You are on page 1of 25

Phong trào Thơ Mới (1932-1945).

I.Khái niệm

Thơ mới là cách gọi trào lưu sáng tác thơ phi cổ điển, chịu ảnh hưởng các phép tắc tu từ, thanh vần của
thơ hiện đại phương Tây. Trở thành một hiện tượng trong khu vực các nước châu Á, thơ mới ra đời,
phát triển dựa trên yêu cầu cấp thiết hiện đại hóa thi ca truyền thống.

II. Hoàn cảnh lịch sử xã hội.

Những năm đầu thế kỷ XX, tình hình xã hội Việt Nam có nhiều biến chuyển. Quá trình khai thác thuộc địa
của thực dân Pháp thúc đẩy tầng lớp tư sản và tiểu tư sản thành thị phát triển mạnh mẽ. Sự xuất hiện
của hai giai cấp này với những tư tưởng tình cảm mới, những thị hiếu thẩm mỹ mới cùng với sự giao lưu
văn học Đông Tây đòi hỏi văn nghệ cũng cần phát triển phù hợp. Đầu thập niên 1930, văn hóa Việt Nam
diễn ra cuộc vận động đổi mới thơ ca mạnh mẽ với sự xuất hiện làn sóng thơ mới với cá tính sáng tác
độc đáo. Cuộc vận động đề xướng sử dụng các thể loại thơ mới, không tuân theo lối vần luật, niêm luật
của các thể loại thơ cổ. Cuộc canh tân này đi vào lịch sử văn học tên gọi Phong trào Thơ Mới.

III. Các thời kỳ phát triển của Phong trào thơ mới.

Thơ mới được thai nghén từ trước 1932 và thi sĩ Tản Đà chính là người dạo bản nhạc đầu tiên trong bản
hòa tấu của Phong trào thơ mới. Tản Đà chính là “gạch nối” của hai thời đại thơ ca Việt Nam, được Hoài
Thanh – Hoài Chân xếp đầu tiên trong số 46 tên tuổi lớn của Phong trào thơ mới. Và đến ngày 10-3-1932
khi Phan Khôi cho đăng bài thơ “Tình già” trên Phụ nữ tân văn số 22 cùng với bài tự giới thiệu “Một lối
thơ mới trình chánh giữa làng thơ” thì phát súng lệnh của Phong trào thơ mới chính thức bắt đầu.

Có thể phân chia các thời kỳ phát triển của Phong trào thơ mới thành ba giai đoạn:

1. Giai đoạn 1932 – 1935.

Đây là giai đoạn diễn ra cuộc đấu tranh giữa Thơ mới và “Thơ cũ”. Sau bài khởi xướng của Phan Khôi,
một loạt các nhà thơ như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Vũ Đình Liên liên tiếp công kích thơ Đường
luật, hô hào bỏ niêm, luật, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ …Trong bài “Một cuộc cải cách về thơ ca” Lưu
Trọng Lư kêu gọi các nhà thơ mau chóng “đem những ý tưởng mới, những tình cảm mới thay vào những
ý tưởng cũ, những tình cảm cũ”.

Cuộc đấu tranh này diễn ra khá gay gắt bởi phía đại diện cho “Thơ cũ” cũng tỏ ra không thua kém. Các
nhà thơ Tản Đà, Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Duy Từ, Nguyễn Văn Hanh phản đối chống lại Thơ mới một
cách quyết liệt. Cho đến cuối năm 1935, cuộc đấu tranh này tạm lắng và sự thắng thế nghiêng về phía
Thơ mới.

Ở giai đoạn đầu, Thế Lữ là nhà thơ tiêu biểu nhất của Phong trào thơ mới với tập “Mấy vần thơ” (1935).
Ngoài ra còn có sự góp mặt các nhà thơ Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên …

2. Giai đoạn 1936 – 1939.

Đây là giai đoạn Thơ mới chiếm ưu thế tuyệt đối so với “Thơ cũ” trên nhiều bình diện, nhất là về mặt thể
loại. Giai đọan này xuất hiện nhiều tên tuổi lớn như Xuân Diệu (tậpThơ thơ -1938), Hàn Mặc Tử (“Gái
quê” -1936, “Đau thương” -1937), Chế Lan Viên (“Điêu tàn” – 1937), Bích Khuê (“Tinh huyết” – 1939), …
Đặc biệt sự góp mặt của Xuân Diệu, nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”, vừa mới bước vào làng
thơ “đã được người ta dành cho một chỗ ngồi yên ổn”. Xuân Diệu chính là nhà thơ tiêu biểu nhất của
giai đoạn này.

Vào cuối giai đoạn xuất hiện sự phân hóa và hình thành một số khuynh hướng sáng tác khác nhau.
Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này được giải thích bằng sự khẳng định của cái Tôi. Cái Tôi mang màu
sắc cá nhân đậm nét đã mang đến những phong cách nghệ thuật khác nhau cả về thi pháp lẫn tư duy
nghệ thuật. Và khi cái Tôi rút đến sợi tơ cuối cùng thì cũng là lúc các nhà thơ mới đã chọn cho mình một
cách thoát ly riêng.

3. Giai đoạn 1940 – 1945.

Từ năm 1940 trở đi xuất hiện nhiều khuynh hướng, tiêu biểu là nhóm Dạ Đài gồm Vũ Hoàng Chương,
Trần Dần, Đinh Hùng …; nhóm Xuân Thu Nhã Tập có Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Đỗ Cung
…; nhóm Trường thơ Loạn có Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê,…

Có thể nói các khuynh hướng thoát ly ở giai đoạn này đã chi phối sâu sắc cảm hứng thẩm mỹ và tư duy
nghệ thuật trong sáng tác của các nhà thơ mới. Giai cấp tiểu tư sản thành thị và một bộ phận trí thức đã
không giữ được tư tưởng độc lập đã tự phát chạy theo giai cấp tư sản. Với thân phận của người dân mất
nước và bị chế độ xã hội thực dân o ép, họ như kẻ đứng ngã ba đường, sẵn sàng đón nhận những luồng
gió khác nhau thổi tới. Bên cạnh đó, một bộ phận các nhà thơ mới mất phương hướng, rơi vào bế tắc,
không lối thoát.

IV. Đặc điểm nổi bật của phong trào Thơ mới.

1. Sự khẳng định cái Tôi mạnh mẽ.

Nền văn học trung đại trong khuôn khổ chế độ phong kiến chủ yếu là một nền văn học phi ngã. Sự cựa
quậy, bứt phá tìm đến bản ngã đã ít nhiều xuất hiện trong thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ,… Đến
Phong trào thơ mới, cái Tôi ra đời đòi được giải phóng cá nhân, thoát khỏi luân lí lễ giáo phong kiến
chính là sự tiếp nối và đề cao cái bản ngã đã được khẳng định trước đó. Đó là một sự lựa chọn khuynh
hướng thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật mới của các nhà thơ mới.

Ý thức về cái “Tôi” đã đem đến một sự đa dạng phong phú trong cách biểu hiện. Cái Tôi với tư cách là
một bản thể, một đối tượng nhận thức và phản ánh của thơ ca đã xuất hiện như một tất yếu văn học.
Đó là con người cá tính, con người bản năng chứ không phải con người ý thức nghĩa vụ, giờ đây nó đàng
hoàng bước ra “trình làng” (chữ dùng của Phan Khôi). Xuân Diệu, nhà thơ tiêu biểu của Phong trào thơ
mới lên tiếng trước:

– “Tôi là con chim đến từ núi lạ …”

“Tôi là con nai bị chiều đánh lưới”…

Có khi đại từ nhân xưng “tôi” chuyển thành “anh”:

“Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh

Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi!”

Thoảng hoặc có khi lại là “Ta”:

“Ta là Một, là Riêng là Thứ Nhất


Không có chi bè bạn nổi cùng ta”.

“Thơ mới là thơ của cái Tôi”. Thơ mới đề cao cái Tôi như một sự cố gắng cuối cùng để khẳng định bản
ngã của mình và mong được đóng góp vào “văn mạch dân tộc”, mở đường cho sự phát triển của thi ca
Việt Nam hiện đại.

2. Nỗi buồn cô đơn.

Trong bài “Về cái buồn trong Thơ mới”, Hoài Chân cho rằng “Đúng là Thơ mới buồn, buồn nhiều”, “Cái
buồn của Thơ mới không phải là cái buồn ủy mị, bạc nhược mà là cái buồn của những người có tâm
huyết, đau buồn vì bị bế tắc chưa tìm thấy lối ra”6.

Cái Tôi trong Thơ mới trốn vào nhiều nẻo đường khác nhau, ở đâu cũng thấy buồn và cô đơn. Nỗi buồn
cô đơn tràn ngập trong cảm thức về Tiếng thu với hình ảnh:

“Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô”.

(Lưu Trọng Lư ).

Với Chế Lan Viên đó là “Nỗi buồn thương nhớ tiếc dân Hời” (tức dân Chàm):

“Đường về thu trước xa xăm lắm

Mà kẻ đi về chỉ một tôi”

Nghe một tiếng gà gáy bên sông, Lưu Trọng Lư cảm nhận được nỗi buồn “Xao xác gà trưa gáy não nùng”
còn Xuân Diệu lại thấy “Tiếng gà gáy buồn nghe như máu ứa”. Về điều này, Hoài Chân cho rằng “Xuân
Diệu phải là người buồn nhiều, đau buồn nhiều mới viết được những câu thơ nhức xương như: “Thà
một phút huy hoàng rồi chợt tối / Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”.

