You are on page 1of 29

1

Truyện thơ Nôm


I. Tìm hiểu khái niệm
1. Định nghĩa
- Truyện Nôm là một hiện tượng đặc sắc của nền văn học trung đại Việt Nam. Khái
niệm truyện Nôm bắt nguồn từ cách gọi truyền thống. Có lẽ vì hầu hết các tác giả của truyện
Nôm đều tự gọi tác phẩm là “truyện” và nhấn mạnh tính chất “nôm na” của nó: “Nôm na xin
bạn đừng cười/ Gọi là chắp chảnh vài lời cho vui” (Hoa điểu tranh năng); “Nôm na xin diễn
tích Ngài/ Cho người ít chữ nhớ lời kính tin”(Nam Hải Quan Thế Âm),... Nôm cũng được
hiểu là tiếng, là chữ của nước ta: “Giở xem truyện cũ đặt bài quốc âm” (Tống Trân Cúc
Hoa); “Chép làm quốc ngữ để truyền hậu lai” (Phạm Tải Ngọc Hoa); “Vui lòng cổ lục diễn
bài Nam ca” (Nhị độ mai)... Hình thái “truyện” ở đây gắn với khái niệm ‘truyện” và “tiểu
thuyết” theo quan niệm của thời trung đại.
- Giới nghiên cứu đã đưa ra một số thuật ngữ để gọi tên thể loại này: truyện Nôm,
truyện thơ Nôm, truyện dài, truyện thơ,... Một số tác giả của các bộ lịch sử văn học, hoặc các
công trình nghiên cứu, sưu tầm, biên dịch, giới thiệu các tác phẩm của thể loại này còn sử
dụng những khái niệm như : truyện diễn ca, truyện ngâm, truyện dài Việt Nam, trường thiên
tiểu thuyết,...
+ VD: VNVH sử yếu của Dương Quảng Hàm (1941): “Truyện Nôm là tiểu thuyết viết
bằng văn vần”; Đặng Thanh Lê: “TNôm là một hình thái của tiểu thuyết, thể loại phản ánh
cuộc sống bằng phương thức tự sự [...] Truyện Nôm chính là một hình thái của thể loại
“Truyện” mà Hoàn Đàm trong Tân luận đã định nghĩa: “Tiểu thuyết là tập hợp những lời lẽ
vụn vặt, thiếu sót viết thành đoản thư”. Lời “thiếu sót” ở đây đối lập với văn chương “cao
nhã đúng đắn” của thánh hiền. Ban Cố: “Những sách do các nhà tiểu thuyết viết ra là do các
quan nhỏ chuyên nhặt những câu chuyện đầu đường xó phố rồi đặt ra”... TĐVHọc (2003):
“Một thể loại văn học viết dưới hình thức văn vần, có cốt truyện trong văn học cổ Việt Nam,
phát triển mạnh mẽ nhất ở giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX”;
+ Nội dung cụ thể của từng khái niệm có khác nhau nhưng nhìn chung có sự thống
nhất trong việc thừa nhận yếu tố “truyện” - nghĩa là khẳng định phương thức tự sự của thể
loại… Trong số các tên gọi đó, khái niệm truyện thơ Nôm có thể bao quát được những đặc
điểm cơ bản của thể loại này: kết hợp phương thức tự sự và trữ tình, sử dụng hình thức văn
vần và văn tự Nôm...
2
- Như vậy, có thể hiểu truyện thơ Nôm là loại hình tác phẩm tự sự bằng thơ, được
viết bằng chữ Nôm, chủ yếu sử dụng thể lục bát hoặc STLB (ở giai đoạn đầu, có một số
truyện thơ Nôm Đường luật),...
+ Hình thức tự sự cho phép truyện thơ Nôm phản ánh hiện thực rộng lớn, phong phú
của đời sống; ngôn ngữ thơ không chỉ làm tăng chất trữ tình mà còn “tinh chế” được nhiều
chất liệu thô nhám của đời thường...
+ Lối kể chuyện bằng thơ đáp ứng được nhu cầu kể và nghe của độc giả - đặc biệt
hữu dụng với lượng độc giả không biết chữ còn chiếm số đông trong xã hội đương thời (rất
nhiều những người bà, người mẹ không biết đọc nhưng kể, ngâm Nhị độ mai, Tống Trân
Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa, Thạch Sanh... lưu loát từ đầu đến cuối)...
+ Tất nhiên, hình thức tự sự bằng thơ cũng có hạn chế nhất định, chẳng hạn khó có
thể miêu tả hiện thực một cách cụ thể, chi tiết như văn xuôi, hoặc ít nhiều vẫn chịu sự gò bó
của thi luật... Nhưng trong những tác phẩm đỉnh cao như Đoạn trường tân thanh của
Nguyễn Du, những hạn chế này đã được khắc phục và ở đó, truyện thơ Nôm đã phát huy hết
sức mạnh nghệ thuật kì diệu của thể loại.
2. Các tiêu chí phân loại:
2.1. Căn cứ vào hiện tượng có tên hoặc không có tên tác giả
- Chia thành hai loại: truyện Nôm hữu danh và truyện Nôm khuyết danh. Có ý kiến
đồng nhất truyện Nôm khuyết danh với truyện Nôm vô danh: “Trong văn chương cổ điển, có
một số tác phẩm như Trê Cóc, Thạch Sanh, Phạm Công Cúc Hoa, Nhị độ mai, Phan Trần...
được nhân dân yêu mến, truyền tụng từ đời này sang đời khác... Những tác phẩm ấy, nay
không biết tên tác giả, gọi là tác phẩm vô danh hay khuyết danh”(4)
- Cách phân loại theo tiêu chí này không có sức thuyết phục vì thiếu cơ sở khoa học.
Một mặt, khó có thể tìm được sự khu biệt về nội dung và hình thức của hai loại truyện hữu
danh và khuyết danh: “Những truyện Nôm may mắn còn giữ được tên tác giả... xét về căn
bản, những tác phẩm ấy có nhiều điểm giống với nhiều truyện Nôm khuyết danh khác, hoặc
về nguồn gốc đề tài, hoặc về khuynh hướng tư tưởng, hoặc là về phương pháp sáng tác” (5).
Mặt khác, có những tác phẩm khuyết danh, khi tìm được tác giả, sẽ lập tức “chuyển loại”!
2.2. Căn cứ vào đặc điểm nội dung và trình độ nghệ thuật của tác phẩm
- Chia thành hai nhóm: truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân. Khái niệm
truyện Nôm bình dân xuất hiện trong các công trình nghiên cứu của Dương Quảng Hàm
3
(Việt Nam văn học sử yếu, 1941- khi bàn về thể lục bát “Thể này thường dùng để viết các
truyện có tính cách bình dân như Quan Thế Âm, PCCH, Lí Công...”); Đinh Gia Khánh (Văn
học dân gian, 1972: TN nói chung là loại TP bắc cầu giữa VHDG và VHBH. Có những
truyện gọi là TNBD thì gần với VHDG hơn. Có những truyện thì vào khoảng trung gian. Lại
có nhiều truyện thì gần với VHBH hơn, hoặc là hoàn toàn có tính chất làm VHBH”), Cao
Huy Đỉnh (Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian, 1974 cũng sử dụng k/n TNBD)... Nhưng
tác giả đầu tiên giải thích rõ ràng tiêu chí phân loại này là Nguyễn Lộc.
- Trong công trình Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX,
Nguyễn Lộc đã khái quát những đặc điểm cơ bản của truyện Nôm bình dân và truyện Nôm
bác học:
+ Truyện Nôm bình dân phần lớn không có tên tác giả. Tác giả là những nho sĩ, trí
thức bình dân, có học hành song không đỗ đạt cao. Họ sống gần gũi với nhân dân lao động
và chịu ảnh hưởng tư tưởng của nhân dân. Cốt truyện của truyện Nôm bình dân thường được
lấy từ văn học dân gian hoặc từ đời sống thực tế ở địa phương : Thạch Sanh, Chàng Chuối,
Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa, Phương Hoa... Chủ đề tác phẩm nghiêng về cuộc
đấu tranh bảo vệ tình yêu và hạnh phúc gia đình; tố cáo, lên án thực trạng xã hội đen tối, bất
công. Truyện Nôm bình dân “được sáng tác để kể là chính chứ không phải để xem hay để
đọc”. Hình thức nghệ thuật còn thô mộc, đôi khi mạch truyện lỏng lẻo, diễn đạt chưa được
trau chuốt nhưng lại có sức cuốn hút bằng vẻ đẹp bình dị, hồn nhiên, chân thực...
+ Truyện Nôm bác học phần lớn có tên tác giả, chỉ một số ít là khuyết danh. Tác giả
là những nho sĩ thuộc tầng lớp phong kiến quí tộc, có học vấn uyên bác. Cốt truyện thường
lấy từ văn học Trung Quốc như Song Tinh, Hoa tiên, Đoạn trường tân thanh... Nội dung tác
phẩm phong phú, có nhiều điểm tiến bộ nhưng cũng phản ánh những mâu thuẫn, hạn chế
trong tư tưởng của tác giả. Chủ đề nghiêng về cảm hứng ca ngợi tình yêu tự do của các cặp
giai nhân tài tử. Truyện Nôm bác học “là những tác phẩm chủ yếu để để xem, để đọc chứ
không phải để kể”... Hình thức nghệ thuật đựơc gia công, trau chuốt, đạt đến trình độ điêu
luyện song một số tác phẩm còn vay mượn nhiều chất liệu của thơ ca Trung Quốc, có lúc rơi
vào tình trạng cầu kì, khó hiểu...
- So với tiêu chí có tên hoặc không có tên tác giả, cách phân loại truyện thơ Nôm dựa
trên đặc điểm nội dung và nghệ thuật có sức thuyết phục cao hơn: “... một số lượng đáng kể
các truyện Nôm mà ngày nay nhiều nhà nghiên cứu chia ra hai loại bác học và bình dân đã
4
làm cho thể loại đó gần như ổn định, có nề nếp và ít nhiều đã hình thành một thứ khuôn khổ,
khuynh hướng”(Trần Đình Hượu); “Khuynh hướng phân loại truyện Nôm bình dân, truyện
Nôm bác học rõ ràng là chiếm ưu thế, được nhiều người chấp nhận” (7)... Tuy nhiên, việc
nhấn mạnh sự khác biệt trong phương thức sáng tác để kể hay để đọc của từng loại truyện
chưa thật hợp lí. Vì thực tế, những truyện Nôm bác học như Truyện Kiều của Nguyễn Du,
Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu cũng được kể, ngâm - thậm chí còn gắn với nhiều
hoạt động diễn xướng khác (như lẩy Kiều, đố Kiều...)...
2.3. Căn cứ vào nguồn gốc đề tài, cốt truyện là cách phân loại được Đặng Thanh Lê
sử dụng trong công trình Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm (sđd):
- Các tác phẩm có cốt truyện từ kho tàng văn học dân gian như: Thạch Sanh, Từ
Thức, Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa...
- Các tác phẩm có cốt truyện từ văn học cổ điển Trung Quốc như: Lâm tuyền kì ngộ,
Phan Trần, Nhị độ mai, Hoa tiên (Nguyễn Huy Tự), Đoạn trường tân thanh (Nguyễn Du)...
- Các tác phẩm có cốt truyện bắt nguồn từ thực tế đời sống như: Sơ kính tân trang
(Phạm Thái), Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu)...
2.4. Căn cứ vào nội dung đề tài: cách phân loại này được Nguyễn Thị Nhàn sử dụng
trong công trình Thi pháp cốt truyện truyện thơ Nôm và Truyện Kiều(8):
- Loại truyện có tính chất lễ nghi tôn giáo: tái hiện một phần đời sống tôn giáo của
con người thời trung đại. Nguồn cốt truyện chủ yếu lấy từ Phật thoại, tiên thoại, huyền tích
dân gian của Việt Nam hoặc du nhập từ nước ngoài vào như Quan Âm Thị Kính, Sự tích đức
Chúa Ba, Sự tích đức Phật chùa Dâu, Tiên Hương thánh mẫu truyện...
- Loại truyện lãng mạn (cũng gọi là truyện tài tử giai nhân): viết về tình yêu nam nữ
với nguồn cốt truyện lấy từ văn học Trung Quốc hoặc do tác giả tự hư cấu như : Song Tinh,
Hoa Tiên, Sơ kính tân trang, Ngọc Kiều Lê, Phan Trần, Nữ tú tài...
- Loại truyện thế sự: xoay quanh câu chuyện hôn nhân hạnh phúc gia đình và vấn đề
đấu tranh xã hội... Nguồn cốt truyện được lấy từ nhiều phía như : Thoại Khanh Châu Tuấn,
Lâm sanh Xuân Nương, Lý Công, Tống Trân Cúc Hoa, Phương Hoa...
