You are on page 1of 20

VHTD

CHỦ ĐỀ 1
Hình tượng người phụ nữ trong văn học cuối thế kỉ 18 – nửa đầu thế kỉ 19
Note: Dừng ở Kiều Nguyệt Nga, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Truyện Kiều (không
đưa Vũ Nương) – Vì sao người phụ nữ mới là hình tương trung tâm?
*Điểm mới về người phụ nữ: Tất cả nỗi khổ (làm đĩ,…) được nói đến với sự đồng cảm,
quan trọng là ca ngợi, quan tâm đến vẻ đẹp hình thể của người phụ nữ. Vẻ đẹp tài năng
của người phụ nữ. Ý thức được giá trị của mình. Tiếng nói chủ động trong tình yêu và
hôn nhân. Tiếng nói thầm kín, kín đáo thể hiện khao khát những tự nhiên mang tính bản
năng , trần thế (tình dục), xuất phát hoàn toàn từ nữ chứ không phải hình tượng nam
mang giọng nữ.
“Chị em tôi tỏa nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ”
Từ những hình ảnh người phụ nữ rất tự nhiên bước vào văn học, như một định mệnh
nghệ thuật tất yếu. Hình ảnh của “một nửa thế giới” ấy đã sớm phập phồng trong trái tim
của bao nghệ sĩ, hiện diện khắp nơi trong đứa con tinh thần của họ. Từ buổi hồng hoang
của lịch sử với văn học dân gian cho đến khi văn học viết ra đời, nguồn học mạch đó tựa
dòng thủy lưu chưa bao giờ đứt mạch. Hình tượng người phụ nữ càng trở nên đặc biệt
hơn ở giai đoạn văn học cuối thể khỉ 18 – nửa đầu thế 19, khi lần đầu tiên người phụ nữ
bước ra khỏi bi kịch của mình, cất tiếng nói…
Từ cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX thì hình tượng người phụ nữ đã trở thành đối
tượng phản ánh của văn học giai đoạn này, trong thơ của rất nhiều tác giả như: Nguyễn
Gia Thiều, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương... Những tác gia này đã lên tiếng bênh vực cho
thân phận người phụ nữ và đấu tranh đòi quyền tự do, bình đẳng cho họ trong xã hội
phong kiến. Chính sự lên tiếng của rất nhiều tác giả về người phụ nữ đã hình thành nên
trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIII – nửa
đầu thế kỷ XIX.
1. Bối cảnh ra đời hình tượng người phụ nữ thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX
1.1 Bối cảnh xã hội
1.1.1 Thời đại đầy biến động
Nước Việt đi vào một trong những thời kì đen tối của lịch sử
- Vua chỉ mải mê trong giấc mộng quyền quý mà quên đi trách nhiệm với nhân dân
của mình.
- Thuế cao sưu nặng, mất mùa hạn hán, đời sống nhân dân cơ cực
- Số phận con người mỏng manh, chao đảo
- Những phong trào nông dân nổi dậy tất yếu. Những cuộc đàn áp diễn ra trong máu
của người ra trận và nước mắt của gia quyến ở hậu phương. Chưa bao giờ vấn đề
thân phận của con người, bi kịch cá nhân được đặt ra riết róng như thế. Có lẽ chính
chất xúc tác mạnh mẽ để chuyển lay ngòi bút của tác giả để từ đó hình tượng
người phụ nữ ra đời trong thấm đẫm tình người xót xa.
1.1.2 Xã hội nam quyền
- Trong các mối quan hệ với vua (quân), cha (phụ), chồng (phu), con (tử), người phụ
nữ luôn là kẻ phụ thuộc và phục tùng, bất cứ lúc nào cũng có thể trở thành nạn
nhân của sự chuyên quyền độc đoán
- Nho giáo đề cao hình mẫu lý tưởng của người phụ nữ là liệt nữ. Song, những “tiêu
chuẩn” đạt được bật liệt nữ được ghi vào sổ sách nhiều khi đến mức phản nhân
đạo
- “Tam thê tứ thiếp” đã là điều quá bình thường cho mong muốn của một người đàn
ông trong xã hội phong kiến. Song, mấy ai hiểu được nỗi đơn lẻ đến khôn cùng
của người thiếp lẽ mọn.

1.2 Sự manh nha hệ ý thức mới mẻ trong xã hội


- Sự sụp đổ của giai cấp thống trị phong kiến theo sự phá sản ý thức hệ phong kiến,
con người tiếp nhận luồng tư tưởng mới từ tư tưởng dân chủ với sự xuất hiện của
tầng lớp thị dân.
- Các nhà nho thoát khỏi tư tưởng chính thống để xem người phụ nữ như đối tượng
chính của ngòi bút của mình.
- Con người đặc biệt là người phụ nữ ý thức được và muốn khẳng định giá trị cá
nhân của mình. Họ đứng dậy nêu lên mong muốn về những gì mình xứng đáng
nhận được, thẳng thừng phê phán mặt tối của xã hội. Đó là nét mới mẻ tạo nên sức
hấp dẫn ở người phụ nữ thời đại này.

1.3 Bối cảnh nền văn học


1.3.1 Sự phát triển của đề tài người phụ nữ
- Giai đoạn cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX, phụ nữ đã trở thành một trong
những đề tài lớn của văn học, người phụ nữ hiện lên một cách khá đầy đủ và toàn
diện trên nhiều bình diện . Về truyện Nôm có “Truyện Kiều” của Nguyễn Du,
“Hoa tiên” của Nguyễn Huy Tự, thơ ca viết về người phụ nữ có thơ của Hồ Xuân
Hương hay “Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn, bản diễn Nôm của Đoàn
Thị Điểm hay “Cung oán ngâm” của Nguyễn Gia Thiều…

1.3.2 Sự phát triển của chủ nghĩa nhân đạo


- Tư tưởng này chỷ xuyên suốt cùng năm tháng như một mạch ngầm trong văn học.
Chỉ cho đến khi giai cuối thế kỉ 18 – nửa đầu thế kỉ 19 với những yếu tố quyết
định thúc đẩy tư tưởng này đã được nâng cao, phát triển thành chủ nghĩa nhân đạo
với đầy đủ biểu hiện của nó. Đó là sự xót thương đồng cảm với số phận con người,
lên án thế lực làm hại con người, đồng thời khẳng định giá trị tốt đẹp của con
người.