Nỗi buồn cô đơn là cảm hứng của chủ nghĩa lãng mạn. Với các nhà thơ mới, nỗi buồn ấy còn là cách giải
thoát tâm hồn, là niềm mong ước được trải lòng với đời và với chính mình.

3. Cảm hứng về thiên nhiên và tình yêu.

Ngay từ khi ra đời, “Thơ mới đã đổi mới cảm xúc, đã tạo ra một cảm xúc mới trước cuộc đời và trước
thiên nhiên, vũ trụ”7. Cảm hứng về thiên nhiên và tình yêu đã tạo nên bộ mặt riêng cho Thơ mới. Đó là
vẻ đẹp tươi mới, đầy hương sắc, âm thanh, tràn trề sự sống.

Đây là cảnh mưa xuân trong thơ Nguyễn Bính:

“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy”.

Và đây là hình ảnh buổi trưa hè:

“Buổi trưa hè nhè nhẹ trong ca dao

Có cu gáy và bướm vàng nữa chứ”

(Huy Cận).
Trong thơ Chế Lan Viên có không ít những hình ảnh như:

“Bướm vàng nhè nhẹ bay ngang bóng

Những khóm tre cao rủ trước thành”

Tất cả gợi lên hình ảnh quê hương bình dị, thân thuộc với mỗi người Việt Nam.

Những cung bậc của tình yêu đã làm thăng hoa cảm xúc các nhà thơ mới. “Ông hoàng của thơ tình”
Xuân Diệu bộc bạch một cách hồn nhiên:

“Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá

Chỉ biết yêu thôi chẳng biết gì”.

Chu Văn Sơn cho rằng “Xuân Diệu coi tình yêu như một tôn giáo” nhưng là một “thứ tôn giáo lãng mạn,
tôn giáo nghệ sĩ”8.

Khác với Xuân Diệu, nhà thơ Chế Lan Viên cảm nhận thân phận bằng nỗi cô đơn sầu não:

“Với tôi tất cả như vô nghĩa

Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau”.

Cảm xúc ấy không phải là một ngoại lệ. Nhà thơ Huy Cận cho rằng “Cái đẹp bao giờ cũng buồn” (Kinh cầu
tự) và cảm nhận được sự tận cùng của nỗi buồn cô đơn “sầu chi lắm, trời ơi, chiều tận thế”. Nhà thơ
triết lý về điều này một cách sâu sắc:

“Chân hết đường thì lòng cũng hết yêu”.

4. Một số đặc sắc về nghệ thuật.

Thơ mới là một bước phát triển quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa nền văn học nước nhà những
năm đầu thế kỉ XX với những cuộc cách tân nghệ thuật sâu sắc.

Về thể loại, ban đầu Thơ mới phá phách một cách phóng túng nhưng dần dần trở về với các thể thơ
truyền thống quen thuộc như thơ ngũ ngôn, thất ngôn, thơ lục bát. Các bài thơ ngũ ngôn có Tiếng thu
(Lưu Trọng Lư), Ông Đồ (Vũ Đình Liên), Em đi chùa Hương (Nguyễn Nhược Pháp)… Các nhà thơ Huy Cận,
Xuân Diệu, Chế Lan Viên, T.T.KH chủ yếu viết theo thể thơ thất ngôn, còn Nguyễn Bính, Thế Lữ lại dùng
thể thơ lục bát v.v…

Cách hiệp vần trong Thơ mới rất phong phú, ít sử dụng một vần (độc vận) mà dùng nhiều vần như trong
thơ cổ phong trường thiên: vần ôm, vần lưng, vần chân, vần liên tiếp, vần gián cách hoặc không theo
một trật tự nhất định:

“Tiếng địch thổi đâu đây

Cớ sao nghe réo rắt

Lơ lửng cao đưa tận chân trời xanh ngắt

Mây bay… gió quyến, mây bay

Tiếng vi cút như khoan như dìu dặt


Như hắt hiu cùng hơi gió heo may”

(Thế Lữ).

Sự kết hợp giữa vần và thanh điệu tạo nên cho Thơ mới một nhạc điệu riêng. Đây là những câu thơ toàn
thanh bằng:

“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời

Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”

(Xuân Diệu)

Ngoài việc sử dụng âm nhạc, Thơ mới còn vận dụng cách ngắt nhịp một cách linh hoạt:

“Thu lạnh / càng thêm nguyệt tỏ ngời

Đàn ghê như nước / lạnh / trời ơi!”

(Xuân Diệu)

Ở một phương diện khác, cuộc cách tân về ngôn ngữ Thơ mới diễn ra khá rầm rộ. Thoát khỏi tính quy
phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ dày đặc của “Thơ cũ”, Thơ mới mang đến cho người đọc một thế giới
nghệ thuật giàu giá trị tạo hình và gợi cảm sâu sắc:

“Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu

Lả lả cành hoang nắng trở chiều”

(Xuân Diệu)

hay

“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng

Đò biếng lười nằm mặc dưới sông trôi”

(Anh Thơ)

Sự phong phú về thể loại, vần và nhạc điệu cùng với tính hình tượng, cảm xúc của ngôn ngữ đã tạo nên
một phong cách diễn đạt tinh tế, bằng cảm giác, bằng màu sắc hội họa của thơ mới. Đây là bức tranh
“Mùa xuân chín” được Hàn Mặc Tử cảm nhận qua màu sắc và âm thanh:

“Trong làn nắng ửng, khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên dàn thiên lý. Bóng xuân sang”.

5. Sự ảnh hưởng của thơ Đường và thơ ca lãng mạn Pháp.

Thơ mới ảnh hưởng thơ Đường khá đậm nét. Sự gặp gỡ giữa thơ Đường và Thơ mới chủ yếu ở thi tài, thi
đề. Các nhà thơ mới chỉ tiếp thu và giữ lại những mặt tích cực, tiến bộ của thơ Đường trong các sáng tác
của Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị,… Trong bài “Tràng giang”, Huy Cận mượn tứ thơ của Thôi Hiệu để bày
tỏ lòng yêu nước:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

Nếu sự ảnh hưởng thơ Đường làm cho thơ tiếng Việt càng phong phú giàu có thêm, tinh tế hơn thì sự
ảnh hưởng thơ ca lãng mạn Pháp góp phần cho Thơ mới sáng tạo về thi hứng, bút pháp và cách diễn đạt
mới lạ, độc đáo. Một trong những nhà thơ đầu tiên chịu ảnh hưởng sâu sắc thơ Pháp là Thế Lữ, Huy
Thông, về sau là Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử,…Hầu hết các nhà thơ mới chịu ảnh hưởng khá sâu sắc chủ
nghĩa tượng trưng của thơ ca lãng mạn Pháp mà đại biểu là Budelaire, Verlaine, Rimbaud. Sự ảnh hưởng
ấy diễn ra trên nhiều bình diện: từ cách gieo vần, ngắt nhịp đến cách diễn đạt. Ta có thể tìm thấy điều
này ở các bài “Nguyệt Cầm”, “Đây mùa thu tới” (Xuân Diệu), “Đi giữa đường thơm” (Huy Cận), “Màu
thời gian” (Đoàn Phú Tứ). Một số bài thơ trong tập “Tinh huyết” (Bích Khê), “Thơ điên” (Hàn Mặc Tử),
“Thơ say” (Vũ Hoàng Chương) chịu ảnh hưởng sâu sắc trường phái suy đồi của thơ ca Pháp (các bài thơ
“Những nguyên âm của Rimbaud”, “Tương hợp của Budelaire” …).

Trong bài “Thơ mới – cuộc nổi loạn ngôn từ” Đỗ Đức Hiểu nêu nhận xét về hệ thống ngôn từ Thơ mới
“Thơ mới là bản hòa âm của hai nền văn hóa xa nhau vời vợi, là bản giao hưởng cổ và hiện đại”9. Đó là
sự giao thoa tiếng Việt với thơ Đường và thơ ca lãng mạn Pháp thế kỷ XIX. Sự ảnh hưởng thơ Đường và
thơ ca lãng mạn Pháp đối với Phong trào thơ mới không tách rời nhau. Điều này cho thấy tác động và
ảnh hưởng từ nhiều phía đối với Thơ mới là một tất yếu trong quá trình hiện đại hóa thơ ca. Chính sự
kết hợp Đông -Tây nói trên đã tạo nên bản sắc dân tộc và sức hấp dẫn riêng của Thơ mới.

Kể từ khi ra đời cho đến nay, Phong trào thơ mới đã có chỗ đứng vững chắc trong đời sống văn học dân
tộc. Qua thời gian, những giá trị tốt đẹp của Phong trào thơ mới Việt Nam 1932-1945 càng được thử
thách và có sức sống lâu bền trong lòng các thế hệ người đọc.

Những đóng góp của phong trào Thơ mới về mặt thi pháp đối với sự phát triển của nền thi ca dân tộc

V. Những đóng góp của phong trào Thơ.

1. Thơ mới tạo ra quan niệm thơ mới trong thi ca:

Phong trào thơ mới đã sáng tạo ra một quan niệm thơ mới, hệ thống hình thức thơ mới với thể loại thơ
mới, đề thơ mới, cấu tứ mới, cảm xúc mới, ngôn ngữ mới, câu thơ mới, biểu tượng mới, phong cách
mới, hệ thống biện pháp tu từ mới.

