Professional Documents
Culture Documents
NGỮ VĂN 11
BÀI: VỘI VÀNG (XUÂN DIỆU)
7
Tóm lại, 13 câu đầu sử dụng những từ ngữ, hình ảnh giàu sức sáng tạo, giàu nhạc điệu để
biến trần gian thành thiên đường đầy quyến rũ. Đoạn thơ là những phát hiện rất mới mẻ, thể
hiện quan niệm thẩm mỹ tích cực, làm thức tỉnh người đọc yêu đời, yêu cuộc sống hơn. Từ
đó, Xuân Diệu xứng đáng là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới.
Hoài Thanh nhận xét: “ Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống cuống quýt,
vội vàng”. Thật vậy, điệu sống vội vàng của Xuân Diệu là do ông thấy được cảnh đẹp tuyệt
sắc của trần gian trước sự ngắn ngủi của cuộc đời. Vậy nên, đoạn thơ đã khiến cho chúng ta
nhận ra phải sống yêu đời, yêu thiên nhiên.
Qua đoạn thơ ta nhận ra, vẻ đẹp nơi thiên đường trần gian vào mùa xuân. Vì vậy hãy sống
hết mình cho mỗi ngày để có thể tận hưởng những tinh hoa của cuộc đời một cách trọn vẹn.
9 CÂU CÒN LẠI (Câu 30 – 39): TRIẾT LÝ – QUAN NIỆM NHÂN SINH CỦA NHÀ
THƠ: SỐNG VỘI VÀNG
“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
1. Mở bài
2. Thân bài
a. Luận điểm 1: Khái quát chung
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Nêu vị trí, nội dung đoạn trích: Đoạn trích phân tích thuộc phần ba của bài “Vội vàng”, tái
hiện lời thúc giục của Xuân Diệu – sống tận hưởng cuộc đời và tuổi trẻ.
8
b. Luận điểm 2: Phân tích đoạn trích
- Nhịp thơ: chuyển từ triết lý, suy ngẫm sang nhịp sôi nổi, dồn dập, gấp gáp như thúc bách con
người. Câu thơ “Ta muốn ôm” ngắt thành một khổ riêng:
+ Đại từ “ta” thay cho nhân xưng “tôi”: cái “tôi” khi đứng đối diện với cộng đồng, đã kiêu hãnh
nới rộng vòng tay, ôm trùm tất cả. Cho nên nó hợp nhất với cái “tôi” khác để làm nên cái “ta”
rộng lớn.
+ Động từ “ôm”: thể hiện trạng thái thâu gọn, yêu quí. Cái “tôi” của Xuân Diệu muốn hòa mình
vào thiên nhiên, đất nước, toàn bộ sự sống. Dường như đó chính là hình ảnh một cái tôi đầy
tham vọng đứng giữa trời đất dang rộng vòng tay để ôm hết mọi thanh sắc của cuộc đời. Từ cái
tôi đã trở thành cái ta. Đây dường như là một lời khẳng định bản thân mạnh mẽ mãnh liệt
“Ta là một là riêng là thứ nhất
Không có chi bè bạn nỗi cùng ta”
(Hy Mã Lạp sơn – Xuân Diệu)
- Trong những câu thơ tiếp theo, thi nhân dường như cũng mở rộng chiều kích của mình để có
thể thâu tóm thiên nhiên vũ trụ rộng lớn:
“Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;”
+ Thủ pháp liệt kê: “Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”; “may đưa gió lượn”; “cánh bướm tình
yêu”; “non nước, cây, cỏ rạng”…đã gọi ra cả một thế giới sự sống vô cùng đa dạng, đẹp đẽ và
tràn đầy sức sống. Trong thế giới ấy có cả những cái trừu tượng to lớn (mây, sóng, gió…) và cả
những cái cụ thể, hữu hình. Cảnh sắc đều được nhìn trong ánh mắt say mê của một trái tim tình
yêu, được nhìn trong lăng kính tình yêu vì thế cảnh vật hiện lên vừa tươi đẹp vừa quyến rũ. Mây
vì thế mà không trôi bồng bềnh hay u buồn như: Gió theo lối gió mây đường mây (Đây thôn Vĩ
9
Dạ – Hàn Mặc Tử) mà là mây rạp rực, gió không thổi mà lượn duyên dáng, cánh bướm cũng
chìm đắm chao liệng trong tình yêu.