NỘI DUNG PHẢN ÁNH TRONG HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ THẾ KỈ
XVIII – NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX

1. Người phụ nữ - hiện thân của cái đẹp


Thần thoại Hi Lạp kể rằng: “Thượng đế đã lấy vẻ đẹp đầy đặn của mặt trăng,
đường uốn cong của loài dây leo, dang run rẩy của loài cỏ hoa,… nặn thành
người phụ nữ”. Người phụ nữa đặc biệt là người phụ nữ trong văn học giai
đoạn cuối thế kỉ 18 – nửa đầu thế kỉ 19 trước nhất là người phụ nữ đẹp.

1.1 Vẻ đẹp tài và sắc của người phụ nữ


1.1.1 Về nhan sắc
Nhắc đến vẻ đẹp của người phụ nữ, ta nhớ ngay đến vẻ đẹp của nàng Kiều
và nàng Vân trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Có thể nói nét đẹp ấy với
bứt pháp ước lệ đã trở thành những chuẩn mực cho khuôn khổ ngoại hình
của người con gái phong kiến:….. (trích thơ)
Trong cuộc tao ngộ các giai nhân của văn học giai đoạn này, bên cạnh
những “quốc sắc thiên hương” mẫu mực đúng chuẩn e ấp phong kiến thì
đâu đấy trong thơ Hồ Xuân Hương vẫn có những cô gái với ngoại hình ngời
ngời sức sống, trẻ trung mơn mởn:
“Mùa hè hây hẩy giớ nồm đông,
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.
Lược trúc biếng cài trên mái tóc,
Yếm đòa trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch đào nguyên suối chửa thông.”
Quả là một vẻ đẹp đầy tự nhiên mà tạo hóa vốn đã ban tặng cho người phụ
nữ!
1.1.2 Về tài năng
Hình tượng người phụ nữ không chỉ được khắc họa về nhan sắc bề ngoài
mà còn gắn với tài năng hơn người. Đúng chuẩn phong kiến món nghề tài
nghệ của bậc nữ nhân gồm bốn mặt sau đây: cầm (đàn), kì (cờ), thi (thơ),
họa (vẽ). Và Thúy Kiều xứng đắng với danh hiệu kì nữ. Tiếng đàn của nàng
làm cho Kim Trong phải “ngơ ngẩn sầu”, làm cho Thúc Sinh “cũng tan nát
lòng” và làm cho Hồ Tôn Hiến “nhăn mày, rơi châu”
“Cung thường làu bậc ngũ âm.
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương!”
Thanh âm vi diệu ấy của tài nữ đánh đàn cũng có lần Nguyễn Du nhắc đến
trong “Lonng Thành cầm giả ca”:
“Học được trong cung triều xưa khúc Cung Phụng
Tưởng như trên trời dưới thế tuyệt vời âm thanh”
Bên cạnh đóm tài văn không còn là đặc hữu của đáng tu mi nam tử, nó đã
trở thành một tài nắng các ả hồng quần. Tài văn chương tuyệt vời dường
như thiên phú như trong: “Phương Hoa tân truyện”. Lúc bình thường các cô
chăm chỉ “công dung ngôn hạnh”, nhưng khi cần thiết, các cô rất tự ti, sẵn
sàng trổ tài nhả ngọc phun châu.
“Sử kinh làu giở hôm mai,
Văn chương phủ lục mọi bài làu thông
Phun châu nhả ngọc nức lòng
Đã tường kinh sử, lại thông truyện ngoài.”
1.2 Vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ

Trong không khí của trào lưu nhân văn chủ nghĩa, người nghệ sĩ đã quan
tâm đặc biệt đến hình ảnh người phụ nữ. Đó không chỉ là cái nhìn về nhan
sắc bên ngoài mà là một cái nhìn thấu suốt, văn thi nhân còn ca ngợi vẻ đẹp
tâm hồn với những phẩm chất tốt đẹp.

1.2.1 Những phẩm chất tốt đẹp


Phẩm chất trước hết rất dễ thấy ở những người phụ nữ trong văn học giai
đoạn này là lòng thủy chung son sắt. Tấm lòng son trước sau như một đã
hiện hữu trong những vần thơ rất đỗi dung dị của Xuân Hương:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìn với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.”
Cô gái ấy dù trải qua bao thăng trầm “bày nổi ba chìm” vẫn giữ tấm lòng
son. Sự son sắt hay tấm lòng trong sáng khong bị vẩn đục làm cô gái không
chỉ đẹp vẻ đẹp bên ngoài mà còn quyến rũ hơn nhờ phẩm chất của tấm lòng
son luôn tỏa rạng.
Họ còn có những phẩm chất đạo đức khác rất đang quý như sự đảm đang,
tháo vát, hi sinh, hiếu thuận, vị tha,…
Người ca nữ trong “Ngô gia đệ cựu ca cơ” của Nguyễn Du thì vẫn một lòng
chăm lo cho chồng và ba con khi cuộc sống còn rất nhiều kho khăn trong
buổi hoạn lạc, nàng phải mặc lại chiếc áo cũ từ ngày xa xưa, những vẫn
không thấy một lời oán than.
Một người con hiếu thảo bán thân mình để chuộc cha với tấm lòng đáng
trân trọng:
“Để lời thệ hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn sinh thành”.
Thúy Kiều là người chí tình chí nghĩa “Ơn ai một chút chẳng quên”. Khi có
điều kiện, nàng đã trả ơn, hậu tạ những người cưu mang mình.
Rồi đến khi báo oán Hoạn Thư, không còn ở vị trí quan tòa – tội phạm nữa
mà ở vị trí hau người đàn bà với nhau. Xét theo mặt logic thình cảm cùng
lòng vị tha của mình. Kiều đã tha bổng cho Hoạn Thư.
1.2.2 Khát vọng tình yêu và hạnh phúc
Khát vọng tình yêu tự do đậm màu sắc lãng mạn được thể hiện qua mối
quan hệ Thúy Kiều – Kim Trọng. Mới gặp lần đầu, hai bên chưa tiện nói
với nhau một mời, mà mối tình không lời ấy đã như một chén rượu nồng.
Trong câu chuyện tình yêu với Kim Trọng, Kiều là người luôn luôn chủ
động.
Bắt đầu từ giây phút ban đầu lưu luyến cho đến khi chàng Kim lên ngựa rồi
nàng Kiều “còn ghé theo”, nhìn hút bóng chàng… rồi gót chân nàng thoan
thoát “Xăm xăm băng nẻo vườn khuya một mình”. Từ góc nhìn nhân văn
đối với tình yêu, có thể nói đây không phai là hành vi nàng Kiều tự hủy
nhân cách mình mà đó là một sự khẳng định sức mạnh tình yêu của mình.

