You are on page 1of 15

Bài 3 Hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương

Mục tiêu: HS có được những hiểu biết và kĩ năng cơ bản khi tìm hiểu hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ
Xuân Hương.
Phương pháp: Thuyết trình, gợi mở, vận dụng các ví dụ
Phương tiện: SGK, tài liệu tham khảo về Hồ Xuân Hương …
I. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG
1. Cuộc đời
Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong lịch sử văn học dân tộc. Đối với người VN, tên tuổi của
Hồ Xuân Hương quen thuộc không kém bất cứ một nhà thơ nào. Đáng tiếc là về cuộc đời của nữ sĩ, chúng ta
được biết quá ít. Tiểu sử của Hồ Xuân Hương đến nay vẫn còn nhiều điểm gây tranh cãi. Thậm chí có một vài
ý kiến còn cho rằng những bài thơ được xem là của Hồ Xuân Hương hiện nay do nhiều người sáng tác, nghĩa
là không có ai thực sự là Hồ Xuân Hương. Dựa vào một số tài liệu lưu truyền, những bài thơ được khẳng định
là của Hồ Xuân Hương, các nhà nghiên cứu đã tạm thừa nhận một số kết luận bước đầu về tiểu sử của nữ sĩ:
- "Bà Chúa thơ Nôm" là con của cụ Hồ Phi Diễn (1706-1783), quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu,
tỉnh Nghệ An và một người thiếp quê ở Hải Dương. Năm sinh, năm mất, thân thế, cuộc đời, và thơ văn của bà
đến nay vẫn còn vướng mắc nhiều nghi vấn. Ta chỉ biết bà sống vào thời Lê mạt Nguyễn sơ, người cùng thời
với Nguyễn Du (1765-1820), Phạm Đình Hổ (tức Chiêu Hổ, 1768-1839). (theo thống kê của nhiều tài liệu)
- Bà xuất thân trong một gia đình nhà nho phong kiến song hoàn cảnh cuộc sống đã giúp nữ sĩ có điều kiện
sống gần gũi với quần chúng lao động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhiều với những người phụ nữ bị áp bức
trong xã hội. Bà là một phụ nữ thông minh, có học nhưng học hành cũng không được nhiều lắm, bà giao du
rộng rãi với bạn bè, nhất là đối với những bạn bè ở làng thơ văn, các nhà nho. Nữ sĩ còn là người từng đi du
lãm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước.
- Hồ Xuân Hương là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân
Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có
hạnh phúc. (Nhưng theo tài liệu của GS Hoàng Xuân Hãn và ông Lê Xuân Giáo thì nữ sĩ có tới ba đời chồng
chứ không phải hai: Tổng Cóc, Ông Phủ Vĩnh Tường, và cuối cùng là quan Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần
Phúc Hiến). Có thể thấy Hồ Xuân Hương không phải là một phụ nữ bình thường của thời phong kiến mà bà
đã có một cuộc sống đầy sóng gió.
2. Sự nghiệp sáng tác
- Hồ Xuân Hương là nhà thơ Nôm nổi tiếng sống vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Bà đã để lại nhiều
bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục và được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Hồ Xuân
Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam, “là nhà thơ độc đáo có một
không hai trong lịch sử văn học dân tộc”. Các tác phẩm của bà đã bị mất nhiều, đến nay còn lưu truyền chủ
yếu là những bài thơ chữ Nôm truyền miệng.
- Năm 1962, ông Trần Văn Giáp đã công bố 5 bài thơ chữ Hán của HXHương trên báo Văn nghệ viết về
vịnh Hạ Long. Đến năm 1983, GS Hoàng Xuân Hãn đã dịch và đặt tên cho 5 bài thơ này (bao gồm: Độ Hoa
Phong, Hải ốc trù, Nhãn phóng thanh, Trạo ca thanh, Thuỷ vân hương) và công bố trg bài Hồ Xuân Hương
với vịnh Hạ Long, đăng trên tập san Khoa học xã hội, tại Paris vào năm 1984.
- Năm 1964, nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại phát hiện một tập thơ nữa tên là Lưu Hương ký và công bố
trên tạp chí văn học, những nghiên cứu đến nay nhiều người tán thành rằng những bài thơ trong đó là của Hồ
Xuân Hương. Lưu Hương kí là tập thơ có nội dung tình yêu gia đình, đất nước, nó không thể hiện rõ cá tính
mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương, cho nên, việc nghiên cứu giá trị thơ Hồ Xuân Hương chủ yếu được thực hiện
trên những bài thơ Nôm truyền tụng của bà.
- Cách tả cảnh, tả tình, cách dùng từ... trong thơ Nôm của bà có một không hai, vô cùng sống động và đặc
sắc. Xuân Diệu đánh giá thơ Hồ Xuân Hương là "tót vời của nguồn thơ nôm na bình dân".
- Xuân Hương là một nữ sĩ có thiên tài và giàu tình cảm, nhưng “vì số phận hẩm hiu, thân thế long đong,
nên trong thơ của bà hoặc có ý lẳng lơ, hoặc có giọng mỉa mai, nhưng bài nào cũng chứa chan tình tự”. Thơ
Xuân Hương cũng rắc rối, phức tạp như chính cuộc đời bà. Số bài thơ còn lại cho đến nay chủ yếu nhờ vào sự
lưu truyền, bảo vệ của nhân dân nên có nhiều dị bản. Số thơ Nôm lâu nay được coi là của nữ sĩ khoảng năm
mươi bài. Ðây là tập thơ Nôm luật Ðường xuất sắc của nền văn học dân tộc (Tập thơ Xuân Hương thi tập)
Ngoài tập thơ này còn có tập thơ Lưu Hương ký mang bút danh của nữ sĩ do ông Trần Thanh Mại phát hiện
vào năm 1964 gồm 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ Nôm. Với một nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ viết về
tâm sự và những mối tình của mình với những người bạn trai.
1
- Ðọc kĩ người ta thấy có một khoảng cách khá xa giữa tập thơ Nôm của Xuân Hương và Lưu Hương ký,
chủ yếu là về phong cách biểu hiện. Trong Lưu Hương ký có cả thơ chữ Hán lẫn thơ chữ Nôm. Riêng phần
thơ chữ Nôm trongLưu Hương ký nếu so sánh với thơ lâu nay được coi là của Xuân Hương thì hai bên vẫn có
sự khác nhau. Thơ chữ Nôm trong Lưu Hưong ký có rất nhiều từ Hán Việt, giọng thơ lại hiền lành chứ không
góc cạnh, gân guốc như ở Xuân Hương thi tập. Vì lí do trên, để bảo đảm tính khoa học, các nhà nghiên cứu
chủ yếu chỉ dừng lại ở tập thơ Nôm còn Lưu Hương ký được coi là một tập thơ để tham khảo.
II. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG
1. Hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại nói chung
a. Khái niệm hình tượng và hình tượng trong văn học
“Hình tượng là sự phản ánh hiện thực một cách khái quát bằng nghệ thuật dưới hình thức những hiện tượng
cụ thể, sinh động, điển hình, nhận thức trực tiếp bằng cảm tính”. Hình tượng văn học trong các tác phẩm luôn
là phương tiện hình thức để nhà văn bộc lộ giá trị tư tưởng và phong cách nghệ thuật của mình . Mỗi nhà văn
khi cầm bút phải không ngừng sáng tạo tìm tòi để xây dựng hình tượng nhân vật tiêu biểu đặc sắc. Không
phải tác phẩm văn học nào cũng có hình tượng văn học. Không phải nhân vật nào trong tác phẩm văn học đều
trở thành hình tượng nhân vật văn học. Để trở thành hình tượng văn học điều kiện tiên quyết là phải có tính
điển hình. Trong văn học, hình tượng nhân vật phải là: nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Nghĩa là
nhân vật văn học ấy phải có sức tập trung khái quát cao. Nhân vật ấy phải có những nét chung nhất của tầng
lớp, giai cấp... mà mình đại diện. Và bối cảnh xã hội mà nhân vật ấy xuất hiện phải là bối cảnh điển hình của
một vùng, một nơi vào một thời điểm lịch sử nhất định. Như vậy: hình tượng nhân vật trong văn học là nhân
vật điển hình trong tác phẩm văn học, mang đậm nét khái quát của tầng lớp, giai cấp của nhân vật ấy, đồng
thời là nhân vật có những nét riêng đặc biệt, xuất hiện trong bối cảnh điển hình mà t/phẩm v/học ấy thể hiện.
b. Hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại
- Trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, ở nước ta do điều kiện xã hội đặc biệt của nó
mà trong văn học dân tộc ta hình thành một trào lưu nhân đạo chủ nghĩa. Trong trào lưu văn học này, lần đầu
tiên hình ảnh người phụ nữ được đề cập đến một cách phổ biến trong nhiều tác phẩm của nhiều tác giả: Đặng
Trần Côn có người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm; Nguyễn Gia Thiều có người cung nữ trong Cung oán
ngâm khúc; Nguyễn Du có Thúy Kiều trong Truyện Kiều; trong những truyện Nôm của những nhà thơ khác
như Hoa Tiên, Sơ kính tân trang…cũng có những cô gái như Dao Tiên, Quỳnh Thư…Nhưng điểm lại những
nhân vật phụ nữ trong giai đoạn này, hầu như tất cả đều xuất thân từ tầng lớp quý phái, ngay cả Thúy Kiều
của Nguyễn Du cũng được nhà thơ giới thiệu là: “Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung”(truyện Kiều).
