Professional Documents
Culture Documents
- Ở nhiều tác phẩm có cốt truyện vay mượn từ văn học Trung Hoa, tác giả đã thay
đổi, sắp xếp lại các tình tiết, sự kiện ; hoặc lược bỏ những chi tiết rườm rà ; lựa chọn một
hình thức tự sự mới.... Tiêu biểu nhất cho xu hướng sáng tạo này là Nguyễn Du.
20
- Nhìn chung, cốt truyện của truyện thơ Nôm thường được tổ chức theo trình tự thời
gian ; sử dụng nhiều yếu tố ngẫu nhiên, phi thường và kết cấu theo mô hình cơ bản: Gặp gỡ -
Tai biến - Đoàn tụ.
+ Từ mô hình chung theo trình tự thời gian và kết thúc có hậu - NTN khái quát, phân
tích, lí giải đặc điểm kết cấu của hai nhóm chính : 1) theo tt thời gian/ kết thúc có hậu (Song
Tinh, Hoa Tiên, LBDL, PC Cúc Hoa, PTNH…)và theo tttg/ kết thúc không có hậu (Mai đình
mộng kí, Từ Thức, Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai… ; xem lại một số truyện tôn giáo - khi đắc
đạo lại ko phải là KT có hậu ?) . 2) K/c không theo trình tự thời gian : đảo trật tự tg và k/c
trùng điệp, lồng ghép (Lưu nữ tướng, LVTien, Nhị độ mai…) ; k/c xâu chuỗi, lắp ghép
(Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Ba Giai/ Tú Xuất, Thạch Sanh, Chàng Chuối…) ; k/c đối đáp
(Trinh thử, Trê Cóc, Ngư Tiều y thuật…) ; k/c tập hợp (Nhị thập tứ hiếu)…
+ Độ đậm nhạt của các phần có sự khác nhau tuỳ theo chủ đề của từng nhóm tác
phẩm. Nhóm truyện giai nhân tài tử thiên về phần gặp gỡ, đính ướcđể khám phá, ngợi ca
tình yêu;nhóm truyện miêu tả cuộc đấu tranh bảo vệ hạnh phúc gia đình lại thiên về phần tai
biến, hoạn nạn nhằm đề cao tinh thần phản kháng, ý chí bất khuất. Có thể tham khảo số liệu
thống kê của tác giả Nguyễn Thị Nhàn (15): phần gặp gỡ trong Bích Câu kì ngộ chiếm 340
câu/ 648 câu (52%); trong Hoa Tiên 785 câu/ 1532 câu (51,1%) ; trong Lưu Bình Dương Lễ
chỉ có 26 câu/ 780 câu (3,3%); Phạm Tải Ngọc Hoa 182 câu / 938 câu (19,5%)...
+ Trong từng phần, các tác giả truyện Nôm cũng sử dụng, sáng tạo nhiều kiểu kết cấu
khác nhau : VD - gặp gỡ trực tiếp (tình cờ, ngẫu nhiên trong ngày hội, hoặc trên đường đi
như Kim - Kiều, Phan - Trần) ; gặp gỡ đường vòng (Hoa Tiên, Nữ tú tài…) ; gặp gỡ diễn ra
trong những khoảng thời gian/ không gian riêng… Phần tai biến/ trắc trở/ chia li và phần
đoàn tụ cũng có thể thay đổi tuỳ theo dụng ý nghệ thuật của tác giả (Hoa Tiên, Truyện
Kiều…)..
2. Hệ thống nhân vật
2.1. Kiểu nhân vật :
- Truyện thơ Nôm xây dựng được hệ thống nhân vật đa dạng, gồm nhiều kiểu người,
tầng lớp người: vua chúa, quan lại, tiểu thư, a hoàn, người kiếm củi, kẻ chài lưới, nhà sư...
Nhìn chung, các nhân vật vẫn nghiêng về tính loại hình nhằm khái quát, nhấn mạnh những
hiện tượng xã hội, hình mẫu, phẩm chất lí tưởng nào đó. Chẳng hạn, nhân vật nữ chính trong
truyện thơ Nôm bình dân: “Tất cả giống nhau như những dạng khác nhau của quan niệm về
21
lòng chung thuỷ” (Nguyễn Lộc)... Nhưng vẫn có nhiều nhân vật vượt khỏi khuôn mẫu phong
kiến như Phan Tất Chánh, Phi Nga (Nữ tú tài), Lưu nữ tướng, Phương Hoa...; có cá tính sinh
động như Song Tinh, Dao Tiên, như các nhân vật của Truyện Kiều
- Các tiêu chí phân loại nhân vật : theo vị trí trong cốt truyện (trung tâm/ chính/ phụ/
phụ trợ)/ chức năng (chính/phản diện)/ nguồn gốc xã hội/ tính cách và số phận.
