You are on page 1of 21

Câu 1 : Tính song ngữ, tính quy phạm trong văn học trung đại việt nam.

Bài làm
1. Tính quy phạm:
Quy phạm là tính chất mẫu mực, khuôn sáo được thể hiện qua một số hệ
thống phức tạp và phương pháp các quy ước về nội dung và hình thức của tác
phẩm, các cách thức miêu tả, biểu hiện mà người viết phải tuân thủ nghiêm ngặt
trong quá trình sáng tác.
* Đặc điểm:
Tính quy phạm thể hiện ở quan điểm nghệ thuật rất coi trọng mục đích giáo huấn
của văn học, ở tập quán và tư duy nghệ thuật là quen nghĩ và phải nghĩ qua những
kiểu mẫu nghệ thuật có sẵn, đã thành công thức. Về mặt hình thức, tính quy phạm
đó thể hiện ở việc sử dụng các thể loại văn học có lối kết cấu định hình, có niêm
luật chặt chẽ và thống nhất, ở cách sử dụng văn liệu, thi liệu đã thành những mô típ
quen thuộc. Tính quy phạm còn là việc đề cao phép đối, tính quy phạm như trên đã
tạo ra một kiểu ước lệ mang đặc điểm riêng là thiên về công thức, trừu tượng, nhẹ
về tính cá thể, cụ thể trong nghệ thuật.
- Đề tài:
Tính chất cao quý từ nguồn gốc, quan niệm sáng tác và sinh hoạt thơ văn xưa cũng
sinh ra tính quy phạm. Đề tài phải phù hợp với tính chất cao quý. Nó có thể được
lựa chọn từ những đề tài công thức. Mục đích chính của loại đề tài này là bàn bạc
về nội dung tác phẩm kinh điển Nho gia, phát biểu những quan niệm về chính trị,
đạo đức, triết học, thẩm mĩ dựa trên nền tảng học thuyết Nho giáo. Phải là chuyện
quốc gia đại sự, là thế thái nhân tình, là thành tích lớn lao của vua này chúa nọ, là
quan hệ vua tôi, cha con, quân dân, là đạo lí làm người theo lí tưởng cao cả đó
cũng là những biểu hiện của con người như: đi, đứng, ăn nói, ứng xử…đúng theo
chuẩn mực của xã hội phong kiến quy định.
Cũng có khi các thi sĩ sử dụng loại đề tài có tính chất tập cổ tức là những đề tài
được lấy từ các tác phẩm văn chương mang tính mẫu mực của người Trung Quốc.
Chẳng hạn như: “Kinh thi”, “Li tao”, “thơ Đường”…Loại đề tài này thường đề cập
tới cảnh núi sông hùng vĩ, chùa chiền u tịch, đêm trăng chiều gió, tài tử giai
nhân…Do đó văn chương trung đại sử dụng không mòn những loại đề tài ít di
dịch: cảm, thuật, hoài, hứng, vịnh, ngâm, tặng, đề, tán, tiễn, tống, biệt, điếu, vãn.
Các loại văn xuôi triều đình, tôn giáo, bia, minh, liễn đối trong hội tang, chay đều
mang tính nghiêm chỉnh, thanh nhã. Đề tài của tuồng thường mang chất bi hùng.
Riêng chèo đôi lúc lại có đề tài mang chất dân gian nơi thôn xóm.
- Hình tượng nghệ thuật:
Công thức ước lệ, tượng trưng: là đặc điểm nổi bật của văn học trung đại. Khi sáng
tác, các tác giả thường vay mượn văn thi liệu, điển cố, điển tích lấy từ sách vở
Thánh hiền và kinh sách của các tôn giáo. Sự vay mượn này được lặp lại nhiều đến
nỗi thành những mô-tip quen thuộc tạo nên tính ước lệ, tượng trưng trong văn học.
Hồi ấy, những sáng tác văn chương có như thế thì mới được coi là bác học, cao
quý. Chẳng hạn, nói đến cây và hoa thì tùng, cúc, trúc mai, sen… bởi chúng là
những biểu tượng để chỉ những phẩm chất, cốt cách, khí tiết của người quân tử,
của bậc trượng phu; nói đến con vật thì phải là long, ly, quy, phụng; nói đến người
thì ngư, tiều, canh, mục; nói đến hoa bốn mùa phải là xuân lan, thu cúc, hạ sen,
đông mai; tả cảnh mùa thu thì mây đùn cửa ải, lá ngô đồng vàng rơi, rừng phong lá
rụng, sen tàn giếng ngọc; nói đến thời gian phải là đêm năm canh, ngày sáu khắc;
tả mỹ nhân thì làn thu thuỷ, nét xuân sơn, sóng thu ba, tóc như mây, da như tuyết
… và người đẹp phải đẹp đến nỗi nghiêng nước nghiêng thành hay chim sa cá lặn,
thậm chí có khi Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình và có lúc cỏ cây cũng muốn
nổi tình mây mưa như trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều v.v..
Ở văn chương từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX có một công thức mang tính bắt
buộc trong sáng tác đó là công thức “hậu cổ bạc kim” với ý thức nghệ thuật trọng
cái cổ xưa, cái chân lý được sáng lập từ xưa, từ trước được trân trọng và ca ngợi.
Cái cổ xưa là cái đã được khẳng định, đã vượt qua được sự sàng lọc của thời gian
nên văn học trung đại hay sử dụng điển cố, điển phạm. Sử dụng cái có sẵn của tiền
nhân, điển tích điển cố càng nhiều càng thành thạo thì càng chứng tỏ sự điêu luyện
hiểu biết của nhà văn. Muốn vậy nhà văn phải đọc nhiều nhớ nhiều và ngoài việc
phục vụ thi cử giáo dục người đọc sách còn phục vụ cho việc sáng tạo của họ.
Thực ra văn chương xưa hướng đến mục đích thi cử trường quy. Mà yêu cầu trước
tiên của văn chương cử tử là khuôn phép và điển phạm. Ai vi phạm coi như công
đèn sách ba năm trở thành vô nghĩa. Cần ghi nhận một thực tế sử dụng điển
tích điển cố là một ưu thế của văn học phong kiến bởi có quy luật tích cực do sử
dụng điển cố. Tiết kiệm ngôn ngữ, lời ít ý nhiều và gợi cảm. Trong văn chương
trung đại sử dụng điển cố là một vẻ đẹp của nghệ thuật.
- Thể loại:
Quy phạm về thể loại là tuân thủ nghiêm ngặt quy cách sáng tác của thể loại, nhất
là các thể loại được sử dụng trong văn chương trường ốc, văn chương cử tử. Tính
tôn ti về thể loại:
– Văn lập ngôn:
+Văn,quan,phương
+Thơ,phú.
+ Truyền kì, tạp bút, tiểu thuyết.
Trong các thể loại trên thì truyền kì, tạp bút, tiểu thuyết là thể loại có nguồn gốc
thấp hèn vì nó xuất phát từ những câu chuyện kể của thuyết thư dân gian. Ý thức
thẩm mĩ tôn ti trật tự làm người xưa chuộng các hình thức đăng đối, chỉnh tề thể
hiện ở niêm, đối, bằng, trắc, biền ngẫu.
- Ngôn ngữ:
Với quan niệm văn chương của ngày xưa, văn thơ vốn cao quý thì tính cao quý
cũng là quy phạm cho ngôn ngữ. Ngôn ngữ phải thanh tao, phong nhã, giàu hình
tượng. Ngôn ngữ phải hàm súc và phải tạo được dư ba. Hàm súc là một phẩm chất
đi đầu, hàm súc là phải tạo được dư ba. Cảm nhận thế giới của con người trung đại
đã chỉ ra cách nhìn cảnh vật, sự việc, con người, cuộc đời xuyên qua bên ngoài mà
đạt tới cái cái bên trong, cái linh hồn, cái không thấy được, nên đưa tới vô vàn ẩn
dụ rồi tượng trưng. Nhờ những ẩn dụ, tượng trưng ấy mà văn chương thêm khả
năng hàm súc và dư ba. Hàm súc có ý là ngắn gọn, dư ba có ý là lời hết mà ý còn
ngân vang. Đó là cách tư duy của phương Đông và của Việt Nam. Nó nhằm khêu
gợi trực cảm chứ không lí giải, miêu tả dài dòng, tỉ mỉ. Nó dành cho gngười đọc
