You are on page 1of 4

Diện mạo thơ Nôm Đường luật rất đa dạng, phong phú tiêu biểu như

Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình
Chiểu, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương…
Điều đáng quan tâm nhất ở Hồ Xuân Hương lại là tác giả nữ tiêu biểu
nhất thời trung đại với quan niệm trọng nam khinh nữ và thường phủ nhận vai
trò người phụ nữ. Hồ Xuân Hương là nhà thơ nữ viết về phụ nữ với những suy
nghĩ phóng khoáng, mới mẻ nhất là trong quan niệm tình yêu, hạnh phúc kể cả
tín ngưỡng phồn thực trong xã hội phong kiến đầy khuôn phép, lễ nghi nhằm
tiết chế cái tôi cá nhân nhất là đối với phụ nữ.
Thơ Nôm Đường luật của Hồ Xuân Hương về cơ bản đã có sự Việt hóa
mạnh mẽ ở ngôn từ hình ảnh, thi liệu nhất là tư tưởng. Trong các sáng tác của
bà hiện còn thì số lượng thơ chữ Nôm chiếm khá lớn và có sức phổ biến rộng
rãi hơn cả.
Trước hết, về mặt ngôn từ chúng tôi thấy rất nhiều từ ngữ nôm na, gần
gũi, các từ láy đôi, láy ba kể cả khẩu ngữ trong đời sống được đưa vào thơ hết
sức tự nhiên như: Chém cha, quệt, xiên ngang, đâm toạc, chín mõm mòm, đỏ
lòm lom, hỏm hòm hom, trơ toen hoẻn… Chính hệ thống ngôn từ giàu sức biểu
cảm đó đem lại cho thơ Nôm của bà sự gần gũi, mới mẻ nhưng vô cùng hiểm
hóc, khác hẳn những ngôn từ Hán học xơ cứng đã trở nên nhàm chán trong thơ
Đường luật vốn gò bó, chật hẹp:
“Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm thì mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không”.
Làm lẽ
Điều đáng lưu ý thứ hai trong thơ Hồ Xuân Hương là ở việc sử dụng
những hình ảnh biểu tượng, đa nghĩa trong cả thơ vịnh cảnh, vịnh vật, vịnh việc.
Các hình ảnh, biểu tượng này cơ bản được nhìn qua “lăng kính phồn thực” như
nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra.
Chính điều này đem lại cho thơ Nôm của bà sự dân dã, gần gũi với thơ ca
dân gian. Có lẽ cũng chính điều này mà có hiện tượng chồng lấn văn bản mà các
nhà văn bản học còn tiếp tục nghiên cứu bởi có thể có những sáng tác của các
Nho sĩ không đề tên sau đó được phổ biến và mặc định là thơ của Hồ Xuân
Hương, ở đây chúng tôi chỉ khảo sát những bài thơ đã được chúng minh của bà.
Trong các hình ảnh, biểu tượng đó chúng ta dễ dàng liệt kê như: Kẽm
Trống, đèo Ba Dội, hang Cắc Cớ, quả mít, ốc nhồi, cái quạt, tát nước, đánh đu,
trống thủng, giếng nước… Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng thông qua hệ thống
hình ảnh, biểu tượng đó, Hồ Xuân Hương đã thể hiện những diễn ngôn riêng
của mình, đó là vấn đề nhục cảm, tính dục trong khi xã hội phong kiến thường
tránh đề cập đến:
“Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh kẻ thì trông,
Trai co gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng”.
Đánh đu
Khi đề cập đến quá trình Việt hóa thơ Đường luật ở Hồ Xuân Hương
chúng ta không thể không nhắc đến những vấn đề thuộc về tư tưởng thơ của bà.
Trong khi nhiều Nho sĩ thời phong kiến tuân thủ những nguyên tắc sáng tác chi
phối thời bấy giờ là “Văn dĩ tải đạo” (Văn chở đạo) và “Thi dĩ ngôn chí” (Thơ
nói chí) thì Hồ Xuân Hương hầu như không đề cập đến.
Thơ của bà thường mang nỗi niềm của người phụ nữ nhiều lận đận trong
tình duyên, bày tỏ khát vọng về hạnh phúc, tình yêu lứa đôi, khẳng định những
phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ, khát vọng bình đẳng giới, nhưng trên hết
vẫn là tiếng nói của một người yêu đời, yêu cuộc sống.
Điều này thể hiện khá rõ trong cảm hứng sáng tác nói chung cũng như
qua những bài thơ cụ thể. Có thể nói trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động
thơ Nôm của bà cùng với Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm
khúc… đã góp phần hình thành trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học trung