2.1.1. Nhân vật chính
2.1.1.1. Nhân vật nữ chính : Các tác giả truyện thơ Nôm đã tạo dựng nên cả một hệ
thống nhân vật nữ với vẻ đẹp hoàn hảo. Hình tượng người phụ nữ trong truyện thơ Nôm
hội tụ những phẩm chất vừa mang tính truyền thống, vừa có sự “phá cách” táo bạo. Họ
không chỉ xuất hiện với nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành; với đức hạnh vẹn toàn mà
còn vượt trội cả về tài năng, trí tuệ, khí phách.
+ Vẻ đẹp truyền thống: Họ dịu dàng, nhân hậu, thuỷ chung mà cũng thật mạnh mẽ,
quyết liệt. Hầu hết các nhân vật nữ đều có cuộc sống “êm đềm trướng rủ màn che” nhưng
khi phải đối mặt với gian nan, thử thách, kể cả những biến cố kinh hoàng - không một ai ngã
lòng, chùn bước. Người tần tảo nuôi chồng ăn học (Cúc Hoa, Thoại Khanh), người chấp
nhận hi sinh cuộc đời để bảo toàn sự bình yên cho cha mẹ, gia đình (Thuý Kiều, Nhuỵ
Châu). Người dũng cảm đấu tranh chống lại cường quyền (Ngọc Hoa), người lặn lội trèo non
vượt biển tìm chồng (Hoàng Trừu, Thoại Khanh)... Mọi phẩm chất của họ đều được các tác
giả truyện thơ Nôm đẩy lên đến mức “tuyệt đích”. Nàng Thoại Khanh hiếu thảo - đêm đông
trải mái tóc mây che cho mẹ chồng khỏi rét, cắt thịt mình cho bà ăn lúc đói khát cùng cực,
hiến đôi mắt cho sơn thần để bảo toàn tính mạng mẹ già... Nàng Cúc Hoa một lòng son sắt
khiến cho nhà vua nước Triệu phải ngỡ ngàng, cảm phục: “Đàn bà đức hạnh công dung thế
này/ Nước Nam sao lắm người hay/ Mới mười mấy tuổi thảo ngay thờ chồng/ Thật là tận
hiếu tận trung/ Trẻ trung biết đạo tam tòng xưa nay/ Ước gì nàng ấy sang đây/ Trẫm nuôi
tức khắc ngày rày làm con/ Tiền thời trẫm thưởng mười muôn/ sắc phong công chúa sánh
cùng công khanh”. Ngọc Hoa một mình giữa chốn triều đường, dũng cảm vạch trần tội ác
của tên vua Trang Vương vô đạo; chết xuống âm phủ vẫn tiếp tục đấu tranh đòi công lí...
Lưu nữ tướng vượt lên nỗi đau thương (cả gia đình bị gian thần vu oan, giết hại), dựng cờ
khởi nghĩa, đòi lại công bằng: “Người thiếu nữ, chí anh hùng/ Mở cờ, ra mặt tướng công tức
thì/ Cung tên, xe ngựa thiếu gì/ Võ thì nghìn tướng, văn thì trăm viên/ Tinh binh biết mấy
mươi nghìn/ Đại chu trăm chiếc đóng miền ải quan... Biên thuỳ riêng một triều đình/ Dọc
22
ngang trời rộng tung hoành bể khơi”. Khi triều đình chiêu hàng, Lưu tướng không quên lo
liệu chu toàn cho tướng sĩ... Và dẫu nếm trải trăm nghìn cay đắng, dẫu bị vùi dập, chà đạp
đến cùng cực, trái tim họ vẫn chan chứa tình yêu thương; cách ứng xử đầy bao dung, vị tha.
