Professional Documents
Culture Documents
Trong giai đoạn “gió Âu mưa Mỹ” tràn vào nước ta, “người thanh niên Việt Nam đang đi tìm thi nhân
của mình như con đi tìm mẹ” (Lưu Trọng Lư). Và lẽ dĩ nhiên, “Phương Tây đã giúp chúng ta phát hiện ra
mình” nhưng đó là sự phát hiện ra mình trên mảnh đất giàu tiềm năng và bề dày trầm tích văn hóa. Vì vậy, Thơ mới
là “một bước tổng hợp mới những giá trị văn hóa Đông Tây, truyền thống và hiện đại” (Phan Cự Đệ). Có thể nói như
nhà thơ Huy Cận: “Thơ mới là nỗi niềm, thái độ , là một cuộc ra trận của cả một thế hệ văn chương, một lực lượng
trẻ văn hóa dân tộc quyết đổi mới cả một nền văn thơ, văn chương đã mỏi mòn, khô cứng, bạc màu”. Thơ mới đã làm
một cuộc cách mạng, thay đổi cả hệ thống thi pháp. Cuộc cách mạng trong Thơ mới gắn với quá trình giải phóng cái
tôi cá nhân khỏi những ràng buộc của con người phận vị, “con người chức năng trong xã hội luân thường” (Trần
Đình Hượu). Thơ mới là sản phẩm của “khát vọng thành thật” (Hoài Thanh), đưa cái tôi cá nhân vào trung tâm của
thơ ca, cho phép biểu đạt mọi cung bậc của cảm xúc và suy tưởng.Thơ ca bao giờ cũng là dấu ấn sáng tạo của người
cầm bút, thể hiện bản ngã, cái tôi.
Từ thời trung đại, Hồ Xuân Hương đã cá tính sắc nhọn trong từng lời thơ và tự xưng tên trong thơ “Quả cau
nho nhỏ miếng trầu hôi/ Này của Xuân Hương mới quệt rồi”(Mời trầu). Nguyễn Công Trứ cũng thể hiện rõ bản ngã
của cái tôi tài tử. Thế nhưng, cái tôi trong thơ trung đại hầu hết hòa trong cái ta chung. Thơ ca trung đại đề cao tính vô
ngã. Phải đến Thơ mới, cái tôi mới được nhận thức và thể hiện như là trung tâm của thơ ca. Phương Tây đã đi một
quãng đường khá xa trong sự khẳng định cái tôi cá nhân. Thế nhưng ở nước ta, cùng những yếu tố nội sinh cộng với
sự tiếp biến văn học phương Tây, cái tôi mới được tìm thấy và nở rộ trong thơ. Cái tôi đó được thai nghén cả nghìn
năm trong thơ ca trung đại, đến đầu thế kỷ XX mới trở dạ và thể hiện đậm nét trong dòng Thơ mới.
Có thể nói, thơ ca hướng vào thể hiện cái tôi chính là con đường đưa thơ trở về với bản ngã của chính nó. Thơ
mới khám phá cái tôi với tư cách là chủ thể nhận thức và là đối tượng phản ánh của thi ca. Với tư cách là chủ thể nhận
thức, cái tôi cùng hệ thống quan niệm thẩm mĩ mới mang dấu ấn của những tìm kiếm mới, sáng tạo mới, phong cách
mới mà văn học mấy thế kỷ qua chưa đạt tới được. Cái tôi ấy không chỉ bó hẹp thơ ca trong mục đích tải đạo, nói chí,
giáo huấn mà là chủ thể sáng tạo mang cá tính riêng, phong cách riêng với nhu cầu tự khẳng định mình. Cái tôi cũng
là đối tượng phản ánh của thi ca với tất cả sự phong phú, hấp dẫn, phức tạp của nó. Với nhu cầu khẳng định cái tôi cá
nhân, cá thể, các nhà thơ Mới đã “đồng loạt cất lên bản hòa tấu tuyệt đẹp với những âm thanh mới lạ, tân kỳ chưa
từng có trước đó”(GS. Hồ Thế Hà).
Thơ mới về cơ bản hoàn toàn đối lập với thơ cũ, như Lưu Trọng Lư đã nói một cách hình tượng “Các cụ ta ưa
những màu đỏ chót, ta lại ưa những màu xanh nhạt. Các cụ bâng khuâng vì những tiếng trùng đêm khuya, ta lại nao
nao vì tiếng gà gáy đúng Ngọ. Nhìn một cô gái xinh xắn, ngây thơ, các cụ coi như đã làm một điều tội lỗi, ta thì cho là
mát mẻ như đứng trước một cánh đồng xanh. Cái ái tình của các cụ chỉ là sự hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình
muôn trạng: cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình gần gũi, cái tình xa xôi, cái tình giây phút, cái tình nghìn
thu”.
