You are on page 1of 80

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN


BỘ MÔN NGỮ VĂN

PHAN MỘNG THẮM


MSSV: 6106353

YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG TRUYỀN KỲ


MẠN LỤC CỦA NGUYỄN DỮ

Luận văn tốt nghiệp đại học


Ngành Ngữ Văn

Cán bộ hướng dẫn: ThS. GV. TẠ ĐỨC TÚ

Cần T hơ, năm 2013


Thơ,

1
PH
PHẦẦN MỞ ĐẦ
ĐẦUU
1. Lý do chọn đề tài
chọ

Văn học trung đại Việt Nam gắn liền với những tên tuổi các nhà văn, nhà thơ
đã đi vào lịch sử văn học nước nhà, đó là Lý Thường Kiệt với bài thơ thần “Nam
Quốc Sơn hà”, là Trần Quốc Tuấn với “Hịch Tướng Sĩ”, là Nguyễn Trãi với “Bình
Ngô Đại Cáo” và dĩ nhiên không thể thiếu Nguyễn Dữ với “Truyền kỳ mạn lục” đã
làm nên một nét riêng cho văn học trung đại Việt Nam. Văn học thời kỳ này chịu ảnh
hưởng rõ nét của văn học Trung Quốc, yếu tố huyễn hoặc, kỳ ảo xuất hiện khá dày
đặc vì đặc trưng của con người trung đại là họ luôn tôn sùng tự nhiên, thần thánh và
luật nhân quả ở đời, chính những điều ấy đã làm cho cái chất kỳ ảo, ma quái, kinh dị
nảy nở và phát triển trong các tác phẩm văn học, đặc biệt là trong thể loại truyền kỳ,
có thể kể đến: Lĩnh nam chích quái, Thiên Nam vân lục liệt truyện,…
Sáng tác của họ đưa người đọc vào thế giới của những câu chuyện hoang
đường, kỳ ảo đậm chất huyễn hoặc, ma quái. Những yếu tố ấy diễn tả ước mơ, khát
vọng một cuộc sống ở một nơi khác trước hiện thực tầm thường, tù túng.
Yếu tố kỳ ảo đã xuất hiện từ rất lâu trong đời sống văn học và nó không xa lạ
với độc giả Việt Nam. Yếu tố kỳ ảo đã tạo thành một dòng chảy liên tục trong lịch sử
của văn học dân tộc từ thời kỳ cổ đại cho đến hiện đại. Tuy nhiên, do đặc điểm xã hội,
tâm lí nhận thức của mỗi thời kỳ khác nhau nên yếu tố kỳ ảo ở mỗi thời kỳ văn học
cũng không giống nhau. Ngay từ buổi bình minh của văn học, văn học dân gian Việt
Nam đã gắn liền với yếu tố kỳ ảo. Những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền
thuyết dân gian ra đời nhằm phản ánh nhận thức, niềm tin của con người cổ đại về
những biến cố, sự kiện của thế giới thuở hồng hoang. Sang thời kỳ trung đại, yếu tố
kỳ ảo tiếp tục tồn tại trong những sáng tác của các nhà văn nho sĩ. Sáng tác của họ là
lời cảnh báo về những chuyện xấu xa ở trần gian, hướng con người đến cuộc sống tốt
lành, nhằm mục đích phục vụ cho quan niệm “Văn dĩ tải đạo”.
Truyền kỳ mạn lục là đỉnh cao của truyện truyền kỳ Việt Nam. Tác phẩm tiếp
thu nhiều thành tựu của truyện truyền kỳ Trung Quốc và sử dụng chất liệu văn học
dân gian Việt Nam. Nguyễn Dữ đã rất thành công khi sử dụng yếu tố “kỳ ảo” với
mục đích “hướng thiện trừ gian”. Chính vì thế ngoài những câu chuyện xảy ra xa lạ
thì cái sâu xa của nó chính là tính nhân văn, nhân đạo. Vì những điều đó, người viết

2
Truyềền kỳ mạn lục của Nguy
chọn đề tài: Yếu tố kỳ ảo trong Truy Nguyễễn Dữ để làm luận
văn tốt nghiệp của mình. Nghiên cứu đề tài này không chỉ giúp chúng ta thấy được
những đóng góp của tác phẩm vào thành tựu chung của văn xuôi mà còn hiểu rõ hơn
về truyền thống cuả dân tộc Việt Nam.

2. Lịch sử vấn đề

Trên thế giới, yếu tố kỳ ảo trong văn học đã nhận được sự quan tâm của rất
nhiều nhà nghiên cứu từ những thập niên đầu của thế kỷ XIX. Ở Việt Nam, vấn đề
này chỉ được bàn luận vào sau những năm 1975 và thực sự sôi nổi vào những năm
đầu của thế kỷ XXI. Nhiều hiện tượng văn học kỳ ảo đã được tìm hiểu trong các sách
chuyên luận, luận văn khoa học (Cái kỳ ảo trong tác phẩm của Balzăc_Lê Nguyên
Cẩn, Đặc sắc thể tài yêu ngôn của Nguyễn Tuân_Nguyễn Thị Thanh Vân,…) giúp
người đọc cảm nhận được cái hay, cái đẹp của những tác phẩm văn học này.
Truyền kỳ mạn lục là một trong những án văn xuôi tự sự tiêu biểu cho nền văn
học Việt Nam thời trung đại, được Vũ Khánh Lâm đánh giá là “thiên cổ kỳ bút”.
Nghiên cứu về Nguyễn Dữ nói riêng và yếu tố kỳ ảo, hoang đường nói chung đã
được các nhà nghiên cứu, phê bình quan tâm từ rất lâu trong các bài viết, phê bình
văn học và gần đây nhất là trong các bài viết nhỏ, bài chuyên luận, bài báo cáo khoa
học, luận văn tốt nghiệp trong các trường đại học,…Điều đó cho ta thấy đề tài về nhà
văn này rất hấp dẫn. Tuy nhiên, các bài nghiên cứu, phê bình chủ yếu tìm hiểu những
nét khái quát nhất trong sáng tác của Nguyễn Dữ, chủ yếu là tìm hiểu về nội dung và
nghệ thuât hay chú ý đến các vấn đề phản ánh về hiện thực xã hội được nói đến trong
tác phẩm,…mà chưa nghiên cứu trực tiếp đi sâu vào yếu tố hoang đường, kỳ ảo trong
tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ.
Có ý kiến cho rằng, Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ được viết dựa theo
Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu. Tuy nhiên, Nguyễn Dữ đã tái tạo lại một cách khéo
léo để sáng tạo thành công tác phẩm của mình, giúp nó có sức sống mạnh mẽ, lâu bền
trong lòng đọc giả và vượt qua được sự sàn lọc mạnh mẽ của thời gian. Truyền kỳ
mạn lục có tính chất là một sáng tác văn học chứ không phải là một công trình ghi
chép.
Ở thời trung đại, ngay từ lúc tác phẩm mới ra đời, Hà Thiện Hán trong lời Tựa
Truyền kỳ mạn lục viết năm Vĩnh Định sơ niên (1547) đã cho rằng: “Xem văn từ của
3
sách ấy không ra ngoài phiên dậu của Tông Cát”. Tiếp thu tư tưởng này, Lê Qúy
Đôn ở Nghệ văn chí phần Truyện ký trong Đại Việt thông sử nhận xét: “Về đại thể
phỏng theo tập Tiễn Đăng của nhà nho đời Nguyên”. Sau đó, tại mục Văn tịch chí
của cuốn Lịch triều hiến chương loại chí, học giả Phan Huy Chú cũng khẳng định:
“Sách Truyền kỳ mạn lục bốn quyển, do dật sĩ Nguyễn Dữ soạn, đại lược bắt chước
cuốn Tiễn đăng tập của nhà nho đời Nguyên” [9; tr.12].
Đến thời hiện đại, các nhà nghiên cứu cũng khẳng định sự ảnh hưởng của Tiễn
đăng tân thoại với Truyền kỳ mạn lục. Đầu tiên là ý kiến của nhà Đông phương học
người Nga K.I. Gônlughina với bài viết Cù Hựu và truyền kỳ Việt Nam in trong sách
Truyện ngắn Trung Quốc thời trung cổ. Theo đó ông cho rằng thể loại truyền kỳ ở
Việt Nam được bắt đầu từ Nguyễn Dữ.
Kế tiếp trong số tham luận từ hội thảo quốc tế “Nghiên cứu lịch sử và văn học
Việt Nam” do viện Khoa học và xã hội Việt Nam và trường Viễn Đông bác cổ Pháp
phối hợp tổ chức tại Hà Nội (1995), giáo sư Kawamoto Kurive của trường Đại học
Tổng hợp Nhật Bản cũng bàn đến vấn đề này. Ông đã đánh giá Truyền kỳ mạn lục
của Nguyễn Dữ dưới gốc độ một tác phẩm viết lại theo mô hình thể loại, phong cách
đề tài và mô típ của Tiễn đăng tân thoại.
Nhà nghiên cứu Việt Nam Phạm Tú Châu nhận định: “Về nội dung, những
câu chuyện của Cù Hựu là tư liệu đặc biệt để Nguyễn Dữ sáng tạo ra thế giới truyện
quỷ thần của mình” [4; tr.47].
Trong buổi tọa đàm với giáo sư Đặng Thai Mai và tiến sĩ văn học Liên Xô
B.L.Riptin, nhà nghiên cứu người Nga khẳng định: “Truyền kỳ mạn lục quả là có tiếp
thu một số truyện của Tiễn đăng tân thoại”.
Giáo sư Đài Loan Trần Ích Nguyên có hẳn một chuyên luận nghiên cứu so
sánh hai tác phẩm. Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tỉ mỉ, công phu và
khá đầy đủ về nguồn gốc, nội dung kỹ xảo, nội hàm cũng như ảnh hưởng của Tiễn
đăng tân thoại đối với Truyền kỳ mạn lục. Trong đó ông có nhận xét: “Mạn lục ngôn
ngữ văn tự thanh tân điển nhã, sự tu sức điểm trang khiến cho chủ đề thêm sáng tỏ,
so với Tân thoại cũng không thể nói hơn thua” [14; tr.283].
Mặc dù ở các công trình, giới nghiên cứu cũng có bàn về vai trò to lớn của yếu
tố kỳ ảo đối với hai tác phẩm nhưng còn ở mức độ sơ lược. Từ đó chưa thấy việc sử
dụng yếu tố kỳ ảo là bản chất thẩm mỹ của thể loại truyện truyền kỳ mà hai tác phẩm

4
trên là tiêu biểu. Mặt khác, chưa lý giải được nguyên nhân sự tương đồng và khác
biệt của việc sử dụng yếu tố kỳ ảo ở hai tập truyện. Trên cơ sở đó chưa ghi nhận sự
sáng tạo, đóng góp mang tính chất mở đường của Nguyễn Dữ đối với thể loại truyền
kỳ Việt Nam.
Như vậy, đi sâu vào việc nghiên cứu yếu tố kỳ ảo trong Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ, chúng tôi khảo sát hai phần đó là: nghiên cứu lý luận và nghiên cứu thực
tiễn.

Nghiêên cứu lý lu
2.1. Nghi ận
luậ

Bài nghiên cứu “ Cái kỳ ảo và văn học huyền ảo” của Lê Huy Bắc đã xác định
đặc diểm phát triển của “văn học kỳ ảo và cái kỳ ảo” bằng việc xác định bản thể và
định danh trong tiến trình lịch sử. Ông đề xuất dùng khái niệm “Văn học huyền ảo”
với mụch đích “nhằm bao quát cả một lịch sử sáng tạo văn chương nơi xuất hiện sự
đan cài của hai yếu tố thực và ảo mà hàm lượng bao giờ cũng nghiên qua phần ảo”.
Từ đó, ông nhấn mạnh “thế giới của văn học huyền ảo là thế giới của trí tưởng tượng,
nơi sự khác lạ hoang đường, thần dịu luôn ngự trị. Có lúc nó giúp người đọc bình
tâm, tự tạị; có lúc nó khiến họ hoang mang, khiếp đảm và có lúc khiến họ hoài nghi
bối rối,…” [1]. Lê Huy Bắc đã dùng khái niệm “Văn học huyền ảo” để thay cho khái
niệm “văn học kỳ ảo” và ông dùng khái niệm văn học kỳ ảo để chỉ một bộ phận, một
giai đoạn trong tiến trình của văn học huyền ảo. Bài viết này đã có những đóng góp
nhất định trong việc xác định quan niệm về văn học kỳ ảo.
Bài viết về cái kỳ ảo và văn học kỳ ảo trong nghiên cứu văn học của Lê
Nguyên Long bước đầu cũng đã thể hiện sự quan tâm đến văn học kỳ ảo và khái
niệm cái kỳ ảo. Trong bài viết này, Lê Nguyên Long đã tổng hợp nhiều quan niệm về
thuật ngữ kỳ ảo và văn học kỳ ảo của các học giả nước ngoài. Từ đó ông đưa ra ý
kiến của mình về cái kỳ ảo: cái kỳ ảo là cái không thể cắt nghĩa được bằng lý tính từ
điểm nhìn của chúng ta với tằm nhận thức hiện đại. Chính sự không cắt nghĩa được
bằng lý tính ấy đã tạo nên một “sự đứt gãy trong chuỗi liên kết vũ trụ, gây ra tâm
trạng hoang mang cho người nào đối diện với nó” (Roger Caillois). Khái niệm mà
Lê Nguyên Long đề xuất phần lớn xuất phát từ thực tiễn sáng tác của văn học
phương Tây. Chỉ có một lần duy nhất tác giả liên hệ với văn học Việt Nam khi khẳng
định “Truyền thống truyện truyền kỳ, chí quái phương Đông với những kiệt tác như
5
“Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh, hay “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ chính
xác cần được gọi tên là fantasy, vừa xét về thời điểm ra đời, vừa xét từ đặc trưng
nghệ thuât của nó…”[12].

Nghiêên cứu th
2.2. Nghi ực ti
thự tiễễn sáng tác

Trong tiểu luận “Tìm hiểu các dạng truyện kỳ ảo trong văn học cổ trung đại và
cận đại Đông Tây” nhà nghiên cứu phê bình văn học Nguyễn Huệ Chi đã luận giải
khá rõ nét về lý thuyết và thực tiễn truyện kỳ ảo trong đời sống văn học phương Tây
và Trung Hoa từ cổ đại cho đến cận đại. Bài viết cũng đã xác lập được diện mạo
“truyện truyền kỳ” trong văn học cổ cận đại Việt Nam trong quan hệ đối sánh với văn
học kỳ ảo nước ngoài. Ông nhận định: “văn học Việt Nam trong hàng nghìn năm
chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn học Trung Quốc, lẽ dĩ nhiên “cái kỳ ảo” Trung
Quốc cũng nên nhìn sang chân trời xa hơn, thử xem “cái kỳ ảo” Phương Tây có
những đặc sắc gì, có những biểu hiện gì chung với “cái kỳ ảo” phương Đông, hoặc
giả có thể soi tỏ được chút gì cho việc tìm tòi các dạng thức, các đặc điểm của “cái
kỳ ảo” trong văn học dân tộc”[5]. Với tiểu luận này, Nguyễn Huệ Chi đã góp một
phần không nhỏ giúp người đọc nhìn thấy được bản chất của truyện kỳ ảo Việt Nam.
Như vậy, cho đến nay nghiên cứu về yếu tố kỳ ảo trong văn học đã được các
nhà nghiên cứu bàn luận ở nhiều phạm vi, mức độ khác nhau. Nhìn chung, các bài
viết nghiên về nghiên cứu lý luận. Còn nghiên cứu về thực tiễn sáng tác thì chủ yếu
gắn với văn học kỳ ảo thời kỳ trung đại. Thực tế cho thấy chưa có nhiều bài viết về
yếu tố kỳ ảo trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ.
Trên đây là một vài nhận xét của chúng tôi về các công trình nghiên cứu về
yếu tố kỳ ảo trong văn học Việt Nam. Vì những nguyên nhân khách quan và năng lực
chủ quan, chúng tôi rất lấy làm tiếc chưa thể tiếp cận và thống kê thật đầy đủ các bài
viết, công trình nghiên cứu về yếu tố kỳ ảo trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ.
Trong phạm vi của một luận văn, chúng tôi rất trân trọng những ý kiến, quan điểm,
các đánh giá, nhận xét của các nhà khoa học đã đề xuất. Những ý kiến quý báo đó sẽ
giúp chúng tôi có những định hướng đúng đắn, vững chắc về mặt phương pháp luận
và phương pháp nghiên cứu, cũng như về mặt tư liệu tham khảo để có thể hoàn thành
mục tiêu đề ra của luận văn.

6
3. Mục đích nghi
đích nghiêên cứu

truyềền kỳ mạn lục của


Mục đích của việc nghiên cứu “yếu tố kỳ ảo trong truy
Nguyễễn Dữ” nhằm phát thảo bức tranh chung về dòng văn học kỳ ảo, thấy được
Nguy
những đóng góp to lớn của nhà văn trong việc phát triển thể loại truyền kỳ ở Việt
Nam. Đồng thời, qua thế giới nghệ thuật tìm ra những quan niệm của nhà văn về
cuộc sống, con người và giá trị thẫm mĩ đặc sắc mà yếu tố kỳ ảo mang lại.

4. Phạm vi nghi
Phạ nghiêên cứu

Đối với đề tài này, luận văn khảo sát và tìm hiểu yếu tố kỳ ảo trong 20 truyện
gồm bốn quyển trong “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ:
Quyển 1:
Câu chuyện ở đền Hạng Vương
Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu
Chuyện cây gạo
Chuyện gã trà đồng giáng sinh
Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây
Quyển 2:
Chuyện đối tụng ở Long Cung
Chuyện nghiệp oan của Đào Thị
Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên
Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên
Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào
Quyển 3:
Chuyện yêu quái ở Xương Giang
Chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na
Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Trào
Chuyện nàng Túy Tiêu
Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang
Quyển 4:
Chuyện người con gái Nam Xương
Chuyện Lý tướng quân

7
Chuyện Lệ Nương
Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa
Chuyện tướng Dạ Xoa.
Từ đó, luận văn miêu tả lý giải sức hấp dẫn, giá trị của các yếu tố kỳ ảo, tìm ra
những nét độc đáo của yếu tố kỳ ảo trong quan niệm thẫm mĩ cũng như phương thức
thể hiện nội dung của tác phẩm. Đồng thời, người viết cũng tìm hiểu một số tác phẩm
của các nhà văn khác để hiểu rõ hơn về đề tài.

5. Phươ
Phươ ng ph
ương áp nghi
phá nghiêên cứu

Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu, bước cần thiết đầu tiên đối với người
viết là sẽ đọc toàn bộ 20 truyện trong “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ cùng với
những tài liệu nghiên cứu, sách báo có liên quan đến đề tài. Sau đó chắt lọc lại những
vấn đề chính, tiếp thu có chọn lọc thông qua việc lưu trữ, ghi chép. Bài nghiên cứu
được hình thành là sự tổng hợp của nhiều phương pháp như:
Phương pháp lịch sử_xã hội: Tác phẩm văn học là sản phẩm của một hoàn
cảnh xã hội cụ thể trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc. Mối quan hệ giữa
văn học và thế giới thực tại khách quan là điều đã được chứng minh và thừa nhận. Sự
hình thành, tồn tại và phát triển của yếu tố kỳ ảo trong tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục”
của Nguyễn Dữ ít nhiều chịu sự chi phối của nền văn học và hoàn cảnh thời đại mà
người cầm bút đang sống. Vì vậy, nghiên cứu yếu tố kỳ ảo trong “Truyền kỳ mạn
lục” chúng tôi không thể không nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của nó,
sự tác động của hoàn cảnh lịch sử trong thời đại nó ra đời. Phương pháp lịc sử_xã hội
với cái nhìn lịch đại sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn sự chi phối đó.
Phương pháp thống kê, phân loại: Chúng tôi sử dụng phương pháp sưu tầm,
thống kê để thu thập, thống kê các truyện trong “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ
cùng những tài liệu có liên quan. Sau khi sưu tầm, chúng tôi làm công tác thống kê
những truyện nào trong số 20 truyện của “Truyền kỳ mạn lục” các yếu nào là kỳ ảo
để tiến hành nghiên cứu theo mục tiêu và nhiệm vụ mà luận văn đề ra.
Phương pháp phân tích, tổng hợp, bình: Trên cơ sở của việc thống kê, phân
loại chúng tôi còn tiến hành phân tích, hệ thống hóa. Dựa vào kết quả của sự phân
tích, người viết sẽ rút ra những kết luận khái quát. Trong quá trình đó chúng tôi có sử

8
dụng phương pháp bình, đây không phải là phương pháp chủ yếu mà đây chỉ là cách
tiếp cận sâu hơn khi cần khái quát lên tư duy của tác giả Nguyễn Dữ.
Ngoài những phương pháp cơ bản trên, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi
còn vận dụng phương pháp so sánh, để so sánh với những tác phẩm văn học có yếu
tố kỳ ảo của các tác giả khác ở cùng thời kỳ đó và các thời kỳ văn học sau này.

9
PH
PHẦẦN NỘI DUNG

CH ƯƠ
CHƯƠ NG 1: KH
ƯƠNG KHÁÁI QU
QUÁÁT CÁC VẤN ĐỀ LI
LIÊÊN QUAN ĐẾ
ĐẾNN
ĐỀ TÀI

ượcc về văn học trung đạ


1.1. Sơ lượ đạii Vi
Việệt Nam

Gần 10 thế kỷ phát triển trong lòng xã hội phong kiến, sự phát triển của văn
học trung đại gắn liền với nền tảng mỹ học phong kiến, đó là những sáng tác nằm
trong hệ thống thẩm mỹ riêng do quan niệm mỹ học phong kiến quy định. Văn học
trung đại đã đem lại những thành tựu lớn cho văn học nước nhà.
Tên gọi “Văn học Việt Nam thời trung đại” thực ra là một quy ước mang tính
khoa học mà các quốc gia phương Tây nói chung và Việt Nam nói riêng mượn từ
khái niệm “thời trung đại” trong lịch sử châu Âu. Thời trung đại được xem là thời đại
văn hóa lớn trong lịch sử nhân loại. Đó cũng là thời đại hình thành các giá trị văn hóa
truyền thống có ảnhh hưởng đến ngày nay. Riêng đối với Việt Nam, thời trung đại là
thời hình thành toàn bộ di sản văn hóa thành văn của dân tộc.
Văn học Việt Nam đã hình thành và phát triển cùng với quá trình hình thành
và phát triển của dân tộc. Đó là quá trình xây dựng văn học viết bằng cách dựa vào
truyền thống và những thành tựu của văn hóa văn học nước ngoài, đặc biệt là văn học
Trung Quốc. Đó cũng chính là quá trình nền văn học phát triển gắn liền với vận
mệnh đất nước và số phận con người, thể hiện ý thức dân tộc mạnh mẽ, đồng thời
mang những đặc điểm loại hình thi pháp văn học trung đại trong sự vận động theo
hướng dân tộc hóa và dân chủ hóa.
Do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt , ngay từ khi ra đời văn học trung đại Việt Nam
đã gắn với vận mệnh đất nước và con người. Chủ đề nổi bậc của văn học thời kỳ này
là chủ nghĩa yêu nước, tư tưởng nhân đạo và chủ nghĩa anh hùng. Chủ đề ấy là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt nền văn học, từ thơ ca của các nhà sư đời Lí, các vị tướng đời Trần
đến các nhà thơ, nhà văn lớn: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu. Ở
những giai đoạn lịch sử khác nhau, tư tưởng yêu nước và nhân đạo có những biểu
hiện khác nhau.
Đã trở thành quy luật, nền văn học trung đại của dân tộc nào cũng được xây
dựng trên cơ sở nền văn hóa, văn học dân gian của dân tộc đó. Văn học dân gian Việt

10
Nam là nền tảng hình thành nền văn học viết trên nhiều phương diện. Tiếp thu nguồn
mạch văn học dân gian, văn học viết có cơ sở vững chắc để phát triển. Từ những tác
phẩm văn xuôi thành văn đầu tiên: Việt điện u linh, Lĩnh nam chích quái… ra đời
trên cơ sở sưu tầm ghi chép các truyền thuyết dân gian, “từ bia miệng người đời” đến
những tác phẩm có quy mô lớn như Đại Việt sử ký toàn thư cũng sử dụng nhiều yếu
tố văn học dân gian. Cũng không ai có thể phủ nhận ảnh hưởng của văn học dân gian
đậm đà về văn liệu, thi liệu, bút pháp thể hiện,… đối với những tác phẩm truyền kỳ
như: Thánh Tông di thảo, Truyền kỳ mạn lục, thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Nguyễn Đình Chiểu,…Khẳng định giá trị và tìm
hiểu đặc điểm của văn học viết trung đại cũng đồng thời là sự đánh giá cao vai trò, vị
trí của văn học dân gian_suối nguồn tươi mát giàu dưỡng chất nuôi lớn nền văn học
viết.
Trong thời kỳ trung đại sự giao lưu ảnh hưởng của các nền văn học lâu đời
( Trung Hoa, Ấn Độ) với các nền văn học hình thành sau ( Nhật Bản, Triều Tiên,
Việt Nam, ... ) là một tất yếu khách quan. Ở Việt Nam mặt dù đã trải qua hàng ngàn
năm Bắc thuộc nền văn hóa, văn học dân tộc vẫn không bị đồng hóa. Sự tiếp thu ảnh
hưởng văn học Trung Hoa không làm mất đi bản sắc dân tộc mà càng làm cho nền
văn học dân tộc thêm phong phú, đậm đà bản sắc. Đặc biệt trên phương diện thể loại,
sự tiếp thu đã diễn ra một cách toàn diện. “Người Việt Nam hầu như đã di thực toàn
bộ thể loại văn học của văn học Trung Quốc vào Việt Nam với những qui mô và biến
đổi khác nhau” (Trần Đình Sử). Thế nhưng con đường phát triển của văn học dân tộc
là vừa tiếp thu vừa Việt hóa những yếu tố Hán song song với việc sáng tạo những
yếu tố hình thức mang tính dân tộc. Sự tiếp thu một cách chủ động tinh hoa văn học
Trung Quốc trên tinh thần dân tộc vừa làm giàu cho nền văn học vừa thể hiện ý thức
dân tộc mạnh mẽ của cha ông ta trong quá trình xây dựng nền văn hóa dân tộc mình.
Cũng như văn học viết trung đại các nước trên thế giới, văn học Việt Nam thế
kỷ X đến thể kỷ XIX chịu sự quy định của thi pháp văn học trung đại nói chung. Nổi
bậc hơn là tính chất ước lệ của hình thức biểu hiện. Tính ước lệ trung đại được thể
hiện ở tính chất tập cổ, tính qui phạm, tính công thức, sáo ngữ, nghi thức, tính trang
trọng gắn chặc với tính truyền thống, giáo huấn, nghi lễ,… Tuy nhiên các đặc điểm
thi pháp trên không làm hạn chế sự phong phú và phát triển của văn học. Bằng trí tuệ
tâm hồn, tài năng sáng tạo của các tác giả, văn học trung đại đã để lại nhiều áng thơ

11
văn làm say đắm lòng người. Trên đường sáng tạo, nền văn học luôn vận động theo
hướng dân tộc hóa, dân chủ hóa, thường xuyên tự đổi mới bằng cách bám sát cuộc
sống của dân tộc để phản ánh. Văn học đã trở nên gần gũi với tâm thức của người
dân. Đó cũng chính là nhu cầu tự thân để văn học trung đại làm cho các qui phạm
ngày càng bị lỏng lẻo, phá vỡ, đồng thời tạo tiền đề cho quá trình hiện đại hóa văn
học đầu thế kỷ XX.
Các đặc điểm cơ bản trên giúp ta nhận rõ đặc trưng của văn học trung đại Việt
Nam trong qui luật chung của nền văn học trung đại như là một bộ phận hữu cơ của
nền văn hóa trung đại. Đi trong 10 thế kỷ, văn học trung đại kết thúc vai trò lịch sử
của mình trong tiến trình văn học dân tộc: phản ánh một cách chân thật, sinh động
đời sống của con người Việt Nam trên các phương diện vật chất và tinh thần, đặc biệt
là đời sống tâm linh sâu sắc, để lại cho nền văn học nhiều kinh nghiệm quý giá.