Trước hết, thơ mới vượt qua quan niệm thơ giáo huấn, thơ ngôn chí, tải đạo, thơ minh tâm bảo giám
của thời Trung đại ngự trị hàng nghìn năm. Thơ mới là thơ của cái đẹp, thơ cảm xúc, thơ của cái tôi, thơ
thành thực và thơ tự do. Thơ không hạn chế vào một đề tài nào, miễn là đẹp. Thơ là cảm xúc chứ không
phải thực dụng. Nhưng thơ không phải vô ích đối với đời. Thơ mới mở mang tâm hồn, phát triển nhân
cách. Thơ khơi dòng cho tâm tình tuôn trào. Với quan niệm đó thơ mới đã cáo biệt quan niệm thơ Trung
Quốc thống trị hàng nghìn năm, cáo biệt luôn các tư thế trữ tình, điệu trữ tình, nhiều biện pháp tu từ cổ
điển đã trở thành mòn sáo và không còn thích hợp.

Thứ hai, nếu thơ luật Trung Hoa đã lấy con chữ bằng trắc làm vật liệu của thơ, tạo một kiến trúc bất
biến, bài thơ là những bức tranh ngôn từ, hầu như là một thế giới tĩnh lặng, thảng hoặc mới có tiếng nói
và giọng điệu con người, thì Thơ mới trái lại làm thơ theo nguyên tắc khác. Nó lấy tiếng nói, giọng lời,
hơi thở sống động của con người làm vật liệu cho thơ; từ đó kiến tạo thành thế giới thơ điệu nói với bao
nhiêu tiếng gọi, lời thưa, tiếng giải bày, lời tâm sự. Đọc thơ mới cũng thấy có hoạ, nhưng chủ yếu là nghe
tiếng nói con người. Hình thức đó làm cho không gian câu thơ, bài thơ thay đổi, nó không đông cứng
như thơ luật mà tự do, vắt dòng, trùng điệp, nhảy vọt, tung tẩy, không gò bó. Với nhãn quan ngôn ngữ
đó hình thức thể loại cũng thay đổi theo. Câu thơ đã thay đổi căn bản.

Thơ cổ xưa không có chia khổ, bài thơ là một khối duy nhất, nay thơ bảy chữ, năm chữ, tám chữ chủ yếu
là chia khổ, khiến cho mạch thơ nối dài, không bị gò vào không gian tám chữ hay bốn chữ. Sự thay đổi
không gian ấy là nền tảng cho thay đổi câu thơ. Các thể luật Đường hầu như không còn được dùng để
sáng tác nữa. Trong các thể thơ mới, bề ngoài có vẻ như thể thơ thất ngôn, ngũ ngôn vẫn chiếm số
lượng lớn, nhưng đó là thứ thơ thất ngôn, ngũ ngôn mới, tự do, chia khổ, điệu nói.

2. Thơ mới đã giải thoát khỏi sự ràng buộc của thơ Hán, thơ Đường, thoát ra khỏi cái bóng của thơ Trung
Hoa.

Thơ mới đã giải thoát khỏi sự ràng buộc của thơ Hán, thơ Đường, thoát ra khỏi cái bóng của thơ Trung
Hoa để trở thành thơ trữ tình tiếng Việt hoàn toàn. Thơ mới đánh dấu thơ Việt đã thoát khỏi cái bóng
lớn của thơ Đường luật bao trùm lên thơ Việt suốt mấy nghìn năm. Thơ mới cũng đánh dấu sự hình
thành hệ thống thơ, hình thức thơ trữ tình mới thuần Việt. Trong hệ thống này các yếu tố thơ Trung Hoa
sẽ chỉ là yếu tố phụ thuộc của hệ thống thơ Việt, chứ không phải là ngược lại như trước, thơ tiếng Việt
nhiều thể lệ thuộc vào luật thơ Trung Hoa.

3. Thi pháp thơ mới là một hệ thống mở.

Bởi nguyên tắc của thơ mới là thẩm mĩ, cảm xúc, tự do và thành thực. Nó chống lại mọi ràng buộc, câu
thúc, ngoài ra không đặt cho mình một giới hạn nào cả. Chính vì thế mà thơ mới từ khi ra đời không bao
lâu đã liên hệ với thơ tượng trưng, siêu thực, thơ cách mạng, thơ hiện đại chủ nghĩa và cả hậu hiện đại.

4. Thơ mới là thơ của tiếng Việt hiện đại, có khả năng phát huy mọi tiềm năng thẩm mĩ của tiếng Việt
cho thơ.

Với hình thức mới, nó lại nối thông với toàn bộ truyền thống dân gian Việt, làm cho thơ phong phú, biến
hóa, nhất là về phương diện cú pháp thơ ca. Đánh giá thơ mới không thể đóng khung trong một phong
trào. Sau thơ mới cũng đã có một số phong trào rầm rộ, nhưng không phong trào nào có tầm vóc và ý
nghĩa sánh được với thơ mới.

Vào những năm 1934 – 1935, không còn ai luận bàn về cái mới, cái cũ vì thơ mới đã có những đóng góp
quan trọng, chỉ trong khoảng 10 năm, thơ mới đã chinh phục được lòng người đọc, đã tạo nên một trào
lưu thi ca mới với hang loạt tác phẩm tiêu biểu, mỗi người mỗi vẻ có phong cách sang tạo riêng. Có thể
kể những nhà thơ mới tiêu biểu nhất như: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử,
Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Anh Thơ, Vũ Hoàng Chương, Tế Hanh.

5. Thơ mới có hệ thống tác giả, tác phẩm đồ sộ.

Có thể nói thơ mới đã tạo ra một sức sang tạo lớn trong thơ ca thời kì hiện đại với hàng trăm bài thơ
hay. Có những nhà thơ chỉ có một hai bài thơ như Vũ Đình Liên với “Ông đồ”, Thâm Tâm với “Tống biệt
hành” và Nguyễn Nhược Pháp với bài “Chùa Hương”; có những nhà thơ có những bài thơ hay tập trung
thành từng tập thơ như Huy Cận với “ Lửa thiêng”, Xuân Diệu với “Thơ thơ” và “Gửi hương cho gió”.
Thơ mới là thơ lãng mạn, có nghĩa là thoát li cuộc sống, các nhà thơ đều ít viết về cuộc đời hiện tại.Thế
Lữ ca ngợi vẻ đẹp của thế giới tiên cảnh, vẻ đẹp của sự lí tưởng không dễ có ở tong cuộc đời. Ông viết:

“Tôi chỉ là một khách tình si

Ham vẻ đẹp có muôn hình muôn vẻ

Mượn lấy bút nàng li tao tôi vẽ

Và mượn cây dàn ngàn phím tôi ca”.

(Cây đàn muôn điệu)

Nhà thơ Xuân Diệu cũng bày tỏ quan điểm sáng tác của mình:

“Là thi sĩ nghĩa là ru với gió

Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây

Để linh hồn ràng buộc với muôn dây

Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến”.

(Cảm xúc )

Ở một trường hợp khác, Xuân Diệu nói:

“Tôi là con chim đến từ núi lạ

Ngửa cổ hót chơi…

Tiếng to nhỏ chẳng xui chùm trái chín

Khúc huy hoàng không giúp nở bông hoa”.

Rõ ràng quan điểm trên là quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Nhà thơ Lưu Trọng Lư luôn đắm say
trong tình và mộng, ông tìm thấy trong thơ cũng như trong tình yêu niềm vui và hạnh phúc nhưng thật
mỏng manh:

“Thơ cũng như tình nàng vậy

Mộng, mộng mà thôi, mộng hững hờ”.

Đề xuất quan điểm lãng mạn trong thi ca nhưng rồi thực tế các nhà thơ luôn gặp phải những cảnh ngộ
thực của cuộc đời làm cho ai oán xót đau, không thể cứ mơ mộng mãi ở mây gió. Chính Xuân Diệu đã
nhận ra thực sự cảnh ngộ của mình:

“Nỗi đời cơ cực đang vơ vuốt

Cơm áo không đùa với khách thơ”.

Và tác giả nhận ra cảnh ngộ thật tù túng của mình: “Chúng ta nay trong cuộc thế ao tù”. Hàn Mặc Tử
cũng là một nhà thơ lãng mạn, nhưng rồi cảnh ngộ của cuộc sống làm ông nhận ra những xót xa của nó:

“Trời hỡi làm sao cho khỏi đói


Gió trăng có sẵn làm sao ăn”

Với quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật” tưởng rằng các nhà thơ luôn đề cao vai trò của thơ nhưng
nhiều lúc biến thơ thành một phương tiện để phục vụ tình yêu và không phải bao giờ cũng có sự tiếp
nhận trân trọng. Nhà thơ Đinh Hùng trong bài “Kĩ nữ” viết:

“Em đài các long cùng thoa son phấn

Hai bàn chân kêu ngạo giẫm lên thơ”.

Mặc dầu quan điểm sang tác có một số mặt hạn chế, thoát li, lãng mạn nhưng thơ mới thật sự là một
trào lưu thơ ca có những đóng góp quan trọng trong thơ ca của thời kì hiện đại. Nhà phê bình văn học
Hoài Thanh nhận xét: “Đừng lấy một người sánh với một người. Hãy lấy thời đại sánh với thời đại. Tôi
quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ xuất hiện cùng một lúc một hồn thơ rộng mở như
Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp,
quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu …”

6. Thơ mới đáp ứng được thị hiếu của đông đảo công chúng mới.

Thơ mới được sự hưởng ứng rộng rãi của bạn đọc vì đã đáp ứng đúng tâm lí của thời đại, tâm lí của lớp
công chúng mới. Nói như nhà thơ Lưu Trọng Lư: “Các cụ ưa chuộng những màu đỏ choét, ta lại yêu
những màu xanh nhạt. Các cụ bâng khuân vì tiếng trùng trong đêm, ta lại nao nao lòng vì tiếng gà gáy
đúng ngọ. Nhìn một gái xinh xắn ngây thơ, các cụ coi như đã là một điều tội lỗi, ta thì cho là mát mẻ như
đứng trước một cánh đồng xanh. Cái ái tình của các cụ chỉ là sự hôn nhân, nhưng đối với thơ ta thì trăm
hình vạn trạng, cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình xa xôi, cái tình trong giây phút, cái tình
ngàn thu…”

Nhìn chung phong trào thơ mới đã thể hiện những ưu điểm lớn, trước hết về khát vọng tự do cá nhân,
rồi tình yêu quê hương nồng thắm, sự giải phóng của cái tôi, giải phóng bản ngã. Các nhà thơ trong
phong trào thơ mới là những người trí thức khao khát tự do cá nhân. Sóng trong cảnh đời tù túng họ
muốn được giải phóng, giải thoát. Nhà thơ Huy Thông mơ ước trở thành một cánh chim bay trên bầu
trời cao rộng:

Tôi muốn làm con chim để cùng gió

Bay lên cao mơn trớn sợi mây hồng

Muốn uống vào trong buồng phổi vô cùng

Tất cả ánh sáng dưới gầm trời lồng lộng.

