You are on page 1of 3

Tác giả Huy Cận:

1. Tiểu sử:
-Huy Cận (1919-2005) quê ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.

-Thuở nhỏ ông học ở quê rồi vào Huế học hết trung học.

-Năm 1939 ra Hà Nội học ở Trường Cao đẳng Canh nông.

-Từ năm 1942, Huy Cận tích cực hoạt động trong mặt trận Việt Minh sau đó được bầu
vào uỷ ban dân tộc giải phóng toàn quốc.

-Sau cách mạng tháng 8, giữ nhiều trọng trách quan trọng trong chính quyền cách
mạng.

-Sau này ông làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa, rồi Bộ trưởng đặc trách Văn hóa Thông tin
trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phụ trách các công tác văn hóa và văn nghệ.

-Từ 1984, ông là Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật
Việt Nam. Ngoài ra, ông còn là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I, II và VII.
2. Phong cách sáng tác:
Điểm chung là thơ Huy Cận giàu chất suy tưởng, tràn đầy cảm xúc về vũ trụ, đặc biệt
là hàm súc và triết lí. Phong cách của Huy Cận chia làm hai giai đoạn:
Trước cách mạng Tháng 8: Mang nét sầu não, buồn thương. Nguyên nhân nỗi sầu là
do ông cảm nhận cái bé nhỏ và hữu hạn của kiếp người. Đồng thời, nỗi buồn của ông
còn mang cả dấu ấn của thời đại bị nô lệ. Huy Cận có thơ đăng báo từ 1936, cho in tập
thơ đầu Lửa thiêng năm và trở thành một trong những tên tuổi hàng đầu của phong
trào Thơ mới lúc bấy giờ. Bao trùm Lửa Thiêng là một nỗi buồn mênh mang da diết.
Thiên nhiên trong tập thơ thường bao la, hiu quạnh, đẹp nhưng thường buồn.
Sau cách mạng Tháng 8 mang nét tươi vui. Với một số tác phẩm tiêu biểu như: Trời
mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời, Hai bàn tay em, Phù Đổng Thiên
Vương, Những năm sáu mươi, Cô gái Mèo, Chiến trường gần đến chiến trường xa,
Họp mặt thiếu niên anh hùng, Những người mẹ những người vợ, Ngày hằng sống
ngày hằng thơ, Sơn Tinh Thủy Tinh, Ngôi nhà giữa nắng…
3. Vinh danh:
Năm 1996, Huy Cận đã được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn
học nghệ thuật.

Tháng 06/2001, Huy Cận được bầu là viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế giới.

Ngày 23/02/2005, ông được Nhà nước truy tặng Huân chương Sao Vàng.
4. Sự nghiệp sáng tác:
- Huy Cận, nhà thơ đa tài, được ca ngợi là một trong những gương mặt tiêu biểu của
nền văn học Việt Nam. Huy Cận bắt đầu làm thơ từ năm 14 tuổi. Đến năm 16 tuổi, thơ
của anh đã được đăng báo và 20 tuổi, Huy Cận ra mắt bạn đọc tập thơ đầu tay “Lửa
thiêng”.
- Ngay từ khi ra đời, văn chương của Huy Cận đã thể hiện sự pha trộn tinh tế giữa
phong cách cổ điển phương Đông và hiện đại phương Tây. “Lửa thiêng” đã hun đúc
tài năng của Huy Cận, đưa anh trở thành một trong những đại diện tiêu biểu nhất của
phong trào Thơ mới thời kỳ đỉnh cao bên cạnh các danh nhân như Lưu Trọng Lư,
Xuân Diệu.
- Sau 1945, Huy Cận bước sang một thời kỳ sáng tạo mới. Anh biến đổi từ một nhà
thơ bận tâm đến vũ trụ cá nhân của mình, đầy rẫy những xáo trộn cảm xúc, thành một
nhà văn đóng góp những bài thơ sôi động ca ngợi lối sống mới và những thay đổi
đang diễn ra trên quê hương anh. Nói cách khác, sức sáng tạo bền bỉ của Huy Cận đã
kéo dài suốt hành trình thơ ca của anh, từ “Lửa thiêng,” “Trời ngày nào cũng sáng,”
“Nguyện một mình,” “Sáu mươi năm,” “Đất nở hoa”, “Khát vọng hai thế kỷ”,“Khúc
ca vũ trụ,” “Trở về biển cả”, “Cha ông ngàn thuở” và …
- Huy Cận mất ngày 16 tháng 2 năm 2006 tại Hà Nội. Di sản của ông với tư cách là
một nhà thơ đa diện, một nhà hoạt động văn hóa hăng hái và một nhà cách mạng đã
được khẳng định vững chắc trong lịch sử văn học Việt Nam.
5. Các tập thơ tiêu biểu của tác giả Huy Cận:
- Lửa Thiên (1940).
- Trời mỗi ngày lại sáng (1958)
- Đất nở hoa (1960)
- Bài thơ cuộc đời (1963)
- Hai bàn tay em (1967)
- Ngôi nhà giữa nắng (1978)
- Hạt lại gieo (1984)
- Nước triều đông (tập thơ song ngữ Việt-Pháp, 1994),…
6. Các nhận định hay về tác giả và Tràng Giang:
-” Say mê sống và cũng say mê sáng tạo, Huy Cận là người đam mê thơ ca từ nhỏ. Có
lẽ không chỉ vì không khí gia đình, quê hương; mà căn bản vì ông có một tâm hồn
nhạy cảm. Xuân Diệu nhận xét rằng HC đặc biệt nhạy cảm với những vùng hoang
vắng trong tâm hồn. Hẳn đây là một trong những” tố chất ” đặc biệt để hình thành hồn
thơ của một thí sĩ sau bày sẽ là tác giả của tập ” Lửa thiêng ” – tập thơ dựng lên cả
một thế giới nổi tiếng với vẻ quạnh vắng cô liêu “
- “Huy Cận lượm lặt những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo
não. Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi tầm thường thì người lại
có thể đúc thành bao châu ngọc. Ai có ngờ những bước chân đã tan trên đường kia còn
ghi lại trong văn thơ những dấu tích không bao giờ tan được…”
-” Người nói cùng ta nỗi buồn nơi quán chật, đèo cao, nỗi buồn của sông dài, trời
rộng, nối buồn của người lữ thứ dừng ngựa trên non, buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn”
- Cái buồn trong Lửa Thiêng không xuất phát từ bi kịch cá nhân nhà thơ mà gắn nhiều
hơn với tâm trạng xã hội, với ý thức về thân phận nô lệ của cả một thế hệ. Trong lời
tựa cho lần xuất bản đầu tiên, Xuân Diệu có nhận xét: Chàng than nỗi tháng ngày vùn
vụt, bảo rằng hoa xuân không đậu, đời thoảng mùi ôi, trong khi mình chưa sống hết
tuổi xuân, đang độ trẻ măng của đời người! Cái tiếc sớm, cái thương ngừa áy chẳng
qua là sự trá hình của lòng ham đời, là cái tật dĩ nhiên của kẻ yêu sự sống.

You might also like