You are on page 1of 23

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM-ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

KHOA NGỮ VĂN

-------------------------

TIỂU LUẬN HẾT MÔN HỌC

Đặc trưng nội dung và hình thức thể loại truyện truyền kì

trong văn học trung đại Việt Nam

Học phần: Hệ thống thể loại và ngôn ngữ văn học trung đại Việt Nam

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Thanh Duyên

Lớp: 22CVH

Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Quang Huy

Đà Nẵng, Tháng 6/2023


Mục lục

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
NỘI DUNG ................................................................................................................ 2
1.Khái niệm thể loại truyện truyền kì ......................................................................2
2. Lịch sử hình thành và phát triển thể loại truyện truyền kì ............................... 2
3. Đặc trưng nội dung của thể loại truyện truyền kì ...............................................4
3.1. Truyền kì là một thể loại phản ánh hiện thực ...............................................4
3.2. Đầy giá trị nhân đạo, đậm chất nhân văn .....................................................5
3.3. Các nhân vật nữ chịu nhiều oan trái trắc trở trong số phận .......................6
3.4. Tình yêu nam nữ và cái kì quái trong thế giới thần linh ma quỷ................8
4. Đặc trưng hình thức của thể loại truyện truyền kì ...........................................10
4.1. Bố cục ..............................................................................................................10
4.2. Hòa quyện giữa yếu tố hiện thực và những yếu tố hoang đường, kì ảo. ..10
4.3. Truyện-thơ hợp thể........................................................................................11
4.4. Xây dựng nhân vật.........................................................................................12
4.5. Lời trần thuật .................................................................................................14
4.6. Cốt truyện .......................................................................................................15
4.7. Kết cấu ............................................................................................................17
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................... 21
MỞ ĐẦU

Nền văn hoc Việt Nam có bề dày lịch sử lâu đời với những sắc màu phong phú,
phản ánh được đời sống của nhân dân qua từng giai đoạn, từng thời kì một cách chân
thực nhất. Thời kì trung đại, nền văn học nước ta trải qua nhiều thăng trầm thế nhưng
vẫn giữ lại được những bản sắc riêng để phát triển văn học nước ta. Trải qua quá trình
hình thành và phát triển, truyện truyền kì đã trở thành một trong số những loại hình văn
học tiêu biểu đương thời. Truyện truyền kì chính là những kết tinh của văn hoá, được
đúc kết từ những câu chuyện dân gian trong quá trình hình thành của các giai đoạn lịch
sử của dân tộc.
Truyện truyền kì là một trong ba loại hình văn xuôi tự sự của nước ta thời trung
đại, nó vốn dĩ là các câu truyện thần kì của nền văn học Trung Hoa cổ đại. Nước ta tiếp
nhận và phát triển nó theo cách riêng của mình. Sự ra đời của thể loại truyện kì đã khẳng
định được những bước nhảy trong văn xuôi Việt Nam. Nhưng nổi bật hơn hết là nội
dung của nó với sự tái hiện của các bức tranh hiện thực, phản ánh đời sống con người.
Từ trước đến nay, truyện truyền kì đã được các nhà nghiên cứu đào sâu để tìm hiểu
và đã được những thành tựu khác nhau.Và việc tìm kiếm ấy đã góp phần nhận định đúng
đắn về diện mạo cũng như thành tựu của các tác phẩm truyền kì ở các đặc trưng về nội
dung cũng như là nghệ thuật của nó.

1
NỘI DUNG

1.Khái niệm thể loại truyện truyền kì


Từ điển Thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán chủ biên cho rằng: “Kì nghĩa là không
có thực, nhấn mạnh tính chất hư cấu”.
Với Nguyễn Đăng Na trong bài viết Truyền kì mạn lục dưới góc độ so sánh thì
khẳng định truyền kì: “là một thể tài của truyện ngắn trung đại. Do các nhân vật, tình
tiết, kết cấu… của truyện phần lớn là lạ kì đặc biệt, nên người ta gọi chúng là truyền kì”
Còn đối với Trần Đình Sử trong cuốn Thi pháp văn học trung đại Việt Nam được
hiểu theo hai nghĩa: “Một là có ý chuộng lạ, hai là chứa đựng nhiều thể: sử, thơ, nghị
luận... Về phong cách , truện truyền kì dùng văn xuôi để kể, đến chỗ tả cảnh, tả người
thì dùng văn biền ngẫu, khi nhân vật bộc lộ cảm xúc thì thường làm thơ. Tên gọi truyền
kì không những dùng để chỉ một loại tự sự mà đến đời Minh, Thanh, nó lại chuyên dùng
để chỉ thể loại hý khúc.”
Trong cuốn Lý luận văn học (tập 2) Trần Đình Sử đã viết: “Truyền kì là thể loại
văn học chữ Hán có cội nguồn từ văn học Trung Quốc. Truyền kì Trung Quốc manh nha
từ đời Nguỵ Tấn, hình thành từ thời Đường với các tác phẩm như Truyện Lý Oa, Truyện
Nhậm Thị. Truyện truyền kì Việt Nam có cội nguồn gần hơn như tập truyện Tiễn đăng
tân thoại của Cù Hựu, đời Nguyên”
Trong bài viết Vài nét về truyện truyền kì Việt Nam Nguyễn Đăng Na đã nói:
“Truyện tuyền kì có nguồn gốc từ Trung Hoa và lan toả ảnh hưởng trong toàn khu vực
đồng văn. Tuy nhiên, khi du nhập vào mỗi nước, tuỳ hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà chúng
được biến thái, tạo nên nét đặc sắc riêng cho mỗi dân tộc”.
Truyện truyền kì Việt Nam chính là sự kết hợp từ những ảnh hưởng của các câu
truyện truyền kì ở Trung Hoa cổ đại và các câu chuyện cổ tích của dân tộc ta. Chính cái
tên truyền kì cũng được vay mượn. Tuy nhiên, không bị ảnh hưởng nhiều bởi các yếu tố
trên, truyện truyền kì Việt am trở nên rực rỡ bởi tài năng bút pháp của các nhà văn. Khi
du nhập vào nền văn học Việt Nam, truyền truyền kì chỉ giữ lại cái hình hình thức, nội
dung của truyện truyền kì Việt Nam hoàn toàn do người viết vô và tạo ra dựa trên những
sự kế thừa truyền thống. Các tác phẩm luôn mang yếu tố kì ảo hoang đường nhưng lồng
ghép trong đó là những tư tưởng về cuộc sống.
2. Lịch sử hình thành và phát triển thể loại truyện truyền kì
Cũng giống như các thể loại khác trong nền văn học trung đại Việt Nam, thì truyện
truyền kì cũng có quá trình hình hình thành và phát triển của nó. Và nó đều trải qua các
giai đoạn giống nhau như: phát sinh, phát triển, suy thoái và cuối cùng là suy song.

2
Trong bài viết Vài nét về truyện truyền kì Việt Nam Nguyễn Đăng Na đã chi truyền kì
Việt Nam thành bốn giai đoạn.
Đầu tiên là giai đoạn từ thế kỉ X-XIV, đây được coi là thời kì phát sinh của thể loại
này, các tác phẩm chứa đựng những yếu tố truyền kì. Giai đoạn này có hai loại tác phẩm
được sưu tầm chính: “một là ghi chép lại các câu chuyện truyện dân gian, hai là truyện
lịch sử dân tộc và truyện lịch sử tôn giáo”. Do tính truyền thống trong các câu truyện
dân gian và yêu cầu của lịch sử, nên truyền kì trong giai đoạn X-XIV chủ yếu xoay
quanh các câu chuyện khẳng định về nước Việt-đó chính là nội dung của truyện truyền
kì trong giai đoạn này. Về mặt nghệ thuật thì,sử dụng các cơ sở trước đó của văn học
dân gian mà phát triển những motip hay cải biến chúng để tác phẩm có thể trở nên sáng
tạo hơn.
Tiếp theo là giai đoạn XV-XVII, đây là thời kì đỉnh cao của thể loại truyện kìe ở
Việt Nam. Ở giai đoạn đã hoàn toàn phá bỏ những rào cản, sự ép buộc trói bỏ lẫn nhau
giữa văn học dân gian và văn học chức năng. Giai đoạn này là giai đoạn hoàn kim của
văn học truyền kì nói riêng và văn học Việt Nam nóic hung. Với hình thức mới lạ, khi
sử dụng yếu tố kì ảo để truyền tải đến người đọc những nội dung với những ý nghĩa sâu
xa. Các câu truyện truyền kì luôn có sức hấp dẫn đối với bạn đọc ở mọi độ tuổi. Bởi
những yếu tố kì ảo đã đưa người đọc vào thế giới huyền ảo vô định. Người đọc có thể
tiếp xúc với các nhân vật thần thánh tren thiên đường như Nam Tào, Bắc Đẩu,..hay các
loài yêu ma quỷ quái. Một thế giới vừa thực, vừa ảo trong các dòng văn của các tác giả.
Truyền kì trong giai đoạn này đưa người đọc đến với các câu chuyện tình yêu nồng nàn
nhưng cũng đầy đắng cay bởi số phận của họ trước xã hội phong kiến đầy khắc nghiệt.
Sự lồng ghép giữa thơ và văn xuôi chính là đặc điểm nổi bật nhất trong giai đoạn này,
nó đã mở ra những chiều sâu phản ánh hiện thực và tạo ra nét riêng cho văn xuôi tự sự
trong thế kỉ XV-XVII.
Bước vào giai đoạn thứ ba, thế kỉ XVII-giữa XIX, truyện truyền kì đã có những
chuyển biến rõ rệt trong giai đoạn này trong những quan điểm sáng tác. Đây được coi là
thời kì đầy biến động. Bởi trong giai đoạn này các nhà văn hướng về hiện thực , phản
ánh xã hội một cách trực tiếp và đúng sự thực. Nhưng truyền kì truyền thống cần phải
có điều kiện để phát triển. Sự thay đổi cách tân trên quan điểm hiện thực là sự tiến bộ,
nhưng nhìn từ quan điểm nghệ thuật đó lại là những bước lùi. Bởi lẽ hiện thực và kì ảo
trong giai đoạn rất khó để dung hợp lại với nhau, nếu chất thực tăng thì yếu tố kì ảo sẽ
giảm xuống và ngược lại.
Đến cuối thể kỉ XIX, truyện truyền kì không còn phát triển mạnh mẽ như trước
nữa. Bởi đây là giai đoạn bước vào thời kì cận hiện đại. Giữa thế kỉ XIX, Pháp nổ súng
xâm lược nước ta, để hưởng ứng phong trào chống giặc ngoại xâm, các nhà văn nhà thơ