Trong bài thơ “Nhớ rừng”, Thế Lữ hình ảnh con hổ bị giam trong vườn bách thú. Tác giả nói lên những
nỗi nhớ, những kỷ niệm về chốn rừng xanh sau một thời oanh liệt:

Đây những chiều lênh láng máu sau rừng

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật

Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu.


Các nhà thơ trong phong trào thơ mới cũng bộc lộ một tình yêu nước kín đáo. Nhà thơ Huy Thông trong
bài “Con voi già” cũng bày tỏ tình cảm trân trọng với hình ảnh con voi già một thời nhiều chiến tích. Đó
là hình ảnh cụ Phan Bội Châu một thời tung hoành trên trường đấu tranh chính trị và nay tưởng nhớ lại
với một tấm lòng cảm phục. Nhà thơ Chế Lan Viên qua tập “Điêu tàn” nói về sự suy vong của nhà nước
Chàm, và qua đó bộc lộ kín đáo nỗi lòng với quê hương đất nước. Một trong những phẩm chất quan
trọng của thơ mới chính là tình yêu quê hương. Đó cũng chính là tâm sự yêu nước thầm kín mà thiết tha
được các tác giả gửi gắm trong những vần thơ của mình.

Quê hương hai tiếng thân thiết ấy gắn bó và trỏ nên thiêng liêng trong lòng mỗi người. Tình yêu quê
hương là tình cảm quan trọng góp phần tạo nên nhân cách ở mỗi người, ở đậy là nơi chôn nhau cắt rốn,
ở đấy có cha mẹ và những người thân yêu. Các nhà thơ như Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Trần Tuấn Khải,…
đã đem vào thơ những hình ảnh đẹp của quê hương. Và trong phong trào thơ mới, nhiều bài thơ hay
viết về quê hương. Các nhà thơ Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân… đều là những tác giả
chuyên viết về làng quê, họ khai thác nhiều vẻ đẹp của quê hương và cả những vất vả gian truân của
cuộc sống sau lũy tre xanh.

Các bài thơ “Quê hương” của Tế hanh, “Chợ Tết” của Đoàn Văn Cừ, “Tràng giang” của Huy Cận, “Dây
thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, “Chân quê” hay “Mưa xuân” của Nguyễn Bính đều là những bài thơ xuất
sắc miêu tả về quê hương trong phong trào thơ mới. Nhà thơ miêu tả được tình yêu quê hương đất
nước trong bài “Tràng giang” của Huy cận. Tế Hanh đã miêu tả cành một làng quê ở vủng biển với những
hình ảnh rất đẹp, những người lao động được miêu tả khỏe khoắn man nhiều chất thơ:

Dân chài lưới làn da ngâm rám nắng

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.

Hình ảnh quê hương được miêu tả cả phần hồn cả những hoạt động cụ thể, hăng say trong lao động:

Chiếc thuyền nhẹ hăng say như tuấn mã

Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt Trường Giang

Cánh buồm trương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió.

Đặc biệt là Nguyễn Bính – một nhà thơ có tài năng đã miêu tả thành công văn hóa của làng quê với
những sinh hoạt, lễ hội, hội hè… Người già lên chùa, trai gai trẫy hội, đặc biệt là trong không khí của
ngày xuân. Thơ Nguyễn Bính mang hồn thơ đậm đà. Lúc này trong xã hội có xu hướng chạy theo lối ăn
chơi, đua chen của đời sống thành thị và quên đi bản sắc của dân tộc.

Trở về với quê hương, ca ngợi truyền thống quê hương cũng chính là trở về với cội nguồn. Trong thơ
Nguyễn Bính nổi lên vẻ đẹp của những cô gái quê có một tâm hồn đẹp, nhiều mơ ước trong yêu đương
nhưng lại gặp phải nhũng cảnh ngang trái, lỡ làng trong chuyện tình duyên hay bị tình phụ. Hình ảnh cô
gái bên khung cửi qua bài “ Mưa xuân” gợi rất nhiều thương cảm ở người đọc. Nguyễn Bính có ý thức
trong sáng tạo nghệ thuật. Hai câu thơ:

Hoa chanh nở giữa vườn chanh

Thầy u mình với chúng mình chân quê.


Hai câu thơ trên của Nguyễn Bính bộc lộ một phương châm sáng tác là phải biết tôn trọng truyền thống,
bản sắc của dân tộc. Xu hướng ngoại lai, thành thị hóa, mất gốc là hiện tượng cần tránh trong sáng tạo
nghệ thuật.

7. Thơ mới là thơ ca tìm đến sự giải phóng bản ngã, giải phóng cá nhân.

Trong nhiều thế kỉ, thơ ca ít nói tới cái tôi cá thể. Các nhà thơ bị ràng buộc trong những quy tắc chung ít
dám khẳng định bản sắc của mình mà bản chất thơ ca là sự bộc lộ cảm xúc riêng tư trước cuộc đời. Có
thể nói phong trào thơ mới đã góp phần giải phóng cái tôi, đây là một hiện tượng mang ý nghĩa xã hội
rộng rãi. Trong thời kì này, nhiều cuốn tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn như “Nửa chừng xuân”, “Đoạn
tuyệt” của Nhất Linh đều tiến công vào lễ giáo hà khắc của đại gia đình phong kiến. Các nhân vật như bà
Án, bà Trần, ông Phủ, ông Huyện thường là đối tượng trực tiếp của sự phê phán.

Lớp thanh niên trẻ trong gia đình đó muốn thoát khỏi sự phụ thuộc vào cha mẹ để có quyền suy nghĩ và
chủ động trong việc xây dựng hạnh phúc gia đình. Các nhà thơ mới đã tìm cách tự khẳng định và tạo cho
mình một thế giới tinh thần riêng. Có nhà thơ bộc lộ nhiều trăn trở, những đau khổ trước cuộc đời như
Huy Cận, Chế Lan Viên; có nhà thơ nói lên niềm khao khát được sống, được hưởng hạnh phúc, được
giao cảm với đời và đặc biệt là tình yêu đôi lứa như nhà thơ Xuân Diệu.

Nhà thơ Chế Lan Viên nói lên những nỗi xót xa:

Trời xanh ơi hỡi xanh không nói

Hồn tôi muốn hiểu chẳng cùng cho

Các nhà thơ bộc lộ niềm đau khổ của mình và tình trạng bi kịch vì không tìm được lối thoát:

Tôi là con nai bị chiều giăng lưới

Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối.

Qua bài “Hy mã Lạp Sơn”, Xuân Diệu có những ý thơ vùa khẳng định lại vừa phủ định mình:

“Ta là một là riêng là thứ nhất

Không có chi bè bạn nổi cùng ta”.

Nhưng rồi chính ở nơi cao xa, nhà thơ lại cảm thấy cô đơn: Ta bỏ đời mà đời cũng bỏ ta. Cái tôi phong
trào thơ mới có hai mặt biểu hiện, mặt tích cực là giải phóng cá nhân không tìm được chỗ đứng trong
cuộc đời cũ, nhiều lúc rơi vào cực đoan hoặc chán chường. Sau cách mạng Tháng Tám cái tôi mới được
thật sự giải phóng, nhà thơ hòa hợp với cuộc đời chung.

Các nhà thơ mới là những người trí thức nghèo cũng phải chịu đựng nhiều nỗi vất vả trong cuộc sống và
họ cũng có nhiều cảm thương với những người lao động vất vả. Vũ Đình Liên là một nhà thơ biểu hiện rõ
sự cảm thương với những người lao động vất vả, ông tự xem mình là “thi sĩ của những người thân tàn
ma dại”:

Rồi tất cả bầy rách rưới đui mù


Từ ông già cho tới đứa trẻ thơ

Dứt tiếng hát đều kêu lên cảm khái

Anh là thi sĩ của những người thân tàn ma dại.

Vũ Đình Liên đã sáng tạo được một bài thơ bất hủ, một trong những bài thơ hay nhất của phong trào
thơ mới: “Ông đồ”. Ông đồ tượng trung cho người trí thức phong kiến, lạc lỏng và thất thế với thời buổi
mới:

Ông đồ vẫn ngồi đấy

Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụi bay.

Năm nay hoa đào nở Không thấy ông đồ xưa Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ. Một trong
những hình ảnh được một số nhà thơ mới quan tâm miêu tả với tấm lòng cảm thương là những cô gái
giang hồ. Bài thơ “Lời kĩ nữ” của Xuân Diệu” vừa bộc lộ tình thương đối với số phận cơ cực của những cô
gái giang hồ và ít nhiều tác giả cũng tự liên hệ tới mình:

Lòng kĩ nữ cũng sầu như biển lớn

Chớ để riêng em phải gặp lòng em.