Thuý Kiều bị mẹ con Hoạn Thư hành hạ cả về thể xác lẫn tinh thần nhưng khi báo oán, nàng
lại tha bổng cho kẻ thù: “Đã lòng tri quá thì nên/ Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha
ngay”. Cô công chúa Nam Việt (Hoàng Trừu) bị chúa Huy kết tội oan, phải chịu hình phạt
làm “cây thịt” đội đèn vẫn lấy lời ân nghĩa xin tha tội cho kẻ đày đoạ mình: “Kể đà cơm áo
nặng dày/ Tựa nương cũng được qua ngày truân chuyên”... Bằng sức mạnh của tài trí và tình
yêu thương, lòng chung thuỷ, ý chí kiên cường..., những người phụ nữ ấy đã chiến thắng mọi
thế lực tàn bạo, chiến thắng cả số phận để giành lại, gìn giữ, bảo vệ tình yêu và hạnh phúc.
Phần thưởng dành cho họ là những nỗi oan khuất được giãi tỏ, những cuộc đoàn tụ, sum vầy
bên người mình yêu thương; những hạnh phúc tròn vẹn...
+ Nhiều nhân vật nữ phá vỡ mẫu hình công dung ngôn hạnh, cầm kì thi hoạ quen
thuộc của giai nhân thời trung đại. Vẻ đẹp “phá cách”: tài năng, trí tuệ - được thể hiện ở
những “địa hạt” có tính chất “độc quyền” của nam giới : học hành, thi cử : Cúc Hoa (Nàng
Thị Cúc vượt xa các đấng mày râu ngay trong chốn cửa Khổng sân Trình: “Xuân xanh tuổi
mới mười ba/ Tóc mây chấm đất da ngà gương trong/ Năm xe kinh sử thuộc lòng/ Thầy cho
thay mặt dạy trong học đường”. Nàng Phương Hoa “Liền thông kinh sử văn bài mọi
phương” lấy tên Cảnh Yên thi đỗ trạng nguyên, minh oan cho cả gia đình người yêu: Lòng
thêu miệng dệt khác thường/Giọng văn đài các mùi hương khuê phòng/Phun châu nhả ngọc
nên chương/Bỏ mầu son phấn hệt phường bút nghiên; Khen thay gái chẳng thua trai/ Kiên
trinh vững một sắc tài hòa hai). Võ tướng: Phi Nga: ; Lưu nữ văn võ song toàn, hào hiệp,
nghĩa khí: lúc yên bình thì “Sử kinh luyện tập hôm mai/ Văn chương phủ lục mọi bài làu
thông/ Phun châu nhả ngọc nức lòng/ Đã từng kinh sử lại thông truyện ngoài”, lúc gia biến
thì cải dạng nam nhi dựng cờ chiêu tập nghĩa binh, bản lĩnh kiên cường và tài chinh chiến
làm nghiêng ngả triều đình (Người thiếu nữ chí anh hùng/Mở cờ ra mặt tướng công tức
thì;Cung tên xe ngựa thiếu chi/ Võ thì nghìn tướng văn thì trăm viên/ Tinh binh biết mấy
mươi nghìn/ Đại chu trăm chiếc đóng miền ải quan; Biên thùy riêng một triều đình/ Dọc
ngang trời rộng, tung hoành bể khơi; lão tướng triều đình phải khen ngợi: Tuổi tuy còn hãy
thanh xuân/ Song tài thần võ mười phần khá cao); lúc đạt được chí nguyện thì lo cho tướng
23
sĩ chu toàn: Ơn lòng tướng sĩ lắm thay/ Dầu sương, dãi nắng bấy nay nhọc nhắn.../ Kho tàng
phát cả chớ dành tích chi/ Truyền cho phó lại hồi quy/ Nông tang, chớ có theo đi nữa là)...