- Loại truyện lịch sử: đề tài, cốt truyện được lấy từ các sự kiện và nhân vật lịch sử
như: Chúa Thao cổ truyện, Ông Ninh cổ truyện...
5
- Loại truyện luân lí đạo đức: tập trung vào vấn đề luân lí nhằm mục đích giáo huấn.
Nguồn cốt truyện chủ yếu dựa vào tích cũ hoặc hư cấu: Trinh thử, Trê Cóc, Lưu Bình Dương
Lễ, Ngọc Chân tuyển phu, Ngư Tiều y thuật vấn đáp...
Có thể nói, mỗi tiêu chí phân loại trên đều có những điểm mạnh và những hạn chế
riêng, ngay cả với những xu hướng phân loại được tiếp nhận rộng rãi. Vì vậy, không nên
tuyệt đối hoá tiêu chí phân loại nào và càng không nên lấy đó làm cơ sở để định giá tác
phẩm. Trên thực tế, “mỗi loại truyện có những ưu điểm và nhược điểm, những thành tựu và
hạn chế riêng”(Hoàng Hữu Yên). Mặt khác, tuỳ theo đối tượng và mục đích nghiên cứu, có
thể lựa chọn cách phân loại phù hợp...
II. Quá trình hình thành và phát triển
1. Cơ sở lịch sử – xã hội, văn hoá
1.1. Cơ sở lịch sử - xã hội
Những điều kiện cần thiết cho sự sinh thành và phát triển của thể loại truyện thơ
Nôm đã được chuẩn bị trong một thời gian dài - khoảng từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII (có
q/n từ XV?). Trước hết, phải nói đến những điều kiện kinh tế, chính trị có ảnh hưởng lớn đến
đời sống vật chất và tư tưởng, tình cảm của con người.
1.1.1. Về kinh tế:
- Từ thế kỉ XVI, nền kinh tế công thương nghiệp Đại Việt chuyển sang một giai đoạn
mới. Nội thương nhộn nhịp ở cả làng thôn và phố thị: “...các chợ mọc lên khắp nơi, hầu như
mỗi làng đều có chợ hoặc các cụm làng chia phiên trong tuần để họp chợ”(Đại cương lịch sử
Việt Nam, Trương Hữu Quýnh chủ biên, GD, 2002, tr.366). Xuất hiện các tụ điểm buôn bán
lớn như Đồng Đăng, Kỳ lừa, Vân Đồn, Vị Hoàng, Phú Xuân... và các đô thị sầm uất như Phố
Hiến (Hưng Yên), Hội An (Quảng Nam); Kẻ Chợ (Thăng Long)- “mở đầu giai đoạn phát
triển khá mạnh mẽ của kinh tế hàng hóa và cũng là giai đoạn phồn vinh của các thành thị
trung đại Việt Nam” (Phan Huy Lê). Trong cuốn Miêu tả vương quốc Bắc kì, tác giả S.
Baron, một thương nhân người Anh có cửa hiệu tại Thăng Long vào cuối thế kỉ XVII đã mô
tả: “Đông vui nhất là ngày mùng một và ngày rằm âm lịch là những ngày phiên chợ: nhân
dân các làng lân cận đem hàng hoá về đông không tưởng tượng được. Nhiều phố vốn rộng
rãi quang đãng mà khi ấy cũng chật ních người. Đôi khi lách chân vào trong đám đông chỉ
bước dần được chừng trăm bước trong một giờ cũng đã thấy sung sướng lắm rồi” (10). Cuối
thế kỉ XVIII, tác giả cuốn Lịch sử tự nhiên, dân sự và chính trị Bắc kì cũng ghi lại quang
6
cảnh sầm uất của Kẻ Chợ: “Số lượng thuyền bè lớn lắm, đến nỗi rất khó lội được xuống bến
sông. Những sông, những bến buôn bán sầm uất nhất của chúng ta bên châu Âu, ngay cả
thành phố Venise nữa với tất cả những thuyền lớn thuyền nhỏ của nó cũng không thể đem
đến cho người ta một ý niệm về sự hoạt động buôn bán sầm uất và dân số trên sông Kẻ
Chợ”(Tư liệu trong phim tài liệu Hà Nội trong mắt ai, Trần Văn Thuỷ). Việc buôn bán với
thương nhân nước ngoài được mở rộng - Gia Va (Inđônêxia), Xiêm (Thái Lan), Nhật Bản,
Bồ Đào Nha, Hà Lan, Pháp, Anh...
+ Nền kinh tế hàng hoá với sức mạnh của đồng tiền càng đẩy nhanh sự sụp đổ của ý
thức hệ phong kiến. Sự hình thành, phát triển của môi trường đô thị và tư tưởng thị dân đã
tạo điều kiện thuận lợi cho con người cá nhân nảy sinh.
- Nền sản xuất thủ công nghiệp, đặc biệt là nghề làm giấy và nghề in phát triển cũng
tạo điều kiện cho việc ấn hành, truyền bá truyện thơ Nôm. Các làng nghề in như Liễu Tràng,
Hồng Lục (Tứ Lộc, Hải Dương); Châu Khê (Bắc Ninh); Phù Định, Yên Thái (Thăng Long);
Đốc Sở (Thừa Thiên)... khởi sắc đã góp phần kích thích sáng tác văn học.
1.1.2. Về chính trị:
- Giai đoạn này là thời kì suy tàn của chế độ phong kiến. (Tuy nhiên, cần lưu ý hai
giai đoạn: đầu triều Mạc (sau loạn ly thời Lê sơ, triều Mạc có những thay đổi tiến bộ (chế
độ quân điền, ngành nghề thủ công phát triển - gốm sứ, thương nghiệp mở mang, khởi sắc:
sử gia thời Lê TH: “Trong khoảng vài năm, đường sá không nhặt của rơi, cổng ngoài không
đóng, thường được mùa to, trong cõi tạm yên” (ĐVSKTT); triều Lê TH (đầu XVII, nhà Lê
Trịnh: “nhân dân trong nước lại được yên ở như cũ... Kinh thành cung cấm đều được yên
lặng... Trong ổn ngoài yên, gần vui xa phục” (ĐVSKTT)
+ Giai cấp thống trị suy đồi với những “vua quỉ”, “vua lợn” như Lê Uy Mục (1505 -
1509), Lê Tương Dực (1510- 1516) ; những chúa Nguyễn, chúa Trịnh (Trịnh Cương/ Giang/
Sâm...)ăn chơi xa hoa vô độ; quan lại tham nhũng...
+ Nội bộ phong kiến tranh giành quyền lực, tiêu diệt lẫn nhau. Nội chiến liên miên:
chiến tranh Nam - Bắc triều hơn mười năm; cuộc chiến Đàng Trong, Đàng Ngoài kéo dài
ngót nửa thế kỉ; đất nước chìm trong tang thương (Nước sông một nửa là máu anh hùng/
Thượng đế trong cõi u minh có biết không? (Lê Quang Định; “Đất trời nhơ nhớp trong cuộc
huyết chiến (Nguyễn Du)... Chính sự rối ren, thối nát: “Bên trong trái đạo đức, bên ngoài trái
7
chính lệnh, giường mối suy tàn, pháp lệnh không chấn chỉnh, quan lại hà khắc, nhũng
nhiễu”(Việt sử thông giám cương mục)...
+ Tình trạng “vua không ra vua, tôi không ra tôi” khiến hệ tư tưởng chính thống suy
yếu, khủng hoảng trầm trọng và tạo điều kiện cho các luồng tư tưởng “phi chính thống” nảy
nở, phát triển.
- Thực trạng xã hội mục ruỗng, hỗn loạn khiến đời sống của nhân dân điêu đứng dẫn
đến tình trạng “tức nước vỡ bờ”. Khởi nghĩa nông dân liên tiếp nổ ra ở khắp nơi. Thế kỉ XVI
– XVII với các cuộc nổi dậy của Trần Tuân (Hưng Hoá), Phùng Chương (Sơn Tây), Lê Hi,
Trịnh Hưng (Nghệ An), Đặng Hân, Lê Cật (Thanh Hoá), Trần Công Ninh (Yên Lăng), Trần
Cảo (Đông Triều)... Thế kỉ XVIII, phong trào khởi nghĩa nông dân nở rộ với qui mô rộng
lớn hơn: Nguyễn Dương Hưng (Sơn Tây), Lê Duy Mật (Thanh Hoá), Hoàng Công Chất
(Sơn Nam), Nguyễn Danh Phương (Thái Nguyên, Tuyên Quang), Nguyễn Hữu Cầu (Bắc
bộ)... Tiêu biểu nhất là phong trào Tây Sơn với sức mạnh vũ bão làm sụp đổ thể chế Lê -
Trịnh...
1.1.3. Về tư tưởng: Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến, sự lớn mạnh của phong
trào khởi nghĩa nông dân đã góp phần quan trọng vào việc thay đổi hình thái tư tưởng của
thời đại. Nó không chỉ làm suy yếu và sụp đổ hệ tư tưởng phong kiến mà còn nâng đỡ cho sự
ra đời, phát triển của tinh thần dân chủ.
- Các triều đại vẫn coi trọng việc học, việc thi cử (30 năm cuối Lê sơ - dù loạn lạc vẫn
thi Hội đủ 10 khoa; nhà Mạc lên, mở ngay kì thi đại khoa; Lê TH đều đặn mở khoa thi, tăng
đãi ngộ cho người đỗ đạt); Nho giáo vẫn được đề cao... Nhưng kỉ cương Nho giáo sa sút :
“từ năm Đoan Khánh (1505-1509) trở về sau... tập tục sĩ phu thối nát... tệ hại... không sao kể
xiết” (Lê Quí Đôn, KVTL); bị phá vỡ: “mọi người đều cảm thấy xã hội cũ đang tan vỡ, mọi
giá trị của nó bị đứt tung không tài nào cứu vãn nổi... Đó là một thời đại trong đó sự đổ vỡ
diễn ra khắp mọi nơi... Mọi qui mô cũ đều bị chà đạp... Mọi chỗ dựa của trật tự xưa đều sụp
đổ”(P.Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, 1990, tr.
45).
- Tầng lớp nho sĩ phong kiến rơi vào tình trạng khủng hoảng, mất niềm tin, bế tắc...
nhưng tư tưởng của họ cũng có sự chuyển biến mạnh mẽ. Không ít người bị cuốn vào cơn
dâu bể của thời đại, nếm trải những thăng trầm như Phạm Thái, Nguyễn Du... Một mặt, họ
8
chứng kiến và thấu hiểu, đồng cảm với nỗi khổ của nhân dân; mặt khác, họ chịu ảnh hưởng
tinh thần dân chủ của nhân dân, của khát vọng giải phóng con người...
- Quần chúng lao động và một bộ phận nho sĩ tiến bộ đã nhận biết sự thối nát của xã
hội ; ý thức được quyền sống và sức mạnh của nhân dân. Đây cũng là nguồn mạch tinh thần
nuôi dưỡng cảm hứng sáng tạo và tư tưởng nhân văn trong truyện thơ Nôm: “Truyện thơ
Nôm là một thể loại thể hiện khuynh hướng dân chủ, đã thể hiện làn gió tiên tiến của thời
đại” (Trần Đình Sử).
1.2. Cơ sở văn hoá, văn học
1.2.1. Cơ sở văn hóa:
- Quá trình hình thành, phát triển của truyện thơ Nôm gắn liền với sự khởi sắc của
nền văn hoá dân tộc:
+ Theo qui luật, khi chế độ phong kiến khủng hoảng, bức tường thành của tư tưởng
chính thống rạn nứt, đổ vỡ thì con người có điều kiện, có xu hướng tìm về môi trường sinh
hoạt văn hoá dân gian “phi chính thống”. Thời kì này, văn hoá dân gian hưng thịnh, giữ vai
trò dân chủ hoá văn hoá bác học. Các thể loại tuồng (Đàng Trong), chèo, các lễ hội, các trò
chơi dân gian (Đàng ngoài)... phát triển mạnh. Nghệ thuật điêu khắc (tượng Phật bà nghìn
mắt nghìn tay), kiến trúc(đình - cảnh sinh hoạt đời thường, vẻ đẹp phồn thực...), tranh dân
gian (tranh Hàng Trống - tứ bình Tố nữ, nhị bình “Lí ngư vọng nguyệt”...); Đông Hồ - một
số bức ghi thêm những câu lục bát - Hứng dừa: Khen ai khéo dựng nên dừa/ Đấy trèo, đây
hứng cho vừa một đôi")... - cũng phản ánh “bầu khí quyển tinh thần” với những khát vọng
sống, khát vọng tự do, dân chủ của thời đại.