nghĩ tiếp, cảm tiếp, thêm hứng thú. Cảm nhận của người trung đại trước xã hội là
xã hội bất biến, ổn định, con người dính liền với cộng đồng chưa tách riêng ra
thành con người – cá nhân nên không nhằm khẳng định mình mà nặng tư tưởng
sùng cổ.
* Tính quy phạm : Những khuôn thước , biểu mẫu nghệ thuật có sẵn , đã định hình
, đã thành công thức .
_ Vê nội dung : Đề cập đến các chủ đề , đề tài mang tính hướng thượng giáo huấn ,
chở đạo lý “ vãn dĩ tải đạo “ “ thi dĩ ngôn chí “ .
_ Về nghệ thuật :
+ Hình tượng nghệ thuật : ước lệ , có sẵn .
+ Ngôn ngữ : vận dụng điển cố , điển tích và thi hiệu Hán học .
+ Thể loại : các thể loại có kết cấu định hình và có tính ổn định cao : bia chiếu ,
biểu , tấu ,tứ tuyệt , ngữ ngôn …
-VD:
-Tính quy phạm : Đòi hỏi người viết phải tuân thủ nghiêm ngặt trong quá trình
sáng tác, từ ý thức sùng cổ, tập cổ, tôn trọng các chuẩn mực mà xã hội quy định,
khuôn phép mang tính chất quy ước theo công thức : “ Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn
chí “.
Nguyễn Du từng viết :
“ Khen tài nhả ngọc phun châu
Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu “
Xuất phát từ quan điểm thời trung đại hướng về cái cao cả trang trọng tao nhã. Hay
Nguyễn Trãi từng viết :
“Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước Triều Đông “
Quan niệm “ Văn dĩ tải đạo “ có nguồn gốc sâu xa. Theo Hàn Dũ “ văn” có góp
phần làm sáng tỏ đạo.
Tính chất quy phạm trong đề tài nhìn chung được đảm bảo. Tuy vậy, đó chỉ là khi
viết bằng chũ Hán. Còn khi viết bằng chữ Nôm, tiếng Việt thì tính chất bất quy
phạm xuất hiện. Nếu giai đoạn thượng kì, đề tài sáng tác ngâm vịnh chủ yếu là vua
quan, mai, lan, cúc, trúc hay ngư, tiều, canh mục…thì đến giai đoạn hạ kì, đề tại
được mở rộng thêm nhiều theo hướng tự do, phóng khoáng, dần phá vỡ những gì
quy định từ trước. Tú Xương, Hồ Xuân Hương, Phạm Thái là những tác giả có
biểu hiện phá cách rõ nhất. Những con người tầm thường, những sự vật tầm
thường được đưa vào văn học. Thiên nhiên không còn mang tính quy phạm, hạn
chế tính ước lệ khuôn mẫu mà thay vào đó là những gì gần gũi với đời sống hàng
ngày của người bình dân như mùng tơi, cà, mướp, rau muống…Điều này được
chứng minh trong “Hồng Đức quốc âm thi tập”. Đề tài ngâm vịnh chẳng có gì là
cao quý, ngược lại thơ dùng ngâm vịnh đủ thứ đồ vật trong nàh từ cái hũ, cái vò,
cái đầu rau, cái cối xay, cái điếu…Phú Hán thanh nhã, cao sang còn phú Nôm lấy
đề tài thông tục: tổ tôm, cờ bạ, thầy đồ ngông…Kinh nghĩa là thể văn trường thi,
yêu cầu bình luận lời thánh hiền trong kinh điển thì Lê Quý Đôn, một con người
tưởng là nghiêm trang bậc nhất lại viết hai bài kinh nghĩa lấy tựa đề là “Mẹ ơi, con
muốn lấy chồng”, và “Ai ơi, chớ lấy học trò” với giọng đầy hóm hỉnh, đùa cợt.Con
người càng ngày càng chủ động hơn trong tình yêu đặc biệt là tâm tư tình cảm
thầm kín của người phụ nữ dần bộc lộ.
2. Tính song ngữ
Song ngữ là hiện tượng khá phổ biến trong nền văn học nhiều nước trên thế
giới, đã làm lên đặc điểm riêng của nền văn học Trung đại VN từ thế kỉ X đến thế
kỉ XV. Đó là sự kết hợp của hai thành phần văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm
cùng phát triển song song với nội dung đan xen giữa ngợi ca tinh thần yêu nước và
phê phán hiện thực xã hội phong kiến đầy bất công.
-Thời trung đại do bị bắt buộc, tiếng Việt chịu ảnh hưởng sâu rộng của tiếng Hán,
chữ Hán, văn hóa Hán. Tiếng Hán “trở thành một thứ tiếng nằm trong quỹ đạo của
quy luật âm và ngữ âm lịch sử tiếng Việt và văn học chữ Hán của các nhà văn Việt
Nam là một bộ phận của văn học Việt Nam”. Hai thứ tiếng, hai bộ phận văn học
đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội. tình hình đó tạo nên hiện tượng song ngữ
trong văn học. tính song ngữ tạo thành đặc điểm văn học của nhiều thành phần và
không chỉ thể hiện trong dòng văn học chữ Hán và Nôm tách biệt, mà còn thể hiện
ở sự xâm nhập, pha trộn của văn học Hán và Nôm.
-Đồng thời do ý thức hệ trong việc sử dụng ngôn ngữ nên ngôn ngữ được chia
thành hai loại: ngôn ngữ cao nhã và ngôn ngữ tầm thường. cũng chính vì thế mà
văn học chia thành loại cao nhã, cao thượng với văn học “nôm na”, thông tục mà
loại sau nhiều khi không được thừa nhận từ phía học giả quan phương.
_ Văn học chữ Hán là văn học chính thống được làm quốc tự trong các lĩnh vực
hành chính , ngoại giao ,giáo dục ,tôn giáo ( chủ yếu là văn học chức năng ) phạm
vi đề tài mở rộng từ những vấn đề chung từ dân tộc cho đến những vấn đề riêng
của con người .
_ Văn học chữ Nôm : dùng yếu tố của chữ Hán , ghi âm tiếng việt . Văn học chữ
Nôm vừa giàu tinh thần yêu nước vừa phong phú tinh thần nhân đạo , trước hết là
sự quan tâm đến phẩm giá , quyền sống , tình yêu , hạnh phúc của con người ( chủ
yếu là văn học nghệ thuật).
-Tính “ song ngữ “ trong văn học trung đại Việt Nam , thực chất là song ngữ bất
bình đẳng : Văn học chữ Hán được đề cao văn học chữ Nôm bị hạ thấp , không
được xem là văn chương chính thống .
VD : Nguyễn Trãi sáng tác cả bằng chữ Hán lẫn chữ Nôm . Ở cả hai bộ phận này
ông đều có những tác có giá trị ở những thể loại khác nhau cả văn học chức năng ,
văn học nghệ thuật . Hiện tượng song ngữ trong sáng tác của ông trước hết được
thể hiện ở phương diện thể loại . Ông sáng tác bằng chữ Hán ở các thể loại văn học
chức năng như : cáo , chiếu , thư , văn bia , các thể loại văn học có truyện ,lục , thơ
, phú … Trong khi đó sáng tác bằng chữ Nôm có tập thơ “ Quốc âm thi tập “ . Thơ
văn chữ Hán của Nguyễn Trãi có nhiều tác phẩm có giá trị như : Bình Ngô Đại
Cáo , Quân trung từ mệnh tập , Bằng Hồ di sự lục , Truyện Nguyễn Phi Khanh .
Ngoài ra ông còn thay mặt vua Lê viết một số bài chiếu : Chiếu cầu hiền tài , Chiếu
cho Tư Tề quyền nhiếp quốc chính … Thơ Nôm Đường Luật . Nguyễn Trãi thể
hiện một sự cách tân , sáng tạo độc đáo . Thơ Đường luật vốn quy định rất chặt chẽ
về số câu , niêm ,luật … Nhưng ông đều rất thành công trong việc sáng tác theo thể
loại này .
Ngoài ra còn rất nhiều nhà thơ khác cũng rất thành công trong việc sử dụng song
ngữ ( chữ Nôm và chữ Hán ) trong nền văn học trung đại Việt Nam : Nguyễn Bỉnh
Khiêm , Nguyễn Du …
Tiêu biểu là khoảng thời gian từ đầu thế kỷ X đến hết thể kỷ XIV, do ảnh hưởng