2.1.1.2. Nhân vật nam chính
- Tài tử, văn nhân - những chàng si tình: sinh ra trong các gia đình quyền quí, nền nếp thi
thư, tài năng thiên bẩm - thông minh, tài hoa, lãng mạn, đa tình. Mẫu chung: lên Kinh du
học, ứng thí - tình cờ gặp “hồng nhan tri kỉ” - tương tư, hẹn hò, đính ước, chia ly, tái hợp -
lập được công danh
+ Song Tinh: Lễ văn họp bạn nhà chiên/ Mực rơi điểm ngọc thơ nên gõ vàng/ Thế tinh khí
vũ hiên ngang/ Thảm khơi độ lượng, rỡ ràng nghi dung; ko muốn vâng theo sự sắp đặt hôn
nhân của cha mẹ, mong tự tìm hồng nhan tri kỉ: “Con rày muốn trảy phương xa/ trước là du
học, sau là cầu duyên/ Mặc cơn kì ngộ dẩy dun/ Trăng già mới kết, đào non thơ bài/Giai
nhân tài tử sánh hai/Đạo hòa cầm sắt duyên hài phượng loan’ gặp Nhụy Châu: Khách tiên
từ thấy mặt tiên/ Nỗi riêng hai dạ bỗng in một lòng/ Nói cười thủa ngụ lời công/ Dắc duyên
đã hợp bốn dòng thu ba;
+ Nhị độ mai - Mai Sinh: Điềm hùng sớm đã sinh trai/ Trời cho văn tướng kén tài trạng
nguyên/ Đặt cho Lương Ngọc là tên/ Tài hoa đáng bực trích tiên dưới đời; Mai sinh là bậc
thiên tài/ Câu văn cẩm tú, vẻ người y quan/ lòng ta muốn gả Hạnh Nguyên/ Thiên tài, quốc
sắc hai bên cũng vừa;
+ Phan Sinh: Ôn đặt gối, Đổng vây màn/ Sớm nhuần kinh sử, tối bàn văn chương; Phun
châu nhả ngọc đua tài/ Giải nguyên thoắt đã tên bài bảng ngay;
+ Hoa tiên - Phương Châu: “Phong nghi khác giá, từ chương tót loài/Gờm hoa, tài mạo gồm
hai/Đua chân nhảy phượng, sánh mai cưỡi kình; tình yêu ko thành :
+ Kim Trọng: nền phú hậu, bậc tài danh... hào hoa;
- Hàn sĩ/ con hiếu/ tôi trung : Gia cảnh bần hàn nhưng nguồn gốc cao quí, tài đức vẹn toàn:
mẫu hình trung hiếu tiết nghĩa, đặc biệt đề cao lòng hiếu thảo; đức nhân từ:
+ Phạm Công: thái tử, con Ngọc Hoàng đầu thai vào nhà họ Phạm, lễ vật cúng bà mụ : Đem
ra tinh những tôm đồng/ Với lại rau muống và cùng tép rang khiến NH : Lòng ta chua xót
hao mòn/ Nghĩ tình phụ tử thương con những là; nhường cơm cho cha mẹ, san sẻ phần cơm
cho ông lão ăn mày; 13 tuổi chôn cất cha trong cảnh tang thương; học nhờ thầy Quỉ Cốc,
chịu cảnh đói khổ, tủi nhục; không màng nữ sắc (từ chối quyết liệt khi khách tiên thử lòng
24
“Vợ chồng việc ấy xin tha/ Thôi tôi lại tưởng ông già hôm xưa! + Khen chàng hiếu nghĩa
tình thâm/ Ba năm thủ chế cứ nằm giường không)...;
+ Phạm Tải: Kiếm ăn đắp đổi qua lần/ Nương mình cửa Khổng tựa thân nhà Trình; Ngày
ngày hành khất phương dân/ Sớm chuyên nấu sử, hôm cần sôi kinh;
2.1.2. Nhân vật phụ
2.1.2.1. Nhân vật phụ trợ : thường xuất hiện trong các truyện Nôm bác học - hỗ trợ,
giúp đỡ cho các nhân vật chính - hoặc đến được với tình yêu; hoặc vượt qua hoạn nạn, tai
ương.
- A hoàn, thị nữ: những giáo sư dạy khoa tình yêu (Hoa Tiên: Vân Hương, Bích Nguyệt -
khích lệ, giúp chàng trai si tình đưa thơ ngỏ lời; giúp cô tiểu thư sinh và lớn lên trong bầu
khí quyển Nho giáo vượt lên những khuôn phép, ngại ngần, đắn đo, lo lắng... để đến với tình
yêu ), nhịp cầu kết nối tình yêu, chia sẻ tâm tư cho cả hai phía (Thể Vân - Song Tinh), nhiều
người chung hưởng hạnh phúc cùng cô chủ (Thể Vân, )
- Tiểu đồng, lão bộc, vú em, quản gia : hầu hết là bề tôi tình nghĩa, một lòng vì chủ ; không
rời bỏ chủ lúc hoạn nạn… VD: Hỉ đồng (Nhị độ mai) - liều mình, chết thay cho chủ: “Tôi
xin thay mặt trước vào/ Nghe binh tình ở thế nào thử xem/ Bằng ra lòng cá dạ chim/ Tôi
đương nạn ấy, người tìm nẻo xa”; Trong mình sẵn gói tì sương/ Giở ra nuốt ực quyết đường
quyên sinh); tiểu đồng (LVT): khóc thương, chôn cất, giữ mộ ba năm... Là tình người sâu
nặng, là ân nghĩa thủy chung...