- Trong dòng chảy quan niệm Việt Nam, người phụ nữ đẹp trong văn học trung đại cũng hiện diện trong
một vẻ đẹp toàn diện cả bên trong lẫn bên ngoài. Đó là một sự kết hợp hài hoà giữa sắc – tài – tâm, giữa nhan
sắc và đức hạnh với “tam tòng, tứ đức”. Như vậy, ngay trong cái nền chung trong quan niệm về người phụ nữ
đẹp của người Việt đã có một sự “dị biệt” qua từng thời kì văn học. Đó là vì quan niệm thẩm mỹ vốn là một
phạm trù “phụ thuộc vào chủ thể thẩm mỹ” (Chủ nghĩa Mác – Lênin). Cho nên, mỗi một thời đại, tuỳ vào
hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà có những quan niệm khác nhau. Thời trung đại, với sự tiếp biến văn hoá đặc biệt
là văn hoá Trung Hoa, tư tưởng của Khổng giáo, Đạo giáo và Phật giáo đã chi phối đến quan niệm thẩm mỹ
của thời đại. Người phụ nữ có đức hạnh theo quan niệm của Nho gia (lễ giáo phong kiến) là người phải hội tụ
đủ “tam tòng, tứ đức” (Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử; và công, dung, ngôn, hạnh).
- Tuỳ theo cái nhìn chủ quan của tác giả mà vẻ đẹp mỗi nhân vật nữ lại được biểu hiện không giống nhau.
Đó là nàng Kiều (Truyện Kiều), người được xem là người đàn bà đẹp nhất trong văn học Việt Nam. Nếu đặt
Kiều vào trong lễ giáo phong kiến thì Kiều không phải là người phụ nữ đức hạnh, nhưng không vì thế mà dân
tộc ta phủ nhận vẻ đẹp của Kiều từ ngoại hình đến tài năng, tâm hồn, tính cách. Như vậy, Kiều đẹp còn bởi
tấm lòng nhân hậu, bao dung vốn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta mà Nguyễn Du đã kế thừa. Nguyễn
Đình Chiểu thì đưa ra một quan niệm về nguời phụ nữ lý tưởng theo quan niệm của lễ giáo phong kiến: “Gái
thời tiết hạnh làm câu trau mình”(Lục Vân Tiên). Những người phụ nữ trong Chinh phụ ngâm hay Cung oán
ngâm cũng là những đại diện tiêu biểu cho quan niệm về người phụ nữ đẹp trong thời đại họ. Nhưng với Hồ
Xuân Hương, người phụ nữ “nổi loạn” của thời đại, thì bà lại có cái nhìn mới về vẻ đẹp người phụ nữ, đứng ở
vị trí là người phát ngôn cho vẻ đẹp của giới mình. Xuân Hương là người đầu tiên và có thể là duy nhất đưa
vào văn học giai đoạn này không phải là cô gái quý tộc mà đích thực là những cô gái bình dân. Bà tìm thấy
vẻ đẹp thực sự của họ, nêu bật vẻ đẹp bên trong, vẻ đẹp tâm hồn của họ (Bánh trôi nước, Con ốc nhồi, Quả
mít); ca ngợi tuổi trẻ tươi mát, trắng trong các cô gái đang xoan (Đề tranh tố nữ); đi vào đến từng chi tiết của
vẻ đẹp cơ thể (Thiếu nữ ngủ ngày)…
2
- Tuy nhiên, trong q/niệm của d/tộc ta th/kì này thì người phụ nữ đẹp thường gắn liền với số phận bất hạnh.
Điểm lại gương mặt n/vật nữ th/kì này, ta thấy 1 điểm chung ở họ là có 1 c/đời đầy sóng gió, bẽ bàng, không
mấy người có được hạnh phúc thật sự. Đặc điểm này phải chăng là do quan niệm “hồng nhan bạc mệnh”.
2. Hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
2.1. Người phụ nữ với số phận nhỏ bé, bất hạnh
- Thân phận của những người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương thường nhỏ bé, cuộc đời của họ long đong
lận đận. Họ phải sống trong một chế độ xã hội phong kiến lạc hậu, trọng nam khinh nữ, người phụ nữ không
có chỗ đứng và địa vị trong xã hội. Vì vậy, những người phụ nữ có tài như Hồ Xuân Hương thường không
được coi trọng, đồng thời việc làm của một người vợ thường ít được người chồng cảm thông, dù cho quanh
năm lam lũ vất vả nuôi chồng nuôi con chăm sóc cho gia đình luôn được yên ấm. Họ là những người phụ nữ
có tài có sắc nhưng cuộc đời lận đận, số phận bi đát, bé nhỏ trong xã hội: Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi, ba chìm với nước non (Bánh trôi nước)
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non (Tự tình II)
- Trong giai đoạn này, ta cũng bắt gặp những bài thơ nói về số phận hẩm hiu của người phụ nữ. Họ là những
người như bà Tú trong Thươngvợ của Tú Xương kiếm sống vất vả, cơ cực, luôn phải đối diện với nỗi hiểm
nguy: Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
- Và của những số kiếp nổi nênh: Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh (Chiếc bách)
- Trong chế độ phong kiến suy tàn ở Á Đông hàng mấy nghìn năm con người rất đau khổ, nhưng khổ nhất là
người đàn bà. Không phải vô cớ mà Nguyễn Du đã nấc lên thay cho người phụ nữ trong Văn chiêu hồn:
Đau đớn thay phận đàn bà!
Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu?
- Trong Truyện Kiều Nguyễn Du một lần nữa lại xót xa: Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
- Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm cũng có nói đến cái khổ của người chinh phụ. Trong thơ Xuân Hương,
bà không chỉ than cho người đàn bà dưới chế độ phong kiến mà còn nói lên nỗi đau của bản thân mình. Xuân
Hương đã nói một cách trần trụi nhất, với cái mạnh mẽ của sự phản kháng và gắn chặt đời mình cùng với số
phận của những người phụ nữ nói chung trong xã hội cũ: Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
- Ở xã hội xưa, trai năm thê bảy thiếp là thường, còn người phụ nữ không cho phép được như vậy. Họ đâu
có quyền làm chủ đời mình, trong ca dao ta cũng bắt gặp rất nhiều câu ca nói về số phận hẩm hiu của người
phụ nữa: Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
hay: Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
- Người phụ nữ trong thơ Xuân Hương nói riêng và trong xã hội phong kiến nói chung đều là những con
người với số phận bi đát. Càng đọc, ta càng hiểu thêm bối cảnh xã hội nước ta lúc bấy giờ và càng trân trọng
họ. Họ là những đóa hoa sen thơm mát, tỏa hương cho đời, "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
- Từ đây ta càng cảm thông sâu sắc cho số phận người phụ nữ Việt Nam xưa, phải chịu nhiều khổ cực, tủi
nhục, hiu quạnh, tình duyên hẩm hiu, trắc trở.
2.2. Người phụ nữ với nỗi đau trong đường tình duyên
- Do sống trong xã hội phong kiến - một xã hội coi thường phụ nữ và luôn bị lễ giáo trói buộc, không được
hoạt động xã hội, không được học hành thi cử, chịu nhiều thiệt thòi cả ngoài xã hội cũng như trong gia đình.
Chính vì vậy, người phụ nữ không chỉ chịu thiệt thòi, bất hạnh trong cuộc sống mà còn đau khổ trong đường
tình duyên. Có lẽ phải chịu nhiều lận đận trong đường tình duyên, hai lần làm lẽ nhưng cả hai lần đều ngắn
ngủi nên Hồ Xuân Hương rất hiểu và đồng cảm với phận của những người phụ nữ không may mắn trong
đường tình duyên. Đó là nỗi khổ của người phụ nữ làm lẽ, người phụ nữ không chồng mà chửa, người phụ nữ
chết chồng…Điều đáng nói ở đây là bà dám lên tiếng tố cáo gay gắt, quyết liệt xã hội phong kiến thối nát,
mục ruỗng mà không ai dám lên tiếng. HXHương khắc họa thân phận khổ nhục của người làm lẽ, năm thì
mười họa mới đc gần chồng. Họ là thứ làm mướn ko công và để thỏa ham muốn nhục dục của bọn nhà giàu.
Nhà thơ vạch trần b/chất xấu xa của chế độ đa thê PK: Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
3
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
Năm thì mười họa hay chăng chớ,
Một tháng đôi lần có cũng không,
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công. (Làm lẽ)
- Nhà thơ nói về thân phận của người phụ nữ làm lẽ nhưng đồng thời đó cũng là cảnh ngộ của bản thân
bà. Ai cũng biết trong cuộc đời cũ, đau khổ chẳng phải là phần riêng dành cho ai, nhưng những người chịu
đựng nhiều hơn cả vẫn là phụ nữ và nỗi đau của họ bao giờ cũng có khía cạnh chua xót, tái tê riêng.
- Hồ Xuân Hương là nhà thơ của phụ nữ, bà thấu hiểu tất cả những nỗi đau đó bằng kinh nghiệm của cuộc
đời chung và cuộc đời riêng chẳng ra gì của mình; và bằng tiếng thơ, muốn nói lên những tiếng nói chia sẻ với
họ. Vì vậy, thơ Xuân Hương luôn là tiếng kêu xé lòng của những người con gái nhẹ dạ.Trong bài Không
chồng mà chửa, nhà thơ lại viết về một cảnh ngộ của một người phụ nữ, cảnh ngộ những cô gái không may có
may có mang với người yêu của mình nhưng không được xã hội chấp nhận. Cả nể cho nên hóa dở dang,
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng…
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,
Phận liễu sao đà nảy nét ngang.
Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?
Mảnh tình một khối thiếp xin mang.
