You are on page 1of 127

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

BÀI GIẢNG
VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY

MÃ SỐ HỌC PHẦN: XN 238


BIÊN SOẠN: LÊ VĂN PHƯƠNG

CẦN THƠ 2021


MỤC LỤC
PHẦN MỘT: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG ......................................................................... 1
Chương 1: Khái quát văn học Việt Nam từ 1975 đến nay ................................................. 1
1.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hoá, văn học Việt Nam từ 1975 đến nay ............................ 1
1.1.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hoá ................................................................................... 1
1.1.2. Tình hình văn học Việt Nam từ 1975 đến nay ............................................................... 2
1.2. Các chặng đường phát triển của văn học Việt Nam từ 1975 đến nay .............................. 3
1.2.1. Văn học Việt Nam từ 1975 đến 1985 ............................................................................ 3
1.2.2. Văn học Việt Nam từ 1986 đến nay .............................................................................. 5
1.3. Đặc điểm văn học Việt Nam từ 1975 đến nay .................................................................. 8
1.3.1. Văn học vận động theo hướng dân chủ hóa ................................................................... 8
1.3.2. Tinh thần nhân bản và sự thức tỉnh ý thức cá nhân là nền tảng căn bản của văn học
giai đoạn này .......................................................................................................................... 10
1.3.3. Văn học phát triển phong phú, đa dạng, phức tạp, hướng đến tính hiện đại ............... 10
1.4. Các thể loại chính và những thành tựu của văn học Việt Nam từ 1975 đến nay............ 12
1.4.1. Thơ ca .......................................................................................................................... 12
1.4.2. Truyện ngắn ................................................................................................................. 18
1.4.3. Tiểu thuyết ................................................................................................................... 25
1.4.4. Kịch .............................................................................................................................. 30
1.5. Kết luận chung ................................................................................................................ 31
Chương 2: Một số đặc điểm về thi pháp và cuộc tranh luận có tính chất tìm đường đổi
mới của văn học Việt Nam sau 1975 .................................................................................. 32
2.1. Vài đặc điểm về thi pháp văn học Việt Nam từ sau 1975 đến nay ................................. 32
2.1.1. Khái niệm về thi pháp .................................................................................................. 32
2.1.2. Một vài đặc điểm thi pháp trong văn học Việt Nam từ sau 1975 đến nay .................. 32
2.2. Những cuộc tranh luận có tính chất tìm đường đổi mới của văn học Việt Nam sau 1975
................................................................................................................................................ 35
2.2.1. Vài nét về những cuộc tranh luận ................................................................................ 35
2.2.2. Vài nét về quan niệm lí thuyết truyền thống................................................................ 38
2.2.3. Vài nét về quan niệm lí thuyết hiện đại ....................................................................... 38
2.2.4. Vài nét về Trang giấy trước đèn của Nguyễn Minh Châu .......................................... 39
2.3. Kết luận chung ................................................................................................................ 40
PHẦN HAI: MỘT SỐ TÁC GIẢ TIÊU BIỂU ................................................................. 42
Chương 1: Nguyễn Khải (1930 – 2008) .............................................................................. 42
1.1. Vài nét về cuộc đời con người ........................................................................................ 42
1.2. Quá trình sáng tác ........................................................................................................... 43
1.2.1. Sáng tác của Nguyễn Khải trước 1978 ........................................................................ 43
1.2.2. Sáng tác của Nguyễn Khải từ 1978 đến khi qua đời ................................................... 45
1.3. Phong cách nghệ thuật .................................................................................................... 47
1.3.1. Cái nhìn hiện thực tỉnh táo, có khả năng phát hiện vấn đề .......................................... 47
1.3.2. Cái nhìn sắc sảo, tinh tế ............................................................................................... 48
1.3.3. Cái nhìn giàu tính phân tích và đậm chất triết lí .......................................................... 49
1.4. Kết luận chung ................................................................................................................ 49
Chương 2: Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) ................................................................... 51
2.1. Vài nét về tiểu sử và quan niệm nghệ thuât .................................................................... 51
2.1.1. Vài nét về tiểu sử ......................................................................................................... 51
2.1.2. Vài nét về con người và quan niệm sáng tác ............................................................... 51
2.2. Quá trình sáng tác ........................................................................................................... 52
2.2.1. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước 1975 .............................................................. 52
2.2.2. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu từ sau 1975 ............................................................. 53
2.3. Phong cách nghệ thuật .................................................................................................... 56
2.3.1. Là cây bút luôn tìm tòi, đổi mới .................................................................................. 56
2.3.2. Là cây bút đong đầy tư tưởng nhân bản, nhân văn ...................................................... 57
2.3.3. Là cây bút có khả năng phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo ........................................... 57
2.4. Kết luận chung ................................................................................................................ 58
Chương 3: Xuân Quỳnh (1942 – 1988) .............................................................................. 59
3.1. Vài nét về tiểu sử, con người và quan niệm nghệ thuật .................................................. 59
3.1.1. Vài nét về tiểu .............................................................................................................. 59
3.1.2. Vài nét về con người và quan niệm nghệ thuật ........................................................... 59
3.2. Quá trình sáng tác ........................................................................................................... 60
3.2.1. Sáng tác của Xuân Quỳnh trước 1975 ......................................................................... 60
3.2.2. Sáng tác của Xuân Quỳnh sau 1975 ............................................................................ 60
3.3. Phong cách thơ Xuân Quỳnh .......................................................................................... 61
3.3.1. Xuân Quỳnh – tiếng thơ của tình yêu .......................................................................... 61
3.3.2. Xuân Quỳnh – tiếng thơ trữ tình đằm thắm, giàu nữ tính............................................ 61
3.3.3. Xuân Quỳnh – tiếng thơ dung dị mà điêu luyện trong biểu đạt................................... 62
3.4. Kết luận chung ................................................................................................................ 63
Chương 4: Nguyễn Duy ....................................................................................................... 64
4.1. Vài nét về tiểu sử, con người và quan niệm sáng tác...................................................... 64
4.1.1. Vài nét về tiểu sử ......................................................................................................... 64
4.1.2. Vài nét về con người và quan niệm sáng tác ............................................................... 64
4.2. Quá trình sáng tác ........................................................................................................... 65
4.2.1. Sáng tác của Nguyễn Duy trước 1975 ......................................................................... 65
4.2.2. Sáng tác của Nguyễn Duy sau 1975 ............................................................................ 66
4.3. Phong cách thơ Nguyễn Duy .......................................................................................... 68
4.3.1. Nguyễn Duy- một hồn thơ đậm chất dân gian ............................................................. 68
4.3.2. Nguyễn Duy- một hồn thơ tôn tạo vẻ đẹp con người .................................................. 68
4.3.3. Nguyễn Duy- một hồn thơ đa giọng điệu .................................................................... 69
4.4. Kết luận chung ................................................................................................................ 69
Chương 5: Phan Thị Thanh Nhàn...................................................................................... 71
5.1. Vài nét về tiểu sử và con người ...................................................................................... 71
5.1.1. Vài nét về tiểu sử ......................................................................................................... 71
5.1.2. Vài nét về con người .................................................................................................... 71
5.2. Quá trình sáng tác ........................................................................................................... 72
5.2.1. Sáng tác của Phan Thị Thanh Nhàn trước 1975 .......................................................... 72
5.2.2. Sáng tác của Phan Thị Thanh Nhàn sau 1975 ............................................................. 73
5.3. Phong cách thơ Phan Thị Thanh Nhàn ........................................................................... 74
5.3.1. Phan Thị Thanh Nhàn – một hồn thơ đậm tình quê hương, đất nước ......................... 74
5.3.2. Phan Thị Thanh Nhàn – một hồn thơ đậm chất thế sự, đời tư ..................................... 75
5.3.3. Phan Thị Thanh Nhàn – một hồn thơ đa giọng điệu .................................................... 76
5.4. Kết luận chung ................................................................................................................ 78
Chương 6: Lưu Quang Vũ (1948 - 1988) ........................................................................... 79
6.1. Vài nét về tiểu sử và con người ...................................................................................... 79
6.1.1. Vài nét về tiểu sử ......................................................................................................... 79
6.1.2. Vài nét về con người .................................................................................................... 79
6.2. Quá trình sáng tác ........................................................................................................... 80
6.2.1. Kịch của Lưu Quang Vũ .............................................................................................. 80
6.2.2. Thơ của Lưu Quang Vũ ............................................................................................... 87
6.3. Kết luận chung ................................................................................................................ 91
Chương 7: Nguyễn Ngọc Tư ............................................................................................... 93
7.1. Vài nét về nhà văn Nguyễn Ngọc Tư ............................................................................. 93
7.2. Quá trình sáng tác ........................................................................................................... 93
7.3. Phong cách nghệ thuật .................................................................................................... 94
7.3.1. Nguyễn Ngọc Tư – một cây bút giàu cảm xúc ............................................................ 94
7.3.2. Nguyễn Ngọc Tư – một cây bút của nỗi cô đơn .......................................................... 95
7.3.3. Nguyễn Ngọc Tư – một cây bút của tin yêu và hy vọng ............................................. 95
7.3.4. Nguyễn Ngọc Tư – Một cây bút đậm chất Nam Bộ .................................................... 97
7.4. Kết luận chung ................................................................................................................ 98
Chương 8: Giới thiệu một số cây bút trẻ đương đại ..................................................................... 99
8.1. Minh Nhật ................................................................................................................................... 99
8.1.1. Vài nét nhà văn Minh Nhật .......................................................................................... 99
8.1.2. Quá trình sáng tác ........................................................................................................ 99
8.1.3. Đặc điểm truyện ngắn Minh Nhật.............................................................................. 101
8.1.4. Kết luận chung ........................................................................................................... 104
8.2. Vi Thùy Linh ............................................................................................................................. 104
8.2.1. Vài nét về tiểu sử, con người ..................................................................................... 104
8.2.2. Quá trình sáng tác ...................................................................................................... 104
8.2.3. Đặc điểm thơ Vi Thùy Linh ....................................................................................... 105
8.3. Kết luận chung .............................................................................................................. 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................. 113
GIỚI THIỆU VỀ HỌC PHẦN
Học phần Văn học Việt Nam từ 1975 đến nay được chia làm hai phần:
- Phần một: Khái quát về văn học Việt Nam từ 1975 đến nay: bối cảnh lịch sử,văn
hóa,xã hội; tình hình văn học gắn liền với sự vận động và đổi mới; đặc điểm cơ bản; các giai
đoạn phát triển và thành tựu cơ bản,… từ đó làm bật nổi diện mạo và đặc điểm của văn học
Việt Nam giai đoạn này.
- Phần hai: Giới thiệu một số tác giả và tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam
sau năm 1975 đến nay.
PHẦN MỘT: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
Chương 1: Khái quát văn học Việt Nam từ 1975 đến nay
1.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hoá, văn học Việt Nam từ 1975 đến nay
1.1.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hoá
- Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất, bước vào thời kỳ khôi phục
và phát triển. Đây là thời cơ thuận lợi để đưa đất nước đi lên nhưng cũng không ít khó khăn
và thách thức. Cả nước phải oằn mình giải quyết hậu quả chiến tranh; Hơn 20 năm đất nước
bị chia cắt với sự đối lập về hệ tư tưởng chính trị và những khác biệt về kinh tế, văn hóa; các
thế lực thù địch luôn gây khó khăn cho ta về mọi mặt; Sự khủng hoảng dẫn đến tan rã của hệ
thống các nước xã hội chủ nghĩa và sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết; Hậu quả của những
chính sách, chủ trương kinh tế xã hội nặng về ý kiến chủ quan, nóng vội; Tiếng súng vẫn nổ
ra ở biên giới phía Bắc và phía Tây Nam. Tất cả những vấn đề trên đã đẩy đất nước đến cuộc
khủng hoảng kinh tế xã hội ngày càng nặng nề, nhất là từ đầu những năm 80 và kéo dài đến
giữa thập kỉ đó.
- Sức sống mãnh liệt và bền bỉ của dân tộc, đường lối đổi mới của Đảng đã hình thành
trong thực tiễn, từ những biện pháp tích cực, những hành động kịp thời để tự cởi trói nền
kinh tế. Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã đưa đất nước khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế trầm
trọng. Hơn nữa, đổi mới cũng đồng nghĩa với việc mở cửa, tăng cường giao lưu và hội nhập
quốc tế trên mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa, đem đến một diện mạo mới cho đất
nước.
- Song hành với biến thiên của lịch sử là những chuyển biến về xã hội - văn hóa - tư
tưởng diễn ra sâu rộng trên đất nước ta. Từ chiến tranh sang hòa bình; từ nền kinh tế tập
trung bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; từ mối quan
hệ về chính trị kinh tế hầu như chỉ khép kín trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đến
mở cửa cửa hội nhập toàn diện với thế giới … đã đem đến sự thay đổi về nhiều mặt trong
đời sống xã hội.
- Trong chiến tranh giữ nước và giải phóng dân tộc sức mạnh của tinh thần yêu nước
và ý thức cộng đồng đã được phát huy cao độ, cuộc sống cá nhân riêng tư của mỗi người
phải thu hẹp đến mức độ tối thiểu. Đây là thời kỳ lịch sử đặc biệt, tạo nên diện mạo của đất
nước có chung tâm hồn, có chung khuôn mặt, cái ta chung đã làm mờ hóa cái tôi riêng.
Chiến tranh là một hoàn cảnh khác thường, bởi vậy con người không thể sống một cuộc
sống bình thường.
- Khi đất nước thống nhất, con người được trở về với cuộc sống bình thường, cũng có
nghĩa là trở về với đời sống thường - cái đời thường phồn tạp lẫn lộn vui buồn, tốt xấu, trắng
đen, bi hài… Ý thức cá nhân với mọi nhu cầu của con người như là một cá thể, một thực thể
sống đã được thức tỉnh trở lại. Các giá trị xã hội, đạo đức, nhân cách trước đây bền vững là
thế, thì đến lúc này nhiều điều đã không còn thích hợp, vì thế phải lung lay, rạn nứt.

1
- Từ những năm 80 của thế kỷ XX cho đến hiện tại, xã hội và con người Việt Nam
Nam đã và đang phải trải qua một cuộc trở dạ lớn lao và không ít đau đớn: vừa phải tự xây
dựng lại hình ảnh của chính mình, vừa phải tự hình thành từng bước các tiêu chí, giá trị mới.
Với tình hình đó, đời sống văn hóa tư tưởng cũng mang diện mạo và diễn biến khá phức tạp,
thậm chí có khi rơi vào khủng hoảng. Ở một bộ phận nào đó, có khi sự phê phán những hạn
chế bất cập của thời đại, đã đến mức phải phủ định sạch trơn, hình thành thái độ cắt lìa, quay
lưng với mọi giá trị truyền thống. Trong khi đó, lại không ít người rơi vào tình thế lưỡng
nan, trở thành những kẻ lạc thời bảo thủ, không tìm thấy chỗ đứng trong xã hội mới.
- Với những tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, xu thế sùng ngoại, thoái hóa
lối sống, chạy theo hưởng thụ vật chất mà coi nhẹ các giá trị tinh thần đang chi phối một bộ
phận dân cư, nhất là lớp trẻ. Bộ máy quản lý cồng kềnh chậm được cải cách, nhất là tệ nạn
tham nhũng lan tràn và nặng nề chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn và thanh toán
được…
- Như vậy, bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hoá đã tác động không nhỏ đến sự vận động
và phát triển của đời sống văn học dân tộc, đòi hỏi phải đổi mới để phù hợp với xu thế của
thời đại.
1.1.2. Tình hình văn học Việt Nam từ 1975 đến nay
- Văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 đã làm tròn sứ mệnh cao cả của một nền văn
học phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu vì Tổ quốc và nhân dân. Đặc điểm nổi bật nhất của
giai đoạn văn học này loại này là mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
được thể hiện trong sự thống nhất trên quan điểm sử thi từ cảm hứng, đề tài, chủ đề, thế giới
nhân vật cho đến kết cấu, cốt truyện. Nền văn học sử thi trong 30 năm ấy với tính chất đặc
thù đã có những đóng góp riêng cho tiến trình văn học dân tộc. Đặc điểm này còn tiếp tục
chi phối nền văn học Việt Nam ở nửa cuối thập kỷ 70 cho đến nửa đầu thập kỉ 80 của thế kỉ
XX
- Những sự chuyển biến của đời sống xã hội, văn hóa tư tưởng nhất thiết sẽ dẫn đến
những đổi thay trong quan điểm thẩm mỹ, đòi hỏi văn học phải đổi mới. Vào cuối những
năm 70 đã xuất hiện nhu cầu nhìn lại giai đoạn văn học trước đó, chỉ ra những giới hạn của
nó và đã manh nha hình thành những hướng đi mới. Cuộc kháng chiến chống Mỹ vẫn là đề
tài thu hút sự chú ý lớn nhất của giới cầm bút và công chúng bạn đọc nhưng người cầm bút
đã không muốn và không thể viết về chiến tranh như cách viết trước đây.
- Tạp chí Văn nghệ quân đội mở một cuộc trao đổi về chiến tranh được sự hưởng ứng
của nhiều nhà văn nhà nghiên cứu phê bình. Nguyễn Minh Châu với bài viết Viết về chiến
tranh đã đặt ra câu hỏi và tự trả lời: con người hay sự kiện. Và, câu trả lời dường như không
còn phải lựa chọn nữa: hãy viết về con người. Tất nhiên con người không tách rời sự kiện
chiến tranh… Bộ tiểu thuyết Đất trắng (1979 - 1984) của Nguyễn Trọng Oánh gây được sự
chú ý trong dư luận không chỉ đề nằm ở chỗ đề cập đến một giai đoạn đầy khó khăn của
cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc sau cuộc tổng tiến công Mậu Thân năm 1968 mà tác giả

2
còn tập trung diễn tả những tác động nhiều mặt của hoàn cảnh chiến tranh đến tính cách và
con đường đi của nhân vật, kể cả những tác động tiêu cực.
- Nhìn lại văn học viết về chiến tranh, đánh giá đúng thành công và nhất là chỉ ra
những hạn chế của nó để vượt qua đã được nhiều nhà văn, nhà lý luận phê bình văn học
quan tâm. Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã nêu lên một đặc điểm bao trùm văn học ta
trong thời kỳ qua là “chủ nghĩa hiện thực phải đạo” mà các cái cần có lấn át cái đang có, cái
cao cả lấn át cái cái đẹp. Lại Nguyên Ân thì cho rằng văn học Việt Nam giai đoạn 1945-
1975 là “một nền sử thi hiện đại”.
- Yêu cầu đổi mới văn học đã trở thành đòi hỏi chung của giới sáng tác lý luận lẫn
công chúng. Bằng những tìm tòi thể nghiệm trong sáng tác và hoạt động lý luận phê bình
văn học đã hình thành từng bước một tư duy nghệ thuật mới trong quan niệm về văn
chương, về công chúng văn học. Nhiều vấn đề cốt lõi cơ bản của quan niệm văn học trước
đó vốn được xem là chân lý hiển nhiên thì bây giờ cũng phải xem xét lại như: văn học và
hiện thực, văn nghệ và chính trị, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa…
- Hội nhập quốc tế đã tạo cơ hội mở rộng giao lưu văn hóa, văn học giữa nước ta với
các nước trên thế giới đặc biệt là phương Tây, các khuynh hướng nghệ thuật hiện đại của thế
giới đã được giới thiệu Việt Nam. Nó đã tác động đến sự tìm tòi sáng tạo của nhà văn và làm
biến đổi cả thị hiếu tiếp nhận của công chúng bạn đọc. Cuộc đổi mới văn học vừa là hệ quả
lại vừa là động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
1.2. Các chặng đường phát triển của văn học Việt Nam từ 1975 đến nay
Từ năm 1975 đến nay nền văn học Việt Nam đã đi hai chặng đường. Dù có sự biến
đổi qua mỗi chặng nhưng về cơ bản vẫn là sự tiếp nối, đảm bảo tính chất liên tục. Từ 1975
đến 1985 là thời kỳ chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến tranh sang văn học thời hậu
chiến. Từ 1986 đến nay, văn học đổi mới sôi nổi mạnh mẽ, gắn liền với công cuộc đổi mới
đất nước, với số phận con người cá nhân và quan tâm nhiều hơn đến những cách tân nghệ
thuật.
1.2.1. Văn học Việt Nam từ 1975 đến 1985
- Đây là chặng đường chuyển tiếp từ văn học trong chiến tranh sang nền văn học của
thời kỳ hậu chiến. Tính phát chuyển tiếp này này thể hiện rõ ở đề tài cảm hứng, ở các
phương thức nghệ thuật và cả quy luật vận động của văn học. Những năm sau khi kết thúc
thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đề tài chiến tranh và khuynh hướng sử thi
vẫn nổi trội dù đã xuất hiện những dấu hiệu tìm tòi, phát triển mới cả ở văn xuôi và thơ.
Thời gian là yếu tố quan trọng tạo nên khoảng cách cần có giúp cho người cầm bút ngẫm
nghiệm về quá khứ theo dòng hồi ức, sự kiện và cảm nhận thấu triệt những gì đã và đang
xảy ra.
- Trong văn xuôi, hướng tiếp cận chiến tranh được mở rộng. Cách tiếp cận chiến
tranh ở cự li gần, từ chiến hào và người lính hoặc những cán bộ chỉ huy ở đơn vị cơ sở được
tái hiện qua các tiểu thuyết: Trong cơn gió lốc của Khuất Quang Thụy, Năm 75 họ đã sống
3
như thế nào của Nguyễn Trí Huân, Họ cùng thời với những ai của Thái Bá Lợi… Cách tiếp
cận chiến tranh từ cái nhìn toàn cục, từ sở chỉ huy được tái hiện qua các tác phẩm: Kí sự
Tháng 3 ở Tây Nguyên của Nguyễn Khải, Đại thắng mùa xuân của Văn Tiến Dũng, tiểu
thuyết Đất miền Đông của Nam Hà…
- Một số cây bút muốn bổ sung cho bức tranh về kháng chiến bằng việc tái hiện thời
kỳ đầy khó khăn của lực lượng cách mạng trên chiến trường miền Nam thời kỳ sau Mậu
Thân 1968 như: tiểu thuyết Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh, Nắng đồng bằng của Chu
Lai... Từ đỉnh cao của chiến thắng trọn vẹn, người cầm bút nhìn lại và tái hiện những khó
khăn, tổn thất, thậm chí cả những thất bại tạm thời của ta trong chiến tranh cũng chính là
cách khẳng định sự sự hi sinh lớn lao và ý nghĩa vĩ đại của chiến thắng.
- Một số cây bút đã tập trung thể hiện ý nghĩa cao đẹp của sự đổi thay sau ngày đất
nước thống nhất, mà nhất là cách nghĩ, cách nhìn của con người về cuộc sống trước và sau
1975. Có thể kể đến những tác phẩm tiêu biểu như: tiểu thuyết Cha và con, và… của
Nguyễn Khải, tập truyện kí Rất nhiều ánh lửa của Hoàng Phủ Ngọc Tường… Những năm
đầu thập kỷ 80, tình hình kinh tế xã hội của đất nước gặp rất nhiều khó khăn và rơi vào
khủng hoảng ngày càng trầm trọng. Nền văn học cũng chững lại và không ít người viết lâm
vào tình trạng bối rối, không tìm thấy phương hướng sáng tác. Ý thức nghệ thuật của số
đông chưa chuyển biến kịp với thực tiễn xã hội, những quan niệm và cách tiếp cận hiện thực
quen thuộc trong thời kỳ trước đã tỏ ra bất cập trước hiện thực mới và đòi hỏi của người đọc.
Nhưng chính những năm tháng này đã diễn ra sự vận động ở chiều sâu của đời sống văn học,
với những trăn trở, tìm tòi lặng thầm mà quyết liệt ở một số nhà văn mẫn cảm trước đòi hỏi
của cuộc sống và ý thức trách nhiệm về ngòi bút của mình. Nhiều nhà văn đã dùng ngòi bút
của mình để đặt ra và luận giải những vấn đề phức tạp của cuộc sống đời thường đã và đang
diễn ra, nhất là vấn đề cơm áo, gạo tiền, nhân cách đạo đức lẽ sống, niềm tin… để mỗi người
phải ngẫm nghiệm, trăn trở suy tư. Tất cả những điều đó đã tạo nên tính thời sự ngồn ngộn
cho trong tác phẩm và ghi nhận sự nỗ lực tìm tòi sáng tạo của các nhà văn. Đó là những
người đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học, mà người “mở đường tài năng và tinh
anh” nhất ở chặng đường đầu này phải kể đến Nguyễn Minh Châu với các truyện ngắn
hướng vào đời sống thế sự - sinh hoạt hàng ngày của con người, tiêu biểu như: tập truyện
ngắn Năm hòa bình đầu tiên, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê tiểu thuyết
Những khoảng cách còn lại của Nguyễn Mạnh Tuấn, Gặp gỡ cuối năm và Thời gian của
Nguyễn Khải, Đứng trước biển và Cù lao Tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn, Mùa lá rụng trong
vườn của Ma Văn Kháng,…
- Trong thơ ca, mạch cảm hứng trữ tình - sử thi vẫn tiếp tục chạy mạnh mẽ cùng với
xu hướng nhìn lại, khái quát về cuộc chiến tranh và hành trình của những thế hệ đi trước
xoay quanh cuộc chiến đấu lâu dài và quyết liệt ấy. Sau khi kết thúc chiến tranh khoảng vài
năm, song hành với sự ra đời các tập thơ thuộc thế hệ trước là sự nở rộ thể loại trường ca
viết về chiến tranh, tiêu biểu là: Những người đi tới biển của Thanh Thảo, Đường tới thành
phố và Trường ca biển của Hữu Thỉnh, Sư đoàn của Nguyễn Đức Mậu, Mặt trời trong lòng
4
đất của Trần Mạnh Hảo…Trường ca của các thế hệ chống Mỹ đã phát huy ưu thế thể loại
mang tính tổng hợp, kết hợp tự sự, trữ tình và chính luận. Có thể xem đó chính là sự tổng kết
những trải nghiệm và trưởng thành của thế hệ trẻ đi qua cuộc chiến tranh với tư cách là một
thế hệ “dàn hàng gánh đất nước cho vai” (Bằng Việt).
- Chế Lan Viên cũng không ngần ngại nhìn thẳng vào hiện thực để phản ánh bằng
những dòng thơ đầy suy tư, trăn trở và tràn ngập yêu thương qua tập thơ Hoa trên đá. Xuân
Quỳnh cũng đóng góp cho thi đàn những vần thơ đầy khát vọng về tình yêu, hạnh phúc, sự ý
thức về thời gian và sự đổi thay của cuộc đời qua tập thơ Tự hát. Thanh Thảo cũng đặt ra
cho mình và người cầm bút cần có cách nhìn, sự cảm nhận về cuộc sống thấm thía, táo bạo,
đa chiều hơn qua trường ca Khối vuông ru bích và Những ngọn sóng mặt trời … Nguyễn
Duy với tập thơ Ánh trăng, Ý Nhi với Người đàn bà ngồi đan… cũng góp phần làm phong
phú hơn cho thi đàn dân tộc.
Như vậy, hoàn cảnh lịch sử xã hội của thời đại đòi hỏi người cầm bút phải tìm tòi, đổi
mới tư duy nghệ thuật để nhận cảm sâu sắc hơn về con người và cuộc sống. Những tìm tòi
và thành công bước đầu đã mở ra cho đời sống văn học những hướng tiếp cận mới với hiện
thực đa chiều, đặc biệt là cái hiện thực đời thường với những vấn đề đạo đức - thế sự đang
tồn tại nổi cộm, đòi hỏi văn học phải nhận thức, khám phá. Những tác phẩm giai đoạn này
đã góp phần thu hẹp khoảng cách khá xa giữa văn học và đời sống, giữa tác phẩm và công
chúng, đồng thời chuẩn bị tích cực cho sự chuyển biến mạnh mẽ của văn học khi bước vào
thời kỳ đổi mới .
1.2.2. Văn học Việt Nam từ 1986 đến nay
- Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) đã xác định đường lối đổi mới toàn diện, mở
đầu cho thời kỳ đất nước vượt qua sự khủng hoảng để bước vào giai đoạn phát triển mạnh
mẽ và ngày càng vững chắc. Trong đường lối đổi mới tại Đại hội VI của Đảng và tiếp theo
đó là Nghị quyết 05 của Bộ chính trị, cuộc gặp gỡ của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh với đại
diện báo giới nghệ sĩ năm 1987 đã khắc phục quyết liệt căn bệnh “duy ý chí”, đem đến cuộc
sống “dân chủ “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Tất cả những điều đó đã thổi một
luồng gió lớn và đời sống văn học nghệ thuật nước nhà mở ra thời kỳ đổi mới văn học Việt
Nam trong tinh thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự thật
- Vào nửa cuối những năm 80 và đầu những năm 90 đã phát triển mạnh mẽ khuynh
hướng nhận thức lại hiện thực với cảm hứng phê phán mạnh mẽ trên tinh thần nhân bản.
Tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu được coi là tác phẩm khơi dòng cho khuynh hướng
này và đã trở thành sự kiện văn học nổi bật những năm 1986 -1987. Chiến tranh cũng được
Nguyễn Minh Châu nhìn nhận từ phía tác động của nó đến số phận và tính cách con người
qua Cỏ lau và Mùa trái cóc ở miền Nam). Bảo Ninh thể hiện thấm thía nỗi buồn chiến tranh
với những thế hệ trẻ trải qua cuộc chiến ấy trong Thân phận tình yêu. Chiến tranh cũng được
cảm nhận thấm thía với những tác động của nó đến cuộc đời và số phận ở thời hậu chiến của
những con người đã trải qua cuộc chiến như Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Chim én bay của

5
Nguyễn Trí Huân, Người sót lại của rừng cười của Võ Thị Hảo,… Nguyễn Huy Thiệp lại
phơi bày sự khủng hoảng của xã hội với sự thay đổi các giá trị và lối sống qua Tướng về
hưu, Không có vua. Bên cạnh đó, các tác phẩm Bến không chồng của Dương Hướng, Mảnh
đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Đám cưới không có giấy giá thú của Ma
Văn Kháng lại tập trung khái quát bức tranh hiện thực với những mảng tối mà trước đây
thường bị khuất lấp. Trên từng trang sách ở chặng đường này đã hiện ra bao điều xót xa và
cả sự nhức nhối. Cố nhiên cảm hứng cảm hứng phê phán cũng có lúc bị đẩy tới cực đoan,
lệch lạc và người viết bộc lộ một cái nhìn ảm đạm, hoài nghi, thiên lệch.
- Tiếp tục khuynh hướng tiếp cận đời sống trên bình diện thế sự - đời tư đã được mở
ra nửa đầu những năm 80, nhiều cây bút đã đi vào thể hiện mọi khía cạnh của đời sống cá
nhân và những quan hệ thế sự đan dệt nên cuộc sống đời thường phồn tạp và vĩnh hằng. Con
người tự nhiên và những chiều sâu bí ẩn của tâm linh tiềm thức, vô thức vốn là một phần
không thể thiếu của đời sống con người, nhưng trước đây do nhiều nguyên nhân mà nó
thường bị văn học xem nhẹ, bỏ qua. Đến nay, dường như để bù lại phần thiếu hụt ấy của văn
học một thời, nhiều nhà văn hứng thú đi vào khám phá và thể hiện phần bản năng tự nhiên
của con người và trong một số tác phẩm, tác giả đã thử thăm dò vào lĩnh vực tâm linh, vô
thức còn đầy bí ẩn. Nhấn mạnh phương diện bản thể tự nhiên của con người là nơi gặp gỡ
của nhiều cây bút như Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Bản…
song ở mỗi người vẫn tạo được quan niệm và cách thể hiện riêng.
- Về đội ngũ tác giả, cùng với sự nỗ lực tự vượt mình của nhiều cây bút thuộc thế hệ
thời kỳ đổi mới. Ngoài Nguyễn Minh Châu được coi “là người mở đường tinh anh và tài
năng” của công cuộc đổi mới văn học, thì Nguyễn Khải, Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Nguyễn
Khắc Trường, Võ Văn Trực, Nguyên Ngọc đã có những đóng góp đáng kể cho thành tựu
văn học đổi mới. Một số nhà văn lão thành thuộc thế hệ “tiền chiến” vẫn bắt kịp bước
chuyển thời đại và có những tác phẩm gây được chú ý rộng rãi nơi công chúng bạn đọc như
Tô Hoài với bút ký Cát bụi chân ai, Chế Lan Viên với ba tập Di cảo thơ…
- Thế hệ nhà văn xuất hiện từ sau năm 1975 rất đông đảo và có nhiều tài năng được
nảy nở, phát triển trong điều kiện thuận lợi của thời kỳ đổi mới, trong không khí dân chủ hóa
của đời sống xã hội. Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài là những đại diện xuất sắc nhất
của thế hệ này cùng với Bảo Ninh, Chu Lai, Tạ Duy Anh… và đặc biệt là sự xuất hiện của
nhiều cây bút nữ đem lại những sắc điệu mới và cả văn xuôi và thơ.
- Các thể loại văn học đều có sự biến đổi, nhưng giữ vai trò xung kích và phát triển
sôi nổi, phong phú nhất là lĩnh vực văn xuôi với sự đa dạng của các thể truyện ngắn, tiểu
thuyết, bút ký, phóng sự…Thơ gặp nhiều khó khăn và có những khoảng thời gian chững lại,
nhưng không phải là không có những thành tựu đáng chú ý và nhiều nỗ lực tìm kiếm nhằm
cách tân thơ theo hướng hiện đại. Khuynh hướng sử thi đã mờ nhạt hẳn, thơ chủ yếu khai
thác cảm hứng đời tư và thế sự. Trong nửa cuối những năm 80, hầu hết các nhà thơ đều có
sự chuyển giọng: “Bao năm hát giọng cao, giờ anh hát giọng trầm” (Chế Lan Viên).