2.1.2.2. Nhân vật phản diện : cũng thường là nhân vật phụ- những kẻxấu xa, tàn ác
- Vua chúa tham lam, tàn bạo (Trang Vương, Triệu Vương, chúa Hung Nô...); quan
lại gian tham, đố kị, tàn ác; hoàng thân quốc thích (chúa Huy trong Hoàng Trừu,,,)
- Nho sĩ tha hóa: đám học trò trong PCCH: “PC xấu hổ xót xa/Môn sinh lại lấy mực
ra bắt mài/Chàng mài không được nhanh tay/ Kẻ sỉ, người mắng chẳng hoài xót thương;
Chớ cho thằng này coi chữ làm chi/ Lấy màn che kín đèn đi/ Chẳng cho nó học, nó thì ngồi
không”; Trịnh Hâm, Bùi Kiệm trong LVT…
- Trọc phú, cường hào: cha Cúc Hoa (TTCH), Biện Điền (PTNH), Tào trung úy…
2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Các tác giả truyện thơ Nôm đã có ý thức khắc hoạ nhân vật ở cả hai phương diện -
con người bên ngoài (ngoại hình, cử chỉ, hành động…) và con người bên trong (cảm xúc,
suy nghĩ, biến động nội tâm…).
25
2.2.1. Con người bên ngoài:
- Hầu hết các nhân vật chính, đặc biệt là nhân vật nữ đều có ngoại hình đẹp. Chân
dung của họ thường được miêu tả bằng bút pháp ước lệ, thiên về khái quát nhưng vẫn có nét
riêng: khi là vẻ đẹp tươi trẻ, duyên dáng, yêu kiều như đoá hoa chớm nở: “Phương Hoa nghe
thấy mừng thay trong lòng/ Vội vàng tô điểm hình dung/ Môi son má phấn khăn hồng điểm
trang/ áo quần hây hẩy hơi hương/ Rà rà tóc phượng, ngang ngang mày ngài/ Trên đầu
ngọc giắt, trâm cài/ Dưới chân ren rén, gót hài khoan khoan/ Bước ra đứng mé thềm loan”
(Truyện Phương Hoa); lúc là nhan sắc lộng lẫy tựa thần tiên giáng thế: “Ngồi thời hoa nở
sắc hồng/ Tóc mây dài tựa trăm vòng thần tiên/ Người ta đồn dậy khắp miền/ Dù già dù trẻ
cũng lên xem nàng” (Lí Công); Dao Tiên: Gió đông gờn gợn sóng tình/ Trăm hoa lộng lẫy
một cành mẫu đơn/ Mặn mà chìm cá rơi nhàn/ Nguyệt ghen gương kép, hoa hờn thắm bay/
Thiên nhiên sẵn đúc dầy dầy/ Càng tươi tinht nét, càng say sưa tình; Nhụy Châu (Song
Tinh: Dầy dầy da ngọc tuyết ken/ Mày nga khói dạm, tóc choang mây lồng/ Gót sen đua nở
bạch hồng/ Sóng ngời mắt phượng, ráng phong má đào/ Rỡ ràng ánh nguyệt chói sao)...
Nhân vật nam cũng đều khôi ngô, tuấn tú (Phan Sinh, Mai Sinh, Lương Phương Châu,
KT...). Trong Truyện Kiều, các chi tiết ngoại hình đã được cá thể hoá, thể hiện tính cách, bản
chất và số phận của nhiều nhân vật.