+ Trong đó, thành tựu của các thể loại văn học dân gian, đặc biệt là cổ tích và ca dao
có vai trò rất quan trọng đối với việc hình thành, phát triển của truyện thơ Nôm. Cổ tích
cung cấp nguồn cốt truyện, mô hình kết cấu, kiểu nhân vật…; ca dao là nguồn ngôn ngữ thơ
ca và là cái nôi của thể lục bát.
- Cùng với nội lực tiềm tàng, nền văn hoá Việt Nam thời kì này đã mở rộng giao lưu
với nhiều nước trong khu vực - thông qua các con đường tôn giáo, buôn bán, di dân, bang
giao chính thống, chuyển tải văn hoá qua tầng lớp trí thức đi công cán... Trên thực tế, không
ít truyện thơ Nôm đã tiếp nhận nguồn đề tài, nguồn cốt truyện từ văn học Ấn Độ, Trung
Hoa, qua những ngả đường đó. Tiếp nhận văn hoá nước ngoài trên tinh thần phát huy bản
9
sắc dân tộc và tư tưởng dân chủ của thời đại, ông cha ta đã sáng tạo nên những sản phẩm
làm giàu cho nền văn hoá dân tộc.
1.2.2. Cơ sở văn học: Quá trình hình thành, phát triển của truyện thơ Nôm gắn liền
với thành tựu của dòng văn học Nôm, thể loại tự sự và thể thơ lục bát.
- Lực lượng sáng tác : có sự thay đổi lớn - địa vị xã hội, quan niệm sáng tác, khuynh
hướng cảm hứng. Giai đoạn X – XIV: vua chúa, tăng lữ cấp cao – trực tiếp tham chính, đảm
nhận trọng trách (kiểu tác giả nhà nho (quân tử, hành đạo); văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí;
khuynh hướng khẳng định, ngợi ca con người thánh nhân, phi phàm...) + tác giả nhà sư ; đến
XV -XVII: đa dạng hơn – vẫn có các nhà nho đỗ đạt cao, tham chính (Nguyễn Giản Thanh,
Nguyễn Thiếp, Giáp Hải, PKKhoan, Lương Hữu Khánh...) nhưng xuất hiện nhiều nhà nho
ẩn dật – danh gia, kiệt tác (NB. Khiêm, N.Dữ, ...) + tầng lớp nho sĩ bình dân - LLST của
nhóm TNBD?; quan niệm nghệ thuật (thi ngôn tình, khuynh hướng phê phán xã hội, kiểu
con người bình phàm...); XVIII: nhà nho tài tử (xem Phan Ngọc – thuyết “tính linh”, khám
phá tình cảm riêng tư, tình yêu đôi lứa...) -
- Về văn tự: Theo nhà nghiên cứu Đào Duy Anh, những văn bản Nôm sớm nhất còn
lại có niên đại thời Lí - Trần (XIII): bia chùa Báo Ân xã Tháp Miếu, Phúc Yên, Vĩnh Phúc
được dựng vào cuối năm 1209 (đời Lí Cao Tông) ; một số văn bản của các vị Tổ phái Trúc
Lâm (Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca của Trần Nhân Tông - 1258/
1308). Sách Đại việt sử kí toàn thư ghi chép sự kiện Nguyễn Thuyên làm văn Nôm đuổi cá
sấu: “Bấy giờ (1282) có cá sấu đến sông Lô, vua sai Hình bộ Thượng thư Nguyễn Thuyên
làm bài văn ném xuống sông, cá sấu bỏ đi. Vua cho là việc này giống như việc của Hàn Dũ,
bèn sai gọi là Hàn Thuyên. Thuyên lại giỏi làm thơ quốc ngữ. Thơ phú nước ta dùng nhiều
quốc ngữ, thực bắt đầu từ đấy”... Bài thơ tương truyền của Điểm Bích- cho phép dự đoán về
quá trình sử dụng văn tự Nôm vào việc sáng tác thơ văn...
+ Đến thế kỉ XV- XVII, chữ Nôm đã khẳng định vị trí trên văn đàn với các tác phẩm
lớn như Quốc Âm thi tập của Nguyễn Trãi, Hồng Đức Quốc Âm thi tập của các tác giả thời
Lê Thánh Tông, Bạch Vân quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm... Sự trưởng thành, hoàn
thiện về mặt văn tự - chuẩn bị điều kiện vật chất cho các thể loại sáng tác bằng chữ Nôm.
- Về thể tài, ở những giai đoạn trước, các tác giả chủ yếu sử dụng thể phú và thơ
Đường luật trong sáng tác văn học Nôm. Một số nhà thơ cải biến bằng hình thức xen kẽ câu
lục ngôn ; hoặc kết các bài thơ Đường luật thành truyện thơ. Hướng đi này gặp khó khăn vì
10
mô hình kết cấu chặt chẽ của bài thơ Đường luật mâu thuẫn với yêu cầu về tính liên tục của
thể loại tự sự. Một số tác giả chọn thể tài lục bát hoặc song thất lục bát của văn học dân gian
để sáng tác và sớm nhận ra ưu thế của chúng trong việc đảm đương chức năng tự sự.
- Các nhà nghiên cứu cho rằng, thể lục bát xuất hiện trong văn học viết vào khoảng
thế kỉ XVI - XVII. Đầu thế kỉ XVI, đã thấy một số dòng thơ kiểu lục bát trong bài hát cửa
đình Bát giáp thưởng đào văn (Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào) của Lê Đức Mao
(1462- 1529). Tác phẩm này gồm 128 câu, xen lẫn Hán và Nôm, kết hợp kiểu nói lối với thể
lục bát và song thất:
...Mừng xuân xuân yến xuân ca,/ Bốn dân mưa huệ, trăm nhà gió huân.
Rồi từ đó nhờ ân cấp túc,/ Tiếng quản huyền nô nức nhân gia.
Năm năm mở tiệc xướng ca, / Đào dâng hai chữ tam đa mừng làng.
+ Nửa sau thế kỉ XVI, có Lâm tuyền vãn (185 câu lục bát) của Phùng Khắc Khoan
(1528- 1613), vừa bày tỏ tâm sự của tác giả vừa mang tính tự sự - kể về các loài thảo mộc
địa phương và chỉ bảo cho người dân cách trồng trọt ; Ngoạ long cương vãn (136 câu) và Tư
dung vãn (236 câu) của Đào Duy Từ (1572 - 1634) với nhiều đoạn thơ lục bát được trau
chuốt khá mượt mà. Đầu thế kỉ XVII, có Tứ thời khúc vịnh của Hoàng Sĩ Khải (trên 300 câu
STLB). Ở đây, tác giả đã sử dụng khá nhuần nhuyễn thể STLB để diễn tả tâm trạng... Nhìn
chung, ở giai đoạn này, thể lục bát đã được sử dụng rộng rãi trong văn học viết nhưng các
tác phẩm còn thiên về tính chất vịnh cảnh, kể việc.
+ Điểm mốc đánh dấu sự phát triển vượt bậc của thể lục bát là các tập diễn ca lịch sử:
Thiên Nam minh giám (nửa đầu XVII, 936 câu STLB: Gái cao tay, mấy tài gái Triệu/ Trục
quân Ngô chân díu tay co/ Buông oai chớp giật sấm khuya/ Như bằng rễ héo, lay khô một
chồi); Thiên Nam ngữ lục (nửa cuối XVII, hơn 8000 câu lục bát, kể lại lịch sử dân tộc từ đời
Hồng Bàng đến đời Hậu Trần). Thiên Nam ngữ lục đã chứng tỏ khả năng to lớn của thể lục
bát trong hình thức tự sự...
2. Quá trình hình thành, phát triển truyện thơ Nôm
2.1. Truyện thơ Nôm Đường luật
Vào khoảng thế kỉ XVI – XVII, xuất hiện một số truyện thơ Nôm Đường luật khuyết
danh như: Tô Công phụng sứ, TruyệnVương Tường, Lâm tuyền kì ngộ, Tam Quốc thi... Mỗi
truyện gồm nhiều bài thơ thất ngôn bát cú viết theo luật thơ Đường kết lại với nhau.
11
- Truyện Tô Công phụng sứ gồm 24 bài thơ thất ngôn bát cú, lấy tích “Tô Vũ chăn
dê” ở sử liệu trung Quốc đời Hán: Tô Vũ đi sứ nước Hồ; vua Hồ dụ hàng không được bèn
đày ông đi Bắc Hải, bắt chăn dê đực, khi nào dê đẻ mới cho về. Tô Vũ không nề gian khổ,
giữ vững khí tiết. Mười chín năm sau, vua Hán biết tin sai sứ đòi vua Hồ thả Tô Vũ, ban
khen, cho vẽ hình treo ở gác Lân để biểu dương tinh thần trung quân ái quốc. Tô Công
phụng sứ còn được gắn với câu chuyện thực về Lê Quang Bí, vị sứ thần Việt Nam đời Mạc,
đi sứ Trung Quốc cũng bị giữ lại 19 năm. Khi trở về, ông được triều đình ban thưởng và
người đời ngợi ca, ngưỡng mộ… Tác giả đã mượn tích truyện xưa để thể hiện lòng yêu
nước, khí phách anh hùng và tinh thần tự hào dân tộc; nêu cao tấm gương tiết tháo, trung
nghĩa…
- TruyệnVương Tường gồm 46 bài (phụ chép trong HĐQÂTT)bài thơ Đường luật, kể
lại cốt truyện Chiêu Quân cống Hồ. Chiêu Quân có nhan sắc hơn người, được tuyển làm
cung nữ đời Hán nhưng không chịu đút lót tiền cho thợ vẽ Mao Diên Thọ nên bị hắn hoạ
chân dung xấu đi khiến vua Hán không để ý đến nàng. Nhân vua Hung Nô cầu thân, nàng bị
gả sang Hồ, rồi tự vẫn trong cung Thuyền Vu, trọn tiết cùng vua Hán (mỗi bài thơ - chi tiết,
sự kiện tiêu biểu trong cốt truyện: Tuyển cung nữ/ VT nhập cung/ DT họa đồ/ VT thất sủng/
Thuyền Vu cầu thân/ VT bái yết/ VT dung mạo/ Đế vấn VT/ VT tấu đáp/ Đế hỉ VT…).
- Lâm tuyền kì ngộ còn có tên gọi là Bạch Viên Tôn Khác, được kể bằng 146 bài thơ
Đường luật, cuối truyện có một bài thất ngôn tuyệt cú và bài Thạch Tuyền ca khúc phỏng
theo thể hát nói. Dựa vào một cốt truyện đậm tính kỳ quái của Trung Quốc đời Đường, tác
giả Việt Nam đã cải biên, sáng tạo nên câu chuyện tình yêu trong sáng, thuỷ chung, có hậu.
Nhân vật chính là tiên nữ ở cung Quảng Hàn, vì phạm lỗi nên bị đày xuống trần trong lốt
một con vượn trắng (Bạch Viên) biết nói tiếng người. Bạch Viên đến tu ở chùa Phi Lai với
sư Huyền Trang. Ít lâu sau, Bạch Viên bỏ đi, hoá thành người con gái đẹp, dựng lâu đài ở
Thạch Tuyền, kết duyên cùng nho sinh Tôn Khác và sinh được hai con trai… Sáu năm sau,
Bạch Viên nói rõ lai lịch và từ biệt chồng con trở về tiên giới. Sống ở cõi tiên, Bạch Viên
nhớ thương chồng con đến héo hon, sầu não nên Thượng đế cho nàng trở lại trần gian đoàn
tụ.
- Tam Quốc thi (cùng loại với nhóm 3 truyện… nhưng niên đại xuất hiện thì có thể
sớm hơn nhiều ?- 1083 ?) gồm 340 bài thơ Đường luật, cả thất ngôn bát cú và tứ tuyệt, có
những bài xen câu lục ngôn+ một bức thư của Quan Vũ để lại cho Tào Tháo gồm 34 câu,
12
theo thể thất ngôn trường thiên. Tác phẩm kể lại một đoạn cốt truyện Tam Quốc diễn nghĩa -
từ lúc ba anh em Lưu- Quan - Trương thất tán ở Từ Châu đến khi hội ngộ tại Cổ Thành (hồi
24 đến 28). Tác giả đã giữ nguyên những tình tiết hấp dẫn, giàu kịch tính: sự mua chuộc và
lung lạc của Tào Tháo; những hành động quyết liệt của Quan Công; cuộc đoàn tụ bất ngờ,
cảm động của anh em, vua tôi... Trong đó, nổi bật hình tượng Quan Vân Trường với khí tiết
cứng cỏi và nghĩa tình sâu nặng. Đã thấy phảng phất cái cấu trúc kết thúc cố hậu của truyện
Nôm (1085) ; Ngôn ngữ thơ hết sức bình dân, mộc mạc, hầu như không có điển cố (1083).
