Professional Documents
Culture Documents
TRONG “LÁ DIÊU BÔNG, CÂY TAM CÚC, QUA VƯỜN ỔI” CỦA HOÀNG CẦM
Tóm tắt. Một trong những đặc trưng tiêu biểu của văn chương với tư cách là nghệ thuật ngôn từ chính là tính tư duy –
trực tiếp. Khác với những loại hình nghệ thuật khác, văn chương sử dụng ngôn từ làm chất liệu, mà ngôn từ lại được coi là
“cái vỏ vật chất trực tiếp của tư duy”. Ngôn từ là phương tiện truyền tải trực tiếp tư tưởng, tỉnh cảm, cảm xúc của tác giả,
của nhân vật trong tác phẩm. Trong nhiều năm trở lại đây, một số nhà nghiên cứu, nhà lý luận – phê bình văn học nổi tiếng,
các học giả trong và ngoài nước đã cho ra những báo cáo, tham luận, công trình nghiên cứu để làm rõ cho đặc trưng này
bằng các minh chứng văn chương xác đáng và đầy tính thuyết phục. Trong bài viết này, chúng tôi tập trung làm rõ tính tư
duy – trực tiếp của nghệ thuật ngôn từ trong văn chương bằng các phương pháp phân tích, so sánh và tổng hợp thông qua ba
bài thơ tình nổi tiếng của Hoàng Cầm: Lá diêu bông, Cây tam cúc, Qua vườn ổi. Với ngôn từ mộc mạc, giản dị, Hoàng Cầm
đã thể hiện tình yêu trong sáng, thiết tha đối với người con gái mình thầm thương trộm nhớ, đồng thời mở ra trước mắt
người đọc khung cảnh thôn quê Kinh Bắc – nơi chất chứa nỗi niềm của một kẻ say thơ, say tình. Để từ đó, ta thấy được sức
cuốn hút của ngôn ngữ văn chương – thứ có thể vẽ lên những hình tượng đắm say lòng người bằng cây bút vô hình.
Từ khóa: tính tư duy, trực tiếp, ngôn từ, Hoàng Cầm, lá diêu bông, cây tam cúc, qua vườn ổi.
1. Mở đầu
Có thể nhận thấy một điều, những loại hình nghệ thuật như hội họa, điện ảnh, điêu khắc, vũ đạo… đều ít
nhiều gây khó khăn cho người thưởng thức bởi tác giả sẽ truyền tải những trăn trở, suy tư và thông điệp của
mình thông qua các yếu tố có trong tác phẩm ấy. Điều này đòi hỏi công chúng cần tưởng tượng, suy nghĩ và
chiêm nghiệm mới có thể hiểu điều tác giả muốn nhắn gửi đằng sau tác phẩm của mình. Thậm chí, vì yếu tố này
mà nhiều tác phẩm đã gây ra sự tranh luận sôi nổi trong giới chuyên môn. Tiêu biểu hơn cả là ở giới hội họa, bức
chân dung nàng Mona Lisa – kiệt tác của danh họa Leonardo da Vinci đã tạo cảm hứng, trở thành đề tài nghiên
cứu cho rất nhiều nhà phân tích, họ “giải phẫu” bức họa để đi tìm lời giải cho những bí ẩn trong bức tranh ấy.