Tình cảm nhân đạo trong thơ mới tuy chưa bộc lộ sâu sắc sự cảm thương theo quan điểm cách mạng
nhưng cũng đã tạo được nhiều giá trị trong thơ. Các nhà thơ xót thương những người nghèo khổ trong
đời và một phần cũng biểu hiện sự cảm thương bản thân mình. Họ là những người trí thức với nhiều
khao khát và mơ ước nhưng đã bị cuộc đời đẩy vào hoàn cảnh tù túng không lối thoát, họ không thể tự
mình tìm được lối ra.

Tình cảm thiên nhiên trong thơ mới thì hết sức chân thật. Thiên nhiên là đề tài vô cùng quan trọng góp
phần đem lại cái đẹp cho sáng tác thơ ca và cũng là nơi để nhà thơ gửi gấm tâm tình của mình. Nhiều
bức tranh thiên nhiên đẹp trong thơ của Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tản
Đà…

Tuy nhiên bước sang đầu thế kỉ XX, việc miêu tả thiên nhiên không có xu hướng rơi vào tình trạng ước
lệ, miêu tả cảnh vật theo những quy ước mà dựa vào đời sống thực. Có lần nhà thơ Tố Hữu đã nhận xét:
“Thiên nhiên Việt Nam không có tuyết và hạc nhưng trong thơ lại có nhiều hạc và tuyết”. Thơ mới đã có
những thay đổi rất cơ bản trong việc miêu tả thiên nhiên. Thiên nhiên được miêu tả chân thực, cái đẹp
của cảnh vật trong đời đã được phát hiện và đưa vào sáng tác thi ca:

Sao anh không về chơi thôn

Vĩ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.


(Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử).

Nhà thơ Bích Khuê cũng đã viết:

Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn

Biết anh cần trúc không buồn mà say

Trong “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu, tác giả miêu tả một cách chân thực không khí giao mùa khi trời
đất vào thu:

Hơn một loài hoa đã rụng cành

Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh

Những luồng run rẩy rung rinh lá

Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh

Xuân Diệu đã miêu tả rất tỉ mỉ, vận dụng nhiều cảm giác khác hẳn với lối miêu tả trước kia trong thơ cũ.
Thiên nhiên trong thơ mới cũng rất thơ mộng, được tạo nên bằng trí tưởng tượng. Chỉ riêng vầng trăng,
ánh trăng trong thơ của Hàn Mặc Tử đã dược miêu tả rất gợi cảm từ ánh trăng xanh trong vườn khuya
của tình yêu đôi lứa đến một không gian huyền ảo ngập ánh trăng:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay.

Cảnh vật nông thôn cũng dược miêu tả rất đẹp trong thơ của Nguyễn Bính, Anh Thơ, có mưa xuân và lớp
lớp hoa rụng. Trong thơ của Nguyễn Bính:

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy.

Rồi hình ảnh làng quê trong thơ Anh Thơ:

Hoa lựu nở đầy một vườn đỏ nắng

Lũ bướm vàng lơ đãng lướt bay qua.

Miêu tả thiên nhiên các nhà thơ trong nhiều trường hợp như hòa nhập với cảnh vật, nhân hóa thiên
nhiên, tạo cho thiên nhiên một sức sống sinh động:

Gió thơm phơ phất bay vô ý

Đem đụng cành mai với nhánh đào.

(Xuân Diệu)

VI.Một số phong cách thơ tiêu biểu

1.Xuân diệu
Xuân Diệu là một trong những cây bút lớn của phong trào Thơ mới ở Việt Nam.. Ông chính là “ông
hoàng của tình yêu” luôn tràn đầy sự tươi mới, yêu đời mãnh liệt.

Là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, chất thơ của Xuân Diệu luôn tạo được sự mới mẻ, khác biệt;
sử dụng ngôn từ sáng tạo nên hấp dẫn nhiều độc giả. Ai đã đọc thơ Xuân Diệu chắc chắn sẽ khó lòng mà
quên được! Ông là con người có tinh thần lao động nghệ thuật bền bỉ. Việc sáng tác văn thơ không chỉ
để khẳng định tài năng mà còn là cách để ông giao cảm với đời, khẳng định sự hiện hữu của mình trong
cuộc đời.

Cũng vì lẽ đó mà Xuân Diệu còn được biết đến là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Thơ Xuân
Diệu luôn thể hiện lòng yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt, luôn khát khao chiếm lĩnh và hưởng thụ
những giá trị tốt đẹp của cuộc sống.

Sau cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu có hướng đi mới trong phong cách viết thơ đó là hướng tới đời
sống thực tế, mang đậm tính thời sự. Ý thức được trách nhiệm của một công dân, Xuân Diệu miệt mài
sáng tác những bài thơ chào cách mạng với các vần thơ yêu đời.

Thơ Xuân Diệu mang nỗi niềm chung nhưng vẫn tạo nét riêng

Một nét thơ vừa riêng vừa chung là nét thơ buồn, độc thân pha lẫn chút lãng mạn nhưng mỗi thi sĩ trình
bày đều có cái hay riêng, cái khác thường ko thể lẫn với thi sĩ khác được. Vì sao họ lại có chung một nỗi
niềm tương tự, có nhẽ vì do hoàn cảnh nước ta lúc bấy giờ khiến họ hoang mang, ko định hướng được.
Và các thi sĩ đó cũng ko chấp thu được cuộc sống tầm thường, tầm thường, vô vị như bao người xung
quanh, họ ko chấp thu được lối sống đó, họ muốn tìm một lối sống khác đi nhưng mãi vẫn chưa tìm ra.
Do đó, họ cảm thấy độc thân, lạc lõng, chơ vơ giữa xã hội mênh mông, rộng lớn này.

Trong thơ, Xuân Diệu khẳng định ko có gì là vĩnh cửu

Con người được ví như là trung tâm của toàn cầu nhưng con người tồn tại trong toàn cầu nào mới là
điều quan trọng để xem xét ? Theo Xuân Diệu, thì con người tồn tại trong một toàn cầu nhưng ở đó đầy
sự chuyển đổi, chuyển đổi về xã hội, chuyển đổi về nhận thức, chuyển đổi về thời kì, ko gian, đầy sự
chuyển đổi nhưng ko người nào có thể lường trước được. Đây cũng là một nét nghệ thuật lạ mắt trong
sự nghiệp văn học của ông. Với Xuân Diệu thì ko có gì là vĩnh cửu nhưng chỉ có mọi thứ luân phiên thay
đổi theo thời kì, ko gian.

Vẻ đẹp cuộc sống được nhìn nhận rõ nét qua phong cách thơ Xuân Diệu

Từ cái nhìn đầy thâm thúy, đầy nghệ thuật và đầy cả tính chất triết học tương tự, cái nhìn nghệ thuật
của Xuân Diệu hướng tới khía cạnh vạn vật thay đổi, vạn vật sẽ chuyển chuyển đổi. Thơ của Xuân Diệu là
những tiếng lòng là những khát khao trước vẻ đẹp trước cuộc đời rộng lớn rộng lớn này.

Sự thực phũ phàng của hiện nay trình bày trong thơ của Xuân Diệu

Xuân Diệu là người có nhận thức về sự thay đổi, ông hiểu được rằng mọi việc trên đời này đều sẽ sớm
tới chóng tàn, ko gì là vĩnh viễn, bởi lẻ nếu có vĩnh viễn thì con người sẽ ko chết đi, hoa sẽ ko tàn. Và nếu
có vĩnh viễn thì con người sẽ ko biết trân trọng hiện nay. Từ đó, nó tới sự khác lạ trong hồn thơ Xuân
Diệu chính là khẳng định sự biến hóa khôn lường của thời kì, của tạo hóa, và sự thực trần truồng của
thực tại của hiện nay.

Những cuộc chia ly trong thơ của thi nhân Xuân Diệu với nhiều cung bậc
Trong thơ Xuân Diệu, có một ngọn lửa đang hừng hực, rộn rực, cháy bỏng trong tâm hồn Xuân Diệu.
Ông biết rằng cuộc vui nào cũng tới lúc chia ly, tình dù sâu đậm tới đâu cũng sẽ phai theo thời kì, nở hoa
dù có đẹp tới mấy rồi cũng rơi rụng dần chỉ còn là một cành khô như trong bài thơ :”Hoa nở để nhưng
tàn” ông đã viết:

“Hoa nở để nhưng tàn

Trăng tròn để nhưng khuyết

Bèo hợp để chia tan

Người gần để ly biệt

Hoa thu ko nắng cũng phai màu

Trên mặt người kia in nét đau.”