sâu rộng từ văn hóa Hán mà chữ Hán gần như trở thành ngôn ngữ sáng tác chủ đạo
của các nhà văn Việt Nam. Song, về mặt nội dung, vẫn đảm bảo đề cao được chủ
nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc Việt, phải kể đến những đóng góp to lớn của
Nguyễn Trải với Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Dữ với Truyền kì mạn lục và Lê
Thánh Tông với Thánh Tông di thảo tương truyền. 
Câu 2 : Cảm hứng yêu nước trong văn học thế kỳ XV.
Là nội dung lớn, xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển của văn học trung đại
Việt Nam. Bảo vệ tổ quốc, lập nhiều kì tích trong kháng chiến chống ngoại
xâm, chế độ phong kiến Việt Nam phát triển đi lên. Yêu nước với âm hưởng
hào hùng ( hào khí Đông A ).
- Biểu hiện:
+ Gắn với tư tưởng “ trung quân ái quốc”.
+ Ý thức độc lập tự chủ, tự cường, tự hào dân tộc.
+ Lòng căm thù giặc, xót xa bi tráng lúc nước mất nhà tan.
+ Tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thu.
+ Biết ơn ca ngợi những người hi sinh vì nước.
+ Trách nhiệm khi xây dựng đất trong thời bình. + Tình yêu thiên nhiên.
Tác phẩm tiêu biểu : Nam quốc sơn hà , (Lý Thường Kiệt) , Hịch tướng sĩ (Trần
Quốc Tuấn), Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu)
Hịch tướng sĩ lên án bọn giặc xâm lược với thái độ sôi sục, coi giặc như cú diều, dê
chó, hổ đói, trực tiếp bộc lộ nỗi căm hờn qua lời tâm sự của chủ tướng: nửa đêm vỗ
gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, thề rằng sẽ xả thịt lột da, nuốt gan uống
máu quân thù.
- Gắn liền với tư tưởng “ trung quân ái quốc ”.
- Biểu hiện: phong phú, đa dạng
+ Âm điệu hào hùng khi đất nước chống ngoại xâm, âm hưởng bi tráng lúc nước
mất nhà tan, giọng điệu thiết tha khi đất nước trong cảnh thái bình thịnh trị.
+ Ý thức độc lập tự chủ, tự cường, tự hào dân tộc, lòng căm thù giặc, tinh thần
quyết chiến quyết thắng kẻ thù, tự hào trước chiến công thời đại, truyền thống lịch
sử, ca ngợi những người hi sinh vì đất nước, tình yêu thiên nhiên đất nước.
Vd: Trong tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi:
* Tinh thần yêu nước bộc lộ thông qua luận đề chính nghĩa:
- Tư tưởng nhân nghĩa mới mẻ "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/Quân điếu phạt
trước lo trừ bạo", tức hành động nhân nghĩa phải đi liền với tình cảm yêu thương
nhân dân, bảo vệ nhân dân khỏi những tai họa xâm lăng, đảm bảo cho nhân dân
được một cuộc sống an bình, gắn với lòng yêu nước sâu sắc.
- Khẳng định nền độc lập lâu đời của dân tộc thông qua nhiều khía cạnh khác nhau
như nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ, phong tục khác biệt, và độc đáo,
khéo léo trong việc so sánh các triều đại, khẳng định việc xưng "đế" của dân tộc
Đại Việt.
- Khẳng định nước ta "hào kiệt đời nào cũng có", cùng với việc dẫn ra hàng loạt
các chiến tích và sự thất bại thảm hại của vương triều phương Bắc khi tiến quân
vào xâm lược nước ta trong lịch sử.
=> Thể hiện sức mạnh của một dân tộc tuy lãnh thổ nhỏ bé, nhưng tinh thần yêu
nước, sự đoàn kết chống giặc ngoại xâm thì luôn luôn vĩ đại, sẵn sàng tiêu diệt
những kẻ thù to lớn để bảo vệ Tổ quốc từ bao đời.
* Tinh thần yêu nước sâu sắc thể hiện qua việc vạch trần âm mưu đê hèn, tội ác
xâm lược của quân Minh:
- Đứng trên lập trường của dân tộc, lòng yêu nước và sự sáng suốt của một nhà
chính trị đã chỉ ra âm mưu xâm lược trắng trợn của quân Minh, với danh nghĩa
"phù Trần diệt Hồ" mê hoặc lòng dân để đem quân tràn vào nước ta xâm lược, tàn
phá.
- Đứng trên lập trường của một người dân Đại Việt, căm thù giặc Minh và đớn đau
trước thực cảnh của dân tộc, để vạch trần tội ác của quân xâm lược khi tràn vào
lãnh thổ nước ta, tố cáo hành động tàn ác và chủ trương cai trị vô nhân đạo của kẻ
thù
* Tinh thần yêu nước thông qua cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
- Tái hiện hình ảnh chủ soái Lê Lợi, người anh hùng tiêu biểu nhất cho tinh thần
yêu nước của cả dân tộc, đại diện cho ý chí quyết tâm dẹp giặc ngoại xâm, là niềm
tự hào, hy vọng của cả một dân tộc đang lầm than.
- Tái hiện quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm đầy anh dũng, kiên cường của
dân tộc ta, biểu hiện rõ nét nhất, mạnh mẽ nhất cho lòng tự tôn dân tộc, quyết tâm
bảo vệ mảnh đất quê hương bằng mọi giá.
=> Thể hiện tinh thần yêu nước chung của nhân dân Đại Việt một cách rất khéo léo
và tinh tế.
- Kết thúc trận chiến, chúng ta đã không chọn cách đuổi cùng diệt tận mà lại mở
đường cho giặc về nước.
=> Đó cũng là một biểu hiện rất tinh tế của lòng yêu nước, là hành động nhân văn
bảo vệ đất nước, nhân dân khiến nhà Minh tạm thời không dám manh động, lại làm
việc bất nghĩa, để quân dân ta được nghỉ sức xây dựng lại đất nước.
* Tinh thần yêu nước bộc lộ thông qua lời tổng kết:
- Tinh thần yêu nước lần nữa được khẳng định thông qua việc Nguyễn Trãi tuyên
bố nền độc lập chủ quyền của dân tộc bằng giọng văn hùng hồn, sắc sảo, niềm tự
hào, kiêu hãnh "Xã tắc từ đây vững bền/Giang sơn từ đây đổi mới", mở ra một kỷ
nguyên mới cho dân tộc, khai sinh ra một triều đại thịnh trị lâu dài.
- Rút ra những bài học cho hậu thế về sau, thể hiện sự chu toàn, cũng như tấm lòng
lo nghĩ cho muôn dân.
Câu 3: Tư tưởng nhân nghĩa “bình ngô đại cáo”.
Bài làm
Xuyên suốt chặng đường tồn tại và phát triển của văn học Việt Nam, tư tưởng nhân
nghĩa đóng vai trò như một sợi chỉ đỏ nối liền thời đại. Nhân nghĩa là một trong những
truyền thống quý báu từ bao đời nay của dân tộc ta, truyền thống đó được kế thừa và
phát huy theo chiều dài của lịch sử. Nền văn học trung đại Việt Nam ra đời gắn liền với
quá trình dựng nước và giữ nước đau thương mà oanh liệt, oai hùng. Vì vậy, hầu hết
các tác phẩm ra đời trong thời kì này đều mang trong mình sợi chỉ đỏ xuyên suốt ấy, và
một trong những áng văn tiêu biểu nhất không thể không kể đến “thiên cổ hùng văn”
của người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi – “Bình Ngô đại cáo”, bài cáo đã vút cao tinh
thần độc lập dân tộc, tinh thần yêu nước còn được ghi nhắc đến muôn đời. Đặc biệt
cần phải kể đến là tư tưởng nhân nghĩa được Nguyễn Trãi thể hiện trong “Cáo bình
Ngô” đã trở thành giá trị tư tưởng cao đẹp nhất mà nhân dân ta mãi ngợi ca và hướng
tới.

“Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”


Đó là lời ca tụng nổi tiếng của vua Lê Thánh Tông dành cho Nguyễn Trãi sau hơn hai
mươi năm bị hàm oan tày trời. Trong suốt bao năm qua, Nguyễn Trãi luôn được nhớ tới
như một truyền kỳ, vừa là một nhà tư tưởng, nhà chính trị đại tài của dân tộc – một bậc
anh hùng toàn tài hiếm có, người đã có công trong việc phò tá vua Lê xây dựng nghiệp
lớn, vừa là một nhà văn, nhà thơ kiệt xuất của nền văn học trung đại Việt Nam. Cuộc
đời và sự nghiệp của ông được đúc kết trong câu thơ của Chế Lan Viên:

“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc


Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn”
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?)
Các tác phẩm của ông là sự kết tinh đẹp đẽ nhất của tư tưởng chính nghĩa, lòng yêu
nước nồng nàn cùng lập luận sắc sảo, chặt chẽ, giọng văn hùng hồn, đầy tính thuyết
phục với tư tưởng lấy dân làm gốc. Và một trong những tác phẩm của ông thể hiện rõ
nhất điều này không thể không kể đến áng “thiên cổ hùng văn” – “Bình Ngô đại cáo”.

“Bình Ngô đại cáo” là bài cáo được viết bằng cổ văn do Nguyễn Trãi soạn thảo vào
mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Định Vương Lê Lợi để tuyên cáo về việc giành chiến
thắng trong cuộc kháng chiến với nhà Minh, khẳng định sự độc lập của nước Đại Việt.
Đây được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam, sau bài thơ thần “Nam
quốc sơn hà”. Song, “Bình Ngô đại cáo” không phải chỉ được tiếp nhận chủ yếu như
một văn bản hành chính mà còn được đón nhận như một kiệt tác văn chương. “Bình
Ngô đại cáo” qua ngòi bút thiên tài của Nguyễn Trãi trở thành một bản anh hùng ca đẹp
nhất thời đại của ông, thấm đẫm tinh thần yêu nước, tư tưởng nhân nghĩa mà người
đời ca tụng mãi về sau.

Tư tưởng nhân nghĩa xuất hiện rất sớm trong truyền thống triết học Trung Hoa. Theo
Khổng Tử, “nhân” là “yêu người” và để yêu người thật sự bằng lòng “nhân” thì phải
“hiểu người”. Còn “nghĩa” được nhấn mạnh là sự cư xử cho thích hợp dựa trên việc
“hiểu người”. “Nhân” và “nghĩa” luôn thể hiện phẩm chất cao đẹp của người quân tử.
Xét đến Mạnh Tử, người kế tục Khổng Tử, chữ nhân đứng hàng đầu trong bốn đức
lớn: Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí. Chúng bắt nguồn từ bốn đầu mối của Thiện. Trong đó,
lòng thương xót là đầu mối của nhân. Có thể nói, những tư tưởng và những quan điểm
khác nhau về nhân nghĩa phản ánh đời sống tinh thần của con người Trung Hoa đã
ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng truyền thống phương Đông nói chung và Việt Nam
nói riêng.

Thế nhưng, sự tiếp nhận của các bậc văn nhân Đại Việt đối với văn hóa Trung Hoa
không phải là sự tiếp nhận thụ động và gieo trồng lên mảnh đất văn học những hạt
mầm có sẵn mà đó là một sự tiếp nhận có chọn lọc, kết hợp hài hòa những tinh túy của
tư tưởng nhân nghĩa Nho giáo với truyền thống quý báu bao đời của dân tộc Việt Nam
như:

“Lá lành đùm lá rách”


“Thương người như thể thương thân”
Do đó, tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo khi vào nước ta đã được tiếp biến một cách
tích cực. Nhân nghĩa của Nho giáo vì thế hòa quyện cùng với nhân nghĩa của nhân
dân. Nguyễn Trãi đã tiếp thu trọn vẹn những tinh hoa văn hoá ấy để rồi tác phẩm nào
của ông cũng thấm đượm tinh thần nhân đạo cao đẹp, yêu nước thương dân mà “Bình
Ngô đại cáo” là một ví dụ rõ nét.