Quản bao miệng thế lời chênh lệch
Không có, nhưng mà có mới ngoan
- Trong bài thơ này Hồ Xuân Hương đã nhấn mạnh cái nghĩa, cái trách nhiệm mà người đàn ông nào đó vô
tâm trước hậu quả để lại cho người phụ nữ và tác giả đã đứng về phía cô gái mà dùng một ý của câu ca dao:
Không chồng mà chửa mới ngoan
Có chồng mà chửa thế gian sự thường
- Không chỉ cảm thông với thân phận của người làm lẽ, người phụ nữ không chồng mà chửa mà Hồ Xuân
Hương còn muốn an ủi những người phụ nữ mất chồng, muốn dịu dàng với họ, để cho họ khuây khỏa nỗi đau
và dìu họ trở lại với cuộc sống bình thường: Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng
Nín đi kẻo thẹn với non sông (Dỗ người đàn bà khóc chồng)
- Lúc thì đùa nghịch nhưng rất thân tình: Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì
Thương chồng nên mới khóc tì ti… (Bỡn bà lang khóc chồng)
- Trong văn học phong kiến của ta hiếm có nhà thơ nào độc đáo mà nhân tình đến thế. Có thể nói từ sự ý
thức sâu sắc về giá trị của người phụ nữ và cảnh ngộ ngang trái của họ trong xã hội phong kiến, Hồ Xuân
Hương đã trở thành một nhà thơ chống đối phong kiến quyết liệt, một con người đả kích gay gắt những kẻ đại
diện cho giai cấp phong kiến thống trị cùng những gì chà đạp con người.
Ở bài Tự tình II, tác giả lại viết: Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con
Sự sống của đất trời cứ vận hành như muôn thuở vậy, còn riêng mình thì vẫn cứ bất hạnh, hẩm hiu trong
số phận, trong tình duyên, tình duyên đã ít lại còn phải chia ba sẻ bảy nữa.
- Ðọc thơ bà, người đọc có cảm giác người phụ nữ trong thơ Xuân Hương gần như chưa một lần nhận diện
được hạnh phúc.
2.3. Người phụ nữ phê phán, đả kích giai cấp phong kiến thống trị
- Trong văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, Hồ Xuân Hương là một nhà thơ
nhân đạo chủ nghĩa, bởi vì thơ bà trước hết là tiếng nói tâm tình của phụ nữ. Không phải người phụ nữ lầu son
gác tía, chinh phụ hay cung tần, mà là người phụ nữ bình thường, người phụ nữ lao động có nhiều bất hạnh
trong cuộc sống. “Có thể nói, ngoài văn học dân gian, Hồ Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn
học dân tộc đã đem đến cho thơ văn tiếng nói của những người phụ nữ ấy: những tiếng than và những tiếng
thét, những tiếng căm hờn và những tiếng châm biếm sâu cay”. Bởi trong xã hội lúc bấy giờ, phụ nữ là người
chịu nhiều thiệt thòi nhất. Họ không chỉ bị áp bức về mặt giai cấp mà trong tư cách là người phụ nữ nói
chung, họ còn bị áp bức về mặt giới tính với đạo “tam tòng”. Tất nhiên, họ cũng không lặng câm mà chịu đau
khổ, họ vẫn nói, vẫn kêu, vẫn đòi hỏi. Nhưng nhìn chung, tiếng nói ấy chỉ là nững tiếng kêu thương thất vọng.
“Đại diện cho giới phụ nữ, Hồ Xuân Hương đã nói bằng thứ ngôn ngữ riêng của mình, kết hợp nhuần nhuyễn
với tiếng nói của nhân dân lao động. Tiếng nói đã kích, tố cáo được nữ sĩ sử dụng thông qua công cụ cố hữu
của truyền thống văn học dân tộc, cũng như phổ biến trên thế giới: tiếng cười châm biếm”. Mặc dù bị trói
4
buộc trong những q/niệm, p/tục cổ hủ và lạc hậu... nhưng trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn đẹp, vẫn sáng, vẫn
luôn vùng lên để đòi bình quyền để muốn nói rằng: họ là nữ nhi nhưng vai trò của họ trong xã hội là rất lớn.
- Đến giai đoạn này, có người đã chống lại vua khi vua không ra vua nữa. Riêng Hồ Xuân Hương với thân
phận nữ nhi, chắc bà không có ý định chống vua, mà chỉ mắng nhẹ mà đau vô kể:
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy
Chúa dấu yêu vua một cái này
- Nếu đối với chúa, Hồ Xuân Hương châm chích thói mê hoa, hiếu sắc thì với bọn quan thị, nữ sĩ đã giơ cao
đánh thẳng vào cuộc sống trái lẽ tự nhiên của chúng. Đứng trước cái dị hợm, quái gở ấy, bà văng tục, bà chửi
đổng, cười mỉa: Đố ai biết đó vông hay chốc
Còn kẻ nào hay cuống với đầu
- Hồ Xuân Hương châm biếm, đã kích từ vua đến quan, nhưng có lẽ chịu nhiều nhất là bọn “hiền nhân quân
tử”, bọn mô phạm phong kiến. Đối với “quân tử”, Xuân Hương không chỉ chôn chân chúng trước bức tranh
thiếu nữ ngủ ngày, mà còn bắt chúng “mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo” lên đèo Ba Dội.
- Bên cạnh những "hiền nhân quân tử" là đám nho sĩ dốt nát lại còn huênh hoang. Xuân Hương gọi chúng là
“phường lòi tói”, là “lũ ngẩn ngơ”, xưng chị và đòi dạy chúng làm thơ: Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ
- Sự dâm đãng không chỉ lén lút phía hậu hiên, mà còn công khai trước bàn thờ phật:
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm
Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà.
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.
- Không những thế, hàng ngũ đại diện cho Nho giáo bà cũng không bỏ qua:
Khen thay con tạo khéo khôn phàm (Hang Thánh Hóa)
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc (hang Cắc Cớ)
- Qua thơ Xuân Hương ta thấy cả một XHPK thời bà bị chế giễu, đả kích. Bà dùng tiếng cười, thông qua
yếu tố tục, xoáy vào đời sống bản năng của giai cấp thống trị để từ đó đả kích, tố cáo thói đạo đức giả của
chúng. Nhưng thơ Xuân Hương đâu chỉ biết cười, mà đọc thơ bà ta nghe như có tiếng nấc bên trong. Tôi
muốn lấy ý kiến của nhà thơ Xuân Diệu thay cho lời kết của mình: “những nhà trào phúng vĩ đại không nhe
răng ra mà cười, không chửi bằng cả lời nói, họ ném trái tim của họ, ném cả cuộc đời của họ vào cuộc đời,
cũng như những nhà trữ tình vĩ đại. Trong xã hội cũ, thơ của họ thực chất là máu và nước mắt mặc cái áo
trào phúng đó thôi”.
2.4. Vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
- Viết về người phụ nữ, Hồ Xuân Hương có những bài thơ bày tỏ niềm kiêu hãnh của mình về vẻ đẹp hình
thức, vẻ đẹp tâm hồn và vẻ đẹp của tài năng, trí tuệ của người phụ nữ.
a. Vẻ đẹp hình thức.
- Người phụ nữ trong văn học giai đoạn này xuất hiện không còn cái khép nép trong cái mô thức “tại gia
tòng phụ, phu tử tòng phu” hay “công, dung, ngôn, hạnh”. Trong cuộc tao ngộ các giai nhân của văn học giai
đoạn này, người ta thấy thường là những cô gái trẻ đẹp, thanh lịch, với nụ cười trên môi và chan chúa tình yêu
đời, yêu người trong lòng. Hồ Xuân Hương sáng tác trong bối cảnh ấy, với tính cách và cảnh ngộ riêng của
mình, nhà thơ viết rất nhiều về phụ nữ, nữ thi sĩ xứng đáng là nhà thơ của phụ nữ. Điều này càng được làm rõ
hơn qua bài thơ “Đề tranh tố nữ”: Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình
Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Đôi lứa như in tờ giấy trắng.
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.
Xiếu mai chi dám tình trăng gió,
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh,
Còn thú vui kia sao chẳng vẽ,
Trách người thợ vẽ khéo vô tình
- Trong văn học ta có lời thơ nào ca ngợi các cô gái và tuổi trẻ của các cô gái đẹp hơn thế nữa. Nhưng độc
đáo hơn cả là bài thơ “Thiếu nữ ngủ ngày” của nhà thơ. Đây là một bài không phải ca ngợi vẻ đẹp của phụ nữ
nói chung, hay ca ngợi tuổi trẻ, mà ca ngợi vẻ đẹp trên cơ thể của một cô gái trẻ tuổi. Văn học giai đoạn này,
ta bắt gặp nhiều tác giả miêu tả vẻ đẹp của giai nhân như Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân, Thúy
Kiều. Hay trong tác phẩm Hoa tiên tác giả cũng miêu tả vẻ đẹp của Dao Tiên, hay trong Truyện Tây
5
sương miêu tả vẻ đẹp của Thôi Oanh Oanh…Đó là cái vẻ đẹp trên khuôn mặt với đôi mắt và nụ vười, cái đẹp
của đôi mắt và làn da….cách miêu tả của các nhà thơ nói chung là ước lệ tượng trưng. Riêng với Hồ Xuân
Hương thì công khai ca ngợi và khẳng định vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ. Cách miêu tả của Xuân Hương
thuộc vào loại độc đáo nhất của thời đại. Bà chú ý đến những bộ phận thân thể thường được giấu kín của con
người. Những bộ phận đó văn học thời đại thường né tránh. Riêng Hồ Xuân Hương lại nhìn thấy đó chính là
một trong những biểu hiện của vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ. Cách miêu tả của bà cụ thể, không chung
chung, mờ nhạt: Lược trúc chải dài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Ðôi gò bồng đảo sương còn ngậm
Một lạch đào nguyên suối chửa thông (Thiếu nữ ngủ ngày)
- Đây là sự trinh trắng ngây thơ, là sự hồn nhiên trọn vẹn. Cách miêu tả của nhà thơ không có một chút bỡn
cợt, trái lại thể hiện một thái độ hết sức nâng niu, trân trọng. Trong thời buổi suy tàn của xã hội phong kiến,
con người bị chà đạp, bị giày xéo, nhiều giá trị bị đảo lộn, bị nghi ngờ, nhà thơ giữ cho mình nguyên vẹn cặp
mắt trong veo để nhìn người, nhìn đời, để thấy hết mọi giá trị đẹp của con người. Cũng vì thế mà thơ Xuân
Hương có giá trị nhân đạo sâu sắc.
b. Vẻ đẹp tâm hồn.