Người ta chỉ tiếc nuối lúc mọi chuyện đã là quá khứ, lúc mọi chuyện đã qua nhưng với Xuân Diệu ông
tiếc nuối nó lúc nó đang tới, lúc nó trong khoảnh khắc đẹp tươi nhất: “Trong gặp mặt đã có mầm li
biệt”…

Xuân Diệu bắt trọn từng khoảnh khắc của cuộc đời, trình bày rõ nét qua thơ

Xuân Diệu ko chấp thu được sự chảy trôi của tạo hóa, của vạn vật, của thời kì của ko gian, ông luôn tìm
cách giữ chúng lại thế nên ông thường “vĩnh cửu hóa” những khoảnh khắc hiện nay, những khoảnh khắc
đẹp nhất, rộn rực nhất, cháy bỏng nhất nhất, chỉ để mong chúng đừng trôi qua một cách nhanh chóng,
hững hờ. Mặt trời chiếu sáng với những tia nắng sớm, trông thật đẹp tươi nhưng bình yên, nhưng
những ánh nắng đó chỉ xuất hiện trong những phút chốc nhưng đối với ông là ngắn ngủi nên ông muốn
“tắt nắng” đi cũng như muốn “buộc gió” để những cơn gió thoảng hương tự nhiên trong sạch thoáng
mát đừng bay đi, nhưng chung qui lại ông chỉ muốn giữ nguyên vẹn cái sự sống hiện nay nhưng ông vẫn
chưa thể nắm bắt được hết:

Phong cách thơ Xuân Diệu luôn khẳng định cái tôi thâm thúy, đầy riêng lẻ

Con người là trung tâm của toàn cầu, của vũ trụ. Nhưng mà trong nơi đó, con người luôn chuyển đổi đa
chiều, cùng hòa vào sự chuyển đổi của tự nhiên, của tạo hóa, của vạn vật. Ông luôn muốn khẳng định
bản thân ở một vị thế cao nhất, nó sẽ là độc nhất vô nhị vô nhị, chỉ có một trên đời này, Xuân Diệu là
Xuân Diệu, tiếng lòng thơ Xuân Diệu cũng sẽ ko lộn lạo vào đâu được, ko thể lộn lạo với bất kì thi sĩ nào
khác:

“Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất

Ko có chi bè bạn nổi cùng ta.”

(“Hi – Mã – Lạp – Sơn”)

Có thể nói bài thơ Cảm xúc là chuyên môn nghệ thuật thơ của Xuân Diệu, đó là xúc cảm khát khao của
lòng ham sống, trân quý thời kì. Chính vì điều đó nên ông khát khao tận hưởng trọn vẹn từng xúc cảm
cho cuộc sống. Ông sống cho thực tại và sống hết mình vì thực tại, Tất cả mọi điều đó đều được qui tụ
vào những ngôn từ văn thơ của ông:
Là thi sĩ, tức là ru với gió

Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây.

Để vong linh ràng buộc bởi muôn dây.

Hay san sớt bởi trăm tình yêu quý

(“Xúc cảm”)

Sự góp sức của thi nhân cho cuộc đời trình bày rõ trong thơ

Ông luôn sống mãnh liệu, sống dào dạt và có phần hơi vội vã từ trong thơ lẫn cả bên ngoài cuộc sống.
Ông ko chấp nhận một cuộc sống tầm thường, một cuộc sống tầm thường, tẻ nhạt. Một cuộc sống
phẳng lặng đó lúc ko chút biến cố nào ko phải là cách sống của Xuân Diệu. Ông có thể chấp nhận việc
mình có thể bị quên lãng sau này, nhưng ở hiện nay, ông sẽ sống và góp sức hết sức mình để mọi người
biết tới và tôn vinh ông:

“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối

Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.”

(“Hối thúc”)

Nỗi buồn ẩn hiện trong đặc điểm thơ Xuân Diệu

Một trong những cảm hứng nổi trội của thời đại thơ ca mới đó chính là nỗi buồn. Đó có thể là nỗi buồn
man mác của Huy Cận, nỗi độc thân thảm sầu tới vô vọng của Chế Lan Viên. Nhưng trong thời đại nỗi
buồn ngự trị đó, Xuân Diệu đã lựa chọn cho mình ngã rẽ riêng. Lẻ loi là thế, nhưng ông vẫn sống hết
mình cho thực tại, và đây cũng là nét nổi trội trong thơ của ông.

Tình yêu và tuổi xanh luôn là chủ đề đậm nét trong thơ ca Xuân Diệu

Tình yêu là chủ đề muôn thuở của con người. Bởi lẽ tình yêu là những xúc cảm tâm thành chất của con
người, giúp trái tim kết nối với trái tim.

“Tình yêu tới, tình yêu đi, người nào biết

Trong gặp mặt đã có mầm li biệt”

(“Hối thúc”)

Một cái nhìn toàn cầu đầy thay đổi tương tự thế tất sẽ dẫn tới hệ quả là hốt hoảng nhưng đó là xúc cảm
của con người nên nó cung sẽ thay đổi lúc con người thay đổi. Đối diện với cuộc sống vốn nhiều trắc trở
dường như ko có gì có thể đảm bảo vững chắc rằng mọi thứ sẽ vẹn nguyên như ngày đầu gặp mặt đặc
trưng là trái tim. Chính vì con người luôn cảm thấy bất an luôn cảm thấy hoảng sợ trước tình yêu trước
sự thay đổi của thời kì, trước sóng gió của cuộc đời.

Toàn cầu xoay vần. Trong sự biến thiên của ko gian, thời kì, con người dường như chỉ có thể thụ động,
phó mặc cho dòng đời chảy trôi. Con người tuy chỉ là một hạt cát nhỏ nhoi trong vũ trụ rộng lớn rộng
lớn này, ko thể thoát khỏi quy luật sinh lão bệnh tử của cuộc đời thế nên cuộc đời tưởng rằng dài nhưng
thật ra rất ngắn ngủi như mây gió thoảng qua. Chúng ta ko thể biết được ngày mai như thế nào nhưng
chúng ta có thể biết được ngày hôm nay sống như thế nào. Vì vậy phải vội vã nhưng sống. Hơn một lần
Xuân Diệu đã giảng giải điều này:

Như đã nói, tình yêu luôn là đề tài muôn thuở trong nền văn học thơ ca, nguồn cảm hứng chủ đạo của
nhiều thi sĩ, có tình yêu mãnh liệt, có tình yêu độc thân, có tình yêu bình dị, có tình yêu thầm lặng nhưng
sâu lắng. Nhưng tình yêu trong thơ của Xuân Diệu lại mang một sắc thái khác, một quan niệm khác:

“Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực!

Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài!”

(“Xa cách”)

Và để ko chơ vơ, độc thân giữa cuộc đời, ông đã lựa chọn bám víu vào tình yêu. Vì vậy tình yêu đã trở
thành mục tiêu sống, là động lực để sống đối với ông:

“Làm sao sống được nhưng ko yêu

Ko nhớ ko thương một kẻ nào…”

(“Bài thơ tuổi nhỏ”)

Những nỗi băn khoăn, trắc trở của cuộc sống trong thơ Xuân Diệu

Kế bên niềm khát khao sống mạnh liệt, khát khao tình yêu cháy bỏng thì trong thơ Xuân Diệu còn phảng
phất những nỗi băn khoăn, trằn trọc của cuộc đời, ông ko ngừng đặt ra những câu hỏi thảng thốt, lo
lắng, những câu hỏi nhưng trong đó ẩn chứa cả một niềm trằn trọc trước cuộc đời:

“Tôi buồn ko hiểu vì sao tôi buồn”

(“Chiều”)

Vẫn là sự băn khoăn về vô hạn của cuộc đời. Con người thì nhỏ nhỏ nhưng vũ trụ lại rộng lớn, làm sao
biết trước được điều gì sẽ xảy ra… Điều đó nó sẽ tới như thế nào, sẽ ra sao nếu ta đón nhận nó, và sẽ ra
sao lúc ta ko đón nhận nó, vẫn chưa có câu trả lời nào cho ngày mai. Và liệu rằng ngày mai có tới hay
ko.. Một sự bất lực rõ nét trong thơ ca của Xuân Diệu…

một số nhận định và đánh giá về phong cách thơ xuân diệu

Trong thơ Xuân Diệu ko chỉ mới mẻ về cách dùng từ, cách đặt câu, hình ảnh mới mẻ nhưng còn mới ở
cái xúc cảm ông mang tới cho người đọc. Ở thời đại Thơ mới, ông trình bày được xúc cảm mới mẻ, một
nỗi niềm khát khao mới, một tình yêu mới, một triết lý sống mới – một sức sống dạt dào, sôi nổi, đầy
tâm huyết. Và ko thể ko kể tới đó là một quan niệm nhân sinh mới.
2. Phong cách nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử.

Đọc thơ Hàn Mặc Tử ta bắt gặp một tâm hồn thiết tha yêu cuộc sống, yêu thiên cảnh, yếu con người đến
khát khao, cháy bỏng; một khát vọng sống mãnh liệt đến đau đớn tột cùng. Trong thơ Hàn, nhiều bài thơ
mang khuynh hướng siêu thoát vào thế giới siêu nhiên, tôn giáo, nhưng đó là hình chiếu ngược của khát
vọng sống, khát vọng giao cảm với đời. Một số bài thơ cuối đời của thi sĩ họ Hàn còn đan xen những hình
ảnh ma quái – dấu ấn của sự đau đớn, giày vò về thể xác lẫn tâm hồn. Đó là sự khủng hoảng tinh thần,
bế tắc và tuyệt vọng trước cuộc đời:

“Ta còn trìu mến biết bao người

Vẻ đẹp xa hoa của một thời

Đầy lệ, đầy thương, đầy tuyệt vọng

Ôi! giờ hấp hối sắp chia phôi.”

(Trút linh hồn)

Hàn Mặc Tử trải nghiệm đau thương bằng cả tâm hồn lẫn thể xác, bằng cả điên lẫn tỉnh, bằng cả mơ lẫn
thực. Thơ được phóng xuất ra từ đấy, được phóng xuất ra như thế trong ngôn ngữ và cả trong im lặng.
Nguồn thơ đó băng ra từ tiếng kêu thống thiết và lâm lụy của đời mà vẫn đầy yêu thương. “Cơn lâm lụy
vừa trải qua dưới thế” (Thánh nữ đồng trinh Maria).