Cũng không thể phủ nhận mối tình giữa Từ Hải và Kiều, một mối tình
không chỉ là tình yêu mà còn là ân nghĩa. Khát vọng về một hạnh phúc trọn
vẹn, bề một tình yêu chân thành không bao giờ bị vùi lấp trong Kiều nên
nàng không nhừng kiếm tìm và trân trọng những mối tình đã qua dù kết cục
có như thế nào.
Nàng đã phải đối mặt với một thực tại chua xót, bẽ bàng, đối mặt với bao
nhiêu đau khổ, bao nhiêu uất ức đã bắt đầu phản tỉnh. Nàng hiểu ra rằng
hạnh phú không phải được tạo nênn từ lầu vàng điện ngọc, từ những thứ
phù phiếm, xa hoa. Hạnh phúc chỉ đến từ tình yêu chân thành, thủy chung.
Cuộc sống êm đẹp nhất là cuộc sống vui vẻ sum vầy, có chồng có vợ. Nếu
không phải là một con người có tâm hồn biết sống và khát khao sống, khao
khát hạnh phúc thì không có những trăn trở đến thế.
1.3 Ý thức khẳng định giá trị cá nhân
Để có thể duy trì được những phẩm chất tốt đẹp của mình giữa lòng xã hội
phong kiến bấy giờ, để không ngừng nuôi những khát vọng về một tình
yêu, hạnh phúc thật sự, người phụ nữ ắt hẳn có ý thức về giá trị của mình,
cho rằng mình đáng được hưởng hạnh phúc đích thực ấy. Càng ý thức rõ
được điều đó, người phụ nữ càng ý thức được việc phải khẳng định giá trị
cá nhân của mình.
Giữa cảnh nhơ nhớt chốn lầu xanh, Kiều cũng đã có cái “giật mình” đầy
nhân bản:
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.”
Đó là cái giật mình từ cảm xúc bên trong, vì nhận ra sự tàn phá thảm hại về
thể xác và phẩm cách của mình ở chốn lầu xanh, sự cô đơn lẻ loi của mình
và sự yếu đuối bất lực trước bao nhiêu sự xấu xa, cạm bẫy đang bủa vây mà
không thể chống đỡ. Điệp từ “minhg” lặp lại ba lần trong một câu thơ như
tiếng nấc nghẹn ngào, tha thiết của Thúy Kiều ý thức được về phẩm giá,
nhân cách, quyền sống bản thân đó cũng là ý thức cá nhân mà Nguyễn Du
muốn truyền tải đến người đọc. Vì thương mình chính là đỉnh cảo nhất của
sự tự ý thức cá nhân.
Người cung nữ trong “Cung oán ngân” đã rất mạnh mẽ muốn bứt thoát để
sống là chính mình, khẳng định giá trị của cá nhân mình:
“Đang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!”
1. Hình ảnh người phụ nữ trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du:
+ Truyện Kiều chứa chan tình yêu thương với người người phụ nữ. Cảm hứng chủ
đạo của tác phẩm là cảm hứng về thân phận con người.
+ Thể hiện sự cảm thông sâu sắc, sự thấu hiểu nỗi đau khổ của người phụ nữ phải
gánh chịu trong xã hội phong kiến; đồng cảm với bi kịch, mất mát dằn vặt về thể
xác lẫn tinh thần của người phụ nữ (đoạn trích Trao duyên, Nỗi thương mình)
+ Phát hiện ca ngợi và có cái nhìn đầy trân trọng đối với vẻ đẹp, phẩm chất tốt đẹp
của người phụ nữ (tài sắc, vị tha chung thủy..)
+ Đề cao tình yêu tự do, đồng cảm với những khát vọng giải phóng con người.
+ Là bản cáo trạng đanh thép tố cáo thế lực chà đạp con người, đặc biệt là người
phụ nữ trong xã hội phong kiến.

2. Hình ảnh người phụ nữ trong “Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn:
+ Là tiếng kêu thương của người phụ nữ chờ chồng, nhớ thương chồng chinh
chiến phương xa.
+ Tâm trạng cô đơn, mong ngóng mòn mỏi đến tuyệt vọng (đoạn trích Tình cảnh
lẻ loi của người chinh phụ)
+ Là tiếng nói khát khao yêu đương, là tiếng nói đòi quyền sống, quyền được
hưởng hạnh phúc lứa đôi …
+ Tố cáo chiến tranh phi nghĩa đẩy bao chàng trai ra trận và người phụ nữ héo
mòn chờ chồng.