- Trong xã hội cũ, có ai dám như Xuân Hương đứng ra bênh vực cho những người con gái dở dang ấy, có ai
dám ngang nhiên thừa nhận những quy tắc đi ngược lại khuôn mẫu của lễ giáo phong kiến như bà. Những
điều đó chỉ có ở bản lĩnh, một trái tim tha thiết, nồng ấm sự cảm thông của một tâm hồn nghệ sĩ.
- Từ những tiếng nói cảm thông ấy, Xuân Hương còn lên tiếng đề cao ca ngợi họ, tìm thấy vẻ đẹp thực sự
chân chính ở họ. Trong một loạt hình tượng nói về số phận bấp bênh, hẩm hiu của người phụ nữ như “chiếc
bánh trôi” “bảy nổi ba chìm”; hay quả mít “vỏ nó xù xì”; con ốc nhồi “đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi”... nhà
thơ luôn chú trọng nêu bật cái đẹp bên trong, cái đẹp tâm hồn của họ. Quả mít tuy “vỏ nó xù xì” nhưng “múi
nó dày”. Trong bài Bánh trôi nước, nhà thơ đã ca ngợi, đề cao, trân trọng phẩm chất kiên trinh của người phụ
nữ. Dù sống trong hoàn cảnh nào họ cũng giữ được tấm lòng son sắt: Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son (Bánh trôi nước)
Mặc dù số phận người phụ nữ không được định đoạt, lênh đênh giữa cuộc đời nhưng họ không cam chịu, họ
vẫn giữ sự thủy chung, son sắt, bất biến với tình yêu. Một lời nói thể hiện niềm tự hào về phẩm chất thủy
chung của người phụ nữ.
- Trong bài thơ Ðề tranh tố nữ, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp bất diệt của tuổi xuân, sự trinh trắng, ngồn ngộn
sức sống của những cô gái đang xoan: Ðôi lứa như in tờ giấy trắng
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh
- Bài Mời trầu lại là cái nhìn về vẻ đẹp của khát vọng sống. Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Ðừng xanh như lá, bạc như vôi.
- Giống như bao cô gái khác, Xuân Hương cũng khao khát có một tình yêu bền chặt, nồng cháy. Nàng cũng
muốn mở lòng mình ra để đón lấy tình yêu nồng thắm từ người bạn đời tri âm tri kỉ, đón những hương sắc của
cuộc đời. Xuân Hương hồi hộp chờ đợi. Nhưng rồi năm tháng trôi qua, những mùa xuân đi không trở lại, nhà
thơ dần dần nhận ra cái bạc bẽo của con người và cuộc đời, cái hẩm hiu của số phận. “Câu thơ nhân hậu của
hờn dỗi, duyên dáng mà có cái gì như đanh đá, thách thức”
c. Vẻ đẹp của tài năng, trí tuệ
- Trong các nhà thơ phụ nữ ở nước ta, Hồ Xuân Hương và thơ ca của bà là một hiện tượng khá đặc biệt
được rất nhiều người đàm luận từ xưa đến nay. Tục truyền hồi Xuân Hương còn đi học; một hôm gặp phải
trời mưa, đến sân nhà trường, đất trơn, cô nữ sinh trượt chân ngã oạch một ái, các bạn học thấy thế đều cười
ầm lên. Nhưng Xuân Hương đã đứng ngay dậy, ung dung đọc hai câu thơ rằng: Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài
rồi bình thản đi vào. Mấy chàng trai thấy thế cũng phục tài.
- Lại có chuyện, một hôm Xuân Hương đi thăm chùa Trấn Quốc về, nàng đang lững thững trên bờ Hồ Tây,
bỗng thấy có mấy thầy khóa bước rảo lên theo sát ở đằng sau rồi trêu ghẹo nàng, có người lại mang cả văn
chương chữ nghĩa ra nữa, nàng đọc cho một bài thơ rằng: Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ

6
- Có thể nói rằng, trong cái xã hội phong kiến “trọng nam khinh nữ”như vậy, Xuân Hương vẫn dám khẳng
định tài năng, trí tuệ hơn người của mình.
- Hay trong bài Ðề đền Sầm Nghi Ðống, tác giả đã thể hiện được sự tự ý thức về mình, thể hiện được tài
năng của người phụ nữ. Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được.
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.
- Ði qua ngôi đền thờ tên tướng bại trận, nhà thơ phụ nữ này đã không chịu cất nón, cúi đầu chào kính cẩn,
trái lại còn buông lời chê cười, mỉa mai: ghé mắt tức là nhìn liếc, nhìn bằng nửa con mắt. Ðặc biệt ở hai câu
kết nhà thơ đã dám nói một điều táo bạo: Nếu được làm trai thì sự nghiệp anh hùng của ta sẽ không xoàng,
không tồi tệ như sự anh hùng của nhà ngươi đâu.
- Qua đây, ta cũng hiểu thêm ít nhiều về ng phụ nữ xưa, không chỉ đẹp về hình thể mà họ còn là những con
người có đầy tài năng.
III. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG
- Với ngôn ngữ dân gian, với bản lĩnh của một người khát khao được sống và sống mãnh liệt, với cặp mắt
quan sát sắc sảo và biết chọn lọc cái gì cần thiết…. Xuân Hương có một nghệ thuật xây dựng hình tượng độc
đáo, không lẫn với ai, tạo cho mình một phong cách riêng. Ngôn ngữ thơ bà được lựa chọn trong kho tàng
ngôn ngữ của văn học dân gian. Trong kiến trúc câu thơ, yếu tố ca dao, tục ngữ được bà đặt rất đúng chỗ nên
rất tự nhiên và nó có sức mạnh riêng của nó. Tác giả dùng những vần khó gieo, thi pháp trung đại gọi là tử
vận-vần chết, khó họa lại nhưng khi sử dụng thành công lại có giá trị độc đáo. Chẳng hạn vần ênh trong
bài Tự tình số III, vần này đã gợi cảm giác bất định, mong manh về số phận của người phụ nữ trong xã hội
phong kiến.
- Thơ Ðường luật vốn đc dùng trg thi cử, niêm luật chặt chẽ, hình thức đường bệ, nội dung cũng đường bệ.
HXHương đã đem đến cho thể thơ này 1 nội dung rất thông tục “hình ảnh trong thơ thì sinh động, góc cạnh,
luôn chuyển động chứ không chết dí một chỗ”

MỘT SỐ ĐỀ VỀ BÀI “TỰ TÌNH”


Đề 1: Đọc hiểu (3,0 điểm) Đọc bài thơ sau và trả lời các câu hỏi từ 1 đến 4:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
(Tự tình II, Hồ Xuân Hương, Ngữ văn 11, tập 1, NXBGDVN 2010, tr.18).
1. Bài thơ trên được viết theo thể thơ nào?
2. Xác định các từ Hán Việt trong bài thơ.
3. Xác định biện pháp tu từ cú pháp được sử dụng trong 2 câu đầu của bài thơ? Nêu hiệu quả nghệ thuật của
biện pháp tu từ đó.
4. Từ xuân trong hai câu thơ Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại có nghĩa là gì?
Phần Làm văn Nghị luận xã hội (2,0 điểm): Từ nội dung bài thơ Tự tình, anh chị hãy viết 01 đoạn văn
(khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ước mơ hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam.
Đáp án:
Đề đọc hiểu (3,0 điểm)
Câu 1. Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú đường luật/ tám câu bảy chữ đường luật/ thất ngôn bát cú.
Câu 2. Từ Hán Việt là hồng nhan.
Câu 3. Biện pháp tu từ đảo ngữ (trơ cái hồng nhan…). HS không nêu rõ dẫn chứng cho 0,25 đ.
Ý nghĩa: thái độ buồn, chán và bực dọc của nhân vật trữ tình.
Câu 4. Từ xuân hiểu theo 2 nghĩa: từ (xuân lại lại): mùa xuân của trời đất; từ (xuân đi) chỉ tuổi xuân, tuổi trẻ
của người con gái.
Phần Làm văn Nghị luận xã hội (2,0 điểm)
7
* Yêu cầu chung: Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng về đoạn văn nghị luận xã hội để viết
đoạn khoảng 200 chữ, tương đương 2/3 trang giấy thi. Đoạn văn viết có cảm xúc; diễn đạt dễ hiểu, bảo đảm
tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
* Yêu cầu cụ thể:
a) Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận (0,5 điểm): – Điểm 0,5 điểm: Đoạn văn đầy đủ phần Mở đoạn,
Thân đoạn, Kết đoạn. Câu Mở đoạn nêu được đúng chủ đề; phần Thân đoạn, các câu văn liên kết chặt chẽ với
nhau cùng làm sáng tỏ vấn đề; câu Kết đoạnnêu được ý khái quát về vấn đề.