6
- Đối mặt với thực tại nhiều phức tạp ngang trái, thơ nói nhiều đến nỗi buồn và sự xót
xa, day dứt về thời thế, nhân thế bằng sự trải nghiệm thấm thía và ý thức trách nhiệm công
dân của người cầm bút. Vào đầu những năm 90 đã xuất hiện xu hướng cách tân mạnh mẽ
trong thơ. Khởi động cho những cách tân này là một số nhà thơ thuộc thế hệ trước 1975 với
những câu thơ chứa đựng nhiều thể nghiệm, tìm tòi, gây ra những phản ứng khác nhau trong
giới sáng tác và công chúng như:Về Kinh Bắc và Mưa Thuận Thành của Hoàng Cầm, Bóng
chữ của Lê Đạt, Cổng tỉnh, Mùa sạch của Trần Dần, Bến lạ và Ô mai của Đặng Đình Hưng,
Ngựa biển và Người đi tìm mặt của Hoàng Hưng, Nguyễn Quang Thiều cũng đóng góp vào
sự cách tân thơ bằng hai tập: Sự mất ngủ của lửa và Những người đàn bà gánh nước sông.
- Ở những thi phẩm nói trên, có thể nhận ra những xu hướng hiện đại trong thơ, từ
bóng dáng siêu thực, ấn tượng đến thứ “thơ vụt hiện”, thơ như trò chơi của ngôn từ. Sự đổi
mới ý thức nghệ thuật nằm ở chiều sâu đời sống văn học, nó vừa là kết quả, vừa là động lực
cho những tìm tòi đổi mới trong sáng tác, đồng thời tác động mạnh mẽ đến sự tiếp nhận của
công chúng văn học. Tư duy văn học mới đã dần hình thành, làm thay đổi các quan niệm về
chức năng của văn học, về mối quan hệ giữa văn học và đời sống, nhà văn và bạn đọc. Đồng
thời, sự đổi mới tư duy nghệ thuật còn thúc đẩy mạnh mẽ sự tìm kiếm, thể hiện và cách tiếp
cận thực tại, các thủ pháp và bút pháp nghệ thuật, phát huy cá tính và phong cách nghệ thuật
của nhà văn.
- Gần 10 năm của chặng đầu công cuộc đổi mới xã hội ở nước ta, trong đó có nền văn
học ở trong trạng thái chuyển động dữ dội của cuộc trở dạ. Khoảng thời gian ấy có ý nghĩa
hết sức quan trọng, nhưng thường thì không thể kéo dài. Nếu trong chiến tranh, xã hội và
văn học đều tồn tại trong điều kiện bất bình thường thì trong thời kỳ diễn ra những chuyển
biến lớn lao của đời sống xã hội như chặng đầu công cuộc đổi mới cũng tạo được một môi
trường tinh thần và điều kiện ít nhiều khác thường cho văn học phát triển.
- Từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay, trong xu thế đi tới sự ổn định của xã hội,
văn học về cơ bản trở lại với những quy luật mang tính bình thường, nhưng không ra rời
định hướng đổi mới đã hình thành từ những năm 80. Nếu như trước đó, động lực thúc đẩy
văn học đổi mới là nhu cầu đổi mới xã hội và khát vọng dân chủ - đó cũng chính là nội dung
cốt lõi của văn học trong trận đầu đổi mới, thì chặng đường tiếp theo, văn học quan tâm
nhiều hơn đến sự đổi mới của chính nó, mặc dù vẫn không đi khỏi xu hướng dân chủ hóa.
Đây là lúc văn học trở về với đời sống thường nhật và vĩnh hằng, đồng thời có ý thức về nhu
cầu tự đổi mới về hình thức nghệ thuật, phương thức thể hiện hơn bao giờ hết. Tuy ít có
những tác phẩm trở thành hiện tượng thu hút đông đảo công chúng, nhưng hầu như thể loại
nào cũng ghi dấu sự tìm tòi, sự đổi mới.
- Trong thơ, sau Nguyễn Quang Thiều, Dương Kiều Minh, Nguyễn Quyến, Mai Văn
Phấn, Đồng Đức Bốn thì một số cây bút trẻ gần đây đã gây được sự chú ý bằng những tìm
tòi mới, có khi táo bạo trong hướng đi sâu vào bản thể con người với khát vọng thành thực,
phơi trải tất cả mọi điều trên trên trang viết như Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Vi Thùy
Linh…
7
- Trong văn xuôi từ những năm 90 của thế kỉ XX và những năm gần đây, cho thấy sự
nổi lên hai mảng đáng chú ý: Hồi ký - tự truyện và tiểu thuyết lịch sử. Một loại hồi ký của
các nhà văn, nhà thơ, cả những nhà hoạt động xã hội đã đem lại cho người đọc những hiểu
biết cụ thể, sinh động và xác thực về xã hội, lịch sử, về đời sống văn học và gương mặt một
số nhà văn ở những thời kỳ qua. Tô Hoài - cây bút lực lưỡng của nền văn xuôi với trên nửa
thế kỷ sáng tác, lại càng khẳng định vị trí của mình trong đời sống văn học đương đại với
những hồi kí đặc sắc: Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Tiểu thuyết lịch sử Hồ Quý Ly của
Nguyễn Xuân Khánh, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, Sương mù tháng giêng của Uông Triều…
là những hướng khai thác lịch sử có những cách tiếp cận mới. Những thể nghiệm mạnh bạo
để cách tân tiểu thuyết cũng được các tác giả thế hệ mới thực hiện bằng hàng loạt tiểu thuyết
xuất hiện gần đây như: Cơ hội của Chúa của Nguyễn Việt Hà, Cõi người rung chuông tận
thế , Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh, Thoạt kì thủy, Trí nhớ suy tàn, Kể xong rồi đi của
Nguyễn Bình Phương, Chinatown, T mất tich của Thuận, Và khi tro bụi của Đoàn Minh
Phượng, Giữa dòng chảy lạc của Nguyễn Danh Lam,.. Đề tài chiến tranh tiếp tục được khai
thác bằng cái nhìn đa chiều trong các tiểu thuyết Lạc rừng của Trung Trung Đỉnh, Thượng
Đức của Nguyễn Bảo, Miền hoang của Sương Nguyệt Minh, Mình và họ của Nguyễn Bình
Phương... Bên cạnh đó, nhiều trào lưu tư tưởng và nhiều lí thuyết đã được giới thiệu ở Việt
Nam như trường phái Hình thức Nga đầu thế kỉ XX, thi pháp học, phân tâm học, kí hiệu học,
nữ quyền luận, phê bình sinh thái… đã góp phần thay đổi đời sống văn học đương đại dân
tộc.
- Trên tinh thần đổi mới, bên cạnh việc nhìn nhận lại một số tác phẩm trước đây bị
đánh giá sai lệch như Đống rác cũ của Nguyễn Công Hoan, Vào đời của Hà Minh Tuân,
Màu tím hoa sim của Hữu Loan; trào lưu văn học lãng mạn… còn xuất hiện việc khẳng định
vị trí xứng đáng của các cây bút tiên phong ở vùng đất mới phương Nam trong việc định
hình và phát triển nền văn học hiện đại đầu thế kỉ XX cũng như những giá trị đáng ghi nhận
của mảng văn học đô thị miền Nam 1945 – 1975. Việc định giá lại những giá trị văn chương
vốn dĩ thuộc về nó nhưng bị phủ mờ do quan điểm phê bình, do định kiến… trải dài hàng thế
kỉ đã đem đến cho đời sống văn học đương đại nói chung, lĩnh vực phê bình văn học nói
riêng một không khí mới, sức sống mới.
Tựu trung, từ sau năm 1975 đến nay, văn học Việt Nam đã và đang trải qua quá trình
vận động và phát triển. Dẫu có những bước thăng trầm nhưng đã đem lại một bầu không khí
sinh hoạt văn chương học thuật sôi nổi và những thành tựu đáng ghi nhận.
1.3. Đặc điểm văn học Việt Nam từ 1975 đến nay
1.3.1. Văn học vận động theo hướng dân chủ hóa
- Từ sau năm 1975, nhất là sau Đại hội Đảng lần thứ VI, vấn đề đổi mới tư duy và
nhìn thẳng vào sự thật đã tạo cơ sở tư tưởng cho xu hướng dân chủ hóa trong văn học Việt
Nam. “Dân chủ hóa” là một cụm từ thường dùng trong khoa học chính trị và xã hội học để

8
chỉ những thay đổi về mọi mặt trong xã hội, thay thế cấu trúc xã hội độc đoán, tập trung
quyền lực vào nhân dân, nhân dân có quyền góp thêm tiếng nói của mình một cách tự do.
- Vấn đề dân chủ ở các mức độ và phương diện khác nhau đã được biểu hiện trong
văn học Việt Nam trung đại. Thế nhưng, đến văn học Việt Nam hiện đại, nội dung dân chủ
ngày càng được thể hiện đậm đà, sâu sắc hơn và trở thành một nét cảm hứng trong sáng tác.
Thực tiễn cuộc sống tạo điều kiện thuận lợi cho khả năng độc lập suy nghĩ của mỗi cá nhân
cũng như tạo được không khí tranh luận học thuật, cho sự phát triển cá tính của nhà văn.
Nguyễn Minh Châu từng lên tiếng Hãy ai điếu cho một giai đoạn văn học, Hoài Thanh cũng
tỏ rõ quan niệm về phê bình thơ: “Văn chương gì thì gì trước hết phải là văn chương cái
đã…”. Trên cơ sở đó, văn học trở thành một trong những phương tiện không thể thiếu cho
việc bày tỏ cách nhìn, cách nghĩ, thái độ và hành động trước thực tại đời sống xã hội. Cuộc
sống của dân tộc trong những năm tháng này, không chỉ đòi hỏi các nhà văn “bay theo
đường dân tộc đang bay” (Chế Lan Viên), mà còn đòi hỏi họ phải có tư duy năng động,
sáng tạo để đưa văn học dân tộc lên tầm cao mới.
- Sự vận động theo xu hướng dân chủ hóa đã tạo nên mối quan hệ giữa nhà văn và
người đọc trở thành mối quan hệ bình đẳng, vận động trong xu thế đối thoại dân chủ. Lúc
này, nhà văn không còn là người độc quyền phán truyền chân lý và người đọc không còn chỉ
biết nghe, tán thưởng mà còn biết tranh biện, đối thoại để tìm ra chân lý. Bên cạnh tư tưởng
chung của cộng đồng, của thời đại, nhà văn còn phải có cách nhìn, cách nghĩ riêng của chính
mình và phải biết “vượt mình”. Những vấn đề được đặt ra trong tác phẩm văn chương phải
là vấn đề đã và đang xảy ra trong cuộc sống để mọi người cùng suy nghĩ, đối thoại một cách
dân chủ. Ở phương diện này, khuyng hướng dân chủ hóa thường được thể hiện qua các tác
phẩm như: Thời gian của người của Nguyễn Khải, Những khoảng cách còn lại, Đứng trước
biển, Cù lao Tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn, Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp, Ăn mày dĩ
vãng của Chu Lai,…
- Từ sau năm 1975, những vấn đề đặt ra của cuộc sống không chỉ là hiện thực đời
sống cách mạng gắn liền với lợi ích cộng đồng, mà còn là cuộc sống đời thường, riêng tư
của mỗi người, mỗi gia đình. Chiến tranh kết thúc, hiện thực cuộc sống xây dựng CNXH mở
ra với bao điều tốt đẹp và trong cuộc sống đó, vấn đề thân phận, nhân cách, ước mơ, khát
vọng hạnh phúc và bi kịch cũng được đặt ra ở mỗi con người. Lúc này đòi hỏi nhà văn phải
ý thức rõ trách nhiệm của người cầm bút. Điều đó đã thúc đẩy khuynh hướng dân chủ hóa
trong văn học càng được khẳng định và phát huy.
- Sự vận động theo hướng dân chủ hóa không chỉ thể hiện ở quan niệm mà còn được
biểu hiện ở cấu trúc, cốt truyện, cách xây dựng nhân vật nhất là giọng điệu. Nếu thời kỳ
1945-1975, thế giới nhân vật trong tác phẩm là con người của tập thể, của cộng đồng, giọng
điệu chủ đạo là hào sảng, tráng lệ và trữ tình thắm thiết thì sau 1975 đến nay nhân vật có ý
thức về thời gian, nghiền ngẫm về đạo đức, tự bạch, tự vấn hay đối diện với chính mình -
con người cá nhân, giọng điệu đong đầy trăn trở, triết lí và đối thoại. Tác phẩm tiêu biểu
như: tiểu thuyết: Thời xa vắng của Lê Lựu, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Ăn mày dĩ
9
vãng của Chu Lai; truyện ngắn: Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu, Tướng về hưu của Nguyễn
Huy Thiệp. Thơ ca: Ngày hòa bình đầu tiên của Phùng Khắc Bắc, Vết rạn chân chim của
Hoàng Trần Cương, Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc của Mai Văn Phấn…
1.3.2. Tinh thần nhân bản và sự thức tỉnh ý thức cá nhân là nền tảng tư tưởng căn bản
và của học học giai đoạn này
- Sau chiến tranh, mỗi người trở về với cuộc sống đời thường. Cuộc đời đang mở ra
trước mắt họ nhiều dự định, ước mơ và khát vọng, nhưng đồng thời, họ cũng phải đối mặt
với bao gian truân, thử thách mới trong cuộc sống đời thường nhiều đổi thay biến động.
Chính vì lẽ đó, bên cạnh ý thức cộng đồng, ý thức cá nhân được trỗi dậy mạnh mẽ.
- Lúc này, vấn đề đời sống tinh thần, tâm lý và đạo đức của con người cần được soi
xét ở nhiều bình diện trong hoàn cảnh mới của cuộc sống. Trong bối cảnh đó, niềm vui, nỗi
đau của số phận con người, nhất là quan niệm con người được đặt ra đòi hỏi nhà văn phải
quan tâm nhận thức, nghiền ngẫm sâu sắc hơn từ tình yêu cuộc sống, tình thương, sự cảm
thông đối với con người. Quan trọng nhất là phải làm gì để giúp cho con người vượt qua thử
thách trên hành trình cuộc sống.
- Sự thức tỉnh ý thức cá nhân gắn liền với cảm hứng khám phá, nghiền ngẫm hiện
thực và nhu cầu bày tỏ tư tưởng riêng trong việc đổi mới tư duy của nhà văn trong quá trình
sáng tạo nghệ thuật. Vì thế, trong văn học xuất hiện nhiều đề tài, chủ đề mới với sự nhìn
nhận, khám phá con người ở nhiều vị thế, nhiều bình diện và tầng bậc khác nhau. Đây là
nguyên nhân tạo nên sự đa dạng về kiểu, loại nhân vật, mà đáng lưu ý là kiểu nhân vật tự
thú. Kiểu nhân vật này đòi hỏi nhà văn phải khám phá chiều sâu tâm lý, khai thác dòng độc
thoại nội tâm của nhân vật. Các tác phẩm tiêu biểu như: truyện ngắn Bức tranh, Khách ở quê
ra của Nguyễn Minh Châu, tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Thời xa
vắng của Lê Lựu; thơ ca: Tự hát của Xuân Quỳnh, Người đàn bà ngồi đan của Ý Nhi, Thơ
tình của người đứng tuổi của Nguyễn Trọng Tạo và nhiều bài thơ trong Di cảo thơ của Chế
Lan Viên,…
1.3.3. Văn học phát triển phong phú, đa dạng, phức tạp, hướng đến tính hiện đại
* Đổi mới quan niệm về hiện thực đời sống
- Ở thời kỳ 1945-1975, văn học dồn trọng tâm vào việc tuyên truyền lí tưởng, cổ vũ
chiến đấu và hiện thực được phản ánh rất lớn lao trong xu thế phát triển lạc quan. Đến thời
kỳ sau 1975, văn học quan tâm đến những mặt trái, mặt khuất lấp, cái tiêu cực, cái xấu, cái
bất hợp lí và hiện thực được mở rộng, chiếm lĩnh mọi mặt của đời sống. Ở văn học tiền hiện
đại, nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng: “Hiện thực của văn học có khi không phải là cái
hiện thực đang tồn tại mà là cái hiện thực mọi người đang mơ ước”. Ở văn học hậu hiện đại,
năm 1978 Nguyễn Minh Châu lại nêu ra câu hỏi: “Chẳng lẽ chúng ta có thể làm yên tâm
mọi người bằng cách mô tả cái hiện thực mơ ước”. Với vai trò “người mở đường” cho văn
học thời đổi mới, ông đã góp phần làm thay đổi quan niệm và cách tiếp cận hiện thực cho
người cầm bút.
10
- Hiện thực trong văn học sau 1975 đã bắt đầu chiếm lĩnh mọi mặt của đời sống. Đó
là những mặt trái, những mặt khuất lấp, cái tiêu cực, cái xấu, cái bất hợp lý. Lúc này, biến cố
lịch sử trở thành đường viền cho số phận cá nhân, trở thành cái cớ ban đầu để nhà văn khảo
sát hành trình tự ý thức của nhân vật. Tác phẩm tiêu biểu như: Người đàn bà trên chuyến tàu
tốc hành, Bến quê, Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu, Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn
Huy Thiệp, Hậu thiên đường, Cát đợi của Nguyễn Thị Thu Huệ… Thông qua những tác
phẩm này, muôn mặt đời thường với muôn vàn số phận khác nhau, những tính cách khác
nhau được đề cập.
- Những truyện “giả cổ tích”, “giả lịch sử”, “giả liêu trai” của Nguyễn Huy Thiệp,
Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái,… là sự khẳng định mối quan hệ tự do giữa nhà văn với hiện
thực.
- Văn học sau 1975 đã thể hiện rõ sự đổi mới quan niệm về hiện thực. Hiện thực
không còn là mục đích để nhà văn phản ánh mà nó là phương tiện để nhà văn trình bày tư
tưởng, cách nhìn, cách chiệm nghiệm của riêng mình. Bên cạnh kiểu hiện thực được kiểm
chứng, thì xuất hiện kiểu hiện thực tâm linh, được tạo ra từ trí tưởng tượng của tác giả.
Chẳng hạn như trong tác phẩm: Giọt máu, Sói trả thù, Con thú lớn nhất của Nguyễn Huy
Thiệp, Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh, Thiên sứ của Phạm Thị Hoài,…
* Đổi mới quan niệm về con người
- Ở thời kỳ 1945-1975, văn học tập trung xây dựng con người lí tưởng, con người chỉ
đóng vai trò làm đường dây xâu chuỗi các sự kiện lịch sử lại với nhau. Đên thời kỳ sau 1975,
văn học tập trung xây dựng con người thế sự đời tư, con người làm tâm điểm soi chiếu lịch
sử. Một trong những nét đặc biệt là con người trong văn học giai đoạn sau 1975 đã biết tự
thú. Trong Bức tranh, Nguyễn Minh Châu dùng kiểu nhân vật tự thú để công bố niềm tin về
tính phức tạp của con người: “Hóa ra trong con người tôi đang chung sống cả rồng phượng
lẫn rắn rết”.
- Sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người đã đem lại chiều sâu nhận thức thẩm
mĩ cho văn học. Các nhà văn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Phan Thị
Vàng Anh, Tạ Duy Anh,… đặc biệt quan tâm đến hành trình tự nhận thức của con người.
Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Chu Lai,… có những phát hiện sắc sảo về con người
bản năng vô thức. Bảo Ninh, Hồ Anh Thái,… lại đong đầy nỗi niềm trăn trở về đời sống tâm
linh của con người. Những khám phá này đã dẫn tới sự đổi mới trong thế giới nhân vật.
* Đổi mới quan niệm trần thuật
- Thời kỳ 1945-1975, nhà văn là người thầy thông thái, luôn luôn đúng. Quan hệ giữa
nhà văn với người đọc là quan hệ độc thoại dẫn đến tác phẩm thường chỉ có một điểm nhìn.
Thời kỳ sau 1975, độc giả có quyền bình đẳng với nhà văn trong hành trình tìm kiếm chân lí.
Quan hệ giữa nhà văn với người đọc là quan hệ đối thoại hai chiều, tác phẩm được trần thuật
từ nhiều điểm nhìn. Sự trần thuật từ nhiều điểm nhìn là bằng chứng quan trọng về đổi mới
quan niệm văn xuôi. Mỗi điểm nhìn là một ý thức độc lập, qua đó, sự việc và con người sẽ
được nhìn nhận từ nhiều phía. Chẳng hạn như Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh
11
Châu; Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp… Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, bi
kịch của người đàn bà hàng chài được thể hiện qua hai quan điểm: Quan điểm của Phùng và
Đẩu là những người ngoài cuộc còn quan điểm của chính bà ta lại chính là con mắt của
những người trong cuộc.
- Ngoài ra, văn xuôi sau 1975 còn mở rộng đáng kể các phạm trù thẩm mĩ. Bên cạnh
“cái cao cả” có “cái đời thường”; bên cạnh “cái thực” có “cái ảo”, “cái hư”; “Cái
nghiêm túc” không choán chỗ của “cái buồn cười”; “Cái nên thơ” bình đẳng với “cái
nghịch dị”, “cái khủng khiếp”; “Cái hài” và “cái bi” đều góp phần làm tăng thêm tính chân
thật của cuộc sống.
- Về ngôn ngữ của văn xuôi sau 1975 gắn liền với ngôn từ hiện thực – đời thường,
đậm chất khẩu ngữ được gia tăng tính mức độ và lượng thông tin đã chuyển tải, cho thấy
trạng thái vận động mãnh liệt mà phức tạp xô bồ của đời sống đương đại.
- Về giọng điệu trong văn học sau 1975 rất đa dạng. Sự kết hợp nhiều giọng điệu
trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp: giọng dửng dưng vô cảm; giọng kinh bạc gai góc;
giọng trữ tình lắm khi xót xa thương cảm và tê tái buồn. So với văn xuôi 1945 – 1975, văn
xuôi sau 1975 nổi rõ hai sắc thái giọng điệu mới: giọng giễu nhại và hoài nghi.
- Tuy nhiên, ở phương diện ngôn ngữ và giọng điệu trong văn học sau 1975 vẫn vấp
phải hạn chế nhất định. Ở một số tác phẩm, nhà văn sử dụng ngôn ngữ thô tục, giọng điệu
chì chiết khinh bạc gây phản cảm bị dư luận phê phán. Lối hành văn tràn dòng, tràn trang
mà Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương khởi xướng chưa chứng tỏ được hiệu quả nghệ thuật
của nó.
1.4. Các thể loại chính và những thành tựu của văn học Việt Nam từ 1975 đến nay
1.4.1. Thơ ca
* Các nguồn cảm hứng chính
- Cảm hứng nhân bản và sự thức tỉnh ý thức cá nhân đã trở thành nền tảng và
cảm hứng chủ đạo của văn học và thơ ca sau 1975. Nhà thơ không còn bị bó buộc trong
những khung tư tưởng định sẵn mà cố gắng thể hiện tính đa chiều của hiện thực. Tuy nhiên,
trong những năm đầu sau khi chiến tranh kết thúc, cần chú ý đến hai mạch chính trong sự
vận động của tư duy thơ.
+ Thứ nhất, cảm hứng sử thi vẫn được tiếp nối như một quán tính nghệ thuật qua
những trường ca hoành tráng tổng kết cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Có điều, trường
ca thời kì này tuy vẫn mang chủ âm hào hùng, nhưng các nhà thơ đã bắt đầu chú ý nhiều hơn
đến bi kịch của con người, quan tâm trực diện đến số phận của con người cá nhân, thậm chí
nhiều khi số phận của đất nước được đo ướm bằng nỗi đau của cá nhân: “Một mình một
mâm cơm/ Ngồi bên nào cũng lệch/ Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền” (Đường tới
thành phố - Hữu Thỉnh). Thừa nhận rằng, tác giả sử dụng cái bi để làm nổi bật
cái tráng nhưng sự cảm thấu về chiến tranh đã sâu hơn, gắn liền số phận dân tộc với sự suy
tư của cá nhân và số phận con người.
12
+ Thứ hai, vào những năm cuối thập kỷ 70 và đầu thập kỉ 80 của thế kỷ XX, “thơ đời
thường” xuất hiện nhiều. Trong tâm thức của các nhà thơ đong đầy bi kịch với cảm giác bế
tắc và chán nản: “Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi/ Câu trả lời thật chẳng dễ dàng
chi” (Tản mạn thời tôi sống - Nguyễn Trọng Tạo). Nguyễn Duy đã nói lên nỗi cay đắng
trong lòng khi đối diện với sự khốn nghèo và bất hạnh của con người sau chiến tranh cùng
nỗi buồn sông núi: “Ta đã xuyên suốt cuộc chiến tranh/ nỗi day dứt khôn nguôi vón sạn gót
chân/ nhói dài mỗi bước/ thời hậu chiến ta vẫn người trong cuộc/ xứ sở phì nhiêu sao thật
lắm ăn mày?” (Nhìn từ xa Tổ quốc - Nguyễn Duy).
+ Thế giới hình tượng nghệ thuật mang tính huyền thoại hóa về một hiện thực kỳ vĩ
và cảm hứng sử thi mang màu sắc lí tưởng hóa trong thi ca trước 1975 đã được thay thế bằng
hình tượng đậm chất đời thường chở nặng những mặt trái của đời sống, những thay đổi các
thang bậc giá trị và không né tránh việc nói đến những bất công trong xã hội. Đây là yếu tố
tạo nên cái tôi trong thơ sau 1975 là cái tôi đa diện, nhiều bất an, giằng xé, hướng nội.
- Cảm hứng về chiến tranh qua những khúc ca bi tráng về thân phận con người
và số phận của dân tộc
+ Trước đây, hiện thực hiện lên trong tác phẩm thường là hiện thực “nhìn thấy” thì
trong thơ sau 1975, chiến tranh chủ yếu hiện lên trong ký ức. Chiến tranh và Tổ quốc không
chỉ được nhìn từ mặt trước mà còn được nhìn từ phía sau với bao nỗi đau trĩu nặng, bao
nhức nhối khó lành được thể hiện qua chiều sâu ngẫm ngợi của nhà thơ về thế thái nhân tình
trong sự chuyển động không ngừng của lịch sử: “Núi sông cài răng lược/ Ngược xuôi trải
thành đất nước/ Đất nước/ Tượng hình xương cá/ Đêm úp/ Ngày đơm/ Nhảy vật lên bờ/
Thân gầy đét/ Cong mình chống nắng/ Lưng rộp phồng/Thâm cả trời đông/ Ròng rã tháng
năm/ Nhọc nhằn vây bủa” (Trầm tích - Hoàng Trần Cương). Với Trần Anh Thái, chiến tranh
không chỉ hiển hiện chốn xa xôi mà nó đau đáu trong ngôi làng đất Việt. Người lính ngã
xuống sẽ hòa mình vào đất nhưng nỗi đau mãi đọng lại dai dẳng, day cứa vào tâm can mỗi
con người, nhất là những người lính thới hậu chiến với nỗi cô đơn tột đỉnh của mình: “Ba
mươi lần người đời sắm ngựa hồng, giày nhung vàng mã…/ Chị chẳng có cho mình/ Nắm
đất thắp nhang riêng./ Nấm mồ có tên, làng còn tìm được linh hồn đứa con của mình/ Nhưng
còn biết bao nấm mồ vô danh khác: Cây vàng mã mua cất vào góc tủ/ Chị sợ đốt rồi hương
khói sẽ bay đâu”(Đổ bóng xuống mặt trời - Trần Anh Thái);…
+ Cảm hứng trở về với cái tôi cá nhân, những âu lo của đời sống thường nhật. Đây là
xu hướng nổi bật nhất trong thơ sau 1975. Các nhà thơ nói nhiều hơn về nỗi buồn nhân sinh,
về những cảm nhận của cái tôi trước một thực tại khắc nghiệt. Nỗi buồn ấy khởi nguồn từ sự
khủng hoảng về niềm tin, sự bất an trước thời cuộc và tác động của nền kinh tế thị trường
làm cho quan hệ giữa người với người trở nên lỏng lẻo, cô đơn hơn dù có nhiều mối quan
hệ. Đó là nỗi buồn về thần tượng bị gẫy đổ, ảo tưởng vỡ tan khi nhận ra“Chúa chỉ bằng đất
đá” (Nguyễn Trọng Tạo); Nỗi buồn vì cuộc sống mưu sinh làm cho con người phải “xa dần
truyện bớt dần thơ” (Nguyễn Duy); Niềm trắc ẩn về riêng tư, đôi lứa: “Em chết trong nỗi
buồn/ Chết như từng giọt sương/ Rơi không thành tiếng”
13
(Tặng nỗi buồn riêng - Lâm Thị Mỹ Dạ).nNữ sĩ Xuân Quỳnh cũng hơn một lần chếnh
choáng cô đơn, cái cô đơn ngay khi đang yêu, đang chìm đắm trong tình yêu giữa đời
thường rất khó lí giải: “Mùa thu nay sao bão giông nhiều/ Những cửa sổ con tàu chẳng
đóng/ Dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm/ Em lạc loài giữa sâu thẳm rừng anh” (Tự
hát). Nỗi buồn, sự cô đơn là một phạm trù thẩm mĩ và cũng là một đề tài nổi bật của thơ ca.
Tiếp nối mạch nguồn muôn thuở ấy, thơ ca sau 1975 đã thể hiện được những nỗi buồn sâu
sắc và thấm đầy chất nhân bản.
- Cảm hứng đi sâu vào những vùng mờ tâm linh đậm chất tượng trưng siêu thực
Khuynh hướng này đi sâu vào “vũ trụ người”, khám phá chiều sâu không cùng của
nó. Họ nỗ lực đào sâu vào cái tôi ẩn giấu, cố gắng phát hiện chiều sâu tâm linh của con
người. Khuynh hướng này không tập trung khai thác sự đa chiều của cái tôi bản thể trong
các quan hệ đời sống, sự tương tác giữa cá nhân với hoàn cảnh mà tập trung tìm hiểu cấu
trúc cái tôi trong quan hệ với chính nó. Ở đây, tính “tự động tâm lý” đậm màu siêu thực và
sự “ú ớ” trong cảm thức nghệ thuật được đề cao. Để đạt được điều đó, nhà thơ phải “nhập -
thấy” (Đặng Đình Hưng). Trong trường hợp ấy, thơ là hình ảnh nội tâm về thế giới nội tâm,
là ý thức chống lại các quy tắc có sẵn trong thơ, là sự khước từ sự có mặt của tư duy duy lý
trong nghệ thuật. Các nhà thơ đi theo hướng này muốn trình làng hình ảnh về con người tâm
linh. Điển hình là đoạn thơ trong bài Ô Mai của Đặng Đình Hưng:
“Cơn thể njiệm đầy triển vọng hoàn thành, thì một hôm (có lẽ tại thời tiết, jở jời) bỗng phát
sinh một số biến chứng, biến chứng từ trong ra. Hôm ấy trời se se- mùa chuyển, anh lại thấy
người gai gai khó nói - như man mác- như mây trôi- lại như trống trải cô li - như tiếng gọi
mùa:
xuân hạ thu đông
đi jiữa mùa em jó lộng
thu cùng
đi jiữa mùa xuân
jó lạnh xuân mùa
thay áo
mùa sương em
sương ngượng
ngỡ ngàng
ngấp nghé”
Đoạn thơ trên không tuân thủ cấu trúc cú pháp thông thường, sự thay đổi tâm trạng
của nhân vật trữ tình được hình dung như một biến chứng bất thường. Kiểu ký tự được tác
giả sử dụng cũng khác thường (jiữa, jó, jở jời) so với từ ngữ quen dùng. Xu hướng này hiện
diện trong thơ “vụt hiện” của Hoàng Hưng và một số thi phẩm của Hoàng Cầm, Lê Đạt,
Dương Tường… Một số câu thơ của họ khá hay nhưng nếu đẩy quá xa, xu hướng này rất dễ
rơi vào bế tắc như trước đây Xuân thu nhã tập từng một lần thất bại. Đứng trên quan điểm

