A. Khái niệm - Văn học là bộ môn nghệ thuật lấy con người làm đối tượng nhận thức trung tâm, lấy hình tượng làm phương thức biểu đạt nội dung và lấy con người làm chất liệu để xây dựng hình tượng.
B. Đặc trưng của tác phẩm văn học
1. Đó là bức tranh sinh động về đời sống và con người. Qua bức tranh đó, người viết luôn gửi gắm những tình cảm, tư tưởng và thể hiện thái độ của mình trước cuộc sống. - Văn học nhận thức phản ánh đời sống theo quy luật của cái đẹp nhằm thỏa mãn những nhu cầu về tình cảm vô cùng phong phú của con người. Dù các tác phẩm không trực tiếp miêu tả con người thì con người vẫn luôn là trung tâm mà văn học hướng tới. - Tác phẩm văn học là sự kết hợp giữa khách quan hiện thực đời sống và chủ quan ( tình cảm của người viết). Nhà văn không chỉ tái hiện lại những chi tiết của đời sống mà nhìn mắt thấy tai nghe mà qua đó còn muốn nói một điều gì mới mẻ, lớn lao hơn. - Một điều cần lưu ý là: “ Một nhà văn không thành thực, không bao giờ là nhà văn có giá trị. Nhà văn không cứ phải thành thực là trở thành nghệ sĩ”. Nhà văn muốn tạo nên những tác phẩm có giá trị phải thể hiện trong đó tài năng và thể hiện tình cảm lớn lao và chân thật của mình. Những tác phẩm lớn do một nghệ sĩ thực thụ viết ra không chỉ đem cho ra cái nhìn khái quát về thời cuộc mà còn cho ta hiểu them về lẽ đời, về con người, về xã hội mà ta đang sống. Những tác phẩm ấy khiến độc giả phải nghiền ngẫm, phải suy ngẫm để thấu hiểu những điều mà nhà văn viết trong đó, từ đó tác phẩm mới neo lại trong trái tim người đọc. Từ những yêu ghét, ngợi ca hay phê phán của bản thân về thời đại mà nhà văn đã làm cho người dọc đồng cảm, có những suy nghĩ giống mình. Hơn cả trách nhiệm của một nhà văn , họ còn mang trách nhiệm cứu rỗi con người. Chính những điều họ viết sẽ đem con người đến những chân trời mới, bầu trời của chân thiện mĩ để cho độc giả biết ước mơ từ đó sống cao đẹp hơn , tương lai nhân loại cũng nhờ đó mà them tươi sáng. Bàn về vấn đề này, nhà văn PhápLa-bơ-rung-e: “ Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gọi cho là những tình cảm cao quý, can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: Đó là một tác phẩm hay do một người nghệ sĩ thực thụ viết ra”. 2. Văn học là nghệ thuật của ngôn từ - Mỗi bộ môn nghệ thuật đều có một chất liệu riêng tạo nên đặc trưng của hình tượng. Nếu âm nhạc dung âm thanh, hội họa dùng đường nét và màu sắc, điêu khắc dung mảng phối thì văn học chọn ngôn từ làm chất liệu. - Ngôn từ của văn học vốn bắt nguồn từ ngôn ngữ vủa đời sống nhưng đã được tinh luyện, được tổ chức mang tính hình tượng cao để những ngôn từ ấy phải khơi gợi một cái gì đó lớn hơn, tràn ra ngoài nó, tạo dựng ý ngoài lời, để khi đọc lên, độc giả có thể cảm nhận được cuộc sống và nỗi long của người viết, từ đó ngôn từ sẽ nằm lại trong trái tim người đọc. Rõ ràng, ngôn ngữ là tài sản chung của xã hội, việc dung nó như thế nào cho hợp lí phụ thuộc vào tài năng của mỗi nhà văn. Điều này đã được Maiacopski khẳng định: “ Phải tổn phí hàng ngàn cân quặng chữ Chỉ thu về một chữ mà thôi Những chữ ấy làm cho rung động Triệu trái tim trong hàng triệu năm”
3. Đặc điểm của ngôn từ văn học