1.2. Văn hóa tinh phần, tâm linh con ng


phầ ườ
ườii trung đạ
ngườ đạii

Trong văn xuôi trung đại Việt Nam, những yếu tố kỳ lạ khác thường trong tự
nhiên hay xã hội luôn được kèm theo một quan niệm riêng về một thế giới khác, một
niềm tin thiêng liêng và lòng tôn sùng, ngưỡng mộ đối với các lực lượng trong thế
giới ấy. Nói cách khác, chính thế giới quan thần bí và trí tưởng tượng phong phú,
niềm tin sâu xa vào một thế giới khác thế giới hiện thực có sức mạnh chi phối đời
sống đã tạo cho con người một đời sống tâm linh phong phú. Đời sống ấy luôn hiện
hữu những điều kỳ lạ, khác thường ( hiện tượng điềm báo, hóa kiếp, hồn ma, đạo sĩ
làm bùa phép phù chú, nhà sư có phép thần thông,…, hiện tượng con người giao tiếp
với thần linh, lạc vào thế giới thần thánh thông qua giấc mộng, cúng tế,…). Dĩ nhiên,
những hiện tượng “kỳ hình dị sự” ấy luôn mang niềm tin thiêng liêng của con người,
thể hiện nguyện vọng, ước mơ của họ về nhiều vấn đề trong cuộc sống.
Yếu tố tâm linh trong văn xuôi trung đại Việt Nam _ cốt lõi của những điều kỳ
lạ, siêu nhiên, huyền bí, sản phẩm của trí tưởng tượng của con người thời trung đại
làm ta liên tưởng đến yếu tố huyền thoại, kỳ ảo phổ biến trong văn học. Kỳ ảo là một
tính từ chỉ những gì “được tạo nên bởi trí tưởng tượng, chứ không tồn tại trong thực
tế”, “gợi lên những chuyện ma quỷ,cái siêu nhiên, những giấc mơ quái đản, kể cả
những ác mộng” (M.Renard). Kỳ là lạ lùng, ảo là không có thật. Từ đó có thể hiểu:
“cái kỳ ảo là cái lạ lùng, không có thật, không thể bắt gặp trong thế gian này, nói
12
chung là cái siêu nhiên, nếu ta hiểu cái siêu nhiên là những gì không tồn tại ở trên
đời” (Phùng Văn Tửu). Như vậy, phạm vi của cái kỳ ảo trong văn học là rất rộng, từ
các vị thần trong thần thoại, các ông bụt bà tiên, mụ phù thủy truyện dân gian, đến
các quỷ sứ hồn ma, phép thuật, người biến dạng,…Trong truyện trung đại, hiện đại
bởi đó là những hiện tượng siêu nhiên. Theo đó dễ dàng nhận thấy trong văn chương
cổ kim Đông Tây xuất hiện nhiều yếu tố kỳ ảo: Hămlet (thế kỷ XVII), Truyền kỳ mạn
lục (thế kỷ XVI), Liêu trai chí dị (thế kỷ XVIII, XIX),…
Cái siêu nhiên là những quỷ dữ, bóng ma, oan hồn, thần chú, thánh thần trên
thiên đường dưới địa phủ,… nói chung là thế giới bên kia xuất hiện trong đời sống
con người với những năng lực bí ẩn chi phối đời sống con người. Đây là những hiện
tượng xuất hiện nhiều trong tác phẩm của nhiều nhà văn như Bồ Tùng Linh ở Trung
Quốc, Nguyễn Dữ ở Việt Nam,…
Cái kỳ ảo trong văn học kỳ ảo thực sự gây cảm giác mãnh liệt, “mang cái ý
nghĩa khủng khiếp, sợ hãi, kỳ quái, bí hiểm” chính cảm giác đó tạo nên chất lượng,
sức hấp dẫn của văn học kỳ ảo.
Sự phân biệt giữa văn học kỳ ảo và cái kỳ ảo trong văn học giúp ta nhận ra
yếu tố kỳ ảo trong văn học truyền thống với khuynh hướng văn học kỳ ảo hiện đại.
Trong văn xuôi trung đại Việt Nam tồn tại yếu tố kỳ ảo. Nếu trong văn học kỳ ảo, cái
kỳ ảo được dùng là thủ pháp nghệ thuật, là hình thức thuần túy trong mối quan hệ với
nội dung. Giống như cái kỳ ảo, yếu tố tâm linh trong văn học là sản phẩm của trí
tưởng tượng của con người. Nhưng mang hình thức kỳ ảo, hoang đường siêu nhiên,
yếu tố này tồn tại như một tất yếu, là hiện thực thứ hai tồn tại song song cùng hiện
thực trần thế, ở đó con người luôn tin vào những điều huyền hoặc, những hiện tượng
mang tính chất quái dị, hoang đường mà không hề nghi ngờ, sợ hãi. Chính niềm tin
ấy tạo nên một nét riêng trong đời sống tâm linh. Sinh hoạt văn hóa tâm linh đa dạng
của người Việt.
Đi sâu vào khai thác chiếm lĩnh đời sống tâm linh cùng những trạng thái tâm
lý tinh thần đầy bí ẩn của con người là điều mà văn học mọi thời kỳ đều quan tâm.
Với văn học trung đại, đời sống tâm linh đã mang giá trị tự thân. Thông qua các tác
phẩm truyện kể, truyện thơ, văn tế, phú…(có thể giai đoạn sơ kỳ nó còn mang tính
chất ghi chép theo lối văn chép sử, hay sưu tầm từ truyện dân gian…), đời sống tâm
linh xuất hiện một cách tự nhiên từ những hiện tượng kỳ lạ xảy ra trong thiên nhiên

13
cho đến các hình thức phong thủy, cầu cúng, điềm báo, báo ứng, thần thánh, ma
quỷ… Và giữa vô số chi tiết kỳ ảo tồn tại trong văn học trung đại ấy, ….Chính đời
sống tâm linh phong phú của con người trung đại đã tạo nên một nền văn học trung
đại với đầy đủ màu sắc và hương vị của nó, yếu tố ấy giúp các nhà văn sáng tạo nên
những tác phẩm bấc hủ trong nền văn học dân tộc và tiêu biểu cho sáng tác chứa
đựng yếu tố tâm linh, thần quái của con người trung đại là Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ.

ượcc về th
1.3. Sơ lượ thểể loại truy
loạ truyềền kỳ

Văn học là một hình thái ý thức xã hội. Trước hết nó là một nghệ thuật_nghệ
thuật ngôn từ với đặc trưng tiêu biểu nhất là tính hình tượng với những lớp ngôn từ
được chọn lọc, chưng cất từ ngôn ngữ toàn dân. Loại thể văn học theo cách hiểu đơn
giản nhất đó là sự phân chia văn học theo cấu trúc hình thức thể hiện với ba loại: tự
sự, trữ tình và kịch. Tất nhiên, trong mỗi loại lại có từng thể nhỏ khác nhau. Cụ thể
như sau:
Loại tự sự bao gồm: Tự sự dân gian (Tục ngữ, ca dao, dân ca, vè, câu đố,…);
tự sự cổ trung và hiện đại (truyền kỳ, tiểu thuyết, truyện vừa, ký,…).
Loại trữ tình bao gồm: Trữ tình dân gian (tục ngữ, ca dao, dân ca, vè, câu
đố,…); trữ tình cổ trung và hiện đại (thơ cổ thể truyền thống, thơ tự do,…)
Loại kịch gồm có: sân khấu dân gian (chèo tuồng, múa rối,…) và kịch hiện đại
(chính kịch, bi kịch, hài kịch,…)
Theo đó, truyện truyền kỳ thuộc loại hình tự sự. Truyện truyền kỳ Việt Nam
vốn có nguồn gốc từ thể loại truyện kỳ ảo Trung Quốc cổ trung đại nhưng lại có một
quá trình hình thành và phát triển nội sinh gắn liền với nền văn hóa và văn học dân
tộc, đặc biệt với văn học dân gian và văn xuôi lịch sử. Văn hóa dân tộc như cái nôi
nuôi dưỡng truyện truyền kỳ Việt Nam trong suốt quá trình hình thành, phát triển và
cũng chính nền văn hóa dân tộc, đặc biệt là văn học dân gian đã giúp cho thể loại
truyện này ở Việt Nam khác với truyện truyền kỳ các nước đồng văn trong khu vực.
Truyền thống văn hóa, văn học dân tộc là một trong những nguồn gốc quan trọng
nhất của truyền kỳ Việt Nam. Có thể nói sự phát triển của loại hình này từ tác phẩm
truyện u linh (Việt diện u linh tập lục) sang chích quái (Lĩnh Nam chích quái) đến
truyền kỳ (Thánh Tông di thảo, Truyền kỳ mạn lục) đều được quy định chặc chẽ bởi
14
những điều kiện chính trị, văn hóa, xã hội Việt Nam. Trong quá trình này xuất hiện
hàng loạt những nhân tố mới, đặc biệt là xuất hiện những tác gia có phong cách viết
truyện riêng, từ chỗ sao chép đã tạo ra được những tác phẩm thực sự mang dấu ấn cá
nhân và nhiều vấn đề quan trọng của đời sống hiện thực và có ảnh hưởng không nhỏ
đến sự phát triển của văn học dân tộc. Vậy truyền kỳ là gì với yếu tố văn kỳ ảo trong
loại truyện này là ở đâu?
Trước hết, truyền kỳ được hiểu là truyền đi một sự lạ. Truyền kỳ có tính chất
là những truyện kỳ lạ được lưu truyền lại. Đồng thời truyền kỳ cũng là khái niệm chỉ
một thể loại tự sự ngắn cổ điển của văn học Trung Quốc thịnh hành ở thời Đường là
thể loại “chứa đựng nhiều tình tiết li kỳ, quái dị”. Truyền kỳ đã trở thành một loại
truyện mang tính chất “kỳ văn di sự”_một bộ phận tạo nên diện mạo nền văn xuôi
trung đại Việt Nam.
Hạt nhân cơ bản của truyện truyền kỳ là yếu tố kỳ. Kỳ trước hết là cái lạ, cái
khác biệt trái với cái bình thường (kỳ lạ, li kỳ). Kỳ cũng còn là cái quái đản, phi
thường, siêu nhiên (kỳ quái, kỳ dị). Cái lạ, phi thường, siêu nhiên trong truyện truyền
kỳ đã tạo nên sức hấp dẫn lạ lùng, góp phần làm nên sức sống lâu bền cho tác phẩm.
Sức nặng nghệ thuật của yếu tố này được Nghê Trác trong “Nhị kỳ duyên tiểu dẫn”
cô đúc “vô truyền bất kỳ vô kỳ bất truyền” (tác phẩm không lưu truyền được là do
không có gì lạ, và do không có gì lạ nên tác phẩm không lưu truyền được).
Vậy phạm vi của cái lạ trong truyện truyền kỳ là đây vì lạ cũng là phạm trù
của cái quái trong truyện chí quái. Cả hai loại truyện đều có yếu tố thần kỳ, quái dị,
nói đến hiện tượng bất bình thường trong tự nhiên và xã hội (gió, bão, lụt bất thường,
những con vật quái dị, người biến dạng hóa hay sự nhân hóa thần linh, động vật, đồ
vật, sự thần kỳ hóa con người,…). Tuy nhiên, chuyện chí quái chủ yếu nói đến
chuyện ma quỷ, chuyện quái dị gây cảm giác quái đản, sợ hãi (như truyện người
nông dân trong mồm ra đủ loại thức ngon vật lạ và người con gái đẹp_ truyện “Cái
lông ngỗng ở Dương Tiễn” sách chí quái lục triều. Còn sự lạ trong truyền kỳ chủ yếu
nói chuyện con người, xoay quanh các hiện tượng nhân hóa thần linh và thần kỳ hóa
con người ( như loài vật biến thành người, người ân ái kết duyên với tiên với ma,…
trong Thánh Tông di thảo, Truyền kỳ mạn lục). Quan trọng hơn, kỳ trong truyền kỳ
tham gia vào cốt truyện nhằm phản ánh hiện thực xã hội. Nó không chỉ thể hiện trình
độ, tư duy nghệ thuật độc đáo mà còn là phương tiện, thủ pháp nghệ thuật có hiệu

15
quả cao trong phản ánh hiện thực và chuyển tải những vấn đề nhân sinh. Với những
đặc trưng và vẽ đẹp nghệ thuật riêng, yếu tố kỳ làm cho truyện truyền kỳ khác với
các loại truyện gần gũi với nó như truyện thần quái, chí quái. Nó khiến cho người
đọc bao thế hệ được “tâm khai thần thích” (tâm thần sản khoái).
“Chuyện Chức phán sự ở đền Tản Viên” trong tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục”
được coi là có vai mượn một vài chi tiết từ “Vĩnh Châu dã miếu ký” (Ngôi miếu hoan
ở Vĩnh Châu) trong tập tập truyện của Cừu Hựu (Trung Quốc). Song, tinh thần
truyện của Nguyễn Dữ đã được triển khai theo một hướng khác hẳn và gắn với chủ
đề yêu nước và tự hào dân tộc. Câu chuyện ca ngợi khí phách và lòng yêu nước của
chàng nho sinh Ngô Tử Văn trong việc truy nã vong hồn tên tướng giặc Minh. Y bị
quân ta giết chết nhưng vong hồn vẫn lưu lại trên đất Việt, tác yêu tác quái, đánh
đuổi vị thần thổ địa để trấn giữ phần hương lửa ở một ngôi đền nọ. Tử Văn đã dũng
cảm đốt đền để xua đuổi tên giặc xâm lược. Khi bị Diêm Vương đem ra xử, nhờ sự
can thiệp của thần thổ địa_vốn là người có công với nước, kẻ chiếm đền đã bị vạch
trần tội lỗi, đem giam vào ngục tối. Câu chuyện đậm chất kỳ ảo và thể hiện tinh thần
yêu nước và khí phách quật cường của kẻ sĩ Việt Nam trước kẻ thù xâm lược và
trước cả quỷ thần.
Như vậy, có thể thấy về mặt nội dung và hình thức truyện truyền kỳ có sự
khác biệt hẳn với các loại tự sự còn lại như tiểu thuyết, truyện ngắn, ký…Truyền kỳ
là thể loại truyện ngắn có nguồn gốc từ Trung Hoa và là một thể văn xuôi tự sự thời
trung đại phản ánh hiện thực qua những yếu tố kỳ lạ, hoang đường. Trong truyện
truyền kỳ, thế giới con người và thế giới cõi âm với những thánh thần, ma quỷ có sự
tương giao. Truyện truyền kỳ Việt Nam thường sử dụng truyện dân gian hoặc các mô
típ truyện dân gian để xây dựng thành truyện mới. Truyện truyền kỳ Việt Nam mang
đậm yếu tố hiện thực và nhân văn.

1.4. Giới thi


Giớ thiệệu về phạm tr
phạ ù kỳ ảo trong văn học
trù
1.4.1. Khái ni
Khá niệệm chung về ph
phạạm trù kỳ ảo trong văn học
trù

Như đã nói ở phần trên, cho đến nay, vấn đề thuật ngữ vẫn là vấn đề nan giải
đối với giới nghiên cứu văn học. Có nhiều cách diễn đạt khác nhau trong cùng một
phạm trù nói về yếu tố kỳ ảo như là: hoang đường, huyền ảo, huyễn tưởng,…Từ đó
kéo theo một số cách gọi như “văn học kỳ ảo”, “truyện kinh dị”, “truyện huyễn

16
tưởng”… và nhiều khi chúng chưa được phân biệt một cách rạch ròi. Tuy vậy, xét
cho cùng, kỳ ảo chính là một trong những thuộc tính của những cái hoang đường,
huyền ảo, huyễn tưởng,…Trong văn học trung đại yếu tố kỳ ảo xuất hiện khá dày đặc
trong nhiều thể loại nhưng nổi bậc nhất ở truyện truyền kỳ, nó thể hiện tâm linh trong
cuộc sống con người trung đại và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Kỳ ảo, hoang đường vốn là những khái niệm xuất phát từ thời cổ đại. Khái
niệm này có nội hàm rất rộng và cách hiểu về nó cũng thay đổi theo thời gian. Bởi
thế, giới nghiên cứu văn học trên thế giới đến nay cũng chưa có một quan niệm thống
nhất về cái kỳ ảo, hoang đường cũng như về văn học kỳ ảo. Cùng một tác phẩm
nhưng có người cho đó là truyện huyễn tưởng, huyền ảo, kỳ ảo,…thậm chí có người
còn quan niệm nó là truyện kinh dị, quái dị. Để có thể phân biệt rõ ràng các khái
niệm trên, tránh sự nhầm lẫn, chúng ta cần phải tìm hiểu thế nào là “kỳ ảo”.
Về mặt từ nguyên học, thuật ngữ kỳ ảo có nguồn gốc từ chữ fantastic. Chữ
fantastic xuất hiện trong tiếng Anh Trung cổ thế kỉ XIV, vốn có nguồn gốc từ tiếng
Hi Lạp chữ phantastikos, có nghĩa là “tạo ra những hình ảnh thuộc về tinh thần”, và
chữ phantazein, có nghĩa là “xuất hiện trong tâm trí”. Theo thời gian, nghĩa của từ
này dần dần thiên về chỉ hiện tượng mà ở đó ranh giới giữa cái cụ thể và sự mơ hồ
không còn phân biệt rõ ràng. Trong lĩnh vực văn chương, thuật ngữ “kỳ ảo” được
chuyển nghĩa từ thuật ngữ “fantastique” trong tiếng Pháp, hoặc “the fantatic” trong
tiếng Anh. Theo từ điển Pháp _Việt, thì “fantastique” là sản phẩm của trí tưởng
tượng, được tạo ra nhờ khả năng suy tưởng, ở đó cái siêu nhiên chiếm ưu thế. Từ
những định nghĩa trên ta có thể dễ dàng nhận thấy đặc trưng của cái kỳ ảo chính là
cái bình thường đã bị cái phi thường thâm nhập là tính tất yếu không thể đảo ngược.
Chính sự kết hợp giữa những cái không mang tính chân thật, chỉ tuân theo quy luật
của trí tưởng tượng như cái kỳ ảo, siêu nhiên, hư ảo,… và những cái bình thường. Nó
cũng có ý nghĩa như từ thần thoại. Vì thế theo quan điểm của các nhà nghiên cứu văn
học phương Tây, thuật ngữ “fantastique” hàm chứa tất cả các yếu tố như: kỳ lạ,
huyền ảo, thần diệu,… chứ không hề tách biệt về nghĩa như tiếng Việt.
Thuật ngữ “kỳ ảo” theo cách hiểu của phương Đông thì “kỳ” là cái khác
thường, lạ không bình thường, hiếm hoi. Theo lí luận hiện đại, thì “kỳ” chính là thủ
pháp nghệ thuật có chức năng “lạ hóa” văn học, lưu giữ ấn tượng, cuốn hút đọc giả
làm thành quan niệm “phi kỳ bất truyền” của văn học phương Đông. Còn “ảo” là cái

17
không thực, là trạng thái mơ hồ giữa hai đối cực thật- giả, có không của con người.
“Ảo” không phải tự nhiên mà có, nó xuất hiện từ sự kích thích của hiện thực và trở
thành cái bóng của hiện thực. Cái “kỳ ảo” theo quan niệm của người phương Đông
cũng có sự tương tác, giao thoa giữa cái bình thường và cái phi thường. Từ sự gặp
nhau về quan niệm đó, ta có thể thấy rằng, yếu tố kỳ ảo hoang đường trong văn học
chính là những điểm lạ lùng, huyền bí, vừa chân thực cũng vừa huyễn hoặc, được tạo
ra do sự xâm nhập, chuyển hóa giữa hai yếu tố bình thường và phi thường, tồn tại
trên hai trục thực và ảo với đặc trưng và sự tưởng tượng hư cấu có sức lay động hứng
thú thẫm mĩ. Yếu tố kỳ ảo chính là phương tiện hữu hiệu để nhà văn khám phá thế
giới và thể hiện tư tưởng thẩm mĩ.
Một số quan niệm về thuật ngữ kỳ ảo:
Theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê, nxb Đà Nẵng, 1998) thì
“kỳ ảo là kỳ lạ, tựa như không có thật mà chỉ có trong tưởng tượng”. Và tất nhiên,
một tác phẩm văn chương kỳ ảo phải có những yếu tố siêu nhiên, kỳ lạ, hư ảo, huyễn
hoặc trong nhân vật, cốt truyện, chủ đề tạo nên những phản ứng nhận thức của người
tiếp nhận một cách mạnh mẽ.
Trong Dẫn luận về văn chương kỳ ảo, T. Todorov cho rằng cái kỳ ảo giống
như một giới hạn nhất định giữa cái kỳ diệu (merveilleux) với cái kỳ lạ (étrangé); và
ông khẳng định thái độ lưỡng lự, do dự, hoài nghi của đọc giả khi tiếp xúc với những
cái khác lạ sẽ tạo nên cái kỳ ảo. Cũng từ cái nhìn về thực tiễn tâm lí con người, P. G.
Castex cho rằng: “cái kỳ ảo là hình thái thuần túy…được tạo ra từ giấc mơ, sự mê tín,
sợ hãi, hối hận, từ sự kích thích quá độ của trí não hay từ tâm linh, từ sự mê đắm, từ
tất cả các hiện tượng mang tính chất bênh lý”.A. Marino lại suy luận “cái kỳ ảo chỉ
có thể ra đời từ bản thân trí tưởng tượng (fantaisie)”. Và với M. Shneider yếu tố kỳ
ảo khai thác không gian nội tâm và gắn liền với “sự lo âu, sợ hãi trước kẻ thù” của
con người. Nhưng theo nhà nghiên cứu Roger Caillois thì “cái kỳ ảo là cái không thể
cắt nghĩa được bằng lí tính từ điểm nhìn của chúng ta, với tầm nhận thức thực tại”.
Ở nước ta những năm gần đây cũng có khá nhiều công trình nghiên cứu về
yếu tố kỳ ảo. Lê Nguyên Cẩn trong “Cái kỳ ảo trong tác phẩm Balzac” (NXB Giáo
dục, 1999) cũng đưa ra định nghĩa “cái kỳ ảo là một phạm trù tư duy nghệ thuật, là
sản phẩm của trí tưởng tượng. Nó hiện diện dưới hình thức thần linh, quái dị, ma quỉ,
khác lạ, phi thường, siêu nhiên” [2;tr 26].

18
Nhà nghiên cứu Lê Nguyên Long lại nhấn mạnh cái kỳ ảo phải gắn liền với
tính hiện thực và yếu tố kỳ ảo “chỉ tồn tại khi đối diện với nó” trong sự độc lập giữa
những cái siêu nhiên, hư ảo với thế giới thực tại.
Nguyễn Văn Dân trong bài viết “huyễn tưởng văn học một hình thái nhận thức
thẩm mĩ” đã trình bày quan điểm của mình như sau: trước hết chúng ta có thể nhận
xét sơ bộ rằng văn học huyễn tưởng là những truyện hay tiểu thuyết về cái lạ lùng,
cái kỳ dị, gây hồi hộp và có sức hấp dẫn cao. Các nước châu Âu dành cho loại hình
này cái tên gọi xuất phát từ định ngữ “Phantastikos” của Hi Lạp và qua từ
“fantasticus” của tiếng La Tinh. Ở nước ta trong bộ sưu tập “truyện kỳ quái dân
gian” đầu tiên của Việt Nam, tiến sĩ Kiều Phú (thế kỷ XV) đã dùng định ngữ “quái
đản” để chỉ loại truyện này. Ông Đào Đăng Vĩ gọi nó là truyện “dị thường”, ông
Nguyễn Văn Khôn cũng dịch từ “fantastic” của tiếng Anh là “kỳ dị, kỳ quái, dị
thường”. Gộp chung những ý kiến đó, Nguyễn Văn Dân đề nghị dịch “nó” và “những
từ tương đương với nó” là huyễn tưởng. Nguyễn Văn Dân lại cho ta thêm một thuật
ngữ mới khi nói đến yếu tố kỳ ảo.
Các yếu tố trên đã góp phần làm sáng rõ thêm về thuật ngữ kỳ ảo. Tuy chưa
hoàn toàn thống nhất về thuật ngữ cũng như quan điểm nhưng nhìn chung các nhà
nghiên cứu đều đã cho ta thấy được yếu tố kỳ ảo là thuộc tính của cái hoang đường,
huyền ảo, huyễn tưởng….được biểu hiện bằng yếu tố siêu nhiên, phi thường, kỳ ảo.
Nó là sản phẩm của trí tưởng tượng khó xảy ra trong thực tế. Nó nằm ngoài tư tưởng
duy lí tính của con người nhưng lại có mối quan hệ với bản chất của cái có thật trong
đời sống. Yếu tố kỳ ảo góp phần cùng với các yếu tố nghệ thuật khác để xây dựng
cốt truyện, nhân vật hướng đến việc bộc lộ chủ đề tư tưởng tác phẩm.
Việc tìm hiểu yếu tố kỳ ảo trong sáng tác văn học ngày càng được chú trọng
và biết đến trong những thập niên gần đây. Cho thấy việc nhìn nhận lại vấn đề phạm
trù kỳ ảo trong sáng tác văn học và những thành tựu, đóng góp của nó là không nhỏ
trong quá trình hình thành và phát triển văn học. Nó giữ vị trí và vai trò quan trọng
trong tiến trình lịch sử văn học, không chỉ ở trong nước mà còn ở nhiều nước trên thế
giới.
Qua việc tìm hiểu từ sự phát triển của nền văn học thì chúng tôi đã nhận thấy
sự phát triển của yếu tố kỳ ảo là cả một chặng đường dài và sự góp mặt của nó dường
như là rộng khắp. Không chỉ trong một quốc gia nào mà của cả thế giới, không chỉ ở

19
một chặng đường văn học hay một thời kỳ văn học nào mà như một dòng chảy xuyên
suốt trong tiến trình phát triển của lịch sử văn học.
Sự hình thành yếu tố kỳ ảo trong sáng tác văn học là rất sớm, mầm mống của
nó là những sáng tác “folklore”, tiêu biểu là thần thoại và truyền thuyết, yếu tố kỳ ảo
ra đời giúp con người vượt qua nổi sợ hãi của những điều không lí giải được. Ở đó,
các tác giả dân gian nhìn nhận và quan sát thế giới tự nhiên và thông qua trí tưởng
tượng của mình họ lí giải các vấn đề về nguồn gốc và sự tồn tại của các sư vật, hiện
tượng tự nhiên_một thế giới đầy bí ẩn mà họ không thể biết được. Trong thần thoại,
tự nhiên được tái tạo bởi trí tưởng tượng của người xưa. Thần thoại chính là những
câu trả lời mà người nguyên thủy dùng để lí giải các hiện tượng tự nhiên. Nhận định
của C. Mác cũng đã lí giải thêm về thần thoại của người xưa “dùng tưởng tượng,
mượn tưởng tượng để chinh phục sức mạnh thiên nhiên, chi phối tự nhiên, hình
tượng hóa tự nhiên”. Những yếu tố kỳ ảo ở đây biểu hiện tư duy của người nguyên
thủy còn chịu ảnh hưởng của thế giới quan thần linh chủ nghĩa, song chúng vẫn chứa
đựng cơ sở hiện thực lành mạnh. Ta có thể kể đến như: Thần trụ trời, mười hai bà
mụ,thánh Gióng, Sơn tinh Thủy tinh,… nằm trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam.
Thần thoại là “nghệ thuật một đi không trở lại”. Mác đã nói tới sự mất đi của
thần thoại với tư cách như thể loại, chứ từng tác phẩm và từng tác phẩm thần thoại
thì số phận lại khác hơn. Yếu tố kỳ ảo trong thần thoại nói riêng và folklore nói
chung đã được văn học viết tiếp nhận và phát huy.
Trên bình diện thế giới, loại truyện như trong Ngàn lẻ một đêm là truyện thần
thoại kiểu thần thoại Hi Lạp mang đậm yếu tố kỳ ảo, hoang đường là nguồn gốc cho
loại truyện huyễn tưởng sau này.