+ Các động từ “ôm, riết, thâu, cắn…” kết hợp với nhiều từ “và”: thể hiện trạng thái chiếm lĩnh
sự sống, tận hưởng cuộc đời cao độ; cái “tôi” say xưa kể lể giãi bày tình yêu với cuộc đời.
Mở rộng: Ta cũng từng bắt gặp sự say mê, khát khao đến tột cùng của Xuân Diệu trong tình
yêu:
“Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực!
Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài!
Những cánh tay! Hãy quấn riết đôi vai!
Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt!
Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt
Cho anh nghe đôi hàm ngọc của răng”
(Xa cách – Xuân Diệu)
+ Biện pháp điệp cấu trúc “Ta muốn…cho” đi kèm với các tính từ “đã đầy, chếnh choáng, no
nê” biểu hiện trạng thái sung sướng cao độ của nhân vật trữ tình khi tận hưởng vẻ đẹp trần thế.
Hương đã đầy tràn ngập khắp không gian, ánh sáng cũng phủ đầy trời đất, thanh sắc cũng đã
hiện lên rực rỡ. Với Xuân Diệu, thời gian không được phân định thành bốn mùa xuân – hạ – thu
– đông mà dường như chỉ được phân định thành hai mùa. Đó là mùa của thời tươi và của thời
không tươi. Thời tươi đó với ông là khoảng thời gian rạo rực của tình yêu và tuổi trẻ. Mất đi
tình yêu, mất đi tuổi trẻ thì mọi thứ cũng trở nên vô nghĩa.
Câu thơ cuối “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào người”:
+ Câu thơ trước hết là một tiếng gọi mùa xuân vô cùng tha thiết. Sau nữa, hình thức cảm thán,
câu cầu khiến thể hiện cảm xúc mãnh liệt, muốn được chiếm lĩnh, tận hưởng mùa xuân trọn vẹn
nhất.
+ Động từ “cắn” đã khiến hình ảnh mùa xuân được thực thể hóa cao độ, trở thành trái chín
mọng hay một cặp môi thơm tho, tình tứ, mời gọi những khát khao chiếm lĩnh và tận hưởng.
Dưới ngòi bút của thi nhân, trong cặp mắt “xanh non, biếc rờn”, thiên nhiên hiện lên rõ rệt đầy
sức sống. Màu xuân như đôi môi, ửng hồng như đôi má người thiếu nữ đang độ xuân thì, tràn
10
đầy nhựa sống trinh nguyên mang một chút rạo rực hơi thở của tình yêu. Mùa xuân như một
người tình đầy quyến rũ của thi nhân. Vì thế đã dẫn đến một khát khao tạo bạo nhưng không
kém phần đáng yêu duyên dáng của một tâm hồn non trẻ – “muốn cắn vào ngươi”.
c. Luận điểm 3: Đánh giá
Tóm lại, xuất phát từ quan niệm triết học về thời gian, XD đã trình bày nội dung của triết lý
sống vội vàng: chính là sống tận hiến và tận hưởng. Đây là một quan điểm sống tích cực và
đúng đắn so với chính những nhà thơ cùng thời của ông (những con người đi tìm lối thoát khỏi
cuộc đời với lòng bi ai, sầu khổ) và cả các nhà thơ trước thời của ông (vốn ở ẩn mỗi khi cuộc
đời biến loạn).
Khi không thể tắt nắng hay buộc gió, không thể can dự vào quy luật của tạo hóa,
không thể cất giữ mãi hương sắc cuộc đời, cũng không thể kéo dài quỹ thời gian hạn hẹp của
đời người, nhà thơ đã lựa chọn cho mình cách sống vội vàng, sống tận hưởng và tận hiến. Với
ông, trần gian là một thiên đường mặt đất, nên ông quyết gắn bó và tận dụng thời gian để hưởng
trọn vẻ đẹp nơi đây:
“Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất”
(Thanh niên – Xuân Diệu)
3. Kết bài
“Với những nguồn cảm hứng mới, yêu đương và tuổi xuân, dù lúc vui hay lúc buồn, Xuân Diệu
cũng ru thanh niên bằng giọng yêu đời, thấm thía”. Và khúc thơ cuối trong “Vội vàng” là một
trong những khúc thơ tiêu biểu trong giọng thơ yêu đời nhát. Đọc đoạn thơ, ta như nghe thấy
giọng nói, hơi thở, nhịp đập sôi nổi bồng bột trong trái tim thi sĩ. Qua bài thơ “Vội vàng”, ta
thấy được phần nào cái nhịp sống vội vàng, niềm say mê cuộc đời mãnh liệt của Xuân Diệu.