14
lịch sử, đây là những cách tân cần được tôn trọng vì có những thứ cực đoan còn có ý nghĩa
hơn rất nhiều những cái “đung đúng”, chừng mực đúng nhưng vô hồn và nhàm chán.
- Cảm hứng hiện đại và hậu hiện đại
+ Xu hướng này thể hiện rõ nhất trong sáng tác của những cây bút trẻ trưởng thành
sau 1975 như Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh,
Nguyễn Hữu Hồng Minh… Về bản chất, các cây bút này muốn tạo nên màu sắc nổi loạn, thủ
tiêu mối nhân quả vẫn thường thấy trong thơ ca truyền thống, sử dụng những liên tưởng trái
chiều và nhiều kênh ngôn ngữ khác lạ để tạo nên cái mới trong thơ. Một số cây bút rơi vào
nhầm tưởng rằng đổi mới thơ theo hướng hiện đại là phải dùng những từ ngữ đậm màu sắc
“nhạy cảm”, thời thượng của thời đại thông tin, cho thêm Anh ngữ, Pháp ngữ, lên dòng,
xuống dòng một cách quá đà. Đó là thái độ gây hấn về tư duy nghệ thuật nhằm chống lại
tính hàn lâm trong nghệ thuật và nhấn mạnh sự tự do trong ý thức tạo dựng một động hình
ngôn ngữ mang tính ấn tượng cao. Ta bắt gặp những câu thơ với cách diễn ngôn lạ trong thơ
Vi Thùy Linh, hẳn dĩ, mỗi người sẽ có cách thẩm bình, ngẫm nghiệm riêng về chân giá trị
của nó: “Yêu/ tiếp tục trò chơi ma/ ý nghĩ/ Con mèo già/ Cô độc. Mắt quá sáng/ Buồn/ Vạch
khóc vào đêm” (Gửi: Ngày hôm qua). Hoặc trong bài thơ Chân dung, Vi Thùy Linh đã sử
dụng hình thức điễn ngôn gây sự chú ý: “Khỏa thân trong chăn thèm chồng/ thèm có chồng
ở bên/ chỉ cần anh gối lên đùi/ mình ôm lấy/ anh ôm mình/ biết sự bình yên của mặt đất/
trong chăn những câu nói mê tỏa hơi nước”(Chân dung). Vấn đề tính dục trong thi ca không
còn lạ lẫm, tuy nhiên cách thể hiện thì lại muôn hình vạn trạng. Với hình thức diễn ngôn
trong thơ Vi Thùy Linh đã nhận không ít ý kiến của nhà phê bình văn học. Chu Thị Thơm
cho rằng: “Cứ nhất thiết thèm chồng là cứ phải để tư duy luôn luôn với hình thể nồng nỗng,
trần truồng, hồng hộc đợi chờ bất thường như thế chăng?” Bà còn đánh giá thơ Vi Thùy
Linh “nhục cảm đã vượt qua con chữ”. Với Trần Thiện Khanh thì thơ Vi Thùy Linh “hay bị
hơi quá lửa”… Bên cạnh những ý kiến phản bác, cũng có những ý kiến động viên và khích
lệ hiện tượng thơ Vi Thùy Linh. Văn Giá cho rằng, thơ Vi Thùy Linh là “những cuộc bạo
động chữ”… “Mỗi bài thơ là mỗi trận mưa lũ ngôn từ xối xả, cuồng hứng” để biểu đạt mọi
cung bậc cảm xúc tình yêu. Và,“Tình yêu trong thơ Linh được biểu đạt bao giờ cũng theo
cách táo bạo trong ý tưởng, cuồng nhiệt trong ngôn từ và giọng điệu”.
+ Cách tân là điều cần thiết trong tiến trình hiện đại hóa thơ ca. Tuy nhiên, tính hiện
đại, hậu hiện đại trong thơ phải thể hiện được chân dung tinh thần của thời đại hậu công
nghiệp và tâm thức con người hiện nay. Điều đó đòi hỏi phải có một hình thức tổ chức diễn
ngôn mới, cách tạo âm và tạo nghĩa mới, giúp cho người đọc nhận thấy một trật tự tinh thần
mới nằm sâu trong hệ thống ký hiệu được gọi là văn bản ngôn từ. Nguyễn Đăng Điệp cho
rằng: “việc thúc đẩy tính hiện đại trong thơ không nhất thiết phải chạy theo những thời
thượng nghệ thuật mà quan trọng hơn, nhà thơ phải thể hiện được tinh thần hiện đại trong
tác phẩm của mình. Nhưng dù đổi mới thế nào đi chăng nữa thì thơ ca vẫn phải là tiếng nói
hồn nhiên nhất, nguyên sơ nhất và giàu tính nhân bản nhất của con người về cuộc sống, vì
sự cao đẹp của con người”.
15
Những cuộc tranh luận sôi nổi trên văn đàn đương đại là một bằng chứng cho sự vận
động, phát triển của thơ ca nói riêng, văn học nói chung trong tiến trình hiện đại hóa.
* Hình thức biểu hiện của thơ ca
- Sự thay đổi sâu sắc về tư duy nghệ thuật: Các nhà thơ nhìn cuộc đời bằng cái
nhìn tỉnh táo và thơ ca hiện ra như một hình thức tra vấn không ngừng về đời sống. Khát
vọng đổi mới ấy trong nghệ thuật đã được tiếp sức bởi công cuộc đổi mới của đất nước. Thơ
ca đã bắt đầu bứt thoát khỏi những trận mưa trữ tình và sự ngọt ngào thường thấy trong thơ
1945-1975 để tiến đến sự đa dạng với những câu thơ trúc trắc, mang tính đối thoại cao, góp
phần đánh thức những khát khao, những niềm trắc ẩn của con người trên cơ sở trình bày cảm
nhận của mình về các giá trị. Nỗ lực khám phá sự phong phú của “cái tôi ẩn giấu”, dám phơi
bày những bi kịch nhân sinh, hoài nghi những giá trị vốn đã quá ổn định để đi tìm những giá
trị mới và tạo ra được quan niệm riêng về đời sống.
- Sự biến đổi về tư duy thể loại
+ Thứ nhất là sự nới lỏng cấu trúc các thể thơ truyền thống: Thơ 5 chữ và 7 chữ trước
đây gắn chặt với kỹ thuật gieo vần và nhịp điệu thơ thường khá êm ả, ru vỗ nhưng 1975, tính
“điệu nói” được gia tăng và cấu trúc thể loại tựa vào nhịp nhiều hơn tựa vào vần, giọng điệu
thơ gân guốc hơn, các liên tưởng thơ ít tuân theo quan hệ nhân - quả. Thể lục bát có sự cách
tân về bài trí văn bản: bát xuống dòng theo hình thức bậc thang; hiện tượng ngắt dấu giữa
dòng đã trở nên phổ biến; bố trí theo kiểu thơ tự do. Sự thay đổi giọng điệu cũng là một thay
đổi đáng quan tâm. Song hành với chất giọng đời thường như thơ Nguyễn Duy: “Con ơi cha
mắc bệnh thơ/ u ơ ú ớ ù ờ thâm niên/ dở khôn dở dại dở điên/ động kinh lè lưỡi thánh hiền
làm oai” (Tập ru con). Nhiều cây bút lại sử dụng ngôn ngữ đậm chất tượng trưng, siêu thực
vào lục bát tạo nên sự hồn hậu và khả năng biểu đạt những tâm thức sâu thẳm của con người
hiện đại, tiêu biểu là trong thơ Hoàng Cầm:
“Nắng em nắng đến siêu hình
Như môi như mắt
như mình
như không”
(Nghĩ thương)
+ Thứ hai là sự áp đảo của thơ tự do và thơ văn xuôi. Điều này cho phép nhà thơ triển
khai tự do hơn những phức hợp cảm xúc cá nhân; thể hiện sự giao thoa thể loại, trong đó
đáng kể nhất là ảnh hưởng của chất văn xuôi vào thi ca; khiến cho giọng điệu thơ không còn
êm ái, mượt mà như trước mà trở nên thô ráp hơn, nhịp điệu thơ mang nhiều tính bất ngờ
hơn. Thơ tự do khiến cho các nhà thơ có khả năng tạo ra những cú vặn cấu trúc nhằm gây ấn
tượng cho người đọc. Trong thơ văn xuôi và thơ tự do, các nhà thơ vẫn kiên trì giữ vững tính
ẩn dụ - thể hiện rõ ở các biểu tượng giàu sức gợi, đồng thời, tổ chức nhịp điệu thơ linh hoạt
hơn. Tuy nhiên, phần nào tạo cảm giác khó đọc, khó thuộc hơn so với thơ ca giai đoạn trước.
Đây cũng chính là biểu hiện rõ nét sự vận động trong tư duy thơ, hòa nhịp với quá trình hiện
đại hóa.
16
- Sự nở rộ của trường ca – nhất là những năm cuối thế kỉ XX
Lợi thế của trường ca là độ dài, cho phép các nhà thơ có điều kiện miêu tả, tái hiện
những vùng hiện thực rộng lớn; thường dung nạp trong nó yếu tố tự sự rõ nét, thông qua các
sự kiện, biến cố xảy ra trong đời sống để trình bày những suy ngẫm của nhà thơ về dân tộc,
con người và các nhà thơ có “đất” để cùng lúc sử dụng nhiều thể thơ khác nhau như một
hình thức phô diễn các cung bậc của cảm xúc, tạo dựng tiết tấu và âm hưởng thơ.
- Sự đa dạng về phong cách và sự phong phú về giọng điệu
Ở bình diện phong cách, thơ ca sau 1975 thể hiện sự gần gũi về quan niệm và phong
cách sáng tác giữa một số nhà thơ, dễ hình thành một xu hướng, một phái nhóm chứ không
xuất phát từ một phương pháp sáng tác độc tôn nào đó như trước đây. Chính sự đa dạng và
sự “phân cực” về tư duy nghệ thuật, về khuynh hướng thẩm mĩ, về bút pháp và ngôn ngữ là
một dấu hiệu cho thấy thơ ca sau 1975 đang sải những bước chân mạnh mẽ trên con đường
hiện đại hoá. Ở bình diện giọng điệu tiêu biểu là giễu nhại và tự thú. Giọng điệu giễu nhại
làm cho thơ bớt đi sự nghiêm trang thái quá, ngôn ngữ thơ bớt đi sự “trong suốt” mà tăng
thêm chất phù sa của “cây đời”. Từ đó cho phép người đọc hình dung cuộc sống như một
thực thể đa trị, bên cạnh cái trong veo, thuần khiết là những thứ “tèm nhem tâm hồn”. Giọng
điệu tự thú gắn liền với chất hoài nghi làm tăng tính tự vấn cho thơ.
- Hình thức tổ chức ngôn ngữ thơ mới lạ
+ Thứ nhất là hệ thống ngôn ngữ thơ đậm chất đời thường. Tiêu biểu cho hướng đi
này là Nguyễn Duy và Bùi Chí Vinh. Trong bài thơ Kiêng, Nguyễn Duy viết:
“Tạnh men là tạnh la đà
Tạnh cơn một bóng ảo ra chính hình
Phàm trần bớt chút lung linh
Các em bớt xỉnh xình xinh mấy phần”
Ngôn ngữ thơ Bùi Chí Vinh cũng đậm chất đời thường nhưng có phần ít kiêng dè mà
táo tợn: “Uống li cà phê trong quán cóc/ Ngẩng đầu lên và ngó ra đường/ Các em thất tiết
nhiều hơn trước/ Bộ ngực nào cũng nhuốm phong sương” (Buồn gì đâu).
Gắn với đời sống thường nhật, không ít nhà thơ có ý thức đưa ngôn ngữ đời thường
vào thơ. Nhiều nhà thơ thích sử dụng cách nói dân gian, khiến cho thơ vừa dễ nhập vào hồn
người đọc, vừa có khả năng tạo nên tiếng cười trong thơ. Tuy nhiên, nếu sa đà quá mức thì
dễ ngả sang vè và giảm tính nghệ thuật của thi ca. Bên cạnh đó, vận dụng cách nói thường
ngày vào thơ, gia tăng tính giễu nhại trong thơ là một nhu cầu của đời sống dân chủ nhưng
nếu lạm dụng, thơ sẽ trở nên dễ dãi, đơn nghĩa trong khi bản chất của ngôn ngữ thi ca là đa
nghĩa, mơ hồ.
+ Thứ hai là ngôn ngữ giàu chất tượng trưng, đa nghĩa thường gặp ở các nhà thơ có ý
hướng cách tân, hiện đại thơ như Lê Đạt, Nguyễn Quang Thiều. Thực chất, ngôn ngữ thơ
giàu chất tượng trưng đã từng xuất hiện trong Nguyệt Cầm của Xuân Diệu, Nhạc của Bích
Khê, Màu thời gian của Đoàn Phú Tứ… Sau 1975, Lê Đạt là một trong những cây bút chủ
trương tạo sinh ngữ nghĩa, tỉnh lược từ ngữ tối đa để gia tăng tính biểu đạt của ngôn ngữ và
17
buộc người đọc phải có một “lỗ tai mới” khi đọc thơ. Ngôn ngữ tượng trưng khiến cho nghĩa
thơ trở nên mờ nhòe, độ mở của hình tượng thơ được nhân lên. Màu sắc lạ hóa trong ngôn
ngữ trở nên nổi bật. Điều đặc biệt là ngôn ngữ giàu chất tượng trưng trong thơ sau 1975
mang tâm thế của một hành trình văn hóa khác - văn hóa công nghiệp và hậu công nghiệp.
Có thể thấy rõ điều đó trong một đoạn thơ của Nguyễn Quang Thiều qua bài Độc thoại:
“Trên cánh đồng mênh mông, cỏ không đặt ra nghi lễ bốn mùa
Tôi trở về tìm nơi không có tiếng người, không có bóng cây
Bền bỉ hơn sự lặng im, lưỡi cày từ tháng giêng thuở trước
Dựng lên những luống đất của cơn mơ, người lạ đến gieo trồng”
+ Thứ ba là sự gia tăng của ngôn ngữ thân thể trong thơ. Nếu như yếu tố tính dục
trong thơ sau 1975 ở giai đoạn đầu được coi là dấu hiệu cởi mở để phá bỏ cấm kị thì những
năm cuối thế kỷ XX đến nay, việc miêu tả tính dục được đẩy lên đến mức nhiều người coi
đó là quá trình “sinh dục hoá thơ ca”. Một số cây bút không những nói đến các bộ phận thân
thể mà còn diễn tả các hành vi tính giao một cách “hiện thật” như thơ của nhóm Mở miệng
hoặc Dự báo phi thời tiết của nhóm Ngựa trời Sài Gòn. Đây là loại thơ làm phân rã người
đọc sâu sắc và vấp phải sự phản ứng gay gắt từ công chúng bạn đọc.
Nhìn một cách tổng quát, thơ sau 1975 đến nay đã vận động một cách mạnh mẽ theo
hướng hiện đại hóa. Tất nhiên, trong quá trình tìm tòi, đã xuất số ít trường hợp rơi vào cực
đoan. Tuy nhiên, với những “cực đoan lành mạnh”, ta cần trân trọng mặt tích cực của nó:
phá bỏ những điều mòn cũ một cách triệt để và rút ra một kinh nghiệm nghệ thuật để những
người đi sau tìm cách điều chỉnh hoặc tạo ra một lối rẽ khác triển vọng hơn.
1.4.2. Truyện ngắn
- Thời kì từ 1975 đến 1985 được xem là thời đoạn tiền trạm cho cái mới, bước đầu
xây nền đắp móng trong giai đoạn tiền đổi mới của nền văn học dân tộc, trong đó có truyện
ngắn. Đây là thời kì “chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến tranh sang văn học thời hậu
chiến. Tính chất chuyển tiếp này thể hiện rõ ở cả đề tài, cảm hứng, các phương tiện nghệ
thuật và cả quy luật vận động của văn học” (Nguyễn Văn Long).
- Thời đổi mới, tính từ năm 1986 đến nay, hiện thực của cuộc sống mới đặt con
người trước nhiều vấn đề nhức nhối, những lắt léo của thế sự cần giải quyết. Các nhà văn đã
dũng cảm nhìn vào sự thật, không né tránh và viết về sự thật với nhiều khuynh hướng tư
tưởng và hình thức diễn ngôn đa dạng bởi một đội ngũ nhà văn hùng hậu không ngừng được
bổ sung.
* Về phương diện khuynh hướng tư tưởng
- Khuynh hướng sử thi
Khuynh hướng sử thi, tiếp tục mạch chảy của nó trong sáng tác của nhiều nhà văn,
đặc biệt ở đội ngũ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Nhiều cây bút văn
xuôi hướng tới việc tạo dựng bức tranh toàn cảnh của cuộc kháng chiến ở tầm vóc và quy
mô lớn, tiêu biểu là tác phẩm Ông cố vấn của Hữu Mai. Độ lùi của thời gian cũng đã cho

18
phép các nhà văn đi vào những mặt trái, những góc khuất của chiến tranh. Đó là sự hy sinh
mất mát đau thương đến tột cùng bởi chiến tranh, cả những lầm lạc, hèn nhát, phản bội của
một bộ phận cán bộ, chiến sĩ - những người trong văn học cách mạng thường chỉ được phản
ánh ở sự dũng cảm, ở mặt tốt, mặt phi thường, tiêu biểu nhất là truyện ngắn Đất trắng của
Nguyễn Trọng Oánh. Có thể khẳng định, sự “dũng cảm” của nhà văn đã đem đến một “hơi
thở mới” cho văn học Nam Nam. Tuy nhiên, do bối cảnh xã hội đã thay đổi, càng về sau,
khuynh hướng sử thi càng có xu hướng co hẹp lại, nhường chỗ cho những khuynh hướng
khác.
- Khuynh hướng nhận thức lại
Truyện ngắn sau năm 1975 viết theo khuynh hướng này thường lấy những phần sâu
kín tồn tại trong quá khứ chưa được lí giải thỏa đáng làm đối tượng phân tích. Nhận thức lại
không đồng nghĩa với việc xét lại hay bắn súng đại bác vào quá khứ mà là nhờ vào kinh
nghiệm, người ta gạt bỏ cái sai lầm khỏi cái chủ quan để đi đến chân lí. Việc lấy cái nhìn
mang nhiều ưu điểm của hiện tại để soi rọi vào quá khứ nhằm tìm lại những bài học đã qua
là một việc làm quan trọng và cần thiết của người cầm bút thời đổi mới. Trước yêu cầu nhìn
thẳng sự thật, nói đúng sự thật các cây bút truyện ngắn đã nhìn lại hiện thực của quá khứ đã
bị vùi lấp bởi nhiều nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan. Những sai lầm ấu trĩ, những định
kiến hẹp hỏi của thời quan liêu bao cấp là những vật cản trên bước đường phát triển của xã
hội, đã gây nên không ít những bi kịch cho con người đã được mổ xẻ, phê phán thông qua
các tác phẩm tiêu biểu như Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh, Bi kịch nhỏ của Lê Minh
Khuê, Mảnh đạn, Tóc huyền màu bạc trắng của Ma Văn Kháng… Nếu giai đoạn trước 1975,
truyện ngắn dùng con người làm phương tiện để biểu đạt lịch sử thì sau 1975, truyện ngắn
dựa vào những thăng trầm của lịch sử để khắc họa số phận con người vẫn còn đó những éo
le, những bi kịch mà con người phải gánh chịu. Các tác phẩm thể hiện rõ nhất vấn đề này
phải kể đến Hậu duệ dòng họ Ngô Thì, Chuyện tình của mỗi người của Nguyễn Khải, Mùa
trái cóc ở miền Nam, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Cỏ lau của Nguyễn Minh
Châu, Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, Một chuyện đau lòng, Hồi ức của một binh nhì
của Nguyễn Thế Tường, Thời xa vắng của Lê Lựu, Những tháng ngày đã qua của Xuân
Thiều, Sống với thời gian hai chiều của Vũ Tú Nam,… Thông qua tác phẩm, nha văn đã đặt
ra vấn đề nhận thức lại quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa con người và hoàn cảnh nhưng
quan trọng hơn là con người tự nhận thức lại chính mình. Mục đích của người cầm bút khi
viết lại chuyện cũ, “hoàn toàn không có ý đồ xấu xa moi móc những sai lầm chúng ta đã vấp
phải để rồi đổ lỗi cho người này hay người kia mà cốt để chúng ta đừng lặp lại những sai
lầm ấy” (Võ Văn Trực). Do đó, trên lối đi mới này, các nhà văn đã đem lại cho bạn đọc
những kiến giải thú vị, có khả năng thanh lọc tâm hồn con người. Bên cạnh cảm thức phê
phán, trong một số truyện ngắn sau 1975 còn thấm đẫm giá trị nhân bản sâu sắc, thể hiện nỗi
xót xa, thương cảm với những số phận bất hạnh của con người.

19
- Khuynh hướng thế sự
Truyện ngắn theo khuynh hướng thế sự là một khuynh hướng khá phổ biến trong văn
học Việt Nam sau 1975. So với các khuynh hướng khác, truyện ngắn theo khuynh hướng
này thu hút được đông đảo người viết hơn cả, tiêu biểu như: Nguyễn Khải, Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Trần
Đức Tiến, Phạm Trung Khâu, Lưu Sơn Minh, Thái Bá Lợi… Với những cây bút này, văn
xuôi thực sự bước sang địa hạt của những vấn đề trong đời sống thường nhật.
Nếu trong chiến tranh mọi việc đều được nhận thức theo một chiều (trắng - đen, tốt -
xấu), ngay cả việc đánh giá con người cũng thông qua những chuẩn mực toàn dân thì giờ
đây trong hoà bình, những chuẩn mực cũ có những cái không còn phù hợp. Con người cần
xây dựng những chuẩn mực mới. Trên mảnh đất sôi động của cuộc sống hiện thực sau chiến
tranh, văn xuôi có những điều kiện để khái thác các vấn đề đạo đức xã hội, tiêu cực trong
quản lí sản xuất,… Với Hai người trở lại trung đoàn (1976), Thái Bá Lợi là người mở đầu
báo hiệu cuộc đấu tranh phức tạp chống lại sự sói mòn trong đạo đức của con người. Những
bông bần ly của Dương Thu Hương lại đặt ra vấn đề đạo đức và số phận con người trong
một xã hội tiêu dùng. Truyện ngắn Bức tranh của Nguyễn Minh Châu thể hiện mong muốn
của tác giả trong việc trở lại cách nhìn thông thường về chuẩn mực đạo đức đối với con
người sau chiến tranh. Hàng loạt tác phẩm tập trung khai thác những cảnh ngộ, những tình
huống giàu tình người, gợi nhiều suy nghĩ cảm thương, căm giận, phẫn uất, đem đến cho
người đọc nhiều nhận thức về tình đời, tình người, về cách ứng xử trong cuộc sống: Một bờ
cây đỏ thắm (Dương Thu Hương), Mẹ và Con (Ma Văn Kháng), Bến Quê, Đứa ăn cắp, Lũ
trẻ ở dãy K, Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu), Những trang bản thảo (Hồ Thuỷ
Giang), Mặt trời bé con của tôi (Thuỳ Linh), Người về hưu (Anh Đức) , Đi đón cơn mưa
(Vũ Tú Nam), Của để dành (Nguyễn Thị Thu Huệ), Cha tôi (Phan Thị VàngAnh), Ông đồ
(Nguyễn Phan Hách), Người muôn năm cũ (Bão Vũ), Tiếng Đỗ Quyên (Trịnh Đình Khôi) đã
tô đậm thêm thành tựu truỵên ngắn viết về về khuynh hướng thế sự.
Không ít những truyện ngắn tập trung thể hiện vấn đề tình yêu đôi lứa, những tâm tư
riêng lẻ, những khao khát thầm kín của con người để lại dư âm trong tâm thức của người đọc
như: Trái chín mùa thu, Một mình đi trong mưa, Những người đàn bà, Chọn chồng, Chị
Thiên của tôi, Một mối tình si, Nhan sắc đàn bà, Ngõ nhỏ tràn ánh trăng (Ma Văn Kháng);
Man Nương Tỉnh giấc, Soạn Vầu, Dượng Năm (Trần Đức Tiến); Nước mắt đàn ông, Còn lại
một vầng trăng, Thiếu phụ chưa chồng, Tình yêu ơi ở đâu, Biển ấm, Mùa thu vàng rực rỡ,
Cát đợi, Hậu thiên đường (Nguyễn Thị Thu Huệ); Sau những hẹn hò, Tưởng, Khi người ta
trẻ (Phan Thị Vàng Anh); Người đến từ xứ mặt trời (Mỹ Khê); Duyên nghiệp (Lưu Sơn
Minh); Bác Trượng (Lê Ngọc Minh); Hoa oải hương (Phạm Thị Ngọc Liên); Sông Lấp
(Nguyễn Bản); Lục bình (Nguyễn Quang Thân); Ngõ nhỏ (Phạm Đình Trọng); Ván cờ người
(Xuân Sách); Tình lặng (Hoàng Lan Anh)…