niệệm kỳ ảo trong văn học th


1.4.2. Quan ni thếế giới nói chung và văn học
giớ
Việệt Nam nói ri
Vi riêêng

Trên cơ sở nguồn gốc lịch sử nghiên cứu về cái kỳ ảo. Vì cái kỳ ảo là sự tưởng
tượng và là sản phẩm của yếu tố siêu nhiên, cái không thể xảy ra. Do vậy, cái kỳ ảo
đã có nguồn gốc từ xa xưa trong những sáng tác dân gian (cái không có thật). Như
vậy ta đã đồng nhất cái kỳ ảo với cái siêu nhiên, cái không thể xảy ra, cứ đề cập đến
cái siêu nhiên, cái không thể xảy ra thì đó là văn học kỳ ảo, khi đó văn học kỳ ảo sẽ

20
bao trùm cả những sáng tác cổ tích, đặc biệt là truyện cổ tích thần kỳ cái siêu nhiên
tồn tại với một sự áp đảo.
Để làm rõ quan niệm kỳ ảo trong văn học thế giới thì chúng tôi xin đi tìm hiểu
lịch sử ra đời của chúng, từ đó đối sánh với các loại hình văn học khác thì chúng ta sẽ
dễ dàng nhận thấy được tầm quan trọng của yếu tố kỳ ảo và ý nghĩa đóng góp của
chúng đối với nền văn học thế giới là vô cùng to lớn, vì kỳ ảo là một phạm trù thẩm
mỹ.
Trước hết, có thể khẳng định rằng, cái kỳ ảo phải diễn ra trong một môi
trường có tính hiện thực, ở đó sự tưởng tượng được phép phát triển ồ ạt và đi cùng
với điều đó thì tính chất mơ hồ là đặc trưng cơ bản của thể loại. Cái kỳ ảo chỉ tồn tại
khi đối diện với nó, người ta luôn có ý thức về một sự đối lập giữa những cái siêu
nhiên hư thực với thế giới thực tại. Đứng từ gốc độ này, ý kiến của nhà nghiên cứu
Nguyễn Văn Dân là rất xác đáng khi ông cho rằng trên bình diện thế giới, loại truyện
kiểu Nghìn lẻ một đêm là nguồn gốc cho cái kỳ ảo và văn học kỳ ảo hơn là truyện
thần thoại kiểu thần thoại Hy Lạp bởi về bản chất, thần thoại là khoa học về thế giới
của người nguyên thủy, và do vậy những người sáng tạo ra thần thoại thì tin tưởng
vào tính hiện thực của sự tồn tại của các vị thần cũng như các hiện tượng siêu nhiên.
Trong khi đó, với những câu chuyện cổ tích dân gian, đặc biệt là truyện cổ tích thần
kỳ, thì tác giả của những câu chuyện cổ tích đó đã có ý thức đối lập giữa cái hiện
thực với cái không thể xảy ra và xây dựng những câu chuyện như là phương tiện để
giải trí, trong đó họ đề cập đến những hư cấu, những tưởng tượng hoặc ít nhiều có
tính chất đối lập với thực tại. Ta xét tác phẩm Người hiệu đánh cờ của Charles
Dickens (người Anh), đây là một tác phẩm có cốt truyện đơn giản nhưng xen vào đó
là những truyện lạ thường kỳ quái. Đó là yếu tố con người và hồn ma. Nhân vật
chính là người đàn ông giữ trạm ga xe lửa khi làm nhiệm vụ để xe lửa chui qua
đường hầm, mấu chốt gây nên mọi chuyện là tình tiết khi ông gặp ma giữa đêm trăng,
thậm chí là ban ngày ở quanh trạm gác đó. Kết cục một cái chết đau thương khi ông
bị đầu xe lửa cán phải. Thế nhưng ta xét ở nội hàm tác phẩm thì hoàn toàn có ý nghĩa,
tại sao người đàn ông luôn đặt ra câu hỏi, luôn khẳng định “Ông đã thấy ma”. Đó
cũng là vấn đề tác giả đặt ra trong suốt tác phẩm. Bằng sự nhạy bén và tinh tế, ông đã
biến yếu tố không có thực trở thành cái sâu kín mà mọi người phải lý giải thấu đáo.
Dĩ nhiên, qua yếu tố này đã bộc lộ nên ý nghĩa sâu xa của tác phẩm, chính cuộc sống

21
tâm tối, lối suy nghĩ và cuộc sống tách rời với bên ngoài đã tạo nên tâm lý con người
trở nên hoang tưởng. Vì thế cái kỳ ảo làm nên sự thành công của tác phẩm, bằng sự
tưởng tượng của con người, việc trên đời vẫn có thế lực siêu nhiên tồn tại (mượn yếu
tố kỳ ảo). Đồng thời cũng lý giải cho lối tâm lý phức tạp của con người. Đây là sự
nhận xét rất đúng của Freud: “Thời trung cổ đã gán tất cả những biểu hiện bệnh
hoạn ấy cho ảnh hưởng của ma quỷ, một cách rất logic, và gần như đúng đắn theo
quan điểm tâm lí học. Có lẽ tôi cũng chẳng ngạc nhiên khi biết rằng phân tâm học,
mà công việc là phát hiện những sức mạnh âm thầm nọ, bản thân nó vì thế trở nên
đáng sợ một cách lạ lùng trước mắt nhiều người”. Dưới sự phát biểu của Freud lại
càng chứng tỏ, không riêng lĩnh vực văn chương mà yếu tố kỳ ảo lại góp phần làm tư
liệu quan trọng trong nghiên cứu của các ngành khoa học khác (như phân tâm học,
tâm lý học,…) về con người, mà mọi ngành khoa học khác điều khám phá, trong đó
điển hình nhất là ngành khoa học văn chương.
Trong truyện, tác giả cố tình xen vào một tình tiết hấp dẫn li kỳ và tác dụng
của nó là vô cùng to lớn mà không một thủ pháp nghệ thuật nào có thể đạt tới. Thủ
pháp đưa yếu tố kỳ ảo vào trong tác phẩm. Để từ đó làm cho câu chuyện càng trở nên
hấp dẫn, rút ngắn được sự gải thích dài dòng đôi khi là dư thừa, không thuyết phục,
làm cho người đọc cảm thấy mơ hồ. Hơn thế, cái kỳ ảo tạo nên một điểm nhấn gây
ấn tượng mạnh cho người đọc. Một ưu điểm nữa là làm cho các sự kiện, tâm lý nhân
vật ở một trạng thái cân bằng tức là phá vỡ đi thế ổn định, lập lại một sự tình khác
biệt hấp dẫn.
Tác phẩm Thiên tình sử của Camaralzama, trong Ngàn lẻ một đêm nhân vật
chính là Camaralzama là người đẹp trai nhất nước, anh là hoàn tử của nước Ba Tư,
bổng nhưng chàng trở nên câm ghét đàn bà khi vua cha sắp cưới vợ cho chàng. Trái
lệnh vua, chàng bị giam trong tòa tháp có thể kéo dài suốt mười năm, đúng lúc ấy có
yếu tố kỳ ảo can thiệp vào. Một nàng tiên tên là Maimoune cùng gặp vị thần Danhash,
chính hai vị thần này đã sắp đặt tình huống để cho cô công chúa bướn bỉnh Trung
Hoa không chịu lấy chồng. Sự tình bất ngờ xuất hiện (cũng là cái kỳ ảo thể hiện vai
trò của mình), họ nằm cạnh nhau khi đang ngủ (từ đó nảy sinh tình cảm). Đây là yếu
tố kỳ ảo_từ cái bất thường đã làm cho câu chuyện trở nên bình thường. Tiếp sau đó
câu chuyện diễn ra theo mạch diễn biến chính của câu truyện một cách logic, Công

22
chúa và Hoàng tử nảy sinh tình cảm, họ tìm cách gặp lại nhau, giành tình cảm ho
nhau để tạo nên một gia đình.
Bắt nguồn từ văn học dân gian, cái huyễn tưởng, huyền ảo trong văn học hay
nói cách khác là việc sử dụng yếu tố kỳ ảo trong sáng tác văn học không phải là phát
minh riêng của thời đại nào hay một môi trường xã hội nào mà nó có mặt mọi lúc
mọi nơi. Trên bình diện thế giới, loại truyện như trong Ngìn lẻ một đêm và truyện
thần thoại kiểu thần thoại Hy Lạp mang đậm yếu tố kỳ ảo, hoang đường là nguồn gốc
cho loại truyện huyễn tưởng thành văn sau này.
Ở Việt Nam, thể loại truyện truyền kỳ gắn với truyện truyền kỳ trong văn học
Trung Quốc. Loại truyện này vẫn ít được nghiên cứu. Sự hình thành và phát triển của
truyền kỳ Việt Nam gắn liền với nền văn hóa dân tộc, đặc biệt là văn hóa dân gian và
văn xuôi lịch sử. Văn hóa dân gian như cái nôi nuôi dưỡng truyện truyền kỳ trong
suốt quá trình phát triển của nó. Và cũng chính văn hóa dân gian đã giúp cho truyện
ngắn trung đại Việt Nam khác với truyện ngắn các nước khác trong cùng khu vực.
Những tư liệu chúng ta có được cho thấy truyện ngắn Việt Nam xuất hiện từ thế kỷ
XIII với Chuyện lạ ở ao Ứng Minh (Ứng Minh trì dị sự) của Vũ Cao và tập truyện
Việt điện u linh tập của Lý Tuế Xuyên (thế kỷ XIV). Trong quá trình hình thành và
phát triển của truyện ngắn trung đại Việt Nam, các nhà văn, đặc biệt là các tác giả
của Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục đã rất có ý thức trong việc phản ánh
những truyện kỳ lạ cũng như việc sử dụng yếu tố kỳ ảo như một hạt nhân tự sự và
một bút pháp nghệ thuật để chuyển tải cách hình tượng những tư tưởng của mình.
Yếu tố kỳ ảo không phải là cái được bổ sung thêm hay phải gạt bỏ đi mới thấy được
giá trị hiện thực của tác phẩm như một số nhà nghiên cứu khẳng định.

1.4.3. Mối quan hệ giữa yếu tố hi


giữ hiệện thực với yếu tố kỳ ảo trong văn
thự
học

Là thể loại văn xuôi độc đáo phản ánh hiện thực qua yếu tố kỳ lạ, kết cấu của
mỗi truyện truyền kỳ thống nhất bởi hai hạt nhân cơ bản: “kỳ” và “thực”. Vai trò của
mỗi yếu tố, sự tác động qua lại của chúng biến thiên qua mỗi giai đoạn cụ thể của sự
phát triển thể loại.
Nhà văn Gogol quan niệm đơn giản rằng: “Những quả lê vàng có thể mọc ra
trên cây lê nhưng không phải trên cây liễu” nghĩa là sự hư cấu, tưởng tượng trong tác

23
phẩm nghệ thuật muốn thu phục tâm cảm người thưởng thức thì bắt buộc phải nắm
vững mối liên hệ của cái được hư cấu, tưởng tượng đó với bản chất của cái thực
trong cuộc sống. Nhà nghiên cứu Lê Nguyên Long cũng nhấn mạnh cái kỳ ảo phải
gắn liền với tính hiện thực và yếu tố kỳ ảo “chỉ tồn tại khi đối diện với nó” trong sự
độc lập giữa những cái siêu nhiên, hư huyễn với thế giới thực tại. Roger Cailois, một
chuyên gia về sáng tác kỳ ảo cũng đã xác định rằng: “Mọi cái kỳ ảo đều là một sự vi
phạm trật tự quen thuộc, một sự đảo lộn của cái không thể tiếp nhận trong lòng
những quy luật bất biến của đời thường” [2, tr16]. Những nhận định trên đã góp phần
cho ta thấy rõ bản chất của cái kỳ ảo, hoang đường đồng thời thể hiện được mối quan
hệ gắn bó của hoang đường và hiện thực- hai khía cạnh tưởng chừng như đối nghịch
nhau và có vẻ như không thể cùng tồn tại song song ấy.
Khi nói đến yếu tố kỳ ảo, ta sẽ nghĩ đến những sự việc không tồn tại, không có
thật, hư ảo, siêu nhiên… còn hiện thực là những phạm trù của cái thực, cái đang tồn
tại xung quanh ta. Hai khía cạnh này có vẻ như không hề ăn nhập gì với nhau và mối
quan hệ của nó tưởng chừng là điều phi lôgic. Song, ở một khía cạnh nào đó, kỳ ảo
và hiện thực vẫn tồn tại gắn bó với nhau, thậm chí đó còn là mối quan hệ mật thiết và
được các nhà văn thể hiện đồng thời trong tác phẩm của mình và việc thể hiện song
song hai yếu tố kỳ ảo và hiện thực góp phần đắc lực vào việc cấu thành tác phẩm.
Cuộc sống đi vào tác phẩm nghệ thuật thường dưới dạng các chi tiết, các chi
tiết này được nhà văn nhào nặn theo trí tưởng tượng của mình và trong chỉnh thể
nghệ thuật ấy, chúng giữ một chức năng nhất định nhưng không tách rời nhau, nó là
một hệ thống nhất quán. Cái kỳ ảo được sử dụng trong tác phẩm cũng không nằm
ngoài quy luật chung đó. Với tư cách là một phương tiện nghệ thuật giúp nhà văn tái
hiện cuộc sống, yếu tố kỳ ảo không những giúp nhà văn lí giải, giải quyết vấn đề theo
cách của mình mà còn cùng với cái thực tạo nên một chỉnh thể hoàn hảo. Trong một
tác phẩm nghệ thuật, hiện thực không phải là bản sao của hiện thực khách quan, vấn
đề này cũng đã từng được nhà văn Balzac, một “bậc thầy về chủ nghĩa hiện thực”
đồng thời cũng là một “bậc thầy của cái kỳ ảo” nói đến: “Sứ mệnh của nghệ thuật
không phải là sao chép tự nhiên mà là biểu hiện nó! Anh chẳng phải là một kẻ ki cóp
tầm thường mà là một nhà thơ! Nếu không thì một nhà điêu khắc chẳng cần đến một
công trình của họ khi đúc khuôn một người đàn bà! Thì đấy, anh hãy thử đúc khuôn
bàn tay tình nương của anh rồi đặt ra trước mắt mà xem, anh sẽ thấy một xác chết

24
kinh khủng chẳng có gì giống cả, và anh sẽ phải đi tìm chiếc đục của người không
sao chép y hệt nó mà biểu hiện cái hoạt động và cái linh hoạt của nó cho anh. Chúng
ta phải nắm lấy tinh thần, linh hồn, diện mạo của mọi sự vật… Một bàn tay không
chỉ lệ thuộc vào thể xác, nó còn biểu hiện và tiếp tục một tư tưởng cần phải nắm và
thực hiện”. Và ông khẳng định: “chân lý văn học là ở chỗ lựa chọn các sự kiện và
tìm cách,nâng chúng lên một quan điểm từ đó mỗi người nhìn vào đều tin chúng là
thật, vì mỗi người đều có một cái thật riêng, và mỗi người đều nhận ra sắc màu của
mình trong sắc màu chung của cái điển hình do nhà tiểu thuyết trình bày” [2; tr13].
Với bậc thầy “của chủ nghĩa hiện thực”, hiện thực không phải là sự sao chép mà
“chân lý” là cái “hồn”, cái bản chất của sự vật , hiện tượng,…Ở một khía cạnh nào đó,
việc sử dụng yếu tố kỳ ảo trong tác phẩm văn chương chưa hẳn là một sự thoát ly
hiện thực, mà đôi khi nó lại phơi bày hiện thực một cách chân thực nhất. Hư ảo và
hiện thực gắn kết, hòa hợp với nhau, cái thực được khẳng định bởi cái ảo và ngược
lại cái ảo được tôn lên bởi cái thực. Hai khía cạnh đó dung hòa lẫn nhau, bổ trợ cho
nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất không những giúp nhà văn thể hiện ý đồ của
mình mà còn nâng hiện thực lên một tầm cao mới. Nó không những không lấn át cái
thực được miêu tả mà sự có mặt của nó góp phần tôn tạo và soi sáng hiện thực, làm
cho tác phẩm xuất hiện một cách mới lạ, hấp dẫn hơn rất nhiều.
Thế kỷ XVI là thời kỳ đất nước mất ổn định về chính trị, sống trong tình trạng
đất nước loạn lạc, xã hội phong kiến thối nát đó đa số các tác phẩm của các nhà văn ,
nhà thơ đều hướng vào hiện thực xã hội để sáng tác. Nguyễn Dữ cũng vậy, tác phẩm
duy nhất của Ông _Truyền kỳ mạn lục phản ánh hiện thực xã hội đương thời.
Chính các sắc thái thẩm mĩ của yếu tố kỳ ảo không hề làm giảm giá trị hiện
thực của tác phẩm mà nó còn cung cấp cho chúng ta cách nhận diện về cuộc sống,
làm gia tăng điểm nhìn nghệ thuật và các chiều tiếp cận hiện thực. Nguyễn Dữ đã có
sự đan xen, lồng ghép giữa kỳ ảo và hiện thực trong cùng một tác phẩm. Khi sử dụng
những chất liệu kỳ ảo như thế đã tạo ra những hiệu ứng phục vụ cho tác giả trong
việc lý giải vấn đề. Ngoài ra, trong phương thức kiến tạo yếu tố kỳ ảo cho tác phẩm
tác giả còn gia giảm, thêm thắt yếu tố kỳ ảo tùy theo mụch đích và dụng ý của mình
khi thể hiện vấn đề.

25
1.5. Giới thi
Giớ thiệệu tác giả, tác ph
giả ẩm
phẩ
1.5.1. Tác giả Nguy
giả Nguyễễn Dữ
Thời kỳ trung đại là thời kỳ đầy sóng gió chiến tranh, nước ta phải liên tiếp
chống lại giặc phương Bắc cùng với sự mất ổn định về chính trị, đó là do sự sa đọa
của những bật quân vương, tranh giành quyền lực dẫn đến sự thay đổi triều đại liên
tục. Dưới sự cai trị hà khắc, xã hội nhiễu nhương ấy, đời sống nhân dân vô cùng khó
khăn, tình cảnh đói khổ, chiến tranh làm cho gia đình ly tán, chết chóc, cùng với
thiên tai, mất mùa triền miên đã đẩy nhân dân vào cảnh tan thương. Vào giữa thời kỳ
trung đại, thế kỷ XV, XVI là giai đoạn Nho giáo bắt đầu suy thoái và Phật giáo, Đạo
giáo bắt đầu hưng khởi với những loại hình trừ tà, chữa bệnh, luyện phép trường
sinh,… có ảnh hưởng khá sâu rộng trong đời sống người dân. Chính những bất ổn về
chính trị và xã hội đó đã ảnh hưởng đến tư tưởng sáng tác của các nhà văn, nhà thơ.
Ngoài những sáng tác về ca ngợi vẽ đẹp non sông, đất nước; ca ngợi lòng yêu nước
và tinh thần tự hào dân tộc còn có những tác phẩm phản ánh sự khủng hoảng, nhiểu
nhương của xã hội đương thời; ca ngợi cuộc sống ẩn dật, thanh cao, thoát ly hiện
thực, tìm đến một thế giới khác mà ở đó con người có cuộc sống đủ đầy, ấm no.
Trước tình cảnh đất nước loạn lạc, chế độ phong kiến thối nát ấy, những người
có tài không được trọng dụng, họ chán nản trước thời thế, hiện thực cuộc sống, một
số nhà trí thức bất mãn trước thời cuộc đã lui về ở ẩn nhưng họ vẫn quan tâm đến thế
sự. Họ có cách nhìn khách quan hơn, không đơn giản phiến diện chỉ ca ngợi những
mặt tốt đẹp của nhà nước phong kiến. Đồng thời, họ gián tiếp mượn chuyện xa xưa,
hoang đường hay những hình ảnh ẩn dụ kín đáo để chỉ trích tình trạng mục rỗng của
xã hội đương thời. Nguyễn Dữ là một trong những nhà trí thức như thế.
Nguyễn Dữ là người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện,
Hải Dương. Ông là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên
hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng
phong Thượng thư. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp
lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ thi Hội
nhiều lần, đạt trúng trường và từng giữ chức vụ Tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới
được một năm thì ông xin từ quan về nuôi dưỡng mẹ già, "trải mấy mươi sương,
chân không bước đến thị thành", ông miệt mài "ghi chép" để gửi gắm ý tưởng của
mình và đã hoàn thành tác phẩm "thiên cổ kỳ bút" Truyền kỳ mạn lục.Chưa rõ

26
Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với thầy học là Nguyễn
Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để
lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Tryền kỳ mạn lục. Truyện
được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra
chữ nôm. Tác phẩm của ông đã vạch trần chế độ phong kiến đen tối, hủ bại; đòi lại
quyền sống của con người; ca ngợi tình yêu cao đẹp, hạnh phúc lứa đôi, hướng con
người đến những điều tốt đẹp tránh những thối xấu và nên tin vào luật nhân quả ở đời.
Với kiệt tác Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ đã đưa con người vào thế giới của
thần tiên tươi đẹp, nơi mà những người hiền, giúp ích cho đời sau khi mất đi sẽ được
đến đó để tận hưởng cuộc sống tốt đẹp còn âm giới, thủy phủ dành cho những kẻ ác
và sống gian dối ở đời. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của thể truyền kỳ, là "thiên cổ
kỳ bút", là "áng văn hay của bậc đại gia", tiêu biểu cho những thành tựu của văn học
hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian.

ượcc về tác ph
1.5.2. Sơ lượ phẩẩm truy
truyềền kỳ mạn lục

Theo những tư liệu được biết cho đến nay, Truyền kỳ mạn lục (傳奇漫錄) là
tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ. Sách gồm hai mươi truyện, chia làm 4 quyển,
được viết theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu
truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát từ truyền thuyết về các vị thần mà
đền thờ hiện vẫn còn (đền thờ Vũ Thị Thiết ở Hà Nam, đền thờ Nhị Khanh ở Hưng
Yên và đền thờ Văn Dĩ Thành ở làng Gối, Hà Nội). Truyện được viết bằng văn xuôi
Hán có xen những bài thơ, ca, từ, biền văn, cuối mỗi truyện (trừ truyện 19 Kim Hoa
thi thoại ký) đều có lời bình thể hiện rõ chính kiến của tác giả. Hầu hết các truyện
xảy ra ở đời Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách
là Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những truyện lạ), hình như tác giả muốn thể
hiện thái độ khiêm tốn của một người chỉ ghi chép truyện cũ. Nhưng căn cứ vào tính
chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là một công trình sưu tập
như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục... mà là một sáng tác văn học với ý
nghĩa đầy đủ của từ này. Đó là một tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển
quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán. Và nguyên nhân
chính của sự xuất hiện một tác phẩm có ý nghĩa thể loại này là nhu cầu phản ánh của
văn học. Trong thế kỷ XVI, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ XV;
27
mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã
hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và
kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân
dân điêu đứng, cơ cực. Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải
những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở
chỗ ghi chép sự tích đời trước. Nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại
văn học. Và Nguyễn Dữ đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây
dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên
truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản
ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ XVI. Trên thực tế thì đằng sau thái độ có phần dè dặt
khiêm tốn, Nguyễn Dữ rất tự hào về tác phẩm của mình, qua đó ông bộc lộ tâm tư,
thể hiện hoài bão; ông đã phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm của mình về những
vấn đề lớn của xã hội, của con người trong khi chế độ phong kiến đang suy thoái.
Trong Truyền kỳ mạn lục, thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài
vật, cây cỏ..., tác phẩm muốn gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không
còn kỷ cương trật tự, hôn quân bạo chúa, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót
đầy triều đình; những kẻ quan cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân
lành, thậm chí đến chiếm đoạt vợ người, bức hại chồng người. Trong một xã hội rối
ren như thế, nhiều tệ nạn thế tất sẽ nảy sinh. Cờ bạc, trộm cắp, tật dịch, ma quỷ
hoành hành, đến Hộ pháp, Long thần cũng trở thành yêu quái, sư sãi, học trò, thương
nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc dục. Kết quả là người dân lương thiện phải sống
trong cảnh lầm than, đau khổ.
Có truyện nói đến quyền sống của con người như tình yêu trai gái, hạnh phúc
lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, có truyện thể hiện đời sống và lý tưởng của sĩ phu ẩn
dật... Nguyễn Dữ đã phản ánh hiện thực mục nát của chế độ phong kiến một cách có
ý thức. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh thần và màu sắc của cuộc sống, phạm vi
phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều vấn đề của xã hội, con người
được đề cập tới. Bất mãn với thời cuộc và bất lực trước hiện trạng, Nguyễn Dữ ẩn dật
và đã thể hiện quan niệm sống của kẻ sĩ lánh đục về trong qua Câu chuyện đối đáp
của người tiều phu trong núi Nưa. Ở ẩn mà nhà văn vẫn quan tâm đến thế sự, vẫn
không quên đời, vẫn nuôi hy vọng ở sự phục hồi của chế độ phong kiến. Tư tưởng
chủ đạo của Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia, ông phơi bày những cái xấu xa của xã

28
hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến,
phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong
tương lai, lên án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần vương", phê phán bọn vua quan
tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm nịnh,
dâm tà, để biểu dương những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung. Tuy nhiên,
Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn thể hiện sự dao
động của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến. Nguyễn Dữ đã có
phần bảo lưu những tư tưởng phi Nho giáo khi phóng tác, truyện dân gian, trong đó
có tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo và chủ yếu là tư tưởng nhân dân. Nguyễn Dữ đã viết
truyền kỳ để ít nhiều có thể thoát ra khỏi khuôn khổ của tư tưởng chính thống để thể
hiện một cách sinh động hiện thực cuộc sống với nhiều yếu tố hoang đường, kỳ lạ.
Ông mượn thuyết pháp của Phật, Đạo, v.v. để lý giải một cách rộng rãi những
vấn đề đặt ra trong cuộc sống với những quan niệm nhân quả, báo ứng, nghiệp
chướng, luân hồi; ông cũng đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng nhân dân khi miêu tả
cảnh cùng cực, đói khổ, khi thể hiện đạo đức, nguyện vọng của nhân dân, khi làm nổi
bật sự đối kháng giai cấp trong xã hội. Cũng chính vì ít nhiều không bị gò bó trong
khuôn khổ khắt khe của hệ ý thức phong kiến và muốn dành cho tư tưởng và tình
cảm của mình một phạm vi rộng rãi, ông hay viết về tình yêu nam nữ. Có những
truyện ca ngợi tình yêu lành mạnh, chung thủy sắt son, thể hiện nhu cầu tình cảm của
các tầng lớp bình dân. Có những truyện yêu đương bất chính, tuy vượt ra ngoài
khuôn khổ lễ giáo nhưng lại phản ánh lối sống đồi bại của nho sĩ trụy lạc, lái buôn
hãnh tiến. Nguyễn Dữ cũng rất táo bạo và phóng túng khi viết về những mối tình si
mê, đắm đuối, sắc dục, thể hiện sự nhượng bộ của tư tưởng nhà nho trước lối sống thị
dân ngày càng phổ biến ở một số đô thị đương thời. Tuy vậy, quan điểm chủ đạo của
Nguyễn Dữ vẫn là bảo vệ lễ giáo, nên ý nghĩa tiến bộ toát ra từ hình tượng nhân vật
thường mâu thuẫn với lý lẽ bảo thủ trong lời bình. Mâu thuẫn này phản ánh mâu
thuẫn trong tư tưởng, tình cảm tác giả, phản ánh sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến
trong tầng lớp nho sĩ trước nhu cầu và lối sống mới của xã hội.
Truyền kỳ mạn lục có giá trị hiện thực vì nó phơi bày những tệ lậu của chế độ
phong kiến và có giá trị nhân đạo vì nó đề cao phẩm giá con người, tỏ niềm thông
cảm với nỗi khổ đau và niềm mơ ước của nhân dân. Truyền kỳ mạn lục còn là tập
truyện có nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân

29
vật. Nó vượt xa những truyện ký lịch sử vốn ít chú trọng đến tính cách và cuộc sống
riêng của nhân vật, và cũng vượt xa truyện cổ dân gian thường ít đi sâu vào nội tâm
nhân vật. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự
sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi,
văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động.
Truyền kỳ mạn lục gồm hai mươi truyện, viết bằng tản văn, xen lẫn biền
văn và thơ ca, mỗi truyện (trừ Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa) đều có lời bình.
Mười chín lời bình được viết rất ngắn gọn, khoảng từ 100 đến 150 chữ. Nội dung cô
đọng và súc tích. Chúng được đặt ở cuối mỗi truyện.
Lời bình_thành phần trữ tình ngoại đề vốn có một giá trị rất đặc biệt để cho
người viết tạt ngang cảm xúc_trực tiếp thể hiện cảm xúc, thái độ của mình về các vấn
đề nội dung_tư tưởng đã được xây dựng trong tác phẩm. Một số lời bình khá dễ hiểu,
song có một số lời bình lại rất khó hiểu. Có lời bình trực tiếp, có lời bình gián tiếp
trên cơ sở liên tưởng đến một nhân vật khác ngoài thế giới nghệ thuật của thiên
truyện có cùng đặc điểm về mặt phẩm chất đạo đức, nhân cách nào đó.
Truyền kỳ mạn lục được viết ra với mục đích “khuyến thiện trừ ác”, bàn về
vấn đề nhân cách, đạo đức của con người trong xã hội đương thời. Vì lẽ đó, Cuộc nói
chuyện thơ ở Kim Hoa hầu như không đề cập tới vấn đề đạo đức nên dễ hiểu là thiên
này không có phần lời bình.
Còn lại mười chín lời bình tập trung bàn về giá trị nhân cách_phẩm chất của
các nhân vật. Từ đó, Nguyễn Dữ muốn đề cao những giá trị đạo đức, nêu cao chủ
nghĩa nhân đạo_một trong những khuynh hướng tư tưởng của Truyền kỳ mạn lục.
Điều này, xét đến cùng là phù hợp với quan điểm của tác giả về các vấn đề được
trình bày trong tác phẩm. Nguyễn Dữ với tư cách một Nho gia, tiếp thu tư tưởng Nho
học với việc đề cao đạo đức của con người, cho nên đấng nam nhi ở đời thì phải học
hành và thi thố để có thể mang tài năng, sức lực phục vụ triều đại phong kiến, phục
vụ nhân dân; phụ nữ thì phải tuân thủ đạo đức lễ giáo phong kiến, công dung ngôn
hạnh,…Vượt qua ngoài những khuôn phép đó thì họ sẽ bị lên án, phê phán. Thái độ
của nhà Nho Nguyễn Dữ trong lời bình cũng theo chiều hướng như vậy.
Hai mươi truyện trong tác phẩm này, trừ truyện Câu Chuyện đối đáp của
người tiều phu núi Na và Chuyện nàng Túy Tiêu, toàn là truyện quỷ thần, yêu quái,
sau từng truyện, phụ thêm một lời bình của tác giả. Trong xã hội cũ những truyện cổ

30
tích lấy ở truyện dân gian như những loại truyện này cũng khá nhiều, lúc đầu chỉ là
khẩu truyền, người kể cũng như người nghe, có khi chỉ là truyện mua vui, nhưng một
khi đã viết ra thành văn, lại xếp đặt có mạch mục, có hệ thống, thì mặc dù hoang
đường, mặc dù có giả tạo phần nào cũng có tác dụng đối với người đọc. Sau đây là
nhận xét về từng truyện trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục:
Câu chuyện ở đền Hạng Vương: Tuy chê chính sách bạo lực của Hạng Vũ
nhưng cũng vạch trần thủ đoạn xảo trá bất phân của Lưu Bang, có thể gọi là một
đoạn sử hình nghiêm khắc, đối chọi với ngòi bút tán tụng của Tư Mã Thiên và cũng
là một bản án buộc tội chung các triều đại phong kiến. Cũng như vậy, trong Câu
chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na và Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang, tác
giả đã công kích họ Hồ phung phí tài lực của nhân dân.
Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu và Chuyện người con gái Nam Xương
đã tả rõ phụ nữ ở xã hội cũ, dù ăn ở thủy chung với chồng thế nào, cũng chịu một
than phận hèn kém: Một đằng vì thua bạc mà gán vợ, một đằng vì ngờ vực hão huyền
để vợ phải quyên sinh, thân phận người phụ nữ thật nhỏ bé, bấp bênh.
Chuyện cây gạo, Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây, Chuyện yêu quái ở Xương Giang
có ý bài xích những thói đắm đuối trong vòng tình dục của bọn thiếu niên.
Chuyện gã Trà đồng giáng sinh và Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào
có ý khuyên răn những thói kiêu mãn của người làm quan hay của học trò.
Chuyện đối tụng ở Long cung và Chuyện chức Phán sự ở đền Tản Viên có ý
bài xích quỷ thần, thần mà cướp vợ người, thần mà giả danh thổ thần để quấy nhiễu
người, không đáng để thờ phụng. Nhưng long hầu hết lòng giúp người, cũng như
Ngô Soạn cương trực không bị ma dọa nạt, rất đáng làm những tấm gương tốt, đến
lúc long cung và âm tào xử kiện, càng rõ bất cứ ở đâu, công lý bao giờ cũng thắng.
Chuyện nghiệp oan của Đào thị vạch trần những hành động bất bình bọn đội
lốt thầy tu.
Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên muốn nói cõi trần đáng chán làm sao, để cho
người đời phải tưởng tượng ra một cõi tiên. Giữa một thế giới ngổn ngang lố nhố
những lợi danh, bỗng dưng dãy núi La Phù lơ lửng lưng trời, mênh mông trên mặt bể
nổi bật lên, lại có những điệu hát nhẹ nhàng của người tiều phu (Câu chuyện đối đáp
của người tiều phu núi Na), những giọng ngâm chìm bỏng của Hồ Sử Sĩ và Viên tú
tài quyến rũ bênh tai người, cảnh huống này thật là “thoát trần một gót tiên thiên, cái

31
thân ngoại vật là tiên trong đời”. Xem kỹ truyện này có thể nói rằng Từ Thức là hiện
thân của Nguyễn Dữ.
Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Trào có ý công kích sự mê tín dị đoan
và diễn tả một thế giới loạn ly hỗn độn. Vì đói thiếu mà hộ pháp phải đi ăn trộm,
quan lại nhũng nhiễu, nhân dân cực khổ, lầm than.
Chuyện nàng Túy Tiêu và Chuyện Lệ Nương diễn tả nông nỗi luân lạc của
người phụ nữ, một đằng vì tên cường quyền chiếm đoạt làm cho rẽ thúy chia loan,
một đằng vì bọn ngoại xâm lăng áp bức, làm cho bình rơi trâm gẫy, nhưng Túy Tiêu
lại trở về được với Nhuận Chi, Lệ Nương cam chịu quyên sinh để trọn nghĩa với Phật
Sinh, càng làm rõ ái tình chân chính không có thế lực nào khuất phục được.
Chuyện Lý tướng quân kể rõ cái tệ hại đục nước béo cò, bọn cường bạo và
bọn phong kiến bao giờ cũng cấu kết với nhau để bóc lột nhân dân.
Truyện Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa, tác giả đã phê bình gần hết các nhà
thơ từ Trần đến Lê, tựu trung chỉ khen một mình Nguyễn Trãi. Tuy bấy giờ quan
niệm quân thần đang được đề cao, nhưng cũng một khía cạnh khác, nhận thấy cái xu
hướng từ chương có phần thiên về hí hước khinh bạc, xem như hai câu thơ nói đùa
Kim Hoa nữ sĩ làm cho bà phải mang hận đến suối vàng, có thể nói là khuyết điểm
của một số nhà thơ.
Chuyện tướng Dạ Xoa, truyện này diễn tả theo hai ý nghĩa: Một là trật tự, kỷ
luật bao giờ và ở đâu cũng cần phải có: một người cương trực chỉ huy cả một bọn ma,
đến nỗi Diêm Vương phải đến để đột xuất một đội quân dạ xoa, vậy cõi đời càng cần
phải có trật tự và kỷ luật. Hai là tham ô nhũng lạm bao giờ và ở đâu cũng không nên
có. Những bọn quan ôn cũng ăn lễ rồi xóa sổ không bắt người và trên đời cũng còn
rất nhiều quan ôn sống. Đây là hai ranh giới, một phe có kỷ luật, một phe phá kỷ luật.
Dưới hình thức những chuyện hoang đường, kỳ ảo, Truyền kỳ mạn lục đã
phản ánh được một phần thực tế xã hội đương thời, tác giả đã vạch trần những điều
xấu xa, thối nát của xã hội phong kiến: bọn vua quan xa hoa, dâm loạn, phung phí tài
lực của nhân dân, bọn phú thương vung vãi tiền bạc để mua khoái lạc vật chất, những
người lợi dụng đạo giáo, những người đắm đuối trong tình dục… Tác giả công kích
những điều mê tín dị đoan, bài kích cả quỷ thần.
Sống vào một triều đại suy loạn, kỷ cương đổ nát, phong hóa suy đồi, Nguyễn
Dữ đã kịch liệt đã kích những cái xấu xa, đề cao đạo đức công lý, dụng ý của tác giả

32
là răn đe người xấu, khích lệ người tốt, do đó hầu hết các truyện trong Truyền kỳ mạn
lục đều có một nội dung giáo dục sâu sắc. Nội dung giáo dục ấy lại được diễn đạt
bằng một lối văn rất giàu sức tưởng tượng qua những yếu tố kỳ ảo, hoang đường.

33
CH ƯƠ
CHƯƠ NG 2: TI
ƯƠNG TIẾẾP CẬN TÁC PH
PHẨẨM TRUY
TRUYỀỀN KỲ MẠN LỤC
QUA CÁC YẾU TỐ KỲ ẢO

truyệện
2.1. Kỳ ảo qua cốt truy

Cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và
nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức của
tác phẩm văn học. Cốt truyện là kết quả sáng tạo nghệ thuật, là tiền đề hình thành nên
thế giới sinh động trong tác phẩm tự sự của các nhà văn.Tuy nhiên, các tác phẩm văn
xuôi tự sự thời trung đại thường sử dụng các cốt truyện có sẵn trong văn học dân gian,
các truyền thuyết tôn giáo và văn học nước ngoài, chủ yếu là văn học Trung Quốc.
Dẫu vậy, các câu chuyện trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục không chỉ là kể lại một
cách sáng tạo những truyện dân gian hay truyện nước ngoài mà tác giả còn sáng tạo
ra những câu chuyện mới, lì kỳ, hấp dẫn với sự kết hợp hai yếu tố kỳ và thực trong
hạt nhân cốt truyện. Nghiên cứu cốt truyện trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ,
chúng tôi nhận thấy yếu tố kỳ ảo đóng một vai trò quan trọng trong việc tổ chức cốt
truyện, yếu tố kỳ ảo đóng vai trò song hành cùng cốt truyện, được tác giả lồng ghép
vào cốt truyện một cách có ý thức, tạo nên một kiểu đan lồng giữa thực và ảo.
Truyện truyền kỳ nói chung và truyện Truyền kỳ mạn lục nói riêng hấp dẫn
người đọc bởi những tình tiết hoang đường, kỳ ảo do trí tưởng tượng của con người
sáng tạo ra. Kỳ ảo tức là những chuyện lạ không có thật, vì vậy cốt truyện gắn liền
với yếu tố kỳ ảo là cốt truyện hư cấu. Chúng tôi xin điểm lại một số mô típ kỳ lạ
được các tác giả sử dụng để xây dựng cốt truyện về yếu tố kỳ ảo tập truyền kỳ này.

truyệện nh
2.1.1. Cốt truy ân vật lạc bướ
nhâ ướcc đế
đếnn cõi lạ

Trong Truyền kỳ mạn lục có nhiều truyện xuất hiện kiểu nhân vật lạc bước đến
cõi lạ. Thế giới ma quỷ vốn là thế tồn tại song song nhưng cách biệt với thế giới con
người. Vì vậy, để con người đến được với thế giới ma quỷ, các tác giả thường sử
dụng mô típ dân gian người trần xuống thủy phủ hoặc người trần xuống âm phủ. Mô
típ người trần xuống âm phủ xuất hiện trong truyện: Chuyện đối tụng ở Long Cung,
sau khi vợ bị yêu quái là giống thủy tộc bắt đi. Trịnh kết bạn với Long Hầu, được

34
Long Hầu rẽ nước cho đi xuống Long cung. Mô típ người trần xuống âm phủ còn
xuất hiện trong một số truyện khác trong Truyền kỳ mạn lục. Nói chung, những sự lạc
bước này đều có nguyên cớ và đưa nhân vật đến một miền không gian xa lạ với cõi
trần, Ngô Tử Văn (Chuyện chức Phán sự ở đền Tản Viên), phú thương họ Hoàng
(Chuyện yêu quái ở Xương Giang) và Lý Hữu Chi (Chuyện Lý tướng quân) bị hồn
ma kiện dưới âm phủ nên bị bắt xuống âm phủ để xét xử, Lý Thúc Khoản được một
người bạn là phán quan đưa xuống âm phủ xem cảnh xét xử của cha mình.
Ngoài ra còn nhiều truyện trong Truyền kỳ mạn lục, nhân vật lạc vào cõi tiên
(bao gồm kiểu nhân vật kỳ lạ lạc cõi bồng lai tiên cảnh, cõi trời, cõi Phật, cõi mơ,
chốn đào nguyên). Trong Truyền kỳ mạn lục có nhiều truyện xuất hiện kiểu nhân vật
lạc bước đến cõi lạ như thư sinh Hà Nhân quên cả học hành, sống với hồn hoa nàng
Đào nàng Liễu ở Trại Tây, khi tỉnh táo trở lại chỉ thấy mấy loài hoa nơi vườn hoang
(Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây). Một người như Tri huyện Từ Thức bỏ việc quan dạo
chơi khắp chốn non nước, sau lạc động tiên ở núi Phù Lai, kết duyên cùng tiên nữ
Gíang Hương, khi trở về quê cũ thì đã qua hơn 80 năm (Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên).
Tiếp đến chàng thư sinh Phạm Tử Hư lại chờ có thầy Dương Trạm làm quan ở cõi
âm mà được dẫn lên chơi Thiên Tào (Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào).
NàngVũ Thị Thiết gieo mình xuống sông, may được các chư tiên cứu thoát, cho sống
cõi Thủy Cung (Chuyện người con gái Nam Xương). … Nói chung, những sự lạc
bước này đều có nguyên cớ và đưa nhân vật tới một miền không gian xa lạ với cõi
trần, có thể thoát tục đến cõi tiên, có thể lên tiên giới hay đọa xuống địa ngục. Tất cả
phụ thuộc vào căn duyên của chính nhân vật và cũng có lối kết thúc tương đồng với
kiểu truyện dân gian “thiện thắng ác, chính thắng gian tà”, “ác giả ác báo” và bài
học “ khuyến thiện trừng ác”, hướng đến răn dạy đạo đức con người.

truyệện về gi
2.1.2. Cốt truy ấc mơ
giấ

Một cách khác để con người gặp gỡ ma quái là mô típ giấc mơ: Tử Văn thấy
hồn ma viên Bách hộ họ Thôi trong cơn sốt (Chuyện chức phán sự đền Tản Viên).
Trên phương diện cốt truyện, sự xuất hiện của những nhân vật này đồng thời cũng là
sự khởi đầu cho các biến cố và khi các nhân vật rút lui (biến mất, bị trừng phạt, lật
tẩy…) cũng là lúc câu chuyện kết thúc.

35
Tương đồng với truyện dân gian, mô típ giấc mơ xuất hiện không nhiều nhưng
lại rất tiêu biểu cho việc tạo dựng cốt truyện trong Truyền kỳ mạn lục. Đó là việc Hồ
Tôn Thốc đi sứ Trung Quốc, ngày đề thơ ở đền Hạng Vương, tối về nhà trọ mơ thấy
đến cung điện Hạng Vương rồi cùng nhau tranh luận về nhân nghĩa, thời thế, cho đến
đoạn kết: “Rồi đó canh tàn trà cạn, ông đứng dậy từ giã xin về. Hạng Vương đưa
chân ra đến cửa thì phương Đông đã gần rạng sáng. Ông xốc áo vùng dậy, té ra là
một giấc chiêm bao, bèn mua rựu và nem bày một lễ cúng ở đầu thuyền trước khi rời
khỏi đấy” [21; 18], có viên quan họ Hoàng đời Lê lấy nhầm phải yêu ma nên hóa
điên, được đạo sĩ chữa khỏi, sau nằm mơ bị hai tên lính bắt đến cung điện Diêm
Vương rồi bị trách phạt: “Bỏ hết cương thường, theo đường tà dục, giảm thọ một kỷ”,
“Lại sai hai tên lính đưa Hoàng về nhà. Hoàng vương vai bừng tỉnh, mồ hôi toát ra
đầy mình” (Chuyện yêu quái ở Xương Giang); có học trò Mao Tử Biên vừa đi lạc vào
nơi âm thất nữ sĩ Ngô Chi Lan vừa nằm mơ được dự cuộc bình văn, đến khi mặt trời
đã mọc, chàng ngồi vùng dậy, “hóa ra thấy mình nằm trên cỏ, áo đầm những sương,
chỉ có đông tây hai ngôi mộ nhà ai nằm đó” (Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa)… Rõ
ràng giấc mơ chỉ là hoạt động của trí tưởng tượng nhưng diễn biến những sự kiện,
hoạt động, đối thoại trong giấc mơ lại tạo nên tuyến cốt truyện và có ý nghĩa hiện
thực sâu sắc. Xét về hình thức, mô típ giấc mơ cũng từng xuất hiện trong tác phẩm
Thiền uyển tập anh (1337) như “thụ thai nhờ giấc mơ”, “giấc mơ đóng vai trò tiên tri,
dự báo”, “mơ gặp người trời cho thuốc và gặp nhân thần”, “mơ cầm dao tự mổ bụng
lôi ruột ra rửa”,… Ở đây có sự khác biệt to lớn, nếu trong Thiền uyển tập anh giấc
mơ chỉ được kể lại vắn tắt, khái quát, sơ lược thì ở Truyền kỳ mạn lục lại là phần nội
dung cơ bản, bao quát toàn bộ diễn biễn cố truyện và hoạt động của nhân vật. Điều
này cho thấy mô tip giấc mơ trong Thiền uyển tập anh còn khá gần với lối kể trong
truyện dân gian thì đến Truyền kỳ mạn lục đã được sử dụng như một thủ pháp nghệ
thuật, nghĩ là giấc mơ đã “có nội dung”, bản thân giấc mơ đã trở thành cốt truyện,
đồng nhất với cốt truyện. Như vậy nội dung giấc mơ đã là một cốt truyện nhỏ nằm
trong cấu trúc cốt truyện trước và sau khi xảy ra giấc mơ. Đến khi nhân vật tỉnh
mộng, thoát khỏi ảo mộng và trở lại cuộc sống thực tại cũng là khi chấm dứt một
phần quan trọng của toàn bộ nội dung thiên truyện.

36
truyệện xử ki
2.1.3. Cốt truy kiệện, gi
giảải oan và đấu tranh dướ
đấu ướii âm phủ hay ti
phủ tiêên
giới
giớ

Một loại cốt truyện khác được triển khai trên cơ sở nhân vật chủ động tìm
đường lên thiên giới hay xuống cõi âm để đấu tranh cho lẽ phải, thuộc kiểu chủ đề
“truyện phán xử” trong truyện cổ tích.
Một số nhân vật phải xuống tận âm ti hoặc thủy phủ để đấu tranh cho lẽ phải,
vạch trần bản chất của giống ma quái. Thái thú họ Trịnh nhờ Long Hầu đưa xuống
Thủy cung kiện thần Thuồng luồng và đòi được vợ về (Chuyện đối tụng ở Long
cung). Mô hình cốt truyện này được xây dựng tương đồng như việc Ngô Tử Văn đốt
đền viên Bách hộ họ Thôi, đấu tranh dưới cõi âm và thắng kiện, sau khi chết được bổ
làm quan (Chuyện chức phán sự đền Tản Viên). Cuộc đấu tranh thường diễn ra quyết
liệt, căng thẳng (trừ Chuyện yêu quái ở Xương Giang) và phải sai người lấy chứng
thực (lời khai của Thổ thần bị chiếm đồn và lời khai của Dương thị người bị thần
Thuồng luồng bắt làm vợ) mới vạch rõ được sự giả dối và tội ác của giống ma quái.
Trong những cuộc đấu tranh này, phần thắng luôn thuộc về con người. Nhân vật
đứng ra xét xử trong những sự kiện này thường là vua. Đó có thể là Diêm Vương của
chốn âm ti, Long Vương dưới thủy cung, và cũng có thể là vua trên mặt đất. Do chủ
đề “truyện phán xử” qui định nên cốt truyện thường được triển khai từ những xung
đột, mâu thuẫn và cần viện dẫn đến lực lượng siêu nhiên khả dĩ có thể giải quyết
được mọi sự chính - tà, phải - trái, đúng - sai. Hình thức xử kiện trong Chuyện cái
chùa hoang ở Đông Triều có sự biến dạng đôi chút. Quan huyện Văn Tư Lập đã tìm
đủ mọi cách để xét ra kẻ gian từ canh phòng cẩn mật đến mời thầy phù thủy xin bùa
yểm trấn mà sự quấy nhiễu càng tệ hơn trước. Cuối cùng, vô tình người thợ săn phát
hiện ra được bọn trộm cướp là ba pho tượng Hộ pháp trong chùa hoang và miếu
Thủy thần. Những truyện được xây dựng dựa trên mô típ này thường rất li kỳ, hấp
dẫn, kịch tính, có phần mở đầu, phát triển đến cao trào và phần mở nút (sự thật được
làm rõ, vụ kiện được xét xử). Đây một thành công lớn về mặt xây dựng cốt truyện
của tập truyền kỳ này, đưa văn xuôi tự sự Việt Nam thoát khỏi ảnh hưởng của văn
học dân gian và bút pháp viết sử mà đi vào quỹ đạo văn học nghệ thuật.

37
truyệện di
2.1.4. Cốt truy diệệt tr
trừừ yêu qu
quáái

Kết thúc truyện, đa số các nhân vật ma quái đều bị diệt trừ. Đó là mô típ diệt
trừ yêu quái. Lực lượng diệt trừ yêu quái có thể là đạo nhân (Chuyện cây gạo), thầy
thuốc (Chuyện yêu quái ở Xương Giang) hay nhà sư (Chuyện nghiệp oan của Đào
thị). Kết thúc của hai nhân vật Liễu Nhu Nương, Đào Hồng Nương không theo mô
típ này mà theo mô típ thác hóa: đến kỳ về đã định, hai nàng hóa thành những cánh
hoa bay về trời.
Nguồn gốc đầu tiên của truyền kỳ là những câu chuyện kỳ lạ lưu truyền trong
dân gian được các nhà nho ghi chép lại và phóng tác thêm. Vì vậy, trong mỗi truyện
truyền kỳ thường chứa một hoặc vài cốt truyện hay các mô típ của truyện kể dân gian.
Tác giả Truyền kỳ mạn lục đôi khi cũng vay mượn thêm những mô típ trong các sự
tích Phật giáo, Đạo giáo. Tuy nhiên tất cả đều được Nguyễn Dữ vận dụng một cách
hợp lí, khéo léo sáng tạo trong tác phẩm của mình tạo ra những cốt truyện đầy màu
sắc kỳ lạ.
Nếu các thiên truyện trên thường có cốt truyện đơn tuyến, một chiều thì ở một
số truyện khác lại có hiện tượng nối dài, đan xen nhiều cốt truyện, nhiều sự lạc bước,
nhiều khoảng thời gian và không gian, nhiều kiếp người và hiện thân ma quỷ. Trong
Chuyện gã Trà đồng giáng sinh có đến 4 lớp truyện. Thứ nhất là lớp truyện Dương
Tạc khi hôn mê đã tới Phong Đô dưới cõi âm, nhờ trước đây làm nhiều điều thiện
nên được tha về sống thêm 24 năm, có con trai là Thiên Tích. Thứ hai là lớp truyện
Thiên Tích lấy nàng Hán Anh vốn do linh hồn cha nàng xếp đặt, sau đỗ đạt và làm
quan to trong triều. Thứ ba là lớp truyện Thiên Tích gặp đạo sĩ rồi nhân ra kiếp trước
mình từng là gã trà đồng hầu Thượng đế trên cõi tiên. Thứ tư là lớp truyện Thiên
Tích đi về phương Nam gặp hàng trăm ma quái, phải đốt hương mời gọi đạo sĩ tới
đánh dẹp, sau vào núi Đông Thành tu tiên… Tiếp đến Chuyện nghiệp oan của Đào
thị cũng có 4 lớp truyện. Thứ nhất truyện danh kỹ Hàn Than được tuyển làm cung
nhân, sua khi vua mất bị thải ra ngoài đường rồi mắc oán thù với nhà quan Hành
Khiển Ngụy Nhược Chân. Thứ hai là lớp truyện Hàn Than trốn đến tu ở chùa Phật
Tích, sau bị cậu học trò làm thơ châm biếm, tố cáo. Thứ ba là lớp truyện Hàn Than
trốn đến chùa Lệ Kỳ gặp sư bác Vô Kỷ, cả hai ăn ở với nhau rồi lần lượt cùng bị chết.
Thứ tư là lớp truyện Hàn Than và sư Vô Kỷ háo yêu quái thác thái làm con nhà Ngụy

38
Nhược Chân nhưng rồi bị sư thầy Pháp Vân dùng bùa phép trừ diệt. Như vậy, mỗi
khi nảy sinh biến cố, sự kiện thì hoàn cảnh, nhân vật, không gian, thời gian đều thay
đổi và hình thành lớp truyện mới. Các lớp truyện này có tính độc lập tương đối, thậm
chí với những lớp truyện điển hình nhất đã có thể tồn tại như một thiên truyện độc
lập. Chẳng hạn, ở Chuyện gã Trà đồng giáng sinh, cả lớp truyện thứ nhất và thứ ba
đều có cơ sở trở thành một thiên truyện độc lập; ở Chuyện nghiệp oan của Đào Thị,
chỉ riêng lớp truyện thứ tư cũng đủ làm thành nội dung mô típ truyện truyền kỳ hoàn
chỉnh. Nhìn trên tổng thể, mức độ các lớp truyện nối tiếp nhau một cách chặt chẽ hay
cơ giới, đồng tuyến hay có sự gián đoạn, tất cả phụ thuộc vào điểm chuyển tiếp, tính
thống nhất hay khác biệt của biến cố, hoàn cảnh, nhân vật, không gian, thời gian.
Ngoài ra, còn nhiều loại cốt truyện thể hiện yếu tố kỳ ảo trong Truyền kỳ mạn
lục: Cốt truyện về người chết đi sống lại: Khi đi xuống âm phủ linh hồn những nhân
vật này tạm thời rời khỏi thể xác, sau chuyến “chu du”, chúng lại trở về. Những cuộc
du ngoạn này thường kéo dài một vài ngày. Ngô Tử Văn, sau cuộc đấu tranh ở Minh
ti, về đến nhà mới “té ra mình đã chết được hai ngày rồi”, Lý Thúc Khoản xem xong
cảnh cha mình bị xét xử, giật mình tỉnh dậy thì “thấy người nhà đương ngồi chung
quanh mà khóc, nói mình đã chết hai ngày rồi”.
Cốt truyện người gặp gỡ và ân ái với ma quái: Một mô típ rất phổ biến trong
những câu chuyện ma quái trong hai tập truyện là mô típ người gặp gỡ và ân ái với
ma quái. Mô típ này có lẽ được phát triển từ mô típ “duyên kỳ ngộ” trong văn học
dân gian. Trong mô típ này, ma quái thường hóa thành những cô gái xinh đẹp quyến
rũ nhân vật người là các chàng trai (Chuyện cây gạo, Chuyện yêu quái ở Xương
Giang, Chuyện kì ngộ ở trại Tây…).
Cốt truyện hồn ma báo oán: Gắn liền với hành động của nhân vật ma quái là
các mô típ hồn ma báo oán. Cái nạn Ô Tôn mà Dương Thiên Tích gặp phải là do hồn
ma những người đã chết dưới tay ông hiện về trả thù (Chuyện gã Trà Đồng giáng
sinh). Hồn ma Thị Nghi (Chuyện yêu quái ở Xương Giang) hưng yêu tác quái cũng
để trả thù cho cái chết oan uổng của mình. Mô típ hồn ma báo oán trong Chuyện
nghiệp oan của Đào thị còn kết hợp với một mô típ kỳ ảo khác: mô típ đầu thai
chuyển kiếp trong sách vở nhà Phật và thụ thai thần kỳ, sinh nở kỳ lạ trong truyện cổ
dân gian. Hàn Than và Vô Kỷ sau khi chết đã đầu thai vào nhà Ngụy Nhược Chân.