Hình ảnh “nụ cười Mona Lisa” cũng trở thành một đề tài cảm thủ văn học, để mọi người phân tích và lý giải bí
ẩn đằng sau nụ cười thần bí ấy là gì. Còn đối với văn học, ngôn ngữ được coi là “cái vỏ vật chất trực tiếp của tư
duy” (Mác), nhà văn sử dụng ngôn ngữ làm “kí hiệu” để thể hiện tư tưởng, tình cảm của chính mình và của nhân
vật. Có thể họ không bộc lộ trực tiếp cảm xúc của mình ra đầu ngọn bút, nhưng người đọc vẫn cảm nhận được
cảm xúc, tâm trạng của nhân vật, của tác giả thông qua cử chỉ, hành động, thậm chí là những hình ảnh ngoại
cảnh được khắc họa nhịp nhàng. Đó chính là tính tư duy – trực tiếp của ngôn ngữ văn chương
Ngôn từ sẽ là báu vật quý giá, là phương tiện truyền tải nội dung và thông điệp của một tác phẩm. Người
đọc có thể cảm nhận tính cách, tâm trạng, nỗi niềm của nhân vật hay chính của tác giả đang được che giấu đằng
sau ngôn từ. Bởi thế mà Tố Hữu mới nói rằng: “Thơ là cái đó: sự im lặng giữa các từ. Nếu người ta lắng nghe
cái im lặng đó, thì có những tiếng dội vang rất đa dạng và tinh tế”. Với tham vọng làm rõ vai trò và tầm quan
trọng tính tư duy – trực tiếp của nghệ thuật ngôn từ trong văn chương, chúng tôi chọn ra ba bài thơ tiêu biểu
thuộc Nhịp 5: “Còn em (Cỏ bồng thi phải cheo leo mỏm đá)” trong tập thơ “Về Kinh Bắc” của nhà thơ Hoàng
Cầm làm thi liệu cho đề tài. Với chất liệu ngôn từ mộc mạc, ngọt ngào, “thuần Việt” và mang hơi thở vùng quê
Kinh Bắc, ba bài thơ là tổng hòa của thanh – vần – điệu, tạo nên một bản hòa tấu trong tâm tưởng mỗi người
đọc, người nghe.
Với chủ đề là nghệ thuật ngôn từ trong văn chương, Việt Nam đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu gây
tiếng vang. Có thể kể đến các ấn phẩm như “Trần Thanh Đạm - Phạm Quang Trung: Tác phẩm văn học như
một đơn vị ngôn từ” [1]; “Một số vấn đề thi pháp của nghệ thuật ngôn từ” [2]; “Văn hóa giao tiếp và nghệ
thuật ngôn
______________________________________________________________
Ngày nhận bài: 03/12/2021. Ngày sửa bài: 08/12/2021. Ngày nhận đăng: 09/12/2021
Tác giả liên hệ: Trịnh Thị Thu Hương. Địa chỉ e-mail: amelindatrinh@gmail.com
từ” [3]. Trên thế giới, đặc trưng của nghệ thuật ngôn từ trong văn chương cũng là chủ đề lý luận được giới
chuyên môn bàn luận khá sôi nổi; tuy nhiên, ít thấy tác phẩm nào đào sâu, làm rõ một đặc trưng cơ bản của văn
học với tư cách là nghệ thuật ngôn từ bằng việc phân tích một hay nhiều tác phẩm văn học cụ thể. Vậy nên, với
kiến thức sẵn có và những tìm tòi, học hỏi, người viết mong muốn làm rõ tính tư duy – trực tiếp thông qua phân
tích những nét đặc sắc của thơ ca Hoàng Cầm.
Ngôn từ là bộ phận quan trọng cấu thành nên một tác phẩm văn học; ngôn từ cũng là phương tiện truyền tải
thông điệp ẩn giấu sau tác phẩm ấy. Những tác phẩm văn học luôn chứa đựng nỗi lòng tác giả, tác giả có thể
mượn lời nhân vật để nói lên suy nghĩ của bản thân về cuộc đời, con người, thậm chí bàn đến những vấn đề lớn
lao là vận mệnh dân tộc hay chân lý thời đại. Qua đó, “văn học bao giờ cũng là một cuộc tranh luận, đối thoại
công khai hoặc ngấm ngầm về tư tưởng”. Có thể nhận ra rằng, so với các loại hình nghệ thuật khác, văn học
chiếm ưu thế, trong phương diện phương tiện truyền tải tư tưởng, tình cảm. Đề tài này mang tính thời sự chính vì
mục tiêu làm rõ vai trò quan trọng của tính tư duy – trực tiếp của nghệ thuật ngôn từ trong văn học, giúp giá trị
của đặc trưng này đến gần với người đọc.