Thơ mới đã làm một cuộc cách mạng thi ca, từ nghệ thuật biểu hiện đến nội dung, tư tưởng. Thơ mới đã đưa
thơ ca nước ta tiến nhanh trên con đường hiện đại hóa. Con người cá nhân, cá thể xuất hiện trong Thơ mới là con
người trực tiếp đối diện với thế giới và đối diện với chính mình, là con người đã rũ bỏ gánh nặng của nhà luân lý với
thơ và bằng thơ, là con người hoàn toàn tồn tại với tư cách là một cái tôi mang cảm xúc cá thể. Xuân Diệu trong lời
tựa “Gửi hương cho gió” đã từng nhận mình "Tôi là con chim đến từ núi lạ/ Ngứa cổ hót chơi…”. Chế Lan Viên cũng
bộc lộ “Thi sĩ không phải là Người. Nó là Người Mơ, Người Say, Người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là
Yêu. Nó thoát Hiện Tại. Nó xối trộn Dĩ Vãng. Nó ôm trùm Tương Lai”. Còn Hàn Mặc Tử thì viết :" Người thơ là
khách lạ đi giữa Nguồn Trong Trẻo. Trên đầu Người là cao cả, vô biên và vô lượng; xung quanh Người là mơn trớn
với yêu đương vây phủ bởi trăm giây quyến luyến - làm bằng êm dịu, làm bằng thanh bai. Gió phương mô đẩy đưa
Người đến bến bờ xa lạ, đầy trinh tiết và đầy thanh sắc... Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một
đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng... Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ. Tôi phản lại tất cả
những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật".
Mỗi nhà thơ với cá tính sáng tạo riêng đã bộc lộ cái tôi không giống nhau. Và có lẽ, chưa bao giờ như bây giờ,
thơ ca đạt đến độ chín của nhiều phong cách, nhiều cái Tôi cá nhân, cá thể trong tư cách là chủ thể sáng tạo như thế.
Đúng như Hoài Thanh đã khẳng định “Tôi quyết rằng chưa có thời đại nào phong phú như thời đại này trong lịch sử
thi ca Việt Nam. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như
Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như
Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và tha thiết, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”.
Khám phá vườn Thơ mới, ta có thể nhận ra hương sắc riêng của từng phong cách. Và cũng từ những vần thơ
mang dấu ấn chủ thể sáng tạo ấy, cái Tôi phức tạp nhưng đầy hấp dẫn đã đi vào trung tâm thơ ca với đầy đủ ý nghĩa
nhân bản. Đó là một Thế Lữ như "người khách đi qua trần thế" thoát ly để đi tìm cái đẹp“Tôi chỉ là một khách tình si/
Ham vẻ Đẹp có muôn hình, muôn thể”, mộng mơ trong chốn bồng lai tiên cảnh với tiên nga, ngọc nữ, tiếng sáo Thiên
Thai, hạc trắng hoa đào. Đó là một Xuân Diệu tự xem mình “Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất” luôn băn khoăn, rạo
rực trong tình yêu với nỗi phấp phỏng muốn chiếm lĩnh thời gian: “Mau với chứ, vội vàng lên với chứ/ Em, em ơi,
tình non sắp già rồi”; “Gấp đi em anh rất sợ ngày mai/ Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn”.Đó là một Huy Cận
với cái tôi mang nỗi “sầu vạn kỷ” nơi quán chật đèo cao, sông dài trời rộng “Một chiếc linh hồn nhỏ/ Mang mang
thiên cổ sầu”. Đó là một Chế Lan Viên với cái tôi tiếc thương quá khứ, lạc trong thế giới điêu tàn siêu hình, thần bí,
băn khoăn nghi nghờ bản thể “Hồn của ai trú ẩn ở đầu ta/ Ý của ai trào lên trong đáy óc”. Dường như trước sự biến
suy của xã hội cùng ảnh hưởng văn hóa Tây phương, cái tôi trong Thơ mới bấy lâu dồn nét chợt vỡ òa. Cái tôi đó vừa
là sản phẩm, vừa là chủ thể của nền văn hoá mới. Các nhà Thơ mới đều có ý thức khẳng định mình như một thực thể
duy nhất không lặp lại. Hướng đến khám phá và thể hiện cái tôi cá nhân, cá thể, Thơ mới mang lại cho thơ Việt sự
thanh tân, tươi mới, một lối thơ hiện đại, đoạn tuyệt với thơ ca trung đại gò bó, khuôn thước.