– Điểm 0,25: Viết được đoạn văn nhưng chưa đảm bảo mạch lạc, chính xác về bố cục ba phần.
– Điểm 0: Không biết viết đoạn văn hoặc quá ngắn, sơ sài vài câu.
b) Nêu đúng vấn đề: (1,25 điểm): Suy nghĩ về ước mơ hạnh phúc của người phụ nữ, yêu cầu thí sinh diễn đạt
cụ thể nội dung trả lời của câu hỏi 3, phần đọc hiểu.Thí sinh có thể viết theo cách trình bày đoạn văn khác
nhau nhưng cần làm rõ các gợi ý sau: được sống trong tình yêu, hạnh phúc trọn vẹn, được bình đẳng, được
yêu thương, được trân trọng và bảo vệ…
– Điểm 1,25 : Cơ bản đáp ứng được các nội dung; diễn đạt rõ ràng; liên kết câu chặt chẽ.
– Điểm 0,75: Đáp ứng 1/2 đến 2/3 các nội dung; diễn đạt, liên kết câu còn lúng túng.
– Điểm 0,25: Đáp ứng được 1/3 các nội dung trên; có thể còn lỗi câu và dùng từ, chính tả.
– Điểm 0: hiểu sai lạc nội dunghoặc không viết được đoạn văn.
c) Sáng tạo (0,25 điểm)
– Điểm 0,25: cách diễn đạt độc đáo và sáng tạo (viết câu, sử dụng từ ngữ, hình ảnh và các yếu tố biểu cảm,
…); thể hiện được cảm xúc chân thành và sâu sắc về nội dung.
– Điểm 0: cách diễn đạt lan man; mắc nhiều lỗi dùng từ, dựng câu; chữ viết cẩu thả hoặc sai chính tả nhiều.
Đề 2. Phân tích bài thơ “Tự tình” (II) của nữ sĩ Hồ Xuân Hương.
Đề 3. Phân tích vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật trữ tình trong bài thơ “Tự tình” (II) của nữ sĩ Hồ Xuân Hương.
Hướng dẫn luyện tập đề 2:
a) Tìm hiểu đề
- Dạng đề: Phân tích một bài thơ.
- Yêu cầu về nội dung: Làm rõ nội dung, nghệ thuật của bài thơ.
- Yêu cầu về thao tác: Phân tích là thao tác chính, cần kết hợp các thao tác khác như: chứng minh, bình luận,
so sánh…
- Yêu cầu về tư liệu: Tư liệu chính là những câu thơ trong bài thơ đã cho, tư liệu có liên quan để bổ sung
cho ý phân tích.
b) Lập dàn ý
* Mở bài: Giới thiệu tác giả Hồ Xuân Hương, dẫn vào bài thơ “Tự tình” (II). Nêu vấn đề: Bài thơ có giá trị
sâu sắc về nội dung và nghệ thuật, trích bài thơ.
* Thân bài:
- Khái quát: Nêu xuất xứ, thể loại, hoàn cảnh sáng tác, bố cục bài thơ, nội dung chính của bài thơ. Phân tích
nội dung, nghệ thuật bài thơ : Các ý chính cần phân tích
- Hai câu đề:
+ Câu 1: Khắc họa thời gian nghệ thuật : “đêm khuya”; từ láy “văng vẳng”; nghệ thuật lấy động tả tĩnh.
+ Câu 2: Đảo ngữ nhấn mạnh từ “trơ”; kết hợp từ độc đáo “cái hồng nhan”; đối lập cái cá nhân nhỏ bé với
cái rộng lớn (“cái hồng nhan” đối với “nước non”).
+ Làm rõ: Bối cảnh không gian, thời gian và tâm trạng cô đơn, buồn tủi, bẽ bàng về duyên phận của nhân
vật trữ tình.
- Hai câu thực:
+ Phân tích: Phép đối (câu 3 với câu 4); cụm từ “say lại tỉnh”; nghệ thuật tả cảnh ngụ tình (sự tương quan
giữa hình ảnh vầng trăng và thân phận nữ sĩ).
+ Làm rõ: Gợi lên hình ảnh người phụ nữ trong đêm khuya vắng lặng với bao xót xa, cay đắng, với nỗi
chán chường, đau đớn, ê chề.
- Hai câu luận:
+ Phân tích: Phép đối (câu 5 với câu 6); phép đảo; động từ mạnh (“xiên ngang”, “đâm toạc”); nghệ thuật tả
cảnh ngụ tình.
+ Làm rõ: cảnh thiên nhiên trong cảm nhận của người mang sẵn nỗi niềm phẫn uất và sự bộc lộ cá tính,
bản lĩnh không cam chịu, như muốn thách thức số phận của Hồ Xuân Hương.
8
- Hai câu kết:
+ Phân tích: Ngôn ngữ đời thường giản dị, tự nhiên; lặp từ; nghệ thuật tăng tiến.
+ Làm rõ: Tâm trạng chán chường, buồn tủi mà cháy bỏng khát vọng hạnh phúc – cũng là nỗi lòng của
người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.
- Nghệ thuật cả bài thơ: Sử dụng từ ngữ độc đáo, sắc nhọn; tả cảnh ngụ tình; phép đối, đảo; đưa ngôn ngữ
đời thường vào thơ.
* Kết bài: Kết luận về nội dung, nghệ thuật và nêu ý nghĩa bài thơ.
Bài văn mẫu
Hồ Xuân Hương là một trong những nhà thơ nữ tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam, được mệnh
danh là “bà chúa thơ nôm”. Bà là một “thiên tài kì nữ” nhưng cuộc đời đầy éo le, bất hạnh. Thơ Hồ Xuân
Hương là thơ của phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà vẫn rất trữ tình. Một trong những bài thơ tiêu biểu
viết về tâm trạng, nỗi niềm của người phụ nữ trước duyên phận, cuộc đời mình là “Tự tình” (II). Bài thơ có
giá trị sâu sắc về nội dung và nghệ thuật: (Ghi nguyên văn bài thơ)
“Tự tình” (II) là bài thơ thuộc chùm thơ “Tự tình” gồm ba bài của bà. Đây là chùm thơ nữ sĩ viết để tự kể
nỗi lòng, tâm tình của mình. Tác phẩm được viết bằng chữ Nôm, làm theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật
với bố cục bốn phần: đề, thực, luận, kết. Bài thơ thể hiện thái độ, tâm trạng vừa đau đớn, vừa phẫn uất trước
thực tại đau buồn, tuy vậy, bà vẫn gắng gượng vươn lên, nhưng rồi vẫn rơi vào bi kịch. Dựa vào nội dung bài
thơ, ta có thể đoán bài thơ được sáng tác khi bà đã gặp phải những éo le, bất hạnh trong tình duyên.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh người phụ nữ không ngủ, một mình ngồi giữa đêm khuya:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Giữa đêm khuya, người phụ nữ thao thức không ngủ được và nàng nghe âm thanh tiếng trống canh dồn dập.
“Đêm khuya” là thời gian của hạnh phúc lứa đôi, của sum họp gia đình, vậy mà ở đây, trớ trêu thay, người
phụ nữ lại đơn độc một mình. Nàng cô đơn quá nên thao thức không ngủ, nàng nghe âm thanh tiếng trống
canh “văng vẳng”. Từ láy này miêu tả âm thanh từ xa vọng lại. Với nghệ thuật lấy động tả tĩnh, người đọc
cảm nhận được không gian đêm khuya tĩnh lặng, im lìm và người phụ nữ thật cô đơn, tội nghiệp. Trong xã hội
xưa, tiếng trống canh là âm thanh dùng báo hiệu thời gian một canh giờ trôi qua. Nữ sĩ nghe âm thnah tiếng
trống canh “dồn” – tiếng trống dồn dập, khẩn trương – có lẽ là vì nàng đang ngồi đếm thời gian và lo lắng
thấy nó trôi qua một cách dồn dập, tàn nhẫn. Nó chẳng cần biết tuổi xuân của nàng sắp vuột mất mà nàng thì
vẫn đang phải “trơ cái hồng nhan” ra giữa “nước non”. Dường như, nỗi cô đơn, xót xa ấy luôn dày vò nữ sĩ
nên thời gian trở thành nỗi ám ảnh không nguôi trong tâm hồn bà. Trong chùm “Tự tình”, nỗi ám ảnh về thời
gian còn hiện hữu trong âm thanh “tiếng gà”. Người phụ nữ ấy cũng trằn trọc cho đến sáng để rồi nghe âm
thanh “tiếng gà văng vẳng gáy trên bom” mà đau đớn, mà oán hận. Ở đây, “hồng nhan” là nhan sắc của người
phụ nữ vẫn còn ở độ mặn mà, cái mà bất cứ ai cũng trân trọng. Thế mà, nó lại kết hợp với từ “cái”- một danh
từ chỉ loại thường gắn với những thứ vật chất nhỏ bé, tầm thường. Nàng tự thấy nhan sắc của mình quá nhỏ
bé, rẻ rúng bởi nó chẳng khác gì một thứ đồ ít giá trị, lại chẳng được ai đoái hoài đến. Nó phải “trơ” ra, phô
ra, bày ra một cách vô duyên, vô nghĩa lí giữa đất trời. Từ “trơ” đứng đầu câu cho ta cảm nhận được nỗi xót
xa, đau đớn, tủi hổ, bẽ bàng của người phụ nữ một mình giữa đêm khuya, không ai quan tâm, đoái hoài. Tuy
có bẽ bàng, tủi hổ nhưng ta vẫn thấy ẩn khuất trong câu thơ một nữ sĩ mạnh mẽ, cá tính dám đem cái tôi cá
nhân để đối lập với cả “nước non” rộng lớn. Hồ Xuân Hương là thế, không bao giờ chịu bé nhỏ, yếu mềm.