Sê-khốp đã từng khẳng định: “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ
trong cốt tủy”. Sê-khốp coi tinh thần nhân đạo là phẩm chất bắt buộc phải có trong mỗi
người cầm bút, là tiêu chuẩn, điều kiện để đánh giá mức độ chân chính của nhà văn.
Bởi tác phẩm văn học chân chính thể hiện cái tâm của người nghệ sĩ, phải hàm chứa
tinh thần nhân văn sâu sắc, chứa đựng niềm vui, nỗi khổ đau của con người. “Bình Ngô
đại cáo” chính là một tác phẩm như thế. Tinh thần nhân văn được Nguyễn Trãi thể hiện
trong bài cáo trước hết nằm ở quan niệm về tư tưởng nhân nghĩa của ông. Ngay từ
đầu, Nguyễn Trãi đã khẳng định sự đấu tranh này là vì lợi ích của nhân dân:

“Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân


Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Nhân nghĩa vốn là một tư tưởng đạo Nho, là mối quan hệ giữa người với người dựa
trên cơ sở của tình thương và đạo lí. Nhưng ở đây, với bốn chữ “yên dân”, “trừ bạo”,
Nguyễn Trãi đã nâng nó lên một tầm cao mới, trở thành một lý tưởng xã hội, một đạo lý
dân tộc có giá trị đến muôn đời: việc nhân nghĩa ở đời cốt là lo cho dân được ấm no,
giúp cho dân được yên ổn. Nguyễn Trãi đã khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc” là quy
luật tất yếu trong mọi thời đại – dân là nòng cốt, là tài sản, là sức mạnh, sinh khí của
một quốc gia. “Yên dân”, tức là làm cho cuộc sống của nhân dân được yên ổn, no đủ,
hạnh phúc. Nhưng để được “yên dân” trước phải lo “trừ bạo”, có nghĩa phải vì nhân mà
dám đứng lên diệt trừ bạo tàn, đánh tan quân xâm lược.

Ở đây, có thể nói Nguyễn Trãi đã sử dụng tài tình nghịch lí “gậy ông đập lưng ông”: ông
dùng chính những luận điểm kinh điển về nhân nghĩa của tư tưởng Trung Hoa từng
được các bậc thánh hiền như Khổng Tử, Mạnh Tử,… đúc kết lại mà bọn tướng Minh
đều đã thuộc nằm lòng để quật lại bọn chúng. Đối với Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” không
còn là một quan niệm đạo đức hạn hẹp mà là một lý tưởng xã hội, cả cuộc đời ông
chưa từng có một giây phút nào ngưng lo nghĩ cho dân cho nước:

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng


Dân giàu đủ khắp đòi phương”
(Cảnh ngày hè)
Bậc anh hùng ấy lo cho dân bằng tất cả tình thương tận sâu nơi đáy lòng. Dân giàu,
nước mạnh, dân no đủ, nước thái bình, đây là giấc mơ Nguyễn Trãi luôn khắc khoải
suốt cả cuộc đời dẫu cho cuộc đời ấy phải chịu nhiều đắng cay và oan khuất, hơn hết,
nó còn là cả một học thuyết nhân sinh ấp ủ đã đến lúc bật ra thành lời. Nếu giấc mơ kia
là của bậc đại nhân, thì cái lõi tư tưởng của giấc mơ là của bậc đại trí. Đó là tư tưởng
nhân nghĩa đã được Nguyễn Trãi vạch rõ ngay trong hai câu mở đầu “Bình Ngô đại
cáo”, một tư tưởng rất tiến bộ, tích cực, phù hợp với tinh thần của thời đại và cho đến
ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.

Nếu thế kỉ XI lũ giặc Tống hồn xiêu phách lạc khi nghe âm hưởng của bài thơ thần Nam
quốc sơn hà vang lên bên bến sông Như Nguyệt, hay đến thế kỉ XX thực dân Pháp
cũng chẳng còn cái cớ nào kéo sang xâm phạm nước Nam sau khi nghe những lời
dõng dạc của chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn Độc lập, thì ở thế kỉ XV,
Nguyễn Trãi cũng đã khẳng định một cách hùng hồn về lãnh thổ Việt Nam với lũ giặc
ngoại xâm. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn gắn liền với tư tưởng yêu nước,
với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia và tinh thần độc
lập dân tộc:

“Như nước Đại Việt ta từ trước


Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.”
Chỉ một từ “ta” mang ý sở hữu, Nguyễn Trãi cũng đã dõng dạc khẳng định rằng lãnh
thổ Đại Việt là bất khả xâm phạm. Ở đây, ông đưa ra một quan niệm được đánh giá là
đầy đủ nhất lúc bấy giờ về các yếu tố tạo thành một quốc gia độc lập: nước Việt ta có
nền văn hiến tự bao đời, có núi sông bờ cõi, ranh giới đã phân định, có phong tục tập
quán phong phú, có các triều đại sánh ngang với “Hán, Đường, Tống, Nguyên”, có
nhân tài phò vua diệt giặc. Còn nhớ trong “Nam quốc sơn hà”, Lý Thường Kiệt mới chỉ
khẳng định bằng một phương diện đó là lãnh thổ, nhưng lại ở sách trời. Đến “Cáo bình
Ngô”, Nguyễn Trãi mới nâng tầm chân lý độc lập lên nhiều phương diện rất cụ thể chứ
không còn mơ hồ như trước. Đây là tiền đề cơ sở của tư tưởng nhân nghĩa bởi chỉ khi
ta xác lập được chủ quyền dân tộc thì mới có những lý lẽ để thực thi những hành động
“nhân nghĩa” làm cho quốc thái dân an.