20
Nhìn chung, khuynh hướng thế sự tập trung khai thác những vấn đề của đời sống thế
tục đang diễn ra trong cuộc sống đời thường với bao suy tư, trăn trở của con người trên hành
trình đi tìm sự sống và hạnh phúc.
- Khuynh hướng triết luận
Vấn đề chiêm nghiệm, triết lí đã tạo nên dấu ấn phong cách trong sáng tác của những
nhà văn từng trải như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu trước đổi mới. Bước sang thời đổi
mới, nhu cầu triết luận hướng vào các vấn đề thế sự, xem xét quy luật nhân sinh từ cuộc
sống đời thường tiếp tục được các cây bút truyện ngắn khai thác, đào sâu. Những tác phẩm
đặc sắc viết về khuynh hướng này phải kể đến: Người giúp việc, Một chốn nương thân của
Ma Văn Kháng; Hậu thiên đường, Mùa đông ấm áp của Nguyễn Thị Thu Huệ; Tiếng vạc
sành, Bông hồng cài áo riêng ai của Phạm Trung Khâu; Dòng đời vô tận của Phạm Văn
Khôi; Của hồi môn của Vũ Ngọc Thanh…
Bên cạnh đó, không ít những truyện ngắn thuộc khuynh hướng này đã tập trung thể
hiện khát vọng của con người về lẽ công bằng cũng như lí giải những vấn đề đang hiện hữu
troong của cuộc sống như: Những bài học nông thôn của Nguyễn Huy Thiệp; Kẻ sát nhân
lương thiện của Lại Văn Long…
Một số truyện ngắn theo khuynh hướng triết luận khai thác về yếu tố tự nhiên, giúp
con người tìm hiểu sức mạnh của thế giới tự nhiên, về mối quan hệ giữa con người với thiên
nhiên, tiêu biểu là: Con nai vàng của Hoàng Văn Bổn, Mưa đêm, Chợ hoa phiên áp tết của
Ma Văn Kháng... Khuynh hướng triết luận những kinh nghiệm từng trải và nhu cầu nhận
thức đời sống từ quy luật phổ quát được xem là ưu điểm của ngòi bút Nguyễn Khải, Nguyễn
Minh Châu, Ma Văn Kháng. Bên cạnh đó khuynh hướng triết luận còn trở thành đặc điểm
của nhiều cây bút truyện ngắn thuộc thế hệ sau như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài,
Hoà Vang, Phan Thị Vàng Anh…
Về phương diện nội dung tư tưởng, truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975 đến nay phát
triển rực rỡ cả về số lượng lẫn chất lượng, cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Đội ngũ sáng tác
hùng hậu luôn bám sát thực tế, có nhiều tìm tòi đổi mới, tạo nên nhiều khuynh hướng tư
tưởng, giải mã những bình diện đời sống con người một cách trọn vẹn. Trong hơn hai mươi
năm tồn tại, tính chất đa diện của truyện ngắn được thể hiện rõ nét ở việc phân chia thành
các khuynh hướng sáng tác, tiêu biểu nhất là khuynh hướng sử thi, khuynh hướng nhận thức
lại, khuynh hướng thế sự và khuynh hướng triết luận, góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại
hóa văn học Việt Nam.
* Về phương diện hình thức biểu hiện
- Về cấu trúc cốt truyện
+ Truyện cực ngắn, truyện siêu ngắn (truyện mi ni)
Xu hướng viết truyện cực ngắn xuất hiện và rộ lên thành phong trào ở nước ta chủ
yếu xuất hiện từ sau 1975. Vào khoảng giữa thập kỷ 80, diễn ra cuộc thi viết truyện ngắn mi
ni trên Tạp chí Thế giới mới, phụ san của báo Giáo dục thời đại đã tạo dấu mốc và sự quan
tâm của nhiều nhà văn và độc giả Việt Nam.
21
Đặc điểm của truyện cực ngắn là sự giản lược tối đa tình huống, tình tiết, chi tiết
truyện và tạo dựng sức sống cho mình bằng ý tưởng. Tình tiết, chi tiết, tình huống trong
truyện mi ni không có giá trị tạo dựng cốt truyện mà chỉ có ý nghĩa gợi ra ý tưởng. Người
đọc chỉ cần quan tâm đến sự gợi mở của các tình tiết, chi tiết ấy là hiểu được ý tưởng của tác
giả gửi gắm. Ví dụ hai truyện mi ni dưới đây là một điển hình:

Ba nó bỏ đi lúc nó còn đỏ hỏn. Ngoại và mẹ nuôi nó trong nghèo khó. Đau khổ và
hạnh phúc. Được vài năm, cái đói nghèo cướp mất ngoại. Thiếu hơi bà, nó ngằn ngặt khóc
đêm. Mẹ chỉ ôm nó vào lòng, để tay lên ngực trái, dỗ dành “Ngoại có đi đâu! Ngoại ở đây
mà!”. Vậy là nó nín.
Rồi mẹ cũng theo bà. Hôm tang mẹ, thấy dì khóc, nó bảo “Mẹ có đi đâu! Mẹ ở đây
mà!” rồi lấy tay đặt trên ngực trái, chỗ trái tim. Nó dỗ thế mà dì chẳng nín, lại ôm nó khóc
to hơn
(Thanh Hải)
Tác giả đã tạo dựng được chi tiết vừa giàu sức khái quát vừa rất cụ thể sinh động,
mang ý nghĩa thông báo: Ba bỏ đi, Ngoại mất, Mẹ mất. Nó khóc đòi ngoại, đặt tay lên ngực
trái, chỗ trái tim;… Các nhân vật: Ba, Ngoại, Mẹ, Dì, và Nó, đều không được khắc hoạ tính
cách cụ thể mà chỉ nhắc đến. Sự lặp lại của chi tiết đặt tay lên ngực trái, chỗ trái tim đã tạo
nên hồn cốt cho tác phẩm: Tình yêu thương, sự chia sẻ, cảm thông, lòng nhân ái, chất nhân
văn làm lay động lòng người. Đó là điểm bắt đầu và là cái đích cuối cùng trong hành trình
mà tạo hoá ban cho: hành trình làm người.
Con muốn
Cu Tí, ngoài giờ học bán trú ở trường. Buổi tối và chủ nhật còn phải thêm môn học
đàn, học vẽ, học tiếng Anh. Thằng Tèo nhà bên cạnh bố mất sớm, mẹ nó phải nuôi ba đứa
em nên Tèo phải nghỉ học. Hàng ngày mỗi khi nghe thấy tiếng đàn của Tí, Tèo rón rén nép
mình bên hàng rào nhòm vô.
Nhìn ra thấy Tèo đứng đó, Tí mếu máo:
- Ba ơi, con muốn được như thằng Tèo
(Thúy Bắc)
Cái độc đáo trong truyện Con muốn của Thúy Bắc lại nằm ngoài chi tiết, từ sức gợi
của chi tiết: Tèo, đứa trẻ thiếu cha, thèm những gì mình không có; Tí - quá đủ đầy sinh ra
tâm lý ngược lại: muốn chối bỏ những điều kiện quá đủ đầy mà với tuổi thơ, đôi khi đó lại là
gánh nặng, là áp lực. Tính triết lí và chất nhân văn toát ra từ câu chuyện: Hạnh phúc thật khó
lí giải, bất hạnh của kẻ này đôi khi lại là niềm mơ ước của người kia. Đồng thời, câu chuyện
còn lan tỏa bức thông điệp đầy day dứt, xót xa: Xã hội vẫn còn nhiều những cảnh ngộ éo le!
Hãy hành động vì trẻ em! Hãy cho trẻ em một môi trường giáo dục tốt nhật chứ không chỉ
dừng ở khẩu hiệu: “Hãy giành cho trẻ em những gì tốt nhất”…Tiếng nấc thốt ra từ tiếng
cười gượng, tạo nên chất nhân văn lấp lánh cho tác phẩm.

22
+ Truyện trong truyện và truyện liên hoàn
Dạng thức truyện trong truyện và truyện liên hoàn là hình thức kéo dài truyện, chuyện
nọ kéo sang chuyện kia hoặc gối lên nhau thành các lớp truyện hoặc chuỗi truyện nhiều khi
khá phức tạp. Tiêu biểu cho kiểu kết cấu cốt truyện này phải kể đến truyện ngắn Tướng về
hưu, Truyện Con gái thuỷ thần, Những ngọn gió Hua Tát, Sang song, Thương nhớ đồng quê
… (Nguyễn Huy Thiệp:); Mười ngày, Đất đỏ, Khi người ta trẻ, Si tình, Hoa muộn (Phan Thị
Vàng Anh); truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư…
Trong truyện ngắn Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, nhà văn xây dựng một loạt
mạch truyện về các nhân vật có tên trong tác phẩm: Chuyện về tướng Thuấn, liên quan đến
chuyện về vợ tướng, con trai , cô con dâu, hai bố con người giúp việc, ông em họ xa, cô cháu
họ xa, thậm chí một kẻ tạt ngang câu chuyện như một vết nhơ như nhân vật Khổng ở xí
nghiệp nước mắm - nhà thơ cũng được tác giả tạt qua vài dòng đủ để hình dung về loại thi sĩ
kém cỏi về nhân cách. Hoặc trong truyện ngắn Những ngọn gió Hua Tát được Nguyễn Huy
Thiệp lại ghép từ 10 truyện, mỗi truyện đều có nội dung riêng, tình tiết riêng. Dù truyện có
nhiều sự kiện, mạch truyện nhưng vẫn là truyện ngắn với những yêu cầu nghiêm ngặt của thể
loại.
Trong truyện ngắn Mười ngày của Phan Thị Vàng Anh cũng được được xây dựng kiểu
cấu trúc “rời” như vậy, từng ngày một, đúng mười ngày, mười mẩu chuyện nhỏ về diễn biến
tâm lý của một cô gái chờ đời người yêu về quê nghỉ tết trong mười ngày. Hàng loạt các
truyện: Đất đỏ, Khi người ta trẻ, Si tình, Hoa muộn… cũng được đánh số các phần. Toàn bộ
truyện ngắn được “ghép” từ các mẩu chuyện nhỏ. Sự trễ nải của mạch truyện nằm trong ý đồ
của người viết, cũng là một phần tư tưởng của truyện.
Như vậy, khi “cài” các đường dây sự kiện xung quanh sự kiện, tình huống chính, tác
giả đã mở rộng phạm vi tiếp cận và phản ánh hiện thực. Kiểu truyện lồng trong truyện thể hiện
cách nhìn vừa bao quát song cũng thật cụ thể, một cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống và
con người.
+ Truyện giả thể loại: giả ngụ ngôn, giả cổ tích, giả truyền thuyết, truyện truyền
kỳ…
Các dạng thức như: ngụ ngôn, cổ tích, truyền thuyết, về mặt hình thức có dáng vẻ
giống truyện ngắn bởi dung lượng ngắn, chỉ viết về một chuyện và về một vài nhân vật,
phạm vi không , thời gian hẹp. Điểm khác biệt lớn nhất giữa truyện ngắn hiện đại với các
loại hình truyện dân gian trên là, truyện dân gian không cần quan tâm đến logíc hoặc tính
xác thực của câu chuyện. Ý nghĩa của truyện đã được định hướng sẵn và sẽ đạt tới mục đích
như ý muốn. Đặc biệt, yếu tố huyền thoại kỳ ảo tham gia như một nhân tố chính. Chẳng hạn,
trong truyện ngụ ngôn Trí khôn của ta đây, con hổ biết nói tiếng người, hiểu tiếng người nên
bị anh nông dân lừa; Truyện Thánh Gióng với việc Thánh Gióng cởi áo giáp bay về trời;
Truyện Nỏ thần với việc Thần Kim Quy hiện ra giác ngộ cho nhà vua và rẽ nước dẫn nhà
vua xuống thuỷ cung; Truyện Trầu cau, có việc ba người chết đi hoá thành trầu, cau và đá
vôi;…
23
Ở truyện ngắn hiện đại, tác giả mượn lại hình thức dân gian này để lạ hoá nội dung
câu chuyện định kể. Thứ nhất là mượn chi tiết. Họ dùng các chi tiết mang tính huyền thoại
kỳ ảo tham gia vào đường dây tổ chức cốt truyện để tạo sức lôi cuốn hoặc để tôn vinh hay
phủ định theo cách của dân gian. Để yếu tố huyền thoại có chỗ đứng trong truyện ngắn hiện
đại, các nhà văn đã sử dụng những lời đồn, nghe phong thanh, có người kể lại, dùng hình
thức giấc mơ,… Ví dụ như trong truyện Chảy đi sông ơi, Nguyễn Huy Thiệp đã sáng tạo các
chi tiết: “có người kể rằng khi lửa bốc cao thì trong quán có con chuột to bằng bắp chân
người phóng thẳng ra ngoài cứ cười hềnh hệch” nhằm ám chỉ việc chứa chấp những việc
làm phi nhân tính của lão trùm Thịnh. Trong truyện Những người thợ xẻ Nguyễn Huy Thiệp
lại sử dụng chi tiết nhóm thợ xẻ được đi trên cầu vồng bảy sắc cũng là cách bày tỏ thái độ
khen ngợi những con người có cái tâm thiện theo cách ứng xử truyền thống của dân gian. Ở
truyện Hồn trinh nữ, Võ Thị Hảo sáng tạo giấc mơ của nhân vật cô cháu gái cũng là một
cách bộc lộ quan niệm về vẻ đẹp của tình yêu gắn với nghĩa vụ công dân trong hoàn cảnh
đất nước có đang có kẻ thù xâm lược… Thứ hai là mượn lối viết. Dù rằng, những câu
chuyện hư cấu và tưởng tượng hoàn toàn nhưng các tác giả lại mượn lối viết chép lại, có căn
cứ, có tài liệu, có địa chỉ cụ thể, thậm chí còn dựng gia phả dòng họ như Nguyễn Huy Thiệp
viết Giọt máu, Phẩm tiết, Kiếm sắc, Nguyễn Thị Lộ, Chút thoáng Xuân Hương … Thông qua
cách viết này, nhà văn không chỉ làm sống lại những thông tin lịch sử khô khan mà còn tạo
sắc thái hư hư thực thực cho những câu chuyện bịa đặt thêm phần hấp dẫn với độc giả.
- Sự vận động đổi mới ở phương diện trần thuật
+ Trần thuật từ nhiều điểm nhìn, nhiều góc độ, hay trần thuật “nhập vai”. Trần thuật
linh hoạt khi vai trò phát ngôn được trao cho nhiều người, nhiều đối tượng trong tác phẩm.
+ Trần thuật bằng dòng ký ức nội tâm giúp cho tá giả khách quan hoá nội dung hiện
thực trong tác phẩm hoặc tha hồ khám phá miền ẩn ức bên trong của tâm hồn con người.
+ Gián cách thời gian trần thuật giúp cho tác giả cho xuất hiện ba lớp thời gian, thế
nhưng không phải kiểu thời gian đồng hiện hoặc liên tưởng của ký ức.
+ Ngôn ngữ đời thường - gia tăng tính khẩu ngữ trong tác phẩm, tạo được sự gần gũi
với đời thường, chân thật trong giọng điệu nhưng có phần thô ráp trong từ ngữ.
+ Ngôn ngữ tăng cường tính tốc độ, thông tin và triết luận. Tính tốc độ thể hiện ở cách
vào truyện nhanh, diễn đạt ngắn gọn, nén thông tin khiến cho lượng thông tin đạt đến mức
tối đa nằm ở một thứ ngôn ngữ đa nghĩa, nhiều ngụ ý, đem lại cho các tác phẩm ý vị triết lý
và giá trị phổ quát.
Tựu trung, truyện ngắn từ sau 1975 đến nay đã tạo được nhiều thành tựu cả về nội
dung tư thưởng lẫn hình thức biểu hiện. Các cây bút truyện ngắn đã chắt lọc nguồn chất liệu
từ hiện thực đời sống để truyền tải những niềm vui, nỗi buồn, sự trăn trở suy tư, khát vọng
đau đáu của con người, tạo nên chất nhân văn lấp lánh trên từng trang viết.

24
1.4.3. Tiểu thuyết
- Hòa mình vào dòng chảy của quá trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc, thể loại tiểu
thuyết sau 1975 đến hết thế kỉ XX cũng để lại nhiều thành tựu đáng trân trọng. Thời kì từ
1975 đến 1985 là giai đoạn dò đường nhưng từ 1986 đến nay, tiểu thuyết mới thực sự đổi
mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu vượt bậc. Đạt được thành tựu ấy là xuất phát từ tư duy
đổi mới của Đảng tác động đến đời sống văn học; từ nhu cầu thúc bách về sự đổi mới văn
học của người cầm bút; từ đặc trưng thể loại tiểu thuyết - tiểu thuyết mang tính dân chủ nhất
trong các thể loại văn học bởi “tiểu thuyết khước từ cái nhìn nguyên phiến, đơn diện, một
chiều” (M. Bakhtin) nay lại bắt gặp luồng tư tưởng phức hợp của con người thời đại: con
người đời tư với những âu lo, bi kịch; con người tự nhiên với những khát vọng bản năng
thầm kín; con người hoài nghi, bất an… Bên cạnh đó, sự giao lưu và hội nhập với văn học
thế giới ngày càng sâu rộng đã giúp cho nhà văn tiếp nhận nhanh chóng thành tựu văn học
thế giới, tạo tâm thế tự tin để đổi mới lối viết, cách viết, tiệm cận với tư duy nghệ thuật của
thế giới đương đại trên nền tảng của triết học, mỹ học nhân văn, nhân bản và những giá trị
bản sắc dân tộc Bốn yếu tố trên là căn nguyên thúc đẩy sự phát triển vượt bậc của thể loại
tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 đến nay.
* Về phương diện đề tài rất phong phú và đa dạng
- Đề tài nông thôn
Phản ánh, cảnh báo những xung đột, hủ tục, cái xấu, cái ác, tiêu cực ở nông thôn;
Nông thôn trong thời chiến tranh và hậu chiến với nhiều thương tích, bi kịch và tha hóa; Cải
cách ruộng đất từ cái nhìn phản tỉnh đã đi sâu vào việc truy tìm và lý giải những bi kịch của
người nông dân và nông thôn thời cải cách ruộng đất.
Điểm lại tiểu thuyết trước cách mạng tháng Tám, chúng tá thấy các nhà văn tập trung
thể hiện xung đột giữa nông dân với cường hào địa chủ, quan lại và những bi kịch của họ:
Tắt đèn, Việc làng của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Vỡ đê của
Vũ Trọng Phụng. Bước sang thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiểu thuyết phản
ánh những xung đột giữa tư hữu và công hữu, giữa lợi ích cá nhân và tập thể, giữa bảo thủ
và tiến bộ; là ca ngợi nghị lực, quyết tâm xây dựng cuộc sống mới với tinh thần làm chủ tập
thể: Cái sân gạch của Đào Vũ, Tầm nhìn xa của Nguyễn Khải, Bão biển của Chu Văn, Đất
làng của Nguyễn Thị Ngọc Tú, thân phận người phụ nữ gắn liền vời hủ tục liên quan đến
hôn nhân qua Đi bước nữa của Nguyễn Thế Phương.
Thời kì từ 1975 đến 1985, đời sống xã hội ở nông thôn không có nhiều thay đổi theo
hướng tích cực và nảy sinh những tiêu cực do sự suy thoái kinh tế trầm trọng. Đặc biệt là từ
1986 đến nay, tiểu thuyết viết về nông thôn nở rộ với khá nhiều xu hướng: phản ánh, cảnh
báo những xung đột, hủ tục, cái xấu, cái ác, tiêu cực ở nông thôn: Mảnh đất lắm người nhiều
ma của Nguyễn Khắc Trường, Ma làng của Trịnh Thanh Phong, Giã biệt bóng tối của Tạ
Duy Anh; nông thôn trong thời chiến tranh và hậu chiến với nhiều thương tích, bi kịch và tha
hóa: Bến không chồng của Dương Hướng, Dòng sông mía của Đào Thắng, Gia phả của đất

25
của Hoàng Minh Tường … Mảng tiểu thuyết viết về cải cách ruộng đất từ cái nhìn phản tỉnh
đã lý giải những bi kịch của người nông dân thời cải cách ruộng đất như Chuyện làng Cuội
của Lê Lựu, Lão Khổ của Tạ Duy Anh, Ba người khác của Tô Hoài, …
Từ những hủ tục tồn tại dai dẳng, hậu quả chiến tranh, đời sống khổ cực và ấu trĩ thời
bao cấp, do một số sai lầm trong cải cách ruộng đất, do sự tha hóa của con người… đã tạo
nên mảnh đất màu mỡ để các cây bút tiểu thuyết thể hiện tài năng của mình về đề tài nông
thôn.
- Đề tài chiến tranh
Đây là đề tài trung tâm trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 và nó tiếp tục là
một đề tài lớn của văn học Việt Nam sau 1975. Đề tài này chính là nơi thử bút của nhiều nhà
văn, đưa họ trở thành những tên tuổi lớn của nền văn học: Nguyễn Đình Thi, Hữu Mai, Tô
Nhuận Vỹ, Nguyễn Quang Sáng, Nguyên Ngọc, Anh Đức, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu,
Chu Lai, Bảo Ninh, Lê Lựu,….
Năm 1986 như một bản lề khép, mở các chủ đề văn học khác nhau về đề tài chiến
tranh: sử thi - phi sử thi, lý tưởng hóa - hiện thực hóa, cái nhìn luân lí - cái nhìn nhân bản…
cùng với độ lùi của thời gian đã tạo điều kiện để các cây bút tiểu thuyết suy ngẫm sâu sắc
hơn về dân tộc, về thân phận con người, về kết quả và hậu quả của chiến tranh, về sự vinh
quang và tinh thần hòa giải… tạo nên những kì tích trong sáng tạo nghệ thuật. Có thể kể đến
những tác phẩm tiêu biểu như: Thời xa vắng của Lê Lựu, Ăn mày dĩ vãng, Ba lần và một lần
của Chu Lai, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Rừng thiêng nước trong của Trần Văn
Tuấn, Tàn đen đốm đỏ của Phạm Ngọc Tiến, Góc tăm tối cuối cùng, Những bức tường lửa,
Đối chiến của Khuất Quang Thụy, Bến đò xưa lặng lẽ của Xuân Đức, Vùng lõm của Nguyễn
Quang Hà, Vùng sâu của Tô Nhuận Vỹ, Trong nước giá lạnh của Võ Thị Xuân Hà, Hoang
tâm của Nguyễn Đình Tú, Mình và họ của Nguyễn Bình Phương…
Nhiều vấn đề được đặt ra trong tiểu thuyết về chiến tranh sau 1986 thể hiện nỗ lực đổi
mới vượt bậc của các nhà văn. Đọc trong tiểu thuyết về chiến tranh sau 1986, người đọc cảm
nhận được những vấn đề sâu sắc liên quan đến số phận con người. Hậu quả ghê gớm của
chiến tranh, sự tàn phá thiên nhiên, hủy diệt sự sống, tình yêu và nhân cách con người và
những di chứng của nó, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là một điển hình. Bi kịch của
người lính trở về môi trường nông thôn sau khi kết thúc chiến tranh qua Bến không chồng
của Dương Hướng. Bi kịch của người lính xuất thân từ môi trường nông thôn nặng nề hủ
tục, dù chân thành nhưng phải sống trong môi trường ấu trĩ, bản tính lương thiện, chất phác
nhưng thiếu tự tin, lối sống đơn giản, xuề xòa dẫn đến hệ quả luôn gặp bất hạnh trong tình
yêu và hạnh phúc gia đình qua Thời xa vắng của Lê Lựu. Sự cố tình lãng quên quá khứ một
thời gian khổ, hào hùng do sự choáng ngợp trước cuộc sống thời bình, dẫn đến sự chối bỏ
chính mình, chối bỏ đồng đội qua Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai. Đối với người lính, kinh qua
trận mạc, điều có thể tha thứ là những lỗi lầm, thậm chí là sai lầm của chuyện riêng tư của cá
nhân, còn cái không thể tha thứ khi điều đó làm tổn thương đến lòng tự tôn dân tộc, Ba lần
và một lần của Chu Lai đã khơi sâu vấn đề này. Tình đồng chí, đồng đội, những cái chết
26
rùng rợn, tội ác của kẻ thù, sự cao thượng của người lính cách mạng qua Tàn đen đốm đỏ
của Phạm Ngọc Tiến. Ngay cả những tác phẩm vẫn ít nhiều giữ âm hưởng sử thi thì cái nhìn
về “phe ta” và “phe địch” cũng có nhiều thay đổi so với trước. Nhân vật “phe ta” không hiện
diện như những con người được lý tưởng hóa, bao gồm sự kết hợp những nét đẹp về ngoại
hình, về tính cách, tâm hồn, về thành phần xuất thân, mà là những con người bình thường,
với những khiếm khuyết hoặc về ngoại hình, hoặc về tính cách, hoặc nguồn gốc xuất thân,
có nghĩa họ không phải là những con người đẹp toàn diện như những viên ngọc không tì vết
qua Khúc bi tráng cuối cùng của Chu Lai, Những bức tường lửa của Khuất Quang Thụy,
Rừng thiêng nước trong của Trần Văn Tuấn, Bến đò xưa lặng lẽ của Xuân Đức. Ngược lại,
nhân vật phe địch cũng không phải những con người xấu toàn diện, mà họ cũng là những
con người bình thường, trong chiến trận biết xông pha, trong đời thường cũng có tình cảm
với gia đình, vợ con, cũng có tâm hồn lãng mạn tiêu biểu như Thượng Đức của Nguyễn Bảo,
Ngày rất dài của Nam Hà, Xuân Lộc của Hoàng Đình Quang. Trong cái nhìn của một số nhà
văn đương đại, kẻ thù của chúng ta ở bên kia chiến tuyến cũng có một số nét tính cách tích
cực, họ là những người có suy tư, có khát vọng hòa bình. Họ không phải là những kẻ khát
máu, điên cuồng trong cuộc chiến, nhưng họ thất bại vì không có sự cộng hưởng của cộng
đồng, tiểu thuyết Đối chiến của Khuất Quang Thụy đã thể hiện khá sắc sảo vấn đề này.
Tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975, đặc biệt là từ 1986 đến nay đã thể hiện cái nhìn
đầy suy ngẫm trên tầm triết mỹ của nhà văn sự sống - cái chết, chiến tranh - hòa bình, quá
khứ - hiện tại trong một tư duy gợi mở, đầy tính đối thoại.
- Đề tài lịch sử
Lịch sử là hiện thực gián cách với con người hiện tại, nhưng đối với các nhà tiểu
thuyết, lịch sử không hẳn là chuyện đã qua, mà lịch sử còn là thực tại đầy sống động. Bởi vì
lịch sử là nơi để các nhà văn lấp đầy các khoảng trống về tư tưởng, tâm lý, tình cảm, khát
vọng của con người và của chính mình. Bước vào giai đoạn đổi mới, nhiều vấn đề xã hội và
con người nảy sinh, nhiều câu hỏi được đặt ra từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn nhưng chưa có
lời giải: số phận con người trong dòng lịch sử, con người và quyền lực, đổi mới và hội nhập,
sự tồn vong của dân tộc trong hoàn cảnh bị ngoại bang xâm chiếm,…
Từ năm 1986 đến nay đã có hàng trăm tiểu thuyết lịch sử được xuất bản, tiêu biểu là:
Mưu sĩ Quang Trung: Trần Văn Kỷ (Hoài Anh), Khúc khải hoàn dang dở (Hà Ân), Tây Sơn
bi hùng truyện (2 tập) (Lê Đình Danh), Đất trời (Nam Dao ), Lê Lợi, Bà Triệu (Hàn Thế
Dũng), Mười hai sứ quân (Vũ Ngọc Đĩnh), Sông Côn mùa lũ (Nguyễn Mộng Giác), Tám
triều vua Lý, Bão táp triều Trần (Hoàng Quốc Hải), Đàn đáy (Trần Thu Hằng), Giàn thiêu
(Võ Thị Hảo), Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh),
Thế kỉ bị mất (Phạm Ngọc Cảnh Nam), Huyền Trân (Nguyễn Hữu Nam), (2003), Chiếc ngai
vàng, Lý Công Uẩn (Ngô Văn Phú), Kinh đô rồng, Một thời vàng son, (Nguyễn Khắc Phục),
Nguyễn Du (Nguyễn Thế Quang), Anh hùng Tiêu Sơn, (Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ), Bí mật
hậu cung, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn), Con ngựa Mãn Châu, Hội thề
(Nguyễn Quang Thân), Hồn thiêng sông núi (Hoàng Tiến), Khói mây Yên Tử (Vũ Ngọc
27
Tiến), Sắc đẹp khuynh thành (Kiều Thanh Tùng), Thất thủ kinh đô Huế 1858, Tình sử Mỵ
Châu (Thái Vũ), Sương mù tháng giêng của Uông Triều… các nhà tiểu thuyết đương đại
không xem lịch sử như một đối tượng cần phải tập trung làm sáng tỏ mà là như một sự gợi ý
cho về thế sự, nhân sinh; Bài học về sự canh tân đất nước và bi kịch của triều đại nhà Hồ
dưới sự dẫn dắt của nhà cải cách Hồ Quý Ly được Nguyễn Xuân Khánh miêu tả và lý giải
thấu đáo: tư tưởng và bản lĩnh của nhà cải cách là rất cần nhưng chưa đủ, vì nếu không thu
phục được lòng dân, không chú ý lợi ích của dân chúng thì những chủ trương dù tốt đẹp vẫn
có thể bị thất bại, Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh đã giải quyết thấu triệt vấn đề này. Bi
kịch nhân sinh của con người nuôi giữ lòng thù hận, từ chối cả tình yêu để theo đuổi sự trả
thù, cuối cùng khi học được cách trả thù thì thân xác cũng trở nên tàn tạ, nhưng đây cũng
chính là con đường dẫn Từ Lộ đến sự giác ngộ, trở thành người tu hành đắc đạo qua Giàn
thiêu của Nguyễn Xuân Khánh. Bản sắc văn hóa dân tộc như một sức mạnh tinh thần bền
vững có khả năng chống lại mọi sự xâm lăng và đồng hóa của ngoại bang qua Mẫu Thượng
Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh. Phật giáo khi được bản địa hóa trở thành tín ngưỡng văn
hóa thì nó trường tồn và đồng hành cùng dân tộc, giúp con người cân bằng tâm lý, để sinh
tồn qua Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh …
Tiểu thuyết về lịch sử sau 1975, đặc biệt từ 1986 vừa kế thừa mạch sử thi trước 1975,
mặt khác tập trung miêu tả con người trong dòng lịch sử - đặt con người ở các góc nhìn khác
nhau để lột tả những góc khuất chưa được lịch sử hé mở bằng cảm hứng nhân văn. Trong tư
duy hậu hiện đại, tiểu thuyết lịch sử cũng hướng đến đời thường hóa nhân vật lịch sử - chú ý
cả những biểu hiện có tính bản năng của con người. Vấn đề này cũng được thể hiện rõ qua
tác phẩm Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Hội thề của Nguyễn Quang Thân,…
Tóm lại, tiểu thuyết lịch sử sau 1975 đến nay không xem lịch sử như một đối tượng
cần phải tập trung làm sáng tỏ mà là như một sự gợi ý cho sự liên tưởng và khái quát về thế
sự, nhân sinh; Miêu tả con người trong dòng lịch sử.
- Đề tài đô thị
Đời sống đô thị hiện đại tạo dấu ấn mạnh mẽ về sự năng động và tiến bộ của người
Việt trong giai đoạn sau đổi mới. Quá trình tái đô thị hóa, do chuyển đổi từ hoàn cảnh thời
chiến sang thời bình, từ nền kinh tế bao cấp sáng kinh tế thị trường… đã nảy sinh cả yếu tố
tích cực và yếu tố tiêu cực. Không thể phủ nhận quá trình đô thị hóa đã khiến cho các tệ nạn
xã hội khó kiểm soát; đạo đức xuống cấp; lối sống thực dụng lên ngôi; chuẩn mực xã hội bị
hiểu một cách lệch lạc; vấn nạn liên đến quyền lực; sức mạnh của đồng tiền; sự vô cảm và
lối sống bản năng buông thả làm tha hóa con người… đã trở thành nguồn cảm hứng để các
nhà tiểu thuyết bung tỏa tài năng sáng tạo. Tác phẩm tiêu biểu cho đề tài này phải kể đến:
Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng, Một cõi nhân gian bé tí của Nguyễn
Khải, Phố của Chu Lai, Sóng ở đáy sông, Hai nhà của Lê Lựu, Ngồi của Nguyễn Bình
Phương, Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh, Cõi người rung chuông tận thế, SBC là săn
bắt chuột của Hồ Anh Thái, Nháp, Kín của Nguyễn Đình Tú, Bloger, Vực gió của Phong