3. Hình ảnh người phụ nữ trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều:
+ Viết riêng về cuộc đời bất hạnh của người cung nữ, thông qua đó bộc lộ những
phẫn uất bất bình trước xã hội.
+ Thể hiện sâu sắc tâm trạng người cung nữ đang thất vọng cô đơn chán chường
đến tận cùng. Tâm trạng sầu oán đi từ cảm giác đơn độc trước thời gian tàn tạ,
mênh mông trống trải trước không gian, không tìm thấy đâu niềm vui trong cuộc
sống đến nỗi niềm thương thân trách phận. Thấp thoáng đằng sau tiếng nói bi kịch
là ý thức phản kháng tố cáo chế độ cung tần, khao khát hạnh phúc và ước vọng
một cuộc đời đổi thay (Phân tích đoạn Nỗi sầu oán của người cung nữ).
Hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại nói chung
a. Khái niệm hình tượng và hình tượng trong văn học
“Hình tượng là sự phản ánh hiện thực một cách khái quát bằng nghệ thuật dưới
hình thức những hiện tượng cụ thể, sinh động, điển hình, nhận thức trực tiếp bằng cảm
tính”. Hình tượng văn học trong các tác phẩm luôn là phương tiện hình thức để nhà văn
bộc lộ giá trị tư tưởng và phong cách nghệ thuật của mình . Mỗi nhà văn khi cầm bút phải
không ngừng sáng tạo tìm tòi để xây dựng hình tượng nhân vật tiêu biểu đặc sắc. Không
phải tác phẩm văn học nào cũng có hình tượng văn học. Không phải nhân vật nào trong
tác phẩm văn học đều trở thành hình tượng nhân vật văn học. Để trở thành hình tượng
văn học điều kiện tiên quyết là phải có tính điển hình. Trong văn học, hình tượng nhân
vật phải là: nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Nghĩa là nhân vật văn học ấy
phải có sức tập trung khái quát cao. Nhân vật ấy phải có những nét chung nhất của tầng
lớp, giai cấp... mà mình đại diện. Và bối cảnh xã hội mà nhân vật ấy xuất hiện phải là bối
cảnh điển hình của một vùng, một nơi vào một thời điểm lịch sử nhất định. Như vậy: hình
tượng nhân vật trong văn học là nhân vật điển hình trong tác phẩm văn học, mang đậm
nét khái quát của tầng lớp, giai cấp của nhân vật ấy, đồng thời là nhân vật có những nét
riêng đặc biệt, xuất hiện trong bối cảnh điển hình mà tác phẩm văn học ấy thể hiện.
b. Hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại
Trong giai đoạn nữa cuối thế kỉ XVIII - nữa đầu thế kỉ XIX, ở nước ta do điều kiện
xã hội đặc biệt của nó mà trong văn học dân tộc ta hình thành một trào lưu nhân đạo chủ
nghĩa. Trong trào lưu văn học này, lần đầu tiên hình ảnh người phụ nữ được đề cập đến
một cách phổ biến trong nhiều tác phẩm của nhiều tác giả: Đặng Trần Côn có người
chinh phụ trong Chinh phụ ngâm; Nguyễn Gia Thiều có người cung nữ trong Cung oán
ngâm khúc; Nguyễn Du có Thúy Kiều trong Truyện Kiều; trong những truyện Nôm của
những nhà thơ khác như Hoa Tiên, Sơ kính tân trang…cũng có những cô gái như Dao
Tiên, Quỳnh Thư…Nhưng điểm lại những nhân vật phụ nữ trong giai đoạn này, hầu như
tất cả đều xuất thân từ tầng lớp quý phái, ngay cả Thúy Kiều của Nguyễn Du cũng được
nhà thơ giới thiệu là: “Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung”(truyện Kiều).
Trong dòng chảy quan niệm Việt Nam, người phụ nữ đẹp trong văn học trung đại
cũng hiện diện trong một vẻ đẹp toàn diện cả bên trong lẫn bên ngoài. Đó là một sự kết
hợp hài hoà giữa sắc – tài – tâm, giữa nhan sắc và đức hạnh với “tam tòng, tứ đức”. Như
vậy, ngay trong cái nền chung trong quan niệm về người phụ nữ đẹp của người Việt đã có
một sự “dị biệt” qua từng thời kì văn học. Đó là vì quan niệm thẩm mỹ vốn là một phạm
trù “phụ thuộc vào chủ thể thẩm mỹ” (Chủ nghĩa Mác – Lênin). Cho nên, mỗi một thời
đại, tuỳ vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà có những quan niệm khác nhau. Thời trung đại,
với sự tiếp biến văn hoá đặc biệt là văn hoá Trung Hoa, tư tưởng của Khổng giáo, Đạo
giáo và Phật giáo đã chi phối đến quan niệm thẩm mỹ của thời đại. Người phụ nữ có đức
hạnh theo quan niệm của Nho gia (lễ giáo phong kiến) là người phải hội tụ đủ “tam tòng,
tứ đức” (Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử; và công, dung, ngôn hạnh).
Tuỳ theo cái nhìn chủ quan của tác giả mà vẻ đẹp mỗi nhân vật nữ lại được biểu hiện
không giống nhau. Đó là nàng Kiều (Truyện Kiều), người được xem là người đàn bà đẹp
nhất trong văn học Việt Nam. Nếu đặt Kiều vào trong lễ giáo phong kiến thì Kiều không
phải là người phụ nữ đức hạnh, nhưng không vì thế mà dân tộc ta phủ nhận vẻ đẹp của
Kiều từ ngoại hình đến tài năng, tâm hồn, tính cách. Như vậy, Kiều đẹp còn bởi tấm lòng
nhân hậu, bao dung vốn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta mà Nguyễn Du đã kế thừa.
Nguyễn Đình Chiểu thì đưa ra một quan niệm về nguời phụ nữ lý tưởng theo quan niệm
của lễ giáo phong kiến: “Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”(Lục Vân Tiên). Những
người phụ nữ trong Chinh phụ ngâm hay Cung oán ngâm cũng là những đại diện tiêu
biểu cho quan niệm về người phụ nữ đẹp trong thời đại họ. Nhưng với Hồ Xuân Hương,
người phụ nữ “nổi loạn” của thời đại, thì bà lại có cái nhìn mới về vẻ đẹp người phụ nữ,
đứng ở vị trí là người phát ngôn cho vẻ đẹp của giới mình. Xuân Hương là người đầu tiên
và có thể là duy nhất đưa vào văn học giai đoạn này không phải là cô gái quý tộc mà đích
thực là những cô gái bình dân. Bà tìm thấy vẻ đẹp thực sự của họ, nêu bật vẻ đẹp bên
trong, vẻ đẹp tâm hồn của họ (Bánh trôi nước, Con ốc nhồi, Quả mít); ca ngợi tuổi trẻ
tươi mát, trắng trong các cô gái đang xoan (Đề tranh tố nữ); đi vào đến từng chi tiết của
vẻ đẹp cơ thể (Thiếu nữ ngủ ngày)…
Tuy nhiên, trong quan niệm của dân tộc ta thời kì này thì người phụ nữ đẹp thường
gắn liền với số phận bất hạnh. Điểm lại gương mặt nhân vật nữ thời kì này ta thấy một
điểm chung ở họ là có một cuộc đời đầy sóng gió, bẽ bàng, không mấy người có được
hạnh phúc thật sự. Đặc điểm này phải chăng là do quan niệm “hồng nhan bạc mệnh”.

2. Hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương


2.1. Người phụ nữ với số phận nhỏ bé, bất hạnh
Thân phận của những người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương thường nhỏ bé,
cuộc đời của họ long đong lận đận. Họ phải sống trong một chế độ xã hội phong kiến lạc
hậu, trọng nam khinh nữ, người phụ nữ không có chỗ đứng và địa vị trong xã hội. Vì vậy,
những người phụ nữ có tài như Hồ Xuân Hương thường không được coi trọng, đồng thời
việc làm của một người vợ thường ít được người chồng cảm thông, dù cho quanh năm
lam lũ vất vả nuôi chồng nuôi con chăm sóc cho gia đình luôn được yên ấm. Họ là những
người phụ nữ có tài có sắc nhưng cuộc đời lận đận, số phận bi đát, bé nhỏ trong xã hội:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi, ba chìm với nước non
(Bánh trôi nước)
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
(Tự tình II)
Trong giai đoạn này, ta cũng bắt gặp những bài thơ nói về số phận hẩm hiu của
người phụ nữ.
những số kiếp nổi nênh:
Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh
(Chiếc bách)
Trong chế độ phong kiến suy tàn ở Á Đông hàng mấy nghìn năm con người rất đau khổ,
nhưng khổ nhất là người đàn bà. Không phải vô cớ mà Nguyễn Du đã nấc lên thay cho
người phụ nữ trong Văn chiêu hồn:
Đau đớn thay phận đàn bà!
Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu?
Trong Truyện Kiều Nguyễn Du một lần nữa lại xót xa:
Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm cũng có nói đến cái khổ của người chinh phụ. Trong
thơ Xuân Hương, bà không chỉ than cho người đàn bà dưới chế độ phong kiến mà còn nói
lên nỗi đau của bản thân mình. Xuân Hương đã nói một cách trần trụi nhất, với cái mạnh
mẽ của sự phản kháng và gắn chặt đời mình cùng với số phận của những người phụ nữ
nói chung trong xã hội cũ:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Ở xã hội xưa, trai năm thê bảy thiếp là thường, còn người phụ nữ không cho phép
được như vậy. Họ đâu có quyền làm chủ đời mình, trong ca dao ta cũng bắt gặp rất nhiều
câu ca nói về số phận hẩm hiu của người phụ nữa:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
hay:
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày
Người phụ nữ trong thơ Xuân Hương nói riêng và trong xã hội phong kiến nói
chung đều là những con người với số phận bi đát. Càng đọc, ta càng hiểu thêm bối cảnh
xã hội nước ta lúc bấy giờ và càng trân trọng họ. Họ là những đóa hoa sen thơm mát, tỏa
hương cho đời, "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
Từ đây ta càng cảm thông sâu sắc cho số phận người phụ nữ Việt Nam xưa, phải
chịu nhiều khổ cực, tủi nhục, hiu quạnh, tình duyên hẩm hiu, trắc trở.
2.2. Người phụ nữ với nỗi đau trong đường tình duyên
Do sống trong xã hội phong kiến - một xã hội coi thường phụ nữ và luôn bị lễ giáo
trói buộc, không được hoạt động xã hội, không được học hành thi cử, chịu nhiều thiệt
thòi cả ngoài xã hội cũng như trong gia đình. Chính vì vậy, người phụ nữ không chỉ chịu
thiệt thòi, bất hạnh trong cuộc sống mà còn đau khổ trong đường tình duyên. Có lẽ phải
chịu nhiều lận đận trong đường tình duyên, hai lần làm lẽ nhưng cả hai lần đều ngắn ngủi
nên Hồ Xuân Hương rất hiểu và đồng cảm với phận của những người phụ nữ không may
mắn trong đường tình duyên. Đó là nỗi khổ của người phụ nữ làm lẽ, người phụ nữ
không chồng mà chửa, người phụ nữ chết chồng…Điều đáng nói ở đây là bà dám lên
tiếng tố cáo gay gắt, quyết liệt xã hội phong kiến thối nát, mục ruỗng mà không ai dám
lên tiếng. Hồ Xuân Hương khắc họa thân phận khổ nhục của người làm lẽ, năm thì mười
họa mới được gần chồng. Họ là thứ làm mướn không công và để thỏa ham muốn nhục
dục của bọn nhà giàu. Nhà thơ vạch trần bản chất xấu xa của chế độ đa thê phong kiến.
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
Năm thì mười họa hay chăng chớ,
Một tháng đôi lần có cũng không,
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
(Làm lẽ)

Nhà thơ nói về thân phận của người phụ nữ làm lẽ nhưng đồng thời đó cũng là cảnh ngộ
của bản thân bà.
Ai cũng biết trong cuộc đời cũ, đau khổ chẳng phải là phần riêng dành cho ai,
nhưng những người chịu đựng nhiều hơn cả vẫn là phụ nữ và nỗi đau của họ bao giờ
cũng có khía cạnh chua xót, tái tê riêng. Hồ Xuân Hương là nhà thơ của phụ nữ, bà thấu
hiểu tất cả những nỗi đau đó bằng kinh nghiệm của cuộc đời chung và cuộc đời riêng
chẳng ra gì của mình; và bằng tiếng thơ, muốn nói lên những tiếng nói chia sẻ với họ. Vì
vậy, thơ Xuân Hương luôn là tiếng kêu xé lòng của những người con gái nhẹ dạ.Trong
bài Không chồng mà chửa, nhà thơ lại viết về một cảnh ngộ của một người phụ nữ, cảnh
ngộ những cô gái không may có may có mang với người yêu của mình nhưng không
được xã hội chấp nhận.

Cả nể cho nên hóa dở dang,


Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng…
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,
Phận liễu sao đà nảy nét ngang.
Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?
Mảnh tình một khối thiếp xin mang.
Quản bao miệng thế lời chênh lệch
Không có, nhưng mà có mới ngoan
Trong bài thơ này Hồ Xuân Hương đã nhấn mạnh cái nghĩa, cái trách nhiệm mà
người đàn ông nào đó vô tâm trước hậu quả để lại cho người phụ nữ và tác giả đã đứng
về phía cô gái mà dùng một ý của câu ca dao:
Không chồng mà chửa mới ngoan
Có chồng mà chửa thế gian sự thường
Không chỉ cảm thông với thân phận của người làm lẽ, người phụ nữ không chồng
mà chửa mà Hồ Xuân Hương còn muốn an ủi những người phụ nữ mất chồng, muốn dịu
dàng với họ, để cho họ khuây khỏa nỗi đau và dìu họ trở lại với cuộc sống bình thường:
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng
Nín đi kẻo thẹn với non sông
(Dỗ người đàn bà khóc chồng)
Lúc thì đùa nghịch nhưng rất thân tình:
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì
Thương chồng nên mới khóc tì ti…
(Bỡn bà lang khóc chồng)
Trong văn học phong kiến của ta hiếm có nhà thơ nào độc đáo mà nhân tình đến
thế. Có thể nói từ sự ý thức sâu sắc về giá trị của người phụ nữ và cảnh ngộ ngang trái
của họ trong xã hội phong kiến, Hồ Xuân Hương đã trở thành một nhà thơ chống đối
phong kiến quyết liệt, một con người đả kích gay gắt những kẻ đại diện cho giai cấp
phong kiến thống trị cùng những gì chà đạp con người.