3
chuyển sang giai đoạn tư duy của những con người cận hiện đại. Tuy nhiên, các yếu tố
kì ảo vẫn được sử dụng trong các thể loại văn học khác như văn học viễn tưởng, văn học
huyền thoại. Nhưng cái bản chất vốn có của truyện truyền kì vẫn không giữ được.
3. Đặc trưng nội dung của thể loại truyện truyền kì
3.1. Truyền kì là một thể loại phản ánh hiện thực
Thế giới trong truyện truyền kì là một thế giới huyền ảo và mang tính hoang đường
thế nhưng phía sau những câu chuyện hoang đường ấy là sự phản ánh của xã hội, của
lịch sử, bên cạnh đó truyện truyền kì còn nêu lên được số phận của những con người
trong xã hội đương thời. Một xã hội với nhiều khó khăn, rối loạn và đầy những biến
động xoay quanh cuộc sống với nào là giặc, là cướp bóc hay thâm chí là những cuộc nội
chiến được thể hiện qua tác phẩm Truyền kì mạn lục, trong Chuyện người nghĩa phụ
Khoái Châu tác giả đã hình dung một đất nước với sự biến động “binh biến rối ren”.
Xã hội trong các câu truyện truyền kì được thể hiện với một xã hội nhiều tệ nạn
nào là những kẻ quan tham lam lập bè phái để ức hiếp, chèn ép dân lành. Những kẻ tham
lam ấy hiện lên qua những nét bút đầy căm phẫn, tuy nhiên những tên quan được thể
hiện bằng những câu văn trực tiếp nhưng đôi khi bọn hắn lại được thể hiện qua các hình
ảnh gián tiếp, gắn liền với các nhân vật như quỷ thần hay các loài vật.
Trong Truyền kì mạn lục, các hình ảnh của các vị vua nhà Lê được hiện lên trong
thời kì suy thoái, tác giả đã sử dụng hình ảnh của vua Hồ Hán Thương trong Câu chuyện
đối đáp của người tiều phu núi Na. Một tên vua“dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết
sức dân để dựng cung Kim Âu, dốc cạn kho của để mở phố Hoa Nhai, phao phí gấm là,
vung vãi châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, hình ngục có của đút
là xong, quan chức có tiền mua là được, kẻ dâng lời ngay bị giết, kẻ nói điều nịnh thì
được thưởng, lòng dân động lay…”. Bên cạnh đó, nhân vật Lý Hữu Chi trong Chuyện
Lý tướng quân lại còn “dựa lũ trộm cướp coi như lòng ruột, coi người nho sĩ như cừu
thù, thích sắc đẹp, ham tiền tài, tham lam không chán, lại tậu ruộng vườn, dựng nhiều
nhà cửa, khai đào đồng nội để làm ao, dồn đuổi xóm giềng cho ruộng đất, đi kiếm những
kì hoa đá lạ từ bên huyện khác đem về…”.
Như đã nói trên tác giả sử dụng các nhân vật quỷ thần và các loài vật làm hình ảnh
ẩn dụ thể hiện các tên quan tham lại một cách gián tiếp. . Trong Chuyện chức phán sự
đền Tản Viên, hình ảnh “các đền miếu gần quanh đều ăn của đút lót” mang suy nghĩa
khi được hồn ma của Bách hộ họ Thôi bao che, nên tác quai tác quái với thổ thần nước
Việt. Đây chính là những hình ảnh của các tên quan lại bè phái với nhau trong thời kì
Nguyễn Dữ còn sống. Trong hoàn ảnh như vậy, cuộc sống của dân đen vốn đã khổ nay
lại càng khổ sở hơn với bọn tham lam chỉ nhìn thấy được lợi ích của bản thân. Trong
thời kì đương thời đó, con người không có quyền được sống, được hạnh phúc họ bị tước
4
đoạt, bị chà đạp bởi những người mang trong mình những danh xưng là quan. Trong xã
hội đó, người phụ nữ lại càng chịu nhiều bất hạnh hơn nữa, bởi họ là những thành phần
yếu đuối trong xã hội nên dễ dàng bị chà đạp và ức hiếp. Người dân sống dưới ách đô
hộ của bọn tham lam đó, ắt phải chịu những khó khăn và đối mặt với những sự khổ cực,
phải “phục dịch nhọc nhằn, anh nghỉ thì em đi, chồng về thì vợ đổi, ai nấy đều tai sưng
vai rách, rất là khổ sở…”. Có những gia đình phải chịu cảnh không tiền để làm ma chay
cho những người thân của mình như trong Chuyện yêu quái ở Xương Giang, vì cuộc
sống khan không có tiền lo ma chay cho chồng nên đành thắt lưng buộc bụng bán con
gái của mình cho một nhà phú thương. Một xã hội đáng ghét, một xã hội đầy rẫy bất
công cho những người phụ nữ hiền lành.
Xã hội đó là xã hội của những kẻ sống bất nhân với lương tâm, những kẻ nho sĩ
lừa dối thầy phản bạn, những kẻ lợi dụng chức quyền mà ức hiếp kẻ yếu hèn, cướp vợ
của người khác. Những người “mặc áo nhà nho” thời nhà Trần, so với thời Lê có lẽ
không có nhiều sự thay đổi là mấy: “Ngày nay những người mặc áo nhà nho, đeo dải
nhả nho thì lại khác hẳn. Họ thường đổi họ để đi học, thay tên để đi thi; hễ trượt thì đổ
lỗi mờ quáng cho quan chấm trường, hơi thành danh thì hợm mình tài giỏi hơn cả tiền
bối, chí khí ngông ngạo tính tình tráo trở, thấy thầy nghèo thì lãng tránh, gặp bạn nghèo
thì làm ngơ, không biết rằng ngày thường dẫn dắt rèn cặp phần nhiều là công đức của
thầy bạn. Vả như ta ngày xưa, dạy có đến mấy nghìn học trò, giao du ở kinh đô có rất
nhiều bè bạn thế mà sau ta mất, nghe có người đai vàng, mũ bạc, có người quan cả,
ngôi cao nhưng không hề một ai tìm đến thăm viếng mồ ta mà tưới lên một vài chén
rượu.”
Thật đau lòng cho một xã hội với toàn là những âm mưu, lừa lọc, tham lam. Hình
ảnh của thời kì phong kiến suy tàn dần được khắc hoạ một cách đặc sắc qua những dòng
văn tài tình của Nguyễn Dữ. Nguyễn Dữ đã xuất sắc khi dùng văn chương để châm biếm
những kẻ tham lam thích chà đạp người khác để vươn mình lên, hay những kẻ mặc áo
nhà nho nhưng lại đi lừa dối chính người thầy người bạn của mình. Một xã hội thối nát
đã được diễn tả một cách thần kì hoá với các yếu tố hiện thực và kì ảo xen lẫn vào nhau.
3.2. Đầy giá trị nhân đạo, đậm chất nhân văn
Bên cạnh cáy yếu tố hiện thực đã được thể hiện qua các tác phẩm truyện tuyền kì,
thì ngoài ra thể loại này còn chứa đựng bên trong nó những ý nghĩa nhân văn và đầy giá
trị nhân đạo. Tại sao nói các tác phẩm truyền kì lại chứa đựng các ý nghĩa nhân văn,
nhân đạo? Bởi ở đây các câu truyện truyền kì chủ yếu là ca ngợi tài năng cũng như các
phẩm chất tốt đẹp của những con người nhìn thầm thường nhưng lại rất phi thường. Các
câu chuyện còn thể hiện được sự thương cảm của những tác gia đối với các số phận của
những con người bất hạnh. Câu chuyện chính là tiếng nói, sự công bằng bảo vệ quyền