Hai câu đầu bằng cách khắc họa thời gian, không gian nghệ thuật và cách kết hợp từ độc đáo đã thể hiện rõ
nỗi cô đơn, đau đớn, tủi hổ bẽ bàng trước tình duyên hẩm hiu của chính mình.
Hai câu thực khắc họa sâu sắc sự phẫn uất trước tình cảnh éo le:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn”.
Giữa đêm khuya, cô đơn và buồn tủi, nàng tìm đến rượu để quên đi tất cả nhưng nào quên được “say lại
tỉnh”. Say, có thể quên đi được một chốc, nhưng đâu có thể say mãi, rồi sẽ lại “tỉnh” ra. Tỉnh ra lại càng ý
thức sâu sắc hơn nỗi cô đơn, xót xa, lại càng buồn hơn. Ẩn sau cái hành động tìm đến rượu để giải tỏa nỗi sầu
là cả niềm phẫn uất sâu sắc trước số phận bất hạnh. Cụm từ “say lại tỉnh” cho thấy cái bế tắc, quẩn quanh
trong nỗi buồn, cô đơn của người phụ nữ. nàng cô đơn nên tìm đến vầng trăng bên ngoài kia mong sự đồng
cảm. nàng thấy vầng trăng đã “xế” bóng “khuyết chưa tròn”. Nàng nhìn thấy số phận bất hạnh của mình trong
hình ảnh vầng trăng : nàng cũng đã ở tuổi “xế” chiều mà tình duyên vẫn hẩm hiu, lận đận, “chưa tròn”. Ở hai

9
câu này, bằng phép đối, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, nữ sĩ đã khắc họa nên tâm trạng bế tắc và nỗi phẫn uất
sâu sắc trước duyên phận hẩm hiu, lỡ làng.
Sang hai câu luận, dường như sự phẫn uất ấy biến thành sự chống trả kịch liệt:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.”
Hai câu thơ được cấu tạo đặc biệt: đảo vị ngữ là những động từ mạnh lên đầu câu. “Xiên ngang” và “đâm
toạc” là hành động của những vật vô tri vô giác. Trong tự nhiên, rêu là sự vật bé nhỏ, yếu mềm, thế mà ở đây
dường như nó mạnh mẽ hơn, cứng cỏi thêm để “xiên ngang mặt đất”. “Đá” là vật bất động, thế mà ở đây cũng
đang to hơn, nhọn hơn, đang cựa quậy, “nổi loạn” phá tan không gian tù túng bị giới hạn bởi “chân mây”.
Hình ảnh thiên nhiên động, thiên nhiên “nổi loạn” này không chỉ xuất hiện một lần mà còn có trong nhiều
những tác phẩm khác của bà. Lí giải cho sự xuất hiện những hình ảnh thiên nhiên như thế là ở cá tính mạnh
mẽ của nữ sĩ. Thiên nhiên được miêu tả thể hiện rõ tâm trạng con người, như đại thi hào Nguyễn Du từng đúc
kết về mối quan hệ giữa cảnh và tình : “Cảnh buồn người có vui đâu bao giờ”. Cảnh được miêu tả là “nổi
loạn”, là “phá bĩnh” thể hiện tâm trạng người phụ nữ lúc này cũng muốn “nổi loạn”, quẫy đạp để phá tan số
phận bất hạnh, tình duyên hẩm hiu của mình. Dường như, người phụ nữ đang gồng mình lên để chống trả kịch
liệt số phận. Đó chính là thái độ phản kháng mạnh mẽ của nữ sĩ trước thực tại đau buồn. Đằng sau sự phản
kháng mạnh mẽ ấy là khao khát sống, khao khát hạnh phúc lứa đôi mãnh liệt của nữ sĩ. Hai câu thơ, với phép
đối, phép đảo nhấn mạnh hai động từ mạnh đầu câu và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã cho thấy sự cố gắng
vươn lên đấu tranh với số phận, đồng thời cho thấy khát khao sống, khát khao hạnh phúc lứa đôi mãnh liệt ở
nữ sĩ xinh đẹp, tài năng mà cuộc đời không ưu ái. Người đọc thật sự khâm phục trước bản lĩnh cứng cỏi,
không chịu đầu hàng số phận của người phụ nữ cá tính ấy.
Đến hai câu cuối bài thơ, tuy nàng đã cố gắng vươn lên nhưng không thoát khỏi cái thở dài ngán ngẩm trước
bi kịch: “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con”.
Nàng thở dài “ngán nỗi”. Nàng chán ngán bởi “xuân đi xuân lại lại”. Mùa xuân và vẻ đẹp của nó phai đi
nhưng rồi sẽ quay trở lại theo quy luật của tạo hóa. Nhưng “xuân” của người phụ nữ, tuổi trẻ và sắc đẹp của
nàng thì không thể nào trở lại được, mà cứ mỗi một mùa xuân trôi đi là lại thêm một lần nữa tuổi xuân của đời
người ra đi, thế nên nàng “ngán”. Cụm từ “lại lại” như một sự thở dài ngao ngán trước sự trôi chảy tàn nhẫn
của thời gian. Nó cứ trôi đi, không thèm để ý đến cái bi kịch đang cướp đi tuổi trẻ của nàng : “mảnh tình san
sẻ”. Tình yêu của nàng vốn dĩ mỏng manh, bé nhỏ, chỉ là một “mảnh”, thế mà còn phải san sẻ”, chia năm sẻ
bảy ra thật tội nghiệp. bởi vậy mà nó chỉ còn là một “tí” ‘con con”. Nghệ thuật tăng tiến theo chiều giảm dần
khiến người đọc thấy rõ cái bi kịch xót xa của nữ sĩ và cảm thương cho con người tài hoa mà bạc mệnh. Bi
kịch ấy đeo đẳng lấy người phụ nữ khiến nàng không chỉ thốt lên ngao ngán một lần. Trong “Tự tình” (III)
nàng cũng từng thở dài: “Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh”.
Đây cũng là một cách nói khác của bi kịch tình yêu bị chia năm sẻ bảy. Nàng có chồng – “ôm đàn” – nhưng
lấy chồng mà vẫn “tấp tênh” như chẳng có, “một tháng đôi lần có cũng không”. Hai câu kết bài thơ với những
từ ngữ giản dị, tự nhiên và nghệ thuật tăng tiến, người đọc cảm nhận được cái chán ngán khi rơi vào bi kịch
của nữ sĩ. Tuy thế, dư âm của cái khát khao sống, khát khao hạnh phúc lứa đôi mãnh liệt ở hai câu trước vẫn
khiến người đọc cảm phục bản lĩnh cứng cỏi của “bà chúa thơ Nôm”.
Với ngôn ngữ thơ nôm giản dị, tự nhiên nhưng cũng sắc nhọn, với các biện pháp nghệ thuật đảo, đối, dùng
động từ mạnh, tả cảnh ngụ tình…bài thơ thể hiện tâm trạng vừa đau đớn, vừa phẫn uất trước duyên phận,
nhưng vẫn cố gắng vươn lên với khát khao sống, khát khao hạnh phúc mãnh liệt, tuy vẫn rơi vào bi kịch.
Tóm lại, “Tự tình” (II) thể hiện bản lĩnh Hồ Xuân Hương qua tâm trạng đầy bi kịch: vừa buồn tủi, phẫn uất
trước tình cảnh éo le, vừa cháy bỏng khao khát được sống hạnh phúc. Đọc bài thơ, ta vừa thương xót cho số
phận bất hạnh, vừa khâm phục bản lĩnh cứng cỏi của nữ sĩ. Bài thơ là minh chứng tiêu biểu cho tài năng ngôn
ngữ của “bà chúa thơ Nôm”.
(Tài liệu sưu tầm)
Đề 4: Đọc bài thơ sau và trả lời câu hỏi nêu ở bên dưới: “Tự tình”(II)
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
10
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
Câu 1: Xác định chủ thể trữ tình trong bài thơ?
Câu 2: Chỉ ra các thủ pháp nghệ thuật được sử dụng trong bốn câu thơ cuối?
Câu 3: Phân tích hiệu quả nghệ thuật của các thủ pháp nghệ thuật được sử dụng trong bốn câu thơ cuối?
Câu 4: Bằng hiểu biết của bản thân về cuộc đời và thơ Hồ Xuân Hương,hãy viết đoạn văn ngắn về chủ đề:
“Nỗi buồn thân phận”
Đề 5: Bài thơ “Tự tình” (II) nói lên bi kịch duyên phận vừa cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc
của Hồ Xuân Hương. (Ngữ văn 11,tập 1,tr.19)
Hãy phân tích để làm sáng tỏ nhận định trên.
HƯỚNG DẪN CHẤM, BIỂU ĐIỂM.
Đề 4: Câu 1: Chủ thể trữ tình trong bài thơ là người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công,
éo le (Có thể là chính bản thân nhà thơ). Khi tuổi xuân đang trôi đi mà hạnh phúc lứa đôi vẫn chưa trọn vẹn.
Câu 2: Các thủ pháp nghệ thuật được sử dụng trong bốn câu cuối:
- Đảo ngữ: Xiên ngang mặt đất /rêu từng đám
Đâm toạc chân mây/đá mấy hòn
- Biện pháp tăng tiến: Mảnh tình-san sẻ-tí-con con
- Kết hợp với cách dùng động từ mạnh: xiên ngang,đâm toạc; Cách dùng từ lại, từ xuân
Câu 3: Hiệu quả nghệ thuật:
- Đảo ngữ: Xiên ngang mặt đất /rêu từng đám
Đâm toạc chân mây/đá mấy hòn
Kết hợp với cách dùng động từ mạnh: xiên ngang, đâm toạc. Nhấn mạnh khát vọng nổi loạn, khát vọng sống
và hạnh phúc lứa đôi của nhà thơ. Góp phần tô đậm cá tính của tác giả.