(VD : TT hỏi chư tướng : Tiểu Bái, Từ Châu đã lấy rồi/ Hạ Bì còn một đấy mà thôi/ Ta khi
đắc thế hùm thêm cánh/ Người chốc sa cơ cá hãm nồi/ Phỏng tạm lời lành đi dỗ ướm/ Hay
sai kẻ tới đánh cho vùi/ Chúng đều lọn lẹt cùng nhau đấy/ Xưng chỉ công đầu trước mỗi tôi ;
Quan Vũ tự thán : Há muốn đi đường ghét bỏ ai/ Sự chăng được chớ ỷ khôn nài/ Ví dù
Thừa tướng người sau biết/ Hiềm giận rằng ta chẳng kể trai. - TTVHVH tập 6).
*Sự ra đời của các truyện thơ Nôm Đường luật đã phần nào đáp ứng được nhu cầu
phản ánh bức tranh đời sống với qui mô rộng lớn hơn. Đặc trưng thể loại khiến cho câu
chuyện giàu sắc thái trữ tình (VD : Tqthi/ VT) nhưng do kết cấu không liên tục nên khó theo
dõi, dù nội dung cốt truyện rất đơn giản. Giai đoạn “thử nghiệm” này đã giúp các tác giả
nhìn rõ hạn chế của thể thơ Đường luật đối với yêu cầu kể chuyện. Thực tại đó cũng thôi
thúc họ kiếm tìm một thể tài mới có thể đảm nhận tốt hơn chức năng tự sự.
2.2. Truyện thơ Nôm lục bát:
- Khoảng cuối thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII, truyện thơ Nôm lục bát phát triển mạnh
vào và nhanh chóng trở thành thể tài chính của nền văn học. Theo ước đoán của một số nhà
nghiên cứu, khởi đầu là sự xuất hiện của các tác phẩm có tính chất tôn giáo - lịch sử: Quan
Âm tống tử bản hạnh, Địa tạng bản hạnh, Liễu Hạnh công chúa diễn âm, Ông Ninh cổ
truyện, Chúa Thao cổ truyện… Tiếp theo, có thể là các truyện thơ Nôm bình dân có nội dung
phản ánh xã hội như: Lý công, Thoại Khanh Châu Tuấn, Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân
Cúc Hoa…
- Sang thế kỉ XVIII, truyện thơ Nôm phát triển rực rỡ với số lượng tác phẩm lớn, nội
dung phong phú; đạt được nhiều thành tựu nghệ thuật đặc sắc... Góp phần quan trọng nhất
vào việc khẳng định vị trí của thể loại này phải nói đến các tác phẩm viết về đề tài tình yêu
tự do, về quyền sống của con người, đặc biệt là người phụ nữ: Phan Trần, Nhị Độ Mai, Nữ
tú tài, Lưu nữ tướng, Hoàng Trừu... (khuyết danh) ; Truyện Song Tinh của Nguyễn Hữu Hào
13
(?- 1713), Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự (1743- 1790), Đoạn trường tân thanh của Nguyễn
Du (1765- 1820), Sơ kính tân trang của Phạm Thái (1777- 1813), Mai đình mộng kí của
Nguyễn Huy Hổ (1783- 1818), Tây Sương, Ngọc – Kiều- Lê, Nhị thập tứ hiếu diễn ca của Lí
Văn Phức (1785- 18849), Lục Vân Tiên, Ngư Tiều y thuật vấn đáp, Dương Từ - Hà Mậu của
Nguyễn Đình Chiểu (1822- 1888)... Truyện thơ Nôm đã trở thành thể loại có khả năng bao
quát hiện thực rộng lớn nhất, đặt ra nhiều vấn đề cấp thiết của con người và thời đại; kết tinh
những thành tựu tư tưởng và nghệ thuật to lớn của nền văn học dân tộc.
- Cuối thế kỉ XIX đầu XX, do biến động của hoàn cảnh lịch sử; ảnh hưởng của văn
minh phương Tây, sự thay đổi của nền Giáo dục... chữ Nôm và thể loại truyện thơ Nôm
không còn phù hợp với yêu cầu của thời đại. Một số tác giả chuyển hướng sáng tác truyện
thơ bằng chữ quốc ngữ hiện đại: Trạng lợn tân truyện của Nguyễn Thúc Khiêm, Trưng nữ
vương tân truyện của Xuân Lan, U tình lục của Hồ Biểu Chánh, Giai nhân kì ngộ diễn ca
của Phan Châu Trinh... Nhưng công chúng văn học với cảm xúc và tư duy thẩm mĩ hiện đại
đã có nhu cầu tìm đến những thể loại mới. Truyện thơ Nôm hoàn thành sứ mệnh lịch sử, từ
giã văn đàn sau gần bốn thế kỉ, nhường bước cho tiểu thuyết văn xuôi hiện đại.
III. Đặc điểm nội dung
*Với khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn, truyện thơ Nôm có nội dung phong phú,
đa dạng: đề tài mở rộng - từ tôn giáo, lịch sử, xã hội đến các lĩnh vực đời sống ; đặt ra các
vấn đề bức thiết của thời đại - quyền sống, quyền tự do yêu đương, sự công bằng xã hội...
Trong đó, nổi bật cảm hứng ca ngợi tình yêu và khẳng định cuộc đấu tranh bảo vệ hạnh phúc
của con người. Đây là nội dung chủ yếu của văn học Nôm và cũng là vấn đề cốt lõi của tư
tưởng nhân đạo trong văn học Việt Nam thời kì này.
1. Chủ đề ca ngợi tình yêu
1.1. Ca ngợi tình yêu tự do
- Vấn đề tình yêu tự do, đấu tranh chống lại những khuôn phép “bất nhân” của chế độ
phong kiến đã được đặt ra trong một số tác phẩm ở các giai đoạn trước nhưng chưa bao giờ
“nở rộ” như trong truyện thơ Nôm. Nhu cầu biểu hiện khát vọng tình yêu mãnh liệt của con
người đã “xui khiến” nhiều tác giả tìm đến nguồn cốt truyện giai nhân tài tử. Hầu hết các đôi
trai gái đều tự mình lựa chọn người yêu, tự đính ước khi chưa hề có mai mối hay được sự
đồng ý của mẹ cha; dám mượn chuyện làm thơ dò tình ý nhau, tương tư, hẹn non thề biển
khi chưa biết ý định của cha mẹ như thế nào ; thậm chí dám tự tiện thành thân ở bên ngoài
14
(Nữ tú tài)... Họăc như Song Tinh và Nhuỵ Châu (Truyện Song Tinh),... Ngay cả khi họ từng
được cha mẹ ước định hôn nhân, tác giả cũng cố gắng “sắp xếp” để những trái tim khao khát
tình yêu có thể tự tìm đến nhau như Phan Tất Chánh và Trần Kiều Liên (Phan Trần). Ngày
lên kinh ứng thí, Phan Sinh được cha trao cho vật đính hôn và dặn dò: “Nhân duyên đã chiếc
trâm này” nhưng vừa thoáng gặp Kiều Liên, chàng đã say đắm, tương tư, tìm mọi cách để
được gặp gỡ, ước hẹn cùng nàng (ấy ai tầm thước trẻ trung/ Đứng hầu sư phụ chực trong
giảng đường ; Xa xa phảng phất dạng hình/ Đức Quan Âm đã thác sinh bao giờ)…
- Những cặp trai tài, gái sắc ấy sinh ra trong những gia đình nề nếp, quyền quý; được
nuôi dưỡng trong bầu “khí quyển” của lễ giáo phong kiến nhưng không ai thờ ơ, dửng dưng
trước tiếng gọi của tình yêu. Trong những mối tình giai nhân tài tử, các chàng trai thường là
người chủ động ; các cô gái ban đầu thường rụt rè, e ngại - Nhuỵ Châu (Song Tinh), Kiều
Liên (Phan Trần), Dao Tiên (Hoa Tiên)… nhưng cuối cùng đều “dám” vượt qua lễ giáo khắt
khe để đến với tình yêu. Những ràng buộc, những phép tắc nghiêm ngặt đã không thể giam
cầm được trái tim thanh xuân của họ. Tình yêu chắp cánh cho họ băng qua mọi rào cản, cho
họ sức mạnh để vượt lên chính bản thân mình. Trong cuộc chiến giữa lễ giáo và tình yêu,
bằng cách này hay cách khác, tình yêu luôn “thắng thế”.
- Trong nhóm truyện thơ Nôm bình dân, khát vọng tình yêu tự do gắn liền với tinh
thần dân chủ. Hoàn cảnh xuất thân của các lứa đôi thường trái ngược nhau. Người nữ sống
trong cảnh giàu sang (Cúc Hoa, Ngọc Hoa, Bạch Hoa…), người nam lâm cảnh cơ hàn: cha
mẹ chết phải đi ăn mày (Phạm Tải, Tống Trân, Lí Công…); hoặc gia biến phải lẩn tránh, lưu
lạc (Cảnh Yên). ở đây, các cô gái lại là người chủ động trong tình yêu. Họ thương cảm trước
cảnh ngộ nghèo khó, cảm phục trước tài năng, đức độ của các chàng trai mà đem lòng tương
tư. Nàng Ngọc Hoa chỉ sau một lần gặp Phạm Tải dắt mẹ ăn xin đã “Cảm thương quân tử
nhỡ nhàng gian nan” và mong ước “Ước bao giờ hợp phượng loan/ Để ta nuôi lấy sĩ hàn
kẻo thương”. Nàng Cúc Hoa giả trai đi học, thầm yêu thương chàng Phạm Công nghèo khó,
hiếu thảo: “Thấy chàng hiếu nghĩa thêm thương/ Cúc Hoa nước mắt hai hàng chạnh đau/
Tình riêng muốn kết Trần Châu”... Nhiều bậc cha mẹ trong truyện thơ Nôm bình dân đã
không phản đối tình yêu của các cô gái; nhưng ngay cả khi bị cấm đoán, họ vẫn không bao
giờ từ bỏ người mình yêu thương (Tống Trân Cúc Hoa, Lí Công...).
*Các tác giả truyện thơ Nôm đã khẳng định, ngợi ca tình yêu tự do không tuân theo
những luật lệ “bất nhân” của xã hội phong kiến; không phụ thuộc vào tài sản, đẳng cấp... Họ
15
tạo dựng nên những mối tình vượt khỏi lễ giáo phong kiến mà vẫn trong sáng, thuỷ chung,
cao thượng. Tất cả các chàng trai, cô gái đều xứng đáng với tình yêu mà họ được trao gửi.
Họ đã vượt qua những ngăn cách, chia lìa của số phận; đã đấu tranh và chiến thắng mọi thế
lực đen tối để bảo vệ người yêu, sống hết mình cho tình yêu.
1.2. Khám phá thế giới cảm xúc phong phú của tình yêu đôi lứa
- Có hương vị ngọt ngào, đắm say ; có cả những cay đắng, hờn giận, xót xa… Từ
niềm thương cảm, từ nỗi nhớ nhung, khát khao đoàn tụ, sum vầy đến những trăn trở, day
dứt, đau khổ… đều được giãi bày một cách chân thành, tha thiết. Có thể tìm thấy trong
truyện thơ Nôm mọi nhịp đập bồi hồi, khắc khoải của trái tim yêu thương nồng nàn, sâu sắc.
Đây những giây phút bồi hồi, xao xuyến, mong manh như sợi tơ vô hình giăng mắc trong
lòng người: “Sóng đào mảnh mảnh bông đào/ Hoa xuân lóng lánh khác nào mặt xuân” (Hoa
Tiên); “Thấp thoáng thoi oanh dệt liễu/ Thung thăng phấn bướm dồi mai” (Sơ kính tân
trang)… Đây những khoảnh khắc thao thức, bâng khuâng của trái tim lần đầu rung động nỗi
thương yêu: “Người đâu gặp gỡ làm chi/ Trăm năm biết có duyên gì hay không” (Truyện
Kiều); “Trăng soi vằng vặc vóc non mờ/ Lan thoảng hương đưa/ Cúc thoảng hương đưa/
Trời in một săc nước xanh lơ/ Oanh nói u ơ/ Yừn nói u ơ/ Cánh buồm chở nguyệt gió lay
sơ”(Sơ kính tân trang)...