5
được sống, quyền được hạnh phúc của một con người bình thường, nhưng chính cái xã
hội thối rửa ấy đã khiến cho họ phải gạt bỏ đi cái tôi để tồn tại dưới những kẻ cho mình
là bề trên mà phục tùng. Bởi vậy nên các tác giả trong xã hội đương thời đó đã đứng lên,
dùng chính tiếng nói của mình mà đòi quyền hạnh phúc, đòi quyền tự do, khẳng định
bản thân với những khát vọng được hạnh phúc trong xã hội hoà bình.
Đọc trong Truyền kì mạn lục, ta có thể nhìn thấy những con người với nhân cách
cao thượng, những con người vì dân mà đứng dậy lên tiếng. Ngoài ra, ta còn bắt gặp
những vị nhân tài bởi sự hổ thẹn đối với hiện thực đương thời mà chọn cách lui về quê
sống. Họ chọn sống một cuộc sống nghèo khó còn hơn trở thành một công hầu giàu sang
mà lại đi hại dân thường. Họ là những con người đứng đầu trong triều đình qua những
cuộc thi trạng nguyên, nhưng lại từ chối các bổng lộc của vua quan triều đình. Một đất
nước hưng thịnh sẽ không có những vua qua tham lam, bởi thế một triều đình thối nát,
mục rỗng thì đầy rẫy những bọn tham ô. Có thể lấy hình ảnh nhân vật người tiều phu
trong Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na để thể hiện rõ được các nhân tài
trong đương thời. Khi được Trương Công, quan hầu của Hồ Hán Thương mời về triều,
đã mỉm cười trả lời: “Ta là kẻ ẩn dật trốn đời, ông lão già lánh bụi, gửi tính mệnh ở lều
tranh quán cỏ, tìm sinh nhai trong búa gió rìu trăng, ngày có lối vào làng say, cửa vắng
vết chân khách tục, bạn cùng ta là hươu nai tôm cá, quẩn bên là tuyết nguyệt phong hoa,
chỉ biết đông kép mà hè đơn, nằm mây mà ngủ khói, múc khe mà uống, bới núi mà ăn
chứ có biết gì đầu ở ngoài là triều đại nào, là vua quan nào”. Một người tiều phu với
thái độ cương trực, đặt niềm tin vào chính con người mình, không bị ép buộc với những
vinh hoa phú quý bên ngoài, thế nên con người đó càng chán ghét cái triều đình mục
rỗng này.
Trong các tác phẩm truyền kì, ta bắt gặp rất nhiều các nhân là hàn nho, là nông
dân, nhưng họ đều không sợ các thê lực tâm linh, mà chính những thế lực tâm linh ấy
đã giúp dân trừ hại. Trong câu truyện Chuyện chức phán sự đền Tản Viên trong Truyền
kì mạn lục khi Ngô Tử Văn nhìn thấy ngôi đền thiêng liêng lại bị những hồn ma đến
quấy rối, tác oai tác quái mà phải ra tay đốt đền. Đến khi bị bắt dưới âm ti địa phủ, bởi
những lời lẽ vu khống của Bách hộ họ Thôi trước Diêm Vương uy quyền trong cái không
khí lạnh lẽo của cõi âm ti vô định, tuy nhiên chàng vẫn giữ lý cho mình và với những
lời đối đáp đầy khẳng khái, để đấu tranh giành chiến thắng cho mình, cho công lý.
3.3. Các nhân vật nữ chịu nhiều oan trái trắc trở trong số phận
Trong truyện truyền kì, đặc biệt là nhân vật nữ được miêu tả là những người phụ
nữ tài sắc với những phẩm chất xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm truyền kì, đánh
dấu cho giai đoạn phát triển các giá trị về nhân sinh nhân đạo trong chủ nghĩa văn học
trung đại. Những người phụ nữ ấy, được tác giả tôn lên vẻ đẹp về nhan sắc, bên cạnh đó

6
là những tài năng về văn chương, họ là những người phụ nữ công-dung-ngôn-hạnh theo
những chuẩn mực của Khổng Tử. Tuy nhiên số phận của những người phụ nữ trong các
câu truyện truyền kì đều có những kết cục bi thảm. Mỗi nhân vật đều có một cuộc đời
của riêng họ, có hoàn cảnh sống riêng nhưng kết cục của họ lại quá đỗi giống nhau bởi
những số phận của bi kịch. Đại đa số họ chính là nạn nhân của xã hội thối nát theo chế
độ nam quyền và bởi những định kiến khắt khe của xã hội áp đặt lên số phận của những
người phụ nữ đáng thương.
Nói về số phần trong thời đại đương thời chính là nói đến những cái chết đầy đau
đớn, oan nghiệt. Tại sao lại dẫn đến cái chết? Bởi trong thời kì trung đại, việc giữ phẩm
chất là một chuyện hết sức quan trọng. Do tính đa nghi của những người chồng nên họ
bị nghi ngờ khi làm mất đi cái thứ quan trọng nhất của người phụ nữ và biến họ trở thành
nạn nhân của cái phẩm giá đáng chết ấy. Vũ Thị Thiết một nhân vật quen thuộc trong
Chuyện người con gái Nam Xương, nàng là một cô gái xinh đẹp, thuỳ mị nết na và luôn
đói xử với chồng và gia đình nhà chồng luôn lễ phép và giữ phép tắc. Nàng luôn một
long chờ đợi người chồng của mình trở về. Nhưng khi chồng trở về, khi nghe những lời
của một đứa trẻ con lại nghi ngờ nàng thất tiết. Chàng không có sự tin tưởng đối với
nàng sau khi nghe những lời bâng quơ của một đứa trẻ mà khiến gia đình của mình tan
nát. Bởi lẽ trong thời kì ấy, trinh tiết chính là thước đo để một người đánh giá người phụ
nữ của mình. Sống trong xã hội mình luôn là người đuối lý thì có giải thích thế nào cũng
như lời gió. Những uất ức trong lòng vô pháp giãy bày nên nàng đành gieo mình xuống
dòng sông thay cho những lời trong lòng. Mặc dù sau này sự thực có được lời giải thích,
Trương Sinh lập đàng giải oan cho nàng, thế nhưng Vũ Nương đã mãi ra đi và không
trở về bên cạnh được nữa. Trong câu thơ của Lê Thánh Tông trong bài Miếu vợ chàng
Trương đã thể hiện rõ được nỗi xót thương có số phận lênh đênh của người phụ nữ xinh
đẹp.
Chứng quá đã đôi vắng nhật nguyệt
Giải oan chẳng lọ mấy đàng tràng
Qua đây mới biết nguồn cơn ấy
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng
Bên cạnh nỗi oan uất của Vũ Nương thì cuộc đời của Nhị Khanh trong Người nghĩa
phụ ở Khoái Châu cũng đau thương không kém cạnh. Nhị Khanh chờ chồng, nuôi con.
Thế nhờ bởi cái tật ham mê cơ bạc của người chồng kia đã đẩy nàng vào bờ vực của cái
chết. Bởi cái tính ăn chơi lêu lỏng nhát là việc Trọng Quỳ giao thiệp với Đỗ Tam. Cuộc
giao thiệp này chính là nguyên nhân khiến cho gia đình hạnh phúc của Nhị Khanh tan
biến trong phút chốc. Trọng Quỳ đem nàng giao cho tên lái buôn giảo quyệt Đỗ Tam kia.
Trước một kẻ phụ tình như hắn ta nàng quyết định táo bạo là tự tử như lời nói đanh thép

7
về những tội lỗi mà Trọng Quỳ đã gây ra cho nàng. Đây không đơn giản là bản cáo trạng
giành riêng cho Trọng Quỳ mà còn cho cái xã hội đang dần của bọn phong kiến thối nát.
Từ số phận của nàng Nhị Khanh và Vũ Nương hai nhân vật nữ hiện lên với mẫu
người đoan chính, dù cho có tuân thủ những quy tắc của thời đại là Tam tòng, Tứ đức
đến đâu đi nữa thì họ vẫn phải gồng mình để sống theo những quy luật, những lễ giáo
của phong kiến. Thế nhưng dù làm như thế nào thì vẫn không thoát khỏi lưỡi kiếm sắc
bén của số phận đầy đau khổ và bi kịch, dù có chạy trốn như thế nào đi nữa thì đó như
một sự sắp đặt số phận của giới siêu hình vô thực. Những sự chứng minh bất lực trên
con đường đi tìm lại cuộc đời, sự nỗ lực và những khát vọng về hạnh phúc của bối cảnh
xã hội đương thời.
Nhân vật phụ nữ xuất hiện đông đảo cũng như xuyên suốt trong các tác phẩm
truyện truyền kì như sự chứng tỏ về chuyển biến về con người trong văn học trung đại.
Những người phụ nữ tài hoa nhưng bạc mệnh, sô phận lênh đênh trôi nổi đã trở thành
vấn đề trọng tâm của các câu truyện truyền kì. Bên cạnh đó việc các tác giả tập trung
vào các yếu tố sắc dục, khát khao về tự do luyến ái đã mở ra một cái nhìn hoàn toàn
khác những nhưng vẫn có những cái nhìn phiến diện về con người các nhân, mà đặc biệt
hơn nữa là các nhân vật nữ. Họ thể hiện được những khung bậc cảm xúc của khát vọng
tình yêu đã tạo nên chiều sâu về khát vọng được yêu của con người, từ đó nhìn nhận về
giá trị nội dung của truyện truyền kì ẩn mình trong những câu chữ ấy. Bởi những đặc
điểm của một người phụ nữ hoàn hảo thì không khó để ta tìm trong các câu truyện truyền
kì.
Những người phụ nữ ấy không đơn giản là xinh đẹp, là đức hạnh mà họ là những
con người đầy tài năng về mọi mặt. Việc các nhà văn dùng bút pháp của mình xây dựng
hình tượng các cô gái xinh đẹp, tài năng trong cái xã hội trọng nam khinh nữ như một
bước lớn trong quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa nhân đạo, ý nghĩa nhân
sinh trong các tác phẩm văn học trung đại Việt Nam
3.4. Tình yêu nam nữ và cái kì quái trong thế giới thần linh ma quỷ
Trong tác phẩm Thánh Tông di thảo, các câu chuyện về tình yêu nam nữ vốn không
còn quá xa lạ. Các câu chuyện tình yêu của họ là các câu chuyện về lòng chung thuỷ sắt
son của những con người đang sống trong tình yêu. Các câu chuyện tình yêu không phân
biệt là ma, là thần hay là người bởi họ đến với nhau đều là những tình cảm trong sáng
của tình yêu, bằng những sợi dây liên kết tâm hồn và thể xác của họ. Họ đến với nhau
bằng những tình cảm thật lòng và họ khát khao được sống trong hạnh phúc của mình.
Truyền kì cho người đọc thấy được những khát vọng của con người, ca ngợi sự tự
do trong tình yêu. Bởi đặc trung nổi bật là không phân biệt tình yêu giữa những con
người thế tục với cõi vô cực. Đó có thể là một câu chuyện tình yêu của những con người