Đồng thời, ta còn thấy được một thông điệp vô cùng ý nghĩa, sâu sắc của Xuân Diệu: Hãy sống
vội vàng, sống hết mình trong những khoảnh khắc tuyệt đẹp nhưng lại mong manh của tuổi
thanh xuân bởi thời gian trôi đi sẽ kéo theo mùa xuân và tuổi trẻ, cả những ước mơ, khát vọng.
11
TÀI LIỆU NGỮ VĂN
NGỮ VĂN 11
BÀI: TRÀNG GIANG (HUY CẬN)
I. Mở bài:
Mb2:
Mộ t chiếc linh hồ n nhỏ
Mang mang thiên cổ sầ u…
Xuấ t hiện và o giai đoạ n toà n thịnh củ a phong trà o Thơ Mớ i, Huy Cậ n là mộ t trong
nhữ ng thi sĩ có cô ng đưa phong trà o nà y lên đến đỉnh cao. Ở độ chín nhấ t, phong cá ch
thơ Huy Cậ n là sự kết hợ p nhuầ n nhuyễn nhữ ng yếu tố cổ điển, nhấ t là cổ điển Đườ ng
thi và nhữ ng yếu tố trong thơ mớ i. Cụ thể, đó là sự hoà hợ p nỗ i sầ u vạ n kỉ củ a Huy Cậ n
12
cũ ng cả nỗ i sầ u vũ trụ và nhâ n tình trong thơ Đườ ng vớ i cá i tô i cá nhâ n cá thể thờ i thơ
mớ i. Nỗ i niềm ấ y thườ ng chung đú c và o hình ả nh điển hình củ a cá i tô i trong tậ p Lử a
thiêng (1937-1940): kẻ lữ thứ bơ vơ trong khô ng gian vô tậ n, trô i dạ t trong thờ i gian vô
thuỷ vô chung. Đồ ng thờ i là sự hoà hợ p giữ a thi phá p thơ Đườ ng và nhữ ng nét thi phá p
trong thơ tượ ng trưng Phá p.
Mb3: Thơ ca là tiếng nó i củ a con tim, củ a tâ m hồ n nghệ sĩ. Nếu như chú ng ta đã từ ng
có nhữ ng phú t giâ y rạ o rự c, đắ m say, quay cuồ ng trong nhữ ng rung cả m yêu đờ i vớ i bà i
thơ “Vộ i và ng” củ a Xuâ n Diệu, thì khi đến vớ i “Trà ng Giang” củ a Huy Cậ n, dườ ng như
chú ng ta sẽ bắ t gặ p nhữ ng cả m xú c hoà n toà n ngượ c lạ i. Vớ i “Trà ng Giang”, Huy Cậ n đã
gọ i cả “hồ n buồ n Á Đô ng, đã khơi dậ y cá i mạ ch sầ u mấ y ngà n nă m vẫ n ngấ m ngầ m
trong cõ i đấ t nà y”.
Mb4:
Đưa ngườ i sao khô ng đưa qua sô ng
Sao có tiếng só ng ở trong lò ng
Bó ng chiều, khô ng thắ m khô ng và ng vọ t
Sao đầ y hoà ng hô n trong mắ t trong
(T ố ng biệt hà nh – Thâ m Tâ m)
Dườ ng như khi đứ ng trướ c bề rộ ng củ a khô ng gian, lò ng thườ ng dâ ng lên 1 nỗ i buồ n cô
đơn, lạ c lõ ng. Mộ t tâ m hồ n thơ nhạ y cả m như Huy Cậ n cũ ng khô ng ngoạ i lệ. Buổ i chiều
hoà ng hô n trên nhữ ng con phố cổ Hà Nộ i kết hợ p vớ i khoả ng khô ng rợ n ngợ p củ a sô ng
Hồ ng đã thổ i và o hồ n ngườ i thi nhâ n nguồ n cả m hứ ng mã nh liệt để sá ng tá c ra bà i thơ
“Trà ng giang”. Bà i thơ là mộ t bứ c tranh thiên nhiên vũ trụ rộ ng lớ n đố i ngượ c vớ i con
ngườ i nhỏ bé, cô đơn.