39
Vợ Nhược Chân nằm mơ thấy hai con rắn cắn vào mạng sườn ở nách bên tả rồi có
mang sinh được hai con trai mới một tuổi đã biết nói lên tám tuổi đã biết làm văn.
Cốt truyện về nhân vật ở xứ lạ đến cõi trần rồi dụ dỗ, mê hoặc người phàm:
Trong xu thế có phần ngược lại kiểu cốt truyện được xây dựng trên cơ sở “người lạc
cõi tiên”, ở một vài truyện lại có hiện tượng nhân vật ở xứ lạ đến cõi trần rồi dụ dỗ,
mê hoặc người phàm trần. Có anh lái buôn Trình Trung Ngộ bị hồn ma Nhị Khanh
theo đuổi, bắt phải chết theo làm yêu quái, sau phải nhờ đạo sĩ yểm bùa mới trị được
(Chuyện cây gạo). Chàng nho sinh Hà Nhân (Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây) bị hai hồn
hoa quyến rũ mê mải trong cuộc ân ái ở trại Tây. Có khi pho tượng Hộ pháp trong
chùa và tượng đất sét trong miếu Thủy thần lại hóa thành yêu tà, trộm cắp, chuyên
hoành hành chúng dân, bắt trộm cá trong ao, bẻ mía trong vườn (Chuyện ngôi chùa
hoang ở huyện Đông Triều). Có khi những con cáo, con vượn cũng hóa làm người
rồi cùng tranh luận thế sự cổ kim với tướng Hồ Qúy Ly (Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà
Giang). Trên phương diện cốt truyện, sự xuất hiện của những nhân vật này đồng thời
cũng là sự khởi đầu cho các biến cố, sự kiện và khi các nhận vật rút lui (biến mất, bị
đánh dẹp, trừng phạt, lật tẩy…) cũng là khi kết thúc câu chuyện.
Nếu chỉ xét định lượng mô hình cốt truyện thì Truyền kỳ mạn lục có khung
hình thức tương đồng với truyện dân gian, khởi đầu bằng biến cố, tiếp đến là diễn
biến sự kiện và kết thúc bằng việc hóa giải các mâu thuẫn. Tuy nhiên khi đi sâu phân
tích, bình luận, định tính nội dung của cốt truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục có 5
phương diện khác biệt cơ bản so với hệ thống cốt truyện dân gian.
Thứ nhất, Truyền kỳ mạn lục thuộc bộ phận văn học viết, có chủ thể sáng tạo
là Nguyễn Dữ, có sự phân chia thành quyển, tập, được đặt trong một cấu trúc riêng,
có thứ tự, lớp lang, hệ thống. Nhà nghiên cứu Trần Nghĩa đã khu biệt và nhấn mạnh
sự khác biệt giữa hai kiểu sáng tác này: “Truyền kỳ mạn lục gồm 4 quyển, 20 truyện,
tiêu đề của mỗi truyện đều mang từ “ký”, “truyện” hoặc “lục”. Mỗi từ “ký”,
“truyện”, “lục” đều mang nét nghĩa “ghi chép”; ở góc độ tâm lý, nét nghĩa này
phản ánh sự khiêm tốn của tác giả coi công việc của mình chỉ là sự ghi chép những
câu chuyện có nguồn gốc trong dân gian. Nhưng sự thực đây không phải một sưu tập
truyện cũ mà là một sáng tác được người xưa đánh giá là Thiên cổ kỳ bút” …
Thứ hai, khác với tính phiếm chỉ trong truyện dân gian, Truyền kỳ mạn lục gia
tăng tính xác thực và nội dung hiện thực của cốt truyện bằng việc biên chép rõ danh

40
tính, quê quán, tuổi tác, nghề nghiệp của nhân vật và thời gian, địa điểm xảy ra sự
kiện. Trong số các nhân vật này có nhiều người là nhân vật lịch sử, được ghi chép
trong chính sử như Hồ Tông Thốc, Hạng Vương, Nguyễn Trung Ngạn, Trần Phế Đế,
Hồ Qúy Ly, Ngô Chi Lan,… Có thể nói các nhân vật lịch sử này thường chỉ đóng vai
trò “chiếc đinh” nhưng treo vào đó không phải là thực tại đời thường mà là những
câu chuyện hư ảo, thần tiên, ma quái. Thủ pháp đan xen, pha tạp giữa thực và ảo, tỉnh
và mơ, sinh và tử, người và ma, trần gian và tiên cảnh… đã tạo nên một không- thời
gian đặc trưng của thể loại truyện truyền kỳ, phản ánh trí tưởng tượng và sức sáng
tạo nghệ thuật đặc biệt phong phú của Nguyễn Dữ.
Thứ ba, khác với các biến cố làm nên sự vận động của thế giới nhân vật và cốt
truyện trong truyện dân gian thường có sự tham dự, tác động của lực lượng siêu
nhiên (trời, bụt, thần, tiên, ma, quỷ, phù thủy, đạo sĩ,…), các nhân vật trong Truyền
kỳ mạn lục trước hết là con người, sau đó mới tham dự hoặc tự biến mình trở thành
nhân vật siêu nhiên, đồng đẳng với các nhân vật siêu nhiên, giữ vai trò chủ động để
tự mình lam nên sự kiện và cốt truyện giữa thế giới kỳ ảo. Sự khác biệt này xác định
vai trò của chủ thể sáng tạo và khả năng hư cấu của Nguyễn Dữ với cách người chủ
sở hữu văn bản nghệ thuật thuộc loại hình văn học viết.
Thứ tư, Nguyễn Dữ đã gia tăng các lời đối thoại và độc thoại, chuyển hóa lời
kể chuyện trong truyện dân gian thành lời đối thoại tham dự vào biến cố, lời đối thoại
mang tích sự kiện, lời đối thoại mang tính cốt truyện và biểu lộ rõ tính cách nhân vật.
Trong một chừng mực nhất định ngôn ngữ đối thoại ở nhiều nhân vật đã được cá tính
hóa; chẳng hạn lớp từ đối thoại giữa Hồ Tông Thốc và Hạng Vương đều thiên về
giọng điệu quan phương, thuyết lý, chính luận (Câu chuyện ở đền Hạng Vương),
những lớp từ độc thoại của Dương Tạc, lời đối thoại của Thiên Tích với vợ, lời đàm
đạo của Thiên Tích với đạo sĩ đều phù hợp với tính cách nhân vật và tính sinh động,
đa dạng của kiểu truyện bao gồm nhiều lớp cốt truyện. Thêm nữa, khả năng gia tăng
lớp từ ngữ đời thường trong câu đối thoại cũng khiến các thiên truyện trở nên giàu
màu sắc hiện thực, góp phần dẫn dắt người đọc tin theo một thế giới hư ảo, bịa như
thực, “nửa tin nửa ngờ”, “có có không không”…
Thứ năm, Nguyễn Dữ chủ ý gia tăng các bài ca từ, văn tế, thơ trường thiên,
thơ Đường luật và tạo nên hiện tượng hỗn dung thể loại trong Truyền kỳ mạn lục. So
với truyện dân gian đôi khi cũng xuất hiện lời ca (chủ yếu là ca dao) thì Truyền kỳ

41
mạn lục lại đan xen lưu giữ nhiều tác phẩm thi ca gắn với từng nhân vật cụ thể. Rất
khó tách bạch đâu là bài thơ do Nguyễn Dữ sáng tạo rồi đặt vào lời nhân vật và đâu
những bài do ông sưu tập, chỉnh lý rồi gán ghép cho nhân vật. Điều này góp phần tạo
nên tính chất đa giọng điệu của Truyền kỳ mạn lục nói riêng và văn xuôi dưới thời
trung đại nói chung.
Từ sự khảo sát trên có thể thấy tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ
vừa có sự tương đồng vừa có sự tiếp nối, phát triển trên nền tảng kiểu thức xây dựng
cốt truyện dân gian. Đặt trong mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết
dưới thời trung đại, hiện tượng Truyền kỳ mạn lục dường như là minh chứng xác
đáng cho xu thế hóa vai trò chủ thể nhà văn và nằm trong cộng đồng sáng tạo nghệ
thuật đã được nhà nghiên cứu Lê Kinh Khiên đúc kết: “Xác định cái riêng, cái, cái
độc đáo của mỗi tác giả trong việc sử dụng, cải biên, đồng hóa chất liệu dân gian và
hiệu quả tư tưởng – thẩm mĩ của sự sáng tạo đó. Đây là một phương diện cá tính và
bản lĩnh nghệ thuật của tác giả. Từ đó có thể nói đến những bài học cụ thể trong việc
tiếp thu, vận dụng kinh nghiệm nghệ thuật dân gian vào việc sáng tạo nền văn học
mới” [11; tr79]. Hệ thống truyện trong Truyền kỳ mạn lục của thự sự có tính tương
đồng với truyện dân gian, phản ánh trí tưởng tượng kỳ diệu của Nguyễn Dữ trong
một thể loại độc đáo có tên gọi truyền kỳ, góp phần quan trọng vào quá trình phát
triển nền văn xuôi dân tộc dưới thời trung đại.

tuyếến nh
2.2. Kỳ ảo qua tuy ân vật
nhâ
2.2.1. Các dạng nh
nhâ Truyềền kỳ mạn lục
ân vật trong Truy

Nhân vật là một yếu tố thuộc về hình thức tác phẩm, là hạc nhân trung tâm để
quy tụ, liên kết tất cả các yếu tố hình thức khác. Vì là một phương diện của hình thức
mà chức năng của hình thức là bộc lộ nội dung chủ đề và tư tưởng của tác phẩm, nên
có thể nói nhân vật là một phương diện quan trọng nhất để nhà văn thể hiện nội dung,
tư tưởng của mình, nhân vật là hình thức cơ bản để qua đó tác phẩm miêu tả thế giới
một cách hình tượng. “Chức năng của nhân vật là khái quát những quy luật của cuộc
sống con người, thể hiện những hiểu biết, những ước ao và kỳ vọng về con người”.
Nhà văn sáng tạo nhân vật là để thể hiện những cá nhân xã hôi nhất định và quan
niệm về các cá nhân đó. Vì vậy, nhân vật có vai trò hết sức quan trọng trong một tác
phẩm văn học, không có nhân vật thì không có tác phẩm văn học. Nó được xem là

42
“linh hồn” của tác phẩm, “là người dẫn dắt độc giả vào các thế giới khác nhau của
đời sống”.
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ có số lượng nhân vật đông đảo, đa dạng và
phân tuyến rõ ràng. Căn cứ vào dạng thức tồn tại của nhân vật ta thấy ở loại truyện
này nhân vật rất đa dạng và tồn tại ở hai dạng chính: Nhân vật con người và lực
lượng thần kỳ. Ở mỗi loại nhân vật này được phân thành hai tuyến rõ ràng: Chính
diện (thiện) và phản diện (ác).
Hệ thống nhân vật trong Truyền kỳ mạn lục:

Tên truyện Nhân vật con người Lực lượng thần kỳ

Chính diện Phản diện Chính diện Phản diện


(thiện) (ác) (thiện) (ác)
Câu chuyện ở đền Quan thừa chỉ Hạng Vương,
Hạng Vương Hồ Tôn Thốc lão thần họ
Phạm
Chuyện người Nhị Khanh, Trọng Quỳ, Thượng đế,
nghĩa phụ ở Khoái người bố già Đỗ Tam hồn ma Nhị
Châu Khanh
Chuyện cây gạo Trình Trung Đạo nhân Hồn ma
Ngộ Nhị Khanh
Chuyện gã Trà Dương Đức Thượng đế, Ma quái
đồng giáng sinh Công, Dương đạo sĩ
Thiên Tích,
Hán Anh
Chuyện kỳ ngộ ở Hà Nhân Đạo sĩ Đào, Liễu,
trại Tây đôi giày hạt
cườm
Chuyện đối tụng ở Quan thái thú Bạch Long Thần
Long cung họ Trịnh, hầu, Long Thuồng
Dương thị Vương, gậy Luồng
thần

43
Chuyện nghiệp oan Đào Hàn Sư Pháp Vân Hai con rắn
của Đào thị Than, Vô Long Thúc
Kỷ, Ngụy và Long
Nhược Chân Quý
Chuyện chức Phán Ngô Tử Văn Thổ thần, Quỷ Dạ
sự đền Tản Viên Diêm Vương Xoa
Chuyện Từ Thức Từ Thức Kim tiên,
lấy vợ tiên Giáng Hương
Chuyện Phạm Tử Phạm Tử Hư Hồn ma
Hư lên chơi Thiên Dương Trạm,
tào Thượng đế
Chuyện yêu quái ở Viên quan họ Thần y, Hồn ma
Xương Giang Hoàng Diêm Vương Thị Nghi
Câu chuyện đối đáp Người tiều phu Hạc đen
của người tiều phu núi Na, quan
núi Na hầu Trương
Công
Chuyện cái chùa Văn Tư Lập, Thủy thần,
hoang ở huyện Vương tiên hộ pháp
Đông Trào sinh
Chuyện nàng Túy Dư Nhuận Quan Trụ Chim yểng
Tiêu Chi, quốc họ
Túy Tiêu Thân
Chuyện bữa tiệc Vua Trần Phế Cáo, vượn
đêm ở Đà Giang Đế,
tướng
Quý Ly
Chuyện người con Vũ Thị Thiết, Trương Sinh Linh Phi
gái Nam Xương mẹ Trương
Sinh
Chuyện Lý Tướng Lý Thúc Lý Hữu Chi Hồn Nguyễn Quỷ sứ
Quân Khoản Quỳ, chùm hạt

44
châu
Chuyện Lệ Nương Lệ Nương, Tướng giặc Diêm Vương,
Phật Sinh Lã Nghị hồn ma Lệ
Nương

Cuộc nói chuyện Mao Tử Biên Hồn ma vợ


thơ ở Kim Hoa chồng quan
giáo thụ họ
Phù
Chuyện tướng Dạ Văn Dĩ Thành Sứ giả, Diêm Bọn ma
Xoa Vương, quỷ
Thượng đế

Điểm làm nên sức hấp dẫn cho tác phẩm Truyền kỳ mạn lục là yếu tố kỳ ảo,
hoang đường và yếu tố ấy được biểu hiện khá cụ thể qua tuyến nhân vật thần kỳ và
ma quái. Qua bản phân loại trên ta thấy lực lượng ma quái, thần kỳ chiếm số lượng
khá lớn trong các truyện và chính yếu tố ấy tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm.

2.2.2. Nhân vật ma qu


Nhâ ái, th
quá thầần kỳ

Văn học Việt Nam thời trung đại một mặt kế thừa các giá trị tinh thần thiêng
liêng trong văn học dân gian, mặt khác phản ánh toàn diện tư duy, quan niệm của con
người Việt Nam trong suốt mười thế kỷ tồn tại xã hội phong kiến. Trong từng giai
đoạn khác nhau, quan niệm của các tác giả về con người cũng khác nhau. Tác phẩm
Truyền kỳ mạn lục thuộc giai đoạn đầu của văn học trung đại Việt Nam, khi tư tưởng
Nho giáo còn chi phối khá lớn đến tư tưởng của các tác giả nên cách thức xây dựng
và quan niệm về nhân vật thần kỳ và ma quái của họ sẽ có những khác biệt nhất định
so với truyện truyền kỳ giai đoạn sau và các thể loại ra đời muộn hơn.
Loại nhân vật này xuất hiện dưới những hình thức tên gọi khác nhau như ma,
hồn ma, linh hồn (Chuyện cây gạo, Chuyện yêu quái ở Xương Giang), quỷ (Chuyện
tướng Dạ Xoa, Chuyện gã Trà Đồng giáng sinh), quỷ sứ (Chuyện Lý tướng quân,
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên), yêu quái (Chuyện nghiệp oan của Đào thị,
Chuyện cái chùa hoang ở Đông Triều), hồn hoa (Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây)…
45
Trong Truyền kỳ mạn lục có 11/20 truyện có sự xuất hiện của nhân vật ma
quái, chiếm 55%. Cụ thể:

Tên truyện Số lượng nhân vật

Chuyện cây gạo 3

Chuyện gã Trà Đồng giáng sinh Nhiều

Chuyện kì ngộ ở trại Tây Nhiều

Chuyện nghiệp oan của Đào thị Nhiều

Chuyện đối tụng ở Long cung 1

Chuyện chức phán sự đền Tản Viên Nhiều

Chuyện yêu quái ở Xương Giang 1

Chuyện cái chùa hoang ở Đông


Triều 3

Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang 2

Chuyện Lý tướng quân Nhiều

Chuyện tướng Dạ Xoa Nhiều

Sự xuất hiện với tần số lớn như vậy chứng tỏ nhân vật ma quái là một trong
những loại nhân vật đặc trưng của thể truyền kỳ.
Nhân vật mang tính cá thể, là những nhân vật riêng biệt, cụ thể, có thể xác
định được bằng những yếu tố như: từ chỉ số lượng cụ thể (một, hai…), tên riêng, đại
từ chỉ trỏ (này, ấy…), từ xưng hô (danh từ, đại từ).
Tên riêng là tên đặt cho từng cá thể sự vật, chỉ sự vật đúng với phạm trù của
cá thể được gọi bằng tên riêng đó. Đây là cách mang lại cho nhân vật tính xác định
cao nhất và thường chỉ một cá thể nhân vật. Tên riêng có thể là họ và tên thông

46
thường như Nhị Khanh, Liễu, Đào, có thể là họ hoặc tên kèm theo chức tước, học vị
theo cách gọi của người xưa như Bách hộ họ Thôi, xử sĩ họ Hồ, tú tài họ Viên…
Nhân vật không mang tính cá thể là những nhân vật thường xuất hiện trong
cùng một tập thể, không có tính riêng biệt, cụ thể, xác định. Chúng thường xuất hiện
dưới dạng một nhóm, một tập hợp: “sáu bảy trăm lính đầu trâu” (Chuyện cây gạo),
“hàng trăm giống ma quái” (Chuyện gã Trà Đồng giáng sinh), “mấy vạn quỷ Dạ
Xoa” (Chuyện chức phán sự đền Tản Viên) và thường được gọi bằng những tên gọi
chung như đàn quỷ, bọn quỷ, bọn ma quỷ, chúng quỷ. Những nhân vật ma quái này
không đóng vai trò quan trọng, không phải là nhân vật chính mà chỉ xuất hiện để
thực hiện một chức năng nào đó.
Nhìn vào bảng phân loại trên có thể thấy nhân vật ma quái trong tập truyện có
nguồn gốc rất phong phú từ thần, Phật đến con người và cả đồ vật, con vật, cây cối.
Thần, Phật không minh trở thành ma quái: một số nhân vật ma quái vốn là
thần nhưng không giữ được đúng khí chất, không “chính danh” thần (thần Thuồng
luồng trong Chuyện đối tụng ở Long cung, Thủy thần trong Chuyện cái chùa hoang ở
Đông Triều mà trở thành yêu quái. Trong nhóm này có trường hợp hai Hộ pháp
trong Chuyện cái chùa hoang ở Đông Triều.
Tinh vật lâu ngày thành yêu trong Truyền kỳ mạn lục có rất nhiều nhân vật ma
quái có nguồn gốc từ vật. Điều này có cơ sở từ thuyết vạn vật hữu linh vốn ăn sâu
trong tâm thức người phương Đông, lại được bồi đắp bởi trí tưởng tượng, sáng tạo
của các tác giả truyền kỳ. Chiếm số lượng nhiều nhất trong nhóm này là những con
vật tu luyện lâu năm có khả năng biến hóa thành người. Giống cáo, vượn già
trong Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang biến hóa tài tình đến nỗi Hồ Quý Ly nói
chuyện cả đêm cũng không nhận ra là yêu quái. Vết tích loài vật chỉ còn lại trong cái
tên tú tài họ Viên và xử sĩ họ Hồ. Phải đến khi chúng từ biệt, mật sai người rón rén
theo sau mới biết rõ chân tướng “cả hai hóa thành con cáo và con vượn mà đi mất”.
Không chỉ con vật mà giống cây cối cũng có tinh khí, linh hồn, cũng có khả
năng biến hóa thành con người. Chàng trai Hà Nhân (Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây)
không chỉ đánh bạn với hồn hoa Liễu Nhu Nương và Đào Hồng Nương mà còn được
dự tiệc với những mỹ nhân họ Vi, Lý, Mai, Dương, đây chị họ Kim, kia cô họ
Thạch... Nhưng sáng hôm sau, khi đến lại chỗ dự tiệc cũ chỉ thấy vài ba cây đào, liễu
xơ xác tơi bời mới khiến Hà Nhân tỉnh ngộ: “Chị ả họ Kim, thì đây hoa Kim tiền, cô

47
nàng họ Thạch thì đây cây Thạch lựu. Đến như họ Vi, Lý, Mai, Dương cũng đều
nhân tên hoa mà làm họ cả”. Về đến nhà, lấy chiếc hài mà hai nàng Đào, Liễu tặng
ra xem “vừa cầm trên tay, mấy chiếc hài đã thành những cánh hoa”.
Trong thế giới truyền kỳ, những đồ vật tưởng như vô tri vô giác như bức
tượng, cây đàn cũng có yêu khí. Bức tượng con hầu ôm cây hồ cầm bằng đất bên
cạnh linh cữu người chết cũng có khả năng biến hóa thành người thật và đồ vật thật
để tăng thêm tính người sống cho hồn ma Nhị Khanh (có thị nữ theo hầu, có đàn để
giải niềm u uất).
Điểm đặc biệt là khi những vật này biến hóa thành người vẫn mang đặc điểm
tiêu biểu của giống loài. Liễu, Đào vốn là những loài cây, loài hoa đẹp nay biến hóa
thành những mĩ nhân quyến rũ Hà Nhân. Trong Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang ta
thấy những lời lẽ sắc nhọn nhất không phải của tú tài họ Viên mà lại là của xử sĩ họ
Hồ bởi cáo vốn là giống độc lập mà tự mãn, hoạt bát, mưu trí, đồng thời lại phá
phách, táo tợn nhưng lại nhát gan, ranh mãnh nhưng lại ung dung.
Hồn người chết không tan hóa thành ma quỷ: nhân vật ma quái có nguồn gốc
từ hồn người chết chiếm số lượng đông đảo nhất trong thế giới ma quái ở Truyền kỳ
mạn lục. Những nhân vật có nguồn gốc từ hồn người chết chủ yếu là ma và quỷ.
Những đàn quỷ gớm ghiếc, hung dữ chuyên quấy nhiễu nhân dân trong đa số
là những oan hồn chết trận, chết đói không chỗ tựa nương. Những sự kiện này được
ghi lại rõ ràng, có thời gian, địa điểm cụ thể: “cuối đời Trùng Quang nhà Trần, người
chết chóc nhiều, nhưng oan hồn không chỗ tựa nương, thường họp lại thành từng
đàn, từng lũ” (Chuyện tướng Dạ Xoa). Tuy trong văn bản không đề ập đến nguồn
gốc của những nhân vật như quỷ sứ, lính quỷ nhưng trong nội hàm khái niệm này
đều là loại nhân vật ma quái do hồn người chết biến thành.
Đám ma quỷ ở Ô Tôn (Chuyện gã Trà Đồng giáng sinh), Thị Nghi – yêu quái
ở Xương Giang, Nhị Khanh, Trình Trung Ngộ - yêu quái trên cây gạo, Long Thúc,
Long Quý – yêu quái trong nhà Nhược Chân cũng đều là hồn người chết cả.
Hình thức biến hóa kỳ ảo
Biến hóa là thuộc tính, là đặc trưng của ma quái. Vì vậy, xây dựng nhân vật
ma quái trước hết phải xây dựng được những hình thức biến hóa kỳ ảo cho nhân vật.
Hình thức biến hóa đầu tiên phải kể đến là hình thức biến dạng. Ma quái là
những vật có hình dạng kỳ dị, đáng sợ. Để trà trộn vào thế giới con người, trò chuyện,

48
ân ái với con người, tất yếu ma quái phải biến thành người. Cáo và vượn (Chuyện
bữa tiệc đêm ở Đà Giang) hóa thành tú tài và xử sĩ để can gián vua, hồn ma Nhị
Khanh, Thị Nghi, hồn cây đào, cây liễu... đều hóa thành những cô gái xinh đẹp. Hồn
ma Thị Nghi khi nhập vào cô ả buôn tương, khi ốp vào cô nàng bán rượu, khi lại là
một bộ xương trắng...
Nếu như trong văn học dân gian, hình thức biến dạng chủ yếu được dùng để
tăng cường tính chất siêu phàm của nhân vật hoặc để giải thích các địa danh thì trong
truyện truyền kỳ hình thức này có tác dụng làm cho câu chuyện thêm phần hấp dẫn,
gay cấn, phức tạp. Nội dung truyện do đó được đẩy đến tận cùng, phẩm chất nhân vật
nhờ thế được soi sáng. Đọc Truyền kỳ mạn lục, người đọc thấy tò mò, hấp dẫn bởi
thân thế bí ẩn của những cô gái trẻ, xinh đẹp đêm nào cũng đến ân ái cùng các nhân
vật nam.
Một hình thức biến hóa kỳ ảo khác là hình thức đầu thai chuyển kiếp. Ta bắt
gặp hình thức này trong Chuyện nghiệp oan của Đào thị. Hàn Than và Vô Kỷ sau khi
chết đã đầu thai vào nhà Ngụy Nhược Chân, vợ Nhược Chân nằm mơ thấy hai con
rắn cắn vào mạng sườn ở nách bên tả rồi có mang sinh được hai con trai.
Ngược lại với hình thức biến dạng là sự hiện nguyên hình của ma quái. Nhân
vật ma quái khi trúng phải bùa ngải của các đạo sĩ, pháp sư, thầy thuốc hoặc khi chết,
thác hóa thường phải hiện nguyên hình. Hồn ma Thị Nghi trúng phải bùa của thầy
thuốc hiện nguyên hình là một bộ xương trắng. Hai cái thây Long Thúc, Long Quý –
hai con trai của Ngụy Nhược Chân do hồn ma Đào Hàn Than và Vô Kỷ đầu thai
thành – dưới phép thuật của sư Pháp Vân cũng phải trở về nguyên dạng là hai con rắn
vàng, lấy hòn đá mà sư cụ trao cho ném vào thì hóa ra tro. Hai hồn hoa Liễu Nhu
Nương, Đào Hồng Nương đến lúc thác hóa lại trở về đúng là những cánh hoa bay
vèo lên trên không.
Gắn liền với hình thức biến hóa kỳ ảo của nhân vật ma quái là những vật kỳ
ảo: một dải đồng tâm có đề bài thơ tứ tuyệt thần Thuồng luồng gửi đến cho Dương
thị, cây gạo mà hồn ma Nhị Khanh và Trình Trung Ngộ nương náu “hễ ai động đến
cành lá thì dao gãy rìu mẻ, không thể nào đẵn phạt được”, chiếc hài mà hai nàng
Liễu, Đào tặng lại cho Hà Nhân trước khi thác hóa, đến cuối truyện cũng “thành ra
những cánh hoa bay vèo lên trên không mất”. Trong số những vật kỳ ảo gắn liền với
nhân vật ma quái còn phải kể đến những đạo bùa mà các đạo sĩ, pháp sư dùng để trấn

49
yểm, tiêu diệt yêu quái. Những vật kỳ ảo này góp phần làm tăng thêm yêu lực của
nhân vật ma quái, tăng thêm tính chất kỳ bí, hấp dẫn cho câu chuyện.