8
trong mộng, nhưng cũng có thể là tình yêu của những con người bình thường. Cho dù
đó là tình yêu giữa người cõi trần và kẻ cõi âm hay tiên giới đi nữa thì tình yêu đó đều
đáng được trân trọng, những con người trong tình yêu ấy họ say đắm, mãnh liệt, đôi khi
lại vùng mình thoát khỏi những trói buộc cuộc thực tại khổ sở.
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, đã thể hiện được tình yêu sâu đậm, nồng nàn,
đoi khi nó còn táo bạo mang hơi hướng của sự dục cảm. Những con người khát khao tự
do để tìm tới hạnh phúc, những con người một lòng một dạ với tình yêu của mình qua
ngòi bút của Nguyễn Dữ các câu chuyện tình yêu ấy đã được nâng lên một tầm cao mới
hơn. Ông còn mạnh bạo hơn trong những khoảnh khắc ân ái đầy sắc dục, đây vốn dĩ là
những hành vi cấm kị trong những nghi lễ khắc khe của lễ giáo. Đặc biệt là những người
phụ nữ khi trinh tiết của họ chính là thước đo cho hạnh phúc của họ sau này, và cũng
chính cái trinh tiết ấy là con dao hai lưỡi đẩy người phụ nữ vào sự bế tắc của cuộc sống.
Ta có thể kể đến cuộc tình của Trung Ngộ và Nhị Khanh trong câu truyện Chuyện
cây gạo là những cuộc tình đầy phóng túng, tự do trong lịch sử văn học trung đại. Câu
chuyện đó thể hiện rõ ràng những khát vọng về tình yêu, cuộc sống mãnh liệt. Nàng Nhị
Khanh chết khi nàng còn quá trẻ với những cảm xúc trong lòng đầy khát khao được yêu
thương. Sau khi qua đời, hồn ma của nàng và chàng thư sinh Trình Trung Ngộ thì tình
yêu của họ vẫn không được xã hội bấy giờ chấp nhận. Bởi những cảm xúc quá đỗi mãnh
liệt ấy mà Trung Ngộ đã hoá thành hồn ma để có thể bên nàng mãi mãi. Những quan
niệm về tình yêu của họ đi ngược lại với con đường của Nho giáo phong kiến thời kì ấy:
“Nghĩ đời người ta thật chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi bằng trời để sống ngày nào,
nên tìm lấy những thú vui. Kẻo một sớm chết đi, sẽ thành người của suối vàng, dù có
muốn tìm cuộc hoan lạc ái ân, cũng không thể được nữa.”. Rất khó để tìm thấy những
người con gái trong văn học trung đại có thể phá bỏ những định kiến về tiết hạnh, đoan
chính làm gánh nặng cho phụ nữ thời điểm ấy.
Lời văn của Nguyễn Dữ táo bạo nhưng nó vẫn luôn là những lời phê phán. Tuy
nhiên, kết thúc các câu chuyện tình yêu ấy nhưng phần nào vẫn bảo vệ những quan niệm
về lễ giáo trong thời kì phong kiến của tác giả. Những mối tình ấy đều phải kết thúc
bằng một kết cục bi thảm bởi những quan niệm và thách thức của xã hội phong kiến.
Tuy nhiên nó vẫn toát ra vẻ đẹp của giá trị nhân văn , nhân bản toát ra từ các hình tượng
của nhân vật.
Nhìn chung, trong truyện truyền kì Việt Nam, tình yêu xuất phát từ tình cảm tự do.
Sống cùng nhau, cảm nhận được những cảm xúc mãnh liệt, không bị gì chia cắt. Chính
cái tình yêu có đôi phần buông thả trong thời đại phong kiến đã làm nổi bật lên trong
lòng độc giả những bước phát triển về cuộc giải phóng con người với những nhu cầu
chính đáng.

9
4. Đặc trưng hình thức của thể loại truyện truyền kì
4.1. Bố cục
Trần Đình Sử trong cuốn Thi pháp văn học trung đại Việt Nam đã phân chia bố
thành ba phần, gồm: Mở đầu giới thiệu nhân vật, tên họ, quê quán, tính tình phẩm hạnh;
kể chuyện: kể các câu chuyện kì ngộ lạ lùng; kết thúc nêu lên lí do kể chuyện.
4.2. Hòa quyện giữa yếu tố hiện thực và những yếu tố hoang đường, kì ảo.
Trần Đình Sử trong cuốn Lý luận văn học (tập 2) đã viết: “Truyện truyền kì thuộc
loại truyện ngắn, nhưng yếu tố “kì” rất nổi bật. Kì là những chuyện khác thường, hoang
đường, kì dị, như người lấy tiên, tiên giáng trần, người chết làm quan nơi âm phủ, người
sống nằm mơ trò truyện với thần, ma, người lấy ma, lấy tinh của cây cối, đồ vật, người
đi kiện Diêm Vương…Trong kì có ảo, tức là những sự biến hoá vô thường như người
biến thành ma, vật biến thành tinh…”
Yếu tố không thể thiếu trong thể loại này chính là yếu tố kì ảo. Mà đặc biệt hơn
nữa chính là sự hoà quyện giữa yếu tố hiện thực và yếu tố kì ảo. Trong các câu truyện
truyền kì luôn tạo ra mối quan hệ tương giao giữa thế giới con người với các thế lực siêu
nhiên. Thế giới vô thực bên cạnh những con người không thuộc về cõi vô hình ấy như
yêu ma, thần tiên…Thế nhưng các câu truyện trong truyền kì ta vẫn thấy được những
nhân vật không có thực ấy.
Nguyễn Dữ đã thật tài tình khi kết hợp uyển chuyển khi lấy cái kì ảo để nói cái
thực tong Truyền kì mạn lục. Trong truyện Chức phán sự đề Tản Viên dường như là
những câu chuyện thực với những hành động thực, bởi các dẫn dắt nhân vật đi đến các
công việc trong những khoảng thời gian địa điểm xác định. “Tử Văn tên là Soạn, người
huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang”, “Năm Giáp Ngọ (1414) có người ở thành Đông
Quan vốn quen biết Tử Văn…” . Các câu chuyện về nhân vật Ngô Tử Văn mang đầy
tính chất ly kì bởi sự xuất hiện của những giới âm ti địa ngục với những bóng ma, bóng
quỷ, cùng với những câu chuyện ly kì về việc người chết đi sống lại…Con người trong
câu truyện có thể đi vào những thế giới khác nhau, bên cạnh đó các nhân vật trong thế
giới kì ảo có thể đi đến với và kết giao với những con người bình thường. Nguyễn Đăng
Na đã viết trong Văn học trung đại Việt Nam như thế này: “Nhìn chung các câu truyện
trong Truyền kì mạn lục đều có sự kết hợp yếu tố “kì” và yếu tố “thực”. Bút pháp kì ảo
làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn, tăng chất lãng mạn, trữ tình. Bút pháp hiện thực tang
tính xác thực của câu truyện làm cho câu chuyện có ý nghĩa sâu sắc”.
Các nhân vật trong truyện truyền kì Việt Nam ta đều có thể nhìn thấy ở các câu
truyện cổ dân gian của nước ta. Tuy nhiên, ở thể loại truyện truyền kì, ý nghĩa và vai trò
của các nhân vật siêu nhiên luôn có nhiều điểm khác biệt so với các nhân vật trong các
câu truyện cổ ngày xưa.
10
Cái kì ảo vốn là phạm trù của mĩ học Trung Quốc cổ đại. “Kì”, xuất hiện ở hầu hết
trong các tác phẩm truyền kì nhưng mỗi tác phẩm đều có các mức độ khác nhau: có câu
câu truyện nó chỉ là các chi tiết nhỏ được ghi lại, nhưng có những câu truyện cái kì ảo
được ghi lại một cách trọn vẹn. Các câu chuyện kì ảo thì thời kì nào cũng có nhưng thời
đại ngày xưa chưa thể sử dụng khoa học để giải thích các vấn đề, nên sử dụng ghi chép
để ghi lại. Đi đôi với các yếu tố kì ảo làm nên tính đặc sắc và khác với các câu truyện
truyền kì ở giai đoạn trước thì yếu tố “thực” là điều kiện không thể thiếu. Đây chính là
chi tiết quan trọng khiến cho truyện truyền kì có một bộ mặt hoàn toàn khác.
Kì ảo luôn là những điều hấp dẫn đối với con người. Thế giới có biết bao nhiêu
điều cần con người tìm đến để khám phá. Con người vốn có bản tính tò mò nên sự tồn
tại của các yếu tố vô thực ấy đã khiến cho con người luôn tìm cách để giải mã nó. Tuy
nhiên, cũng bởi thế giới hiên thực vô cùng khắc nghiệt khiến cho con người phải tìm
đến hững yếu tố huyền huyễn để biến những ước mơ trở thành sự thật, để nuôi niềm tin
và các hi vọng của bản thân. Kì ảo được các tác giả đưa vào văn học nhằm lưu giữ thế
giới ở nhiều mặt khác nhau-nó lưu giữ những ước mơ, những khát vọng nhưng vô thức
diễn tả, khiến cho con người phải tìm đền cái kì ảo để che giấu.
Đỗ Thị Mỹ Phương trong bài viết Nhân vật mang màu sắc kì ảo trong truyện truyền
kỳ Việt Nam trung đại đã có những nhận định về cái kì ảo trong thế giới thực như sau:
“Bên cạnh thực tại, nhà văn đã tìm thấy được cõi hư ảo, biến huyễn, cùng với không
gian khách quan bên ngoài là không gian trong ý tưởng của nguời viết. Không chỉ ở giai
đoạn sau của chế độ phong kiến, khi những bất ổn về chính trị và sự khủng hoảng của
hệ tư tưởng Nho giáo khiến các văn nhân không tìm thấy điểm tựa trong thế giới thực
mới cầu cứu tới những yếu tố siêu hình của các hệ tư tưởng khác mà ngay từ đầu họ đã
lựa chọn cách hòa giải trong việc tiếp nhận tam giáo Nho – Phật – Đạo. Đó chính là cơ
sở cho sự xuất hiện của cái kỳ ảo và kiểu loại nhân vật mang màu sắc kỳ ảo trong văn
học trung đại nói chung, thể loại truyện truyền kỳ nói riêng.”
4.3. Truyện-thơ hợp thể
Các câu truyện của truyện truyền kì nổi bật lên với đặc điểm lồng ghép thơ vào các
câu truyện để làm điểm thu hút đối với người đọc. Trần Đình Sử trong Lý luận văn học
(tập 2) đã nhận định về đặc điểm này như sau: “Truyện truyền kì có đặc điểm nối bật là
nhiều thơ. Các nhân vật trong truyện phần nhiều đều lầm được thơ để trang trải nỗi
lòng và thù tạc với nhau. Có nhiều tác phẩm có hàng chục bài thơ. Thơ thù tạc lấn át
cả hứng thú về cốt truyện”. Đúng vậy, nội tâm của các nhân vật trong các tác phẩm đều
được thể hiện bằng thơ và các nhân vật cũng đều được dùng làm thơ. Việc làm thơ như
một thú vui giải trí cho đời sống tinh thần. Sử dụng thơ để nói lên tâm trạng của nhân
vật nhưng thực chất việc sử dụng thơ không có tính thúc đẩy đối với cốt truyện.