Ở bài Tự tình II, tác giả lại viết:


Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con
Sự sống của đất trời cứ vận hành như muôn thuở vậy, còn riêng mình thì vẫn cứ bất
hạnh, hẩm hiu trong số phận, trong tình duyên, tình duyên đã ít lại còn phải chia ba sẻ
bảy nữa.
Ðọc thơ bà, người đọc có cảm giác người phụ nữ trong thơ Xuân Hương gần như
chưa một lần nhận diện được hạnh phúc.
2.3. Người phụ nữ phê phán, đả kích giai cấp phong kiến thống trị
Trong văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, Hồ Xuân
Hương là một nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa, bởi vì thơ bà trước hết là tiếng nói tâm tình
của phụ nữ. Không phải người phụ nữ lầu son gác tía, chinh phụ hay cung tần, mà là
người phụ nữ bình thường, người phụ nữ lao động có nhiều bất hạnh trong cuộc sống.
“Có thể nói, ngoài văn học dân gian, Hồ Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên trong lịch sử
văn học dân tộc đã đem đến cho thơ văn tiếng nói của những người phụ nữ ấy: những
tiếng than và những tiếng thét, những tiếng căm hờn và những tiếng châm biếm sâu cay”.
Bởi trong xã hội lúc bấy giờ, phụ nữ là người chịu nhiều thiệt thòi nhất. Họ không chỉ bị
áp bức về mặt giai cấp mà trong tư cách là người phụ nữ nói chung, họ còn bị áp bức về
mặt giới tính với đạo “tam tòng”. Tất nhiên, họ cũng không lặng câm mà chịu đau khổ,
họ vẫn nói, vẫn kêu, vẫn đòi hỏi. Nhưng nhìn chung, tiếng nói ấy chỉ là nững tiếng kêu
thương thất vọng. “Đại diện cho giới phụ nữ, Hồ Xuân Hương đã nói bằng thứ ngôn ngữ
riêng của mình, kết hợp nhuần nhuyễn với tiếng nói của nhân dân lao động. Tiếng nói đã
kích, tố cáo được nữ sĩ sử dụng thông qua công cụ cố hữu của truyền thống văn học dân
tộc, cũng như phổ biến trên thế giới: tiếng cười châm biếm”. Mặc dù bị trói buộc trong
những quan niệm, phong tục cổ hủ và lạc hậu... nhưng trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn
đẹp, vẫn sáng, vẫn luôn vùng lên để đòi bình quyền để muốn nói rằng: họ là nữ nhi nhưng
vai trò của họ trong xã hội là rất lớn.
Đến giai đoạn này, có người đã chống lại vua khi vua không ra vua nữa. Riêng Hồ
Xuân Hương với thân phận nữ nhi, chắc bà không có ý định chống vua, mà chỉ mắng nhẹ
mà đau vô kể:
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy
Chúa dấu yêu vua một cái này
Nếu đối với chúa, Hồ Xuân Hương châm chích thói mê hoa, hiếu sắc thì với bọn
quan thị, nữ sĩ đã giơ cao đánh thẳng vào cuộc sống trái lẽ tự nhiên của chúng. Đứng
trước cái dị hợm, quái gở ấy, bà văng tục, bà chửi đổng, cười mỉa:
Đố ai biết đó vông hay chốc
Còn kẻ nào hay cuống với đầu
Hồ Xuân Hương châm biếm, đã kích từ vua đến quan, nhưng có lẽ chịu nhiều nhất
là bọn “hiền nhân quân tử”, bọn mô phạm phong kiến. Đối với “quân tử”, Xuân Hương
không chỉ chôn chân chúng trước bức tranh thiếu nữ ngủ ngày, mà còn bắt chúng “mỏi
gối chồn chân vẫn muốn trèo” lên đèo Ba Dội.
Bên cạnh những "hiền nhân quân tử" là đám nho sĩ dốt nát lại còn huênh hoang.
Xuân Hương gọi chúng là “phường lòi tói”, là “lũ ngẩn ngơ”, xưng chị và đòi dạy chúng
làm thơ:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Sự dâm đãng không chỉ lén lút phía hậu hiên, mà còn công khai trước bàn thờ phật:
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm
Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà.
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.
Không những thế, hàng ngũ đại diện cho Nho giáo bà cũng không bỏ qua:
Khen thay con tạo khéo khôn phàm
(Hang Thánh Hóa)
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
(hang Cắc Cớ)
Qua thơ Xuân Hương ta thấy cả một xã hội phong kiến thời bà bị chế giễu, đả kích.
Bà dùng tiếng cười, thông qua yếu tố tục, xoáy vào đời sống bản năng của giai cấp thống
trị để từ đó đả kích, tố cáo thói đạo đức giả của chúng. Nhưng thơ Xuân Hương đâu chỉ
biết cười, mà đọc thơ bà ta nghe như có tiếng nấc bên trong. Tôi muốn lấy ý kiến của nhà
thơ Xuân Diệu thay cho lời kết của mình: “những nhà trào phúng vĩ đại không nhe răng
ra mà cười, không chửi bằng cả lời nói, họ ném trái tim của họ, ném cả cuộc đời của họ
vào cuộc đời, cũng như những nhà trữ tình vĩ đại. Trong xã hội cũ, thơ của họ thực chất là
máu và nước mắt mặc cái áo trào phúng đó thôi”.
2.4. Vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
Viết về người phụ nữ, Hồ Xuân Hương có những bài thơ bày tỏ niềm kiêu hãnh của
mình về vẻ đẹp hình thức, vẻ đẹp tâm hồn và vẻ đẹp của tài năng, trí tuệ của người phụ
nữ.
a. Vẻ đẹp hình thức.
Người phụ nữ trong văn học giai đoạn này xuất hiện không còn cái khép nép trong
cái mô thức “tại gia tòng phụ, phu tử tòng phu” hay “công, dung, ngôn, hạnh”. Trong
cuộc tao ngộ các giai nhân của văn học giai đoạn này, người ta thấy thường là những cô
gái trẻ đẹp, thanh lịch, với nụ cười trên môi và chan chúa tình yêu đời, yêu người trong
lòng. Hồ Xuân Hương sáng tác trong bối cảnh ấy, với tính cách và cảnh ngộ riêng của
mình, nhà thơ viết rất nhiều về phụ nữ, nữ thi sĩ xứng đáng là nhà thơ của phụ nữ. Điều
này càng được làm rõ hơn qua bài thơ “Đề tranh tố nữ”:
Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình
Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Đôi lứa như in tờ giấy trắng.
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.