50
CH ƯƠ
CHƯƠ NG 3: NGH
ƯƠNG NGHỆỆ THUẬT TH
THUẬ THỂỂ HI
HIỆỆN YẾU TỐ KỲ ẢO
TRONG TRUY ỀN KỲ MẠN LỤC CỦA NGUY
TRUYỀ NGUYỄỄN DỮ

3.1. Kỳ ảo trong không gian, th


khô ời gian
thờ

Theo Trần Đình Sử thì: “ không gian nghệ thuật là mô hình, thời gian đọc đáo
có tính chủ quan và mang ý nghĩa tượng trưng cho tác giả. Nó là sản phẩm sáng tạo
cho người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về
cuộc sống là mô hình thời gian của tác giả cụ thể, được biểu hiện bằng ngôn ngữ của
các biểu tượng không gian” [18; tr107].
Từ điển Thuật ngữ Văn học cho rằng: “Không gian nghệ thuật là hình thức
bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chủ thể của nó, có tác dụng mô
hình hóa các mối quan hệ của bức tranh thế giới như: thời gian, xã hội, đạo đức, tôn
ti, trật tự,… không gian nghệ thuật chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác
phẩm văn học, các ngôn ngữ hình tượng mà còn cho thấy quan niệm về thế giới,
chiều sâu cảm thụ của tác giả hay một giai đoạn văn học”. Từ đó, ta có thể thấy rằng,
không gian nghệ thuật được tác giả sử dụng nhằm mục đích tạo bối cảnh hoạt động
cho nhân vật, đó là những không gian được tác giả hư cấu làm tăng sự hấp dẫn cho
cốt truyện.
Thời gian nghệ thuật cũng là phạm trù đặc trưng của văn học, là hình thức
cảm nhận thế giới, là hình thức cảm nhận thế giới của con người với quan niệm nhất
định về thế giới. Thời quan nghệ thuật được thi pháp học hiện đại định nghĩa như sau:
“Thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta có thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ
thuật với tính liên tục và độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với các chiều
thời gian hiện tại, quá khứ hay tương lai. Thời gian nghệ thuật do được sáng tạo nên
mang tính chủ quan, gắn với thời gian tâm lí. Nó có thể kéo dài hay rút ngắn thời
gian thực tế. Nó có thể đảo ngược hay vượt tới tương lai”. Cũng giống như không
gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật cũng được tác giả sáng tạo theo dụng ý của
mình, nó cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng để làm nên một tác phẩm văn học
đặc sắc. Cũng chính vì thế, yếu tố hoang đường thể hiện khá rõ trong không gian và
thời gian nghệ thuật của tác phẩm Truyền kỳ mạn lục….

51
3.1.1. Không gian kỳ ảo
Khô
3.1.1.1. Không gian tr
Khô ần th
trầ thếế

Không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất, có quan hệ mật thiết.
Trong văn học, không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của xã hội và con người.
Một tác phẩm văn học xuất sắc ngoài những giá trị nội dung sâu sắc thì phải có nghệ
thuật đặc sắc. Một trong những yếu tố góp phần làm nên giá trị nghệ thuật của tác
phẩm là không gian và thời gian nghệ thuật. Nguyễn Dữ đã xây dựng thành công
những nhân vật có tính cách và số phận phong phú, đa dạng. Nghệ thuật tái hiện
không gian đóng một vai trò quan trọng việc tạo nên những giá trị đó. Không gian
nghệ thuật biểu hiện quan niệm về thế giới và con người là một phương thức chiếm
lĩnh thực tại và là nơi thể hiện tư tưởng thẩm mĩ, cảm xúc thẩm mĩ của tác giả.
Không gian không chỉ là môi trường sống của các nhân vật, là bối cảnh của các
sự kiện và đối tượng miêu tả của nhà văn mà còn có mối liên hệ với thời gian. Không
gian trần thế trong Truyền kỳ mạn lục là không gian địa điểm xác định có mối liên hệ
với thời gian và nhân vật. Tên nhân vật, thời gian sống, không gian xảy ra các sự việc
tất cả đều được tác giả thể hiện một cách rất chi tiết. Thời gian thay đổi thì không
gian cũng đổi thay. Nội tâm nhân vật, hành động của nhân vật cũng có sự biến đổi
theo chiều của không gian, thời gian. Thời gian xác thực nơi trần thế thực hiện những
nhiệm vụ nghệ thuật khác với thời gian hư ảo nơi tiên giới, âm phủ, thủy phủ. Sự gắn
bó của nhân vật với không gian trần thế tạo nên một nét đẹp nội tại của tác phẩm.
Không gian trần thế trong Truyền kỳ mạn lục được tác giả giới hạn từ Nghệ An trở ra,
mang chức năng riêng thể hiện chủ đề, nhân vật, quan niệm nghệ thuật của tác giả.
Trong không gian có sự đối lập giữa hư và thực, giữa không gian bên trong và bên
ngoài. Mỗi nhà văn có cái nhìn không gian không giống nhau. Có nhà văn nghiêng
về không gian tự nhiên, không gian vũ trụ, có nhà văn lại ngiêng về không gian tâm
tưởng, không gian sống. Chính cách nhìn không gian khác nhau dẫn đến đặc điểm
của từng loại không gian trong từng thể loại và từng thời kỳ văn học. Không gian là
nguồn cảm hứng để tác giả mở nút, thắt nút cho nhân vật, cốt truyện, tư tưởng
chuyển đổi linh hoạt, tạo sự độc đáo, hấp dẫn cho tác phẩm. Không gian trần thế
trong Truyền kỳ mạn lục là không gian xác định. Chuyện nghiệp oan của Đào thị xảy
ra ở Từ Sơn (Bắc Ninh) vào thời gian niên hiệu Thiện Phong thứ năm (1345) đời nhà

52
Trần. Điều này còn được thể hiện trong nhiều truyện khác như Chuyện người nghĩa
phụ ở Khoái Châu, Chuyện cây gạo. Tác giả khắc họa một cách chi tiết, sau mỗi địa
danh cụ thể, được ghi chú một cách rõ ràng. Không gian đó là nguồn gốc của nhân
vật trong truyện. Ngay ở phần mở đầu ở hầu hết các truyện viết về không gian trần
thế trong Truyền kỳ mạn lục đều được Nguyễn Dữ miêu tả cụ thể là không gian Nghệ
An trở ra gần Thanh Hóa, Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, ngoại thành Hà Nội, Hải
Dương, Quảng Ninh, Thái Bình (Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Chuyện đối
đáp của người tiều phu núi Na, Chuyện nàng Túy Tiêu,…). Trần gian là không gian
thực tại, không gian con người sống, không gian quen thuộc, nơi xảy ra mọi biến cố,
đưa nhân vật đi vào thế giới lãng mạn hay thực tại để bộc lộ nội tâm, tính cách, phẩm
chất.
Trong Chuyện cây gạo, không gian được thông báo cùng với miêu tả nhân vật.
“Trình Trung Ngộ là một chàng trai đẹp ở đất Bắc Hà. Nhà rất giàu, thuê thuyền
xuống vùng Nam buôn bán. Chàng thường đỗ thuyền ở dưới cầu Liễu Khê, rồi đi lại
vào chợ Nam Xang. Dọc đường, hay gặp một người con gái xinh đẹp, từ Đông thôn
đi ra” [20; tr.35]. Trong một đêm, ở trên cầu, họ gặp nhau và xem đó là duyên trời
sắp đặc. Từ đó họ đi lại với nhau ở dưới thuyền. Nhị Khanh tối đến sáng đi, đến hơn
một tháng thì những người bạn buôn bán đi cùng biết chuyện bảo với Trung Ngộ cẩn
thận vì là nơi đất khách quê người. Trung Ngộ khen phải, rồi một ngày chàng bảo với
Nhị Khanh cho biết nhà cửa, muốn đến chơi. Khi đến Đông thôn thì chàng mới biết
lâu nay mình qua lại với một hồn ma chàng sợ bỏ chạy về cầu Liễu Khê. Từ đó,
Trung Ngộ ốm nặng và luôn mê sảng. Chàng lúc nào cũng muốn đi về hướng Đông
Thôn, mọi người phải trói giữ chàng lại, nhưng đêm đó hồn ma của Nhị Khanh đến
gọi chàng đi đến khi mọi người ngủ dậy thấy mất Trung ngộ. Đến Đông thôn tìm thì
thấy chàng ôm quan tài Nhị Khanh mà chết. Từ đó, hồn ma của hai người trú vào cây
gạo gần chùa ở bờ sông để quấy nhiễu dân lành. Ở chuyện này, quê quán cũng như
nơi buôn bán, sinh sống, diễn ra các sự kiên của nhân vật được miêu tả rõ ràng, xác
thực. Chợ Nam Xang là chợ ở huyện Nam Xang, tức huyện Lý Nhân, nay thuộc tỉnh
Hà Nam. Đoạn đường từ dưới cầu đi vào chợ là nơi gặp gỡ giữa Trình Trung Ngộ và
hồn ma Nhị Khanh.
Mở đầu Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, tác giả viết: “Từ Đạt ở Khoái
Châu lên làm quan tại thành Đông Quan (Hà Nội) thuê nhà ở cạnh cầu Đồng Xuân”

53
[20; tr.20]. Tên tuổi, quê quán được Nguyễn Dữ giới thiệu ngay ở phần mở đầu cùng
với các quan hệ. Cuộc gặp gỡ với láng giềng là quan thiêm thư Phùng Lập Ngôn dẫn
đến mối lương duyên Trọng Qùy và con trai họ Phùng và Nhị Khanh con gái họ Từ.
Do Nghệ An có giặc, triều đình muốn có viên quan giỏi vào quản lý nên Trọng Qùy
đi cùng cha mẹ, để Nhị Khanh ở nhà. Vợ chồng chia tay trong nỗi nhớ thương vô hạn.
Nhị Khanh ở nhà khi cha mẹ nối nhau tạ thế, nàng đưa tang về Khoái Châu, chôn cất
tử tế rồi đến ở chung với bà cô Lưu thị. Đến một nơi mới nàng cứ ngỡ được yên thân
nhưng bà cô muốn gả nàng cho tướng quân họ Bạch. Nhị Khanh sợ hãi nhờ người
xuống xứ Nghệ hỏi thăm tin tức của chồn. Đối lập với không gian rộng lớn bên ngoài,
binh lửa rối ren là không gian nhỏ hẹp nơi Trọng Qùy sống. Trọng Qùy về quê, vợ
chồng gặp nhau vừa mừng vừa tủi. Địa điểm được nhắc đến trong truyện là Quy Hóa
nay thuộc tỉnh Phú Thọ, là nơi Trọng Qùy tìm đến một người bạn. Hay không gian ở
đền Trưng Vương (xã Hát Giang, huyện Phú Lộc), nay thuộc tỉnh Hà Tây, nơi mà
Nhị Khanh sau khi chết từ trên không gọi Trọng Qùy hẹn gặp: “Có phải Phùng lang
đấy không? Nếu còn nghĩ tới tình xưa thì ngày ấy, tháng ấy xin đến chờ thiếp ở đền
Trưng Vương” [20; tr. 31]. Tạo ra không gian cụ thể nhằm làm cho người đọc tin đó
là câu chuyện có thật, xảy ra trong thời gian xác định.
Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây và Chuyện nghiệp oan của Đào thị cũng mở đầu
kiểu như vậy. Trong Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây “Hà nhân, người học trò quê ở Thiên
Trường, khoảng năm Thiệu Bình ngụ ở kinh sư để tòng cụ Ức Trai. Mỗi buổi đi học,
tất phải qua phường Khúc Giang. Trong phường có cái trại, gọi là trại Tây, dinh cơ
cũ của quan Thái sư triều Trần” [20; tr.59]. Địa điểm được xác định ở đây là Thiên
Trường, đời nhà Trần là phủ gồm các huyện Mỹ Lộc, Giao Thủy, Tân Trân, Thuận
Vi. Khoảng thời Lê thuộc trấn Sơn Nam, nay thuộc tỉnh Nam Định và một phần của
tỉnh Thái Bình. Đó là nơi Hà Nhân sống, ở đó chàng gặp hồn hoa họ Liễu tên là Nhu
Nương, họ Đào tên là Hồng Nương và yêu nhau say đắm. Hà Nhân cho là sự kỳ ngộ
của đời mình, so với chuyện xưa có thể sánh với Bùi Hàng và vượt Tăng Nhụ. Phòng
của Hà Nhân là nơi diễn ra cuộc vui thú với hai nàng. Không gian còn mở rộng,
không bó hẹp trong căn phòng của Hà Nhân mà xảy ra ở Trại Tây, nơi hồn hoa của
hai nàng sống.
Mở đầu Chuyện Nghiệp oan của Đào thị, tác giả giới thiệu: “Ả danh kỷ ở Từ
Sơn là Đào thị, tiểu tự Hàn Than, thông hiểu âm luật và chữ nghĩa” [20; tr.92]. Được

54
tuyển vào làm cung nhân, hàng ngày chầu vua ở tiệc rựu hay chiếu bạc, nàng thông
minh nên được vua hết mực khen ngợi. Sau khi vua mất, nàng bị sa thải khỏi cung rồi
cùng thường qua lại nhà quan Hành khiển là Ngụy Nhược Chân, vợ quan Hành khiển
nghi ngờ Hàn Than tư thông với chồng nên đánh ghen. Hàn Than thuê người trả thù
nhưng sự việc không thành phải đi trốn ở chùa, bắt đầu kiếp sống tu hành. Ân oán
của cuộc đời khiến nàng phải di chuyển không gian sống hết nơi này đến nơi khác.
Tác giả thường giới thiệu nhân vật cùng với quê quán. Hầu như trong các
truyện, không gian gắn đều gắn vơi thời gian cụ thể, xác thực. Ở những truyện viết về
không gian trần thế, bên cạnh giới thiệu nhân vật và nơi xảy ra câu truyện, mở đầu
truyện là tên những ngọn núi, dòng sông, cũng được tác giả giới thiệu cụ thể. Điều
này được thể hiện rõ qua các truyện Chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na,
Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Trào, Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang.
Chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na viết: “Đất Thanh Hóa phần nhiều
là núi, bát ngát bao la đến mấy nghìn dặm. Trong đó có một ngọn núi cao chót vót.
Tên gọi là núi Na. Núi có cái động, dài mà hẹp, hiểm trở và quạnh hiu, bụi trần
không bén tới, chân người không biết tới” [20; tr.164]. Không gian vắng vẻ, hiu
quạnh đó phù hợp với nhân vật nho sĩ ẩn dật. Trong truyện tên sông, tên làng cũng
được nêu ra cụ thể là những địa danh có thực. Sông Đáy trong truyện tức là sông
Tiểu Đáy chảy từ huyện Sơn Dương, Tuyên Quang về địa phận các huyện Lập Thạch
và Tam Dương nay thuộc tỉnh Phú Thọ hay cửa bể Kỳ La ở làng Kỳ La, huyện Kỳ
Anh, nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh.
Trong Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang, hình ảnh sông Đà được nhắc đến
ngay từ mở đầu truyện: “Năm Bính Dần (1386), vua Trần Phế Đế đi săn, đỗ lại trên
bờ bắc sông Đà, đêm mở bữa tiệc trong ở trướng” [20; tr. 206]. Trong lúc đi săn vua
gặp hai người: Tú tài họ Viên và xữ sĩ họ Hồ dâng lời can gián. Sau đó Hồ Qúy Ly
sai người đi theo hai người đó thì thấy một người biến thành vượn và một người biến
thành cáo. Trong Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Trào thì nhiều tên chùa được
giới thiệu ngay ở phần đầy truyện: “Đời nhà Trần, tục tin thần quỷ, thần từ phật tự
chẳng đâu là không có, như chùa Hoàng Giang, chùa Đồng Cổ, chùa An Sinh, chùa
Phổ Minh, quán Ngộc Thanh dựng lên nhan nhãn khắp nơi; những người cắt tóc làm
tăng làm ni, nhiều hầu bằng nữa số dân thường. Nhất là vùng huyện Đông Trào” [20;

55
tr.181]. Một không gian có nhiều đền chùa hoang tàn, đổ nát. Nguyễn Dữ thông qua
đó phản ánh sự suy đồi và tệ nạn đang xảy ra.
Những chuyện như Chuyện nàng Túy Tiêu và Chuyện Lệ Nương cũng mở đầu
kiểu như vậy. Chuyện nàng Túy Tiêu: “Người đất Kiến Hưng, Dư Nhuận Chi tên là
Tạo Tân, có tiếng hay thơ; nhất là những bài hát, lại càng nức danh ở kinh kỳ, mỗi
bài làm ra, phường hát bội đem tiền tặng, biếu rất hậu để xin lấy. Nhân thể Dư càng
nổi thanh giá ở chốn tao đàn” [20; tr.189]. Trong một lần Nguyễn Trung Ngạn mở
tiệc mời Dư, chàng đã gặp Túy Tiêu và được Nguyễn tặng cho. Chàng đưa nàng về
quê Kiến Hưng. Một lần dâng hương lễ phật ở chùa Tháp Báo Thiên, Túy Tiêu bị
quan Trụ Quốc họ Thân cướp về. Vợ chồng họ phải xa cách. Không gian xảy ra câu
chuyện là ở Kiến Hưng, là phủ thời Trần, gồm đất các huyện, Ý Yên. Thiên Bản,
Độc Lập, Đại Loan, Vọng Danh, tương đương với các huyện Ý Yên, Vụ Bản, Nghĩa
Hưng, Nam Định ngày nay.
Chuyện Lệ Nương mở đầu: “Nguyễn Thị Diểm là một người họ lớn ở huyện
Đông Sơn (Thanh Hóa) em họ ngoại của Trần Khát Chân; cùng người đàn bà họ Lý
quê ở huyện Cẩm Gìang (Hải Dương) cùng mở ngôi hàng bán phấn đối cửa nhau
bên ngoài thành Tây Đô (Thanh hóa). Xóm giềng gần gặn, tình cảm ngày càng thân,
nhưng cả hai đều chưa con cái” [20; tr.238]. Họ giao ước ngày sau sẽ làm thông gia.
Qủa nhiên Nguyễn thị sinh con gái đặt tên là Lệ Nương và Lý thị sinh con trai đặt tên
là Phật Sinh, cả hai đều ham nghề nghiên bút. Khi Lệ Nương bị bắt vào cung, Phật
Sinh rất thất vọng và quyết định đi tìm nàng bằng được. Từ biệt mẹ già, Sinh theo
vua Giản Định để đánh lại Hán thương cướp lại Lệ Nương. Khi biết Lã Nghị bắt mấy
trăm phụ nữ, Phật Sinh dâng kế cho vua Giản Định khiến quân Lã Nghị phải nhổ trại
chạy trốn lùi lên phía Bắc đóng ở Xương Giang, sau phải lùi lên Lạng Sơn. Sinh vì
tìm vợ mà tới đây dò la hỏi han, may mà gặp được một bà già và được bà kể lại cái
chết của Lệ Nương. Không gian sự việc trong truyện này xảy ra ở nhiều địa điểm:
huyện Đông Sơn nay thuộc tỉnh Thanh Hóa; huyện Cẩm Gìang nay thuộc tỉnh Hải
Dương; Tây Đô là tên thành phố nhà Hồ ở Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Lạng Sơn đời Trần
là Lộ Lạng Giang. Truyện còn xảy ra ở phủ Thiên Trường, nơi tướng giặc Lã Nghị
bắt giữ mấy trăm phụ nữ. Tất cả khắc họa một cách cụ thể góp phần làm cho câu
chuyện trở nên chân thật và hấp dẫn. Không gian trong truyện có sự thay đổi cùng
với thời gian và tâm trạng, hành động của nhân vật.

56
Việc miêu tả không gian trần thế trong Truyền kỳ mạn lục một cách cụ thể xác
thực, gắn liền với thời gian cụ thể và những nhân vật trong truyện tạo cho người đọc
tin vào những chuyện đó. Nội dung này của thi pháp không gian trong Truyền kỳ
mạn lục cần được giải thích từ đặc điểm của tác phẩm tự sự nói chung và tác phẩm
này nói riêng.
Khi không gian được miêu tả cụ thể, xác định sẽ trở thành khung cảnh để nhân
vật hoạt động, triển khai tính cách và hiện thực hóa số phận. Trong truyện truyền kỳ,
ngoài phần chung đó, không gian còn có ý nghĩa khác. Truyện truyền kỳ có yếu tố kỳ
lạ phổ biến, làm thành thuộc tính của tác phẩm nhưng tác giả lại muốn người đọc tin
vào những điều kỳ lạ ấy là có thật. Nói một cách khác, trong truyện truyền kỳ cái
thực luôn được hư cấu, còn cái hư luôn được thực hóa. Một trong những biện pháp là
gắn những chi tiết hư cấu với những nhân vật, sự kiện, thời gian cụ thể, xác định.

3.1.1.2. Không gian th


Khô ượ
thượ ng gi
ượng ới
giớ

Cũng giống như đa số các tác phẩm văn học trong thời trung đại, đối tượng
phản ánh mang đậm tính tao nhã, trang trọng vì tác giả văn học lúc bấy giờ đa số là
nhà Nho, Nho giáo rất đề cao chức năng giáo hóa (thay đổi xã hội và con người theo
đạo lý phong kiến văn chương). Nhà Nho bấy giờ là những người thường xuyên lo
lắng đến “thế đạo nhân tâm”, vì vậy văn chương thường hay thể hiện nội dung đạo lý.
Còn từ thế kỷ XVI trở đi, xã hội đầy biến động, loạn lạc đã tạo nên sự giao động
trong tư tưởng nhà nho. Vì vậy, sáng tác của họ chú ý hơn những hiện tượng thông
tục, bình thường. Mặt khác, việc các nhà văn sử dụng yếu tố kỳ ảo làm cho tác phẩm
truyền kỳ trở nên đặc sắc. Ra đời vào thế kỷ XVI, Truyền kỳ mạn lục đã phản ánh
phần nào hiện thực xã hội đương thời. Trước cuộc sống khó khăn, xã hội loạn lạc đó,
Nguyễn Dữ đã tạo ra một không gian mới giúp con người thoát khỏi cuộc sống thực
tại. Đó cũng là niềm mơ ước, khác khao của tác giả để thoát khỏi hiện thực tầm
thường nơi trần thế. Trong tác phẩm truyền kỳ, việc sử dụng không gian kỳ ảo nơi
thiên giới là giải pháp thông minh, hữu hiệu và đầy nghệ thuật để thể hiện khác khao
cuộc sống đầy đủ, hạnh phúc đều không có trong xã hội đương thời.
Theo quan niệm của người xưa, thế giới tiên cảnh là thế giới tôt đẹp nhất, nơi
đó chỉ có những người tốt, tu nhân tích đức mới được tới. Thế giới đó tương phản với
thế giới trần gian. Không gian kỳ ảo mà ta gặp trong Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên và
57
Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi thiên tào là không gian tiên cảnh với những điều tốt,
huyền diệu tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm.
Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên từ không gian xác thực đưa nhân vật vào không
gian mới. Từ Thức người Hóa Châu, làm tri huyện Tiên Du, từng cởi áo chuộc người
con gái bị bắt vì lỡ tay làm gãy một cành hoa quý ở chùa, được người đời khen ngợi
là bậc hiền nhân. Từ Thức vốn thích sơn thủy nên treo mũ từ quan về quê đi du
ngoạn ở những nơi danh thắng. Chàng được Ngụy phu nhân, tiên ở núi Nam Nhạc
mời đến thăm động Phù Lai. Ở đó chàng được kết duyên với Giáng Hương_người
con gái làm gãy cành hoa ngày trước được chàng chuộc. Sống ở cõi tiên, Từ Thức
vẫn buồn nhớ quê hương, muốn trở về thăm nhà. Hai vợ chồng chia tay nhau, Từ
Thức về lại quê hương ở trần giang. Cảnh vật vẫn như cũ, chỉ có con người đổi thay
vì thời gian đã trôi qua rất lâu không ai còn nhớ đến chàng nữa nhưng cũng không
thể trở lại tiên giới sống với Giáng Hương nữa, bèn mặc áo long cừu nhẹ, đội nón đi
vào núi Hoành Sơn rồi sau đó không biết đi đâu mất. Ở không gian kỳ ảo mà Nguyễn
Dữ đã tạo ra câu chuyện gắn liền với tư tưởng thoát ly hiện thực của Đạo giáo. Đạo
giáo với triết lý sống phóng khoáng, với cái nhìn thoát tục, gần gũi với thiên nhiên,
có sức lôi cuốn mạnh mẽ các nhà văn viết truyện truyền kỳ, giúp họ thoát khỏi hiện
thực đen tối trong xã hội. Không gian mở đầu truyện là không gian cụ thể nơi trần
gian, Từ Thức chán ghét cuộc sống tối tăm, ngột ngạt nơi trần thế nơi đã đi du ngoạn
những nơi danh thắng. Nguyễn Dữ tạo ra không gian thiên đình tráng lệ. Sau khi lên
đến ngọn núi thấy bầu trời sáng sủa, chung quanh toàn những lâu đài nguy nga, mây
xanh giáng đỏ bén ở lan can, cỏ lạ, hoa kỳ nở đầy trước cửa. Trước một không gian
đẹp như vậy, Từ Thức biết mình đã không còn ở cõi trần mà đã đến không gian tiên ở.
Không gian tiên cảnh được tác giả miêu tả rất kỹ. Không gian tiên giới được tác giả
miêu tả từ xa đến gần, từ tổng thể đến chi tiết. Không gian ấy không có dấu vết của
bụi trần, cung điện được xây dựng toàn bằng bạc, sơn son, tường gấm, có những đồ
dùng quý giá, hiếm thấy. Từ Thức được bà tiên kể cho nghe nơi chàng đang đứng là
động tiên ở. Tác giả miêu tả bữa tiệc trên tiên giới: “Tiệc yến được đặt ở từng thượng
trên gác Dao Quang, buôn rèm câu ngọc, rủ trướng móc vàng, phía trước đặt một
ghế bành bằng ngọc lưu ly” [20; tr.129]. Tiệc này mâm bằng mã não, đĩa bằng ngọc
thạch, các món ăn kỳ lạ, lại có những thứ rựu thiên tương, ngọc lễ, mùi hương đưa
lên thơm nức. Đó là không gian hoàn mỹ. Miêu tả những đồ vật ở cõi tiên tác giả

58
muốn đưa đến một sự đối nghịch cao độ ở cõi trần. Không gian kỳ ảo đó thể hiện lý
tưởng nhân văn sâu sắc của Nguyễn Dữ_ đó là ước mơ của tác giả muốn cuộc sống
nhân dân được sung túc, đầy đủ, không bị miếng cơm manh áo đè nặng cuộc đời.
Được sống ở cõi tiên cùng Giáng Hương, cuộc sống đầy đủ, đẹp đẽ, thơ mộng của
tiên giới nhưng chàng lại thấy nhớ đến quê nhà. Cuộc sống nơi tiên giới không đủ
sức giữ tâm hồn của con người trần gian.
Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi thiên tào kể về Phạm Tử Hư người Cẩm Giàng
theo học ẩn sĩ Dương Trạm. Sau khi Dương Trạm qua đời, các học trò đều mỗi người
một nơi, chỉ có Tử Hư là bên cạnh trông coi hương khói cho thầy trong ba năm. Đời
nhà Trần, Tử Hư lên kinh thành học, một buổi sáng trong sương mù thầy trò gặp lại
và cùng trò chuyện. Thầy hẹn Tử Hư đến trấn vũ cửa Bắc nói chuyện. Thầy nói cho
Tử Hư biết bốn mươi tuổi mà vẫn chưa đỗ đạt, là vì cậy mình có tài mà kêu ngạo nên
trờ bắt phải đỗ muộn. Tử Hư còn hỏi thầy chuyện họa phúc của các quan lại đương
thời, chuyện thi cử, chuyện cửa trời treo bảng thông tin học trò thi đỗ,… Dương
Trạm trả lời cho Tử Hư biết và dẫn chàng lên chơi thiên tào. Tử Hư được tận mắt
chứng kiến cuộc sống của các thần tiên nơi tiên giới. Không gian kỳ ảo của truyện
được mở ra bằng cách đưa Tử Hư lên trời: “Lên đến trên trời, Tử Hư thấy một khu có
những bức tường bạc bao quanh, cái cửa lớn khảm trai lộng lẫy, hai bên có những
tòa châu điện ngọc, vằng vặc sáng như ban ngày, song Ngân bến Sao, ôm ấp lấy
đằng trước, gió thơm phưng phức, đượm ngát quanh hiên, hơi lạnh thấu da, ánh
sáng chói mắt, trong xuống cõi trần, thấy mọi cảnh vật đều nhỏ bé tủn mủn” [20;
tr.148]. Không gian rộng lớn mở ra đẹp đẽ, có sự kết hợp hài hòa giữa cảnh vật và
thiên nhiên như trăng, gió, song… đối lập hoàn toàn so với không gian trần thế nhỏ
hẹp, tủn ngủn, tù túng, ngột ngạt. Ở thượng giới có rất nhiều tòa, sở, mỗi tòa có
nhiệm vụ khác nhau như: “cửa tích đức”, “cửa thuận hạnh”, “cửa nho thần”. Không
gian thượng giới chỉ dành cho những con người có tấm lòng cao cả, không màn danh
lợi.