11
Trong Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Trần Đình Sử đã viết: “Phối xen thơ
vào văn là hiện tượng thường thấy từ truyền kì đời Đường, một thời đại khoa cử thư
sinh luôn sẵn tài làm thơ, viết văn biền ngẫu…Sự đối lập, mâu thuẫn trong quan điểm
tư tưởng của nhân vật làm cốt truyện và thơ trong các cuộc đối thoại ấy chỉ à phương
tiện tỏ chí, ngôn chí”.
4.4. Xây dựng nhân vật
Nhân vật chính là đại diện cho những phát ngôn của tác giả. Hình ảnh nhân vật
trong tác phẩm thể hiện được các quan niệm, các tư tưởng của tác giả một cách khách
quan nhất. Nhân vật trong các câu truyện không chỉ có ngoại hình mà nó phải luôn đi
kèm với những hành động. Người xưa có câu “nhìn mặt mà bắt hình dong”, câu này
trong thời điểm đương thời như là một cách thức để biểu hiện ngoại hình cũng như tính
cách của nhân vật. Mỗi nhân vật đều đó những hành động cụ thể có riêng mình. Bởi
hành động không đơn giản chỉ làm góp phần thúc đẩy sự phát triển của câu truyện mà
nó còn bộc lộ những ý nghĩ của tác giả. Ngoài ra, những diễn biến nội tâm phong phú
được nhân vật truyền đạt một cách hoàn hảo trong từng câu truyện. Đối với thể loại
truyền kì, yếu tố kì ảo chính là đòn bẩy giúp cho nhân vật trở nên có sức hút hơn và tạo
cảm giác hấp dẫn cho người đọc. Ngoài những nhân vật như đã kể trên, các loại hình
nhân vật trong thể loại này còn dùng để truyền tải diễn ngôn đạo đức, cũng có những
nhân vật dùng để truyền tải tình yêu.
Bút pháp xây dựng nhân vật “theo loại” vẫn còn chi phối tác giả. Việc chi phối đó
biểu hiện rõ nhất qua truyện Truyền kì mạn lục, nhân vật “thiện” và “ác” là hai loại hình
nhân vật được phân biệt dễ dàng nhất. Tác phẩm đã đạt được hai thành công lớn trong
sự nghiệp xây dựng nghệ thuật nhân vật với những nhân vật mang hình ảnh tính cách
riêng biệt, đã có bóng dáng “con người cảm nghĩ” bên cạnh “con người hành động”.
Có thể lấy ví dụ nhân vật Ngô Tử Văn trong Truyện chức phán sự đền Tản Viên,
nhân vật với tính cương trực, ngay thẳng không chỉ được hình dung qua lời dẫn truyện
mà còn được thể hiện qua các hành động của nhân vật. Hành động được thể hiện qua
đoạn: “Chàng vốn khẳng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng
Bác người ta vẫn khen là một người cương phương. Trong làng trước có một toà đền,
vẫn linh ứng lắm. Cuối đwòi họ Hồ quân Ngô sang lấn cướp, vùng ấy thành một nới
chiến trường. Bộ tướng của Mộc Thạnh có viên bách hộ họ Thôi, tử trận ở gần đền từ
đấy làm yêu quái trong dân gian. Tử Văn rất là tức giận, một hôm tắm gội chay sạch,
khấn trời rồi châm lửa đốt đền. Mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, họ lo sợ thay cho Tử Văn,
nhưng Tử Văn vung tay không cần gì cả”.
Chịu sử ảnh hưởng của nền văn học trung đại Việt Nam nên khi xây dựng nhân vật
thì nhân vật trong truyền kì mang tính tương đối đơn giản, tính cách nhân vật thể hiện

12
chủ yêu qua hành động và ngôn ngữ, tác giả ít khi đi sâu vào phân tích tâm lí cũng như
nội tâm của nhân vật. Đây chính là điểm phân biệt truyền kì so với các thể loại khác
trong nghệ thuật xây dựng nhân vật
Nhân vật Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu chính là nhân vật
tiêu biểu cho tính chất này. Nàng là một con người sống đoan chính, thuỷ chung, giành
cả đời để yêu thương chồng con của mình. Nguyễn Dữ đã đưa nhân vật vào những hoàn
cảnh không giống nhau, với thái đọ, ngôn từ để thể hiện rõ hơn phẩm chất tốt đẹp của
cô gái xinh đẹp này. Khi chồng nàng là Trọng Quỳ, quyến luyến và có ý định không
muốn đi cùng cha, thì nàng đã thuyết phục chàng để theo cha: “Nay nghiêm đường vì
tính nói thẳng mà bị người ta ghen ghét, không để ở lại nơi khu yếu, bề ngoài vờ tiến cử
đến chốn hùng phiên, bề trong thực dồn đuổi vào chỗ tử địa. Chả lẽ đành để cha ba đào
muôn dặm, lam chướng nghìn trùng, hiểm nghèo giữa đám kình nghê, cách trở trong
vùng lèo mán, sớm hôm săn sóc, không kẻ đỡ thay? Vậy chàng nên chịu khó đi theo.
Thiếp dám đâu đem mối khuê tình mà lỗi bề hiếu đạo. Mặc dầu cho phấn nhạt hương
phai, hồng rơi tía rụng, xin chàng đừng thắc mắc bận lòng đến chốn hương khuê.”. Lời
lẽ kiên định, nàng cho người đọc cảm nhận được đạo hiếu trong từng câu nói khuyên
chồng theo cha và giải thích cho chàng về những khó khắn của cha đang gặp. Câu chuyện
tiếp tục có những diễn biến mới khi bà cô Lưu có ý định gả cô cho tướng quân nhà họ
Bạch, nàng có đôi phần sợ hãi. Thế nhưng khi nỗi về nỗi lo của nhân vật thì Nguyễn Dữ
lại chọn cách không đi chuyên sâu về tâm trạng của nhân vật mà chỉ thể hiện cảm xúc
đó qua những lời đối thoại nội tâm mà ta thông thường bắt gặp trong các câu truyện hiện
đại. Tấm lòng thuỷ chung của Nhị Khanh được biểu hiện rất rõ qua hành động chờ chồng
suốt sáu năm, không thay lòng vẫn một lòng một dạ với người chồng mà mình yêu
thương. Thế nhưng tình cảm ấy chính là con dao đẩy nàng đến chỗ chết khi nhìn thấy
người chồng mình yêu chính là một kẻ phụ bạc. Đáng lẽ nàng vẫn có một kết cục tốt
đẹp hơn khi có thể quyết định lấy một người khác. Nhưng phẩm hạnh của một người
phụ nữ lại bị một kẻ mình coi là chồng đã chà đạp và phụ lòng. Đến khi chết nàng vẫn
hướng về hai đứa con của mình. Những sự việc, hành động cũng như lời nói đã khắc
hoạ nên một cô gái xinh đẹp, đức hạnh.
Trần Đình Sử trong Thi pháp văn học trung đại Việt Nam đã viết về nhân vật như
sau: “Một người con quan gia đình sa sút đâm ra chơi bời, một gã đi buôn hiếu sắc, một
học trò trọ học đa tình, một thanh niên khảng khái đốt đền, một ông quan bỏ chu du sơn
thuỷ, một tiều phu ẩn dật, một kẻ hay thơ đa tình. Các nhân vật quan, tướng, thần, ma
đều thể hiện khía cạnh con người đời thường, đời tư như Hạng Vương, Dương Thiên
Tích. Các nhân vật nữ là kẻ chịu nhiều oan trái trắc trở. Một đặc sắc nữa là nội dung
truyện hoàn toàn là việc và người ở Việt Nam”. Mặc dù thể loại truyện xuất phát từ nền