- Ngôn ngữ nhân vật cũng được các tác giả truyện thơ Nôm chú ý ở cả hai hình thức
đối thoại, độc thoại. Tác giả Đinh Thị Khang (16) đã thống kê ngôn ngữ đối thoại, độc thoại
của nhân vật trong một số tác phẩm tiêu biểu, cho thấy rõ ràng đã có “con người nói năng và
cảm nghĩ” trong truyện thơ Nôm:
Tên tác phẩm Tổng số câu Đối thoại Độc thoại
của TP Số câu Tỉ lệ Số câu Tỉ lệ
Phạm Công Cúc Hoa 4012 1154 28,8 0 0
Phương Hoa 1160 374 30,2 0 0
Thạch Sanh 1821 750 414 0 0
Tống Trân Cúc Hoa 1690 822 48,6 05 0,3
Phạm Tải Ngọc Hoa 932 420 45,0 06 0,6
Hoàng Trừu 1580 773 48,8 21 1,3
Lưu nữ tướng 2166 1015 46,9 33 1,5
Thoại Khanh Châu Tuấn 866 301 34,8 20 2,3
- Nhiều tác giả truyện thơ Nôm đã sử dụng ngôn ngữ đối thoại và độc thoại làm
phương tiện đắc lực để khám phá tâm trạng, khắc họa tính cách nhân vật:
26
+ Trong PTNH: ngôn ngữ đối thoại giữa Ngọc Hoa, Phạm Tải với Trang Vương - thể
hiện tính cách mạnh mẽ, quyết liệt của NH; sự trong sạch, không màng vinh hoa phú quí
nhưng cũng cam chịu của PT; cái trơ trẽn, đê tiện của Trang Vương.
+ Trong truyện Song Tinh, cuộc đối thoại sau đám cưới đã thể hiện một cách sinh
động tâm lí, tính cách của Nhuỵ Châu và Thể Vân. Thể Vân là tì nữ được Nhuỵ Châu nhờ
cậy nối hộ tơ duyên với Song Tinh nhưng chàng ta quyết giữ trọn lời thề ước nên chỉ đồng ý
cưới Thể Vân với điều kiện không chung chăn gối. Cô tì nữ tinh ranh rất tin tưởng vào qui
luật “Cá khan gặp nước co vi đặng nào”; lại từng phải khẩn cầu “Đêm xuân ai dễ cầm lòng
được chăng.../ Đoái thương đến thiếp trăng hoa lạnh lùng” nhưng đã phải bẽ bàng lùi bước
trước tấm lòng sắt đá của Song Tinh: “Lòng này sắt đá còn ưa/ Ví cho thần nữ tiên cơ khôn
dùng”! Vì thế, ngày đoàn tụ nghe Nhuỵ Châu ướm hỏi: “Nàng rằng: Ngày đẹp hoa phòng/
Đào thơ gặp trận gió giông thế nào?”, Thể Vân được dịp kể lể nông nỗi thiệt thòi, oan ức
của kẻ qua ruộng dưa sửa dép: “Vân rằng :“Khát đứng bờ ao/ Đói ăn bánh vẽ chiêm bao
thấy vàng/ Đèn soi hang tối không tường/ Dép xuyên khăn sửa lẽ thường ai suy”. Nhuỵ Châu
đương nhiên khó có thể tin đó là sự thật, lại ngỡ Thể Vân giấu giếm: “Nàng rằng “Vui
miệng hỏi chơi/ Ghen tuông chi đó, nỡ lời man nhau/ Cá hang khi gặp nước sâu/ Dễ ai cấm
đặng đâm đầu, vẫy đuôi!”. Lời “buộc tội” nghe rất hợp lí nàykhiếnThể Vân càng thêm “bi
phẫn”: “Vân rằng “To chỉ nhỏ mồi/ Cá khôn linh tính lội xuôi chẳng dừng/ Có ưng, không
nghĩ cũng ưng/ Bấy giờ hầu đễ đãi đằng, ai thương!”. Chỉ vài lời đối thoại, mà tái hiện một
cách chân thực và hóm hỉnh cảnh ngộ éo le, tả được tâm trạng vừa “tò mò” vừa pha chút
ghen tuông kín đáo của cô chủ; nỗi ấm ức dễ thương của cô hầu…
+ Phan Trần (Dao Tiên: “Tài lang nào phải như xưa/ Mình sang, duyên thắm, thờ ơ
mọi đường/ Tiếc thay sương tuyết cũ càng/ Tơ duyên ai gỡ, tự chàng mà thôi!... bấy lâu một
tấm riêng tây/ ái ân này, đến đêm này là xong! – lời hờn giận, trách móc thể hiện tính cách
dịu dàng, đằm thắm, tình yêu/ nỗi đau...; / Phương Hoa/ Nhị độ mai... đều có những đoạn
ngôn ngữ đối thoại thành công.