II. Thân bài
1. Luận điểm 1: Thông tin về tác giả, tác phẩm
* Tác giả Huy Cận.
- Huy Cậ n (1919 – 2005) tên khai sinh là Cù Huy Cậ n sinh ra trong mộ t gia đình nhà Nho
nghèo ở Hà Tĩnh.
13
- Lú c nhỏ ô ng họ c ở quê, sau đó và o Huế họ c trung họ c, đậ u tú tà i Phá p: rồ i ra Hà Nộ i họ c
trườ ng Cao đẳ ng Canh nô ng.
- Huy Cậ n có thơ đă ng bá o từ nă m 15 tuổ i, trở nên nổ i tiếng vớ i tậ p “Lử a thiêng”.
- Huy Cậ n yêu thích thơ ca Việt Nam, thơ Đườ ng và chịu nhiều ả nh hưở ng củ a vă n họ c
Phá p. Trướ c Cá ch mạ ng, Huy Cậ n đượ c biết đến như mộ t thi sĩ hà ng đầ u trong phong trà o
Thơ Mớ i. Thơ ô ng có nỗ i á m ả nh thườ ng trự c là nỗ i buồ n nhâ n thế, nỗ i bi sầ u kéo dà i
nhưng già u chấ t suy tưở ng, triết lí.
- Sau Cách mạ ng, Huy Cậ n là nhà thơ tiêu biểu vớ i tiếng thơ yêu đờ i, lạ c quan, că ng trà n
sứ c số ng.
- "Huy Cận lượm lặt những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não.
Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi tầm thường thì người lại có thể đúc
thành bao châu ngọc. Ai có ngờ những bước chân đã tan trên đường kia còn ghi lại trong
văn thơ những dấu tích không bao giờ tan được..."
- " Huy Cận cũng là " một người của đời, một người ở giữa loài người"
- “Đời chúng ta nằm trong một chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng
thấy lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình của Lưu Trọng Lư,
ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên
đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở
về hồn ta cùng Huy Cận” – Hoà i Thanh.
- “Ở Huy Cận, ta không thấy những tiếng kêu ầm ĩ, nóng nảy như ở tác giả Thơ Thơ và ta
cũng không thấy cái buồn vơ vẩn và nhẹ nhàng như ở tác giả Tiếng thu. Huy Cận than thân
thì ít mà góp tiếng khóc với đời thì nhiều” – Vũ Ngọ c Phan.
14
- Là mộ t trong nhữ ng bà i thơ hay nhấ t, tiêu biểu nhấ t củ a nhà thơ Huy Cậ n, in trong tậ p
“Lử a thiêng”.
- Bà i thơ đượ c viết và o mù a thu nă m 1939, khi Huy Cậ n cò n là sinh viên Trườ ng Cao đẳ ng
Canh nô ng.
- Cả m xú c thơ đượ c lấ y chủ yếu từ cả nh sô ng Hồ ng mênh mang song nướ c và suy nghĩ về
kiếp ngườ i nhỏ bé, trô i nổ i, vô định.
*Phân tích khổ thơ đầu: Khung cảnh sông nước mênh mông, bất tận.
16
khô ” đang trô t dạ t vô định giữ a dò ng nướ c. Vớ i â m điệu nhịp nhà ng, trầ m buồ n, cù ng vớ i
cá c từ lá y đặ c sắ c, đố i ý, hình ả nh độ c đá o, chi tiết mớ i mẻ, Huy Cậ n đã phá c họ a nên mộ t
nỗ i buồ n bơ vơ, bế tắ c củ a lò ng ngườ i trướ c khô ng gian sô ng nướ c mênh mô ng, rợ n ngợ p
và hoang vắ ng.