- Biện pháp tăng tiến: Mảnh tình-san sẻ-tí-con con. Cách dùng từ lại, từ xuân diễn tả bi kịch của nhà thơ,
khát vọng đáng trân trọng, cuối cùng vẫn bị xã hội chà đạp, vùi dập.
Câu 4: Học sinh có nhiều cách viết khác nhau,nhưng cần làm rõ những ý sau:
- Người phụ nữ trong xã hội xưa không có quyền làm chủ bản thân mình.Số phận của họ do kẻ khác định
đoạt (“ba chìm bảy nổi với nước non”, “rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”).
- Những khát vọng sống,khát vọng hạnh phúc đáng trân trọng nhưng đều bị xã hội chà đạp và vùi dập
Đề 5:
– Giới thiệu khái quát về tác giả Hồ Xuân Hương, tác phẩm Tự Tình (II)
– Khái quát về bi kịch duyên phận và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của nhà thơ. 0,5
*Bốn câu thơ đầu: Hoàn cảnh và tâm trạng
- Không gian: đêm khuya, lúc nửa đêm về sáng khi vạn vật chìm trong bóng tối.
- Âm thanh: tiếng trống canh dồn đập, gợi cảm nhận sự trôi chảy của thời gian. Từ láy “văng vẳng” tô đậm
sự im lặng, nhờ thủ pháp lấy động tả tĩnh.
- Cảm nhận thân phận qua những từ ngữ như: “trơ” (sự bẽ bàng), cách gọi “cái hồng nhan” (tự trào mỉa mai,
chua xót cho bản thân); Thủ pháp đối lập giữa Cái hồng nhan/với nước non nhấn mạnh sự cứng cỏi, tư thế
kiêu hãnh của người phụ nữ cô đơn buồn tủi.
- Tâm trạng cô đơn, chán chường, tìm đến rượu như một sự cứu cánh nhưng kết cục vẫn bế tắc. Vọng
nguyệt muốn tìm tri âm, nhưng chỉ thêm bẽ bàng khi liên tưỏng đến thân phận “khuyết chưa tròn”.
*Bốn câu cuối: Khát vọng sống,khát vọng hạnh phúc.
- Hình ảnh bé nhỏ: “rêu từng đám”, “đá mấy hòn” gợi sự hèn mọn, nhỏ bé về thân phận.
- Nỗi niềm căm phẫn, không cam chịu số phận. Qua nghệ thuật đảo ngữ và cách dùng động từ mạnh ”xiên
ngang” và “đâm toạc“ nhấn mạnh khát vọng nổi loạn.
- Tiềm tàng khát vọng sống và hạnh phúc lứa đôi. Từ “ngán” cho thấy sự bất mãn, chán chường. Nhận thức
sự tuần hoàn của mùa xuân đất trời và sự hữu hạn của tuổi xuân con người.
- Trở lại bi kịch bẽ bàng, thấm thía qua thủ pháp tăng tiến: Mảnh tình-san sẻ-tí-con con. Mảnh tình vốn đã
bé nhỏ lại bị san sẻ chỉ còn lại tí con con đầy chua chát.
* Liên hệ một số bài thơ khác của Hồ Xuân Hương và của nhà thơ khác có chung đề tài
* Qua bài thơ ta thấy được bản lĩnh Hồ Xuân Hương được thể hiện qua tâm trạng đầy bi kịch: vừa buồn tủi
vừa phẫn uất trước tình cảnh éo le, vừa cháy bỏng khao khát hạnh phúc. 0,5
11
(Tài liệu sưu tầm)

Đề thi học sinh giỏi về bài Tự Tình - Hồ Xuân Hương (Đề 6)


Bàn về thơ, Xuân Diệu có nói: “thơ là hiện thực. thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa”
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng việc phân tích bài thơ Tự tình (II) của Hồ Xuân Hương, anh/chị
hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Hướng dẫn cách làm:
a) Mở bài: + Dẫn dắt và giới thiệu nhận định: “thơ là hiện thực. thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa”
+ Giới thiệu bài thơ Tự Tình của Hồ Xuân Hương
b) Thân bài
- Luận điểm 1: Giải thích nhận định “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời ”,
+ Thơ ca phải bắt nguồn từ hiện thực đời sống, từ những vui buồn, đau khổ, hạnh phúc của cuộc đời, của
số phận cá nhân con người.
+ Thơ ca phải hướng tới cuộc đời, con người chứ không phải là cái gì đứng tách riêng biệt khỏi đời sống
“Thơ còn là thơ nữa”
+ Nếu chỉ là sự phản ánh đời sống một cách đơn thuần thì thơ không phải là thơ. Thơ phảỉ mang những đặc
trưng riêng về nội dung lẫn hình thức.
. Đặc trưng về nội dung: Thơ là sự thổ lộ tình cảm mãnh liệt đã được ý thức; tình cảm trong thơ phải là
tình cảm cao đẹp, nhân văn; chất thơ của thơ…
. Đặc trưng về hình thức: Ngôn ngữ thơ có nhịp điệu; được cấu tạo đặc biệt, biểu hiện bằng biểu tượng;
ngôn từ lạ hoá, giàu nhạc tính…
Cần chỉ rõ: đây là nhậnđịnh đúng, có ý nghĩa như một tiêu chí để xác định một tác phẩm thơ đích thực. Một
tác phẩm thơ có giá trị phải là một tác phẩm bắt nguồn từ cuộc sống, hướng đến cuộc sống nhưng đã được
nghệ thuật hoá về nội dung lẫn hình thức
- Luận điểm 2: Phân tích bài thơ Tự tình (bài II) để làm sáng tỏ nhận định
Bài thơ Tự tình ra đời từ bi kịch cá nhân của Hồ Xuân Hương, cũng là bi kịch của rất nhiều người phụ nữ
trong xã hội cũ: Thân phận làm lẽ, không được tự do quyết định hạnh phúc của chính mình.
Học sinh cần phân tích để thấy được bi kịch cá nhân trong bài thơ được thể hiện một cách mãnh liệt và sâu
sắc. Đó là nỗi cô đơn, đau khổ, có khi dũng cảm vươn lên nhưng cuối cùng cũng đành bất lực. Mặc dù bắt
nguồn từ số phận cá nhân nhưng tình cảm trong bài thơ lại mang tính phổ quát, là nỗi đau chung của người
phụ nữ trong xã hội cũ. Đó là tình cảm nhân văn cao đẹp.
+ Trong cái tĩnh mịch u buồn của đêm giá lạnh thoáng nghe tiếng trống canh văng vẳng từ môt chòi canh
xa vọng đến,những cơn sóng cảm xúc đang cuộn xoáy trong lòng khiến nữ sĩ suy tư trăn trở, thao thức thâu
đêm. Tiếng trống cầm canh lâu lâu lại điểm, báo thời gian đang trôi qua:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
+ Bài thơ thể hiện được cá tính riêng của tác giả: cái tôi mạnh mẽ, ý thức phản kháng, chống đối số phận.
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Rêu yếu ớt là thế mà từng đám, từng đám vẫn tung sức sống xiên ngang mặt đất đón ánh mặt trời. Đá im lìm
là vậy mà hòn nọ tảng kia như đua nhau đâm toạc chân mây để khẳng định sự hiện diện của mình. Cách đặt
câu. đảo ngược đưa tính từ lên trước đã nhấn mạnh sức sống bất diệt , sức trỗi dậy mạnh mẽ của thiên nhiên.
->> Con người cô độc, bất hạnh trong thời điểm đó, không gian đó dường như chợt bừng tỉnh, muốn làm theo
rêu theo đá, xiên ngang, đâm toạc tất cả những gì ngăn trở, ràng buộc, giam hãm, huỷ hoại thân phận mình,
cuộc đời mình.
Chiều sâu của bài thơ không bộc lộ trên bề mặt câu chữ mà nó nằm ở tầng sâu của tác phẩm. Người đọc
phải có sự đồng cảm, có cảm nhận tinh tế mới phát hiện được.
- Ngôn ngữ thơ điêu luyện, bộc lộ được tài năng và phong cách của tác giả:
+ Sử dụng từ ngữ, hình ảnh giàu sức tạo hình, giàu giá trị biểu cảm, đa nghĩa: Trơ; cái hồng nhan, vầng
trăng bóng xế, xuân…
. Thủ pháp nghệ thuật đảo ngữ: câu hỏi 2, câu 5 và câu 6
. Sử dụng động từ mạnh: xiên ngang, đâm toạc.
+ Cách ngắt nhịp mới mẻ
12
c) Kết bài: Ý kiến của Xuân Diệu là đúng đắn và sâu sắc.
Liên hệ mở rộng bằng một số tác phẩm khác.
Tự tình (bài II) là một bài thơ hay, bộc lộ rõ tài năng và phong cách Hồ Xuân Hương.

GIAI THOẠI VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG

Hồ Xuân Hương con ông Hồ Sĩ Danh (1706 - 1783), em cùng cha khác mẹ với quận công Hồ Sĩ Đống
(1738 - 1786), quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lôi, Nghệ An. Mẹ là người xứ Bắc, khi cha và anh mất,
Hồ Xuân Hương tuy không còn nhỏ nhưng với thân phận thê thiếp lẽ mọn, hai mẹ con đành phải đưa nhau trở
về đất Bắc sinh sống.