2.2.2. Con người bên trong:
* Các tác giả truyện thơ Nôm (chủ yếu là truyện thơ Nôm bác học) đã chú trọng đến
việc khám phá con người bên trong của nhân vật với những cảm xúc, suy nghĩ, xung đột nội
tâm... Thế giới nội tâm phong phú, bí ẩn được thể hiện thành công qua ngôn ngữ độc thoại
và ngôn ngữ thiên nhiên.
27
- Nhiều đoạn ngôn ngữ có sự pha trộn với lời kể, lời tả nhưng màu sắc độc thoại rất
đậm nét. VD: chàng Song Tinh: “Một mình tưởng lại một mình/ Biết ai mà mượn thông tình
đó vay?/ Muốn toan chờ thỏ ấp cây/ Lại lo từ mẫu chầy ngày ỷ lư; nàng Nhụy Châu: “Nàng
nghe phút chốc đã tường/ Nực cười, nực giận, nửa thương, nửa sầu/ Cười vì vả đấng mày
râu/ minh cầu không chước, ám cầu không nhân/Giận vì chẳng chút cơ quan/Ví thông lời
ngỏ, khôn hàn tiếng bay/ Thương vì cách trở nước mây/ Lối kia dù trái, nghĩa này ắt vơ/ Sầu
vì dì gió lẳng lơ/ Đã day lòng thắm, lại sơ mối mành”; Phan Trần: Phan sinh: “Ngậm ngùi
nhớ cảnh gia hương/Đã thiên ngợi nhớ, lại chương ngậm sầu/Hơi gió lọt, bóng trăng
thâu/Đôi khi dở chiếc trâm nhau ra nhìn/Nước non cách mấy dặm nghìn/Biết lòng còn nhớ
hay quên hỡi lòng?Chăn đơn gối chiếc lạnh lùng/Tưởng nhân duyên ấy như vòng tơ vương;
Kiều Liên “Nghĩ xa thôi lại nghĩ gần/ Chạnh lòng xảy nhớ Châu Trần nghĩa xưa/Dãi dầu kể
mấy nắng mưa/Thề phai nguyền lạnh, bây giờ biết đâu? Quạt này ai để cho nhau/Phong
phong, mở mở giãi sầu làm khuây/Chốn lam Kiều cách nước mây/Bùi hàng kia dễ biết đây
nẻo nào?Non Thiên Thai mấy trượng cao/Lưu lang chưa dễ tìm vào tới nơi/Đã đành góc
biển chân trời/Lân la ngày bạc quá vời xuân xanh/Nghĩ mình những tủi duyên mình/Nến
hương biếng thắp, quyển kinh ngại nhìn ; Dao Tiên tương tư: “Đàn đâu réo rắt bên tai/ Lửa
đâu chất chứa nhường khơi trận hằng/ Sầu đâu giở thói biếng rằng/ Nhủ hoàn khép cửa đẩy
trăng trả trời... Hình thức độc thoại xuất hiện trong nhiều tác phẩm: ST (độc thoại của
Nhụy Châu khi trầm mình, Thể Vân khi ST tỏ ý chỉ “cưới chay” nàng); Kiều Liên (nhớ mẹ,
lo tương lai, nhớ người đính ước hôn nhân với mình...); Mai Sinh lúc tương tư Hạnh
Nguyên...
- Nhiều hình tượng thiên nhiên không chỉ là bức tranh phong cảnh mà còn là tấm
gương phản chiếu tâm hồn nhân vật:
+ Hoa Tiên: Phương Châu: “Lối thơm khi nhẹ gót tìm/Mùi hoa như rước, tiếng chim
đón chào/ Sóng đào mảnh mảnh bông đào/Hoa xuân lóng lánh khác nào mặt xuân/ Hẹn
phong lưu phải nợ nần/Bạn sông âu thẹn vũng tần đôi uyên/ Chen chân thử dạo khơi miền/
Dẩy dun may được như nguyền biết đâu?; Dao Tiên nhìn cảnh sắc vườn xưa: “Trước hoa lần
bóng hoa rơi/ Dưới lầu mách bóng trăng soi người sầu/ Cảnh nào sẽ nhắc lòng đâu/ Mảng
than tình mới, thêm sầu nỗi xưa; gặp Lương Sinh khi chàng đã vâng lời cha mẹ đính hôn
cùng Ngọc Khanh: “Trước lan so bóng lựa lời/ Trăng mờ, hoa lặn, dế rời khúc ngâm/ Gió
thương, mây thảm âm thầm/ Đìu hiu ngọn liễu như đầm hạt mưa...
