Professional Documents
Culture Documents
CHỦ ĐỀ 1
Hình tượng người phụ nữ trong văn học cuối thế kỉ 18 – nửa đầu thế kỉ 19
Note: Dừng ở Kiều Nguyệt Nga, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Truyện Kiều (không
đưa Vũ Nương) – Vì sao người phụ nữ mới là hình tương trung tâm?
*Điểm mới về người phụ nữ: Tất cả nỗi khổ (làm đĩ,…) được nói đến với sự đồng cảm,
quan trọng là ca ngợi, quan tâm đến vẻ đẹp hình thể của người phụ nữ. Vẻ đẹp tài năng
của người phụ nữ. Ý thức được giá trị của mình. Tiếng nói chủ động trong tình yêu và
hôn nhân. Tiếng nói thầm kín, kín đáo thể hiện khao khát những tự nhiên mang tính bản
năng , trần thế (tình dục), xuất phát hoàn toàn từ nữ chứ không phải hình tượng nam
mang giọng nữ.
“Chị em tôi tỏa nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ”
Từ những hình ảnh người phụ nữ rất tự nhiên bước vào văn học, như một định mệnh
nghệ thuật tất yếu. Hình ảnh của “một nửa thế giới” ấy đã sớm phập phồng trong trái tim
của bao nghệ sĩ, hiện diện khắp nơi trong đứa con tinh thần của họ. Từ buổi hồng hoang
của lịch sử với văn học dân gian cho đến khi văn học viết ra đời, nguồn học mạch đó tựa
dòng thủy lưu chưa bao giờ đứt mạch. Hình tượng người phụ nữ càng trở nên đặc biệt
hơn ở giai đoạn văn học cuối thể khỉ 18 – nửa đầu thế 19, khi lần đầu tiên người phụ nữ
bước ra khỏi bi kịch của mình, cất tiếng nói…
Từ cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX thì hình tượng người phụ nữ đã trở thành đối
tượng phản ánh của văn học giai đoạn này, trong thơ của rất nhiều tác giả như: Nguyễn
Gia Thiều, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương... Những tác gia này đã lên tiếng bênh vực cho
thân phận người phụ nữ và đấu tranh đòi quyền tự do, bình đẳng cho họ trong xã hội
phong kiến. Chính sự lên tiếng của rất nhiều tác giả về người phụ nữ đã hình thành nên
trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIII – nửa
đầu thế kỷ XIX.
1. Bối cảnh ra đời hình tượng người phụ nữ thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX
1.1 Bối cảnh xã hội
1.1.1 Thời đại đầy biến động
Nước Việt đi vào một trong những thời kì đen tối của lịch sử
- Vua chỉ mải mê trong giấc mộng quyền quý mà quên đi trách nhiệm với nhân dân
của mình.
- Thuế cao sưu nặng, mất mùa hạn hán, đời sống nhân dân cơ cực
- Số phận con người mỏng manh, chao đảo
- Những phong trào nông dân nổi dậy tất yếu. Những cuộc đàn áp diễn ra trong máu
của người ra trận và nước mắt của gia quyến ở hậu phương. Chưa bao giờ vấn đề
thân phận của con người, bi kịch cá nhân được đặt ra riết róng như thế. Có lẽ chính
chất xúc tác mạnh mẽ để chuyển lay ngòi bút của tác giả để từ đó hình tượng
người phụ nữ ra đời trong thấm đẫm tình người xót xa.
1.1.2 Xã hội nam quyền
- Trong các mối quan hệ với vua (quân), cha (phụ), chồng (phu), con (tử), người phụ
nữ luôn là kẻ phụ thuộc và phục tùng, bất cứ lúc nào cũng có thể trở thành nạn
nhân của sự chuyên quyền độc đoán
- Nho giáo đề cao hình mẫu lý tưởng của người phụ nữ là liệt nữ. Song, những “tiêu
chuẩn” đạt được bật liệt nữ được ghi vào sổ sách nhiều khi đến mức phản nhân
đạo
- “Tam thê tứ thiếp” đã là điều quá bình thường cho mong muốn của một người đàn
ông trong xã hội phong kiến. Song, mấy ai hiểu được nỗi đơn lẻ đến khôn cùng
của người thiếp lẽ mọn.