+ Song có lẽ, được miêu tả nhiều nhất, thành công nhất vẫn là nỗi tương tư. Dẫu là
nhân vật nam hay nữ, thì trạng thái cảm xúc đặc trưng này của tình yêu đôi lứa đều chân
thành, tha thiết. Thị Cúc (Phạm Công Cúc Hoa) thương nhớ Phạm Công “Chập chờn cơn
tỉnh cơn mê/ Biếng bên thi phú, trễ nghễ cửi canh”; Ngọc Hoa tương tư Phạm Tải “Thoắt
nằm là thoắt chiêm bao/ Như chàng hiền sĩ đã vào phòng hương”… Song Tinh, Phan Tất
Chánh, Mai Sinh... - người thì bỏ cả đèn sách, người thì bệnh nặng, hình hài tiều tuỵ vì nhớ
nhung, khắc khoải. Mai Sinh lần đầu tiên gặp Hạnh Nguyên mà đã: “Mối tình buộc lấy khư
khư/ Hồn bâng khuâng quế, phách thờ thẫn mai.../ Tấc riêng, riêng những mơ màng/ Chữ tư
đề dưới chữ tương ngày ngày”. Song Tinh không tìm được “kế vuông tròn” với Nhuỵ Châu
nên đau khổ, thất vọng đến nguy cả tính mạng. Vậy mà nàng vừa nhận lời hẹn gặp, chàng đã
“Nhẹ mình dường thấy bay lên nửa trời” và như được tái sinh khi người yêu thuận lòng đính
ước: “Chàng sinh từ trở thư hiên/ Mạch sầu phủi hết, nỗi phiền lâng lâng/ Thanh vân nhẹ
gót vui mừng/ Lãng xem khí sắc lại hừng hơn xưa”…
16
+ Đặc biệt, các tác giả truyện thơ Nôm đã không ngần ngại khi miêu tả hạnh phúc
“trần thế” của tình yêu: “Sự tình một đó một đây/ dẫu bà nghìn mắt dẫu thầy tám tai/ Thông
thông, trúc trúc, mai mai/ Ngày người đất bụt, đêm người động tiên” (Phan Trần); “Chàng
liền cởi áo cẩm bào/ Thuyền quyên sánh với anh hào giao hoan/ Trướng loan nghiêng ngửa
gối loan/ Thắm duyên Thần nữ, phỉ nguyền Tướng quân” (Nữ tú tài); “Xuân sang hoa cỏ gặp
thì/ Nhuỵ đào mởn tuyết, cánh quì đượm sương” (Truyện Song Tinh)…
1.3. Ngợi ca lòng chung thủy, tinh thần vị tha, cao thượng trong tình yêu
- Tình yêu, cách ứng xử của con người với tình yêu là vấn đề muôn thuở - thậm chí là “tiêu
chí” không bao giờ cũ để đánh giá con người (nhìn vào cách yêu của một người, có thể biết
đó là con người như thế nào; hãy cho tôi biết người yêu anh là ai, tôi sẽ cho anh biết, anh là
con người như thế nào…).
- Các tác giả truyện thơ Nôm đã giúp con người “nhận diện” tình yêu đích thực: sự chân
thành, mãnh liệt của cảm xúc yêu đương; sức mạnh vượt qua mọi rào cản, mọi gian nan trắc
trở để đến với tình yêu… Họ đặc biệt “biểu dương” lòng thủy chung, nghĩa tình bền chặt,
thiêng liêng, tinh thần vị tha trong tình yêu – những vẻ đẹp có sức rung động tâm hồn con
người ở bất kì thời nào – mang tính nhân loại – vấn đề của muôn đời: Dao Tiên, Ngọc Hoa,
Kim Trọng- Thúy Kiều, Kiều Nguyệt Nga… - không phải theo mô hình “tiết nghĩa” của Nho
giáo – còn theo quan niệm của nhân dân (một ngày nên nghĩa/ gừng cay muối mặn…).
**Tiếng nói ca ngợi tình yêu tự do trong truyện thơ Nôm gắn liền với ý thức về quyền
sống, quyền hạnh phúc của con người. Có lẽ đây cũng là khát vọng “được thành thật” với
lòng mình. Nó được hình thành, nuôi dưỡng bởi tinh thần dân chủ và cảm hứng nhân văn
của thời đại. ẩn sau bao mối tình giai nhân tài tử, bao cuộc hôn nhân phá vỡ khuôn phép kia
là sự thách thức, phủ định đối với xã hội đương thời; là tinh thần chống phong kiến mạnh mẽ
nhất: “Sẽ là ngây thơ nếu nghĩ rằng trước thế kỉ XVIII người Việt Nam chưa biết hồi hộp yêu
đương hay chưa làm quen với những “trò tinh ma” của tình yêu. Nhưng đó là trong đời
sống. Trong văn chương, cái “tình”, cái tình của tài tử giai nhân, không chỉ là phát hiện
tâm lí con người, một cách nhìn cảnh vật, một cách đánh giá nghệ thuật, cái đẹp mà còn là
một thái độ đối với thể chế chính trị xã hội, đối với ý thức hệ chính thống, sự phá vỡ kiêng kị
theo quan niệm văn học “chống tà dâm” của Nho giáo”(13). Tập trung khám phá, ngợi ca tình
yêu, các tác giả truyện thơ Nôm đã góp phần quan trọng làm nên thành tựu tư tưởng của văn
học giai đoạn này.
17
2. Chủ đề đấu tranh bảo vệ hạnh phúc gia đình
2.1. Các mối tình trong truyện thơ Nôm đều gặp phải những gian nan, thử thách nghiệt ngã:
chia ly vì loạn lạc (Phan Trần), vì hiểu lầm nhau (Hoàng Trừu), gia biến (Phương Hoa,
Truyện Kiều), bị kẻ khác hãm hại - phổ biến nhất là người con gái bị ép duyên (Tống Trân
Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa, Song Tinh, Nhị độ mai...). Nhiều khi tác giả cố tình tạo dựng
nên hàng loạt “tai hoạ” để “lửa thử vàng” như trong truyện Lí Công, Phạm Công Cúc Hoa...
2.2. Các chàng trai, cô gái đã không nản lòng, không chịu khuất phục trước bất kì khó khăn,
trở ngại nào. Họ vượt qua những cảnh ngộ éo le, oan khuất, dũng cảm đấu tranh với các thế
lực bạo tàn để bảo vệ tình yêu và hạnh phúc gia đình:
+ Nếu phải chia ly, họ lặn lội kiếm tìm nhau; nếu gặp gia biến, họ vẫn một lòng chờ đợi, có
người còn tìm được cách “giải oan” cho gia đình người yêu...
+ Tất cả những người bị ép duyên đều chối từ, đều sẵn sàng chấp nhận hình phạt (từ việc
đày đi sứ đến móc mắt, chặt chân tay, tự vẫn...) chứ không chịu bội ước. Cả khi buộc phải
kết hôn, họ cũng không chịu chung sống để giữ vẹn tấm tình chung thuỷ: Châu Tuấn (Thoại
Khanh Châu Tuấn) cưới công chúa bảy năm nhưng không chung chăn gối; Song Tinh
(Truyện Song Tinh) chỉ bằng lòng kết hôn cùng Thể Vân với điều kiện “Ví khi màn ánh đèn
chong/ Một nhà vầy hợp, hai phòng xin phân” (và trái với dự tính “tinh quái” của Thể Vân,
chàng Song Tinh đã giữ được y lời!).
+ Tinh thần bất khuất, sự bền bỉ phi thường khi đấu tranh với các thế lực bạo tàn: dâm thần,
gian thần, hôn quân, bạo chúa (Thoại Khanh, Ngọc Hoa, Phạm Công...).
3. Tiếng nói tố cáo, phê phán xã hội và khát vọng công lí
3.1. Tiếng nói phê phán xã hội
Khi phản ánh bức tranh hiện thực rộng lớn, các tác giả truyện thơ Nôm thể hiện
khuynh hướng tố cáo, phê phán xã hội mạnh mẽ. Tất nhiên, họ vẫn phải mượn bối cảnh của
những nước Tống, Triệu, Hung Nô…, những “đời Trang Vương” hoặc “năm Gia Tĩnh triều
Minh” nhưng người đọc chẳng khó khăn gì để nhận ra diện mạo của của xã hội đương thời.
- Diện mạo ấy được phản chiếu qua số phận của những con người bị vùi dập, chà đạp.
Bao trung thần, nghĩa sĩ bị gian thần hãm hại:“Thương thay trung nghĩa mấy người/ Kẻ thì
oan thác, người nơi ngục hình”(Nhị độ mai) ; bao người dân lương thiện tan cửa nát nhà vì
quan lại, sai nha tham lam, tàn ác, lộng hành… Gia đình Thuý Kiều (Truyện Kiều), Cảnh
Yên (Truyện Phương Hoa), Lưu nữ (Lưu nữ tướng),…trong phút chốc đã mất sạch gia sản,
18
mất cả tính mạng. Nếu có người dân nào còn mong tìm lẽ công bằng ở chốn công đường thì
sẽ thấm thía ngay cái chân lí “vô phúc đáo tụng đình”: “Bước ra khỏi chốn công đường/
Thông Chiên giật lễ, đề Tôm cướp tiền/ Ôm bầu vỗ vế ngả nghiêng/ Kẻ đòi bầu rượu, người
xin bao chè” (Truyện Trê Cóc). Bất công, phi lí đã là hiện thực phổ biến bao trùm cõi đời
trần thế: “Ngọc Hoàng ngồi ngự tam quan/ Trông xuống hạ giới mọi đàng mọi ghê/ Kẻ trung
mắc phải gian nguy/ Người gian võng lọng sớm trưa đi về/ Người hiền phải chịu sa cơ/
Người gian áo gấm phất phơ quần hồng” (Lý Công).
- Truyện thơ Nôm tái hiện “chân dung” của cả một hệ thống nhân vật phản diện - từ
những kẻ làm cha mẹ mà bất từ, những kẻ giàu có mà bất nhân đến những kẻ “chăn dân” mà
ngu tối, gian ác. Đám quan tham lại nhũng nhan nhản khắp nơi. Trong triều, đầy những gian
thần lộng hành như Lư Kỷ: “Tướng công ngồi trước thọ bình/ Chói vàng bông mũ, ngắt
xanh hoa bào/ Tư bề trướng gấm màn đào/ Mùi hương xạ ngát, tiếng thiều nhạc rung”…
Bên ngoài, những kẻ chức vị tầm thường như tên Tào trung uý (Truyện Phương Hoa) đã có
thể ngang nhiên, vô cớ đem quân sát hại cả một gia đình vào loại danh giá: “ Thốt thôi đem
quân vào nhà/ Bắt Trương công lại nó hoà chém tươi.../ Truyền quân mã ở trong làng/ Cửa
nhà phá tán, bạc vàng thì thu/ Ba ngày hết sạch cơ đồ”… Các tác giả truyện thơ Nôm đã
không ngần ngại “vạch mặt chỉ tên” thủ phạm đích thực gây ra những hỗn loạn, bất công,
phi lí ấy chính là bọn vua chúa đang ở ngôi cao chót vót kia. Kẻ thì thờ ơ, vô trách nhiệm:
“Rằng: “anh nhân, hiếu, trung nghì/ Cớ sao mà chịu gian nguy cơ hàn? Một là văn võ bách
quan/ Kẻ trung thì ít, kẻ gian thì nhiều/ Vua thì cao ngự trong triều/ Cho nên anh phải chịu
điều uổng danh/ Mong ra động đạt đế đình/ Lại lo những sự cháy thành vạ lây” (Truyện
Phương Hoa); kẻ thì lẫn lộn trắng đen, dung túng cái ác: “Trách vua Đường ở bất minh/
Dung bên gian đảng mà khinh hiền tài”(Nhị độ mai); kẻ thì hồ đồ nghe lời gièm pha giết oan
trung thần (Lưu nữ tướng)... Nhiều tên vua ích kỉ, tàn nhẫn, trắng trợn giẫm đạp lên mọi luật
lệ, đạo đức: Tống Trân (Tống Trân Cúc Hoa) đỗ trạng nguyên, vua ép gả công chúa không
được đã đày chàng đi sứ 15 năm “Cho bỏ nghĩa cũ vợ nhà sơ giao”; Châu Tuấn (Thoại
Khanh Châu Tuấn) từ chối làm phò mã cũng bị nhà vua “Ngầm đe chém giết rất ghê”...