Cái tôi cá nhân, cá thể bùng nổ trong thơ làm đảo lộn mọi quan niệm. Quan niệm thẩm mĩ thay đổi, nội dung tư
tưởng đổi khác và chúng hiện lên trong bộ cánh hình thức cũng mới mẻ vô cùng. Không còn là thơ để tải đạo, để nói
chí, thơ ca bây giờ bám rễ vào cuộc đời trần thế với tất cả niềm vui, nỗi buồn, sự đam mê, cô đơn, hoài nghi, chán
nản…Đến với thơ Xuân Diệu, ta bắt gặp ở đó cái tôi bộc lộ đầy đủ, trọn vẹn, cá tính trong khát khao tình yêu, lồ lộ
đam mê mãnh liệt “Làm sao sống được mà không yêu/ Không nhớ không thương một kẻ nào”. Con người ấy nồng
nhiệt, tha thiết sống, sống hối hả, sống cuống quýt, muốn là dây “quấn quýt lấy mình xuân”, muốn “chân hóa rễ để hút
màu dưới đất” nhưng cũng không tránh khỏi nỗi cô đơn “Em là em, anh vẫn là anh/ Có lẽ nào qua Vạn Lý trường
thành/ Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật” và cả sự bế tắc trước cuộc đời “Tôi là con nai bị chiều đánh lưới/ Không biết đi
đâu đứng sầu bóng tối”. Thơ Hàn Mặc Tử lại đưa ta khám phá “một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng", “rộng không bờ
không bến, càng đi xa càng ớn lạnh..." (Hoài Thanh) và bắt gặp một cái tôi mê dại, não nề đến rên xiết, cô độc đến
trống rỗng, khát thèm đến đê mê trong thú đau thương. Cái tôi ấy đắm mình trong ngổn ngang nỗi niềm day diết quặn
đau; xa đời, xa người và xem thế giới ảo mộng là người tình tri kỉ. Hàn Mặc Tử mê tơi trong những ảnh hình kì dị. Cái
tôi phân thân, trao phận vào cõi hư vô ắp đầy ám gợi: “Ta đã ngậm hương trăng đầy lỗ miệng/ Cho ngây người mê dại
đến tâm can” (Rướm máu).
Nếu trong thơ truyền thống, con người bé nhỏ, tan biến trong vũ trụ, hoặc con người hướng tới cái thiêng liêng, cái
siêu việt thì trong Thơ mới, cái tôi được giải phóng, con người cá nhân được ý thức và khẳng định như là trung tâm
của vũ trụ. Thơ mới khả năng diễn đạt những rung cảm tinh tế của cái Tôi cá nhân cá thể, tạo nên sự cách tân đáng kể
so với thơ cũ.
Cùng với đó, quan niệm thẩm mĩ cũng đổi khác. Nếu thơ xưa xem thiên nhiên là chuẩn mực cái đẹp thì trong Thơ
mới, con người mới là vẻ đẹp toàn bích. Vì vậy, Xuân Diệu – “nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới” (Hoài Thanh)
khi miêu tả thiên nhiên luôn lấy vẻ đẹp con người làm chuẩn mực: “Lá liễu dài như một nét mi”, “Mây đa tình như thi
sĩ thời xưa”, “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”…Còn với Huy cận, thiên nhiên là bức tranh mang hồn quê,
hồn nước, đẹp mà buồn: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót/ Sông dài, trời rộng, bến cô liêu” (Tràng giang). Với Hàn
Mặc Tử, thiên nhiên là hiện thân xác thịt, là người thiếu nữ gợi cảm, là cám dỗ của trái cấm: “Trăng nằm sóng soải
trên cành liễu/ Đợi gió đông về để lả lơi…Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm/ Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe...”
(Bẽn lẽn).
Thơ mới biểu hiện một cuộc cách mạng của tư duy thơ : đặt cái tôi cá nhân ở trung tâm cảm thụ thế giới. Trong
Thơ mới, có một sự giao hòa giữa thế giới nội cảm (cảm xúc, cảm giác, tâm trạng) của chủ thể trữ tình với thế giới
ngoại cảnh, có sự nới rộng những biên độ của sự cảm thụ thế giới bằng việc kết hợp các giác quan một cách kỳ lạ.
Thiên nhiên trong thơ mới là một thứ thiên nhiên rạo rực những cảm giác của con người: “Vườn cười bằng bướm hót
bằng chim / Dưới nhánh không còn một chút đêm / Những tiếng tung hô bằng ánh sáng /Ca đời hưng phục trẻ trung
thêm” (Lạc quan - Xuân Diệu). Có khi nội cảm hóa ngoại cảnh, làm cho ngoại cảnh nhuốm màu cảm xúc con người:
“Nắng chia nửa bãi, chiều rồi.../ Vườn hoang trinh nữ khép đôi lá rầu / Sợi buồn con nhện giăng mau / Em ơi hãy ngủ
anh hầu quạt đây” (Ngậm ngùi - Huy Cận). Có khi ngoại cảnh hóa tâm hồn “Đây chùm thương nhớ, khóm yêu
đương / Đây em cành thẹn lẫn cành thương” (Xuân Diệu). Con người trong quan niệm của các nhà Thơ mới là con
người trần thế. Từ đó, không gian và thời gian nghệ thuật trong Thơ mới là tính chất, hằng số tâm lí – xã hội của con
người cá nhân, cá thể.
Có thể nói, mọi phương diện thi pháp trong Thơ mới đã hoàn toàn thoát li thơ cũ. Tất cả chịu sự chi phối của
cái Tôi cá nhân, cá thể. Trong khu vườn Thơ mới, mỗi cái Tôi mang một hương sắc riêng, tạo nên một thế giới thơ đa
dạng, phong phú về phong cách. Sự bùng nổ cái Tôi đã đưa thơ vươn tới bao giá trị mới chưa từng có trước đó.