13
văn học Trung Hoa cổ đại nhưng khi về đền Việt Nam nó không sử dụng những nhân
vật của Trung Quốc. Thay vào đó các tác giả sử dụng các nhan vật thuần Việt để miêu
tả đời sống cũng như nội tâm của các nhân vật.
Ở Truyện kì mạn lục, đã có những bước đi trong việc xuất hiện bóng dáng của
những “con người cảm nghĩ”. Khi thể hiện tâm trạng của nhân vật, tác giả sử dụng thơ
để tả cảnh ngụ tình. Qua những vần thơ đó, tác giả đã gửi gắm vào trong nhân vật những
cảm xúc thầm kín trong lòng. Sử dụng biện pháp miêu tả “con người cảm nghĩ” bên
cạnh “con người hành động” là những bước đầu thể hiện được nghệ thuật xây dựng nhan
vật ngày càng được phát triển. Dù cho có là văn học trung đại hay hiện đại đi nữa thì khi
xây dựng nhân vật tác giả vẫn thường sử dụng các biện pháp nghệ thuật miêu tả ngoại
hình, hành động, nội tâm của nhân vật.
4.5. Lời trần thuật
Trần thuật nó luôn có một vị trí nhất định đối với mỗi thể loại văn học. Điểm nhìn
trần thuật của thể loại truyện truyền kì luôn có sự tồn tại của cả ngôi thứ nhất và ngôi
thứ ba. Trong đó, ngôi thứ ba chính là hình thức trần thuật trung của văn học trung đại
Việt Nam. Từ cái nhìn của trần thuật đến việc xác định khoảng định rồi đến thiết lập các
quyền uy của người kể chuyện-đó chính là những lựa chọn mang tính cá nhân của tác
giả.
Trong Truyện người con gái Nam Xương, điểm nhìn của tác giả chính là số phận
của Vũ Nương khi nàng được sinh ra, lớn lên, gả chồng rồi dẫn đến các bi kịch trong
cuộc đời và dẫn đến một cái chết oan. Tất cả đều được Nguyễn Dữ biết trước và sắp đặt.
Cuối câu chuyện nàng được giải oan với ngót bút của vị tác giả đại tài này, ông chủ động
viết ra để hàm giải oan cho nàng chứ không theo kết cục thông thường trong các truyện
kể dân gian. Tác giả sử dụng tiếng nói của mình đầu tiên qua những lời dẫn truyện. Nó
cho người đọc có cái nhìn bao quát nhất về nhân vật, thời gian và các sự kiện xảy ra
trong câu truyện. Nguyễn Dữ đã giới thiệu về Truyện người con gái Nam Xương, đầu
tiên là kể về Vũ Thị Thiết và Trương Sinh: “Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, người đã
thuỳ mị nết na lại có thêm tư dung tốt đẹp. Trong làng có chàng Trương Sinh mến vì
dung hạnh, xin với mẹ trăm lạng vàng đến cưới về…”.
Trần thuật theo ngôi thứ nhất nó mang tính chủ quan và tính cá nhân thế nhưng nó
lại xuất hiện xuyên suốt trong các câu truyện truyền kì. Tác giả sử dụng lời trần thuật
ngôi thứ nhất với những đại từ xưng hô như ta hay tôi. Trong truyện truyền khi sử dụng
ngôi thứ nhất ta dễ dàng nhận ra có hai dạng người kể trong loại trần thuật này à: người
kể chuyện với tư cách nhân chứng. Còn ở dạng thứ hai thì người kể đóng vai trò cái tôi
được miêu tả, tham gia vào các hoạt động diễn biến trong câu chuyện nhằm rút ngắn
khoảng cách giữa người kể và các nhân vật trong truyện.

14
Đối với trần thuật theo ngôi thứ ba là một mô hình truyền thống của nền văn học
dân gian. Đây là cách thức mà đại đa số các nhà văn ưa chuộng và chọn nó làm phương
thức để tái hiện khách quan các vấn đề của thực tại. Trần thuật theo ngôi thứ ba tạo ra
những ấn tượng mạnh mẽ về tính chân thực, còn có khả năng nâng cao tính tin cậy trong
thể loại truyện mà yếu tố huyễn hoặc đóng vai trò lớn. Sử dụng ngôi thứ ba để kể các
câu truyện trong giai đoạn trung đại Việt Nam thực sự rất khó, bởi mỗi giai đoạn luôn
có sự biến động khác nhau, nên để sử dụng tốt được phương thức trần thuật này đòi hỏi
người viết phải thật sự hiểu biết. Nhân vật trong ngôi thứ ba được xác định ở một chỗ
để quan sát và miêu tả thế giới, nó còn có khả năng chi phối các diễn biến xảy ra trong
câu truyện. Từ đó ta có thể nhìn rõ các hình thức trần thuật của truyện truyền kì tương
đối đủ đầy.
Trần Đình Sử trong Thi pháp văn học trung đại Việt Nam đã nhận định về trần
thuật trong truyền kì như sau: “Lời trần thuật của tác giả được phân làm hai: Lời trần
thuật miêu tả câu chuyện và lời bàn (bình) với hai tư cách khác nhau. Một người làm
người kể chuyện khách quan “biết hết”, “biết trước” và một người bình luận về mặt
đạo đức hoặc nghệ thuật có quan điểm xác định”.
Nhìn từ ngôi thứ và các mối quan hệ của người kể truyện đối với các câu truyện
được kể trong các câu truyện truyền kì trung đại Việt Nam. Ở cả hai ngôi thứ nhất và
thứ ba đều nổi bật với hai dạng thức khác nhau của người kể chuyện. Dù chúng được
xuất hiên trong các câu truyện truyền kì nhưng vai trò của chúng hoàn toàn khác nhau
và không đồng nhất qua mỗi giai đoạn. Có thể thấy từ điểm nhìn tự sự được xây dựng
với nhiều loại hình nhân vật để tạo nên sự phong phú và đa dạng cho nền văn học trung
đại Việt Nam. Từ các cái nhìn ở các phương thức trần thuật ta có thể thấy được hiện thực
được tác giả trải qua và tiếp nhận từ nhiều phía một cách chủ động nhằm đáp ứng vói
các nhu cầu của bản thân và con người trong các giai đoạn lịch sử, vừa thoả mãn được
những vấn đề của những người nghệ sĩ tài ba đương thời.
4.6. Cốt truyện
Theo Từ điển văn học, cốt truyện là: “Hệ thống sự kiện được tổ chức theo yêu cầu
tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình
thức động của tác phẩm văn học thuộc loại tự sự và kịch”. Khi nhìn nhận cốt truyện của
truyền kì để so sánh với cốt truyện dân gian, ta có thể nhìn thấy được nhiều điểm giống
nhau ở đây. Truyện truyền kì có chung mô hình với truyện dân gian như sau: giới thiệu
nhân vật; biến cố, những sự kiện xảy ra các xung đột; mâu thuẫn được giải quyết. Truyện
truyền kì cũng như vậy khi cốt truyện bắt đầu với việc tác giả sử dụng lời dẫn truyện để
giới thiệu tên tuổi, lai lịch, tính cách nhân vật, những biến cố mà các nhân vật phải trải
qua, những diễn biến dẫn đến xung đột và cuối cùng là giải quyết mâu thuẫn để kết thúc