3.1. Tính chính xác và tinh luyện Ngôn từ của văn học phải cực kì chính xác, phải lực chọn kĩ càng bởi lẽ với mỗi từ trong văn học viết ra phải có vai trò diễn tả cho ra chính xác cái “thần” của người và việc. Việc lựa chọn từ ngữ thể hiện rất rõ tài năng của nhà văn . Vì thế, mà có ý kiến cho rằng: “ Mỗi từ trong văn học là duy nhất không có từ nào thay thế. Dù đối tượng viết là ai đi nữa thì cũng chỉ có một từ để nói”. Các nhà thơ lớn, nhà văn vĩ đại đều là những bậc thầy trong khả năng sử dụng ngôn ngữ. Chỉ với một từ “gương”, Đặng Trần Côn đã thể hiện toàn bộ tráng thái tâm lí chán trường, cô đơn của người chinh phụ. Như Nguyễn Du chỉ với một từ “ tót” đã có thể giết chết Mã Gíam Sinh: “ ghế trên ngồi tót sỗ sàng”. Hay như Nguyễn Trãi chỉ qua từ “bợ” đã nêu lên toàn bộ cốt cách, thanh tao yêu thiên nhiên cuả thi nhân: “ Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén Ngày vắng xem hoa bợ cây” 3.2. Tính hàm súc và đa nghĩa - Điều này làm nên đặc trưng “ ý toại ngôn ngoại”, tạo dư ba cho ngôn ngư văn học. Hay nói cách khác, đặc trưng này yêu cầu ngôn từ trong văn học phải cô động, nén chặt ý tối đa tạo sức nặng nề về mặt ý nghĩa của ngôn từ. - Nhắc đến đặc trưng này, đã có rất nhiều ý kiến: Nhà văn Sê-khốp của Nga khẳng định: “ Ngắn gọn là bà chị của thiên tài”. Lê Qúy Đôn cũng từng viết: “ Ý hết mà lời dừng, ấy là lời rất mừng trong thiên hạ. Nhưng lời dừng mà ý chưa hết lại càng hay tuyệt” hay “ Công phu của thơ là ở ngoài thơ”. 3.3. Tính hình tượng - Là đặc trưng quan trọng nhất của ngôn ngữ văn học. Tính hình tượng biểu hiện ở việc ngôn ngữ văn học làm sống dậy hình thức trong tâm trí độc giả, tái hiện trạng thái, truyền đi động tác hoặc sự vận động của con người cảnh vật và toàn bộ thế giới mà tác giả đang nói tới. - Ví dụ: “ Lặn lội thân cò đi quáng vắng Eo xèo mặt nước buổi đò đông” Trần Tế Xương
“Dốc lên khúc khuỷnh dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây sóng ngửi trời” Quang Dũng - Không dừng lại ở đó, tính hình tượng của ngôn ngữ văn học còn biểu hiện ở sự nắm bắt những cái mơ hồ, mong manh, vô hình chứ không chỉ dừng lại ở những cái hữu hình. - VD: “ Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” “Vội vàng” - Xuân Diệu 3.4 Tính biểu cảm: Như chúng ta đã biết, nghệ thuật nói bằng thứ tiếng duy nhất : thứ tiếng của cảm xúc. Do đó ngôn từ trong văn học mang tính biểu cảm cao hay nói một cách cụ thể thông qua ngôn ngữ văn học ta cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc, nỗi đau hay bất hạnh mà ngôn ngữu mang lại. - Ví dụ: Đọc những trang văn xúc động người đọc khóc => Đây là biểu hiện của tính biểu cảm mà thế giới ngôn từ mang lại cho ta. “ Mẹ ru cái lẽ ở đời Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn.” => Tóm lại trong văn chương ngôn từ là quan trọng nhất. Không gì bảo vệ uy tín của một nhà văn bằng chính tác phẩm của anh ta. Không có nhà văn nào viết xong tác phẩm lại phải đến từng độc giả giảng giải chỉ ra ý đồ nghệ thuật, chỉ có chữ nghĩa mới là cây cầu tri âm là phương tiện giữa tác giả và người đọc. Từ chữ nghĩa mà ta nhận ra hiện thực phản ánh, tài năng, tâm tính và thái độ của nhà văn trước hình tượng mà anh ta miêu tả.