Ngôi nhà nhỏ ven Hồ tây thuộc phường Khán Xuân, khu vực núi Nùng (Bách Thảo- Hà Nội) dẫu chỉ tranh
tre nứa lá, nơi Hồ Xuân Hương vừa xem sách, làm thơ, vừa dạy học trò nuôi mẹ già. Nhờ nhân thủy hữu tình
mà khách khứa dập dìu ra vào khá đông.
Những bài thơ và giai thoại bà để lại trong thời kỳ này khá nhiều. Giai thoại đầu tiên xuất hiện ngay sau khi
bà từ Vĩnh Phú về dựng cổ nguyệt đường dạy học, làm thơ.
Hôm ấy một viên quan lớn trong triều đi vãn cảnh hồ Tây. Trời trong, nước xanh- cảnh vật đẹp đến nao lòng
vì bao nhiêu tinh tú của đất trời dường như tụ hội cả ở nơi đây. Nơi mà tâm hồn nhạy cảm của bà nhìn ra và
quyết định dừng lại an cư lập nghiệp chứ không tiến vào kinh thành Thăng Long - nơi bao văn võ bá quan,
dân kinh kỳ kẻ chợ có máu mặt đều tìm vào - vì vị trí khuất nẻo so với kinh thành...
Tiếng quân lính hô hét dẹp đường, cảnh võng lộng nghêng ngang, tiền hô hậu ủng, phá tan cảnh đẹp của bầu
trời nơi đây. Xuân Hương đang giặt ở ven hồ thấy chướng tai gai mắt, liền buông rải quần áo ven bờ, điềm
nhiên nhìn thẳng vào kiệu của quan đang đi tới, ngẫm nghĩ trong đầu, tìm tứ thơ, rồi đọc to:
Võng điều quan lớn đi trên ấy
Váy rách bà con giặt dưới này.
Ví cái võng điều của quan lớn với váy rách của bà con quả là chua cay. Xem ra, quan thời xưa chả khác
quan thời nay là mấy. Trong khi bà con khổ sở, cùng cực thì quan vơ vét hết cho bản thân. Nhà cao cửa rộng,
vợ nọ con kia, còn ô dù võng lọng, nghêng ngang, quát lác, chỉ ăn tàn phá hại, có lợi gì cho dân đâu ?

13
Nghe câu đối, cả thầy, cả tớ trợn mắt nhìn Xuân Hương, thấy phong thái ung dung, ngôn từ sóc lỏi, độc địa,
biết không thể là đối thủ để nạt nộ, đành lẳng lặng đi qua như không hề nghe thấy...Chuyện này mà để lan
truyền ra khắp kinh thành Thăng Long thì mặt quan thành mặt mo, còn nhục hơn bị bà con dùng váy rách che
lên mặt. Từ đó, như quả pháo xịt ngòi, quan mất hẳn thói nghêng ngang, hống hách, đi đâu bỏ hết lính dẹp
đường ở nhà, Hồ Tây trở lại với khung trời cao rộng, cây xanh, nước biếc, đẹp mê hồn.
Giai thoại thứ hai bắt nguồn từ hai chữ cổ nguyệt (ghép lại thành chữ Hồ) có người cho là của Chiêu Hổ
chòng ghẹo bà: Người cổ lại còn đeo thói nguyệt
Buồng xuân chi để lạnh mùi hương ?(1)
Câu đối ghép lại đủ cả tên họ bà, còn tách ra lại là sự trách khéo: "Đã tự coi là người cổ hủ, trọng nề nếp,
gia phong lại còn thích thói hưởng nguyệt, xem hoa, lả lơi, thi phú ? Đang tuổi xuân thì còn hương sắc, mà
không gìn giữ nền nếp, gia phong thì buồng xuân còn để lạnh đến bao giờ ?
Sát nhà là đền Trấn Võ, có gác chuông cao, treo quả chuông lớn, nhiều chàng nho sĩ đến thăm, cũng học
đòi, ti toe làm thơ. Vốn táo tợn, Xuân Hương chẳng chịu tha cho những kẻ đầy bồ chữ nghĩa, tưởng thênh
thang học rộng, tài cao mà toàn đồ chè chai giấy lộn ấy. Xuân Hương quyết lộn trái chúng ra:
- Được gặp các thầy nơi đền cao cửa kín này thật vinh hạnh, thóang trông đã rõ các thầy tài học uyên bác.
Dám xin các thầy một bài thơ được không ạ ?
-Tưởng việc gì chứ thơ thì sẵn lắm, cô cứ ra đề cho.
-Dạ tiện đây xin các thầy vịnh quả chuông luôn, cứ lấy vần uông làm vần.
-Tưởng được gãi đúng chỗ ngứa, ai ngờ vớ phải quả chuông rè, chuông câm, ngoài hai tiếng kêu "bính
boong" là hết, biết gắn vần uông vào chỗ nào đây ?
Ngần ngừ, mãi vẫn tắc tị, một thầy đánh liều gạ gẫm :
- Vần uông không ổn cô ạ, hay là...
Biết tỏng mớ chữ nghiã giấy lộn trong đôi bồ của các thầy không mấy đáng giá, Hồ Xuân Hương tung
chưởng cho họ rơi từ đỉnh gác chuông tới... tận đáy hồ, không sao mọc mũi sủi tăm lên được:
- Sao lại không ? Em thử làm vài câu cho các thầy nghe nhé :
Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông,
Nó bảo nhau rằng ấy cái uông.
Càng ở càng "sặc nước", quần áo ướt sũng sĩnh vì mồ hôi, nước lạnh
Hồ Xuân Hương dội lên đầu, các thầy đành ngớ ngẩn cười trừ rồi cút thẳng. Mỗi lần nhớ lại vần uông, cái
chuông của thi sĩ họ Hồ, tên Hương lại buốt tận xương hông, không dám giở trò văn vẻ, chữ nghiã ra trước
bàn dân thiên hạ nữa.
Cũng bởi nhà ở gần đền mà Hồ Xuân Hương hay thơ thẩn đi dạo, lần ấy đúng vào dịp Triều đình mở khoa
thi, các sĩ tử, văn nhân từ khắp các tỉnh thành trong cả nước dập dìu về kinh thành Thăng Long dự thi rất
đông. Trong số đó có “cậu ấm” con quan chánh chủ khảo kỳ thi, cùng đám bạn vàng giầu có. Nhân chơi hồ
Hoàn Kiếm thấy cảnh Đền đẹp liền kéo vào. Để tỏ rõ tài thơ phú trước đám bạn vàng, cậu con chánh chủ khảo
liền “ Tức cảnh sinh tình” vịnh luôn một bài “thẩn” đề vào ngay vách Đền làm “ kỷ niệm”:
Khen ai đổ đất đắp nên chùa
Một nếp thù lù ở giữa hồ,
Mặt nước bóng chiều đà bảng lảng
Làm sao vẫn chửa thấy chuông khuơ ?
Xuân Hương đang thơ thẩn quanh đó, thấy mọi người cười cợt, chỉ trỏ, liền sà vào, bắt gặp bài thơ và tác giả
"rặn thơ" liền ôm bụng cười ngặt nghẽo. Cười chán, bà mượn bút mực, vung tay đề tiếp bài thơ “cảnh tỉnh’
của mình bên cạnh để trả lời “cậu ấm” và một xâu đám bạn lòi tói- những cốc chén, sứt mẻ, rạn vành, gẫy
quai, thích chơi trèo của chúng: Dắt díu nhau lên đến cửa chiền
Cũng đòi học nói, nói không nên
Ai về nhắn bảo phường lòi tói
Muốn sống đem vôi quét trả đền.
Vỏ quýt dày có móng tay nhọn, gặp người khẩu khí chững chạc đến thế, cậu ấm đành phải dựa cột...để nghe
cho thủng, xong bấm bụng, xủng xong lốc nhốc kéo cả xâu chuỗi về. Chẳng bao giờ dám khoe dại, khoe khôn
nơi vách đền nữa. Đền được trả lại vẻ đẹp cổ kính, u tịch trang nghiêm ban đầu. Vì sau đó chẳng ai dám vượt
mặt “Bà chúa Thơ Nôm” để đề “thẩn” lên tường, làm bẩn tường nữa.
Lại một lần nữa, lúc này tiếng tăm của bà đã nổi khắp thành Thăng Long. Đang lững thững từ chùa Trấn
Quốc về Cổ Nguyệt đường thì nghe có tiếng lơi lả, chòng ghẹo ở phía sau, biết rõ căn bệnh: ăn không nên đọi,
14
nói chẳng thành lời của các thầy, Xuân Hương lẳng lặng men theo men hồ, đến sát chân núi Nùng, cạnh nhà,
mới dùng lời sắc như dao để cắt đuôi:
- Chả mấy khi được gặp các thầy, em xin đọc hầu các thầy một bài nhé:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây chị dạy phép làm thơ
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa.
Nghe khẩu khí biết ngay là Hồ Xuân Hương, các thầy ngượng chín cả người. Tưởng đánh trống qua cửa nhà
trời, ai ngờ sấm dội, mưa chan...gẫy cả dùi, vỡ cả trống. Tứ, ngũ túc dúm hết lại, suýt thì lộn cổ xuống hồ.
Chờ cho Xuân Hương tung tăng vào hẳn trong nhà, các thầy mới dám xiêu vẹo bước. Thật chẳng cái dại nào
giống cái dại nào. Đã ngứa nọc, buồn sừng lại gặp phải dậu thưa, hoa rữa, gỡ chẳng ra lại còn bị cười lỡm đến
thối nọc, gẫy sừng./.
(Theo vanchuongviet)

15

You might also like