Như đã nói ở trên, trước bài viết này, đã có rất nhiều tác phẩm nghiên cứu về đặc trưng văn học với tư cách
là nghệ thuật ngôn từ. Những tác phẩm của các nhà phê bình – lý luận tập trung nghiên cứu về lý thuyết và bao
quát một phạm vi tác phẩm văn học vô cùng đồ sộ để có thể tìm ra nét đặc trưng, điểm tương đồng giữa các tác
phẩm và đi đến kết luận lý thuyết một cách khách quan nhất. Hầu như các tác giả chỉ lấy một vài trích đoạn tiêu
biểu của những tác phẩm văn học để làm dẫn chứng cho quan điểm lý thuyết họ đưa ra. Một câu hỏi đặt ra là,
nếu phạm vi nghiên cứu phổ rộng như vậy, liệu việc phân tích, làm rõ đặc trưng vấn đề của từng tác phẩm có
được đảm bảo? Là một sinh viên năm hai, việc hoàn thành một công trình nghiên cứu với hệ thống nhiều tác
phẩm đồ sộ e là quá sức. Vậy nên, ở bài viết này, chúng tôi chỉ xin tập trung vào ba tác phẩm có mối tương đồng
và gặp gỡ nhau của tác giả Hoàng Cầm để có thể làm rõ vấn đề nêu ra ở trên. Thế nhưng, việc tập trung phân
tích một vài tác phẩm nhất định vừa có thể khiến người đọc hiểu hơn về tác phẩm, vừa giúp ta đào sâu và làm rõ
được tính tư duy – trực tiếp của văn học với tư cách là nghệ thuật ngôn từ.
3. Kết luận
Ngôn từ được Hoàng Cầm sử dụng trong thơ mang tính chọn lọc cao, gói ghém tâm tư, tình cảm của cả
nhân vật lẫn tác giả. Thông qua ngôn từ, người đọc dần chạm tới cảm xúc của tác phẩm. Cả ba bài thơ đều có sự
gặp gỡ, giao thoa giữa những nét đặc trưng làm nên tính tư duy – trực tiếp trong tác phẩm văn học. Đó là việc
dẫn dụ cảm xúc, tư tưởng của nhân vật, tác giả một cách tinh tế, nhằm tìm thấy sự đồng cảm nơi người đọc. Tuy
nhiên, cách thể hiện của mỗi bài lại khác nhau, dù ba bài thơ đều nằm trong một chùm thơ, đều kể về mối tình
đầu đơn phương trong trẻo nhưng không trọn vẹn. Không phải cứ giãi bài hết cảm xúc ra từng câu thơ, ý thơ mới
là thể hiện tính tư duy – trực tiếp của văn chương. Ngôn từ là bao la bất tận, nhất là đối với một thứ tiếng giàu
đẹp như Tiếng Việt. Thông qua ngôn từ, tác giả xây dựng lên tình huống, phác họa chân dung, thể hiện cử chỉ,
lời nói nhân vật, miêu tả quang cảnh, chấm phá cảnh vật… Người đọc sẽ dùng cảm nhận và sự nhạy bén của bản
thân để tìm ra cái hay, cái đẹp trong từng lời văn, ý thơ của tác giả. Đó mới là điều gây hứng thú và để lại ấn
tượng trong lòng độc giả. Hoàng Cầm chính là người như thế. Tài năng nghệ thuật đã giúp ông vững tay chèo lái
con thuyền kí ức, trở về ngôi làng Đình Bảng thuở nào, làm sống dậy cả một bầu trời tuổi thơ, nơi đó ghi dấu
mối tình đầu không trọn vẹn. Chắc hẳn không chỉ riêng tác giả, những ai đọc xong ba bài thơ ấy cũng đều bồi
hồi nhớ lại kí ức tuổi thơ, về quê hương yêu dấu – nơi gói trọn những trong trẻo, vô tư cùng mối tình non dại đầy
khắc khoải.