28
Điệp, Tường thành của Võ Thị Xuân Hà, Gia đình bé mọn của Dạ Ngân, Cửa hiệu giặt là
của Đỗ Bích Thúy…
Trong các sáng tác về đề tài đô thị đương đại, có một mảng viết về chuyện đồng tính
hoặc liên quan đến chuyện đồng tính như Một thế giới không có đàn bà, Les-Vòng tay không
đàn ông của Bùi Anh Tấn, Bóng - tự truyện của Nguyễn Văn Dũng do Hoàng Nguyên, Đoan
Trang viết, 198X của Quỳnh Trang, Lạc giới của Thuỷ Anna, Song song của Vũ Đình Giang,
Không lạc loài - tự truyện của Thành Trung do Lê Anh Hoài viết, Xin lỗi em, anh đã yêu anh
ấy, Chuyện tình của Lesbian và Gay của Nguyễn Thơ Sinh,… Do cái nhìn có phần kỳ thị
của xã hội về người đồng tính nên đề tài viết về đồng tính ở nước ta xuất hiện muộn hơn so
với thế giới. Sau đổi mới, khi xã hội chấp nhận và tôn trọng quyền riêng tư của người đồng
tính, thì đề tài này trở nên bình thường trong đời sống văn học. Tiểu thuyết viết về đề tài này
thể hiện cái nhìn đồng cảm, chia sẻ về thân phận hoặc miêu tả các biến thái tâm lý của nhân
vật qua những mối quan hệ phức tạp, thường được che dấu do mặc cảm dị biệt. Tác phẩm
viết về đồng tính thường gắn với vấn đề tính dục và sự cô đơn của con người, có khi kèm
thêm chuyện phạm tội do mặc cảm tâm lý gây bức xúc, dẫn đến tội ác. Khi viết về đề tài
này, rất cần sự thấu cảm và trái tim nhân ái của nhà văn.
Đề tài đô thị tập trung đến vấn nạn liên quan đến quyền lực, đồng tiền, sự vô cảm và lối
sống bản năng buông thả làm tha hóa con người. Chuyện đồng tính hoặc liên quan đến
chuyện đồng tính cũng là một nguồn cả hứng đậm chất nhân văn.
Như vậy, qua hệ thống chủ đề của tác phẩm cho thấy sự thay đổi rõ rệt của tiểu thuyết
Việt Nam từ sau 1975 và nhất là từ 1986 đến nay. Sự thay đổi chủ đề cũng đồng thời làm
thay đổi quan niệm về con người. Con người bản năng, tự nhiên cùng với con người ý thức,
xã hội tạo nên sự hoàn thiện trong quan niệm về con người, giúp nhà văn biểu đạt một thế
giới phồn tạp như chính cuộc sống đương đại. Điều này cho thấy sự đóng góp không nhỏ của
tiểu thuyết đương đại Việt Nam trong tiến trình hiện đại hóa.
* Về phương thức nghệ thuật
- Tiểu thuyết đương đại xuất hiện yếu tố ảo với tần xuất cao trong các chi tiết về
không gian, thời gian và nhân vật. Yếu tố tâm linh, ảo hóa có chức năng cảnh báo cái xấu,
cái ác. Cái ảo xuất hiện trong tác phẩm tả thực, một phần là để hạn chế sự trần trụi, nghiệt
ngã của cái thực, một phần là để góp phần lột tả cái thực một cách thực hơn (Dòng sông mía
của Đào Thắng). Theo Phương Lựu: “Nếu chủ nghĩa hiện đại thường tỏ ra ưu tư chán
chường trước trạng thái tha hóa của nhân sinh, thì chủ nghĩa hậu hiện đại càng dị thường
hóa, ảo giác hóa sự tha hóa đó để vừa lấy làm thú vị, vừa khiếp sợ”.
- Sử dụng kiểu kết cấu lắp ghép, phân mảnh của văn học hậu hiện đại. Kiểu kết cấu
này dựa trên kỹ thuật lắp ghép (collage) của nghệ thuật điện ảnh. Điều này dẫn đến cấu trúc
truyện có vẻ rời rạc, lỏng lẻo. Nội dung được kể không tuân theo logic nhân quả, ảo và thực
đan xen nhau, các đoạn hội thoại không đặt nặng tính hô ứng rõ rệt và câu chuyện thường
hình thành theo kiểu chuyện nọ xọ chuyện kia, hình thức truyện lồng truyện được sử dụng

29
với tần xuất cao. Trong một tác phẩm có thể tồn tại nhiều chuyện khác nhau, người kể cũng
thay đổi: Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Khải huyền muộn của Nguyễn Việt Hà, Thoạt
kỳ thủy của Nguyễn Bình Phương,… tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn đối với người đọc.
- Sử dụng linh hoạt hai phương thức trần thuật từ ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba, bằng
cách thực hiện luân phiên điểm nhìn. Sự luân phiên điểm nhìn trong tác phẩm tạo cho tiểu
thuyết đa thanh, phức hợp: Thiên thần sám hối, Giã biệt bóng tối của Tạ Duy Anh, Khải
huyền muộn của Nguyễn Việt Hà, Hồ Quý Ly, Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh,
Kể xong rồi đi, Mình và họ của Nguyễn Bình Phương,… Đây là sự nỗ lực lớn của khá nhiều
nhà văn sau 1986 trong sáng tạo nghệ thuật rất đáng ghi nhận.
- Đổi mới trong thế giới ngôn từ. Các nhà tiểu thuyết đương đại tận dụng tối đa các
thủ pháp so sánh, ví von, giễu nhại với các kiểu lời văn trần thuật, lời văn đối thoại, độc
thoại.., tạo được sự dí dỏm, thâm sâu, mới lạ cho tác phẩm, khẳng định sự nỗ lực cách tân
của nghệ thuật tiểu thuyết đương đại như Thoạt kỳ thủy, SBC là săn bắt chuột, Nỗi buồn
chiến tranh, Song song… Bên cạnh đó, trong tiểu thuyết đương đại cũng xuất hiện khá nhiều
từ ngữ thông tục - những câu chửi thề, những từ chỉ các bộ phận kín đáo của con người,
những từ ngữ chỉ hoạt động bản năng nhằm tạo khí vị đại chúng và tinh thần giải thiêng cho
tác phẩm - không tuyệt đối hoá cái cao cả, cái phi thường của sử thi và lãng mạn trong các
tác phẩm Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh, Ngồi của Nguyễn Bình Phương, Hội thề của
Nguyễn Quang Thân,... Lớp ngôn ngữ vô thức cũng được các nhà tiểu thuyết đương đại đưa
vào trong tác phẩm của mình nhằm biểu đạt trạng thái phi logic trong tâm lý con người,
những khát vọng không thành hiện thực, phù hợp với việc miêu tả con người bản năng, con
người tâm linh trong một thế giới bất an và đầy dục vọng trong các tác phẩm Thoạt kỳ thủy,
Đội gạo lên chùa, Dòng sông mía, Bến không chồng, Tàn đen đốm đỏ… tạo dấu ấn đổi mới
về phương diện ngôn ngữ tiểu thuyết.
Tóm lại, xét một cách tổng quát, chúng ta nhận thấy tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975,
đặc biệt là từ thời kì đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu, để lại nhiều dấu ấn nổi bật cả về
bình diện nội dung lẫn hình thức biểu hiện. Đội ngũ nhà văn ngày càng được bổ sung đông
đảo, nhiệt huyết, tạo được phong cách riêng độc đáo, góp phần không nhỏ vào tiến trình hiện
đại hóa nền văn học Việt Nam.
1.4.4. Kịch
Thể loại kịch từ sau 1975 đến nay cũng tác động khá lớn đến công chúng khi dám
mạnh dạn xông vào nhiều vấn đề bức xúc của đời sống xã hội đương thời.
- Xuân Trình (Thời tiết ngày mai, Mùa hè ở biển, Đợi đến mùa xuân)
- Doãn Hoàng Giang và Võ Khắc Nghiêm (Nhân danh công lý)
- Lưu Quang Vũ (Tôi và chúng ta; Khoảnh khắc và vô tận; Hồn Trương Ba, da hàng
thịt…)
Nhìn chung, hòa vào dòng chảy của sự vận động và phát triển của nền văn học dân
tộc, thể loại kịch từ sau 1975 đến nay đã phơi bày, phê phán nhiều cái tiêu cực, trì trệ, bảo

30
thủ trong xã hội, đồng thời đặt ra những vấn đề hệ trọng về nhân cách, đạo đức của con
người trong hoàn cảnh mới.
1.5. Kết luận chung
- Văn học Việt Nam từ sau 1975 có một vị trí quan trọng trong tiến trình văn học dân tộc thế
kỷ XX.
- Từ sau năm 1975 văn học chuyển sang giai đoạn hậu chiến và từ giữa những năm 80 bước
vào thời kỳ đổi mới.
- Văn học Việt Nam từ sau 1975,nhất là từ những năm 80 trở lại đây, đã đi những bước tiến
xa hơn trên con đường hiện đại hóa nền văn học dân tộc, để hòa nhập đầy đủ và tiến trình
văn học thế giới.
- Giai đoạn văn học từ sau 75 không chỉ hoàn thành tiến trình văn học Việt Nam thế kỷ XX
mà còn mở ra bước phát triển tiếp theo trong thế kỷ mới với một điểm cảnh phong phú và
nhiều hứa hẹn.

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 1

CÂU NỘI DUNG CĐR HP


1.1 Theo anh/ chị, những yếu tố nào ảnh hưởng đến nền văn học Việt
CO1, CO2,
Nam từ 1975 đến nay?
CO5, CO6

1.2 Phân tích những đặc điểm cơ bản Việt Nam giai đoạn 1975 đến
CO1, CO2,
nay?
C03

1.3 Anh/ chị hãy trình bày những thành tựu nổi bật của các thể loại của
văn học Việt Nam từ 1975 đến nay? CO1, CO2

1.4 Vị trí của Việt Nam giai đoạn 1975 đến nay trong nền văn học dân CO1, CO2,
tộc? CO5, CO6

31
Chương 2: Một số đặc điểm về thi pháp và cuộc tranh luận có tính chất
tìm đường đổi mới của văn học Việt Nam sau 1975

2.1. Vài đặc điểm về thi pháp văn học Việt Nam từ sau 1975 đến nay
2.1.1. Khái niệm về thi pháp
- Thuật ngữ thi pháp và thi pháp học hiện nay đã không còn xa lạ với những người
làm công tác nghiên cứu khoa học nữa. Theo GS Trần Đình Sử trong chuyên đề Một số vấn
đề thi pháp học hiện đại, đã đưa ra hai cách hiểu về khái niệm thi pháp: “một là hiểu thi
pháp như là nguyên tắc, biện pháp chung làm cho văn bản, phát ngôn trở thành tác phẩm
nghệ thuật… Hai là hiểu thi pháp như là những nguyên tắc, biện pháp nghệ thuật cụ thể tạo
thành đặc sắc nghệ thuật của một tác phẩm, tác giả, thể loại, trào lưu… Cả hai cách đều có
chung mục đích khám phá các nguyên tắc phổ quát hoặc cụ thể, lịch sử làm thành nghệ
thuật”. Tác giả Đỗ Đức Hiểu trong cuốn Thi pháp hiện đại, cho rằng: “thi pháp là phương
pháp tiếp cận, tức là nghiên cứu, phê bình tác phẩm văn học từ các hình thức biểu hiện bằng
ngôn từ nghệ thuật, để tìm hiểu các ý nghĩa hiển hiện hoặc chìm ẩn của tác phẩm…”
- Như vậy, chúng ta có thể khái quát ngắn gọn: thi pháp là hệ thống các phương thức,
phương tiện biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học nhằm
hướng tới việc tìm hiểu các tầng ý nghĩa trong một tác phẩm văn học thông qua các yếu tố
như ngôn từ nghệ thuật; thế giới nghệ thuật (nhân vật, cốt truyện, các chi tiết được mô tả,
thời gian và không gian nghệ thuật); kết cấu của tác phẩm… Ở phạm vi học phần này, chúng
tôi chỉ tập trung điểm qua một số bình diện thi pháp nổi bật.
2.1.2. Một vài đặc điểm thi pháp trong văn học Việt Nam từ sau 1975 đến nay
* Về phương diện ngôn ngữ
Mỗi nhà văn trước hết phải là một nhà nghệ sĩ của ngôn từ. Bởi ngôn ngữ có vai trò
hết sức quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật, nó là yếu tố đầu tiên của văn học. Ngôn ngữ là
chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của văn học. M.Gorki đã nói: “Ngôn
ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học”. Nhà văn muốn có tác phẩm hay thì trước tiên phải có
được một hệ thống ngôn từ phong phú, có phong cách riêng bằng cách liên tục trau dồi, học
hỏi từ nhiều nguồn, cả trong sách vở lẫn ngoài thực tế. Việc tiếp cận dưới góc độ thi pháp sẽ
giúp chúng ta tìm hiểu văn bản tác phẩm qua phân tích các biểu hiện nghệ thuật ngôn từ của
tác phẩm để khám phá các lớp ý nghĩa, tư tưởng của tác phẩm.
- Văn học Việt Nam từ sau 1975, nhất là từ thời kì đổi mới, bên cạnh việc phát huy hệ
thống ngôn ngữ trau chuốt đã có sự gia tăng lớp ngôn ngữ đậm chất đời thường vào tác
phẩm của mình. Tuy nhiên, các nhà văn không còn quá dụng công trong việc trau truốt lựa
mĩ từ ngữ mà đã mạnh dạn đưa vào tác phẩm những lời ăn tiếng nói trong sinh hoạt hàng
ngày, suồng sã, tự nhiên, thậm chí có lúc trần trụi và có phần thô tục (Nguyễn Bình Phương,
Tạ Duy Anh, Vi Thùy Linh…)
32
* Về phương diện kết cấu
- Kết cấu làm nhiệm vụ như mối liên kết giữa các yếu tố nội dung và hình thức trong
một tác phẩm văn học, có vai trò quan trọng trong việc định hình tác phẩm, xây dựng hình
tượng và sự phát triển của sườn cốt truyện.
- Kết cấu trong văn học Việt Nam sau 1975 khá đa dạng và phong phú, thể hiện tài
năng của nhà văn trên phương diện nghệ thuật. Có thể kể đến một số kiểu kết cấu cơ bản
như: kết cấu đảo lộn không gian và thời gian, kết cấu truyện lồng truyện, kết cấu theo diễn
biến sự kiện trong cuộc đời nhân vật, kết cấu tâm lí khá phức tạp… Làm nên sự phong phú,
đa dạng này phải kể đến những cây bút tiêu biểu như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy
Thiệp, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Triệu Luật, Nguyễn Xuân Khánh, Tạ Duy Anh, Uông
Triều, Nguyễn Ngọc Tư, …
+ Kết cấu đảo trật tự thời gian là kiểu kết cấu khá phức tạp và thường thấy trong thể
loại tiểu thuyết. Thông thường, kết cấu phổ biến nhất trong các sáng tác mà các nhà văn ở
giai đoạn đầu khi tiểu thuyết mới hình thành và phát triển là diễn biến thời gian của cuộc đời
nhân vật. Đây là cách kết cấu khá đơn giản và rất phù hợp để thể hiện tư tưởng của nhà văn.
Trong kết cấu này, từng quãng đời, từng giai đoạn của các nhân vật dần được tái hiện lại sâu
sắc và những phẩm chất, những tính cách của nhân vật được tái hiện một cách rõ nét. Nhưng
theo thời gian, sự phát triển của tiểu thuyết đã không cho phép các nhà văn lặp lại kiểu kết
cấu ban đầu đó và họ lần lượt tìm đến phương thức phá vỡ kết cấu trật tự thời gian tuyến
tính.
+ Kết cấu phân mảnh – lắp ghép là kiểu kết cấu không chú trọng trình tự sự kiện,
không tuân theo diễn tiến thời gian, không tuân theo lôgíc thường thức mà là một loại kết
cấu lắp ghép. Kết cấu phân mảnh được tạo nên từ hệ thống các mảng có tính độc lập tồn tại
cạnh nhau nhưng cùng liên kết tạo thành một hệ thống. Kết cấu phân mảnh thường khá độc
lập và không theo một trình tự thời gian nào cố định. Thông qua kiểu kết cấu này, các nhà
văn muốn thể hiện một quan niệm mới về hiện thực. Hiện thực đó không phải là một khối
duy nhất mà nó có vô số các mảnh vỡ xuất hiện từ nhiều phương hướng khác nhau. Đó là
một hiện thực không toàn vẹn, một hiện thực rời rạc đổ vỡ, rạn nứt, một cuộc sống đang tan
rã dần dần, không dễ tìm mối tương giao liên kết. Với kết cấu phân mảnh – lắp ghép, các
vấn đề của cuộc sống được hiện lên qua những sự kiện và tình huống. Kiểu kết cấu này đã
phá vỡ lối cấu trúc truyền thống, là một trong những điểm thể hiện sự cách tân của văn xuôi
đương đại.
+ Kết cấu truyện lồng truyện là kết cấu thường được tạo bởi những “truyện ngắn” đặt
trong bố cục của tiểu thuyết và thường được kể ở ngôi thứ nhất. Tất cả những kết cấu kể trên
sẽ trở thành những nhân tố chính để gắn kết các yếu tố khác trong tác phẩm. Trong phong
trào đổi mới văn chương, các nhà văn hiện đại thường chú ý sử dụng thủ pháp “cắt dán”
nhiều loại văn bản trong một cuốn sách, đan xen nhiều câu chuyện trong một câu chuyện
nhằm mục đích mở rộng không gian nghệ thuật của tác phẩm, nới rộng những chiều kích
hiện thực đồng thời phản ánh quan niệm về một thế giới không dễ lí giải, đứt vỡ, xáo trộn và
33
vụn nát. Như vậy, từ những câu chuyện được đan lồng vào nhau, nhà văn đã đem lại hiệu
quả cao trong việc phản ánh hiện thực một cách đa chiều, đa diện cho tác phẩm.
+ Kết cấu mở cũng là một trong nhữg dấu ấn đổi mới của văn học Việt Nam sau
1975. Theo thường lệ, một tác phẩm được kết thúc với một kết luận rõ ràng thì cấu trúc của
nó được coi là đóng. Ngược lại những tác phẩm còn có sự dang dở trong kết thúc là tác
phẩm có kết cấu mở. Các tác phẩm tự sự truyền thống thường có kết cấu khép kín và tĩnh tại.
Nhưng hầu hết các tác phẩm tự sự hiện đại thường có kiểu kết thúc dang dở, đột ngột, chưa
có hồi kết. Như vậy, kết cấu mở là kiểu kết cấu mang đậm dấu ấn của văn học đương đại.
Mở đầu tác phẩm thường đơn giản nhưng kết thúc lại tạo ra sự bất ngờ, mang lại cho người
đọc những sự trải nghiệm sâu sắc, thú vị khi đọc. Kết thúc mở, cũng có thể gọi là kết thúc
không có hậu. Câu chuyện dừng lại nhưng vấn đề, sự kiện, nhân vật do nhà văn nêu ra vẫn
ám ảnh, day dứt người đọc. Nhà văn không phải là người hướng dẫn, “răn dạy” bạn đọc mà
họ chỉ gợi ra vấn đề bằng cách kể câu chuyện đó, còn người đọc thì tiếp nhận câu chuyện
như một cuộc đối thoại ngầm về cuộc sống đang từng ngày biến động không ngừng. Tác
phẩm đã khép lại nhưng nó vẫn mở ra cho người đọc nhiều suy ngẫm, nhiều ý tưởng, khiến
họ phải băn khoăn, day dứt, trăn trở về cõi nhân sinh.
+ Kết cấu tâm lý là kiểu kết cấu khá phổ biến trong văn học đương đại, nhất là thể
loại tiểu thuyết bởi đời sống tâm lý của các nhân vật đã giúp cho tác phẩm thoát được sự đơn
thuần của việc kể. Kết cấu tâm lý là cấp độ kết cấu hình tượng, thông qua nhân vật. Tâm lý
nhân vật trở thành trục chính để tác giả triển khai các hình thức khác, và cũng thông qua
nhân vật để thấy được dòng chảy lịch sử. Kết cấu tâm lý của tác phẩm chủ yếu được kiến tạo
bởi dòng ý thức. Đây là một thi pháp khá quan trọng trong văn học đương đại Việt Nam từ
sau 1975 đến nay.
* Về phương diện giọng điệu
Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ của văn chương. Trong tác phẩm văn học Việt
Nam từ sau 1975 thường đan cài sự phức hợp của nhiều giọng điệu, trong đó, giọng triết lí,
suy ngẫm; giọng châm biếm, giễu nhại; giọng lạnh lùng, khách quan; giọng trữ tình giàu
cảm xúc luôn xuất hiện với tần xuất cao nhằm thể hiện trọn vẹn thái độ, tình cảm, lập trường
tư tưởng, đạo đức của nhà văn với hiện tượng được miêu tả.
- Giọng điệu triết lí, suy ngẫm là một trong những nét đổi mới từ sau năm 1975 của các nhà
văn hiện đại nói chung. Một tác phẩm có giá trị phải phản ánh một cách khái quát và sâu sắc
hiện thực cuộc sống với những mảnh đời, những số phận. Vì thế, tính triết lý luôn tồn tại
trong tác phẩm như một qiuy luật tất yếu. Tất nhiên, không phải nhà văn nào cũng thể hiện
được tính triết lý trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Để có những triết lý mang tính phổ
quát cao về cuộc sống và con người, đòi hỏi nhà văn phải có sự từng trải, sự chiêm nghiệm
và tất nhiên phải có vốn kiến thức sâu rộng. Hiện thực cuộc sống sau 1975 với nhiều sự đổi
thay, đặt ra nhiều vấn đề cũng là mảnh đất màu mỡ để các nhà văn bày tỏ ngẫm nghiệm, suy
tư, triết lí về cuộc sống, tạo nên dấu ấn đậm nét cho văn học đương đại Việt Nam.

34
- Giọng điệu châm biếm, giễu nhại thường gắn với cảm hứng về cái hài. Nó biến
thành trò cười tất cả những gì có vẻ bề ngoài nghiêm túc bằng cách tô đậm sự lố bịch, kệch
cỡm hay vô nghĩa của nó. Văn học Việt Nam sau 1975 đang dần ý thức phá bỏ cái nghiêm
nghị mực thước, phá đổ các thần tượng ngôn từ. Nó đang đi đến chỗ tự mỉa mai, tự chế giễu,
và ta biết điều này là hết sức quan trọng trong tự vấn. Thông qua giọng điệu châm biếm,
giễu nhại, nhà văn đã phanh phui, lật tẩy bản chất của những hiện tượng chướng tai gai mắt
trong xã hội, hạ bệ những hình ảnh vốn được coi là thần tượng. Tuy nhiên, cái nhìn của nhà
văn đôi lúc có phần khắt khe, gay gắt nhưng đó chính là cách để tac giả gửi gắm những lời
cảnh báo cấp thiết trước nguy cơ bị biến dạng, tha hóa của con người. Đôi khi, đằng sau
tiếng cười còn ẩn chứ sự ngậm ngùi, chua xót, đớn đau… Như vậy, giọng điệu châm biếm,
giễu nhại hướng đến việc thanh lọc tâm hồn con người khi nhìn thẳng vào hiện thực.
- Giọng trữ tình, giàu cảm xúc cũng được thể hiện khá đậm nét trong văn hoc Việt
Nam sau 1975. Giọng điệu này xuất hiện trong tác phẩm khi nhà văn bộc lộ niềm khát khao,
mong muốn thay đổi và cải tạo lại những điều bất ưng đã và đang diễn ra trong cuộc sống.
Chính vì vậy, cho dù có đặt đời sống trong cái nhìn “suồng sã”, trong nụ cười chua chát,
trong mọi khổ đau, ta vẫn thấy trong tác phẩm không hề mất đi niềm tin đối với điều thiện,
với bản chất tốt đẹp vốn có của con người.
- Giọng điệu lạnh lùng, khách quan xuất hiện trong tác phẩm khi nhà văn thiên về
miêu tả cái xấu cái ác đang hiện hữu trong đời sống xã hội nhằm hướng đếm mục đích cảnh
tỉnh con người. Các cây bút sau 1975 không chấp nhận những sự thật nửa vời mà luôn có xu
hướng đi đến tận cùng hiện thực, cho dù hiện thực ấy nghiệt ngã, cay đắng, xót xa. Giọng
điệu lạnh lùng, khách quan cũng là một trong những dấu ấn đặc trưng của văn học đương
đại.
Như vậy, về bình diện thi pháp, văn học Việt Nam từ sau 1975 đến nay, một mặt kế
thừa những mặt tích cực của thi pháp truyền thống vừa nỗ lực hướng đến sự cách tân, góp
phần tạo nên diện mạo mới của nền văn học đương đại.
2.2. Những cuộc tranh luận có tính chất tìm đường đổi mới của văn học Việt Nam sau
1975
2.2.1. Vài nét về những cuộc tranh luận
Sau năm 1975, nhất là từ thời kì đổi mới, tình hình đất nước có nhiều biến động, sự
đổi mới văn học là một nhu cầu tất yếu để phù hợp với thực tiễn đời sống. Rất nhiều vấn đề
lí luận được đặt ra khi cuộc sống chuyển từ quỹ đạo chiến tranh sang quỹ đạo hòa bình khiến
cho giới học thuật phải đối diện với câu hỏi: Văn học cần đổi mới như thế nào. Từ 1987 đến
1992 đã diễn ra bốn cuộc tranh luận lớn về lí luận đã tác động tích cực đến sự thay đổi về
quan niệm sáng tác, thúc đẩy sự vận động, phát triển của văn học nước nhà.
* Cuộc tranh luận thứ nhất bàn về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực
Khởi đầu là bài viết Về vấn đề văn học phản ánh hiện thực của Lê Ngọc Trà, đăng
trên báo Văn nghệ số 20 năm 1988 với ba “điểm nhấn”:
35
- Phản ánh hiện thực là thuộc tính chứ không phải là chức năng của văn học. Trên
bình diện lí luận nghệ thuật (khác với bình diện lí luận phản ánh), văn học trước hết không
phản ánh hiện thực mà là “nghiền ngẫm về hiện thực”.
- Giữa phản ánh và sáng tạo, không nên đề cao quá mức đặc tính “phản ánh và nhiệm
vụ mô tả hiện thực” sẽ dễ dẫn đến chỗ “hiểu lệch bản chất hoạt động sáng tạo nghệ thuật, coi
nhẹ sự tìm tòi tư tưởng và thể hiện suy nghĩ cá nhân của người nghệ sĩ trong tác phẩm”.
- Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác không đề cao nhiệm vụ phản ánh hiện thực
như nhiệm vụ quan trọng nhất của văn học.
Từ bài viết này, Lê Ngọc Trà mở ra cuộc tranh luận sôi nổi trên văn đàn và năm 1990
ông xuất bản cuốn Lí luận và văn học do Nhà xuất bản Trẻ - Thành phố Hồ Chí Minh ấn
hành. Cuộc tranh luận được kéo dài mãi đến cuối 1992 vẫn chưa có điểm dừng. Có ý kiến
đồng tình, có ý kiến phản bác nhưng ý nghĩa của cuộc tranh luận này là cần phải xem xét lại
các khái niệm “phản ánh”, “hiện thực”, “sáng tạo”… Trong thời gian này, cuộc tranh luận
sôi nổi về ba truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp liên quan đến quan niệm về hiện thực
trong tác phẩm văn chương như một sự hô ứng. Cuộc tranh luận này đã cổ vũ cho cái hiện
thực đa chiều, “hiện thực không nhất thiết phải là mục đích phản ánh của tác phẩm mà có thể
chỉ là phương tiện” để nhà văn trình bày tư tưởng riêng, để đối thoại với bạn đọc… Từ đây,
trên văn đàn Việt Nam xuất hiện xu hướng mới khi nhìn nhận, đánh giá các tác phẩm của Lê
Lựu, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy
Anh, Bảo Ninh, Nguyễn Duy, Xuân Quỳnh, Thanh Thảo… Như vậy, cuộc tranh luận này đã
góp phần phá vỡ cái khung chật hẹp của lí luận về phản ánh hiện thực trong văn học trước
đây.
* Cuộc tranh luận thứ hai bàn về mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị
Cuộc tranh luận này đã nẩy mầm từ năm 1979 và được đăng tải nhiều ý kiến của
Nguyễn Minh Châu viết về chiến tranh, của Hoàng Ngọc Hiến, Nguyên Ngọc… Vào hai
ngày 6-7 tháng 10 năm 1987, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã gặp gỡ gần 100 đại biểu văn
nghệ sĩ. Dịp này, khá nhiều ý kiến bày tỏ nỗi bức xúc về tình trạng mất dân chủ trong lãnh
đạo văn nghệ do nghệ sĩ bị “bao cấp về tư tưởng”, dẫn đến “bị mài mòn cá tính” sáng tạo…
Tiếp đó là Thảo luận về “Văn nghệ ta trong sự nghiệp đổi mới của Đảng” tại Tạp chí Cộng
Sản tháng 3/1988; Thảo luận bàn tròn tại báo Văn nghệ Về những vấn đề văn học… Cuộc
tranh luận lần thứ hai đặt ra nhiều câu hỏi xung quanh mối quan hệ chính trị và văn nghệ
như:
- Quan hệ giữa văn nghệ và chính trị là thống nhất hay đồng nhất, hay phụ thuộc?
- Quan hệ giữa người lãnh đạo (nhà chính trị) với nghệ sĩ có mâu thuẫn không?
- Đường lối văn nghệ của đảng những năm qua có hạn chế hay sai lầm gì không?
- Văn nghệ “phục vụ chính trị” có phải là nguyên tắc tối thượng không?
Ý nghĩa của cuộc tranh luận là đã đi đến thống nhất vấn đề dân chủ hóa là xu thế tất
yếu của đời sống văn nghệ nước ta. Cuộc tranh luận này với tinh thần khước từ chủ nghĩa đề
tài, coi trọng cá tính sáng tạo, chống độc quyền áp đặt tâm lí và đưa hệ giá trị nhân bản thành
36
tiêu chí trung tâm của tác phẩm văn chương. Tư tưởng này được thể hện rõ qua thực tế sáng
tác và nghiên cứu phê bình của Nguyễn Minh Châu, Tạ Duy Anh Nguyễn Huy Thiệp, …
* Cuộc tranh luận thứ ba bàn về phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ
nghĩa
Cuộc tranh luận này diễn ra trong khoảng thời gian từ năm 1987 đến năm 1989. Nhìn
một cách tổng thể, các ý kiến tham gia tranh luận tập trung ở Hội thảo “Những vấn đề thời
sự của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”, được tường thuật trên Tạp chí Văn học số
5/1989 và các bài viết được đăng tải trên Báo Văn nghệ, Báo nhân dân, Tạp chí Sông
Hương… Cuộc tranh luận này đặt ra các vấn đề cơ bản như:
- Trong thực tiễn sáng tạo nghệ thuật, phương pháp chắc chắn không được coi là chìa
khóa vạn năng cho thành công, không phải là “nhân vật chính” thúc đẩy tiến trình văn học.
- Việc khẳng định phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa là “tốt nhất” hay “duy
nhất” là không còn phù hợp trước sự biến đổi không ngừng của đời sống.
- Cần phải xem xét lại cách định nghĩa thế nào là khái niệm “hiện thực xã hội chủ
nghĩa”.
Ý nghĩa của cuộc tranh luận này nhìn nhận sự ảnh hưởng của chính trị vào văn nghệ
đã chi phối trực tiếp đến việc đánh giá văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975. Đồng thời,
khẳng định lại mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị, văn nghệ và hiện thực trong hoàn
cảnh mới và đặc biệt là cá tính nghệ sĩ, tự do sáng tạo được đề cao.
* Cuộc tranh luận thứ tư bàn về thành tựu và hạn chế của văn học Việt Nam giai
đoạn 1945-1975
Cuộc tranh luận lần này có ba luồng ý kiến phê phán những hạn chế và bảo vệ những
thành quả của văn học 1945 – 1975. Cuộc tranh luận này được diễn ra ở Hà Nôi và thành
phố Hồ Chí Minh vào tháng 6 – 7 năm 1987.
- Luồng ý kiến phê phán hạn chế của văn học 1945-1975 thường bị phía những người
đối lập cho là “phủ định sạch trơn”.
- Luồng ý kiến của những người bảo vệ thành tựu to lớn của giai đoạn văn học này lại
bị xem là bảo thủ.
- Luồng ý kiến của những người điềm tĩnh thì vừa khẳng định mặt tích cực vừa chỉ ra
hạn chế, tiêu cực của giai đoạn văn học này. Họ cho rằng, yếu tố chi phối trực tiếp tới văn
học giai đoạn này là sự ảnh hưởng từ hai cuộc chiến tranh.
Ý nghĩa của cuộc tranh luận lần thứ tư đã đem lại một cái nhìn thấu đáo về giai đoạn
văn học này. Dù đề cao hay phàn nàn về thành tựu của văn học giai đoạn 1945 - 1975 được
định hướng bởi lí thuyết về phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, thì các bên tranh luận
cũng phải thừa nhận tính chất lạc hậu, hời hợt, giáo điều nhất định của lí luận thời gian đó,
hướng cho người cầm bút phải đổi thay.
Như vậy, các cuộc tranh luận đã hướng người cầm bút đến với sự đổi mới trong tư
duy lí luận, kích thích hoạt động phê bình làm mới mình bằng việc hấp thụ tinh hoa của lí