NỘI DUNG PHẢN ÁNH TRONG HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ THẾ KỈ
XVIII – NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX
Trong không khí của trào lưu nhân văn chủ nghĩa, người nghệ sĩ đã quan
tâm đặc biệt đến hình ảnh người phụ nữ. Đó không chỉ là cái nhìn về nhan
sắc bên ngoài mà là một cái nhìn thấu suốt, văn thi nhân còn ca ngợi vẻ đẹp
tâm hồn với những phẩm chất tốt đẹp.
Cũng không thể phủ nhận mối tình giữa Từ Hải và Kiều, một mối tình
không chỉ là tình yêu mà còn là ân nghĩa. Khát vọng về một hạnh phúc trọn
vẹn, bề một tình yêu chân thành không bao giờ bị vùi lấp trong Kiều nên
nàng không nhừng kiếm tìm và trân trọng những mối tình đã qua dù kết cục
có như thế nào.
Nàng đã phải đối mặt với một thực tại chua xót, bẽ bàng, đối mặt với bao
nhiêu đau khổ, bao nhiêu uất ức đã bắt đầu phản tỉnh. Nàng hiểu ra rằng
hạnh phú không phải được tạo nênn từ lầu vàng điện ngọc, từ những thứ
phù phiếm, xa hoa. Hạnh phúc chỉ đến từ tình yêu chân thành, thủy chung.
Cuộc sống êm đẹp nhất là cuộc sống vui vẻ sum vầy, có chồng có vợ. Nếu
không phải là một con người có tâm hồn biết sống và khát khao sống, khao
khát hạnh phúc thì không có những trăn trở đến thế.
1.3 Ý thức khẳng định giá trị cá nhân
Để có thể duy trì được những phẩm chất tốt đẹp của mình giữa lòng xã hội
phong kiến bấy giờ, để không ngừng nuôi những khát vọng về một tình
yêu, hạnh phúc thật sự, người phụ nữ ắt hẳn có ý thức về giá trị của mình,
cho rằng mình đáng được hưởng hạnh phúc đích thực ấy. Càng ý thức rõ
được điều đó, người phụ nữ càng ý thức được việc phải khẳng định giá trị
cá nhân của mình.
Giữa cảnh nhơ nhớt chốn lầu xanh, Kiều cũng đã có cái “giật mình” đầy
nhân bản:
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.”
Đó là cái giật mình từ cảm xúc bên trong, vì nhận ra sự tàn phá thảm hại về
thể xác và phẩm cách của mình ở chốn lầu xanh, sự cô đơn lẻ loi của mình
và sự yếu đuối bất lực trước bao nhiêu sự xấu xa, cạm bẫy đang bủa vây mà
không thể chống đỡ. Điệp từ “minhg” lặp lại ba lần trong một câu thơ như
tiếng nấc nghẹn ngào, tha thiết của Thúy Kiều ý thức được về phẩm giá,
nhân cách, quyền sống bản thân đó cũng là ý thức cá nhân mà Nguyễn Du
muốn truyền tải đến người đọc. Vì thương mình chính là đỉnh cảo nhất của
sự tự ý thức cá nhân.
Người cung nữ trong “Cung oán ngân” đã rất mạnh mẽ muốn bứt thoát để
sống là chính mình, khẳng định giá trị của cá nhân mình:
“Đang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!”
1. Hình ảnh người phụ nữ trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du:
+ Truyện Kiều chứa chan tình yêu thương với người người phụ nữ. Cảm hứng chủ
đạo của tác phẩm là cảm hứng về thân phận con người.
+ Thể hiện sự cảm thông sâu sắc, sự thấu hiểu nỗi đau khổ của người phụ nữ phải
gánh chịu trong xã hội phong kiến; đồng cảm với bi kịch, mất mát dằn vặt về thể
xác lẫn tinh thần của người phụ nữ (đoạn trích Trao duyên, Nỗi thương mình)
+ Phát hiện ca ngợi và có cái nhìn đầy trân trọng đối với vẻ đẹp, phẩm chất tốt đẹp
của người phụ nữ (tài sắc, vị tha chung thủy..)