“Bèo dạ t về đâ u, hà ng nố i hà ng
“Lớ p lớ p mâ y cao đù n nú i bạ c
Khổ thơ hiện lên là hình ả nh thiên nhiên hù ng vĩ vớ i “mâ y cao” xếp thà nh nhiều tầ ng tạ o
nên liên tưở ng về dã y “nú i bạ c” khổ ng lồ , vớ i cá nh chim nhỏ cô đơn, nhỏ bé và bó ng chiều
bao phủ . Sà xuố ng chum lên cả nh vậ t. Độ ng từ “đù n” khiến mâ y như chuyển độ ng, có nộ i
lự c từ bên trong, từ ng lớ p mâ y cứ đù n ra mã i. Đâ y cũ ng là mộ t nét thơ đầ y chấ t hiện đạ i,
bở i nó đã vậ n dụ ng sá ng tạ o từ thơ cổ điển quen thuộ c. Bó ng hoà ng hô n dườ ng như đã sa
xuố ng quá nhanh khiên cho cá nh chim phả i nghiêng ngả . Từ lá y toà n bộ “dợ n dợ n” ở hai
câ u thơ cuố i là mộ t sá ng tạ o độ c đá o củ a Huy Cậ n. Từ lá y nà y hô ứ ng cù ng vớ i cụ m từ “vờ i
con nướ c” cho thấ y mộ t nỗ i niềm bâ ng khuâ ng, cô đơn củ a “lò ng quê”. Phong cách thơ Huy
Cậ n có sự kết hợ p nhuầ n nhuyễn giữ a nhữ ng yếu tố cổ điển, nhấ t là cổ điển Đườ ng thi vớ i
yếu tố thơ mớ i. Cụ thể là sự hò a hợ p trong “mố i sầ u vạ n kỉ” củ a Huy Cậ n cả mố i sầ u vũ trụ
và thế nhâ n từ ng chan chứ a trong thơ Đườ ng vớ i nỗ i cô đơn củ a “cá i tô i” cá thể thơ mớ i.
Trong bà i “Trà ng giang”, Huy Cậ n đã kín đá o gử i lò ng yêu nướ c và o nỗ i buồ n và niềm thiết
tha trướ c tạ o vậ t thiên nhiên. Đó là nỗ i buồ n sầ u củ a mộ t ngườ i dâ n thuộ c địa trướ c giang
sơn bị mấ t chủ quyền (nỗ i buồ n sô ng nú i) đã hò a lẫ n và o nỗ i bơ vơ trướ c tạ o vậ t vô biên,
hoang vắ ng. Tá c giả số ng trên quê hương mà luô n thấ y thiếu quê hương, luô n thấ y bơ vơ
19
ngay trên chính quê hương mình. Bà i thơ như mộ t chuỗ i củ a sự trố ng vắ ng: “Khô ng khó i
hoà ng hô n cũ ng nhớ nhà ” – mộ t tín hiệu thô ng thườ ng củ a sự đoà n tụ con ngườ i trong
thờ i điểm hoà ng hô n cũ ng khô ng có . Trong bứ c tranh nà y dườ ng như chỉ có sự ngự trị
tuyệt đố i củ a mộ t thiên nhiên sơ cổ , lặ ng lẽ. Bà i thơ mở ra bằ ng tiếng só ng trên sô ng nướ c,
kết thú c bằ ng tiếng só ng trong tâ m hồ n con ngườ i. Cả nh vậ t vẫ n đìu hiu và quạ nh vắ ng.
Con ngườ i bở i thế mà trở tră n vớ i bao nỗ i niềm. Đâ y là nét tâ m trạ ng chừ ng củ a nhiều nhà
Thơ mớ i lú c bấ y giờ , mộ t nỗ i đau xó t trướ c cả nh mấ t nướ c và lò ng yêu nướ c, yêu quê
hương vô bờ bến.
3.Kết bài
Cổ điển, hiện đạ i đan xen hò a hợ p đã mang đến cho “Trà ng giang” â m hưở ng nhịp nhà ng
vớ i cả m xú c buồ n hiu, lạ nh lẽo. “Trà ng giang” đã hiện lên như mộ t bả n nhạ c êm đềm, thiết
tha mang nỗ i lò ng củ a Huy Cậ n gử i và o chố n mênh mô ng sâ u thẳ m chẳ ng có bến bờ nà o.
Mộ t nỗ i niềm chan chứ a ưu tư củ a tá c giả về tình yêu quê nhà , đấ t nướ c, con ngườ i củ a
chính mình ô ng. Mộ t cả m xú c rấ t châ n thậ t trướ c bầ u trờ i thiên nhiên mênh mô ng, bao la
đến bấ t tậ n!
20