Để nêu bật tư thế độc lập tự cường của dân tộc, Nguyễn Trãi đã sử dụng cách diễn đạt
sóng đôi. Đại Việt và Trung Hoa đã bao đời song song tồn tại. Ông đã đặt các triều đại
“Triệu, Đinh, Lý, Trần” của ta ngang hàng với “Hán, Đường, Tống, Nguyên” của Trung
Hoa, điều đó cho ta thấy, nếu không có một tình yêu nước nồng nàn, một lòng tự hào
dân tộc mãnh liệt thì làm sao có được sự so sánh tinh tế và sâu sắc như vậy. Ngoài ra,
câu văn còn được tăng sức thuyết phục lên gấp bội khi Nguyễn Trãi sử dụng nhiều từ
ngữ chỉ tính chất hiển nhiên vốn có khi nêu rõ sự tồn tại của Đại Việt: “từ trước”, “đã
lâu”,“đã chia”, “cũng khác”. Nghệ thuật thành công nhất của đoạn đầu tiên nói riêng và
cả bài cáo nói chung chính là thể văn biền ngẫu được nhà thơ khai thác một cách triệt
để nhưng không kém phần tinh tế.
Như vậy, Bình Ngô đại cáo đã ghi nhận một chân lý độc lập đầy tinh thần nhân nghĩa.
Độc lập ấy có được không phải do trời định mà là do nhân định. Chính nhân dân bao
đời là người đã gây dựng nền độc lập. Biết bao xương máu đã đổ xuống, biết bao sự
đồng cam cộng khổ, bao nhiêu mồ hôi, nước mắt của nhân dân đã đổ xuống cả nghìn
năm để dựng xây nên hình hài Tổ quốc. Vì thế, đó là điều “bất khả xâm phạm”. Suốt cả
sáu trăm năm khi đất nước độc lập tự chủ, lần đầu tiên chân lý chủ quyền dân tộc được
vang lên một cách dõng dạc, khí thế, tự hào đến vậy. Như vậy, có thể thấy tư tưởng
nhân nghĩa của Nguyễn Trãi mang đậm sắc thái của tinh thần yêu nước truyền thống
luôn chảy trong huyết quản con Rồng cháu Tiên.

“Văn chương bất hủ cổ kim đều viết bằng huyết lệ” (Lâm Ngũ Đường), phải chăng khi
viết những câu văn liệt kê từng tội ác tày trời của quân giặc đối với dân ta, ngòi bút của
Nguyễn Trãi cũng đã nhỏ lệ, trái tim của ông cũng đã rỉ máu? Tư tưởng nhân nghĩa ở
Nguyễn Trãi còn thể hiện ở sự cảm thông, chia sẻ với nỗi thống khổ của người dân mất
nước cùng nỗi tức giận, niềm uất hận ngút trời với tội ác không thể dung thứ của quân
giặc. Vì thương dân, ông đã xót xa trước những thảm cảnh mà “quân cuồng Minh thừa
cơ gây hoạ” do “bọn gian tà bán nước cầu vinh”:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn


Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây binh kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.”
Chiến tranh đã gây ra bao đau thương , mất mát cho nhân dân ta. Chính sách đồng
hóa của nhà Minh vừa tàn bạo vừa thâm độc, bao gồm những thủ đoạn hủy diệt dã
man, có thể nói tất cả những gì là cơ sở tồn tại về vật chất và tinh thần của một quốc
gia dân tộc chúng đều tìm cách hủy diệt dần. Chúng bỏ tên nước ta, chia làm quân
huyện như đất đai nhà Minh. Chúng đàn áp khủng bố cực kì man rợ hòng dập tắt
phong trào và ý chí phản kháng của nhân dân ta. “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung
tàn”/ “Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”, Nguyễn Trãi sử dụng những từ ngữ biểu cảm,
gợi hình gợi cảm như “nướng”, “vùi”, “dân đen”, “con đỏ”… Nhân nghĩa còn là sự sẻ
chia đồng cảm, cảm thông với nỗi đau của người dân mất nước.
Lật lại sử sách, nhìn lại những tội ác tày trời của quân giặc gây ra cho dân ta mà chỉ
biết uất nghẹn trong lòng: Chúng bắt phụ nữ, trẻ em làm nô lệ, mua bán như một thứ
hàng hóa. Chúng rút ruột người treo lên cây, nấu thịt người làm dầu, phanh thây phụ
nữ có thai, nướng sống người làm trò chơi, chất thây người làm mồ mua vui.

Không chỉ có vậy, bọn giặc còn thực hiện một chế độ sưu thuế cống nạp nặng nề để vơ
vét của cải, cướp đoạt tài nguyên, sản vật:

“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
.......
Tan tác cả nghề canh cửi.”
Chúng phá hoại nhân dân thôi chưa đủ, còn phá hoại cả môi trường sống xung quanh
đến nỗi tàn hại cả côn trùng, cây cỏ. Bọn man rợ còn bóc lột đến tàn kiệt sức lao động
của người dân “bị đem vào núi đãi cát tìm vàng”, “ bị ép xuống biển dòng lưng mò
ngọc”, coi mạng sống con người như cỏ rác mặc cho “cá mập thuồng luồng”, mặc cho
“rừng sâu nước độc”. Chúng vơ vét tài nguyên đến tận cùng “vét sản vật”, “bắt chim
trả”, “bẫy hươu đen” đến nỗi “chốn chốn lưới chăng”, “nơi nơi cạm đặt”. Giặc Minh quấy
nhiễu đến nỗi sản xuất bị đình trệ “tan tác cả nghề canh cửi”, cuộc sống nhân dân bị
huỷ hoại không còn lại gì “tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ”, đẩy nhân dân đến bước
đường cùng “nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”. Chúng đã hung hăng, ngang
ngược xúc phạm đến đạo lí nhân nghĩa của đất trời và lòng người.

Còn nhớ trong “Hịch tướng sĩ”, Trần Hưng Đạo cũng có một trái tim cháy bỏng về lòng
căm thù giặc và một trái tim sắt đá quyết tâm đánh đuổi giặc ra khỏi bờ cõi nước nhà:
“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ
căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi
ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.” Đó là tâm trạng căm
phẫn tột cùng và hào khí “sát thát” Đông A của thời Trần.

Còn trong “Bình Ngô đại cáo”, cùng với một niềm phẫn uất thấu trời, Nguyễn trãi đã
vạch trần bản chất thực của kẻ xâm lược bằng những câu văn chất chứa biết bao nhiêu
phẫn nộ, bi thương. Tội ác của giặc Minh chồng chất đến nỗi dẫu chặt trụi tre rừng
cũng không ghi hết, dơ bẩn đến nỗi nước biển Đông cuồn cuộn cũng không rửa sạch
mùi, khiến cho trời đất chẳng thể dung thứ.
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?”
Ngòi bút nhỏ máu của Nguyễn Trãi vừa thể hiện nỗi căm phẫn, niềm uất hận nghẹn
ngào của ông trước tội ác của giặc, vừa bộc lộ niềm cảm thông, xót xa, chia sẻ với nỗi
thống khổ mà nhân dân ta phải chịu đựng suốt mấy mươi năm. Ngay cả khi bị bọn lộng
thần đố kị, vu cáo, thậm chí bị hạ gục, khiến ông buộc lòng phải hai lần xin về trí sĩ tại
Côn Sơn, tấm lòng ưu quốc ái dân của ông vẫn không lúc nào nguôi:

“ Bui một tấc lòng ưu ái cũ


Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng.”
(Thuật hứng)
Trước những tội ác chồng chất của giặc như vậy, chúng ta chỉ có một con đường là
đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi để trừ bạo, yên dân. Xót xa cho cảnh nước mất nhà tan,
Lê Lợi – người anh hùng áo vải đất Lam Sơn đã phất cờ khởi nghĩa:

“Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống.”
Sử sách còn ghi chuyện chàng thanh niên Nguyễn Trãi khóc theo cha đến tận ải Nam
Quan khi cha ông là Nguyễn Phi Khanh bị giặc Minh bắt giải về Kim Lăng. “Nợ nước,
thù nhà”, Nguyễn Trãi khắc sâu lời cha dặn: “Con trở về lập chí, rửa nhục cho nước, trả
thù cho cha, như thế mới là đại hiếu”. Cuộc đời Nguyễn Trãi bắt đầu bằng thảm kịch
“nước mất nhà tan”. Chính “mối hận Nam Quan” đã nhen nhóm ngọn lửa của lòng yêu
nước thương nòi trong tâm khảm Nguyễn Trãi để một ngày kia nó bùng cháy thành hoả
diệm sơn đốt cháy quân giặc. Nung nấu chí vọng “đền nợ nước, báo thù nhà”, khi nghe
tin Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, Nguyễn Trãi bèn trốn khỏi Đông Quan tìm vào Thanh
Hoá gặp Lê Lợi, dâng “Bình Ngô sách”, được Lê Lợi trọng dụng. Ông đã đồng cam
cộng khổ với nghĩa quân Lam Sơn suốt mười năm kháng chiến, để rồi viết nên những
câu văn chân thực nhất về hiện thực gian khổ khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mới bắt
đầu:
“Lại ngặt vì:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,


Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc”
“Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.”
Tuy gặp nhiều thiếu thốn, khó khăn nhưng tinh thần và lòng quyết tâm đã dâng cao như
núi, tướng sĩ và nhân dân đều bền gan vững chí, chung sức chung lòng khắc phục gian
nan, nhờ sự đoàn kết của toàn dân và chiến lược, chiến thuật đúng đắn, nghĩa quân
biết dựa vào sức dân, được nhân dân đồng tình, ủng hộ đã phản công giành được
thắng lợi to lớn. Rõ ràng nhận thức về vai trò, công sức của nhân dân đã được nâng
lên một tầm cao chưa thấy trong lịch sử, phản ánh đúng đắn tinh thần của thời đại
chống Minh. Ở đây, Nguyễn Trãi có cách miêu tả rất ngắn gọn nhưng vẫn làm nổi bật
lên sự hoảng sợ, hoang mang của quân giặc ở hai trận đánh ác liệt xảy ra tại Bồ Đằng
và Trà Lân, còn quân ta thì càng đánh càng mạnh, sĩ khí càng tăng cao:

“Sĩ khí đã hăng


Quân Thanh càng mạnh
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lí An, Phương Chinh nín thở cầu thoát thân.”
Với tư tưởng nhân nghĩa cao cả, “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để
thay cường bạo” Nguyễn Trãi đã đưa ra một chân lý: phải giương cao ngọn cờ “nhân
nghĩa, an dân”, phải cố gắng đoàn kết lòng dân làm sức mạnh của nước, làm thế nước.
Để làm nổi bật giữa nhân nghĩa với hung tàn, giữa chính nghĩa với phi nghĩa, giữa
chiến thắng và chiến bại,… Nguyễn Trãi đã sử dụng nghệ thuật đối lập, tương phản rất
tài tình, đem đến nhiều niềm tin, lòng tự hào, sự hả hê cho người nghe, người đọc. Ta
với giặc Minh khác nào như mặt trời với bóng tối, như văn minh với man rợ, như tất
thắng với thất bại. Ông chủ trương cứu nước bằng sức mạnh của dân, muốn lấy lại
được nước phải biết lấy sức dân mà kháng chiến. Sức mạnh nhân nghĩa của nhân dân
ta “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều” đã làm nên chiến thắng vẻ vang đánh dấu
những mốc son chói lọi trong trang vàng sử sách. Những thắng lợi ban đầu đã tạo
thanh thế cho nghĩa quân, trở thành nỗi khiếp đảm của kẻ thù:
“Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc âm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu.
Mọt gian kẻ thù: Lí Lượng cũng đành bỏ mạng.”
Thừa thắng xông lên, nghĩa quân liên tiếp giành thắng lợi tiêu diệt giặc ở các thành
chúng chiếm đóng, tiêu diệt cả viện binh của giặc. Nguyễn Trãi tập trung bút lực kể về
chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang. Đây là bản hùng ca vang dội nhất của cuộc kháng
chiến trường kì.

“Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại,
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạch chia đường từ Vân Nam tiến sang.”
Nhưng ta đã có sự bố phòng chu đáo. Hai gọng kìm của giặc liên tiếp bị bẻ gãy:

“Ta trước điều bỉnh thủ hiểm, chặt mũi tên phong.
Sau lại sai tướng chặn đường, tuyệt nguồn lương thực.”
Sau đó là những chiến thắng dồn dập. Giọng văn hăm hở như có tiếng thúc giục chiến
thắng của người viết, mạch văn dồn đuổi như cố theo kịp bước hành quân thần tốc và
những đòn đánh cấp tập của nghĩa quân:

“Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.
Ngày hai tám, Thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.”
Câu văn đúc lại, ngắn gọn, đầy hình ảnh thâm xưng phóng đại nhằm cực tả sức mạnh
vĩ đại, khí thế áp đảo của quân ta:

“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn


Voi uống nước, nước sông phải cạn,
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông.”
Liệt kê những chiến công vang dội liên tiếp của quân dân ta cũng như tô đậm tư thế đê
hèn của quân xâm lược lúc thảm bại bằng giọng văn hào hùng sảng khoái, Nguyễn Trãi
vẫn nhằm mục đích khẳng định hùng hồn sức mạnh vô địch của tư tưởng nhân nghĩa
và truyền thống nhân nghĩa tốt đẹp của dân tộc Việt.
“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới;
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.”
Cả bản đại cáo là bài tráng ca, anh hùng ca về những chiến công hiển hách, vinh
quang mà dân tộc đã chung sức, chung lòng làm nên được. Đúng là chỉ có chân lý độc
lập tự do mới đem đến khí thế, khát vọng cháy bỏng như thế. Nguyễn Trãi hẳn đã chờ,
chờ suốt bao nhiêu năm để tự mình viết lên những khoảnh khắc lịch sử chẳng bao giờ
quên ấy. Để hơn một lần ông khẳng định chắc chắn cuộc chiến này, sự đồng khởi này
là xuất phát từ chính nghĩa, từ tư tưởng nhân nghĩa đã trở thành đạo lý tốt đẹp từ bao
đời của nhân dân Việt Nam ta.

Tư tưởng nhân nghĩa với những hành động nhân nghĩa đã khiến quân và dân có sự
đoàn kết, đồng lòng tạo thành sức mạnh to lớn tiêu diệt kẻ thù bởi tất cả mọi người đều
cùng chung một mục đích chiến đấu. Khi đánh giặc, càng đánh càng hăng, khí thế ngập
đất trời bởi trái tim luôn tràn trề tình yêu nước. Bởi thế nên quân ta mới đánh bại quân
giặc. Lúc này, quân giặc hiện lên trong thật đáng thương, thảm hại:

“Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,


Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.”
“Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.”

“Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng”
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô đại cáo” còn thể hiện ở việc đối
đãi với kẻ thù. Nhân nghĩa thể hiện ở tinh thần chuộng hòa bình, tinh thần nhân đạo
của dân tộc:

“Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay”
Đến khi chiến thắng giặc Minh, một lần nữa, tư tưởng nhân nghĩa – tấm lòng thanh cao
của Ức Trai càng cao vời vợi. Ông thương dân, mong muốn sớm yên bình cho quân
dân nên ông đã lấy toàn dân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Tư tưởng nhân nghĩa trong
suy nghĩ của Nguyễn Trãi là tinh thần yêu chuộng hòa bình, công lý, sự hiếu sinh, hiếu
hòa, độ lượng bao dung. Dân tộc ta đã mở đường hiếu sinh cho kẻ thù khi chúng bại
vong. Quân giặc đã “tham sống sợ chết”, ta cũng chẳng cạn tình. Quan điểm “lấy chí
nhân để thay cường bạo” của Nguyễn Trãi chính là được biểu hiện ở đây.

Đây là cách ứng xử vừa nhân đạo, vừa khôn khéo của nghĩa quân Lam Sơn, khẳng
định tính chất chính nghĩa cuộc chiến của ta, vừa thể hiện truyền thống nhân đạo, nhân
văn, chuộng hòa bình của dân tộc Đại Việt, vừa thể hiện tầm nhìn xa trông rộng để duy
trì quan hệ ngoại giao sau chiến tranh của dân tộc ta với Trung Hoa.

Coi trọng con người, quý trọng nhân dân, coi trọng tình hòa hiếu giữa các dân tộc ông
đã đặt nhân nghĩa lên trên tất cả. Trong tác phẩm Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi, tư
tưởng nhân nghĩa dường như hòa quyện trong từng lời từng ý, tỏa ra dưới ngòi bút sắc
bén của ông. Nguyễn Trãi đã là một nhà thơ tư tưởng lớn biết chọn cho mình lí tưởng
đẹp đẽ và cao quý như vậy.

Bài cáo kết thúc. Câu văn chuyển sang nhịp khoan thai, dàn trải, trang trọng. Giọng văn
hiền hoà tươi vui:

“Xã tắc từ đây vững bền


Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc”
Các hình ảnh xã tắc, giang sơn, kiền khôn, nhật nguyệt cứ tăng dần về độ lớn có sức
mạnh vũ trụ, dường như mới đủ đo được cảnh thái bình. Chân lý độc lập cứ thế mà
vang xa, vang rộng mãi. Nhưng niềm vui không ồn ào bởi Nguyễn Trãi hiểu hơn ai hết
cái giá đắt của chiến thắng, và cái ơn rất sâu của đồng bào, của trời đất tổ tông thiêng
liêng đã đồng lòng giúp đỡ. Lời tuyên bố còn chứa đựng cả đạo lý uống nước nhớ
nguồn. Bởi vậy mới nói, tác giả của bài cáo không chỉ tài năng trác việt mà đức độ cũng
vô biên. Giá trị độc lập, chủ quyền của bản đại cáo được thiết lập bởi những tư tưởng
nhân văn, truyền thống đạo lý gốc rễ như vậy. Từ đây dân tộc ta bước sang một trang
mới – trang sử vàng của độc lập, tự do, hoà bình. Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là cần
phải đấu tranh để cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Nhân nghĩa giống như là
một phép lạ, làm cho “Càn khôn bĩ rồi lại thái” / “Nhật nguyệt hối rồi lại minh”.

Phạm Văn Đồng có nhận định rằng “Văn chương của Nguyễn Trãi đã đạt đến đỉnh cao
của nghệ thuật, đều hay và đẹp lạ thường”. Bên cạnh giá trị nhân đạo sâu sắc, “Bình
Ngô đại cáo” , một nét đặc sắc nữa về nghệ thuật là lời văn giấụ hình tượng. “Bình Ngô
đại cáo” có ngôn ngữ trang trọng, hình tượng tráng lệ, kì vĩ. Các thủ pháp nghệ thuật
như so sánh, thậm xưng, cảm thán… được Nguyễn Trãi sử dụng rất đặc sắc gợi cảm
kì lạ. Cáo là một trong những thể văn xuôi cổ; cách đặt câu mang tính quy phạm cổ
điển. Nguyễn Trãi đã sử dụng biến hóa các kiểu câu tứ tự, bát tự, câu tứ lục, câu song
quan, câu cách cú, câu gối hạc, làm cho nhịp văn lúc co ngắn, lúc duỗi dài, lúc nén
xuống, lúc dồn dập. Khí văn mạnh mẽ, mang âm điệu anh hùng ca.

Có khi là các thi liệu văn liệu cổ đi vào bài cáo một cách thanh thoát hấp dẫn như: cần
trúc ngọn cờ, nước sông chén rượu, trúc chẻ tro bay, sạch không kình ngạc… Mở đầu
là hai chữ “yên dân”, kết thúc là”thái bình”, “chiến thắng”, là “thanh bình”, là “duy tân”
điểu đó đã thể hiện tính nhất khí, nhất quân của Bình Ngô đại cáo. Chỉ nói về phương
diện nghệ thuật, Bình Ngô đại cáo xứng dáng là bài ca thắng trận, khúc hát hòa bình
của ông cha lưu mãi ngàn thu. Trong tác phẩm này, tác giả đã kết hợp một cách uyển
chuyển giữa tính chân xác lịch sử với chất sử thi anh hùng ca qua lối văn biền ngẫu
mẫu mực của một ngọn bút tài hoa uyên thâm Hán học.

Nguyễn Trãi từng nói: “Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to
phải lấy nhân nghĩa làm đầu: duy nhân nghĩa có gồm đủ thì công việc mới thành công”.
Từ xưa đến nay, chỉ những bậc đại nhân đại trí như Nguyễn Trãi mới chọn nhân nghĩa
(hay chủ nghĩa nhân đạo) làm nền tảng cho sự nghiệp của mình. Nội dung tư tưởng
nhân nghĩa của Nguyễn Trãi cơ bản là tinh thần yêu nước, trọng dân an dân, lòng
khoan dung độ lượng kết hợp với ý chí hòa bình và xây dựng đất nước giàu mạnh.
“Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái đẹp và cái nhân đạo
của lòng người.” (Xê Lê Khốp). “Bình Ngô đại cáo” mãi là áng thiên cổ hùng văn, là bản
tuyên ngôn về chủ quyền độc lập dân tộc, bản cáo trạng tội ác của kẻ thù, bản hùng ca
về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mà trong đó thanh nam châm thu hút mọi thế hệ chính là
tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp của người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Xin được
mượn lời của nhà thơ Xuân Diệu để thay cho lời kết: “Trước Lê Lợi, đã từng có chiến
thắng oanh liệt đuổi sạch quân Nguyên xâm lược ở thời nhà Trần, sau thời Lê Lợi, sẽ
có chiến thắng thần tốc của vua Quang Trung đánh đuổi 20 vạn quân Thanh xâm lược,
nhưng trong văn học sử chỉ có một áng văn Bình Ngô đại cáo, bởi các lẽ: không có ba
Nguyễn Trãi để viết ba áng văn khải hoàn mà lịch sử đòi hỏi ở ba thời điểm, mà chỉ có
một Nguyễn Trãi cụ thể, hiệu Ức Trai, ở đầu triều Lê cùng với tài thao lược kinh bang tế
thế, đã có cái thiên tài viết văn”.

You might also like