Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, NXBKHXH,1982.
51
[2]. Đỗ Bình Trị, Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian, NXB
KHXH, 1999
[3]. Trần Đình Sử, Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB KHXH, 1995
[4]. Nguyễn Thị Dư Khánh, Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp học, NXB
VH, 1999
[5]. Nhiều tác giả, Hợp tuyển văn học dân gian, NXBVH, 1977
[6]. Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, NXBVH, 1983
[7]. Hoàng tiến Tựu, Văn học dân gian Việt Nam, NXBGD, 1990)

PHỤ LỤC
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP THỰC HÀNH

Sinh viên đọc tài liệu, tìm hiểu, nghiên cứu trả lời và làm các bài tập sau:
I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG:
Bên cạnh mục đích củng cố những kiến thức cơ bản về văn học mà sinh viên đã được
học trước đây như: Khái niệm, đặc trưng cơ bản, các chặng đường phát triển của văn học
Việt Nam, yêu cầu trọng tâm của chương 1 là người học có những hiểu biết về các khái
niệm thi pháp, thi pháp học, nắm được đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ và phương pháp
nghiên cứu của thi pháp học, xác định đúng vai trò của bộ môn khoa học này trong khoa
nghiên cứu văn học và văn học dân gian. Từ đó, sinh viên có thể chủ động vận dụng lí
luận về thi pháp học để thâm nhập, nghiên cứu tác phẩm văn học dành cho học sinh tiểu
học trong và ngoài trường tiểu học.
1. Xác định được khái niệm không gian, thời gian nghệ thuật, các hình thức không
gian, thời gian nghệ thuật tiêu biểu trong tác phẩm văn học.
2. Xác định được nhân vật, cốt truyện, và giọng điệu lời văn nghệ thuật trong văn bản
nghệ thuật.
3. Vận dụng lí thuyết để xác định, phân tích không gian, thời gian nghệ thuật trong
cấu trúc văn bản nghệ thuật.
4. Xác định được đặc điểm thi pháp của một số thể loại văn học dân gian đã học trong
chương trình.
5. Vận dụng lí thuyết để xác định, phân tích kết cấu cốt truyện Tấm Cám, Cây tre
trăm đốt, Hai anh em và cây khế.
II. CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP THỰC HÀNH
1. Sự khác biệt giữa không gian thần kì trong văn học dân gian với không gian thần kì
trong văn học thiếu nhi hiện đại?
2. Phân tích không gian nghệ thuật của bài thơ sau:
TRÊN HỒ BA BỂ
Thuyền ta chầm chậm vào Ba Bể
Núi dựng cheo leo hồ lặng im
52
Lá rừng với gió ngân se sẽ
Họa tiếng lòng ta với tiếng chim.
Thuyền ta lướt nhẹ trên Ba Bể
Trên cả mây trời trên núi xanh
Mây trắng bồng bềnh trôi lặng lẽ
Mái chèo khua bóng núi rung rinh.
Thuyền ta quanh quất trên Ba Bể
Đỏ ối vườn cam biếc bãi ngô...
Thuyền ơi, chầm chậm chờ ta nhé
Muốn ở đây thôi chẳng muốn về! (Hoàng Trung Thông)
3. Phân tích thi pháp kết cấu của bài hát ru (hoặc một số bài ca dao)
“Cái ngủ mày ngủ cho lâu
Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về
Bắt được lũ cá rô trê
Cầm cổ lôi về cho cái ngủ ăn…”
4. Phân tích truyện cười: “MẤT RỒI”
Một người sắp đi chơi xa dặn con:
- Ở nhà có ai hỏi, thì bảo bố đi chơi vắng nhé !
Sợ con mải chơi quên mất, lại cẩn thận lấy bút viết vào giấy rồi bảo:
- Có ai hỏi thì con cứ đưa cái giấy này.
Con cầm tờ giấy bỏ vào túi áo. Cả ngày chẳng thấy ai hỏi. Tối đến, sẵn có ngọn đèn, nó
lấy giấy ra xem, Chẳng may vô ý để giấy cháy mất.
Hôm sau có người đến nhà chơi, hỏi:
- Thầy cháu có nhà không ?
Nó ngồi ngẩn ngơ hồi lâu, mới sực nhớ ra, sờ vào túi không thấy giấy, liền nói:
- Mất rồi !
Khách giật mình hỏi:
- Mất bao giờ ?
- Tối hôm qua.
- Sao mà mất ?
- Cháy. (Theo tiếng cười dân gian Việt Nam)
5. Phân tích truyện cổ tích Tấm Cám dưới góc độ thi pháp học:
- Truyện cổ tích Tấm Cám có những yếu tố kì ảo nào tham gia vào cốt truyện? những yếu
tố đó có tác dụng như thế nào đối với diễn biến số phận của nhân vật Tấm?
- Hãy chọn và phân tích những chi tiết tiêu biểu trong truyện Tấm Cám để chứng tỏ rằng
“truyện cổ tích là một giấc mơ đẹp” của nhân dân lao động.
6. SV chọn một số bài tập đọc trong sgk tiểu học để phân tích dưới góc độ thi pháp học.

53

You might also like