3.1.1.3. Không gian âm ph


Khô ủ, th
phủ ủy ph
thủ ủ
phủ

Không gian hư ảo là không gian mà chúng ta chỉ nhận biết qua sự cảm nhận,
suy diễn hoặc tưởng tượng. Truyện truyền kỳ vừa có yếu tố thực, vừa có yếu tố siêu
thực, thiếu một trong hai yếu tố đó thì không phải là truyện truyền kỳ đích thực.
59
Trong không gian nghệ thuật ở truyện truyền kỳ, khôn gian hư ảo và không gian trần
thế không bao giờ tách rời nhau vì cái thực đi vào nghệ thuật được hư hóa. Tức là
không gian nghệ thuật lấy cái “thực” làm gốc từ đó mở rộng, sáng tạo không gian hư
ảo. Không gian hư ảo là phản ánh hiện thực thông qua sự sáng tạo của con người
bằng hư cấu, tưởng tượng.
Không gian hư ảo đó Nguyễn Dữ đã xây dựng để thỏa ước mơ công lý. Không
gian âm phủ, thủy phủ là một không gian được Nguyễn Dữ xây dựng tốt đẹp hơn so
với trần gian. Nếu như không gian trần thế phản ánh xã hội lúc bấy giờ thì không
gian âm phủ, thủy phủ được mở rộng ra với những luật lệ, phán xét công bằng mà thế
giới nơi trần gian không có được. Truyện truyền kỳ không gian đặc trưng là có thực
và ảo đan xen. Truyền kỳ mạn lục cũng không nằm ngoài quy luật đó, qua đó thể hiện
cái nhìn cuộc sống, phản ánh hiện thực của Nguyễn Dữ. Việt điện u linh là sách ghi
lại chư thần của cõi u linh, mà thần là sản phẩm của sáng tạo vô thức theo nguyên tác
linh hóa. Nhân vật trong tác phẩm này chủ yếu là thần, hình như không có sự xuất
hiện của con người. Đến Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ thì nhân vật chủ yếu là
con người, sống trong thế giới thực. Ở Truyền kỳ mạn lục có thể mở rộng không gian
đi từ thế giới trần gian đến thế giới âm phủ, thủy phủ một cách dễ dàng và ngược lại
các nhân vật ma quái có thể tồn tại ở hiện thực. Tác phẩm văn học là kết tinh từ
những sáng tạo của nhà văn, phản ánh vấn đề ở thời đại mà nhà văn đang sống.
Truyền kỳ mạn lục thể hiện những suy tư của tác giả đồng thời phản ánh hiện thực
của thời đại. Tác giả gởi gắm ước mơ, nguyện vọng về công lý, cuộc đời trong một
thế giới phi hiện thực nơi âm phủ, thủy phủ.
Không gian âm phủ, thủy phủ trong Truyền kỳ mạn lục là không gian hư ảo,
không gian xét xử lại những người đã chết. Theo quan niệm của con người trung đại,
chết là đến một thế giới khác_thế giới cõi âm. Ở đó người xấu phải đền tội, người tốt
được đầu thai để tiếp tục làm người. Không gian hư ảo xuất hiện trong các truyện:
Câu chuyện ở đền Hạng Vương, Chuyện yêu quái ở Xương Giang, Cuộc nói chuyện
thơ ở Kim Hoa. Không gian hư ảo nơi thủy cung xuất hiện ở Chuyện người con gái
Nam Xương, chuyện đối tụng ở Long Cung.
Không gian kỳ ảo nơi âm phủ xuất hiện trong giấc mơ của các nhân vật. Mộng
mơ là những điều ước muốn viễn vong không thực tế, đó là những điều không có
thực, nó chịu ảnh hưởng của hiện thực khách quan, hoàn cảnh sống và tư tưởng, ý đồ

60
của tác giả. Chính vì thế không gian âm phủ, thủy phủ mang tính phi hiện thực. Nếu
như không gian thượng giới là không gian hư ảo với những điều tốt đẹp, thì không
gian hư ảo ở âm phủ, thủy phủ là không gian chứa đầy các mặt xấu của đời sống thực
tại. Không gian hư ảo hoàn toàn đối lập với không gian trần thế, chính không gian hư
ảo nói lên cuộc sống thực tại của con người. Cũng có những giấc mộng hàm chứa
những điều mà con người chưa biết. Chính giấc mộng đã tạo nên không gian hư ảo
nơi âm phủ và ở không gian này đã phản ánh hiện thực xã hội đương thời.
Câu chuyện ở đền Hạng Vương kể về Hồ Tôn Thốc là người hay thơ lại giỏi
mỉa mai, giễu cợt. Cuối đời Trần, phụng mệnh sang Trung Quốc, nhân đi qua đền
Hạng Vương, Hồ có đề một bài thơ mỉa mai, châm biếm. Hạng Vương cho triệu ông
tới đối thoại, biện luận và trách cứ, bất bình trước những lời chỉ trích của Hồ. Hồ Tôn
Thốc không phục và tranh cãi bằng những lời lẽ sắc bén. Hạng Vương nghẹn lời
không nói được, sắc mặt tái đi như tro nguội, nhờ có lão thần họ Phạm nói giúp nên
mới lấy lại được chút thể diện. Hồ Tôn Thốc thấy lão thần họ Phạm nói có lý nên
nhận lời về cõi trần sẽ rửa tiếng oan cho Hạng Vương. Từ biệt Hạng Vương rồi, Hồ
Tôn Thốc mới biết đó là giấc mộng. Không gian trong truyện là không gian giấc
mộng, qua giấc mộng Hồ Tôn Thốc mới xuống được âm phủ và nói lên những điều
bất bình của mình. Nguyễn Dữ đã xây dựng chi tiết giấc mơ, trong đó đã xảy ra cuộc
gặp gỡ kỳ lạ giữa Hồ Tôn Thốc và Hạng Vương_hai con người ở hai thời đại cách
nhau hơn một nghìn năm lại có thể trò truyện, tranh luận với nhau. Để có cuộc gặp
gỡ ấy là nhờ vào yếu tố kỳ ảo tức là giấc mộng của họ Hồ. Không chỉ vậy, nó còn tạo
ra một không gian nghệ thuật mang tính bất động, huyền bí cho thiên truyện. Trong
Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa, Tử Biên đi được vào thế giới của những người chết
cũng nhờ vào giấc mộng.
Chuyện gã trà đồng giáng sinh kể: Dương Đức Công người Thường Tín, là
quan coi việc hành án ở huyện Tuyên Quang, xét xử công minh, nhân tài, phúc hậu
nhưng đã già rồi vẫn chưa có con trai, ông từng chết đi nhưng khi sống là người nhân
hậu, nên trời cho ông cho ông sống lại và ban cho một người con trai, đặt tên là
Thiên Tích, vốn là người hầu trà bên cạnh thượng đế. Thiên Tích được tập ấm đức
công và có một cuộc hôn nhân tốt đẹp. Chàng để chí vào việc học hành rồi thi đỗ làm
quan to. Trong một lần lập đàn tràng làm lễ, có một đạo sĩ xưng là bạn cũ đến thăm.
Đạo sĩ giảng cho ông cai lẽ thiện ác, đạo nhân nói đến hậu quả tương lai Thiên Tích

61
phải gánh chịu vì việc hiện tại mình đã làm. Không gian hư ảo là không gian chứng
kiến khi chết kể với mọi người trong nhà: “Ta mới đến một chỗ thành đen vách sắt…
Dương gian thật không có người nào được thế” [20; tr. 47-48]. Mở rộng từ không
gian trần thế xuống không gian âm phủ, Nguyễn Dữ muốn bù đắp những thiệt thòi
cho con người.

3.1.2. Thời gian kỳ ảo


Thờ
3.1.2.1. Thời gian qu
Thờ á kh
quá ứ
khứ

Trong Truyền kỳ mạn lục có bốn truyện sử dụng thời gian quá khứ: Chuyện
cây gạo, Chuyện gã trà đồng giáng sinh, Chuyện nghiệp oan của Đào Thị và Chuyện
yêu quái ở Xương Giang. Các truyện sử dụng thời gian quá khứ chủ yếu lấy người
phụ nữ làm nhân vật chính. Điều này thể hiện rõ dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Dữ
trong quá trình xây dựng hình tượng nhân vật và chuyển tải nội dung ý nghĩa của tác
phẩm. Chuyện nghiệp oan của Đào thị kể về quá khứ trước khi kể về hiện tại của
nhân vật. Khiếp trước, Đào thị là người tài sắc, được tuyển làm cung nhân, hằng
ngày chầu vua ở chiếu bạc hoặc ở tiệc rượu. Đến khi vua Dụ Tông mất, nàng bi sa
thải, thường qua lại nhà quan Hành khiển Ngụy Nhược Chân, bị vợ quan đánh ghen,
Đào thị thuê thích khách trả thù, việc bại lộ, phải cạo đầu chốn vào chùa Phật Tích.
Một lần họp mặt các văn nhân ở am Cư Tĩnh, vì Đào thi coi thường một học trò nên
bị cậu ta vạch trần tung tích. Đào thị một lần nữa lại đến trốn ở chùa Lệ Kỳ, tai đây
diễn ra mối tình trái luân thường đạo lý với sư bác Vô Kỷ để rồi nàng phải chết trong
khi sinh nở. Hình ảnh Đào Hàn Than chết quằn quại trên giường là lời tố cáo xã hội
mạnh mẽ. Ở kiếp thứ hai, oan hồn của Đào Thị kéo theo bác sư Vô Kỷ, hai người
làm con nhà quan Hành khiển chờ cơ hội báo thù. Việc không thành nàng bị trừng trị
thảm khóc hơn. Tác giả kể lai lịch của nhân vật trong kiếp trước để lý giải hành động
ở hiện tại. Nhân vật Đào thị tiêu biểu cho số phận đau khổ của người phụ nữ trong xã
hội phong kiến bất công.
Chuyện yêu quái ở Xương Giang, Nguyễn Dữ cũng bắt đầu câu chuyện bằng
việc kể về quá khứ của nhân vật trước khi kể về sự việc diễn ra. Trong quá khứ Thị
Nghi phải chịu biết bao đau khổ. Cha mất sớm, mẹ không có tiền đưa linh cữu về quê
mai táng, đành phải bán đứa con gái nhỏ là Thị Nghi cho phú thương họ Phạm. Càng

62
lớn lên nàng càng sinh đẹp. Phú thương họ Phạm và Thị Nghi tư thông với nhau, vợ
Phạm ghen nên đánh Thị Nghi đến chết. Nàng phải chết khi còn rất trẻ, cái chết lại
thảm thương nên biến thành ma để tác yêu tác quái. Viên quan họ Hoàng bị hồn Thị
Nghi mê hoặc, hai người thành vợ chồng, được hơn một tháng, Hoàng đổ bệnh. Một
đạo sĩ phát hiện ra Thị Nghi là yêu quái, cứu sống họ Hoàng. Mộ của Thị Nghi bị đào
bới. Thị Nghi kiện xuống Diêm Vương nhưng lại bị tống vào ngục. Viên quan họ
Hoàng bị giảm thọ một kỷ.
Trong hai truyện trên, tác giả sử dụng thời gian quá khứ để kể về cuộc đời của
nhân vật và cắt nghĩa sự việc đang diễn ra. Nguyễn Dữ đã tái hiện chân thật số phận
của người phụ nữ. Họ là nạn nhân của xã hội bất công, dù thông minh, tài sắc cũng là
thứ để cho những kẻ có quyền, có tiền đem ra hành lạc. Dù còn sống hay đã hóa
thành ma để báo thù thì họ cũng không thoát khỏi bi kịch. Thời gian quá khứ trong
mỗi truyện chiếm thời lượng nhỏ nhưng có tác dụng làm cho câu chuyện phát triển
một cách logíc. Nhà văn đề cập đến số phận oan trái của người phụ nữ và phê phán
những tên lái buôn dựa vào đồng tiền để tác họa, phê phán lối sống trụy lạc của họ.
Khác với Chuyện nghiệp oan của Đào thị và Chuyện yêu quái ở Xương Giang,
ở Chuyện cây gạo nhà văn không bắt đầu bằng việc kể về quá khứ của nhân vật, mà
lai lịch của nhân vật được che giấu. Trình Trung Ngộ là chàng trai đẹp đất Bắc Hà,
thuê thuyền xuống vùng nam đi buôn.Chàng thường đỗ thuyền dưới cầu liễu Khê rồi
đi lại vào chợ Nam Xang. Dọc đường chàng hay gặp một cô gái đẹp từ Đông thôn đi
ra, đằng sau có một ả thị nữ theo hầu. Nhan sắc mĩ miều của Nhị Khanh mê hoặc
Trình Trung Ngộ. Họ đi lại với nhau hơn một tháng thì bị phát hiện. Lúc này Trình
Trung Ngộ mới tìm hiểu về thân thế của Nhị Khanh thì mới biết nàng chết cách đó đã
nữa năm. Tác giả dành cho họ một khoảng thời gian bên nhau, không cho chàng trai
biết lai lịch cô gái, chỉ biết rằng tối đến cô lại xuống thuyền ân ái cùng Trình Trung
Ngộ và sáng lại vội vã ra đi. Hành tung của cô gái thật bí ẩn, khiến người đọc tò mò
muốn tìm hiểu xem nhân vật này là ai. Đến khi sự việc bại lộ, thân thế của Nhị
Khanh không thể che giấu được nữa, người đọc cũng như Trình Trung Ngộ mới thấy
sợ hãy khi biết cô gái là ma. Nhị Khanh chết khi mới hai mươi tuổi, việc xuân chưa
trải, hồn ma của nàng không thể siêu thoát được nên biến thành người, dùng sắc đẹp
để mê hoặc Trung Ngộ. Nhân vật từng nói: “ Người ta sinh ra ở đời, cốt được thỏa
chí, chứ văn chương thời có làm gì, chẳng qua rồi cũng nấm đất vàng là hết chuyện.

63
Đời trước những người hay chữ như Ban Cơ, Sái Nữ nay còn gì nữa đâu. Sao bằng
ngay trước mắt, tìm thú vui say, để khỏi phụ mất thời thanh xuân tươi tốt” [20; tr.40].
Qua nhân vật Nhị Khanh, tác giả vừa phê phán lại vừa đồng tình với khát vọng chính
đáng và rất con người của người phụ nữ.
Chuyện gã Trà đồng giáng sinh, tác giả kể về Dương Thiên Tích được đầu
thai làm con của Dương Đức Công trước khi kể về lai lịch của nhân vật này. Đầu tiên,
tác giả kể về quá trình hành đạo của Dương Đức Công dẫn đến Dương Thiên Tích
được hưởng phúc ấm của cha, được làm quan to. Dương Thiên Tích làm quan nhất
quyết báo phục ân oán thuở nghèo hèn bị mọi người coi khinh. Đó là nguyên nhân để
người bạn cũ xuất hiện nói cho ông biết về tai nạn ở Ô Tôn và kể rõ lai lịch của
Thiên Tích. Ông vốn là một gã Trà đồng ở trên trời thường theo hầu Thượng đế. Một
hôm, Thượng đế hỏi ai bằng lòng xuống chơi xem hạ giới, lĩnh chức tể tướng hơn hai
mươi năm, ông đã nhận lời. Tác giả sử dụng thời gian quá khứ để vừa làm rõ lai lịch
của nhân vật, vừa thuận lợi cho việc triển khai cốt truyện theo tiến trình nhân quả.
Quan niệm của đạo Phật và của dân gian là: “gieo nhân nào gặp quả ấy”, họa phúc
có nguồn, những gì xảy ra ở hiện tại được bắt nguồn từ kiếp trước. Trong truyện nhà
văn sử dụng nhiều kiểu thời gian nên tình tiết của truyện thêm phong phú và phức tạp
song vẫn nhất quán, tất cả cùng hướng đến mục đích hướng thiện cho con người.
Trong các truyện trên, tác giả sử dụng nhiều yếu tố kỳ ảo trong khi xây dựng
thời gian quá khứ. Tác giả sử dụng quan niệm nghiệp duyên, điềm báo, nhân quả báo
ứng, luân hồi hóa kiếp của đạo Phật để tái hiện cuộc đời của nhân vật và thể hiện tư
tưởng của nhà văn.

3.1.2.2. Thời gian mơ hồ


Thờ

Sự xuất hiện của kiểu thời gian mơ hồ, không xác định trong Truyền kỳ mạn
lục khiến cho câu chuyện mang tính chất hư ảo.
Thời gian mơ hồ, không xác định được biểu hiện bằng các cụm từ mang tính
chất phiếm chỉ: “Canh ba đêm hôm đó” (Chuyện cây gạo); “ngày ấy tháng ấy”, “cuối
canh ba” (Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu); “sau khi gà gáy ba hồi” (Chuyện
Lệ Nương); “đến đêm trung thu kia” (Chuyện đối tụng ở Long Cung); “hôm ấy ước
chừng nữa đêm” (Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Trào),…

64
Thời gian mơ hồ không xác định của Truyền kỳ mạn lục là chịu ảnh hưởng từ
truyện cổ tích. Điểm khác giữa thời gian mơ hồ, không xác định của truyện cổ tích và
Truyền kỳ mạn lục đó là thời gian trong truyện cổ tích chủ yếu diễn ra vào ban ngày,
còn trong tác phẩm của Nguyễn Dữ thời gian thường diễn ra vào ban đêm. Đêm tối là
thời gian chủ đạo tạo nên màu sắc kỳ ảo cho các truyện của Truyền kỳ mạn lục.
Theo quan niệm của dân gian, ban ngày là dương, ban đêm là âm. Dương là
cõi sống, ban đêm là cõi chết. Những câu chuyện lạ lùng, kỳ quái thường diễn ra
trong đêm. Các nữ ma thường gặp gỡ tình lang của mình khi trời tối và đến sáng lại
ra đi (Chuyện cây gạo, Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây). Đêm cũng là bạn đồng hành của
cái ác. Trong Chuyện cái chùa hoang ở Đông Trào, Chuyện tướng Dạ Xoa, nạ trộm
cắp, cướp của hoành hành trong đêm. Thời gian đêm tối phủ lên câu chuyện màu đen
rung rợn, ly kỳ, hấp dẫn.

3.1.2.3. Thời gian sinh mệnh


Thờ

Đây là kiểu thời gian phổ biến trong tiểu thuyết trung đại. Thời gian sinh
mệnh được tính bằng cả đời người. Trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ cũng
như trong Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu, Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, thời
gian sinh mệnh thường được tái hiện trong một khoảnh khoắc của đời người, đó là
tuổi trẻ. Trong các tác phẩm truyền kỳ, kiểu thời gian sinh mệnh ấn định ở thời khắc
thanh xuân của đời người thường được các tác giả sử dụng khi viết về các ma nữ.
Trong Chuyện cây gạo, nhân vật Nhị Khanh chết trước khi gặp Trình Trung
Ngộ nữa năm mà vẫn rất xinh đẹp, khiến người lái buôn giàu có bị mê hoặc. Ở
Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây, chàng thư sinh hà Nhân cũng mải mê ân ái với hồn hoa.
Song thời gian tồn tại ở cõi trần của hai nàng hồn hoa là có hạn, đến kỳ thác hóa họ
lại trở thành người của suối vàng. Chuyện yêu quái ở Xương Giang, nhân vật thị
Nghi chết cách đó đã lâu, từ cuối đời Hồ đến triều Lê, sau khi thống nhất mới gặp
viên quan họ Hoàng mà vẫn là cô gái chừng mười bảy, mười tám tuổi. Nhan sắc của
Thị Nghi khiến Hoàng phải động lòng.
Tái hiện thời gian sinh mệnh khi viết về các nhân vật ma nữ, tác giả Nguyễn
Dữ cũng như các tác giả viết truyện truyền kỳ thể hiện tư tưởng nhân văn sâu sắc.
Nhà văn đã miêu tả thời khắc đẹp nhất trong cuộc đời mỗi con người, thời khắc mà

65
con người tràn đầy nhựa sống và khát vọng tình yêu. Tác giả để cho các nhân vật ma
nữ trong truyện phát biểu công khai quan niệm sống của mình. Họ là những người
đến từ cõi âm, họ khát khao tình yêu của người phàm trần nên chủ động quyến rũ các
chàng trai vào những mối tình ân ái. Tác giả đề cao khát vọng yêu thương của họ.
Tuy nhiên, quan niệm sống đó có lúc thoát khỏi vòng cương tỏa của lễ giáo phong
kiến dẫn đến kết cục của họ đều bi thảm.

3.1.2.4. Thời gian lễ ti


Thờ tiếết

Trong tổng số hai mươi truyện của Truyền kỳ mạn lục có ba truyện xuất hiện
không gian lễ tiết. Đó là các truyện: Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây, Chuyện đối tụng ở
Long cung và Chuyện Lệ Nương.
Thời trung đại, con người đặc biệt là người phụ nữ chịu sự ràn buộc nặng nề
của lễ giáo phong kiến hà khắc. Nam nữ không được tự do yêu nhau. Các cô gái phải
sống khép kín trong chốn phòng khuê. Những dịp lễ tết họ mới có cơ hội ra ngoài vui
chơi cùng mội người. Sử dụng kiểu thời gian lễ tiết, Nguyễn Dữ đã tạo cơ hội cho
những nam thanh nữ tú gặp gỡ nhau. Điều này thể hiện tư tưởng tiến bộ của tác giả
về tình yêu tự do.
Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây, mối tình của chàng thư sinh họ Hà với hai nàng
Đào, Liễu diễn ra trong mùa xuân _mùa của sự căn tràn sức sống, của tình yêu, tuổi
trẻ. Đó là thời điểm lý tưởng cho tình yêu nảy nở. Hai nàng Đào, Liễu chủ động làm
quen với Hà Nhân bằng cách hái những “bông hoa đẹp” hoặc “hái những quả ngon”
ném cho chàng. Hai nàng nói: “Từ ngày quan Thái sư qua đời, chúng em vẫn phòng
thu khóa kín. Nay gặp tiết xuân tươi đẹp, chúng em muốn làm những bong hoa hướng
dương, để khỏi hoài phí xuân quang” [20; tr.59-60]. Vào đêm Nguyên tiêu, người ở
kinh thành kéo nhau đi chơi vui rầm rầm, hai nàng mời chàng tới nhà chơi. Chàng
thư sinh được bước vào thế giới của những hồn hoa. Khi buổi xuân dương qua đi
cũng là lúc họ phải chia lìa. Hà Nhân trở lại trại Tây, nhưng khu vườn đã đã trở nên
hoang vắng, tiêu điều. Thời gian lễ tiết trong truyện là thời gian hồi sinh cho muôn
loài và diễn ra điều kỳ lạ, tinh các loài hoa biến thành những cô gái đẹp để đi tìm tình
yêu.
Thời gian lễ tiết không chỉ là cơ duyên gặp gỡ, hội ngộ mà còn có cả chia ly.
Trong Chuyện nàng Túy Tiêu, Túy tiêu đi chùa tháp báo Báo Thiên lễ Phật vào ngày
66
mồng một đầu năm nên bị Thân Trụ Quốc bắt đi. Cũng trong dịp lễ tết, hai người
được đoàn tụ. Theo lệ cũ của bản triều, đến ngày mùng một tết, có đốt cây bông ở
ngoài bờ sông, người trong kinh thành kéo nhau ra xem rất đông. Đó là cơ hội để họ
chạy trốn. Đôi uyên ương đã thực hiện được nguyện ước của mình. Câu chuyện kết
thúc có hậu, Thân Trụ quốc vì xa xỉ nên bị tội, Dư Nhuận Chi đỗ tiến sĩ, hai vợ
chồng sống với nhau đến già.
Ở Chuyện đối tụng ở Long cung, thời gian lễ tiết vào dịp trung thu. Đêm trung
thu “bầu trời quang mây”, “bốn bề trong vắt”, “sông Ngân vằng vặc, trăng sao sáng
tỏ như ban ngày”. Không gian đẹp và thanh bình, Trịnh Thái thú không đề phòng
như những đêm mưa gió, hay đêm tối trời. Hai vợ chồng uống rựu say, thần Thuồng
Luồng nhân cơ hội này đến bắt Dương thị. Đó là đêm khiến hai vợ chồng quan Thái
Thú xa cách nhau ba năm.
Thời gian lễ tiết chiếm tỉ lệ nhỏ trong Truyền kỳ mạn lục song đã thực sự góp
phần làm phong phú thêm thời gian nghệ thuật của tác phẩm. Thời gian lễ tiết vừa
tạo điều kiện cho tài tử, giai nhân kỳ ngộ, vừa là thời gian của sự chia ly, vừa là thời
điểm bắt đầu đưa nhân vật vào cuộc hành trình đi tìm công lý ở thế giới kỳ ảo.