đại cũng như giai đoạn văn học cổ điển trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc.
Những vấn đề “nữ quyền luận” đã được vang lên mạnh mẽ và đầy bản
lĩnh: “Ví đây đổi phận làm trai được/ Thì sự anh hùng há bấy nhiêu” (Đề đền
Sầm Nghi Đống) hay “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung” (Làm lẽ).
Khi đề cập đến những vấn đề trên chúng ta cũng không thể bỏ qua chùm
thơ Tự tình gồm ba bài. Có thể coi đây là tiếng thơ trữ tình tiêu biểu của nữ sĩ,
mỗi bài viết trong một hoàn cảnh nhưng thống nhất trong mạch cảm xúc, châu
tuần quanh một trục tâm trạng và cùng thể hiện một diễn ngôn về khát vọng tình
yêu, hạnh phúc của một người phụ nữ lận đận tình duyên.
Ngay nhan đề Tự tình đã phần nào hé mở cho người đọc ít nhiều những
cảm xúc chủ đạo ấy, mặc dù tự bộc lộ cảm xúc nhưng không giống Tự thán, Tự
thuật, Mạn thuật, Trần tình trong thơ Nguyễn Trãi. Hồ Xuân Hương mặc dù
trong nghịch cảnh nhưng vẫn mong mỏi có một tài tử văn nhân nào đó kiểu như
Có phải duyên nhau thì thắm lại:
“Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,
Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
Mõ thảm không khua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om.
Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,
Sau giận vì duyên để mõm mòm.
Tài tử văn nhân ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu già tom!”
Tự tình 1
Đến bài thơ Tự tình 2, nỗi cô đơn, trống vắng càng thể hiện rõ hơn giữa
khung cảnh đêm khuya thanh vắng, người phụ nữ nhận thấy thời gian trôi đi mà
tình duyên vẫn chưa trọn vẹn.
Bên cạnh đó, bài thơ còn thể hiện bản lĩnh, sức sống mạnh mẽ, sự phản
kháng quyết liệt qua những hình ảnh vầng trăng, đám rêu, hòn đá tất cả không
còn là sự vật vô tri vô giác mà mạnh mẽ, cứng cỏi như vạch đất, vạch trời mà
hờn oán, cật vấn khi mùa xuân của đất trời vòng trở lại cũng là lúc tuổi xuân của
người phụ nữ ra đi:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
Tự tình 2
Bài thơ Tự tình 3 mang tâm trạng của người phụ nữ gặp nhiều bất công,
ngang trái giữa cuộc đời qua hình ảnh con thuyền lênh đênh, trôi dạt. Người phụ
nữ ôm nỗi đau vào lòng, oán thán trước những nghịch cảnh nhưng cũng từ đó
thấy được khát vọng hạnh phúc chưa khi nào nguôi ngoai ở bà chúa thơ Nôm:
“Chiếc bánh buồn vì phận nổi lênh,
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh.
Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng,
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.
Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến,
Giong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh.
Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh”.
Tự tình 3
Có thể nói mặc dù những bài thơ Nôm của nữ sĩ họ Hồ có hình thức của
thơ Đường luật nhưng giọng điệu hết sức tự nhiên, phóng túng. Ngôn từ, hình
ảnh gần gũi với lời ăn tiếng nói nhân dân và trên hết, thơ của bà thể hiện tiếng
nói nữ quyền mạnh mẽ trong xã hội hà khắc, bảo thủ.
Quá trình Việt hóa thơ Đường luật đến Hồ Xuân Hương diễn ra mạnh mẽ
thể hiện tiếng nói dân tộc cũng như nhu cầu bộc lộ sáng tạo cá nhân trong các
sáng tác nghệ thuật đã được ý thức sâu sắc. Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương
từng viết: “Người phụ nữ lạ lùng đó, như một du khách, để lại dấu chân mình
trên nhiều danh lam thắng cảnh, táo bạo và tự tin đề thơ khắp nơi. Ở những địa
danh nàng qua, vạn vật trở nên rạo rực, căng đầy sức sống, thậm chí tràn ra
ngoài khuôn khổ thông thường. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam có
một tác giả, lại là tác giả nữ, dám nhìn thế giới qua lăng kính phồn thực học” -
“Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam” (NXB Đại học Quốc gia, tái bản, 1999).

You might also like