+ Đề cao tình yêu tự do, đồng cảm với những khát vọng giải phóng con người.
+ Là bản cáo trạng đanh thép tố cáo thế lực chà đạp con người, đặc biệt là người
phụ nữ trong xã hội phong kiến.
2. Hình ảnh người phụ nữ trong “Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn:
+ Là tiếng kêu thương của người phụ nữ chờ chồng, nhớ thương chồng chinh
chiến phương xa.
+ Tâm trạng cô đơn, mong ngóng mòn mỏi đến tuyệt vọng (đoạn trích Tình cảnh
lẻ loi của người chinh phụ)
+ Là tiếng nói khát khao yêu đương, là tiếng nói đòi quyền sống, quyền được
hưởng hạnh phúc lứa đôi …
+ Tố cáo chiến tranh phi nghĩa đẩy bao chàng trai ra trận và người phụ nữ héo
mòn chờ chồng.
3. Hình ảnh người phụ nữ trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều:
+ Viết riêng về cuộc đời bất hạnh của người cung nữ, thông qua đó bộc lộ những
phẫn uất bất bình trước xã hội.
+ Thể hiện sâu sắc tâm trạng người cung nữ đang thất vọng cô đơn chán chường
đến tận cùng. Tâm trạng sầu oán đi từ cảm giác đơn độc trước thời gian tàn tạ,
mênh mông trống trải trước không gian, không tìm thấy đâu niềm vui trong cuộc
sống đến nỗi niềm thương thân trách phận. Thấp thoáng đằng sau tiếng nói bi kịch
là ý thức phản kháng tố cáo chế độ cung tần, khao khát hạnh phúc và ước vọng
một cuộc đời đổi thay (Phân tích đoạn Nỗi sầu oán của người cung nữ).
Hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại nói chung
a. Khái niệm hình tượng và hình tượng trong văn học
“Hình tượng là sự phản ánh hiện thực một cách khái quát bằng nghệ thuật dưới
hình thức những hiện tượng cụ thể, sinh động, điển hình, nhận thức trực tiếp bằng cảm
tính”. Hình tượng văn học trong các tác phẩm luôn là phương tiện hình thức để nhà văn
bộc lộ giá trị tư tưởng và phong cách nghệ thuật của mình . Mỗi nhà văn khi cầm bút phải
không ngừng sáng tạo tìm tòi để xây dựng hình tượng nhân vật tiêu biểu đặc sắc. Không
phải tác phẩm văn học nào cũng có hình tượng văn học. Không phải nhân vật nào trong
tác phẩm văn học đều trở thành hình tượng nhân vật văn học. Để trở thành hình tượng
văn học điều kiện tiên quyết là phải có tính điển hình. Trong văn học, hình tượng nhân
vật phải là: nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Nghĩa là nhân vật văn học ấy
phải có sức tập trung khái quát cao. Nhân vật ấy phải có những nét chung nhất của tầng
lớp, giai cấp... mà mình đại diện. Và bối cảnh xã hội mà nhân vật ấy xuất hiện phải là bối
cảnh điển hình của một vùng, một nơi vào một thời điểm lịch sử nhất định. Như vậy: hình
tượng nhân vật trong văn học là nhân vật điển hình trong tác phẩm văn học, mang đậm
nét khái quát của tầng lớp, giai cấp của nhân vật ấy, đồng thời là nhân vật có những nét
riêng đặc biệt, xuất hiện trong bối cảnh điển hình mà tác phẩm văn học ấy thể hiện.
b. Hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại
Trong giai đoạn nữa cuối thế kỉ XVIII - nữa đầu thế kỉ XIX, ở nước ta do điều kiện
xã hội đặc biệt của nó mà trong văn học dân tộc ta hình thành một trào lưu nhân đạo chủ
nghĩa. Trong trào lưu văn học này, lần đầu tiên hình ảnh người phụ nữ được đề cập đến
một cách phổ biến trong nhiều tác phẩm của nhiều tác giả: Đặng Trần Côn có người
chinh phụ trong Chinh phụ ngâm; Nguyễn Gia Thiều có người cung nữ trong Cung oán
ngâm khúc; Nguyễn Du có Thúy Kiều trong Truyện Kiều; trong những truyện Nôm của
những nhà thơ khác như Hoa Tiên, Sơ kính tân trang…cũng có những cô gái như Dao
Tiên, Quỳnh Thư…Nhưng điểm lại những nhân vật phụ nữ trong giai đoạn này, hầu như
tất cả đều xuất thân từ tầng lớp quý phái, ngay cả Thúy Kiều của Nguyễn Du cũng được
nhà thơ giới thiệu là: “Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung”(truyện Kiều).
Trong dòng chảy quan niệm Việt Nam, người phụ nữ đẹp trong văn học trung đại
cũng hiện diện trong một vẻ đẹp toàn diện cả bên trong lẫn bên ngoài. Đó là một sự kết
hợp hài hoà giữa sắc – tài – tâm, giữa nhan sắc và đức hạnh với “tam tòng, tứ đức”. Như
vậy, ngay trong cái nền chung trong quan niệm về người phụ nữ đẹp của người Việt đã có
một sự “dị biệt” qua từng thời kì văn học. Đó là vì quan niệm thẩm mỹ vốn là một phạm
trù “phụ thuộc vào chủ thể thẩm mỹ” (Chủ nghĩa Mác – Lênin). Cho nên, mỗi một thời
đại, tuỳ vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà có những quan niệm khác nhau. Thời trung đại,
với sự tiếp biến văn hoá đặc biệt là văn hoá Trung Hoa, tư tưởng của Khổng giáo, Đạo
giáo và Phật giáo đã chi phối đến quan niệm thẩm mỹ của thời đại. Người phụ nữ có đức
hạnh theo quan niệm của Nho gia (lễ giáo phong kiến) là người phải hội tụ đủ “tam tòng,
tứ đức” (Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử; và công, dung, ngôn hạnh).
Tuỳ theo cái nhìn chủ quan của tác giả mà vẻ đẹp mỗi nhân vật nữ lại được biểu hiện
không giống nhau. Đó là nàng Kiều (Truyện Kiều), người được xem là người đàn bà đẹp
nhất trong văn học Việt Nam. Nếu đặt Kiều vào trong lễ giáo phong kiến thì Kiều không
phải là người phụ nữ đức hạnh, nhưng không vì thế mà dân tộc ta phủ nhận vẻ đẹp của
Kiều từ ngoại hình đến tài năng, tâm hồn, tính cách. Như vậy, Kiều đẹp còn bởi tấm lòng
nhân hậu, bao dung vốn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta mà Nguyễn Du đã kế thừa.
Nguyễn Đình Chiểu thì đưa ra một quan niệm về nguời phụ nữ lý tưởng theo quan niệm
của lễ giáo phong kiến: “Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”(Lục Vân Tiên). Những
người phụ nữ trong Chinh phụ ngâm hay Cung oán ngâm cũng là những đại diện tiêu
biểu cho quan niệm về người phụ nữ đẹp trong thời đại họ. Nhưng với Hồ Xuân Hương,
người phụ nữ “nổi loạn” của thời đại, thì bà lại có cái nhìn mới về vẻ đẹp người phụ nữ,
đứng ở vị trí là người phát ngôn cho vẻ đẹp của giới mình. Xuân Hương là người đầu tiên
và có thể là duy nhất đưa vào văn học giai đoạn này không phải là cô gái quý tộc mà đích
thực là những cô gái bình dân. Bà tìm thấy vẻ đẹp thực sự của họ, nêu bật vẻ đẹp bên
trong, vẻ đẹp tâm hồn của họ (Bánh trôi nước, Con ốc nhồi, Quả mít); ca ngợi tuổi trẻ
tươi mát, trắng trong các cô gái đang xoan (Đề tranh tố nữ); đi vào đến từng chi tiết của
vẻ đẹp cơ thể (Thiếu nữ ngủ ngày)…
Tuy nhiên, trong quan niệm của dân tộc ta thời kì này thì người phụ nữ đẹp thường
gắn liền với số phận bất hạnh. Điểm lại gương mặt nhân vật nữ thời kì này ta thấy một
điểm chung ở họ là có một cuộc đời đầy sóng gió, bẽ bàng, không mấy người có được
hạnh phúc thật sự. Đặc điểm này phải chăng là do quan niệm “hồng nhan bạc mệnh”.