37
thuyết mới để hoàn thành tốt vai trò “bà đỡ” và “dự báo” cho sáng tác văn chương, phù hợp
với yêu cầu của thời đại.
2.2.2. Vài nét về quan niệm lí thuyết truyền thống
Trên tờ báo Quân đội nhân dân, ngày 11/7/1987, Lại Nguyên Ân cho rằng, văn học
Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám gần như chưa ý thức về phê bình chuyên nghiệp. Do
sự thống nhất về tổ chức của đội ngũ văn nghệ sĩ, “công việc phê bình văn học trở thành
lĩnh vực đặc trách của các cán bộ làm công tác quản lí văn nghệ và của những văn nghệ sĩ
giữ các chức vụ lãnh đạo các đoàn thể, cơ quan văn nghệ”. Hoạt động tổ chức và chỉ đạo,
tổng kết và đánh giá, định hướng, uốn nắn, về tư tưởng xã hội, chính trị của tác phẩm và tác
giả là chủ yếu.
Tính chất bao trùm của văn học trước năm 1975, chỉ tập trung vào việc phản ánh hiện
thực. Điều này đã làm nghèo đi đời sống văn học. Bên cạnh đó, lí thuyết sáng tạo nghệ thuật
chưa được chú trọng, còn coi nhẹ đặc trưng của văn học nghệ thuật, hạ thấp vai trò cá tính
sáng tạo của người cầm bút, đề quá cao loại văn chương ghi chép đơn giản người thật, việc
thật. Nội dung tác phẩm chỉ nên có một bước diễn nghĩa và phải thật rõ ràng, quan niệm thời
đại mới không có bi kịch. Đặc biệt là những quy định nặng nề đối với những tác phẩm đề
cập đến mặt tiêu cực của xã hội, chuyện đời tư, sự phức hợp trong nội tâm của con người…
Xuất phát từ quan niệm giản đơn về văn học là phản ánh, mô tả hiện thực, khuynh
hướng đồng nhất hoạt động tuyên huấn với hoạt động văn học đã không thể giúp cho văn
học nghệ thuật đúng nghĩa cất cánh, thậm chí còn làm nghèo đi đời sống văn học. Đây là
một trong những nguyên do cơ bản khiến cho hệ thống lí thuyết về sáng tạo và nghiên cứu
văn chương còn mờ nhạt, mang tính rập khuôn trong suốt một thời gian dài.
2.2.3. Vài nét về quan niệm lí thuyết hiện đại
Phải đến khi trên văn đàn xuất hiện các tác phẩm Tướng về hưu, Không có vua, Vàng
lửa, Kiếm sắc, Phẩm tiết… của Nguyễn Huy Thiệp thì cũng là lúc công chúng nhận ra có
một “cuộc cách mạng” trong phê bình với hàng loạt bài viết in trên báo trong và ngoài nước.
Không bao lâu sau, hàng loạt tác phẩm vừa mới mẻ lạ lẫm, vừa gai góc tiếp tục ra mắt
công chúng như: Lối nhỏ của Dư Thị Hoàn, Đêm mặt trời mọc của Nguyễn Quốc Chánh;
Bến lạ của Đặng Đình Hưng; Thiên sứ, Mê lộ của Phạm Thị Hoài; Bước qua lời nguyền của
Tạ Duy Anh; Chim én bay của Nguyễn Trí Huân; Cái đêm hôm ấy… đêm gì của Phùng Gia
Lộc; Bến không chồng của Dương Hướng; Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc
Trường… đã bật thức sự vào cuộc của các nhà nghiên cứu phê bình văn học với mong muốn
dẫn dắt, định hướng dư luận. Nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra những kiến giải sắc sảo về văn
học đương đại, tác động không nhỏ đến người cầm bút. Đỗ Văn Hiểu cho rằng: “Bản chất
của văn học thời nay là văn học phản tỉnh xã hội. Vậy nên phê bình văn học ngày nay phải
là kiểu phê bình phản tỉnh văn chương. Phê bình kiểu mới là phê bình luôn đánh động để
văn học tự phản tỉnh mình, để văn chương luôn anh minh, luôn biết cách vượt qua các điểm
dừng”; Hữu Thỉnh lại đặt ra yêu cầu cho phê bình văn học phải: “kịp thời biểu dương cái
38
hay, phê phán cái dở, cái lệch lạc, phát hiện được những nhân tố mới trong phong trào” để
từ đó thúc đẩy sự sáng tạo không ngừng nghỉ của người cầm bút. Lã Nguyên cũng thể hiện
quan điểm của mình về bản chất của văn học đương đại chính là: “sự bùng nổ của ý thức cá
nhân trước nhu cầu tự nhận thức về biểu hiện của dân tộc và thời đại” và “văn học đang trở
thành diễn đàn của trí tưởng tượng và ý kiến cá nhân”. Ông cũng đặt ra yêu cầu cho văn học
đương đại phải đi theo quy luật dân chủ hóa và nhân bản hóa, không thờ ơ trước cái ác, cái
xấu, khi chuyển mối quan tâm thế giới của cộng đồng lịch sử và dân tộc sang những câu
chuyện thế sự và nó đã có sự bùng nổ của lòng phẫn nộ trước cái ác mà mảng sáng tác là
“điểm nóng của sự bùng nổ ấy”.
Phải thừa nhận rằng, những ý kiến của các nhà nghiên cứu dù đề cập đến những bình
diện khác nhau của đời sống văn học nhưng tựu trung đều thể hiện những gợi ý mang tính
định hướng về lí thuyết hiện đại để người cầm bút nghiền ngẫm và tự làm mới chính mình,
sáng tạo nên những tác phẩm có giá trị, đáp ứng được tầm đón đợi của công chúng bạn đọc.
Hơn nữa, đến giai đoạn này, sự giao lưu văn hóa, văn học với nước ngoài đã được
mở rộng cũng tạo điều kiện thuận lợi để người cầm bút tiếp xúc, tìm hiểu, thâm nhập lí
thuyết và phương pháp tiếp cận văn học hiện đại sâu rộng hơn. Hàng loạt lí thuyết hiện đại
như như Tự sự học, Phân tâm học, Cấu trúc luận, Diễn ngôn, Lí thuyết loại hình,… được
người cầm bút vận dụng linh hoạt, sáng tạo, từ đó thổi một luồng gió mới vào đời sống văn
học dân tộc.
2.2.4. Vài nét về Trang giấy trước đèn của Nguyễn Minh Châu
Trang giấy trước đèn là một tập tiểu luận, tập hợp những tiểu luận, những bài viết và
đánh giá của Nguyễn Minh Châu về văn học nghệ thuật thời đổi mới, được Tôn Phương Lan
giới thiệu năm 1994 do Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành. Qua tập tiểu luận này,
Nguyễn Minh Châu bày tỏ nhận thức của mình về nhiều mối quan hệ của đời sống văn học.
Đó là mối quan hệ giữa văn học và hiện thực; giữa văn học và con người; giữa nhà văn, nhân
vật và văn học; giữa nhà văn và nhà phê bình văn học; giữa niềm khao khát sáng tạo của nhà
văn với nhiệm vụ chính trị; giữa hình thức và nội dung tác phẩm. Những tiểu luận tiêu biểu
như: Người viết trẻ và cánh rừng già; Viết về chiến tranh; Bên lề tiểu thuyết; Nhìn sang lí
luận, phê bình; Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa…
Trong tập tiểu luận này, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện rõ quan điểm cá nhân về văn
học. Ông yêu cầu tác phẩm phải mang tính thời sự của văn học. Ông cũng luôn quan tâm đến
việc mở rộng quan niệm về hiện thực và mối quan hệ giữa văn học với đời sống. Hơn nữa,
phải đảm bảo tính trường tồn của văn học và tính đặc thù của nó (cảm xúc thẩm mĩ và tính
chân thực của văn chương).
Tập tiểu luận cũng bộc lộ quan điểm của Nguyễn Minh Châu về nghề văn và nhà văn.
Với ông, nghề văn là một nghề đòi hỏi người cầm bút phải mẫn cảm, phải có lương tâm và
trách nhiệm. Nhà văn phải là người “thức tỉnh xã hội và cảnh báo trước những nguy cơ đến
với nhân loại”. Theo ông, người cầm bút phải hao tâm để khám phá, tìm tòi cho ra cái lẽ của

39
nghề, của nghiệp, của thiên chức người nghệ sĩ và văn chương. Ông quan niệm, quá trình
cầm bút của nhà văn chính là quá trình “săn đuổi nhân cách của chính mình” và cũng là“sự
săn đuổi nhân cách con người”. Ông kêu gọi người cầm bút phải có tình yêu thiết tha với
con người và cuộc sống bởi “văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm
là con người”.
Nguyễn Minh Châu đặc biệt quan tâm đến ý thức tự do sáng tạo của nhà văn. Ông
kêu gọi “khuyến khích cá tính, khuyến khích sáng tạo và chấp nhận đa dạng, chấp nhận
sáng tối, hoàn toàn đặt lòng tin vào lương tri của các nhà văn, không nửa tin, nửa ngờ và đề
phòng, để cho văn nghệ một khoảng đất rộng rãi hơn”. Nguyễn Minh Châu cũng phê phán
mạnh mẽ thứ “văn nghệ minh họa” bởi nó chỉ chuyên chú phục vụ cho “chủ trương chính
sách bằng những hình tượng sinh động”, hậu quả là “nhà văn đánh mất cái đầu và tác phẩm
đánh mất tính tư tưởng”.
Tập tiểu luận Trang giấy trước đèn của Nguyễn Minh Châu ra đời đã tạo một tiếng
vang lớn, tác động tích cực đến tư tưởng và góp phần làm thay đổi quan điểm sáng tác của
người cầm bút đương thời.
2.3. Kết luận chung
Song hành với sự đổi mới của đất nước là sự đổi mới của văn học nghệ thuật. Sự đổi
mới của văn học Việt Nam từ sau 1975 bắt đầu từ quan niệm, đến lí thuyết và được đánh dấu
bằng thực tiễn sáng tác. Tư duy đổi mới nghệ thuật của những cây bút tiên phong đã tạo nên
một bước ngoặt trọng đại trong quá trình vận động và phát triển của văn học đương đại Việt
Nam. Sự đóng góp lớn lao ấy của họ rất đáng trân quý.

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 2

CÂU NỘI DUNG CĐR HP


2.1 Anh/ chị, hãy phân tích các cuộc tranh luận mang tính chất mở
CO1, CO2,
đường của văn học Việt Nam sau 1975?
CO5, CO6

2.2 Anh/ chị, hãy thể hiện quan điểm của mình về các cuộc tranh luận
CO1, CO2,
mang tính mở đường của văn học Việt Nam từ 1975?
C03

2.3 Theo Anh/ chị, cuộc tranh luận nào là quan trọng nhất, vì sao?
CO1, CO2

2.4 Anh/ chị, hãy phân tích sự ảnh hưởng từ tiểu luận Trang giấy trước
đèn của Nguyễn Minh Châu đến sự đổi mới của văn học Việt Nam CO1, CO2,
sau 1975? CO5, CO6

40
41
PHẦN HAI: MỘT SỐ TÁC GIẢ TIÊU BIỂU
Chương 1: Nguyễn Khải (1930 – 2008)

1.1. Vài nét về cuộc đời con người


Nguyễn Khải tên khai sinh là Nguyễn Mạnh Khải. Ông sinh ngày 3 tháng 12 năm
1930 tại Hà Nội trong một gia đình quan lại, nhưng ông không được thừa hưởng cái giàu
sang, no đủ của gia đình mình do thân phận là con của vợ lẽ. Tuổi thơ Nguyễn Khải đã phải
trải qua nhiều phen khốn nhục, sống trong sự ghẻ lạnh của người thân, thậm chí cả người
cha của ông. Từ bé đến năm 15 tuổi, Nguyễn Khải chưa một lần được nhìn rõ mặt cha, một
ông quan tri huyện. Ông sống với mẹ và em trai trong sự tẻ nhạt, thiếu thốn cả về vật chất
lẫn tình cảm.
Phải lăn lộn để kiếm sống, nuôi mẹ và nuôi em với những trải nghiệm cay đắng, đầy
éo le, tủi nhục đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn chương của ông. Từ sự hiểu đời, hiểu
người, khôn ngoan, tỉnh táo và tình cảm, yêu ghét, khinh trọng rạch ròi đã hình thành nên
một giọng văn trải đời.
Năm 17 tuổi, Nguyễn Khải cùng mẹ và em về thị xã Hưng Yên sống với gia đình một
người họ hàng bên ngoại. Ở đây, ông gia nhập đội dân quân tự vệ Hưng Yên. Năm 1949,
nhờ viết bài cho tờ báo dân quân Hưng Yên mà ông được điều lên làm phóng viên cho tờ
báo này. Đến năm 1951, ông chuyển sang làm báo Chiến sĩ ở Quân khu III. Từ 1956 ông
chuyển công tác tác về tạp chí Văn nghệ Quân đội. Sau năm 1975, Nguyễn Khải chuyển vào
thành phố Hồ Chí Minh sinh sống và sáng tác văn chương. Một buổi chiều mùa đông năm
2007, Nguyễn Khải đã trút hơi thở cuối cùng.
Nguyễn Khải đã tham gia sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957); tham gia sáng lập
tạp chí Văn nghệ Quân đội (1957). Nguyễn Khải được bầu vào Ban Chấp hành và Ban
Thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam lần II, III, IV.
Dọc suốt hành trình sáng tạo nghệ thuật không ngừng nghỉ, Nguyễn Khải đã vinh dự
được nhận giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1983 và 1988. Năm 2000 ông được
nhận giải Asean và giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt II).
Nguyễn Khải là một con người xông xáo trên mọi nẻo đường, mọi miền đất nước vừa
cầm súng vừa cầm bút với một tâm thế rất hang say, không bao giờ phân vân đến chức danh
của mình. Với ông, nhà văn là phải sáng tạo, là “cuộc tìm kiếm mãi mãi” (Báo Tuổi trẻ Chủ
nhật, ngày 30.7. 1995) để hướng đến cái thiện và “ngăn mầm ác sinh sôi trong tương lai”.
Nguyễn Khải sinh ra trong một gia đình quan lại nhưng lại bị chất đời bụi bặm phủ
bao nên trong con người ông luôn song hành, hòa quyện giữa dòng máu thượng lưu sang
trọng, lịch lãm với dòng máu của những người khốn cùng lam lũ, uất hận. Đặc điểm này đã
góp phần tạo nên “hai vùng thẩm mĩ trong một thế giới nghệ thuật” (Nguyễn Đăng Mạnh)
của nhà văn.

42
Nguyễn Khải là một con người từng trải, hăng say, cần mẫn và có trách nhiệm cao
trong sáng tạo nghệ thuật. Điều đọng lại sau cùng trong tâm thức của người đọc về Nguyễn
Khải là một nhà văn chân chính, nhân hậu, thức thời.
* Các tác phẩm chính:
- Truyện ngắn: Mùa lạc (tập truyện ngắn,1960), Hãy đi xa hơn nữa (1963), Người trở
về (tập truyện vừa,1964), Chủ tịch huyện (1972), Một người Hà Nội (tập truyện ngắn,1990),
Sư già chùa Thắm và ông đại tá về hưu (tập truyện vừa, 1993), Một thời gió bụi (1993), Hà
Nội trong mắt tôi (tập truyện ngắn,1995), Chút phấn của đời (truyện ngắn và kịch, 1999)
Nắng chiều (tập truyện ngắn, 2001), Mẹ và các con (tập truyện ngắn thiếu nhi, 2002), Hãy đi
xa hơn nữa (tập truyện ngắn thiếu nhi, 2002), Nghề văn cũng lắm công phu (truyện - tạp
văn, 2003), Sống ở đời (tập truyện, 2003)…
- Tiểu thuyết: Xây dựng (1952), Người con gái quang vinh (1956), Xung đột (1957),
Đường trong mây (1970), Ra đảo (1970) Chiến sĩ (1973), Cha và con và (1979), ), Gặp gỡ
cuối năm (1982), Thời gian của người (1985), Điều tra về một cái chết (1986), Vòng sóng
đến vô cùng (1987), Một cõi nhân gian bé tí (1989), Thượng đế thì cười (2003), Một chặng
đường (2005)…
- Kí: Họ sống và chiến đấu (1966), Hoà Vang (1967), Tháng ba ở Tây nguyên (1976),
Ký sự & Kịch (2003), Đi tìm cái tôi đã mất (tùy bút, 2006).
- Kịch: Cách mạng (1976), Vòng tròn trống rỗng (2003)
1.2. Quá trình sáng tác
Sau 1975, sự chuyến biến về tư tưởng và nghệ thuật là hiện tượng chung của nhiều
cây bút trên văn đàn Việt Nam, không chỉ riêng Nguyễn Khải. Tuy nhiên, mức độ chuyển
biến ở mỗi cây bút có khác nhau, tuỳ theo bản lĩnh và sự nhạy cảm với thời thế của mỗi
người. Với Nguyễn Khải, ông tự phân chia quá trình sáng tác của mình thành hai thời kỳ:
"Từ 1955 đến 1977 tôi sáng tác theo một cách. Từ 1978 đến nay sáng tác theo cách khác".
Chúng ta tôn trọng cách phân chia này của nhà văn.
1.2.1. Sáng tác của Nguyễn Khải trước 1978
Là một nhà văn- chiến sĩ trưởng thành từ hai cuộc kháng chiến chống Pháp, và chống
Mỹ xâm lược, Nguyễn Khải có quan niệm hết sức đúng đắn về vai trò, sứ mệnh của văn học
nghệ thuật. Ông là người rất có ý thức dùng ngòi bút của mình làm vũ khí chiến đấu phục vụ
sự nghiệp cách mạng của dân tộc và góp phần xây dựng cuộc sống mới. Ông luôn là người
đi tiên phong, tìm đến những vùng đất nóng bỏng, gian khổ và đầy sôi động của đất nước.
Ông nổi tiếng là người chịu khó đi thực tế. Bước chân nhà văn đã đặt tới nhiều miền đất
nước: Một vùng nông thôn công giáo toàn tòng, một nông trường Điện Biên ở miền Tây Bắc
xa xôi, một hợp tác xã tiên tiến, một hòn đảo anh hùng kiên cường trong chiến tranh phá
hoại... Ông miệt mài đi và miệt mài viết, càng viết càng duyên, "cái duyên dáng dân dã chứ
không phải làm điệu, làm dáng mà có" (Vương Trí Nhàn). Tác phẩm đầu tiên đánh dấu sự
xuất hiện của ngòi bút hiện thực - Nguyễn Khải là tác phẩm Xung đột. Đó là kết quả chuyến
43
thâm nhập thực tế của nhà văn về vùng đạo gốc thuộc huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định,
khoảng cuối năm 1956, khi Đảng ta tiến hành sửa sai cải cách ruộng đất và bắt đầu cuộc vận
động hợp tác hoá nông nghiệp. Với một nhãn quan chính trị nhạy bén, nhà văn đã ghi lại
cuộc đấu tranh quyết liệt của cán bộ, bộ đội và nhân dân ta - cuộc đấu tranh gay gắt, căng
thẳng, phức tạp - chống lại bọn phản động đội lốt tôn giáo chống phá cách mạng như tu sĩ
Thịnh, cha Thuyết, quản Dụ,… đồng thời ngợi ca những cán bộ, giáo dân tiến bộ như Thụy,
Môn, Nhàn, bà Tình, Ông Dương, ông trùm Bính... Không chỉ phản ánh cuộc đấu tranh giai
cấp, Xung đột còn là bức tranh sinh động về đời sống nông thôn vùng công giáo toàn tòng.
Với những trang viết nóng hổi hơi thở của cuộc sống đầy phức tạp và sôi động, với những
nhận xét sắc sảo, tinh tế, Xung đột đã báo hiệu một "phong cách văn xuôi hiện thực tỉnh táo
đầy hứa hẹn" (Phan Cự Đệ). Tuy nhiên, do là tác phẩm đầu tay cùng với những hạn chế nhất
định về vấn đề tôn giáo nên tác phẩm của ông chưa thực sự sắc sảo trong việc phản ánh hiện
thực.
Tiếp theo Xung đột là hàng loạt tác phẩm của Nguyễn Khải viết về những vấn đề thời
sự của cuộc đấu tranh giữa hai con đường để tiến lên CNXH ở miền Bắc như Mùa lạc, Đứa
con nuôi, Người trở về, Tầm nhìn xa, Chuyện người tổ trưởng máy kéo, Anh đội phó và
người thợ mộc, Hãy đi xa hơn nữa... Nguyễn Khải hăm hở đến nông trường Điện Biên,
mảnh đất Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc, nơi ngày đêm đang diễn ra công cuộc lao động, xây
dựng CNXH - gieo mầm xanh trên những bãi chiến trường đẫm máu năm xưa. Ông viết về
một cuộc sống mới đang được dựng xây, về tình yêu, sự đổi thay và trách nhiệm của con
người trong xã hội mới. Nhà văn đến với nhân vật bằng tình yêu thương và thái độ trân
trọng, vừa ca ngợi con người nhưng cũng lại khám phá thế giới tinh thần vốn phức tạp để cải
hoá con người. Khắc hoạ thành công những cá nhân tiên tiến như Huân, Đào, Dịu… trong
Mùa Lạc - những gương mặt điển hình cho những con người mới trong xã hội XHCN là
bước đi quan trọng của Nguyễn Khải giai đoạn này. Không chỉ ca ngợi một chiều, nhà văn
còn sớm nhìn ra cái phức tạp của cuộc sống với bao điều xấu xa, tiêu cực và phê phán một
cách quyết liệt. Ví dụ như y tá Giao trong Một cặp vợ chồng với lối sống cá nhân vị kỉ; tổ
trưởng Khôi trong chuyện Người tổ trưởng máy kéo tuy tháo vát, thông minh, có thành tích
nhưng thiếu lòng tin yêu con người, hay cái nhìn hạn hẹp ranh ma, lúc nào cũng chăm chắm
lo vun vén tư hữu kiểu nông dân cá thể như lão Tuy Kiền trong Tầm nhìn xa... Những tác
phẩm thời kỳ này của Nguyễn Khải đều hướng tới những câu hỏi lớn: Làm thế nào để con
người được giải phóng? Làm thế nào để con người có tự do hạnh phúc? Điều đó cho thấy,
trên từng trang viết đều đong đầy trăn trở, suy tư về cuộc sống của Nguyễn Khải.
Mùa hè năm 1965, đế quốc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, Nguyễn Khải đã có mặt
ở những nơi nóng bỏng của cuộc chiến đấu. Đến với các chiến sĩ ở đảo Cồn cỏ, nhà văn cho
ra đời thiên ký sự Họ sống và chiến đấu. Những chuyến đi đến với các chiến sĩ công binh
đang trấn giữ một địa điểm cực kỳ ác liệt ở trường Sơn, ông viết Đường trong mây. Vào đất
lửa Vĩnh Linh, đến với những con người xông pha mọi hiểm nguy để đưa hàng tiếp tế ra
Cồn cỏ, nhà văn viết Ra đảo. Khi tham gia chiến dịch giải phóng miền Nam, ông viết Chiến
44
sĩ khi đi chiến dịch Đường Chín - Nam Lào, viết Tháng ba ở Tây Nguyên với tâm thế đầy
hào hứng và nhiệt huyết của nhà văn xanh màu áo lính. Cuộc chiến tranh ác liệt của nhân
dân và quân đội ta được ông phản ánh rõ nét vào trong những tác phẩm thời kỳ này. Cảm
hứng chủ đạo của tác phẩm Nguyễn Khải cả giai đoạn này là ngợi ca chủ nghĩa anh hùng
cách mạng và ca ngợi những con người sống có lý tưởng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội.
1.2.2. Sáng tác của Nguyễn Khải từ 1978 đến khi qua đời
Miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, cả dân tộc hân hoan bước vào một
chặng đường lịch sử mới. Trước không khí hồ hởi ấy, sự nhạy bén giúp Nguyễn Khải lại bật
dậy để khám phá ra một hiện thực mới mẻ - hiện thực cuộc sống miền Nam sau ngày giải
phóng. Hàng loạt tác phẩm như Cách mạng, Cha và con, và, Gặp gỡ cuối năm, Thời gian
của người,... đề cập đến những thay đổi của cuộc sống sau chiến tranh, nhất là đổi thay trong
nhận thức, tư tưởng, tình cảm của những con người vốn đã gắn bó với chế độ cũ. Trên trang
viết của Nguyễn Khải giai đoạn này chuyển từ tính ham tranh luận sang chiêm nghiệm, triết
lý. Sự chuyển biến ấy thể hiện sự vận động của ngòi bút Nguyễn Khải và cũng nằm trong sự
vận động của cả một nền văn học trước và sau đổi mới.
Đất nước tiến hành sự nghiệp đổi mới, sự xuất hiện của nền kinh tế thị trường đã đem
lại nhiều biến chuyển lớn lao cho xã hội. Nguyễn Khải vẫn tiếp tục đi và viết. Dù đến với
nhiều miền đất lạ hay trở lại những mảnh đất mà ông đã từng qua, Nguyễn Khải đều khắc
khoải với những con người, những số phận đau khổ, éo le trong cuộc sống xô bồ hiện tại.
Ông ghi lại những đổi thay nhanh chóng của đời sống, nói lên những trải nghiệm của cá
nhân, những suy nghĩ về thời gian, về giới hạn của cuộc đời, về khả năng vượt qua những
giới hạn đó ở mỗi con người, mỗi thế hệ. Nguyễn Khải bắt nhịp nhanh với hơi thở của cuộc
sống hiện tại, từ đó phát hiện nhiều vấn đề nhân sinh ẩn giấu sau những cuộc đời, những
quan niệm về đạo đức truyền thống, lợi ích kinh tế, giá trị đồng tiền...: Cái thời lãng mạn,
Hai ông già ở Đồng Tháp Mười, Anh hùng bĩ vận, Người kể chuyện thuê, Tiền, Chúng tôi và
bọn hắn...So với những sáng tác giai đoạn trước, tác phẩm của Nguyễn Khải thời kỳ này
đằm thắm, bao dung hơn trong cách nhìn đời, nhìn người.
Đại hội lần thứ VI của Đảng với tinh thần dân chủ "nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng
sự thật" dường như đã đáp ứng nhu cầu tự thân của Nguyễn Khải. Sáng tác của ông thời kỳ
này đặc biệt nở rộ, trong đó có sự thành công ở thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Sự xuất
hiện của nền kinh tế thị trường đem lại nhiều biến đổi tốt đẹp cho xã hội không thể phu nhận
nhưng nó cũng làm biến dạng hàng loạt những quan hệ xã hội, những quan niệm, tình cảm
đẹp đẽ của con người. Con người quan niệm rất khác về cuộc sống, về đạo đức cá nhân và
cách ứng xử của họ về đồng tiền cũng khác trước... Đây là thời gian Nguyễn Khải đi thăm
lại những nơi, những con người mà ông đã có dịp qua, đã có dịp viết về họ. Ông cũng gặp lại
những người quen cũ, bạn bè, người thân, họ hàng. Và cùng với sự từng trải của một người
đi nhiều, viết nhiều, cảm xúc hiện thực đã giúp Nguyễn Khải tái hiện trong tác phẩm của