C. Hình tượng văn học
1. Khái niệm - Theo từ điển văn học thì: “ Hình tượng là phương thức chiếm lĩnh thể hiện và tái tạo đời sống theo quy luật của nghệ thuật”. Khác với khoa học, nghệ sĩ không diễn đạt trực tiếp ý nghĩa và tình cảm bằng khái niệm trìu tượng bằng định lý hay công thức mà bằng hình tượng, tức là làm sống lại một cách cụ thể và gợi cảm những sự việc hiện tượng của đời sống làm cho ta suy nghĩ về tình cảm, số phận, tình người và tình đời. 2. Đặc điểm của hình tượng văn học - Hình tượng văn học gắn liền với đời sống. - Hình tượng văn học có sự thống nhất giữa 2 mặt khách quan và chủ quan, lí trí và tình cảm. - Hình tượng văn học vừa khái quát vừa cụ thể. 3. Vai trò của hình tượng văn học - Hình tượng văn học chính là phương thức giao tiếp đặc biệt giữa nhà văn và độc giả. Cụ thể: + Hình tượng văn học chính là phương tiện để nhà avnw phản ánh hiện thực cuộc sống. Hình tượng văn học chính là thế giới đời sống, là thế giới biết nói thông qua các chi tiết, nhân vật….. trong tác phẩm, nhà văn muốn phản ánh hiện thực cuộc sống như nó vốn có ngoài đời. + Hình tượng văn học là phương tiện để nhà văn kí gửi những tâm tư, tình cảm quan điểm, quan niệm… của mình và cuộc sống. Nói như một nhà lí luận văn học thì: “ Hình tượng là kết tinh những ấn tượng sâu sắc về cuộc đời làm nhà văn day dứt. Anh viết ra để nói to, để sẻ chia với mọi người. Hình tượng như thể nó gắn với quan điểm, lí tưởng và khát vọng của nhà văn”. + Hình tượng văn học là thước đo giá trị, tài năng của nhà văn, là tiêu chí để đánh giá giá trị của mỗi giai đoạn, mỗi thời kì văn học. 4. Tính phi vật thể của hình tượng văn học (đặc trưng riêng biệt) - Nếu như âm nhạc dùng âm thanh, hội họa dùng đường nét, điêu khắc dung mảng kdhối thì để xây dựng hình tượng văn học dung ngôn từ để tạc dựng. Rõ rang những chất liệu của các ngàng nghệ thuật khác mang tính phi vật thể- tức là có thể nhìn, nghe, cảm nhận bằng giác quan thì chất liệu để xây dựng hình tượng văn học lại chỉ tồn tại trong trí óc, không thể sờ thấy, nhìn thấy, cảm nhận bằng cách thông thường mà buộc độc giả phải thâm nhập, phải tưởng tượng như mình đang sống chung với hình tượng thì mới có thể thấy được, cảm nhận được, hiểu được những gì nhà văn đang viết ra. Điều này tạo nên tính phi vật thể của hình tượng văn học. - Nhờ dung chất liệu ngôn từ mà bức tranh đời sống của văn học không bị hạn chế về không gian và thời gian. Những gì là tinh vi, mong mang, mơ hồ nhất cũng được tái hiện. Ngay cả tâm trạng của con người đều có thể mô tả trực quan sinh động bằng từ ngữ… Điều này tạo nên sức mạnh vô song của văn học không một ngàng nghệ thuật nào khác có thể làm được. - Thông qua trí tưởng tượng, độc giả có thể tái tạo được hình tượng cuộc sống con người. “Hình tượng nhân vật sinh ra từ cái tâm cái trí của nhà văn nhưng chỉ thực sự sống bằng tâm trí của người đọc”. Nhờ độc giả mà hình tượng văn học trở nên bất tử.