Nhà thơ nói về thân phận của người phụ nữ làm lẽ nhưng đồng thời đó cũng là cảnh ngộ
của bản thân bà.
Ai cũng biết trong cuộc đời cũ, đau khổ chẳng phải là phần riêng dành cho ai,
nhưng những người chịu đựng nhiều hơn cả vẫn là phụ nữ và nỗi đau của họ bao giờ
cũng có khía cạnh chua xót, tái tê riêng. Hồ Xuân Hương là nhà thơ của phụ nữ, bà thấu
hiểu tất cả những nỗi đau đó bằng kinh nghiệm của cuộc đời chung và cuộc đời riêng
chẳng ra gì của mình; và bằng tiếng thơ, muốn nói lên những tiếng nói chia sẻ với họ. Vì
vậy, thơ Xuân Hương luôn là tiếng kêu xé lòng của những người con gái nhẹ dạ.Trong
bài Không chồng mà chửa, nhà thơ lại viết về một cảnh ngộ của một người phụ nữ, cảnh
ngộ những cô gái không may có may có mang với người yêu của mình nhưng không
được xã hội chấp nhận.
Ai cũng biết, cuộc đời đau khổ chẳng phải là phần riêng dành cho ai, nhưng những
người chịu đựng nhiều hơn cả vẫn là phụ nữ và nỗi đau của họ bao giờ cũng có khía cạnh
chua xót, tái tê riêng. Hồ Xuân Hương là nhà thơ của phụ nữ, bà thấu hiểu tất cả những
nỗi đau đó bằng kinh nghiệm của cuộc đời chung và cuộc đời riêng chẳng ra gì của mình;
và bằng tiếng thơ, muốn nói lên những tiếng nói chia sẻ với họ.
Trong lịch sử văn học dân tộc, có lẽ Xuân Hương là người đầu tiên dám cất lên tiếng
nói khẳng định tài năng trí tuệ của người phụ nữ, nói lên ước vọng được khẳng định
mình. Và cao hơn hết chính là tư tưởng nhân đạo trong thơ Xuân Hương đem lại cho đến
nay vẫn còn giá trị.
Có thể nói, tuy chưa phản ánh được những mâu thuẫn lớn của thời đại, chưa có tầm
nhìn xa để thấy hết những đau khổ và khát vọng của con người, song Hồ Xuân Hương
cũng đã đóng góp cho nền thơ ca dân tộc một tiếng thơ hết sức độc đáo. Thơ bà là thứ thơ
giải phóng cá tính, dám khẳng định cá tính và bản lĩnh riêng. Bà là nhà thơ đầu tiên dám
đưa cá tính vào trong thơ. Chính cá tính ấy đã giúp cho tiếng thơ của bà khi nói về người
phụ nữ có một sắc thái riêng, hoàn toàn khác với những nhà thơ viết về phụ nữ trước đó
và cả sau này. Hình tượng người phụ nữ trong thơ Xuân Hương luôn ngẩng cao ở tư thế
hiên ngang, đầy bản lĩnh và bà không chìm vào khóc thương cho số phận của họ.
Ngày nay, cuộc sống đã đổi thay nhiều, xã hội đã công bằng hơn với người phụ nữ.
Nhưng có những nỗi đau khổ đã trở thành hằng số muôn đời của người phụ nữ và đâu đó
xung quanh ta vẫn còn nhiều mảnh đời chị em bất hạnh. Vì vậy, mà thơ Xuân Hương vẫn
còn vẹn nguyên giá trị và sức sống. Đọc thơ Xuân Hương, không chỉ là để đồng cảm, để
sẻ chia mà còn là chiêm nghiệm, suy ngẫm.