Tuy nhiên, càng về cuối đời, thơ ông càng tha thiết, thanh thoát, an nhiên, chấp nhận, không còn chất
gào thét điên cuồng dữ dội như đã trút hết cơn “lâm lụy” nơi trần thế, dọn sạch mình để chuẩn bị đi vào
cõi vĩnh hàng viên mãn một vườn Xuân như ý, cầu nguyện để lại “ra đời” làm một Á Thánh cưỡi
“Phượng hoàng bay trong một tối trăng sao” (Đêm xuân cầu nguyện).

Biểu tượng “Trăng”, “Hồn” và “Máu” đã trở thành biểu tượng nghệ thuật bất biến, thường trực và
xuyên suốt trong thơ Hàn Mặc Tử. Từ lúc bắt đầu làm thơ cho đến những ngày cuối đời ông, biểu tượng
này đã theo ông bay lên “Trên thiên triều ngời chói vạn hào quang”:

“Ta trút linh hồn giữa lúc đây

Gió sầu vô hạn nuôi trong cây

– Còn em sao chẳng hay gì cả?

Xin để tang anh đến vạn ngày.”

(Trút linh hồn)

Hay:

“Máu tim ta tuôn ra làm bể cả

Mà sóng lòng rồn rập như mây trôi

Sóng lòng ta tràn lan ngoài xứ lạ

Dâng cao lên, cao tột tới trên trời.”

(Biển hồn ta)

Ngôn ngữ thuần Việt được sử dụng một cách sáng tạo, được nâng lên một trình độ rất cao nên rất
“mới” nhưng cũng rất “Việt Nam”. Nói cách khác, Hàn Mặc Tử bao giờ cũng dùng tiếng Việt một cách
“đắt” và táo bạo nhất:

“Làn môi mong mỏng tươi như máu

Đã khiến môi tôi mấp máy thèm.

Từ lúc bóng em bỏ trái đào

Tới chừng cặp má đỏ au au

Tôi đều nhận thấy trong con mắt

Một vẻ ngây thơ và ước ao”

(Gái quê)

Mỗi bài thơ của Hàn Mặc Tử vừa mang cấu trúc chặt chẽ vừa vận động hết sức trôi chảy và thường là rất
mãnh liệt. Thơ ông khi thì như một dòng suối, nhưng thường thì giống như một dòng thác, một vệt sao
băng, chứng tỏ một khí lực thơ hết sức dồi dào và nhất quán. Chính vì thế, ngươi đọc thơ Hàn Mặc Tử
như bị một “ma lực” lôi cuốn vào một dòng rung cảm sôi sục của tim và óc.
Hàn Mặc Tử đã đưa vào Thơ mới những sáng tạo độc đáo, những hình tượng ngôn từ đầy ấn tượng, gợi
cảm giác liên tưởng và suy tưởng phong phú. Ngoài bút pháp lãng mạn, nhà thơ còn sử dụng bút pháp
tượng trưng và yếu tố siêu thựcPhong cách nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên:

1.1 Sức mạnh trí tuệ biểu hiện trong khuynh hướng thơ suy tưởng – triết lý:

Tác giả đã huy động vào công việc sáng tạo nghệ thuật nhiều năng lực và thao tác tư duy như phân tích,
so sánh, khái quát hóa, suy tưởng, triết lý và một vốn văn hóa, tri thức phong phú nhiều mặt. Cũng vì
thế, thơ Chế Lan Viên không chỉ thiên về xúc cảm, cảm giác mà thâm nhập vào bề sâu và các bình diện
của mỗi sự vật hiện tượng, đặt nó trong nhiều mối tương quan để phát hiện những ý nghĩa tiềm ẩn mới
mẻ gây hứng thú và gợi suy nghĩ cho người đọc.

1.2 Chế Lan Viên khai thác triệt để các tương quan đối lập:

Tư duy thơ Chế Lan Viên rất nhạy bén trong sự phát hiện những tương quan đối lập, đặt các hiện tượng
tương phản bên nhau, làm nổi rõ bản chất và quy luật phát triển của nó, gây được hứng thú, thẩm mĩ
bất ngờ.

1.3 Năng lực sáng tạo hình ảnh phong phú:

Trí tuệ sắc sảo ở Chế Lan Viên gắn liền với năng lực sáng tạo hình ảnh hết sức dồi dào và đa dạng. Có thể
nói, Chế Lan Viên cảm nhận, suy nghĩ về mọi điều bằng hình ảnh và hình ảnh lại khiêu gợi, kích thích cho
sự suy tưởng của nhà thơ càng vươn xa – sức mạnh thơ Chế Lan Viên nổi trội cả ở ý và hình.

1.4 Sự đa dạng trong bút pháp:

Tiếp nhận ảnh hưởng của nhiều trường phái thơ, thơ của Chế Lan Viên thiên về xu hướng hiện đại,
nhưng không ít trường hợp, đặc biệt là trong thể tứ tuyệt lại có được cái hàm súc và phong vị man mát
cổ thi. Về thể thơ cũng rất đa dạng. Chế Lan Viên thành thạo, nhuần nhuyễn cả về thể thơ bảy tiếng, tám
tiếng, đặc biệt trong thể thơ tự do, thơ văn xuôi, thúc đẩy xu hướng tự do hóa hình thức trong thơ ca
hiện đại Việt Nam.

Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám là một nhà thơ với nỗi sầu vạn kỷ

Con đường đi theo văn chương của Huy Cận chia thành hai giai đoạn, trước khi Cách mạng tháng Tám
thành công và giai đoạn sau Cách mạng.

Tập thơ lửa thiêng mang một nỗi buồn da diết cùng hình ảnh thiên nhiên bao la, hiu quạnh nhưng chính
nó đã giúp Huy Cận trở thành một trong những tên tuổi hàng đầu của phong trào Thơ mới lúc bấy giờ,
đúng như lời nhận xét của một người bạn của ông:

“Tôi cho rằng, Lửa thiêng là một tập thơ mang tính chất một “hiện tượng văn học lớn” có một không hai
trên thi đàn đất nước ta từ xưa đến nay, mà bấy lâu chúng ta chưa có điều kiện thảnh thơi để đánh giá
nó một cách thật khách quan, thật trong sáng.”

Tập thơ gồm năm mươi bài, là tiếng lòng của một thanh niên đang hừng hực tuổi trẻ muốn nói lên
những niềm vui, nỗi buồn của chính mình. Giữa nhiều bài thơ khác cùng chủ đề về tình yêu và tuổi trẻ,
Lửa thiêng không rầu rĩ và ủ dột mà lại tươi sáng, dễ thương vô cùng với những cung bậc cảm xúc trong
trẻo của tình yêu tuổi học trò:

“Chân bên chân, hồn bên hồn, yên lặng,


Người cùng tôi đi giữa đường rải nắng,

Trí vô tư cho da thở hương tình.

Người khẽ nắm tay, tôi khẽ nghiêng mình

Như sắp nói, nhưng mà không; – khóm trúc

Vừa động lá, ta nhận vào một lúc

Cả không gian hồn hậu rất thơm tho;

Gió hương đưa mùi, dìu dịu phất phơ…”

– Đi giữa đường thơm

Đẹp đẽ và hồn nhiên là thế nhưng tình yêu đôi lứa ấy nhanh chóng vỡ tan và rơi vào vô vọng bởi sâu
thẳm trong tâm hồn Huy Cận vẫn luôn có một nỗi buồn đè nặng, bắt nguồn từ chính những bi kịch và bế
tắc thuở xa xăm.

Triền miên trong nỗi buồn thương nhưng Huy Cận không bị xoáy vào vòng tròn tuyệt vọng hay một thế
giới siêu thực như nhiều nhà thơ khác giai đoạn ấy. Ông vẫn tha thiết với cuộc đời và dành trọn những gì
chân thành nhất cho nó, đắm say vào cảnh sắc của đất nước, quê hương và hòa mình với hương vị nồng
nàn của cây cỏ.

“Bắt gặp mùa tươi lên rún rẩy

Trong cành hoa trẻ, cổ chim non.

– Có ai gửi ý trong xuân cũ,

Đất nở mùa xuân vẫn chẳng mòn.”

Sau cách mạng thơ của Huy Cận chủ yếu là hô hào, ngợi ca cuộc sống mới và con người mới nên giá trị
nghệ thuật không có nhiều điểm nổi bật như giai đoạn sáng tác trước đó.

Nhà thơ của cảnh sắc quê hương và nỗi niềm nồng nàn yêu nước

Theo bối cảnh lúc bấy giờ Thơ mới dần đi vào bế tắc để rồi mỗi nhà thơ đều phải loay hoay đi tìm lối
thoát cho riêng mình, Huy Cận tìm cách thoát ly vào với thiên nhiên và vũ trụ, ông kêu gọi mọi người trở
về hòa nhập vào tạo vật, tìm nguồn vui từ thiên nhiên vũ trụ:

“Có lẽ tạo vật đau thương, đất trời vắng lạnh vì nỗi lòng ta xa cách tạo vật đó thôi. Ta hãy trở về, ta hãy
nhập cuộc, có nhịp sống đưa nâng, có dòng đời xô đẩy, cái vui lớn, cái vui trọng đại dâng sóng tràn khắp
cõi đời.”

Từ khi thoát vào vũ trụ hồn thơ Huy Cận trở nên mạnh mẽ, khoáng đạt cùng nhiều cảm xúc mới lạ, ông
say sưa trong cái mênh mang của trời đất và vũ trụ:

“Trời xanh ran lá biếc

Biển chóa ngập buồm vàng

Gió thổi miền bất diệt


Mây tạnh đất hồng hoang.”