45
mình chất liệu đời sống "ngổn ngang, bề bộn" ấy. Nguyễn Khải có khả năng sống và chớp
lấy sự thật, sự thật tiềm ẩn trong cái bình thường, trong những sự việc hàng ngày của đời
sống thực. Những sự việc ấy tưởng chừng như chẳng có gì, nhưng dưới con mắt của Nguyễn
Khải đều trở thành những sự việc "có vấn đề". Điều hấp dẫn ở ngòi bút Nguyễn Khải là qua
những sự việc đời thường, ông đã tìm thấy chân lý ở bề sâu của nó. Cuộc sống trong con mắt
ông không đơn lặng, phẳng chiều, không êm đẹp mà thô nhám, xù xì, đầy cam go và thử
thách như nó vốn có.
Từ những trang viết của mình, Nguyễn Khải đã đặt ra những vần đề thấm đẫm chất
nhân văn. Đó là vấn đề con người trong mối quan hệ gia đình và những trăn trở suy tư làm
thế nào để gìn giữ và tôn tạo vẻ đẹp nhân cách của con người. Xuất phát từ những vấn đề
nhân bản ấy mà cảm hứng triết lý, tranh biện của tác giả có cơ hội thể hiện trong tác phẩm.
Triết lý là một ưu thế tạo ra phong cách rất riêng cho văn Nguyễn Khải. Người ta ví ông là
một "Chế Lan Viên trong văn xuôi" quả không sai, bởi ông là một người rất tỉnh táo, tỉnh táo
trước Thời và Thế và giàu khả năng triết lý trước các vấn đề của đời sống thế sự nhân sinh.
Thế giới nhân vật của Nguyễn Khải thời kỳ này thực sự phong phú: từ già đến trẻ; từ thông
minh, tháo vát đến vụng về; từ lạc thời, bế tắc đến gặp thời; từ chân thật đến xảo trá... Mỗi
nhân vật là một vẻ nhưng họ đều chứa đựng một triết lý sống của "thì hiện tại". Trong Chút
phấn của đời đã ánh lên niềm tin, hạnh phúc của lối sống vị tha. Trong Hai ông già ở Đồng
Tháp Mười là lẽ sống quý giá nhất của cuộc đời - "một niềm tin, một niềm vui mà chỉ đến lúc
đứng tuổi mới nhận ra ý nghĩa thâm trầm của nó". Nguyễn Khải đi sâu vào khám phá thế
giới nội tâm con người, những con người nhỏ bé, nhưng qua số phận của họ nhà văn nói lên
được nhiều điều. Đó là mảnh đời khốn khổ như chị Vách trong Đời khổ, anh Khang trong
Cái thời lãng mạn... dù bị bao nhiêu tủi hờn, thách thức khổ đau của cái thời gió bụi này
nhưng họ vẫn kiên trì nhẫn nại, chịu đựng vượt qua.
Nổi lên trong các sáng tác của Nguyễn Khải thời kỳ này là lớp người trẻ tuổi - "những
nhân vật chính của một vận hội mới" thời mở cửa. Ông đánh giá đúng tiềm năng của họ, giỏi
tính toán việc làm ăn, hợp với thời buổi kinh tế thị trường như Định trong Cái thời lãng mạn,
Lộc trong Chúng tôi và bọn hắn ... Nhưng ông cũng tỉnh táo nhìn nhận những khiếm khuyết
của tuổi trẻ và đặt vấn đề làm sao cho lớp trẻ phấn đấu tạo ra nhũng giá trị có ý nghĩa chấn
hưng dân tộc. Với con mắt thông cảm, chia sẻ nhà văn viết về những con người đã hết thời
tuổi trẻ nhưng vẫn muốn cống hiến sức mình cho cuộc sống hôm nay. Đó là Hợp trong
Người kể chuyện thuê, ông Trắc trong Lạc thời, nhân vật nhà văn trong Anh hùng bĩ vận ...
Một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn trong sáng tác của Nguyễn Khải thời kì
này chính là cảm hứng viết về người Hà Nội. Họ là những con người gắn với mảnh đất nơi
ông sinh ra và gói tròn bao kỷ niệm thời tuổi trẻ. Đó là cô Hiền, một con người bình thường
nhưng sống rất chuẩn mực, gia giáo, làm nên phong cách Tràng An trong Một người Hà Nội.
Cô Hiền luôn biết dung hòa trong lối sống riêng chung phù hợp với những chuẩn mực của
thời đại. Cô Hiền không chỉ là người có “đầu óc thực tế”, không “lãng mạn hay mơ mộng
vớ vẩn” mà còn là một con người “biết tự trọng”, “biết xấu hổ”, không “sống bám vào
46
người khác”. Đó là chị Khuê, bà Mặm,… những con người bình dị nhưng ẩn chứa bên trong
là cả bề sâu của một nền văn hoá lâu đời đất kinh kì. Họ là những "hạt bụi vàng" của Hà
Nội, khiến cho tác giả phải ao ước "những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà
Nội, hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh vàng" (Một người Hà
Nội). Trong những câu chuyện cảm động của Nguyễn Khải về những con người bình thường
của Hà Nội thường lấp lánh những suy tư khiến người đọc phải chiêm nghiệm, thấm thía:
"Chỉ có cái tâm tốt của con người mới làm nảy nở cái mầm yêu thương" (Nắng chiều); "Cái
nghĩa tình thầm lặng, nhỏ nhoi của mỗi gia đình, của mỗi vùng đất luôn luôn bị quên đi
trong cái ồ ạt, xáo động, ngầu đục của dòng đời vẫn cứ là mạch nước ngầm trong suốt, vô
nhiễm để nuôi sống những tinh hoa của dân tộc" (Đất kinh kì); "Ở đời chỉ có cái đức là
trường tồn, càng có nhiều càng tốt, không sợ thừa. Kì dư những thứ khác đều là phù du cả,
có đấy mất đấy, phúc đấy, hoạ đấy, không tính trước được đâu" (Người của ngày xưa)…
Có thể nói, Nguyễn Khải là nhà văn luôn luôn có ý thức sống có trách nhiệm với xã
hội, với con người. Ông luôn nhìn cuộc sống trong sự vận động, biến đổi và bao giờ cũng
muốn khám phá những vấn đề của hiện thực ở chiều sâu của nó. Nguyễn Khải quan niệm về
thiên chức của văn học: "Tác phẩm là một mảnh của đời sống chung, phải tham gia tích cực
vào cuộc đấu tranh cho sự nghiệp chung". Phương hướng đề tài nhằm thẳng vào cuộc sống
hiện tại khiến cho tác phẩm của Nguyễn Khải trở thành nơi giao tiếp, đối thoại với bạn đọc
cùng thế hệ và cả những bạn đọc thế hệ sau của tác giả. Đọc văn của Nguyễn Khải, người
đọc được tiếp cận với một thế giới đa dạng hơn, nhiều sắc thái hơn. Trong thế giới ấy có cái
anh hùng xen với cái bình thường; có cái đáng căm giận nhưng cũng đong đầỳ bao nhiêu
điều đáng cảm động, đáng để tin yêu, đáng trọng.
1.3. Phong cách nghệ thuật
1.3.1. Cái nhìn hiện thực tỉnh táo, có khả năng phát hiện vấn đề
Đọc văn Nguyễn Khải, người đọc thấy nổi bật lên cái nhìn hiện thực tỉnh táo. Nguyễn
Khải có một quan niệm rõ ràng về thiên chức của văn học: "Tác phẩm văn học là một mảnh
của đời sống chung, phải tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh cho sự nghiệp chung". Lấy
mảnh đất hiện thực làm đối tượng phản ánh, ngòi bút của Nguyễn Khải luôn cố gắng đi vào
mọi ngõ ngách của đời sống để tìm ra cái chân lý, cái sự thật ở bề sâu cuộc sống.
Trước năm 1978, Nguyễn Khải luôn nhìn cuộc sống ở thế bổ đôi, phân cực: tố xấu,
hay - dở, sáng - tối, tích cực- tiêu cực. Cái nhìn hiện thực nghiêm ngặt, tỉnh táo đã giúp cho
nhà văn phát hiện và nắm bắt rất nhanh các vấn đề đời sống. Chính cái nhìn nhạy bén đó, mà
ông đã phát hiện ra nhiều điều mới mẻ, nhìn đâu cũng thấy người lạ, chuyện lạ, “vẫn là đất
nước mình mà thêm một bước đi là một bước lạ. Vẫn là con người Việt Nam mà mình gặp
thêm một người lại tưởng như buộc mình phải hiểu lại chút ít về con người" (Hai ông già ở
Đồng Tháp Mười). Khéo léo năng động và nhạy bén, ông bám sát từng bước đi của đời sống,
tìm kiếm khám phá lý giải các vấn đề của đời sống từ chính "cái hôm nay ngổn ngang, bề
bộn" bằng “ngòi bút hiện thực tỉnh táo” (Phan Cự Đệ). Với cái nhìn và khám phá hiện thực
47
sắc sảo đó, Nguyễn Khải đã chỉ ra được những mâu thuẫn gay gắt giữa cái cũ và cái mới ở
từng cá nhân trong bối cảnh miền Bắc đang tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội thông qua
Xung đột. Và cũng trong bối cảnh ấy, nhà văn lại khám phá ra vẻ đẹp tỏa rạng từ tâm hồn
con người lao động mới tuy nghèo khó mà chất phác, giản dị qua Mùa Lạc. Suốt những năm
chống Mỹ, lăn lộn nơi chiến trường, hiện thực khốc liệt ấy ấy đã giúp cho nhà văn tìm kiếm
và lí giải sức mạnh kì diệu và niềm tin của con người trong đau thương, mất mát, hy sinh
qua Ra đảo, họ sống và chiến đấu, Chiến sĩ…
Từ sau 1978, nhất là từ thời kỳ đổi mới, nhà văn đề cập nhiều đến vấn đề thời thế, đến
tâm trạng của con người trước sự biến thiên của lịch sử. Viết về hiện thực của cuộc sống đời
thường, Nguyễn Khải có một cái nhìn tỉnh táo trước những đổi thay của với sự xô bồ, bộn
bề, đầy biến động phức tạp. Ông đồng thuận trước những tư tưởng tích cực, tiến bộ và phê
phán lối sống thực dụng, bon chen, vị kỉ… qua Mùi khói rạ, Thượng đế là hàng hóa, Người
của ngày xưa, Một người Hà Nội…
Thông qua tác phẩm của Nguyễn Khải, người đọc cảm nhận được cái nhìn tinh tường,
luôn phát hiện ra những vấn đề mấu chốt ẩn chìm trong mọi bình diện của hiện thực đời
sống. Điều đó đã góp phần tạo nên dấu ấn phong cách riêng cho văn chương Nguyễn Khải,
đúng như nhận xét của Nguyễn Thị Bình trong bài "Nguyễn Khải và tư duy tiểu thuyết",
đăng trên Tạp chí Văn học số 7 (1988): "Chỗ khác người và hơn người của Nguyễn Khải
không chỉ ở sự quan tâm "tính vấn đề", "nghĩ bằng vấn đề "... Điều quan trọng nằm ở chỗ
ông biết nhìn ra "vấn đề", nơi người khác không thể thấy".
1.3.2. Cái nhìn sắc sảo, tinh tế
Nguyễn Khải thể hiện một cái nhìn sắc sảo, tinh tế trước những biến động của đời
sống và luôn bắt nhịp để phản ánh kịp thời, sinh động, đáp ứng nhu cầu của thời đại.
Tác phẩm của Nguyễn Khải có rất nhiều chi tiết hay và đặc sắc. Chi tiết nghệ thuật
trở thành một điểm mạnh của truyện ngắn Nguyễn Khải bởi những chi tiết ấy bao giờ cũng
được nhà văn xây dựng rất chân thực, sinh động, độc đáo, đặc biệt là những chi tiết miêu tả,
phân tích tâm lý. Trong cuốn "Văn học và phê bình", Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm,
Lại Nguyên Ân cho rằng: "Ở văn xuôi của ta có khá nhiều nhà văn miêu tả tâm lý giỏi,
nhưng phân tích tâm lý thì ít ai làm được như anh Khải. Đi trước anh, về mặt này, có thể chỉ
là Nam Cao".
Văn chương của Nguyễn Khải thể hiện sự sắc sảo, tinh tế trong nghệ thuật miêu tả
thiên nhiên, trong thủ pháp nhân hoá thiên nhiên. Nhà văn đã hoà nhập lòng mình với thiên
nhiên, thổi linh hồn vào tạo vật, biến chúng trở thành một nhân vật hay thực thể tâm trạng
nhân vật.
Văn chương của Nguyễn Khải còn thể hiện sự tinh tế, sâu sắc trong cảm nhận hương
vị của Hà Nội mùa thu. Cái se lạnh của tiết thu, cái vàng rực của chút nắng buổi chiều,
sương và gió. Mùa thu đã đẹp, mùa xuân Hà Nội còn đẹp hơn lung linh hơn bởi làn mưa bụi
bay bay…

48
1.3.3. Cái nhìn giàu tính phân tích và đậm chất triết lí
Ngay từ khi mới bước vào nghề viết Nguyễn Khải đã xác định cho mình sứ mệnh
cao cả là đem văn chương nghệ thuật phục vụ con người và cuộc sống. Cuộc sống trong cái
nhìn của nhà văn không chỉ là một đường thẳng, nhất nhất đi theo một hướng mà nó toả ra
muôn ngả với rất nhiều ngõ ngách quanh co. Con người cũng không còn suy nghĩ một chiều
giản đơn mà tất cả mọi thứ đã trở nên xù xì, góc cạnh biến hoá bí ẩn. Nguyễn Khải đã tập
trung cao độ mọi tâm lực vào việc trình bày trước người đọc một chân dung cuộc sống đa
chiều, phức tạp, phong phú, với những "phía khuất mặt người", hay những ngõ ngách sâu
kín trong tâm hồn. Những yếu tố này đã đem đến cho văn chương Nguyễn Khải giàu tính
phân tích.
Cái nhìn giàu tính phân tích của ngòi bút Nguyễn Khải thường được soi chiếu cuộc
đời, số phận những "người gặp hằng ngày" trong mối quan hệ gia đình đến ngoài xã hội để
phát hiện bản lĩnh sống và tiềm lực tinh thần của những con người quyết tâm chống lại hoàn
cảnh, chống lại cái lỗi thời. Đó là những con người vượt lên mọi thử thách, đứng vững trong
cuộc sống, các nhân vật trong các tác phẩm: Một người Hà Nội, Một bàn tay và chín bàn
tay; Cặp vợ chồng ở chân động Từ Thức...
Văn chương của Nguyễn Khải càng về sau càng mang đậm tính triết lí. Từ những vấn
đề có tính thời sự, Nguyễn Khải biết xới lật, soi chiếu từ nhiều góc nhìn khác nhau, vì thế,
ông có nhiều phát hiện về vấn đề thời sự, nhân tâm, lẽ sống, lí tưởng, cách thức ứng xử của
con người... Sự kết hợp giữa tài hoa văn chương và kiến thức triết học uyên thâm đã giúp
cho Nguyễn Khải sáng tạo nên những tác phẩm đậm chất triết lí, chở nặng hơi thở của kiếp
nhân sinh. Trong bài “Nguyễn Khải và tư duy tiểu thuyết” đăng trên Tạp chí Văn học, số 7,
1998, Nguyễn Thị Bình cho rằng: “Trước đây, ông thiên về chính luận và triết lí xung quanh
các vấn đề chính trị nên văn ông trí tuệ mà hơi khô khan, lời “trữ tình ngoại đề” hơi nhiều,
nhất là lại mang đậm tinh thần “giáo huấn” nên nhiều người không “cảm” nổi. Giai đoạn
sau này, Nguyễn Khải hướng sự chú ý vào các vấn đề thế sự nhân sinh, sự nghiền ngẫm,
kiếm tìm chân lí được cổ vũ bởi niềm tin vào giá trị của cá nhân, văn phong của ông chuyển
từ chính luận sang triết luận và năng lực hiểu lòng người, năng lực tự phân tích đã khiến
cho nhiều kết luận của ông đạt tới chiều sâu triết học.”

1.4. Kết luận chung


Với hơn nửa thế kỷ cầm bút, Nguyễn Khải đã khẳng định được vị trí xứng đáng trên
văn đàn. Ông là nhà văn của lý tưởng, của những triết lý nhân sinh, của những khát khao vô
tận được sống để sáng tạo nên nhiều tác phẩm văn chương đích thực, phản ánh nhanh nhạy
hơi thở của đời sống, phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc cũng như nhiệm vụ xây
dựng con người mới cho xã hội.
Sinh thời Nguyễn Khải đã tâm sự cùng bạn đọc: "Nếu như trái tim chưa nguội lạnh"
thì nhà văn vẫn đi và vẫn viết. Và đến nay, khi linh hồn đã đi vào cõi vĩnh hằng thì những

49
tác phẩm vô giá của ông với lối tư duy nghệ thuật mới mẻ, độc đáo và sắc sảo vẫn luôn được
bạn đọc đón nhận, trân quý. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Khải mãi là tấm
gương sáng cho những người cầm bút thế hệ sau.

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 1

CÂU NỘI DUNG CĐR HP


1.1 Anh/ chị, hãy tóm lược những thành tựu văn học của Nguyễn Khải
CO1, CO2,
sau 1975?
CO5, CO6

1.2 Anh/ chị, hãy trình bày tính triết lí trong sáng tác của Nguyễn Khải
CO1, CO2,
sau 1975?
C03

1.3 Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Khải có những điểm nào đáng
CO1, CO2
lưu ý?
1.4 Theo Anh/ chị, từ sau năm 1978, sáng tác của Nguyễn Khải có
những đổi thay cơ bản nào? Vì sao? CO1, CO2,
CO5, CO6

50
Chương 2: Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989)

2.1. Vài nét về tiểu sử và quan niệm nghệ thuât


2.1.1. Vài nét về tiểu sử
Nguyễn Minh Châu sinh ra trong một gia đình nông dân khá giả ở xã Quỳnh Hải,
huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Năm 1945, ông thi đỗ bằng Thành chung. Năm 1950, ông
là học sinh chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng. Sau đó ông tình nguyện vào quân đội
và học trường Sĩ quan Lục quân Trần Quốc Tuấn rồi về sư đoàn 320 làm cán bộ trung đội
đến năm 1961.
Năm 1962, ông được điều động về Cục Văn hóa Quân đội, vừa làm biên tập vừa làm
phóng viên cho đến khi qua đời.
Trong thời kì chống Mỹ, Nguyễn Minh Châu có nhiều chuyến đi thực tế ở chiến
trường gian khổ, ác liệt như Quảng Bình, Vĩnh Linh, Quảng Trị…. Hiện thực khốc liệt của
cuộc chiến chống Mỹ trở thành nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật mãnh liệt nơi ông.
Sau 1975, Nguyễn Minh Châu xông xáo tìm tòi đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật và
đạt được nhiều thành tựu. Với sự đóng góp lớn lao cho nền văn học dân tộc, ông đã đạt
những giải thưởng cao quý: Giải thưởng Bộ Quốc phòng (1984 -1989) giải thưởng Hội nhà
văn Việt Nam (1990), đặc biệt là giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (2000).
Ngày 23/01/1989 Nguyễn Minh Châu trút hơi thở cuối cùng tại Viên quân y 108 Hà Nội sau
gần một năm chống chọi với bạo bệnh, để lại nhiều dự định sáng tác còn đang ấp ủ.
2.1.2. Vài nét về con người và quan niệm sáng tác
Nguyễn Minh Châu là người có ý chí kiên định, có niềm tin vững chắc vào sự lựa
chọn của mình, dám chấp nhận mọi khó khăn, thách thức dù bề ngoài có vẻ e dè. Vương Trí
Nhàn gọi đó là“sự dũng cảm rất điềm đạm”.
Nguyễn Minh Châu theo đuổi nghiệp văn chương với một niềm đam mê cháy bỏng
và sự dũng cảm tìm tòi, phát hiện, thể hiện cái mới lạ. Có ý thức rất sâu sắc về trách nhiệm
của người cầm bút trước bạn đọc và trước cuộc đời. Nguyên Ngọc đã khẳng định: “Nguyễn
Minh Châu là người mở đường tinh anh và tài năng nhất” của thời kì đổi mới.
Hoàn cảnh cá nhân có những yếu tố ảnh hưởng nhất định đến con người và sự nghiệp
sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Xuất thân trong gia đình nông dân khá giả nên ông có điều
kiện học hành tử tế. Quê hương ở Quỳnh Lưu - Nghệ An, một vùng đất dầy khó khăn, khắc
nghiệt bởi mẹ thiên nhiên và cũng là vùng đất học đã rèn rũa ý chí, nghị lực, tinh thần ham
học hỏi nơi ông. Là một người lính, một phóng viên, biên tập viên đã thôi thúc ông luôn có ý
thức đổi mới văn chương.
Hoàn cảnh lịch sử, xã hội cũng tác động không nhỏ đến con người và văn nghiệp của
Nguyễn Minh Châu. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, hiện thực đời
sống chiến tranh đã ăn sâu vào tiềm thức để rồi từ những trang đời đi đến những trang văn

51
đầy thuyết phục. Đất nước thống nhất, công cuộc đổi mới văn học đã khơi dậy trong ông bao
trăn trở về con người sau chiến tranh, về cuộc sống bộn bề để rồi từ đó Nguyễn Minh Châu
sáng tạo nên những trang văn bất hủ.
Quan niệm sáng tác văn chương của Nguyễn Minh Châu rất rõ ràng, văn học phải gắn
liền với đời sống và thời đại: Ông cho rằng: “Văn học bao giờ cũng phải trả lời những câu
hỏi của ngày hôm nay, bao giờ cũng phải đối mặt với những người đương thời về những câu
hỏi cấp bách của đời sống”. Quan niệm về hiện thực ở Nguyễn Minh Châu luôn gắn liền với
nền tảng tinh thần nhân bản: “Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm, mà tâm
điểm là con người”.
Trước 1975, khát vọng của nhà văn là: “Gắng đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề
sâu tâm hồn con người”. Sau 1975, ông nghiệm ra rằng: “Phải viết về con người. Tất nhiên
là con người không tách rời sự kiện chiến tranh” và “trước sau gì con người cũng leo lên
trên các sự kiện để đòi quyền sống”. Với Nguyễn Minh Châu, cái hiện thực phong phú,
nhiều vẻ đẹp nhất đó là thế giới bên trong của con người và khẳng định: “con người phải
được nhìn nhận ở cả bề sâu, bề sau, bề xa”.
Nguyễn Minh Châu ý thức về trách nhiệm, sứ mệnh của nhà văn trước cuộc đời. Ông
quan niệm, nhà văn cần phải dùng “ngòi bút của mình” trợ lực cho con người trong cuộc
đấu tranh giữa thiện và ác, hướng đến mục tiêu cao cả là vì con người: “Nhà văn tồn tại trên
đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực”. Nguyễn Minh Châu khẳng
định phẩm chất đầu tiên cần có của một người viết văn phải là tình yêu thương con người
nên toàn bộ sáng tác của ông đã thể hiện “mối quan hoài sâu sắc” và thường trực về số phận
và nỗi khổ đau của con người trần thế.
* Tác phẩm chính:
- Tiểu thuyết: Cửa sông (1967), Dấu chân người lính (1972), Miền cháy (1977), Lửa
từ những ngôi nhà (1977), Những người đi từ trong rừng ra (1982), Mảnh đất tình yêu
(1987); Tiểu thuyết viết cho thiếu nhi: Giã từ tuổi thơ (1974), Những ngày lưu lạc (1981),
Đảo đá kì lạ (1985).
- Truyện ngắn: Tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau (1970), Bức tranh
(1982), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (tập truyện ngắn 1983), Bến quê (1985), Cỏ
lau (1989),…
2.2. Quá trình sáng tác
2.2.1. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước 1975
Khởi thủy cho sự nghiệp văn chương của Nguyễn Minh Châu là tiểu thuyết Cửa
sông (1967). Đây là cuốn tiểu thuyết in đậm dấu ấn thời sự của những ngày đầu đất nước
bước vào cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước. Là câu chuyện về một làng quê ven biển
miền Trung vào những ngày đầu chiến tranh phá hoại của Mĩ. Cửa sông thực sự là hình ảnh
thu nhỏ của hậu phương thời chống Mỹ. Nhà văn đã thể hiện sự vững vàng, bình tĩnh của
những người dân làng Kiều khi đối mặt với chiến tranh và khẳng định: “mỗi người đều
52
mang trong lòng biết bao điều tốt đẹp mà mình có thể học hỏi, có thể khám phá suốt đời
không hết” (Cửa sông).
Tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau (1970) Gồm có 7 truyện ngắn: Nhành
mai, Bà mẹ xóm nhà thờ, Nguồn suối, Mùa hè năm ấy... Đặc sắc nhất là tác phẩm Mảnh
trăng cuối rừng đã tạo được dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc. Những truyện ngắn này
chủ yếu được viết trong những năm đầu kháng chiến chống Mĩ. Tất cả đều là những câu
chuyện, hình ảnh về người lính và người phụ nữ trong chiến tranh được đan cài giữa hiện
thực khốc liệt với cái diệu kì của cuộc sống để dệt thành bản hùng ca tráng lệ.
Tiểu thuyết Dấu chân người lính (1972) Gồm 3 phần: - Hành quân - Chiến dịch bao
vây - Đất giải phóng đã dựng lại khung cảnh rộng lớn và hào hùng của cuộc chiến tranh với
những cảnh vượt Trường Sơn, những chiến dịch Khe Sanh, Tà Cơn với những trận chiến ác
liệt trên vùng đất Quảng Trị. Tóm lại, ba tác phẩm tiêu biểu trên đã thể hiện được tâm niệm
sáng tác duy nhất của Nguyễn Minh Châu lúc này là hướng đến cuộc “chiến đấu vì sự sống
còn của cả dân tộc, đất nước”. Đó chính là những tác phẩm được viết bởi cảm hứng sử thi –
anh hùng ca – một cảm hứng chủ đạo của văn học thời kỳ chống Mỹ mà Nguyễn Minh Châu
là một trong những nhà văn thể hiện xuất sắc nhất. Có thể nói, Dấu chân người đã khẳng
định một bước tiến mới của Nguyễn Minh Châu ở thể loại tiểu thuyết.
Tựu trung, sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước 1975 nằm trong quỹ đạo chung của
cảm hứng sử thi – anh hùng ca và đậm đà màu sắc lãng mạn của văn học thời kỳ chống Mỹ.
Vấn đề đặt ra và giải quyết trong tác phẩm của ông còn mang tính chất đơn chiều. Đây cũng
là những điểm dừng của văn học Việt Nam thời chiến tranh.
2.2.2. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu từ sau 1975
* Về thể loại tiểu thuyết
- Miền cháy (1977) là câu chuyện của đất nước vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh
phải đối mặt với bao nhiêu khó khăn và thách thức – nhiều cái là hậu quả của chiến tranh,
nhiều cái lại mới nảy sinh sau cuộc chiến và ngay trong hàng ngũ những người chiến thắng.
“Bước ra khỏi một cuộc chiến tranh cũng phải có đầy đủ trí tuệ và nghị lực như bướcvào
một cuộc chiến tranh”, đó là điều mà nhà văn muốn gởi đến bạn đọc qua câu chuyện của gia
đình mẹ Êm và những con người vừa đi ra từ cuộc chiến trên một vùng đất khốc liệt nhất
suốt cuộc chiến Quảng Trị.
Lửa từ những ngôi nhà (1977) kể về câu chuyện một chuyến về phép của người lính
từ chiến trường về thành phố, hình ảnh hậu phương hiện ra không êm ả như nhiều sách thời
đầu chiến tranh thường mô tả, mà tiềm ẩn không ít vấn đề. Nhưng vượt lên tất cả mọi khó
khăn, thiếu thốn vẫn là một hậu phương vững chắc với những con người sẵn sàng hy sinh tất
cả cho tiền tuyến.
Những người đi từ trong rừng ra (1982) là câu chuyện về một tiểu đoàn rời khu căn
cứ trên rừng miền tây Thừa Thiên, tiến xuống vùng cửa Thuận An xây dựng thành một đơn
vị đánh cá biển. Những bàn tay người lính hôm qua chỉ quen cầm súng rồi cầm xẻng dò gỡ