15
câu truyện. Đây chính là mô hình mà cụ thể hơn là các câu truyện ngắn cụ thể trong các
tập truyền kì, từ những sáng tác đầu tiên đến các sự xuất hiện cuối cùng của thể loại.
Trần Đình Sử trong Thi pháp văn học trung đại Việt Nam có những nhận định về
cốt truyện như sau: “Truyện truyền kì ở đây là truyện, có cốt truyện hoàn chỉnh như
những tác phẩm nghệ thuật, có thắt nút, phát triển và mở nút, đánh dấu sự chín muồi
của nghệ thuật tự sự”. Trong các câu truyện truyền kì ta đều thấy các kết cục của mỗi
câu truyện đều là những bi kịch có thể kể đến như khung cảnh Vũ Nương gieo mình
xuống sông với sự oan ức khi bị nghi oan, hay Nhị Khanh đã phải tự tử khi bị người
chồng mình yêu thương phụ bạc,… Những câu truyện ấy đều để lại những cái kết bi
thảm dù cho đến cuối truyện họ có được giải oan như thế nào đi nữa thì không có cách
nào để sống lại. Bên cạnh những câu truyện có kết bi thảm, thì vẫn có những câu truyện
với kết thúc có hậu xuất hiện, nhưng đa số là không nhiều.
Mô hình của cốt truyện truyền kì rất gần với truyện dân gian được biểu hiện qua
những kiểu truyện sau:
- Kiểu truyện người bình thường đi lạc vào thế giới vô thực, thế giới ở đây là thế
giới của thần tiên, ma quỷ, thuỷ cung,…Trong kiểu này, đa số xoay các cốt truyện về
việc con người đi vào thế giới siêu nhiên, gặp gỡ các nhân vật không có thực và sống
cùng họ trong không gian huyền ảo đó. Có thể lấy ví dụ câu truyện Chuyện Lý tướng
quân (Truyền kì mạn lục) để giải thích cho vấn đề này
- Kiểu truyện tiếp theo là mô hình con người chủ động đi vào thế giới kì ảo để đấu
tranh cái đúng và thể hiện sự bất bình với cái ác. Mô hình này không còn quá xa lạ với
các câu truyện truyền kì, có thể kể đến anh chàng Ngô Tử Văn trong Chức phán sự đền
Tản Viên làm dẫn chứng cho mô hình này.
- Kiểu truyện các nhân vật trong thế giới vô hình đến thế giới con người. Các nhân
vật đến với cõi người có khi để làm những việc xấu như dụ dỗ hay mê hoặc, nhưng cũng
có khi là để kết duyên hay đơn giản hơn là họ chỉ muốn được trò chuyện hoặc nhờ sự
giúp đỡ.
- Kiểu truyện nhân vật lạc vào giấc mơ, chính những sự kiện diễn ra trong giấc mơ
chính là cốt truyện chính của câu truyện. Tất cả các hành động, lời thoại đều diễn ra
trong giấc mơ.
- Cuối cùng là kiểu truyện nhân vật chính gặp những bất công, oan trái, bất hạnh,
trong cuộc sống thực tại phải tìm đến cái chết. Sau khi chết họ được sống ở cõi thần tiên
mãi mãi.
Đó là những kiểu truyện phổ biến trong các câu truyện huyền thoại, nhưng không
phải tất cả các truyện ngắn trong truyện truyền kì đều độc lập với những kết cấu riêng.
Có những câu truyện các yếu tố ấy đã được lồng ghép vào nhau để cho các câu truyện

16
trở nên sinh động và đặc sắc hơn. Trong Truyền kì mạn lục ta có nói đến truyện Chuyện
gã trà đồng giáng sinh. Câu truyện này nó đặc biệt ở chỗ khi nối tiếp những lớp truyện
lại với nhau. Với lớp truyện đầu tiên, là cốt truyện xảy ra trong giấc mơ của Dương Đức
Công trong lúc hôn mê. Ở lớp truyện thứ hai, kể về con trai của Dương Đức Công được
làm rể ở nhà phú quý trong khi gia đình đang nghèo khổ. Con trai được làm rễ nhà giàu
chính là nhờ vào việc hồn của Thạch đại phu chịu ơn của Dương Đức Công, nên ông đã
sắp xếp cho con gái của mình là Hán Anh lấy Thiên Tích. Tiếp tục đến với lớp truyện
thứ ba, Dương Thiên Tích gặp lại người bạn lúc trước của mình. Và lớp truyện cuối cùng
là kiểu truyện bị yêu ma quấy phá, khi Thiên Tích đi qua cửa Khẩu Hải bị các thế lực
yêu ma quấy phá và nhớ có cố nhân kiếp trước giải thoát.
Trần Đình Sử đã viết trong Lý luận văn học (tập 2): “Trên cái nền khuyến thiện,
trừng ác, truyện truyền kì có tính giáo huấn khá rõ ở những lời bình cuối truyện. Nhưng
mặt khác, qua các cốt truyện li kì, hư ảo, truyện truyền kì thể hiện khát vọng giải thoát,
tự do luyến ái, đòi hỏi công lí. Truyện truyền kì thể hiện nhiều mối tình lãng mạn, nhiều
truyện còn đậm màu sắc dục”.
Trong Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Trần Đình Sử đã viết: “Những đặc
điểm này đòi hỏi phải nghiên cứu truyện trung đại Việt Nam một cách sâu sắc hơn.
Không phải mọi đối lập truyện ngắn trung đại với truyện ngắn hiện đại ở các nhà nghiên
cứu phương Tây đem áp dụng vào nước ta đều thích hợp”
4.7. Kết cấu
Truyện truyền kì là một thể loại có kết cấu văn xuôi phức tạp, đó là kiểu kết cấu
theo dòng ý thức, cũng có kiểu kết cấu nằm trong các câu truyện, kết cấu tâm lý,… kết
cấu của thể loại này vô cùng đa dạng và phong phú. Điểm đặc biệt trong kết cấu của
truyện truyền kì là nó không đi theo một motip thông thường là trình tự thời gian mà
thay vào đó phần lớn trong các truyện ngắn của truyện truyền kì lại có các tuyến phát
triển khá đơn giản, chi tiết nào xảy ra trước thì ta kể trước. Và đây cũng là kết cấu thường
thấy trong các câu truyện kể dân gian. Loại hình kết cấu này ta thấy ở hầu hết ở các câu
truyện ngắn truyền kì, có thể kể đến như Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu, Chuyện
nghiệp oan của Đào thi,…Tất cả các sự kiện đều được kể lại theo trật tự trước sau theo
diễn biến của thời gian, không có sự thay đổi của thời gian đảo ngược, cũng như không
có những đoạn hồi tưởng xen vào như ở các tác phẩm truyện ngắn hiện đại.
Để làm rõ vai trò của kết cấu trong các câu truyện ngắn ta lấy ví dụ về tác phẩm
Truyền kì mạn lục. Ta sẽ đi vào các câu chuyện có kết cấu đơn giản như Câu chuyện ở
đền Hạng Vương, Người tiều phu núi na,… Các kết cấu này thường là những phát ngôn
trực tiếp của tác giả, tác giả sử dụng các nhân vật trong tác phẩm của mình để nói lên
những quan điểm của bản thân. Nổi bật lên là những vấn đề mang tính tranh luận và

17
phản biện, đây chính là cách nêu lên vấn đề và từ đó giải quyết các vấn đề. Trong các
kết cấu này nhân vật hiện lên qua những lời đối thoại và tranh luận với nhau Ví dụ như
Câu chuyện ở đền Hạng Vương với những quan điểm của Hạng Vũ như sau: “Khi trời
định giúp Hán, dù kẻ thổi kèn, dệt chiếu, cùng đủ thành công; khi trời định diệt Sở, dù
người cất vạc, nhổ núi, cũng không thể noi giỏi”. Cùng với những lời phê phán Hồ Tông
Thốc: “Lẽ trời việc người cũng là đầu mối lẫn cho nhau. Bảo mệnh thiên trời, Thương
Trụ vì thế mà mất nước; bảo trời sinh đức, Tân Mãng vì thế mà bỏ mình. Nay vua bỏ
việc người mà đi bàn lẽ trời, vì thế đến táng hại vẫn không tĩnh ngộ”. Những đoạn văn
đanh thép, sắc sảo như vậy ta vẫn có thể tìm thấy ở các câu truyện ngắn khác trong các
tác phẩm truyền kì.
Phần lớn các tác phẩm khác trong Truyền kì mạn lục đều có những kết cấu hết sức
phức tạp, đó là các truyện Người con gái Nam Xương, Người nghĩa phụ Khoái
Châu,…Đối với Chuyện người con gái Nam Xương thù các tình tiết trong kết cấu lại vô
cùng phức tạp với nhiều kết cấu mang tính mở rộng hơn. Nguyễn Đăng Na đã có những
nhận định khi Nguyễn Dữ đã sử dụng phần hậu thân của Vũ Thị Thiết: “Thương nàng
bị oan khuất, bà Sinh Phi là phu nhân của Long Vương ở Nam Hải đã đưa nàng xuống
thuỷ cung. Tại đây Vũ Thị Thiết gặp lại một người cùng làng là chàng họ Phan. Nhờ đó
nàng người cho chồng kỉ vật là chiếc trâm vàng, nhắn chồng giải oan và hẹn hội ngộ.
Vũ Thị Thiết hiển linh gặp lại Trương Sinh rồi sau đó lại âm dương cách biệt”. Đây là
kiểu kết cấu mở rộng và nó đem lại những ý nghĩa sâu xa trong từng câu truyện ngắn
của thể loại truyền kì. Từ những nhân vật dân gian, qua bút pháp của Nguyễn Dữ đã
biến nó trở nên có hồn riêng, có tính cách và cuộc sống riêng.
Bên cạnh kiểu kết cấu theo tuyến thời gian thì còn bắt gặp được kiểu kết cấu hai
tuyến đối lập. Kiểu kết cấu này sẽ không làm tách rồi câu truyện mà còn giúp cho câu
truyện trở nên đặc sắc hơn nữa. Các câu truyện vẫn được giữ theo kết cấu thời gian
những lồng ghép trong đó là các nhân vật có những tính cách đối lập nhau. Khi có sự
lồng ghép như vậy sẽ biểu hiện những mâu thuẫn hay xung đột của các nhân vật trong
các tình tiết của câu truyện. Chảng hạn như Chuyện nàng Túy Tiêu, Chuyện chức phán
sự đền Tản Viên (Truyền kì mạn lục), được Nguyễn Dữ sử dụng kết cấu này để làm nên
nét đặc sắc trong tập truyện truyền kì của mình. Ở Chuyện nàng Tuý Tiêu, ta thấy được
hai tuyến nhân vật ở đây là cái thiên và cái ác. Tuý Tiêu và Nhuận Chi là hai nhân vật
đứng lên đại diện cho cái thiện, còn Thân Trụ quốc là nhân vật của tuyến nhân vật ác.
Câu truyện kể về Tuý Tiêu và Nhuận Chi gặp nhau rồi yêu nhau, Tuý Tiêu bị tên Thân
Trụ quốc bắt đi và họ trải qua nhiều khó khăn để được đoàn tụ với nhau. Sau khi trải qua
những khó khan để tìm về lại với nhau, Nhuận Chi thi lên tiến sĩ và tên Trụ quốc ác độc
kia đã bị trừng phạt. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên cũng có kết cấu như vậy. Khi