– Trời, Biển, Hoa, Hương

Mặc dù như gặp lại niềm vui thuở trước cùng niềm hân hoan, rạo rực và những khát khao của tuổi trẻ
nhưng rất dễ nhận ra cái vui trong Vũ trụ ca là vui gượng, cố vui nên không trọn vẹn và vẫn mang vẻ
chông chênh, vô vọng khiến tác giả đôi khi rơi vào trạng thái cầu kỳ hóa làm hình ảnh mất đi tính tự
nhiên.

Dù vậy chính cái tôi giàu cảm xúc, nặng tình với đất nước, dân tộc đã dần dần kéo Huy Cận trở lại với sự
gần gũi vốn có:

“Về đâu những bước thời gian đã

In dấu mong manh trên cánh đào?

Về đâu hạt bụi vàng thao thức

Theo bánh xe quay vòng khát khao?

Về đâu ?…”

Câu hỏi “Về đâu” cứ lặp đi lặp lại như một ám ảnh, day dứt khôn nguôi của Huy Cân về ngày mai và ý
nghĩa của kiếp người.

Trước Cách mạng tháng Tám Huy Cận là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của Thơ mới, thơ ông là
tiếng lòng thiết tha gắn bó với quê hương và niềm khao khát được hiến dâng tuổi trẻ, tài năng cho đất
nước nhưng khi đối diện với thực tại nghiệt ngã những kỳ vọng ấy đã tan vỡ hoàn toàn.

Như nhiều nhà thơ lãng mạn khác, sáng tác của Huy Cận giai đoạn này luôn có một nỗi sầu thường trực
trên từng nhưng đó là biểu hiện sinh động của bi kịch tâm trạng và đáng được cảm thông, trân trọng.

Sau Cách mạng tháng Tám thơ Huy Cận gắn bó sâu sắc với kháng chiến

Sau khi Lửa thiêng ra đời một năm, Huy Cận tìm đến với Cách mạng và hoạt động trong mặt trận Việt
Minh.

Như một bộ phận lớn nhà thơ cùng thời, sự chuyển biến của Cách mạng có ý nghĩa vô cùng to lớn tựa
như một bước ngoặt lịch sử đưa Huy Cận thoát khỏi sự tuyệt vọng và sự luẩn quẩn không lối thoát do
mặc cảm nặng nề về thân phận nô lệ tạo nên.

Sau 1945 thơ Huy Cận thể hiện rõ quá trình đấu tranh tự khẳng định sự góp mặt của một nhà thơ lớp
trước vào cuộc sống mới. Tuy nhiên phải tới mười ba năm sau thì mới có một tập thơ (Trời mỗi ngày lại
sáng) được ra đời đánh dấu sự thay đổi quan điểm nghệ thuật cùng những cảm xúc trong suốt quá trình
ông đi theo Cách mạng.

Trong kháng chiến chống Mỹ, Huy Cận đã góp tiếng thơ của mình vào việc phản ánh những sự kiện và
vấn đề trọng đại của chiến tranh. Bằng nhiều chuyến đi thực tế vào tuyến lửa nhà thơ kịp thời chuyển
biến cách nhìn cùng suy nghĩ cho phù hợp với giai đoạn cách mạng mới.
Từ thế đứng hùng vĩ và tầm vóc lớn lao của dân tộc trên tuyến đầu chống Mỹ, nhà thơ càng có điều kiện
để suy ngẫm về quá khứ và hướng về tương lai, từ truyền thống dân tộc đến quan hệ với thế giới và thời
đại.

Giữa khói lửa mịt mù của chiến tranh, cái nhìn của Huy Cận vẫn hướng về phía khái quát để phát hiện ra
những nét đẹp tiềm ẩn trong văn hóa truyền thống của đời sống con người Việt Nam:

“Sống vững chải bốn ngàn năm sừng sững

Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa

Trong và thật: sáng hai bờ suy tưởng

Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa.”

– Ði trên mảnh đất này

Nhiều bài thơ của Huy Cận thể hiện được tính chính luận rõ ràng và xác thực từ những sự kiện chính trị,
xã hội hay những chi tiết cụ thể của đời sống, nhà thơ mở rộng liên tưởng để khám phá bề sâu triết lý
của vấn đề.

4.Nguyễn Bính

Nhà văn với lối viết đậm nét chân quê

Thơ mới ra đời trong khoảng thời gian nước ta đón nhận sự du nhập mạnh mẽ của nền văn hóa phương
Tây, điều này có ảnh hưởng lớn đến văn chương của thi sĩ lúc bấy giờ nhưng giữa những biến động ấy,
Nguyễn Bính vẫn kiên định với lối thơ mộc mạc và đậm chất chân quê.

Nhận xét về ông, Lê Đình Kỵ từng cho rằng:

“So với các nhà thơ lãng mạn trước đây, Nguyễn Bính đứng riêng một cõi.”

Nhà văn thường xuyên sử dụng các thể thơ truyền thống như lục bát và thất ngôn, kết hợp với ngôn từ
mượt mà, giản dị tạo nên những câu thơ ngọt ngào như những câu ca dao dao duyên.

Nhắc về Nguyễn Bính, Hoài Thanh nói rằng thơ của ông có tính cách Việt Nam, mộc mạc như câu hát
đồng quê.

“Van em em hãy giữ nguyên quê mùa

Như hôm em đi lễ chùa.

Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh.

Hoa chanh nở giữa vườn chanh.

Thầy u mình với chúng mình chân quê

Hôm qua em đi tỉnh về

Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.”

– Chân quê
Chân quê như một lời tuyên ngôn của Nguyễn Bính với tình yêu phong tục tập quán cũng như nét đẹp
truyền thống của dân tộc. Bài thơ là sự phiền lòng của chàng trai trước những thay đổi của người con gái
khi đi tỉnh về, trang phục quen thuộc như chiếc áo yếm, khăn mỏ quạ đã được thay bằng những thứ đồ
đắt đỏ hơn.

Người con trai tiếc nuối vẻ đẹp chân quê ngày trước, tha thiết cầu mong cô gái giữ nét đẹp truyền thống
với những đức tính chất phác, đôn hậu ngàn đợi của những người dân quê.

Đọc thơ của Nguyễn Bính, ta như được trở về một vùng quê sau những lũy tre làng, ông đưa vào thơ của
mình không chỉ khung cảnh mà cả lời ăn tiếng nói của con người nơi đây. Nhà thơ với nhân dân như hòa
vào làm một, giúp ông thấu hiểu thói quen cũng như tâm tư, suy nghĩ của họ và đưa chúng vào thơ ca
thật đẹp và chân thành.

Nguyễn Bính viết về những người phụ nữ nông thôn trước cách mạng với nỗi đau khổ, tủi hờn, vất vả rất
chân thật và xót xa, nếu không có một tình yêu cũng như sự gắn bó với quê hương thì có lẽ ông không
thể chắp bút nên những vần thơ hay và day dứt đến thế.

Lỡ bước sang ngang được tác giả sáng tác năm 1939, bài thơ là lời xót xa của người chị khi đi lấy chồng
nhưng chẳng thể dứt bỏ những lo toan về người mẹ già và đứa em nhỏ nheo nhóc.

Hoài Thanh khẳng định khó tìm đâu ra một hồn thơ quê mùa như Nguyễn Bính và quả thật chính điều
đó đã trở thành chất riêng trong thơ ca của tác giả, cứ như thế những tác phẩm của ông đi vào lòng của
biết bao nhiêu thế hệ bạn đọc.

Nguyễn Bính là ông vua của những bài thơ tình

Nhắc đến thơ tình, bên cạnh Xuân Diệu người ta còn nói đến Nguyễn Bính với những trang thơ rất tình
và da diết. Tình yêu luôn là đề tài muôn thuở cho người thi sĩ, thế nhưng thứ cảm xúc đặc biệt ấy lại
được những trái tim cảm nhận khác nhau, vì vậy cách họ đưa chúng vào trong thơ cũng thật riêng biệt.

Tình yêu xuất hiện trong thơ ca muôn hình vạn trạng, nó da diết nhưng mong manh trong thơ Hàn Mặc
Tử hay nồng nàn, mãnh liệt qua ngòi bút của Xuân Diệu, còn đối với Nguyễn Bính tình yêu đa phần là
chờ đợi và biệt ly.

Nguyễn Bính từng mượn hình ảnh cánh buồm để diễn tả sự chia xa, một cánh buồm bao chùm cả không
gian và thời gian, chứa đựng nỗi buồn cũng như những lưu luyến khi phải nói lời từ biệt.

“Anh đi đấy, anh về đâu?

Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm nâu…”

– Cánh buồm nâu

Nguyễn Bính có nhiều mối tình không hạnh phúc, vì thế sự tan vỡ hay lìa xa thường trở thành cảm hứng
chủ đạo trong những áng thơ tình của ông, qua những trang thơ, tất cả xúc cảm được bộc lộ thật chua
xót đan xen với vô vàn tiếc nuối.

Tình yêu luôn có nhiều sắc thái và trong số đó có một kiểu gọi là tình đơn phương, thứ mà cũng thường
xuyên đi vào thơ của tác giả với những nỗi nhớ nhung da diết.
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười thương một người”

– Tương Tư

Thơ tình Nguyễn Bính còn bộc lộ niềm khao khát mãnh liệt có được một gia đình nhỏ hạnh phúc, đồng
thời ngòi bút của nhà văn cũng thường hướng đến sự chung thủy, không thay lòng trong tình yêu.

Nhà thơ đã đi sâu vào từng ngóc ngách trái tim của những kẻ đang yêu, thấu hiểu tất cả những nồng
nàn, tha thiết cũng như đau khổ, bi thương trong họ để từ đó ông họa nỗi niềm ấy vào từng trang văn
ngọt ngào và sâu sắc.

You might also like