Hung Nô, Trang Vương tàn bạo, vô đạo: “ Giết chồng, hãm vợ ra gì/ Làm vua bất chính hết
bề trị dân”… Đó là tiếng nói thể hiện thái độ bất bình, phẫn nộ của nhân dân - phủ định một
xã hội mục ruỗng, bất công. Tinh thần tố cáo, phê phán hiện thực một cách mạnh mẽ, quyết
liệt của truyện thơ Nôm đã vượt xa tất cả các thể loại khác của văn học trung đại Việt Nam.
19
3.2. Khát vọng công lí
- Kết thúc có hậu của truyện thơ Nôm phản ánh mơ ước và niềm tin của nhân dân vào
chân lí “ở hiền gặp lành”, vào sự tất thắng của cái thiện trong cuộc đấu tranh với cái ác.
- Đó cũng là sự trỗi dậy của tinh thần dân chủ được khơi lên từ những luồng gió mới
của thời đại:
+ Trong truyện cổ tích, kết thúc có hậu thường phải nhờ vào sự trợ giúp của các lực
lượng siêu nhiên (tiên, bụt, các vật thần kì...).
+ Trong truyện thơ Nôm: vai trò của các LLSN vẫn còn, nhiều khi giữ vị trí quan
trọng ở một số tác phẩm (chủ yếu là TNBD): sơn thần, Diêm vương, Ngọc Hoàng... Nhưng
phổ biến hơn - là sức mạnh đấu tranh của con người - đòi lại, thực thi công lí: Phương Hoa,
Lưu nữ, Từ Hải + Thúy Kiều,...
IV. Thành tựu nghệ thuật
1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện
- Cốt truyện là một yếu tố quan trọng làm nên sức cuốn hút của truyện thơ Nôm. Dựa
trên các nguồn của văn học dân gian Việt Nam, văn học viết Trung Hoa, thực tế đời sống…,
các tác giả đã sáng tạo nên những câu chuyện phong phú, hấp dẫn. Số liệu thống kê của tác
giả Trần Đình Sử(14) cho thấy, xét về mặt dung lượng, cốt truyện của thể loại này đã có sự
thay đổi rất lớn. Với độ dài gấp 10 lần so với truyện cổ tích, cốt truyện, nhân vật, chi tiết của
truyện thơ Nôm đã được cụ thể hoá:
Tác phẩm Số câu trong truyện cổ Số câu trong truyện
tích Nôm
Quan Âm Thị Kính 71 786
Thạch Sanh 120 1812
Từ Thức 118 608
Tú Uyên 63 674

- Ở nhiều tác phẩm có cốt truyện vay mượn từ văn học Trung Hoa, tác giả đã thay
đổi, sắp xếp lại các tình tiết, sự kiện ; hoặc lược bỏ những chi tiết rườm rà ; lựa chọn một
hình thức tự sự mới.... Tiêu biểu nhất cho xu hướng sáng tạo này là Nguyễn Du.
20
- Nhìn chung, cốt truyện của truyện thơ Nôm thường được tổ chức theo trình tự thời
gian ; sử dụng nhiều yếu tố ngẫu nhiên, phi thường và kết cấu theo mô hình cơ bản: Gặp gỡ -
Tai biến - Đoàn tụ.
+ Từ mô hình chung theo trình tự thời gian và kết thúc có hậu - NTN khái quát, phân
tích, lí giải đặc điểm kết cấu của hai nhóm chính : 1) theo tt thời gian/ kết thúc có hậu (Song
Tinh, Hoa Tiên, LBDL, PC Cúc Hoa, PTNH…)và theo tttg/ kết thúc không có hậu (Mai đình
mộng kí, Từ Thức, Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai… ; xem lại một số truyện tôn giáo - khi đắc
đạo lại ko phải là KT có hậu ?) . 2) K/c không theo trình tự thời gian : đảo trật tự tg và k/c
trùng điệp, lồng ghép (Lưu nữ tướng, LVTien, Nhị độ mai…) ; k/c xâu chuỗi, lắp ghép
(Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Ba Giai/ Tú Xuất, Thạch Sanh, Chàng Chuối…) ; k/c đối đáp
(Trinh thử, Trê Cóc, Ngư Tiều y thuật…) ; k/c tập hợp (Nhị thập tứ hiếu)…
+ Độ đậm nhạt của các phần có sự khác nhau tuỳ theo chủ đề của từng nhóm tác
phẩm. Nhóm truyện giai nhân tài tử thiên về phần gặp gỡ, đính ướcđể khám phá, ngợi ca
tình yêu;nhóm truyện miêu tả cuộc đấu tranh bảo vệ hạnh phúc gia đình lại thiên về phần tai
biến, hoạn nạn nhằm đề cao tinh thần phản kháng, ý chí bất khuất. Có thể tham khảo số liệu
thống kê của tác giả Nguyễn Thị Nhàn (15): phần gặp gỡ trong Bích Câu kì ngộ chiếm 340
câu/ 648 câu (52%); trong Hoa Tiên 785 câu/ 1532 câu (51,1%) ; trong Lưu Bình Dương Lễ
chỉ có 26 câu/ 780 câu (3,3%); Phạm Tải Ngọc Hoa 182 câu / 938 câu (19,5%)...
+ Trong từng phần, các tác giả truyện Nôm cũng sử dụng, sáng tạo nhiều kiểu kết cấu
khác nhau : VD - gặp gỡ trực tiếp (tình cờ, ngẫu nhiên trong ngày hội, hoặc trên đường đi
như Kim - Kiều, Phan - Trần) ; gặp gỡ đường vòng (Hoa Tiên, Nữ tú tài…) ; gặp gỡ diễn ra
trong những khoảng thời gian/ không gian riêng… Phần tai biến/ trắc trở/ chia li và phần
đoàn tụ cũng có thể thay đổi tuỳ theo dụng ý nghệ thuật của tác giả (Hoa Tiên, Truyện
Kiều…)..
2. Hệ thống nhân vật
2.1. Kiểu nhân vật :
- Truyện thơ Nôm xây dựng được hệ thống nhân vật đa dạng, gồm nhiều kiểu người,
tầng lớp người: vua chúa, quan lại, tiểu thư, a hoàn, người kiếm củi, kẻ chài lưới, nhà sư...
Nhìn chung, các nhân vật vẫn nghiêng về tính loại hình nhằm khái quát, nhấn mạnh những
hiện tượng xã hội, hình mẫu, phẩm chất lí tưởng nào đó. Chẳng hạn, nhân vật nữ chính trong
truyện thơ Nôm bình dân: “Tất cả giống nhau như những dạng khác nhau của quan niệm về
21
lòng chung thuỷ” (Nguyễn Lộc)... Nhưng vẫn có nhiều nhân vật vượt khỏi khuôn mẫu phong
kiến như Phan Tất Chánh, Phi Nga (Nữ tú tài), Lưu nữ tướng, Phương Hoa...; có cá tính sinh
động như Song Tinh, Dao Tiên, như các nhân vật của Truyện Kiều
- Các tiêu chí phân loại nhân vật : theo vị trí trong cốt truyện (trung tâm/ chính/ phụ/
phụ trợ)/ chức năng (chính/phản diện)/ nguồn gốc xã hội/ tính cách và số phận.
2.1.1. Nhân vật chính
2.1.1.1. Nhân vật nữ chính : Các tác giả truyện thơ Nôm đã tạo dựng nên cả một hệ
thống nhân vật nữ với vẻ đẹp hoàn hảo. Hình tượng người phụ nữ trong truyện thơ Nôm
hội tụ những phẩm chất vừa mang tính truyền thống, vừa có sự “phá cách” táo bạo. Họ
không chỉ xuất hiện với nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành; với đức hạnh vẹn toàn mà
còn vượt trội cả về tài năng, trí tuệ, khí phách.
+ Vẻ đẹp truyền thống: Họ dịu dàng, nhân hậu, thuỷ chung mà cũng thật mạnh mẽ,
quyết liệt. Hầu hết các nhân vật nữ đều có cuộc sống “êm đềm trướng rủ màn che” nhưng
khi phải đối mặt với gian nan, thử thách, kể cả những biến cố kinh hoàng - không một ai ngã
lòng, chùn bước. Người tần tảo nuôi chồng ăn học (Cúc Hoa, Thoại Khanh), người chấp
nhận hi sinh cuộc đời để bảo toàn sự bình yên cho cha mẹ, gia đình (Thuý Kiều, Nhuỵ
Châu). Người dũng cảm đấu tranh chống lại cường quyền (Ngọc Hoa), người lặn lội trèo non
vượt biển tìm chồng (Hoàng Trừu, Thoại Khanh)... Mọi phẩm chất của họ đều được các tác
giả truyện thơ Nôm đẩy lên đến mức “tuyệt đích”. Nàng Thoại Khanh hiếu thảo - đêm đông
trải mái tóc mây che cho mẹ chồng khỏi rét, cắt thịt mình cho bà ăn lúc đói khát cùng cực,
hiến đôi mắt cho sơn thần để bảo toàn tính mạng mẹ già... Nàng Cúc Hoa một lòng son sắt
khiến cho nhà vua nước Triệu phải ngỡ ngàng, cảm phục: “Đàn bà đức hạnh công dung thế
này/ Nước Nam sao lắm người hay/ Mới mười mấy tuổi thảo ngay thờ chồng/ Thật là tận
hiếu tận trung/ Trẻ trung biết đạo tam tòng xưa nay/ Ước gì nàng ấy sang đây/ Trẫm nuôi
tức khắc ngày rày làm con/ Tiền thời trẫm thưởng mười muôn/ sắc phong công chúa sánh
cùng công khanh”. Ngọc Hoa một mình giữa chốn triều đường, dũng cảm vạch trần tội ác
của tên vua Trang Vương vô đạo; chết xuống âm phủ vẫn tiếp tục đấu tranh đòi công lí...
Lưu nữ tướng vượt lên nỗi đau thương (cả gia đình bị gian thần vu oan, giết hại), dựng cờ
khởi nghĩa, đòi lại công bằng: “Người thiếu nữ, chí anh hùng/ Mở cờ, ra mặt tướng công tức
thì/ Cung tên, xe ngựa thiếu gì/ Võ thì nghìn tướng, văn thì trăm viên/ Tinh binh biết mấy
mươi nghìn/ Đại chu trăm chiếc đóng miền ải quan... Biên thuỳ riêng một triều đình/ Dọc
22
ngang trời rộng tung hoành bể khơi”. Khi triều đình chiêu hàng, Lưu tướng không quên lo
liệu chu toàn cho tướng sĩ... Và dẫu nếm trải trăm nghìn cay đắng, dẫu bị vùi dập, chà đạp
đến cùng cực, trái tim họ vẫn chan chứa tình yêu thương; cách ứng xử đầy bao dung, vị tha.
Thuý Kiều bị mẹ con Hoạn Thư hành hạ cả về thể xác lẫn tinh thần nhưng khi báo oán, nàng
lại tha bổng cho kẻ thù: “Đã lòng tri quá thì nên/ Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha
ngay”. Cô công chúa Nam Việt (Hoàng Trừu) bị chúa Huy kết tội oan, phải chịu hình phạt
làm “cây thịt” đội đèn vẫn lấy lời ân nghĩa xin tha tội cho kẻ đày đoạ mình: “Kể đà cơm áo
nặng dày/ Tựa nương cũng được qua ngày truân chuyên”... Bằng sức mạnh của tài trí và tình
yêu thương, lòng chung thuỷ, ý chí kiên cường..., những người phụ nữ ấy đã chiến thắng mọi
thế lực tàn bạo, chiến thắng cả số phận để giành lại, gìn giữ, bảo vệ tình yêu và hạnh phúc.
Phần thưởng dành cho họ là những nỗi oan khuất được giãi tỏ, những cuộc đoàn tụ, sum vầy
bên người mình yêu thương; những hạnh phúc tròn vẹn...