Xiếu mai chi dám tình trăng gió,
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh,
Còn thú vui kia sao chẳng vẽ,
Trách người thợ vẽ khéo vô tình
Trong văn học ta có lời thơ nào ca ngợi các cô gái và tuổi trẻ của các cô gái đẹp hơn
thế nữa. Nhưng độc đáo hơn cả là bài thơ “Thiếu nữ ngủ ngày” của nhà thơ. Đây là một
bài không phải ca ngợi vẻ đẹp của phụ nữ nói chung, hay ca ngợi tuổi trẻ, mà ca ngợi vẻ
đẹp trên cơ thể của một cô gái trẻ tuổi. Văn học giai đoạn này, ta bắt gặp nhiều tác giả
miêu tả vẻ đẹp của giai nhân như Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều.
Hay trong tác phẩm Hoa tiên tác giả cũng miêu tả vẻ đẹp của Dao Tiên, hay trong Truyện
Tây sương miêu tả vẻ đẹp của Thôi Oanh Oanh…Đó là cái vẻ đẹp trên khuôn mặt với đôi
mắt và nụ vười, cái đẹp của đôi mắt và làn da….cách miêu tả của các nhà thơ nói chung
là ước lệ tượng trưng. Riêng với Hồ Xuân Hương thì công khai ca ngợi và khẳng định vẻ
đẹp thân thể của người phụ nữ. Cách miêu tả của Xuân Hương thuộc vào loại độc đáo
nhất của thời đại. Bà chú ý đến những bộ phận thân thể thường được giấu kín của con
người. Những bộ phận đó văn học thời đại thường né tránh. Riêng Hồ Xuân Hương lại
nhìn thấy đó chính là một trong những biểu hiện của vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ.
Cách miêu tả của bà cụ thể, không chung chung, mờ nhạt:
Lược trúc chải dài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Ðôi gò bồng đảo sương còn ngậm
Một lạch đào nguyên suối chửa thông
(Thiếu nữ ngủ ngày)
Đây là sự trinh trắng ngây thơ, là sự hồn nhiên trọn vẹn. Cách miêu tả của nhà thơ
không có một chút bỡn cợt, trái lại thể hiện một thái độ hết sức nâng niu, trân trọng.
Trong thời buổi suy tàn của xã hội phong kiến, con người bị chà đạp, bị giày xéo, nhiều
giá trị bị đảo lộn, bị nghi ngờ, nhà thơ giữ cho mình nguyên vẹn cặp mắt trong veo để
nhìn người, nhìn đời, để thấy hết mọi giá trị đẹp của con người. Cũng vì thế mà thơ Xuân
Hương có giá trị nhân đạo sâu sắc.
b. Vẻ đẹp tâm hồn.
Trong xã hội cũ, có ai dám như Xuân Hương đứng ra bênh vực cho những người
con gái dở dang ấy, có ai dám ngang nhiên thừa nhận những quy tắc đi ngược lại khuôn
mẫu của lễ giáo phong kiến như bà. Những điều đó chỉ có ở bản lĩnh, một trái tim tha
thiết, nồng ấm sự cảm thông của một tâm hồn nghệ sĩ.
Từ những tiếng nói cảm thông ấy, Xuân Hương còn lên tiếng đề cao ca ngợi họ, tìm
thấy vẻ đẹp thực sự chân chính ở họ. Trong một loạt hình tượng nói về số phận bấp bênh,
hẩm hiu của người phụ nữ như “chiếc bánh trôi” “bảy nổi ba chìm”; hay quả mít “vỏ nó
xù xì”; con ốc nhồi “đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi”... nhà thơ luôn chú trọng nêu bật cái
đẹp bên trong, cái đẹp tâm hồn của họ. Quả mít tuy “vỏ nó xù xì” nhưng “múi nó dày”.
Trong bài Bánh trôi nước, nhà thơ đã ca ngợi, đề cao, trân trọng phẩm chất kiên trinh của
người phụ nữ. Dù sống trong hoàn cảnh nào họ cũng giữ được tấm lòng son sắt:
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
( Bánh trôi nước)
Mặc dù, số phận người phụ nữ không được định đoạt, lênh đênh giữa cuộc đời
nhưng họ không cam chịu, họ vẫn giữ sự thủy chung, son sắt, bất biến với tình yêu. Một
lời nói thể hiện niềm tự hào về phẩm chất thủy chung của người phụ nữ.
Trong bài thơ Ðề tranh tố nữ, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp bất diệt của tuổi xuân, sự
trinh trắng, ngồn ngộn sức sống của những cô gái đang xoan:
Ðôi lứa như in tờ giấy trắng
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh
Bài Mời trầu lại là cái nhìn về vẻ đẹp của khát vọng sống.
Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Ðừng xanh như lá, bạc như vôi.
Giống như bao cô gái khác, Xuân Hương cũng khao khát có một tình yêu bền chặt,
nồng cháy. Nàng cũng muốn mở lòng mình ra để đón lấy tình yêu nồng thắm từ người
bạn đời tri âm tri kỉ, đón những hương sắc của cuộc đời. Xuân Hương hồi hộp chờ đợi.
Nhưng rồi năm tháng trôi qua, những mùa xuân đi không trở lại, nhà thơ dần dần nhận ra
cái bạc bẽo của con người và cuộc đời, cái hẩm hiu của số phận. “Câu thơ nhân hậu của
hờn dỗi, duyên dáng mà có cái gì như đanh đá, thách thức”
c. Vẻ đẹp của tài năng, trí tuệ
Trong các nhà thơ phụ nữ ở nước ta, Hồ Xuân Hương và thơ ca của bà là một hiện
tượng khá đặc biệt được rất nhiều người đàm luận từ xưa đến nay. Tục truyền hồi Xuân
Hương còn đi học; một hôm gặp phải trời mưa, đến sân nhà trường, đất trơn, cô nữ sinh
trượt chân ngã oạch một ái, các bạn học thấy thế đều cười ầm lên. Nhưng Xuân Hương đã
đứng ngay dậy, ung dung đọc hai câu thơ rằng:
Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài
rồi bình thản đi vào. Mấy chàng trai thấy thế cũng phục tài.
Lại có chuyện, một hôm Xuân Hương đi thăm chùa Trấn Quốc về, nàng đang lững
thững trên bờ Hồ Tây, bỗng thấy có mấy thầy khóa bước rảo lên theo sát ở đằng sau rồi
trêu ghẹo nàng, có người lại mang cả văn chương chữ nghĩa ra nữa, nàng đọc cho một bài
thơ rằng:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Có thể nói rằng, trong cái xã hội phong kiến “trọng nam khinh nữ”như vậy, Xuân
Hương vẫn dám khẳng định tài năng, trí tuệ hơn người của mình.
Hay trong bài Ðề đền Sầm Nghi Ðống, tác giả đã thể hiện được sự tự ý thức về
mình, thể hiện được tài năng của người phụ nữ.

Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo


Kìa đền thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được.
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.
Ði qua ngôi đền thờ tên tướng bại trận, nhà thơ phụ nữ này đã không chịu cất nón,
cúi đầu chào kính cẩn, trái lại còn buông lời chê cười, mỉa mai: ghé mắt tức là nhìn liếc,
nhìn bằng nửa con mắt. Ðặc biệt ở hai câu kết nhà thơ đã dám nói một điều táo bạo: Nếu
được làm trai thì sự nghiệp anh hùng của ta sẽ không xoàng, không tồi tệ như sự anh
hùng của nhà ngươi đâu.
Qua đây, ta cũng hiểu thêm ít nhiều về người phụ nữ xưa, không chỉ đẹp về hình thể
mà họ còn là những con người có đầy tài năng.
III. Nghệ thuật xây dựng hình tượng trong thơ Hồ Xuân Hương
Với ngôn ngữ dân gian, với bản lĩnh của một người khát khao được sống và sống
mãnh liệt, với cặp mắt quan sát sắc sảo và biết chọn lọc cái gì cần thiết….Xuân Hương có
một nghệ thuật xây dựng hình tượng độc đáo, không lẫn với ai, tạo cho mình một phong
cách riêng. Ngôn ngữ thơ bà được lựa chọn trong kho tàng ngôn ngữ của văn học dân
gian. Trong kiến trúc câu thơ, yếu tố ca dao, tục ngữ được bà đặt rất đúng chỗ nên rất tự
nhiên và nó có sức mạnh riêng của nó. Tác giả dùng những vần khó gieo, thi pháp trung
đại gọi là tử vận-vần chết, khó họa lại nhưng khi sử dụng thành công lại có giá trị độc
đáo. Chẳng hạn vần ênh trong bài Tự tình số III, vần này đã gợi cảm giác bất định, mong
manh về số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Thơ Ðường luật vốn được dùng trong thi cử, niêm luật chặt chẽ, hình thức đường
bệ, nội dung cũng đường bệ. Hồ Xuân Hương đã đem đến cho thể thơ này một nội dung
rất thông tục “hình ảnh trong thơ thì sinh động, góc cạnh, luôn chuyển động chứ không
chết dí một chỗ”
KẾT LUẬN
Tiếng thơ Xuân Hương là tiếng thơ của một người phụ nữ tài hoa, cá tính nhưng
phải chịu sự gò bó của lễ giáo phong kiến khắt khe, kìm kẹp cuộc sống. Bao khao khát,
bao nguồn sống mãnh liệt không được bộc lộ trong cuộc sống được bà gởi gắm cả vào
trong thơ. Thơ Xuân Hương là những nỗi niềm không chỉ của riêng tác giả mà của tất cả
những phụ nữ bất hạnh trong xã hội phong kiến.Cuộc đời và thơ Hồ Xuân Hương là một
hiện tượng hết sức phức tạp, còn nhiều điều chưa rõ. Dẫu sao ta cũng tự hào vì trong văn
học Việt Nam có một nữ thi sĩ đầy tài năng lại xuất hiện trong một xã hội mục ruỗng.

Ai cũng biết, cuộc đời đau khổ chẳng phải là phần riêng dành cho ai, nhưng những
người chịu đựng nhiều hơn cả vẫn là phụ nữ và nỗi đau của họ bao giờ cũng có khía cạnh
chua xót, tái tê riêng. Hồ Xuân Hương là nhà thơ của phụ nữ, bà thấu hiểu tất cả những
nỗi đau đó bằng kinh nghiệm của cuộc đời chung và cuộc đời riêng chẳng ra gì của mình;
và bằng tiếng thơ, muốn nói lên những tiếng nói chia sẻ với họ.
Trong lịch sử văn học dân tộc, có lẽ Xuân Hương là người đầu tiên dám cất lên tiếng
nói khẳng định tài năng trí tuệ của người phụ nữ, nói lên ước vọng được khẳng định
mình. Và cao hơn hết chính là tư tưởng nhân đạo trong thơ Xuân Hương đem lại cho đến
nay vẫn còn giá trị.
Có thể nói, tuy chưa phản ánh được những mâu thuẫn lớn của thời đại, chưa có tầm
nhìn xa để thấy hết những đau khổ và khát vọng của con người, song Hồ Xuân Hương
cũng đã đóng góp cho nền thơ ca dân tộc một tiếng thơ hết sức độc đáo. Thơ bà là thứ thơ
giải phóng cá tính, dám khẳng định cá tính và bản lĩnh riêng. Bà là nhà thơ đầu tiên dám
đưa cá tính vào trong thơ. Chính cá tính ấy đã giúp cho tiếng thơ của bà khi nói về người
phụ nữ có một sắc thái riêng, hoàn toàn khác với những nhà thơ viết về phụ nữ trước đó
và cả sau này. Hình tượng người phụ nữ trong thơ Xuân Hương luôn ngẩng cao ở tư thế
hiên ngang, đầy bản lĩnh và bà không chìm vào khóc thương cho số phận của họ.
Ngày nay, cuộc sống đã đổi thay nhiều, xã hội đã công bằng hơn với người phụ nữ.
Nhưng có những nỗi đau khổ đã trở thành hằng số muôn đời của người phụ nữ và đâu đó
xung quanh ta vẫn còn nhiều mảnh đời chị em bất hạnh. Vì vậy, mà thơ Xuân Hương vẫn
còn vẹn nguyên giá trị và sức sống. Đọc thơ Xuân Hương, không chỉ là để đồng cảm, để
sẻ chia mà còn là chiêm nghiệm, suy ngẫm.

You might also like