18
Ngô Tử Văn một chàng trai lương thiện bất bình với việc phá đền của hồn ma Bách hộ
họ Thôi mà dùng cảm đốt đền. Câu chuyện diễn ra theo trình tự thời gian với cuộc đấu
tranh bảo vệ lẽ phải không chút khiêm nhường của Ngô Tử Văn trước bọn yêu ma quỷ
quái. Sau tất cả thì tên Bách hộ họ Thôi kia đã phải trả giá cho những việc mà hắn đã
làm. Sau khi giành chiến thắng trước cái ác Tử Văn đã được dân làng kính trọng và được
mọi người cúng tế và được lên làm phán sự đền Tản Viên.
Qua kiểu kết cấu này ta vẫn thấy được những nét quen thuộc của loại hình văn học
dân gian. Nhưng thông qua loại hình này các tác giả ở tời đại đó đã cho chúng ta những
thực tại đáng buồn của xã hội đương thời. Ở thời đại này cái tốt và cái xấu luôn tồn tại
với nhau, từ đó các nhà văn dùng ngòi bút của mình để thể hiện những tư tưởng nhân
đạo của bản thân nhằm tiến đến một xã hội công bằng tốt đẹp, trân trọng những phẩm
chất của con người.. Các câu truyện được thể hiện theo kết cấu đơn giản vẫn còn đó
nhưng không nhiều nhưng vẫn còn ở đó, thay vào đó các tác giả thường kết hợp các yếu
tố khác để tạo nên sự hấp dẫn và phức tạp cho các kết cấu của các câu truyện truyền kì.

19
KẾT LUẬN

Truyền kì là một thể loại quan trọng của nền văn học trung đạị, nó có những đóng
góp rất nhiều đối với nền văn học của nước nhà về cả đặc trung nội dung và nghệ thuật.
Thể loại này chính là sự tiếp nhận của nền truyện cổ dân gian. Dù là truyện truyền kì
nhưng nó vẫn không làm mất đi cái tính dân giã trong đó. Sự tiếp nối này chính là cây
cầu để kết nối hai nền văn học viết và dân gian lại với nhau.
Truyện truyền kì trung đại Việt Nam có truyền thống lâu đời và có những thành
tựu nhất định đối với nền văn học nước nhà. Nó chịu ảnh hưởng của các thể loại chí
quái, các câu truyện truyền kì Trung Quốc và sự tiếp nối của văn học dân gian giúp nó
trở nên phong phú hơn. Có thể nói truyện truyền kì chính là thể loại thu hút rất nhiều
độc giả bởi những yếu tố kì ảo xen lẫn những vấn đề của thực tại. Những yếu tố kì ảo
chính là điểm sáng của thể loại này. Các yếu tố kì ảo chính là những thông điệp mà tác
giả muốn truyền đạt đến độc giả. Những điểm kì lạ đó đã tạo nên cho truyện truyền kì
những mảng đề tài khác biệt so với các thể loại cùng thời. Tuy chịu sự ảnh hưởng của
truyền kì Trung Quốc nhưng dưới ngòi bút đại tài của các tác giả Việt Nam đã đem đến
cho thể loại này những làn gió mới, những chi tiết đặc sắc mà không bị trùng lặp ở bất
kì thể loại trung đại nào. Với sự phát triển không ngừng nghỉ, truyền kì đã có những
bước phát triển thật mạnh mẽ để có được vị trí xứng đáng trong giới văn học.
Các câu chuyện truyền kì chính là những phản ánh của hiện thực trong đời sông
xã hội phong kiến. Tác giả trong thời kì này, sử dụng thể loại này để nói sự những nổi
thống khổ, khó khăn mà nhân dân phải trải qua. Bên cạnh đó nó còn khẳng định được
các câu chuyện tình yêu chân thành cùng với tính cách đáng quý của con người, từ đó
nêu lên được những khát vọng, ước mơ được tự do trong cái xã hội bất công, thối nát
của phong kiến. Truyền kì vừa mang giá trị hiện thực, vừa đem lại nhiều giá trị nhân văn
cho tác phẩm. nghệ thuật tự sự chính là những bước tiến lớn của thể loại này so với các
thể loại trước đó, khi thể loại này ra đời nó được nghệ thuật của nó được thể hiện trong
việc xây dựng kết cấu, khắc hoạ nhân vật và những cốt truyện đặc sắc,…

20
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Nguyễn Dữ (2018), Truyền kì mạn lục, NXB. Hội Nhà Văn
[2] Trần Nghi Dung (2012), Vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình phát triển của
văn học Việt Nam, nguồn:
https://drive.google.com/uc?id=1k8Tv4r6VcJ5opevontt_ZSf4zXF5MiIf, ngày truy
cập: 24/06/2023
[3] Lê Thị Hương (2017), Nhân vật nữ trong truyện truyền kì (Khảo sát qua ba tác
phẩm: Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Truyền kì tân phả) , nguồn:
https://drive.google.com/uc?id=1rgyYM4FFs_d04cLzuD2Ry3LIH382AulS, ngày truy
cập: 24/06/2023
[4] Lê Bán Hán (2006), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB. Giáo dục
PGS.TS. Nguyễn Đăng Na (2020), Vài nét về truyện truyền kì Việt Nam, nguồn:
http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghi%C3%AAn-c%E1%BB%A9u/V%C4%83n-
h%E1%BB%8Dc-Vi%E1%BB%87t-Nam-trung-%C4%91%E1%BA%A1i/p/vai-net-
ve-truyen-truyen-ki-viet-nam-330 ngày truy cập: 24/06/2023
[5] Đinh Gia Khánh (1998), Văn học Việt Nam (Thế kỉ X – Nửa đầu thế kỷ XVIII),
NXB. Giáo dục
[6] Lê Dương Khắc Minh (2016), Nghĩ về cội nguồn của truyện truyền kì trung đại
Việt Nam, nguồn:
https://journal.hcmue.edu.vn/index.php/hcmuejos/article/download/407/399, ngày truy
cập: 24/06/2023
[7] N.Đ.N (2022), Truyền kì mạn lục dưới góc độ so sánh, nguồn:
http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghi%C3%AAn-c%E1%BB%A9u/V%C4%83n-
h%E1%BB%8Dc-Vi%E1%BB%87t-Nam-trung-%C4%91%E1%BA%A1i/p/truyen-
ky-man-luc-duoi-goc-do-so-sanh-311, ngày truy câp: 24/06/2023
[8] Nguyễn Đăng Na, Văn học trung đại Việt Nam (tập 1), NXB. Đại học Sư Phạm
[9] TS. Đỗ Thị Mỹ Phương (2020), Người kể chuyện trong truyện truyền kì trung đại
Việt Nam, nguồn: http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghi%C3%AAn-
c%E1%BB%A9u/V%C4%83n-h%E1%BB%8Dc-Vi%E1%BB%87t-Nam-
trung-%C4%91%E1%BA%A1i/p/nguoi-ke-chuyen-trong-truyen-truyen-ki-trung-dai-
viet-nam-365, ngày truy cập: 24/06/2023
[10] Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXB. Đại học Quốc
gia Hà Nội
[11] Trần Đình Sử (2022), Lí luận văn học (tập 2) Tác phẩm và thể loại văn học, NXB.
Đại học Sư Phạm

21

You might also like