+ Nhiều nhân vật nữ phá vỡ mẫu hình công dung ngôn hạnh, cầm kì thi hoạ quen
thuộc của giai nhân thời trung đại. Vẻ đẹp “phá cách”: tài năng, trí tuệ - được thể hiện ở
những “địa hạt” có tính chất “độc quyền” của nam giới : học hành, thi cử : Cúc Hoa (Nàng
Thị Cúc vượt xa các đấng mày râu ngay trong chốn cửa Khổng sân Trình: “Xuân xanh tuổi
mới mười ba/ Tóc mây chấm đất da ngà gương trong/ Năm xe kinh sử thuộc lòng/ Thầy cho
thay mặt dạy trong học đường”. Nàng Phương Hoa “Liền thông kinh sử văn bài mọi
phương” lấy tên Cảnh Yên thi đỗ trạng nguyên, minh oan cho cả gia đình người yêu: Lòng
thêu miệng dệt khác thường/Giọng văn đài các mùi hương khuê phòng/Phun châu nhả ngọc
nên chương/Bỏ mầu son phấn hệt phường bút nghiên; Khen thay gái chẳng thua trai/ Kiên
trinh vững một sắc tài hòa hai). Võ tướng: Phi Nga: ; Lưu nữ văn võ song toàn, hào hiệp,
nghĩa khí: lúc yên bình thì “Sử kinh luyện tập hôm mai/ Văn chương phủ lục mọi bài làu
thông/ Phun châu nhả ngọc nức lòng/ Đã từng kinh sử lại thông truyện ngoài”, lúc gia biến
thì cải dạng nam nhi dựng cờ chiêu tập nghĩa binh, bản lĩnh kiên cường và tài chinh chiến
làm nghiêng ngả triều đình (Người thiếu nữ chí anh hùng/Mở cờ ra mặt tướng công tức
thì;Cung tên xe ngựa thiếu chi/ Võ thì nghìn tướng văn thì trăm viên/ Tinh binh biết mấy
mươi nghìn/ Đại chu trăm chiếc đóng miền ải quan; Biên thùy riêng một triều đình/ Dọc
ngang trời rộng, tung hoành bể khơi; lão tướng triều đình phải khen ngợi: Tuổi tuy còn hãy
thanh xuân/ Song tài thần võ mười phần khá cao); lúc đạt được chí nguyện thì lo cho tướng
23
sĩ chu toàn: Ơn lòng tướng sĩ lắm thay/ Dầu sương, dãi nắng bấy nay nhọc nhắn.../ Kho tàng
phát cả chớ dành tích chi/ Truyền cho phó lại hồi quy/ Nông tang, chớ có theo đi nữa là)...
2.1.1.2. Nhân vật nam chính
- Tài tử, văn nhân - những chàng si tình: sinh ra trong các gia đình quyền quí, nền nếp thi
thư, tài năng thiên bẩm - thông minh, tài hoa, lãng mạn, đa tình. Mẫu chung: lên Kinh du
học, ứng thí - tình cờ gặp “hồng nhan tri kỉ” - tương tư, hẹn hò, đính ước, chia ly, tái hợp -
lập được công danh
+ Song Tinh: Lễ văn họp bạn nhà chiên/ Mực rơi điểm ngọc thơ nên gõ vàng/ Thế tinh khí
vũ hiên ngang/ Thảm khơi độ lượng, rỡ ràng nghi dung; ko muốn vâng theo sự sắp đặt hôn
nhân của cha mẹ, mong tự tìm hồng nhan tri kỉ: “Con rày muốn trảy phương xa/ trước là du
học, sau là cầu duyên/ Mặc cơn kì ngộ dẩy dun/ Trăng già mới kết, đào non thơ bài/Giai
nhân tài tử sánh hai/Đạo hòa cầm sắt duyên hài phượng loan’ gặp Nhụy Châu: Khách tiên
từ thấy mặt tiên/ Nỗi riêng hai dạ bỗng in một lòng/ Nói cười thủa ngụ lời công/ Dắc duyên
đã hợp bốn dòng thu ba;
+ Nhị độ mai - Mai Sinh: Điềm hùng sớm đã sinh trai/ Trời cho văn tướng kén tài trạng
nguyên/ Đặt cho Lương Ngọc là tên/ Tài hoa đáng bực trích tiên dưới đời; Mai sinh là bậc
thiên tài/ Câu văn cẩm tú, vẻ người y quan/ lòng ta muốn gả Hạnh Nguyên/ Thiên tài, quốc
sắc hai bên cũng vừa;
+ Phan Sinh: Ôn đặt gối, Đổng vây màn/ Sớm nhuần kinh sử, tối bàn văn chương; Phun
châu nhả ngọc đua tài/ Giải nguyên thoắt đã tên bài bảng ngay;
+ Hoa tiên - Phương Châu: “Phong nghi khác giá, từ chương tót loài/Gờm hoa, tài mạo gồm
hai/Đua chân nhảy phượng, sánh mai cưỡi kình; tình yêu ko thành :
+ Kim Trọng: nền phú hậu, bậc tài danh... hào hoa;
- Hàn sĩ/ con hiếu/ tôi trung : Gia cảnh bần hàn nhưng nguồn gốc cao quí, tài đức vẹn toàn:
mẫu hình trung hiếu tiết nghĩa, đặc biệt đề cao lòng hiếu thảo; đức nhân từ:
+ Phạm Công: thái tử, con Ngọc Hoàng đầu thai vào nhà họ Phạm, lễ vật cúng bà mụ : Đem
ra tinh những tôm đồng/ Với lại rau muống và cùng tép rang khiến NH : Lòng ta chua xót
hao mòn/ Nghĩ tình phụ tử thương con những là; nhường cơm cho cha mẹ, san sẻ phần cơm
cho ông lão ăn mày; 13 tuổi chôn cất cha trong cảnh tang thương; học nhờ thầy Quỉ Cốc,
chịu cảnh đói khổ, tủi nhục; không màng nữ sắc (từ chối quyết liệt khi khách tiên thử lòng
24
“Vợ chồng việc ấy xin tha/ Thôi tôi lại tưởng ông già hôm xưa! + Khen chàng hiếu nghĩa
tình thâm/ Ba năm thủ chế cứ nằm giường không)...;
+ Phạm Tải: Kiếm ăn đắp đổi qua lần/ Nương mình cửa Khổng tựa thân nhà Trình; Ngày
ngày hành khất phương dân/ Sớm chuyên nấu sử, hôm cần sôi kinh;
2.1.2. Nhân vật phụ
2.1.2.1. Nhân vật phụ trợ : thường xuất hiện trong các truyện Nôm bác học - hỗ trợ,
giúp đỡ cho các nhân vật chính - hoặc đến được với tình yêu; hoặc vượt qua hoạn nạn, tai
ương.
- A hoàn, thị nữ: những giáo sư dạy khoa tình yêu (Hoa Tiên: Vân Hương, Bích Nguyệt -
khích lệ, giúp chàng trai si tình đưa thơ ngỏ lời; giúp cô tiểu thư sinh và lớn lên trong bầu
khí quyển Nho giáo vượt lên những khuôn phép, ngại ngần, đắn đo, lo lắng... để đến với tình
yêu ), nhịp cầu kết nối tình yêu, chia sẻ tâm tư cho cả hai phía (Thể Vân - Song Tinh), nhiều
người chung hưởng hạnh phúc cùng cô chủ (Thể Vân, )
- Tiểu đồng, lão bộc, vú em, quản gia : hầu hết là bề tôi tình nghĩa, một lòng vì chủ ; không
rời bỏ chủ lúc hoạn nạn… VD: Hỉ đồng (Nhị độ mai) - liều mình, chết thay cho chủ: “Tôi
xin thay mặt trước vào/ Nghe binh tình ở thế nào thử xem/ Bằng ra lòng cá dạ chim/ Tôi
đương nạn ấy, người tìm nẻo xa”; Trong mình sẵn gói tì sương/ Giở ra nuốt ực quyết đường
quyên sinh); tiểu đồng (LVT): khóc thương, chôn cất, giữ mộ ba năm... Là tình người sâu
nặng, là ân nghĩa thủy chung...
2.1.2.2. Nhân vật phản diện : cũng thường là nhân vật phụ- những kẻxấu xa, tàn ác
- Vua chúa tham lam, tàn bạo (Trang Vương, Triệu Vương, chúa Hung Nô...); quan
lại gian tham, đố kị, tàn ác; hoàng thân quốc thích (chúa Huy trong Hoàng Trừu,,,)
- Nho sĩ tha hóa: đám học trò trong PCCH: “PC xấu hổ xót xa/Môn sinh lại lấy mực
ra bắt mài/Chàng mài không được nhanh tay/ Kẻ sỉ, người mắng chẳng hoài xót thương;
Chớ cho thằng này coi chữ làm chi/ Lấy màn che kín đèn đi/ Chẳng cho nó học, nó thì ngồi
không”; Trịnh Hâm, Bùi Kiệm trong LVT…
- Trọc phú, cường hào: cha Cúc Hoa (TTCH), Biện Điền (PTNH), Tào trung úy…
2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Các tác giả truyện thơ Nôm đã có ý thức khắc hoạ nhân vật ở cả hai phương diện -
con người bên ngoài (ngoại hình, cử chỉ, hành động…) và con người bên trong (cảm xúc,
suy nghĩ, biến động nội tâm…).
25
2.2.1. Con người bên ngoài:
- Hầu hết các nhân vật chính, đặc biệt là nhân vật nữ đều có ngoại hình đẹp. Chân
dung của họ thường được miêu tả bằng bút pháp ước lệ, thiên về khái quát nhưng vẫn có nét
riêng: khi là vẻ đẹp tươi trẻ, duyên dáng, yêu kiều như đoá hoa chớm nở: “Phương Hoa nghe
thấy mừng thay trong lòng/ Vội vàng tô điểm hình dung/ Môi son má phấn khăn hồng điểm
trang/ áo quần hây hẩy hơi hương/ Rà rà tóc phượng, ngang ngang mày ngài/ Trên đầu
ngọc giắt, trâm cài/ Dưới chân ren rén, gót hài khoan khoan/ Bước ra đứng mé thềm loan”
(Truyện Phương Hoa); lúc là nhan sắc lộng lẫy tựa thần tiên giáng thế: “Ngồi thời hoa nở
sắc hồng/ Tóc mây dài tựa trăm vòng thần tiên/ Người ta đồn dậy khắp miền/ Dù già dù trẻ
cũng lên xem nàng” (Lí Công); Dao Tiên: Gió đông gờn gợn sóng tình/ Trăm hoa lộng lẫy
một cành mẫu đơn/ Mặn mà chìm cá rơi nhàn/ Nguyệt ghen gương kép, hoa hờn thắm bay/
Thiên nhiên sẵn đúc dầy dầy/ Càng tươi tinht nét, càng say sưa tình; Nhụy Châu (Song
Tinh: Dầy dầy da ngọc tuyết ken/ Mày nga khói dạm, tóc choang mây lồng/ Gót sen đua nở
bạch hồng/ Sóng ngời mắt phượng, ráng phong má đào/ Rỡ ràng ánh nguyệt chói sao)...
Nhân vật nam cũng đều khôi ngô, tuấn tú (Phan Sinh, Mai Sinh, Lương Phương Châu,
KT...). Trong Truyện Kiều, các chi tiết ngoại hình đã được cá thể hoá, thể hiện tính cách, bản
chất và số phận của nhiều nhân vật.
- Ngôn ngữ nhân vật cũng được các tác giả truyện thơ Nôm chú ý ở cả hai hình thức
đối thoại, độc thoại. Tác giả Đinh Thị Khang (16) đã thống kê ngôn ngữ đối thoại, độc thoại
của nhân vật trong một số tác phẩm tiêu biểu, cho thấy rõ ràng đã có “con người nói năng và
cảm nghĩ” trong truyện thơ Nôm:
Tên tác phẩm Tổng số câu Đối thoại Độc thoại
của TP Số câu Tỉ lệ Số câu Tỉ lệ
Phạm Công Cúc Hoa 4012 1154 28,8 0 0
Phương Hoa 1160 374 30,2 0 0
Thạch Sanh 1821 750 414 0 0
Tống Trân Cúc Hoa 1690 822 48,6 05 0,3
Phạm Tải Ngọc Hoa 932 420 45,0 06 0,6
Hoàng Trừu 1580 773 48,8 21 1,3
Lưu nữ tướng 2166 1015 46,9 33 1,5
Thoại Khanh Châu Tuấn 866 301 34,8 20 2,3

- Nhiều tác giả truyện thơ Nôm đã sử dụng ngôn ngữ đối thoại và độc thoại làm
phương tiện đắc lực để khám phá tâm trạng, khắc họa tính cách nhân vật:
26
+ Trong PTNH: ngôn ngữ đối thoại giữa Ngọc Hoa, Phạm Tải với Trang Vương - thể
hiện tính cách mạnh mẽ, quyết liệt của NH; sự trong sạch, không màng vinh hoa phú quí
nhưng cũng cam chịu của PT; cái trơ trẽn, đê tiện của Trang Vương.