3.1.2.5. Thời gian kh


Thờ khéép kín

Thời gian khép kín là thời gian gắn liền với chuỗi sự kiện, được tính bằng bản
thân và tính liên tục của sự kiện. Thời gian kể gần như trùng với thời gian của sự
kiện được kể. Khi câu chuyện chấm dứt thì thời gian cũng dừng lại, không có gì chờ
đợi sau khi hết chuyện. Đây là kiểu thời gian phổ biến của truyện cổ tích. Ví dụ Ăn
khế trả vàng bắt đầu khi đại bang ăn khế và trả vàng cho người em, người anh gạ đổi
cây khế, người anh tham lam, té lộn cổ xuống biển chết. Khi sự việc xong xuôi,
không có gì để chờ đợi, ước mong và thời gian dừng lại.
Trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ cũng xuất hiện kiểu thời gian này.
Trong Câu chuyện ở đền Hạng Vương, thời gian truyện bắt đầu khi nhân vật Hồ Tôn
Thốc nằm mộng gặp Hạng Vũ. Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa, thời gian truyện
cũng bắt đầu khi Mao Tử Biên chứng kiến cuộc gặp gỡ của vị khách bí ẩn và vợ
chồng chủ nhà Tử Biên ngủ nhờ, gần sáng nhân vật giật mình tỉnh giấc, câu chuyện
kết thúc, không có gì xảy ra tiếp theo.

67
Tuy ảnh hưởng từ thời gian khép kín từ truyện cổ tích nhưng thời gian của
Truyền kỳ mạn lục phức tạp hơn. Thời gian trong truyện cổ tích chỉ một chiều do đó
sự việc từ thắt nút đến mở nút, không có sự quay trở về quá khứ, hay hướng đến
tương lai. Trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ có sự kết hợp của nhiều kiểu
thời gian. Thời gian truyện vừa diễn biến tuần tự theo các dòng sự kiện, vừa có bước
nhảy vọt về thời gian, vừa có sự đảo ngược quay trở về quá khứ và hướng đến tương
lai.

nghệệ thu
3.2. Kỳ ảo trong ngh ật kể chuy
thuậ chuyệện

Những cuộc gặp gỡ giữa con người với thần tiên, ma quỷ; sự đầu thai hoặc
hóa thân kỳ lạ của con người, sự thành tiên nơi thượng giới hay bị đày xuống chốn
địa ngục; sự giúp đỡ của các thế lực siêu nhiên với các nhân vật, hay những phép
thuật kỳ lạ xuất hiện trong truyện. Tất cả những yếu tố kỳ ảo đó là mô típ quen thuộc
trong các truyện truyền kỳ.
Với những mô típ quen thuộc mang nhiều yếu tố kỳ ảo như thế, tác giả đã có
một lối kể chuyện hấp dẫn, lôi cuốn trong từng câu chuyện. Tuy mang nhiều yếu tố
kỳ ảo, nhưng bằng lối kể chuyện chi tiết, sâu sắc mang đậm tính nhân văn, đồng thời
với cốt truyện, nhân vật, không gian và thời gian trong truyện mang tính chất gần gũi
với thực tế nên các câu chuyện ngoài mang tính huyền ảo thì nó cũng làm cho người
đọc một phần tin tưởng nó là hiện thực đời sống.
Trong Truyền kỳ mạn lục xuất hiện rất nhiều cuộc gặp gỡ kỳ lạ giữa con người
với thần tiên, ma quỷ. Câu chuyện ở đền Hạng Vương, Hồ Tôn Thốc gặp Hạng
Vương qua giấc mơ để tranh luận với Hạng Vương và lão thần họ Phạm về vấn đề
nhân và bất nhân. Cũng trong giấc mơ Ngô Tử Văn mới gặp được hồn oan tướng nhà
Minh, bách bộ họ Thôi và Thổ thần rồi cùng nhau xuống đối chất với Diêm Vương
(Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên). Hay chuyện gặp nhau trong mơ giữa Trọng
Quỳ và Nhị Khanh, Phật Sinh và Lệ Nương,…những cuộc gặp gỡ này diễn ra như
hiện thực, họ có thể nói lời yêu thương như lúc còn sống cùng nhau trên dương thế.
Các truyện trên là cuộc gặp gỡ giữa con người với các lực lượng thần kỳ trong giấc
mơ. Giấc mơ thường nằm ở phần đầu câu chuyện, các nhân vật không hề biết mình
nằm mơ, chỉ khi kết thúc truyện, nhân vật bừng tỉnh mới biết những gì mình chứng

68
kiến chỉ tồn tại trong cõi mộng. Cách kết thúc như thế tạo ra sự bất ngờ cũng như sự
hấp dẫn cho câu chuyện.
Không phải cuộc gặp gỡ giữa con người với thần tiên nào cũng trong giấc
mộng. Trong Truyền kỳ mạn lục còn có những cuộc gặp gỡ ở thế giới thực tại.
Chuyện cây gạo, nhân vật Trình Trung Ngộ thuê thuyền xuống vùng Nam buôn bán
thì gặp Nhị Khanh từ Đông Thôn đi ra, vì say mê sắc đẹp của nàng nên Trung Ngộ đã
qua lại với Nhị Khanh mà không biết rằng Nhị Khanh là một hồn ma. Chuyện kỳ ngộ
ở trại Tây là cuộc gặp gỡ giữa Hà Nhân với hai hồn hoa Đào và Liễu, họ đã cùng
nhau nói lời yêu thương nơi thế giới thực tại. Hay Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên, tiên
nữ Giáng Hương được Từ Thức cứu giúp khi gặp nạn trong ngày hội xem hoa mẫu
đơn nơi trần gian nên tạo điều kiện giúp chàng nhìn thấy đám mây ngũ sắc ngoài cửa
bể Thần Phù, tìm đến động tiên để cả hai có thể kết thành vợ chồng.
Dù những cuộc gặp gỡ kỳ lạ của con người với lực lượng thần kỳ là trong giấc
mơ hay thực tại thì yếu tố này đã giúp cho các câu chuyện thêm phần hấp dẫn, gay
cấn, tạo nhiều tình tiết kích thích trí tưởng tượng của người đọc.

việệc kh
3.3. Kỳ ảo trong vi khắắc họa nh
nhâân vật

Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm khác với những tác phẩm giai đoạn trước
ở đặc điểm là đi sâu vào việc khắc họa nhân vật . Trừ một số truyện mà nhà văn chỉ
gửi gắm tư tưởng của mình, ít gia công về nghệ thuật (Câu chuyện ở đền Hạng
Vương, Chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na, Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang,
Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa,…), còn những truyện Nguyễn Dữ đã miêu tả nhân
vật khá sinh động, đặc biệt khắc họa nội tâm bắt đầu được chú ý. Ngô Tử Văn trong
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên được giới thiệu: “Ngô Tử Văn vốn khẳng khái,
nóng nảy, thấy sự tà gian thì khôn thể chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là một
người cương phương”; Từ Thức trong Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên: “Vốn tính ham
rựu, thích đàn, ham thơ, mến cảnh”; hay Vũ Thị Thiết trong Chuyện người con gái
Nam Xương: “Người con gái thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp, giữ gìn khuôn phép”…
Cách giới thiệu này đã giúp người đọc phần nào định hình được nhân vật, đồng thời
thể hiện cảm xúc của họ đối với nhân vật.
Nguyễn Dữ không đi sâu vào miêu tả ngoại hình nhân vật. Tuy nhiên, những
nhân vật là người phụ nữ, tác giả thường kết hợp việc miêu tả ngoại hình và tính cách
69
của nhân vật. Trong thời kỳ phong kiến, người phụ nữ luôn đứng phía sau người đàn
ông, bị chèn ép, áp bức, cam chịu đặc biệt với những người phụ có hương sắc. Ngoại
hình và tính cách của người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục đã phần nào thấy được
cuộc đời mà họ phải đi. Những nhân vật phụ nữ nết na, đoan trang thường trang điểm
nhẹ nhàng, ăn mặt giản dị, cốt cách thanh thoát như: Giáng Hương trong Chuyện Từ
Thức lấy vợ tiên, Vũ Thị Thiết trong Chuyện người con gái Nam Xương, Lệ Nương
trong Chuyện Lệ Nương,… Còn những người phụ nữ có cuộc đời sống gió thường có
vẻ đẹp sắc sảo, mặn mà như Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo, Đào Hàn Than trong
Chuyện nghiệp oan của Đào thị, Thị Nghi trong Chuyện yêu quái ở Xương Giang,
hay nàng Túy Tiêu trong Chuyện nàng Túy Tiêu,…
Một số truyện trong Truyền kỳ mạn lục đã khắc họa nội tâm của nhân vật. Đây
là điều mà các tác phẩm mang thiên hướng ghi chép lại lịch sử, những câu chuyện
thần kỳ của nhân gian ở thời kỳ trước chưa có được. Dù chưa khắc họa sâu sắc nhưng
Nguyễn Dữ cũng khá thành công việc đặc tả tâm trạng nhân vật. Đào Hàn Than
(Chuyện nghiệp oan của Đào Thị) đã từng nói ra nỗi đau khổ, dằn vặt trong lòng
mình: “Thiếp buổi trước ngàn dâu xế bóng, cửa Phật nương mình, đáng cười thay
chưa dứt lòng trần, thêm ngán nỗi còn vương nợ nghiệp, đài Dao mệnh đứt, đến nỗi
chia bày, sống còn chưa được thỏa yêu đương, chết xuống sẽ cùng nhau quấn quýt”
[20;tr. 108]. Hay Vũ Nương nói với Trương Sinh khi bị nghi ngờ thất tiết (Chuyện
người con gái Nam Xương): “Thiếp vốn nhà nghèo, được vào cửa tía, xum hợp chưa
thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm, giữ gìn một
tiết. Tô son điểm phấn đã từng nguội lòng, ngõ liễu đường hoa chưa hề bén gót. Đâu
có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin trấn bạch để cởi mối nghi ngờ.
Mong chàng đừng một mạch nghi oan cho thiếp” [20; tr. 219]. Đây không chỉ là cuộc
đối thoại với Trương Sinh mà còn là lời đọc thoại của bản thân về việc an phận thủ
thường của một người vợ đối với chồng.
Đặc biệt, Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên và Chuyện nàng Túy Tiêu là hai truyện
được Nguyễn Dữ đầu tư kỹ lưỡng trong việc miêu tả tâm trạng của nhân vật. Từ
Thức (Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên) trong cuộc sống thực tại nơi trần gian đã được
lấy vợ tiên và sống nơi tiên giới, ban đầu đây là một niềm vui, niềm khao khát lớn lao
bấy lâu nay, nhưng càng sống nơi cõi tiên tiên thì Từ Thức lại càng nhớ nơi trần gian.
Không thể nào chịu nổi cảnh nhớ quê hương, cuối cùng Từ Thức cũng từ biệt Giáng

70
Hương để trở về cõi trần. Nhân vật Dư Nhuận Chi (Chuyện nàng Túy Tiêu) sống
động hơn với tâm trạng kẻ si tình đau khổ trong tình cảnh đầy éo le. Vợ chồng chàng
đang ở cùng nhà Trụ quốc họ Thân, phải hẹn đến nửa đêm mới có thể gặp mặt. Bao
nhiêu hy vọng, hồi hộp chờ đợi mòn mỏi người mình yêu đến gặp nhưng cũng lo âu
sợ bị phát hiện, khi nghe tiếng động ngoài cửa thì mừng rỡ chạy ra, nhưng lại buồn
bã đi vào khi đó không phải là người mình chờ, thất vọng bởi hẹn không thành, …
những cảm xúc đó bộc lộ khá rõ ràng.
Truyềền kỳ mạn lục của Nguy
Tìm hiểu yếu tố kỳ ảo trong Truy Nguyễễn Dữ ta thấy rằng
chính yếu tố “kỳ” đem lại bầu không khí mới cho câu chuyện. Nếu như nhân vật gặp
bế tắc thì yếu tố “kỳ” xuất hiện giúp các nhân vật giải quyết được các bế tắc đó. Đồng
thời, qua đó tác gải muốn truyền tải triết lý nhân sinh cho con người. Con người đều
có hai mặt thiện và ác, hãy sống sao để mặt thiện được phát huy và mặt ác bị dìm sâu,
sống có ít cho xã hội và cho bản thân mình.

71
PH
PHẦẦN KẾT LUẬN
LUẬ

Truyện truyền kỳ là một bộ phận gắn liền với sự hình thành của lịch sử văn
học Việt Nam. Đặc điểm của truyện truyền kỳ là luôn tồn tại yếu tố kỳ ảo, hoang
đường. Thời phong kiến với quan niệm “kính quỷ thần nhi viễn chi”, đây được coi là
vùng “cấm địa” đối với những môn đệ của cửa Khổng sân Trình. Tuy nhiên, với cảm
xúc nghệ thuật mạnh mẽ mà yếu tố kỳ ảo mang lại, các tác giả không ngần ngại cho
ra những tác phẩm truyền kỳ.
Truyền kỳ mạn lục mượn yếu tố hoang đường kỳ ảo, mượn truyện xưa để phản
ánh hiện thực xã hội đương thời. Bóc tách cái vỏ kỳ ảo hoang đường chúng ta sẽ thấy
cái lõi hiện thực, phủi lớp bụi thời gian chúng ta sẽ thấy rõ nét bộ mặt xã hội đương
thời. Do đó, xét đến cùng Truyền kỳ mạn lục không phải là truyện ma quái mà là
truyện con người, không phải là truyện xảy ra trong quá khứ mà là truyện xảy ra
trong xã hội nước ta thế kỷ XVI.
Thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ..., tác phẩm
muốn gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự,
vua chúa hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót đầy triều đình; những kẻ
quyền cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân lành; thậm chí chiếm
đoạt vợ người, bức hại chồng người. Trong một xã hội rối ren như thế, nhiều tệ nạn
tất sẽ nảy sinh. Cờ bạc, trộm cắp, tật dịch, ma quỷ hoành hành, đến Hộ pháp, Long
thần cũng trở thành yêu quái. Sư sãi, học trò, thương nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong
sắc dục.
Yếu tố kỳ ảo phản ánh thực trạng xã hội lúc bấy giờ và cho ta thấy được niềm
khác khao của con người trong thời đại này. Trong một xã hội với nhiều biến động,
con người nơi đây muốn thoát ly thực trạng đen tối này, họ muốn sống trong một thế
giới bình yên, nơi không có những cái xấu hiện hữu, nơi công lý được đặt lên hàng
đầu đó chỉ có thể là những cảnh đẹp nơi tiên giới, công lý chốn thủy phủ, âm phủ. Và
chính yếu tố kỳ ảo đã giúp họ có được niềm khác khao đó và đây cũn là niềm gởi
gấm của tác giả thông qua các câu chuyện.
Yếu tố kỳ ảo đem lại một bầu không khí mới cho câu chuyện. Nếu như nhân
vật gặp bế tắc thì yếu tố kỳ ảo xuất hiện giúp các nhân vật giải quyết được những bế
tắc đó. Đồng thời, chính những yếu tố kỳ ảo như thế, tác giả muốn truyền tải triết lý
72
nhân sinh cho con người. Con người sống trong thế giới này đều có cai thiện và cái
ác, những cái đó rồi sẽ được đền bù và trả giá nhất định. Hãy sống có ích cho xã hội,
cho con người, như thế cũng đồng nghĩa với việc sống tốt cho bản thân mình.
Truyện truyền kỳ không chỉ là đặc sản riêng trong văn xuôi tự sự Việt Nam
mà còn phát triển ở toàn bộ vùng văn học Đông Á. Nói đến truyện kỳ ảo Đông Á,
trước tiên, phải nói đến truyện kỳ ảo trong văn học Trung Quốc - trung tâm văn hóa
có sức ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu dài nhất đến văn học của các nước trong khu vực.
Thời kỳ Minh - Thanh cũng là một trong những giai đoạn phát triển đến đỉnh điểm
của truyền kỳ, chí dị, trong đó nổi bật hai tên tuổi lớn là Cù Hựu - tác giả Tiễn đăng
tân thoại và Bồ Tùng Linh - tác giả Liêu trai chí dị.
Ở Việt Nam con đường của truyện kỳ ảo thời trung đại từ Lý Tế Xuyên, qua
Trần Thế Pháp, đến Thánh Tông, Nguyễn Dữ ... là những bước phát triển liên tục.
Truyện truyền kỳ chỉ thực sự xuất hiện vào thế kỉ XV – XVI với sự ra đời của hai tác
phẩm Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục, trong đó Thánh Tông di thảo được
xem là “bước đột khởi” và Truyền kỳ mạn lục là “đỉnh cao” của thể loại.
Như vậy, thông qua các yếu tố kỳ ảo ta có thể thấy vai trò là gạch nối hai giai
đoạn phát triển – giai đoạn mở đầu và giai đoạn đỉnh cao – trong Thánh Tông di
thảo và sự phát triển đỉnh cao của thể loại ở Truyền kỳ mạn lục.
Ở những giai đoạn sau, yếu tố kỳ ảo vẫn được các nhà văn tiếp tục phát triển
và có phần mới lạ hơn với Ma Văn Kháng, Đoàn Lê, Nguyễn Minh Dậu, Nguyễn
Ngọc Thuần… những trí thức Tây học như Nhất Linh, Thanh Tịnh, Đỗ Huy Nhiệm
đến những người có vốn lí luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và được tiếp xúc
với nền khoa học kĩ thuật hiện đại hôm nay như Bảo Ninh, Lê Minh Khuê, Phạm
Ngọc Tiến, Ngô Tự Lập, Hồ Anh Thái… Sức sống bền bỉ và hấp dẫn của truyện
truyền kỳ là sự khiêu khích và thách đố đối với những quan niệm cực đoan và tư duy
duy lí trói buộc, máy móc hóa con người.
Từ những kết quả nghiên cứu được tổng hợp và trình bày trên đây, chúng ta
hoàn toàn có thể khẳng định Truyền kỳ mạn lục là một sáng tác rất thành công và có
giá trị nhiều mặt. Truyền kỳ mạn lục, mặt dù đã trải qua mấy trăm năm nhưng vẫn là
một tác phẩm có sức hấp dẫn cao và mãi mãi chiếm được tình cảm của người đọc. Đó
là một tác phẩm tuy mượn hình thức từ nền văn học Trung Quốc nhưng rõ ràng là sản

73
phẩm của người Việt Nam, do người Việt Nam viết, mang đậm nét tâm hồn, tư tưởng,
tình cảm của con người Việt Nam.
Qua các yếu tố kỳ ảo xuất hiện trong từng tập truyện cũng có thể khẳng
định: Truyền kỳ mạn lục mang đậm yếu tố truyền kỳ và là bước phát triển của thể loại
trên tất cả các phương diện xây dựng cốt truyện, nhân vật, nghệ thuật kể chuyện,
cách sử dụng yếu tố kỳ ảo.
Miêu tả yếu tố kỳ ảo cũng là cách để các tác giả thể hiện quan niệm nghệ thuật
về con người. Trở thành ma quái, yêu tinh chính là hình thức để tiếp tục cuộc sống
còn dang dở, mở ra một con đường để thoát ra khỏi cái hữu hạn của đời người.
Những nhân vật ma quái, yêu tinh là nữ phản ánh quan niệm văn hóa xưa cho rằng
người phụ nữ đẹp – tượng trưng cho dục vọng bản năng – đáng sợ như ma quỷ, chứa
chất sự mê hoặc, là nguồn gốc của tội lỗi, là nguyên nhân khiến kẻ sĩ xa dần đạo lí,
khiến kỉ cương rối loạn. Rõ ràng thế kỉ XV – XVI vẫn giữ một cái nhìn khá khắt khe
về người phụ nữ. Những thiên truyện đề cập đến quan hệ tình yêu của người với ma
quái, của ma với ma với sự hiện diện thoải mái, dễ dàng và mãnh liệt của yếu tố tính
dục chứng tỏ nhu cầu thỏa mãn những tình cảm bản năng trần tục của con người rõ
ràng là một vấn đề được đặt ra ở thời đại Nguyễn Dữ. Tác phẩm này thể hiện sự mâu
thuẫn giữa nhà đạo đức nhà nho với tư tưởng tiến bộ của nhà văn.
Với những gì Truyền kỳ mạn lục thể hiện được thì có thể nói danh xưng “thiên
cổ kỳ bút” là rất xứng đáng với tác phẩm này.

74
liệệu tham kh
Tài li khảảo

1. Lê Huy Bắc, Cái kỳ ảo và văn học huyền ảo, Tạp chí nghiên cứu văn học số 8,
2006.
2. Lê Nguyên Cẩn, Cái kỳ ảo trong tác phẩm Balzac, Nxb Đại học Sư Phạm Hà Nội,
2003.
3. Nguyễn Kim Châu_Tạ Đức Tú, Giáo trình văn học Việt Nam giai đoạn từ thế kỷ X
đến thế kỷ XVIII, Nxb Đại học Cần Thơ, 2012.
4. Phạm Tú Châu, Về mối quan hệ giữa Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục,
Tạp chí văn học (số 3), 1987.
5. Nguyễn Huệ Chi, Tìm hiểu các dạng truyện kỳ ảo trong văn học trung đại và cận
đại Đông Tây, in trong những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, Viện văn học, 1999.
6. Nguyễn Văn Dân, Nghiên cứu văn học, lý luận và ứng dụng, Nxb khoa học xã hội,
1984.
7. Lê Bá Hán_Trần Đình Sử_Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Giáo dục Hà Nội, 1992.
8. Đỗ Đức Hiểu (chủ biên), Từ điển văn học (tập hai), Nxb Khoa học xã hội, 1984.
9. Nguyễn Duy Hinh, Vấn đề Từ Thức, Tạp chí văn học số 5, 1986.
10. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Văn học Việt Nam thế kỷ X đến nữa đầu thế kỷ XVIII,
Nxb Giáo dục Hà Nội, 2001.
11. Lê Kinh Khiên, Một số vấn đề lý thuyết chung về mối quan hệ văn học dân gian,
văn học viết, Tạp chí văn học số 1, 1980.
12. Lê Nguyên Long, Về khái niệm cái kỳ ảo và văn học kỳ ảo trong nghiên cứu văn
học, Tạp chí nghiên cứu văn học số 9, 2006.
13. Iu.M.Lotman, Kết cấu tác phẩm nghệ thuật ngôn từ (Trịnh Bá Dĩnh dịch) trong
sách chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb văn học Hà Nội, 2002.
14. Trần Ích Nguyên, Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục,
Nxb Văn học Hà Nội, 2001.
15. Hoàng Phê, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2009.
16. Vũ Tiến Quỳnh, Phê bình_bình luận văn học: Nguyễn Dữ_Lê Hữu Trác_Ngô Gia
Văn Phái_Phạm Thái_Lê Thánh Tông, Nxb Văn nghệ tp. Hồ Chí Minh, 1994.

75
17. Nguyễn Hữu Sơn, Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên trong sách phân tích, bình
giảng tác phẩm văn học 10 nâng cao, Nxb Giáo dục, 2006.
18. Trần Đình Sử, So sánh văn học và văn hóa Nguyễn Dữ và tiên thoại Trung Quốc
qua Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên, Tạp chí văn học số 5, 2000.
19. Vũ Thanh, Những biến đổi của yếu tố kỳ và thực trong truyện ngắn truyền kỳ Việt
Nam, Tạp chí văn học (số 6), 1994.
20 Trúc Khê Ngô Văn Triện (dịch), Truyền kỳ mạn lục, Nxb trẻ_Nxb Hồng Bàng,
2013.
21. Phùng Văn Tửu, Phương thức huyền thoại trong sáng tác văn học, Tạp chí
nghiên cứu số 10, 2007.

76
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1. Lý do ch
chọọn đề tài.......................................................................................
.......................................................................................11
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................
............................................................................................22
đề............................................................................................
2.1. Nghiên cứu lý luận........................................................................................ 4
2.2. Nghiên cứu thực tiễn sáng tác....................................................................... 5
3. Mục đí ch nghi
đích nghiêên cứu................................................................................ 6
Phạạm vi nghi
4. Ph nghiêên cứu.................................................................................. 6
5. Ph ươ
Phươ ng ph
ương áp nghi
phá nghiêên cứu......................................................................... 7
PHẦN NỘI DUNG...................................................................................................... 9
CHƯƠ
CHƯƠ NG 1: KHÁI QUÁT CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI.................9
ƯƠNG
ượcc về văn học trung đạ
1.1. Sơ lượ đạii Vi
Việệt Nam ............................................... 9
Nam...............................................
1.2. Văn hóa tinh ph phầần, tâm linh con ng ngườ ườ
ườii trung đạ đạii............................ 11
ượcc về th
1.3. Sơ lượ thểể loại truy
loạ truyềền kỳ............................................................... 13
...............................................................13
1.4. Giới thi
Giớ thiệệu về ph
phạ ạm tr ù kỳ ảo trong văn học..................................... 15
trù
1.4.1. Khái niệm chung về phạm trù kỳ ảo trong văn học................................. 15
1.4.2. Quan niệm kỳ ảo trong văn học thế giới nói chung và văn học Việt Nam
nói riêng..............................................................................................................19
1.4.3. Mối quan hệ giữa yếu tố hiện thực với yếu tố kỳ ảo trong văn học.........22
1.5. Giới thi
Giớ thiệệu tác giả, tác ph
giả phẩẩm................................................................ 25
1.5.1. Tác giả Nguyễn Dữ.................................................................................. 25
1.5.2. Sơ lược về tác phẩm truyền kỳ mạn lục................................................... 26
CH ƯƠ
CHƯƠ NG 2: TIẾP CẬN TÁC PHẨM TRUYỀN KỲ MẠN LỤC QUA CÁC YẾU
ƯƠNG
TỐ KỲ ẢO.................................................................................................................33
truyệện............................................................................ 33
2.1. kỳ ảo qua cốt truy
truyệện nh
2.1.1. Cốt truy nhâân vật lạc bướ ướcc đếđến n cõi lạ......................................... 33
.........................................33
truyệện về gi
2.1.2. Cốt truy ấc mơ.......................................................................
giấ 34
.......................................................................34
2.1.3. Cốt truyện xử kiện, giải oan và đấu tranh dưới âm phủ hay tiên giới......36
2.1.4. Cốt truyện diệt trừ yêu quái......................................................................37
tuyếến nh
2.2. Kỳ ảo qua tuy ân vật................................................................... 41
nhâ
2.2.1. Các dạng nhân vật trong Truyền kỳ mạn lục............................................41
2.2.2. Nhân vật ma quái, thần kỳ........................................................................44
CHƯƠ
CHƯƠ NG 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG TRUYỀN KỲ
ƯƠNG
MẠN LỤC CỦA NGUYỄN DỮ...............................................................................50
3.1. Kỳ ảo trong kh
khôông gian, thời gian
thờ ......................................................
gian...................................................... 50
......................................................50
Khôông gian kỳ ảo.................................................................................... 51
3.1.1. Kh
3.1.1.1. Không gian trần thế........................................................................... 51
3.1.1.2. Không gian thượng giới.....................................................................56
3.1.1.3. Không gian âm phủ, thủy phủ............................................................58
3.1.2. Thời gian kỳ ảo....................................................................................... 61
Thờ
3.1.2.1. Thời gian quá khứ..............................................................................61
3.1.2.2. Thời gian mơ hồ.................................................................................63
3.1.2.3. Thời gian sinh mệnh.......................................................................... 64
3.1.2.4. Thời gian lễ tiết..................................................................................65
3.1.2.5. Thời gian khép kín............................................................................. 66
nghệệ thu
3.2. Kỳ ảo trong ngh ật kể chuy
thuậ chuyệện..................................................... 67

77
việệc kh
3.3. Kỳ ảo trong vi khắắc họa nh
nhâân vật................................................... 68
...................................................68
PHẦN KẾT LUẬN....................................................................................................71
Tài liệu tham khảo..................................................................................................... 74

78
NH
NHẬẬN XÉT CỦA GI
GIÁÁO VI
VIÊÊN HƯỚ NG DẪN
ƯỚNG
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………….……………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………….............

79
NH
NHẬẬN XÉT CỦA GI
GIÁÁO VI
VIÊÊN PH
PHẢẢN BIỆN
BIỆ
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………....

80

You might also like