28
+ Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đã đạt đến đỉnh cao trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du.
3. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ: Truyện thơ Nôm là thể loại có đóng góp to lớn
vào sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc.
- Sử dụng tiếng Việt, các tác giả truyện thơ Nôm đã tìm được phương tiện đắc lực
nhất để khám phá, thể hiện bản sắc riêng của văn hoá, tâm hồn Việt. Sáng tác văn chương
bằng chữ Nôm, họ đã nêu cao tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, phủ định quan niệm coi
thường tiếng mẹ đẻ “nôm na là cha mách qué”. Họ đã chứng minh rằng, thứ ngôn ngữ “nhà
quê” ấy phong phú, sống động, linh hoạt - có khả năng diễn tả hết thảy mọi điều. Từ cuộc
sống bần hàn, dân dã đến khung cảnh xa hoa, sang trọng nơi lầu vàng điện ngọc. Từ sự thấp
hèn, tàn ác, trơ trẽn đến sự cao cả, phi thường ; từ nghĩa tình mộc mạc, bình dị đến những
cảm xúc tinh tế, lãng mạn, sâu sắc. Từ những hình ảnh cụ thể, trần trụi của hiện thực đời
sống đến chiều sâu, tầm cao của tư tưởng... Nhiều tác giả không chỉ sử dụng thành công vốn
quí của ông cha mà còn làm giàu cho tài sản vô giá đó.
- Mỗi nhóm truyện thơ Nôm có một thế mạnh riêng trong nghệ thuật sử dụng và sáng
tạo ngôn từ.
+ Truyện thơ Nôm bình dân cuốn hút người đọc bằng ngôn ngữ bình dị, dân dã với
nhiều khẩu ngữ, thành ngữ, tục ngữ ; từ đồng nghĩa, trái nghĩa...; nhiều hình ảnh sinh động
lấy từ hiện thực cuộc sống đời thường...
+ Truyện thơ Nôm bác học thiên về việc sử dụng hệ thống từ Hán Việt, điển tích,
điển cố theo xu hướng Việt hoá. Rất nhiều yếu tố Hán đã hoà nhập vào ngôn ngữ Việt một
cách tự nhiên, nhuần nhuyễn; lối diễn đạt tài hoa, uyển chuyển, tinh tế, điêu luyện...
4. Một số hạn chế của truyện thơ Nôm
- Có những cốt truyện còn lỏng lẻo, còn các tình tiết gượng ép hoặc bất hợp lí.
+ PCCH: chàng ta cùng CH ăn trộm của ông bà, vậy mà: “Thử lòng hỏi ướm mà
chơi/ Thử xem thiện sĩ ra người làm sao?”/ Vợ chồng cười nói ngọt ngào: Thôi ta sửa lễ
khiến trao tơ hồng”/ tr.32: Tướng công mừng rỡ muôn phần: Con ta tuổi tuất có phần hợp
nghi/ ... Dần kia tuất nọ mới hay/Hai tuổi ngày rầy tốt đẹp cả hai” - ngay sau đó: “Xét xem
bản mệnh xấu thay/ Hai tuổi cùng khắc, khó vầy con ơi/ Lấy nhau ko được trọn đời...; CH
mang thai 3 năm mới sinh; ông bà ngoại ko nhận ra cháu; PC ko nhận ngay ra con còn hỏi
han, xem thư rồi mới khóc ngất...
29
+ Truyện Phương Hoa: PH giấu cha giúp tiền bạc cho Cảnh Yên - dù biết ông không
hề phản đối - gây thêm nỗi oan giết a hoàn ; CY bị hạ ngục mà PH lại lấy tên chàng đi thi?
- Ngôn ngữ, hành động của nhân vật đôi khi không tương ứng với bản chất xã hội và
đặc điểm tính cách - thể hiện ý muốn chủ quan của tác giả. VD NH mới 13 tuổi mà đứng
giữa triều đình - đanh thép chất vấn, lên án Trang Vương vô đạo; mọi suy nghĩ, hành động
đều chín chắn, vững vàng - bản lĩnh phi thường...
- Trong một số truyện thơ Nôm bình dân, lời thơ còn chưa được trau chuốt, cách gieo
vần ở nhiều câu chưa được nhuần nhuyễn...