+ Trong truyện Song Tinh, cuộc đối thoại sau đám cưới đã thể hiện một cách sinh
động tâm lí, tính cách của Nhuỵ Châu và Thể Vân. Thể Vân là tì nữ được Nhuỵ Châu nhờ
cậy nối hộ tơ duyên với Song Tinh nhưng chàng ta quyết giữ trọn lời thề ước nên chỉ đồng ý
cưới Thể Vân với điều kiện không chung chăn gối. Cô tì nữ tinh ranh rất tin tưởng vào qui
luật “Cá khan gặp nước co vi đặng nào”; lại từng phải khẩn cầu “Đêm xuân ai dễ cầm lòng
được chăng.../ Đoái thương đến thiếp trăng hoa lạnh lùng” nhưng đã phải bẽ bàng lùi bước
trước tấm lòng sắt đá của Song Tinh: “Lòng này sắt đá còn ưa/ Ví cho thần nữ tiên cơ khôn
dùng”! Vì thế, ngày đoàn tụ nghe Nhuỵ Châu ướm hỏi: “Nàng rằng: Ngày đẹp hoa phòng/
Đào thơ gặp trận gió giông thế nào?”, Thể Vân được dịp kể lể nông nỗi thiệt thòi, oan ức
của kẻ qua ruộng dưa sửa dép: “Vân rằng :“Khát đứng bờ ao/ Đói ăn bánh vẽ chiêm bao
thấy vàng/ Đèn soi hang tối không tường/ Dép xuyên khăn sửa lẽ thường ai suy”. Nhuỵ Châu
đương nhiên khó có thể tin đó là sự thật, lại ngỡ Thể Vân giấu giếm: “Nàng rằng “Vui
miệng hỏi chơi/ Ghen tuông chi đó, nỡ lời man nhau/ Cá hang khi gặp nước sâu/ Dễ ai cấm
đặng đâm đầu, vẫy đuôi!”. Lời “buộc tội” nghe rất hợp lí nàykhiếnThể Vân càng thêm “bi
phẫn”: “Vân rằng “To chỉ nhỏ mồi/ Cá khôn linh tính lội xuôi chẳng dừng/ Có ưng, không
nghĩ cũng ưng/ Bấy giờ hầu đễ đãi đằng, ai thương!”. Chỉ vài lời đối thoại, mà tái hiện một
cách chân thực và hóm hỉnh cảnh ngộ éo le, tả được tâm trạng vừa “tò mò” vừa pha chút
ghen tuông kín đáo của cô chủ; nỗi ấm ức dễ thương của cô hầu…
+ Phan Trần (Dao Tiên: “Tài lang nào phải như xưa/ Mình sang, duyên thắm, thờ ơ
mọi đường/ Tiếc thay sương tuyết cũ càng/ Tơ duyên ai gỡ, tự chàng mà thôi!... bấy lâu một
tấm riêng tây/ ái ân này, đến đêm này là xong! – lời hờn giận, trách móc thể hiện tính cách
dịu dàng, đằm thắm, tình yêu/ nỗi đau...; / Phương Hoa/ Nhị độ mai... đều có những đoạn
ngôn ngữ đối thoại thành công.
2.2.2. Con người bên trong:
* Các tác giả truyện thơ Nôm (chủ yếu là truyện thơ Nôm bác học) đã chú trọng đến
việc khám phá con người bên trong của nhân vật với những cảm xúc, suy nghĩ, xung đột nội
tâm... Thế giới nội tâm phong phú, bí ẩn được thể hiện thành công qua ngôn ngữ độc thoại
và ngôn ngữ thiên nhiên.
27
- Nhiều đoạn ngôn ngữ có sự pha trộn với lời kể, lời tả nhưng màu sắc độc thoại rất
đậm nét. VD: chàng Song Tinh: “Một mình tưởng lại một mình/ Biết ai mà mượn thông tình
đó vay?/ Muốn toan chờ thỏ ấp cây/ Lại lo từ mẫu chầy ngày ỷ lư; nàng Nhụy Châu: “Nàng
nghe phút chốc đã tường/ Nực cười, nực giận, nửa thương, nửa sầu/ Cười vì vả đấng mày
râu/ minh cầu không chước, ám cầu không nhân/Giận vì chẳng chút cơ quan/Ví thông lời
ngỏ, khôn hàn tiếng bay/ Thương vì cách trở nước mây/ Lối kia dù trái, nghĩa này ắt vơ/ Sầu
vì dì gió lẳng lơ/ Đã day lòng thắm, lại sơ mối mành”; Phan Trần: Phan sinh: “Ngậm ngùi
nhớ cảnh gia hương/Đã thiên ngợi nhớ, lại chương ngậm sầu/Hơi gió lọt, bóng trăng
thâu/Đôi khi dở chiếc trâm nhau ra nhìn/Nước non cách mấy dặm nghìn/Biết lòng còn nhớ
hay quên hỡi lòng?Chăn đơn gối chiếc lạnh lùng/Tưởng nhân duyên ấy như vòng tơ vương;
Kiều Liên “Nghĩ xa thôi lại nghĩ gần/ Chạnh lòng xảy nhớ Châu Trần nghĩa xưa/Dãi dầu kể
mấy nắng mưa/Thề phai nguyền lạnh, bây giờ biết đâu? Quạt này ai để cho nhau/Phong
phong, mở mở giãi sầu làm khuây/Chốn lam Kiều cách nước mây/Bùi hàng kia dễ biết đây
nẻo nào?Non Thiên Thai mấy trượng cao/Lưu lang chưa dễ tìm vào tới nơi/Đã đành góc
biển chân trời/Lân la ngày bạc quá vời xuân xanh/Nghĩ mình những tủi duyên mình/Nến
hương biếng thắp, quyển kinh ngại nhìn ; Dao Tiên tương tư: “Đàn đâu réo rắt bên tai/ Lửa
đâu chất chứa nhường khơi trận hằng/ Sầu đâu giở thói biếng rằng/ Nhủ hoàn khép cửa đẩy
trăng trả trời... Hình thức độc thoại xuất hiện trong nhiều tác phẩm: ST (độc thoại của
Nhụy Châu khi trầm mình, Thể Vân khi ST tỏ ý chỉ “cưới chay” nàng); Kiều Liên (nhớ mẹ,
lo tương lai, nhớ người đính ước hôn nhân với mình...); Mai Sinh lúc tương tư Hạnh
Nguyên...
- Nhiều hình tượng thiên nhiên không chỉ là bức tranh phong cảnh mà còn là tấm
gương phản chiếu tâm hồn nhân vật:
+ Hoa Tiên: Phương Châu: “Lối thơm khi nhẹ gót tìm/Mùi hoa như rước, tiếng chim
đón chào/ Sóng đào mảnh mảnh bông đào/Hoa xuân lóng lánh khác nào mặt xuân/ Hẹn
phong lưu phải nợ nần/Bạn sông âu thẹn vũng tần đôi uyên/ Chen chân thử dạo khơi miền/
Dẩy dun may được như nguyền biết đâu?; Dao Tiên nhìn cảnh sắc vườn xưa: “Trước hoa lần
bóng hoa rơi/ Dưới lầu mách bóng trăng soi người sầu/ Cảnh nào sẽ nhắc lòng đâu/ Mảng
than tình mới, thêm sầu nỗi xưa; gặp Lương Sinh khi chàng đã vâng lời cha mẹ đính hôn
cùng Ngọc Khanh: “Trước lan so bóng lựa lời/ Trăng mờ, hoa lặn, dế rời khúc ngâm/ Gió
thương, mây thảm âm thầm/ Đìu hiu ngọn liễu như đầm hạt mưa...
28
+ Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đã đạt đến đỉnh cao trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du.
3. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ: Truyện thơ Nôm là thể loại có đóng góp to lớn
vào sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc.
- Sử dụng tiếng Việt, các tác giả truyện thơ Nôm đã tìm được phương tiện đắc lực
nhất để khám phá, thể hiện bản sắc riêng của văn hoá, tâm hồn Việt. Sáng tác văn chương
bằng chữ Nôm, họ đã nêu cao tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, phủ định quan niệm coi
thường tiếng mẹ đẻ “nôm na là cha mách qué”. Họ đã chứng minh rằng, thứ ngôn ngữ “nhà
quê” ấy phong phú, sống động, linh hoạt - có khả năng diễn tả hết thảy mọi điều. Từ cuộc
sống bần hàn, dân dã đến khung cảnh xa hoa, sang trọng nơi lầu vàng điện ngọc. Từ sự thấp
hèn, tàn ác, trơ trẽn đến sự cao cả, phi thường ; từ nghĩa tình mộc mạc, bình dị đến những
cảm xúc tinh tế, lãng mạn, sâu sắc. Từ những hình ảnh cụ thể, trần trụi của hiện thực đời
sống đến chiều sâu, tầm cao của tư tưởng... Nhiều tác giả không chỉ sử dụng thành công vốn
quí của ông cha mà còn làm giàu cho tài sản vô giá đó.
- Mỗi nhóm truyện thơ Nôm có một thế mạnh riêng trong nghệ thuật sử dụng và sáng
tạo ngôn từ.
+ Truyện thơ Nôm bình dân cuốn hút người đọc bằng ngôn ngữ bình dị, dân dã với
nhiều khẩu ngữ, thành ngữ, tục ngữ ; từ đồng nghĩa, trái nghĩa...; nhiều hình ảnh sinh động
lấy từ hiện thực cuộc sống đời thường...
+ Truyện thơ Nôm bác học thiên về việc sử dụng hệ thống từ Hán Việt, điển tích,
điển cố theo xu hướng Việt hoá. Rất nhiều yếu tố Hán đã hoà nhập vào ngôn ngữ Việt một
cách tự nhiên, nhuần nhuyễn; lối diễn đạt tài hoa, uyển chuyển, tinh tế, điêu luyện...
4. Một số hạn chế của truyện thơ Nôm
- Có những cốt truyện còn lỏng lẻo, còn các tình tiết gượng ép hoặc bất hợp lí.
+ PCCH: chàng ta cùng CH ăn trộm của ông bà, vậy mà: “Thử lòng hỏi ướm mà
chơi/ Thử xem thiện sĩ ra người làm sao?”/ Vợ chồng cười nói ngọt ngào: Thôi ta sửa lễ
khiến trao tơ hồng”/ tr.32: Tướng công mừng rỡ muôn phần: Con ta tuổi tuất có phần hợp
nghi/ ... Dần kia tuất nọ mới hay/Hai tuổi ngày rầy tốt đẹp cả hai” - ngay sau đó: “Xét xem
bản mệnh xấu thay/ Hai tuổi cùng khắc, khó vầy con ơi/ Lấy nhau ko được trọn đời...; CH
mang thai 3 năm mới sinh; ông bà ngoại ko nhận ra cháu; PC ko nhận ngay ra con còn hỏi
han, xem thư rồi mới khóc ngất...
29
+ Truyện Phương Hoa: PH giấu cha giúp tiền bạc cho Cảnh Yên - dù biết ông không
hề phản đối - gây thêm nỗi oan giết a hoàn ; CY bị hạ ngục mà PH lại lấy tên chàng đi thi?
- Ngôn ngữ, hành động của nhân vật đôi khi không tương ứng với bản chất xã hội và
đặc điểm tính cách - thể hiện ý muốn chủ quan của tác giả. VD NH mới 13 tuổi mà đứng
giữa triều đình - đanh thép chất vấn, lên án Trang Vương vô đạo; mọi suy nghĩ, hành động
đều chín chắn, vững vàng - bản lĩnh phi thường...
- Trong một số truyện thơ Nôm bình dân, lời thơ còn chưa được trau chuốt, cách gieo
vần ở nhiều câu chưa được nhuần nhuyễn...

*Tài liệu tham khảo:


1. Các tác phẩm: Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Công Cúc Hoa, Phương
Hoa, Lưu nữ tướng, Lí Công, Phan Trần, Song Tinh, Hoa Tiên, Nhị độ mai, Sơ kính tân
trang, Đoạn trường tân thanh...
2. Kiều Thu Hoạch,Truyện Nôm, nguồn gốc bản chất và thể loại, Nxb KHXH, H, 1992.
3. Đinh Thị Khang: “Kết cấu Truyện Nôm”, Tạp chí văn học số 9, 2002, tr.55- 63 và “Quan
niệm về con người trong Truyện Nôm”, Tạp chí văn học số 8, 2003, tr.56- 63;
4. Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XI X, Nxb Giáo dục,
2007.
5. Nguyễn Đăng Na (chủ biên) (2005), Lã Nhâm Thìn, Đinh Thị Khang,…Văn học trung đại
Việt Nam, tập 2, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
6. Nguyễn Đăng Na (chủ biên) (2007), Lã Nhâm Thìn, Đinh Thị Khang,…Văn học trung đại
Việt Nam, tập 2, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Nhàn, Thi pháp cốt truyện truyện thơ Nôm và Truyện Kiều, Nxb ĐHSP, H,
2009.
8. Trần Đình Sử, Mấy vấn đề về thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, 1999.

You might also like