53
mìn, hôm nay đã nắm lấy mái chèo và những giàn lưới học nghề đánh cá biển, đi từ thô sơ
đơn giản đến hiện đại, từ trong lộng vươn ra khơi xa. Không chỉ là câu chuyện làm ăn kinh
tế, Nguyễn Minh Châu còn đặt những nhân vật người lính của mình như Hiển, Nghinh, Cúc,
Khơi,…vào môi trường đời sống thường nhật với những nhu cầu, những quan hệ phức tạp,
cả xã hội và riêng tư. Có không ít những bỡ ngỡ, lúng túng, cả những vấp ngã ở họ. Nhưng
rồi những phẩm chất của người lính được hình thành và rèn luyện trong bấy nhiêu năm chiến
tranh đã giúp cho phần lớn trong số họ tự biết thay đổi, đứng vững được và tìm thấy vị trí
của mình. Kết thúc tác phẩm được giải quyết theo chiều hướng có hậu và có phần giản đơn
nên chưa thực sự phù hợp với thực tế cuộc sống đầy bộn bề, phức tạp và thử thách thời hậu
chiến.
Mảnh đất tình yêu (1987) thể hiện bước chuyển mạnh mẽ nhất của tiểu thuyết
Nguyễn Minh Châu. Truyện được kể bằng lời của nhân vật Quy, theo cách xen kẽ hồi tưởng
với hiện tại, từ lúc còn là một chú bé mồ côi cha khi mới nửa tuổi, sống với mẹ và ông
ngoại, đến lúc trưởng thành, rời làng quê ra thành phố. Qua đó, tác phẩm làm hiện lên nhiều
cuộc đời với những số phận lắm truân chuyên của mấy thế hệ nối tiếp nhau trên một vùng
đất ở cửa lạch đổ ra biển, cùng với bao biến thiên của chiến tranh và đổi thay của xã hội.
Con người đời thường được phản ánh, khám phá trong tác phẩm gắn liền với những giá trị
tinh thần và chiều sâu nhân bản. Họ dù còn hạn hẹp nhất định về sự hiểu biết như nhân vật
Điểm – một người đàn bà quê mùa nhưng lại có một tâ hồn tuyệt đẹp: “giống như một chất
mật ngọt, chắt ra từ đời sống đầy nghiệt ngã”, từ mảnh đất đầy tình yêu thương của con
người. Mảnh đất tình yêu thực chất là một “cuộc giao tranh giữa cái tốt và cái xấu trong mỗi
con người” để từ đó nghiền ngẫm, khám phá đời sống nội tâm của con người đa chiều, đa
diện và nhân bản hơn.
Bốn tiểu thuyết trên đã đánh dấu bước chuyển mình của Nguyễn Minh Châu từ chủ
nghĩa hiện thực bay bổng chất lãng mạn cách mạng và cảm hứng sử thi bước sang chủ nghĩa
hiện thực tỉnh táo. Bên cạnh đó, ông còn sáng tác một số tiểu thuyết viết cho thiếu nhi như
Giã từ tuổi thơ (1974), Những ngày lưu lạc (1981), Đảo đá kì lạ (1985), góp phần làm
phong phú hơn cho mảng đề tài này tuy chưa thật sự cuốn hút như các tác phẩm của Tô
Hoài, Võ Quang…
* Về thể loại truyện ngắn
Bức tranh (1982) được coi là tác phẩm mở đầu quá trình chuyển hướng sáng tác sang
kiểu nhân vật tư tưởng của Nguyễn Minh Châu. Truyện ngắn xoay quanh hai nhân vật chính
là người họa sĩ và anh chiến sĩ, nội dung chủ đạo là lòng suy nghĩ, sự hồi tưởng và trăn trở,
đấu tranh tâm lí của người họa sĩ tài năng nhưng cũng mang đầy những khuyết điểm và hạn
chế của con người. Anh chàng họa sĩ rất tài năng, nghiêm túc với nghệ thuật và công việc.
Từ lòng biết ơn đối với người đã giúp mình, người họa sĩ đã vẽ một bức kí họa người chiến
sĩ bằng cả tài năng, tấm lòng và cảm xúc. Người họa sĩ hứa sẽ đem bức tranh truyền thần ấy
về trao trực tiếp cho người mẹ của chiến sĩ. Khi trở về, anh bị cuốn vào guồng quay công
việc nên đã quên lời hứa, quên đi nỗi đau của người mẹ đang khắc khoải đợi chờ và thương
54
nhớ đứa con ngoài tiền tuyến. Anh ta đóng gói bức tranh và đưa đi dự triển lãm ở nước ngoài
và được đánh giá là một tác phẩm hội họa nổi tiếng. Anh ta chìm trong sự thành công đầy
bất ngờ của bức kí họa này. Cho tới khi gặp lại chiến sĩ ấy tại hiệu cắt tóc, anh ta vừa hoảng
hốt, dằn vặt, xấu hổ, đấu tranh dữ dội trong nội tâm và rồi nhận ra chính sự vô tâm của mình
đã làm cho người mẹ chiến sĩ bị mùa lòa do khóc nhiều vì nhớ thương con. Anh đã nhận ra
những khiếm khuyết, sai lầm của bản thân để từ đó khắc phục và sửa chữa bằng một lời
nhắn nhủ: “xin mọi người hãy tạm ngừng một phút cái nhịp sống bận bịu, chen lấn để tự suy
nghĩ về chính mình”, hãy dũng cảm đối diện với sai lầm của chính mình để tự thức tỉnh
lương tri.
Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (tập truyện ngắn 1983) kể về câu chuyện của
cuộc đời một người đàn bà tên Quỳ. Là một con người thoạt nhìn như hoàn hảo nhưng lại
không hoàn hảo. Chị có rất nhiều ưu điểm: một người yêu nước, từ chối một trường khoa
học tự nhiên ở nước ngoài để vào Trường Sơn tham gia kháng chiến; một người giỏi giang
làm được rất nhiều việc từ y tá, phóng viên, lái xe, y sĩ và là một người phụ nữ xinh đẹp.
Nhưng chị vẫn là một con người không hoàn hảo bởi tính tham lam của chị, sự tham lam đi
tìm cái tuyệt đối không tồn tại trong con người. Quỳ dường như chưa từng yêu ai cả, chị chỉ
yêu cái tuyệt đối mà chị cho là đã tồn tại trong khoảnh khắc nào đó trong con người nào đó
rồi tự đánh mất tình yêu từ những người đồng đội như Hòa, Hậu, Thương dành cho chị. Sau
những năm tháng chiến tranh, Quỳ sống trong những mảnh vỡ quá khứ rồi lang thang trên
con tàu tâm tưởng xuất phát từ “một ngôi nhà ga nằm ẩn kín tận trong rừng sâu” để đối
diện với chính mình trong hành trình cô đơn. Con tàu ấy lao vun vút qua nhiều không gian,
“đem chị ra khỏi cánh rừng thiêng liêng để trao trả lại cho cuộc đời hiện tại”. Chị bừng
tỉnh nhận ra: “trong cõi đời chỉ có những con người chứ không có ai là thần thánh cả” nên
đừng bao giờ đòi hỏi con người là một thánh nhân.
Bến quê (1985) là một tập truyện ngắn thấm đẫm ý vị triết lí, chiêm nghiệm về con
người và cuộc đời. Bến quê ít nhiều mang tính tự truyện và dự báo nên từ những trang văn,
con người hiện lên rất đỗi chân thật, chân thành. Tập truyện đã đem đến bức thông điệp về
tình yêu và lẽ sống của con người trần tục thật cảm động, lay tỉnh nhận thức của con người
trong việc gìn giữ, nâng niu, trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị, thân thuộc được chắt
lọc từ cuộc sống.
Cỏ lau (1989) là một tập truyện ngắn đề cập đến bi kịch chiến tranh, đến nỗi đau thân
phận của con người không thoát nổi sự trớ trêu, ngang trái của cuộc đời. Trong truyện ngắn
Cỏ lau, nhà văn đã tập trung xây dựng hình tượng nhân vật Lực, một người lính đã đi qua
chiến tranh và phải hứng chịu biết bao điều nghiệt ngã, bất ưng. Chiến tranh đã cướp đi của
Lực tuổi trẻ, gia đình, tình yêu và hạnh phúc. Trở về sau chiến tranh, mọi người ngỡ anh đã
chết ở chiến trường. Người vợ rất mực yêu thương cũng đã đi bước nữa. Vợ chồng gặp nhau
nhưng không phải trong niềm vui đoàn tụ mà là khởi đầu cho những bi kịch tinh thần mới.
Họ đắng cay vì phải chấp nhận cái đã mất không thể nào tìm lại được. Chiến tranh đã khép
lại nhưng nỗi đau chia lìa thì vẫn song hành, tiếp nối trong số phận nhiều con người. Lực
55
đau đớn nhận thấy sự trở về của mình “chỉ làm rối thêm cuộc sống”, “chỉ quấy rầy số phận
đã an bài” và chấp nhận sống với phần đời còn lại cùng những hồi ức về quá khứ. Tác phẩm
như một lời phán quyết của nhà văn về tội ác chiến tranh và cũng là tiếng lòng cảm thộng
sâu sắc trước thâ phận còn người sau chiến tranh.
Cảm hứng về nỗi đau thân phận, sự đắng cay của phận người còn được nhà văn
Nguyễn Minh Châu thể hiện qua nhiều tác phẩm. Mỗi tác phẩm là một mảnh đời, mộ nỗi
đau sâu thẳm trong tim, khó có thể giải quyết một một cách rốt ráo một sớm một chiều. Đó
là nỗi đăng cay, cam chịu ngoài ý muốn của người đàn bà trong Chiếc thuyền ngoài xa; là
lão Khúng trong Phiên chợ Giát, một người nông dân với phẩm chất tốt đẹp, giàu tình yêu
thương nhưng phải ngập chìm trong bao nỗi đau và khát vọng đổi đời mà lại cứ phải sống
trong “bóng tối dày đặc”.
Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu còn phản ánh, lí giải nguyên nhân dẫn đến sự
bào mòn, tha hóa về nhân cách của con người sau 1975. Nguyễn Minh Châu cũng thẳng thắn
chỉ ra những mặt tốt và tật xấu của con người để lay tỉnh sự tự ý thức trong mỗi cá nhân.
Nhà văn cảm thấy đau đớn, xót xa trước sự tha hóa của con người trước sự va đập của hoàn
cảnh qua Mùa trái cóc ở Miền Nam. Ông cảm thấy đắng cay khi phải chung sống, thậm chí
ngồi chung mâm với một lũ người – quỷ, có cả “quỷ già đời, quỷ mới tập sự”.
Ngoài thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn, Nguyễn Minh Châu còn viết khá nhiều bài
bàn về văn học, tản mạn suy nghĩ, kinh nghiệm của nhà văn,… Phần lớn những bài này được
tập hợp trong cuốn Trang giấy trước đèn (1994).
2.3. Phong cách nghệ thuật
2.3.1. Là cây bút luôn tìm tòi, đổi mới
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn chiến sĩ vừa “dũng cảm điềm đạm” (Vương Trí
Nhàn) vừa “là người mở đường tinh anh và tài năng nhất”(Nguyên Ngọc) của thời kì đổi
mới. Sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu thể hiện qua quan niệm về
hiện thực và mối quan hệ giữa văn học với đời sống cũng như bản lĩnh, trách nhiệm của
người cầm bút.
Trước 1975, ngòi bút của ông dẫu nằm trong quỹ đạo chung của khuynh hướng sử thi
và cảm hứng lãng mạn nhưng vẫn có những nét tinh tế, sáng tạo riêng. Sau 1975, ý thức đổi
mới của ông được thể hiện rõ nét hơn bởi sự tác động mạnh mẽ của hiện thực đời sống, nhà
văn không thể giữ đôi mắt cũ để nhìn nhận và phản ánh cái mới mà buộc phải đổi thay để
phù hợp với thời đại.
Bắt đầu từ tiểu thuyết Miền cháy, kế đó là Những người đi từ trong rừng ra và một số
truyện ngắn tiêu biểu như Bức tranh, Cỏ lau…đã thể hiện rõ sự đổi thay về cách nhìn đời,
nhìn người của Nguyễn Minh Châu. Giọng văn thấm đẫm sự chiêm nghiệm và chất triết luận
về cuộc sống và thân phận con người thời hậu chiến.
Viết về thân phận con người sau chiến tranh cũng thể hiện rõ ý thức đổi mới của
Nguyễn Minh Châu. Ngoài việc khẳng định phẩm chất tốt đẹp của con người, tác giả đã
56
mạnh dạn tung hê, lật tẩy cái “phần con” trong con người với lối sống vị kỉ, xấu xa, tàn nhẫn
qua tiểu thuyết Mảnh đất tình yêu và hàng loạt truyện ngắn như Mùa trái cóc ở Miền Nam,
Chiếc thuyền ngoài xa, Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát…Thông qua những tác phẩm này,
Nguyễn Minh Châu đã bộc lộ đúng đắn cách nhìn nhận, đánh giá về con người, từ đó gởi
gắm thông điệp về triết lí nhân sinh sâu sắc, ánh lên tình yêu thương và niềm tin mãnh liệt
vào cuộc sống.
2.3.2. Là cây bút đong đầy tư tưởng nhân bản, nhân văn
Dù viết ở thể tài nào, giai đoạn nào thì tác phẩm của Nguyễn Minh Châu vẫn thấm
đẫm tình yêu thương con người, hướng cho con người đến với những điều tốt đẹp nhất.
Trước 1975, nhất là trong thời kì chống Mỹ ác liệt, những trang viết của nhà văn luôn tin
vào hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người không bao giờ mất đi, không bao giờ bị hủy
diệt. Mảnh trăng cuối rừng là một trong những minh chứng tiêu biểu nhất.
Sau 1975, dẫu phê phán cái hạn chế của con người một cách mạnh mẽ nhưng ông vẫn
dành cho nhân vật của mình những khoảng lặng để soi ngắm lại chính mình rồi dằn vặt, tự
vấn, giày vò và cuối cùng đã biết cách sửa chữa sai lầm, hướng thiện. Niềm tin mãnh liệt vào
vẻ đẹp nhân bản của con người cũng như tình yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc của nhà văn
được truyền tải qua các tác phẩm tiêu biểu như: Bức tranh, Cỏ lau, Bên đường chiến tranh,
Người đàn ba trên chuyến táu tốc hành…
Là một nhà văn, trước khi cầm bút lên viết, điều đầu tiên phải hướng đến nhân dân và
ý thức được sứ mệnh và trách nhiệm của bản thân. Nhận thức rõ được điều đó nên mỗi tác
phẩm của Nguyễn Minh Châu đều mang tính nhân bản, nhân văn rất cao.
2.3.3. Là cây bút có khả năng phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo
Đi sâu vào phân tích tâm lí nhân vật để khai thác sự sống đích thực của bản ngã con
người là một trong những nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.
Dường như, ông đã dồn hết tâm huyết, sức lực, tình cảm, để len lỏi vào những ngóc ngách
sâu kín nhất của tâm hồn con người, miêu tả họ từ bên trong với những trạng thái tâm lí, tinh
thần một cách tinh tế nhất. Trước năm 1975, chúng ta có thể nhận thấy đặc đặc điểm văn
phong này của Nguyễn Minh Châu qua việc miêu tả, phân tích diễn biến tâm trạng của nhân
vật Nguyệt và Lãm trong Mảnh trăng cuối rừng hay sự giằng xé, đấu tranh trong thế giới nội
tâm của nhân vật Kinh và Lữ ở Dấu chân người lính.
Sau 1975, năng lực miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật của Nguyễn Minh Châu đã đạt
đến độ chín. Đọc tiểu thuyết Miền cháy, người đọc bị cuốn vào mạch chảy tâm lí của nhân
vật bà mẹ Êm. Đọc Cỏ lau, chúng ta lại nhận ra cái sắc sảo, tinh tế, sâu sắc của Nguyễn
Minh Châu khi miêu tả diễn biến tâm lí của nhân vật Lực, một con người trở về sau chiến
tranh với bao dằn vặt, đau đớn. Đặc biệt, với nhân vật người họa sĩ trong truyện ngắn Bức
tranh, Nguyễn Minh Châu lại thuyết phục người đọc khi để cho nhân vật đối diện, tranh biện
với chính mình rồi nhận ra cái vị kỉ, cái sai lầm đáng xấu hổ bên cạnh những mặt tốt của
chính mình. Nút thắt tâm lí của nhân vật này được mở ra khi nhà văn để cho nhân vật chiến
57
thắng chính mình và hướng thiện. Thông qua việc miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật của
Nguyễn Minh Châu đã chứng tỏ sự thấu hiểu sâu sắc tâm lí con người cũng như tài năng
riêng biệt của mình.
Nguyễn Minh Châu là người đi tiên phong trong phong trào mở đường cho công cuộc
đổi mới văn học dân tộc. Ông luôn đi tìm sự thật và viết lên những góc khuất trong đời sống,
để lại nhiều dư âm trong tâm hồn bạn đọc. Dấu ấn phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh
Châu có ảnh hưởng lớn đối với nền văn học Việt Nam, đặc biệt là thời kỳ đổi mới.
2.4. Kết luận chung
Là một nhà văn chiến sĩ, Nguyễn Minh Châu đã gắn bó mật thiết với hai cuộc kháng
chiến của dân tộc. Khi đất nước ngừng tiếng súng, nhà văn lại tiếp tục cầm viết để phản ánh
những đổi thay của đất nước. Ông là một trong những nhà văn có nhiều đóng góp rất đáng
trân quý cho nền văn học hiện đại Việt Nam, nhất là thời kì đổi mới. Hơn 30 năm cầm bút,
Nguyễn Minh Châu xứng đáng “là một tấm gương lao động sáng tạo và đầy trách nhiệm
cho đến hơi thở cuối cùng” (Nguyễn Văn Hạnh).

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 2

CÂU NỘI DUNG CĐR HP


2.1 Những thành tựu văn học của Nguyễn Minh Châu sau 1975? CO1, CO2,
CO5, CO6
2.2 Sự đóng góp của Nguyễn Minh Châu vào quá trình đổi mới của văn CO1, CO2,
học Việt Nam sau 1975? C03
2.3 Trình bày phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu? CO1, CO2
2.4 Vì sao nói Nguyễn Minh Châu là niềm kiêu hãnh của người cầm
bút? CO1, CO2,
CO5, CO6

58
Chương 3: Xuân Quỳnh (1942 – 1988)

3.1. Vài nét về tiểu sử, con người và quan niệm nghệ thuật
3.1.1. Vài nét về tiểu
Xuân Quỳnh tên đầy đủ là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh ngày 6/10/1942 trong một
gia đình công chức nhỏ tại thôn La Khê, huyện Hoài Đức (nay là làng La Khê, xã Văn Khê,
thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây). Bà được thừa hưởng nhan sắc, phẩm hạnh của người mẹ và
tình yêu văn chương của người cha, nhưng cuộc đời sớm chịu thiệt thòi, tuổi thơ bị đánh
cắp. Hai tuổi Xuân Quỳnh mồ côi mẹ, cha có gia đình mới và chuyển vào miền Nam sinh
sống. Xuân Quỳnh cùng chị gái Đông Mai nương tựa vào bà nội.
Năm 13 tuổi (1955), Xuân Quỳnh được tuyển vào Đoàn ca múa nhân dân TW rồi trở
thành diễn viên múa. Nhưng say mê thơ, bà đã quyết định từ bỏ ánh đèn sân khấu để chuyên
tâm sáng tác. Xuân Quỳnh theo đuổi nghiệp văn chương khi chỉ có vốn văn hoá lớp 6, bà đã
cần mẫn học tập trong suốt cuộc đời cầm bút. Sau khi tốt nghiệp lớp bồi dưỡng viết văn của
Hội nhà văn ở Quảng Bá, bà đã trải qua nhiều công việc khác nhau, cuối cùng về làm biên
tập thơ ở báo Văn nghệ, báo Phụ nữ Việt Nam và nhà xuất bản Tác phẩm mới. Xuân Quỳnh
là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1967.
Xuân Quỳnh tham gia cuộc kháng chiến chống Mĩ tại tuyến lửa Vĩnh Linh, Quảng Trị
và cho ra đời hai tập thơ Hoa dọc chiến hào và Gió Lào cát trắng và được xem là gương mặt
tiêu biểu của phong trào thơ trẻ thời chống Mĩ. Thành công với văn chương nhưng hạnh
phúc gia đình sớm tan vỡ. Năm 1973, bà tái hôn với nhà viết kịch Lưu Quang Vũ và sống
hạnh phúc cho đến ngày 29/8/1988 vì cả gia đình nhỏ của Xuân Quỳnh thiệt mạng trong một
tai nạn giao thông ở cầu Phú Lương - Hải Dương.
3.1.2. Vài nét về con người và quan niệm nghệ thuật
Xuân Quỳnh bị cuộc đời “đánh cắp tuổi thơ” nên trong sâu thẳm tâm hồn, bà luôn ám
ảnh về kí ức tuổi thơ côi cút, ghèo khổ. Đây cũng là yếu tố khiến cho Xuân Quỳnh luôn
mang nặng cảm giác buồn tủi và nhiều lo âu phấp phỏng. Bà từng tâm sự với bạn bè: “Suốt
cả thời nhỏ dại lúc nào tôi cũng thấy rét”.
Xuân Quỳnh là một người phụ nữ đẹp, chịu thương, chịu khó, giàu đức hi sinh, luôn
khát yêu thương và hạnh phúc gia đình. Bà cũng là người phụ nữ mạnh mẽ và cá tính, dám
vượt qua mọi rào cản, thử thách để tìm lấy hạnh phúc cho đời mình. Nhà nghiên cứu Lưu
Khánh Thơ từng nhận xét về Xuân Quỳnh: “xinh đẹp, tài năng, thông minh, giàu nữ tính,
yêu đến quên cả bản thân mình”. Vẻ đẹp tâm hồn của Xuân Quỳnh đã trở thành nguồn cảm
hứng trong thơ Lưu Quang Vũ: “Đủ cho anh mãi mãi biết ơn em” (Em II).
Xuân Quỳnh còn là người đam mê thơ đến cháy bỏng và có những quan niệm đúng
đắn về thơ – thứ nghệ thuật mà Xuân Quỳnh cảm hiểu bằng bản năng nhiều hơn là bằng lí
luận. Bà từng xác nhận nguyên nhân đến với văn chương trong bản Tiểu sử văn học: “Vì

59
thích thú. Làm văn học cảm thấy như mình được sống thêm một cuộc đời khác nữa”. Bà
cũng thừa nhận rằng: “Thơ là một nghệ thuật kì diệu nhưng khó mà đi tới”, đòi hỏi người
cầm bút không chỉ có đam mê mà cần phải có sự nỗ lực rất nhiều.
Xuân Quỳnh quan niệm, thơ là một trong những phương tiện hữu hiệu nhất để giãi
bày, chia sẻ, cảm thông, niềm vui nhân đôi và nỗi buồn sẻ nửa: “Muốn giãi bày cùng ai đó
đôi câu/ Về tất cả những gì tôi đã trải” (Thơ tình cho bạn trẻ). Lưu Khánh Thơ đã nhận xét
khá xác đáng, thuyết phục về quan niệm thơ của Xuân Quỳnh: “Chị đã nghỉ bằng, ống bằng
thơ, dùng thơ để tự hiểu mình, cũng giúp mọi người hiểu mình”.
Với Xuân Quỳnh, làm thơ là phải hướng đến sự sáng tạo, hướng đến cái mới, cái hiện
đại nhưng cũng rất cần gìn giữ nét đẹp truyền thống. Chính nét đẹp truyền thống văn hóa
cũng góp phần tạo nên nét đặc sắc trong thơ Xuân Quỳnh.
* Tác phẩm chính
- Thơ: Tơ tằm - Chồi biếc (in chung, 1963); Hoa dọc chiến hào (1968), Gió Lào, cát
trắng (1974), Lời ru trên mặt đất (1978), Sân ga chiều em đi (1984), Tự hát (1984), Hoa cỏ
may (1989), Thơ Xuân Quỳnh (1992), Thơ tình Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ (1994).
- Thơ viết cho thiếu nhi: Bầu trời trong quả trứng (1982)
- Truyện viết cho thiếu nhi: Mùa xuân trên cánh đồng (1981), Bến tàu trong thành
phố (1984), Vẫn có ông trăng khác (1986), Chú gấu trong vòng đu quay (tập truyện).
3.2. Quá trình sáng tác
3.2.1. Sáng tác của Xuân Quỳnh trước 1975
Xuân Quỳnh có thơ đăng báo Văn nghệ từ năm 1962. Năm 1963, để đánh dấu thời
gian theo học của Xuân Quỳnh ở Quảng Bá, người ta cho in tập thơ Tơ tằm – Chồi biếc,
phần Chồi biếc là sáng tác của Xuân Quỳnh. Tập thơ mang cái nhìn trong trẻo, trẻ trung, có
khi bồng bột nhưng rất đằm thắm, chân thành trước cuộc đời.
Tập thơ Hoa dọc chiến hào (1968, gồm 29 bài), ghi dấu sự trưởng thành và độ chín
của hồn thơ Xuân Quỳnh. Tập thơ khẳng định sự bất diệt của cái đẹp – bất diệt ngay trong
sự hủy diệt. Đây là tập thơ vang vọng âm hưởng của chiến tranh thời chống Mỹ.
Tập thơ Gió Lào, cát trắng (1974, gồm 33 bài), ghi lại cảm xúc, suy tư cua3 Xuân
Quỳnh về chiến tranh khi đi thực tế ở Quảng Trị; thể hiện sâu sắc tình cảm của nhà thơ với
đất nước, con người Việt Nam trong lửa đạn chiến tranh.
3.2.2. Sáng tác của Xuân Quỳnh sau 1975
Sau 1975, cảm hứng sử thi trong thơ Xuân Quỳnh đã dần được thay thế bằng cảm
hứng thế sự đời thường với bao nỗi niềm lo toan về thế thái nhân tình, về sự hữu hạn của đời
người, về dự cảm mong manh về hạnh phúc… Giọng điệu trữ tình đằm thắm, da diết lo âu là
nổi bật nhất.
Tập thơ Lời ru trên mặt đất (1975 -1978, gồm 34 bài), tập trung thể hiện niềm vui
thống nhất đất nước, sự thay da đổi thịt của dân tộc; hoài niệm về một thời đạn bom hào

60
hùng nhưng thấm đẫm nghĩa tình… tiêu biểu là các bài thơ Đêm cuối năm, hát với con tàu,
Những năm tháng không yên…
Tập thơ Sân ga chiều em đi (1981, gồm 62 bài), viết về nhiều đề tài khác nhau: Đề tài
tình yêu và những cảm xúc riêng tư; Đề tài chiến tranh; Đề tài viết cho con. Phần lớn các bài
thơ in trong tập thơ này được tuyển chọn từ các tập thơ trước. Có thể xem đây là một tuyển
tập khép lại một chặng đường thơ của Xuân Quỳnh để chuẩn bị bước sang một chặng đường
mới.
Hai tập thơ Tự hát (1984, gồm 36 bài) và Hoa cỏ may (1989, gồm 28 bài), chủ yếu
viết về đề tài tình yêu – một đề tài thuộc về sở trường và cũng là đề tài Xuân Quỳnh yêu
thích nhất. Phải đến hai tập thơ này, mọi cung bậc của tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh mới
được bộc lộ đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất. Dường như, Xuân Quỳnh đã trải lòng thực sự với
những ngọt ngào, cay đắng trong hương vị tình yêu với độ chín của cảm xúc và nhận thức và
cả dự cảm bất an, đỗ vỡ, trái ngang của cõi nhân sinh… tiêu biểu là các bài thơ Tự hát, Mẹ
của anh, Nói cùng anh…
Tựu trung, từ những vần thơ non nớt buổi ban đầu cho đến những bài thơ già dặn, đi
vào độ chín, thơ Xuân Quỳnh luôn thể hiện tiếng lòng của người phụ nữ dịu dàng, hồn hậu,
mạnh mẽ, cháy bỏng và thấu sâu “những nỗi đau và trăn trở của một cuộc đời và một số
phận nghệ thuật của người đàn bà làm thơ” (Đoàn Thị Đặng Hương).
3.3. Phong cách thơ Xuân Quỳnh
3.3.1. Xuân Quỳnh – tiếng thơ của tình yêu
- Trong hành trình sáng tạo nghệ thuật, nhiều bài thơ đặc sắc của Xuân Quỳnh thường
gắn liền với đề tài tình yêu bởi với bà, tình yêu là muôn thuở, là nhu cầu tự nhiên của đời
sống tinh thần con người và “Chỉ tuổi trẻ, chỉ tình yêu” là “vĩnh cửu” mà thôi. Với Xuân
Quỳnh, tình yêu còn là ngọn nguồn của khát vọng tái sinh những nguồn năng lượng diệu kì
cho cuộc sống. Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh luôn chân thành và không vị kỉ, tiêu biểu là
các bài thơ Nói cùng anh, Tự hát, Thơ viết cho mình và những người con gái khác…
Tiếng thơ tình yêu của Xuân Quỳnh luôn dạt dào cảm xúc với nhiều cung bậc khác
nhau: dịu êm, đắm say, tin yêu, dữ dội, vị tha, hoài nghi, trăn trở, hoang mang, phiền
muộn… Nét nổi bật trong thơ tình của Xuân Quỳnh là sự kết hợp giữa cảm xúc và nhận
thức. Phạm Đình Ân cho rằng: “Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không dừng lại ở mức độ
tình yêu buổi ban đầu giản đơn, hò hẹn, non nớt, ngọt ngào mà là tình yêu hạnh phúc, với
nhiều đòi hỏi ở chiều sâu tình cảm, với nhiều minh chứng thử thách mang đậm dấu ấn trách
nhiệm”. Một số bài thơ tiêu biều của Xuân Quỳnh như: Thơ tình cho bạn trẻ, Chỉ có sóng và
em, Hoa cỏ may, Lại bắt đầu…
3.3.2. Xuân Quỳnh – tiếng thơ trữ tình đằm thắm, giàu nữ tính
Thơ Xuân Quỳnh là niềm khát khao được giao hòa với con người và tạo vật. Nhân vật
trữ tình luôn khắc ghi vào sâu thẳm tâm hồn ngàn vạn âm vang từ đời sống muôn màu với
nhiều trạng thái khác nhau từ “dữ dội”, “ồn ào”, “dịu êm”, “lặng lẽ”, thương nhớ đến “bạc
61
đầu” đến chất chứa u hoài: “Sân ga chiều em đi/ Bàn tay da diết nắm/ Vừa thoáng tiếng còi
tàu/ Lòng đã Nam đã Bắc” (Sân ga chiều em đi).
Tiếng thơ của Xuân Quỳnh thật đằm sâu khi bộc lộ nỗi cô đơn và nuối tiếc khi nhận
ra sự đổi thay của đời sống con người trước dòng chảy của thời gian: “Bao mùa thu hoa vẫn
vàng như thế/ Chỉ là em đã khác với em xưa”(Hoa cúc).
Tiếng thơ của Xuân Quỳnh luôn đong đầy nữ tính, thể hiện qua sự sắc sảo, tinh tế
trong cảm nhận và cách ứng xử trước các mối quan hệ từ gia đình đến ngoài xã hội. Dẫu đề
cập đến mối quan hệ nào thì thơ Xuân Quỳnh cũng ánh lên tình yêu thương và tấm lòng
nhân hậu, vị tha của người phụ nữ, đúng như Lưu Khánh Thơ nhận xét: “thơ Xuân Quỳnh
bao giờ cũng là tiếng nói rất riêng của một tâm hồn phụ nữ thông minh, sắc sảo, giàu yêu
thương”. Dẫu có lúc mạnh mẽ, táo bạo nhưng dấu ấn của mẫu người phụ nữ truyền thống đa
cảm, yếu mềm vẫn luôn hiện điện trong thơ bà: “Tay trong tay tôi đã bên người/ Tôi chẳng
nói điều chi về vĩnh viễn/ Vì mỗi sáng khi mặt trời hiển hiện/ Là một ngày tôi lại bắt đầu
yêu” (Lại bắt đầu).
Luôn hường về cuộc sống gia đình, yêu chồng, thương con, buồn vui lẫn lộn và sự hy
sinh vô bờ của người phụ nữ cũng là một nguồn cảm hứng lớn trong thơ Xuân Quỳnh.
Nguồn cảm hứng này cũng tô đậm thêm sắc điệu nữ tính trong thơ bà. Viết cho con ngày
chiến thắng, Lời ru của mẹ, Mẹ và con, Thơ viết tặng anh, Chỉ một mình anh, Thời gian
trắng…là những bài thơ tiêu biều nhất minh chứng cho điều đó.
3.3.3. Xuân Quỳnh – tiếng thơ dung dị mà điêu luyện trong biểu đạt
Xét một cách tổng thể, thơ Xuân Quỳnh “chịu sự chi phối từ phương thức trữ tình
điệu nói” (Trần Văn Minh). Hoài vọng về quá khứ để trân trọng trong hiện tại là một cung
bậc cảm xúc thường thấy trong thơ bà: “Em vẫn cứ thương về ngày trước/ Người yêu em
thuở trước có em đâu”… Nhưng lúc này anh ở bên em/ Niềm vui sướng trong ta là có thật”
(Nói với anh). Không chỉ vui trong hiện tại, thơ Xuân Quỳnh còn chứa đựng những dự cảm
về tương lai đầy trắc trở và ám ảnh những nỗi buồn (Tự hát.
Không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh vừa gần gũi, quen thuộc vừa sâu thẳm
mênh mông. Đó không chỉ là không gian gắn với ăn nhà, dòng sông, con đường thân thuộc
mà còn là không gian tâm trạng, mênh mông, trừu tượng (Sân ga chiều em đi, Gió lào cát
trắng, Sóng…).
Giọng điệu trong thơ Xuân Quỳnh cũng thật đặc biệt. Xuất phát từ niềm khao khát
tìm kiếm những tâm hồn đồng điệu nên giọng điệu thơ Xuân Quỳnh bao giờ cũng đậm tính
chất giãi bày, bộc bạch một cách chân thành, da diết lắng sâu, một “giọng điệu của tâm hồn”
(Lưu Khánh Thơ) nên có lúc dịu dàng, thanh nhẹ, lúc hóm hỉnh, náo nức, thẳng thắn phô
bày, khi trầm lắng suy tư. Các bài thơ Hát ru, Thơ viết cho mình và những người con gái
khác, Nói cùng anh, Sóng… thể hiện rõ nét nhất giọng điệu thơ Xuân Quỳnh.
Ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh dung dị, tinh tế, giàu sức gợi và ảnh hưởng các phương
thức diễn đạt cùa ca dao dân ca. Yếu tố này đã giúp cho hệ thống ngôn ngữ trong thơ Xuân

62
Quỳnh trở nên dễ hiểu và dễ cảm,“nhẹ nhàng, trong sáng, xinh xắn như một điệu múa dân
tộc” (Lê Đình Kỵ). Lời thơ nhẹ nhàng đong đầy càm xúc yêu thương giống như một lời tâm
tình, sẻ chia, nhắc nhở. Tuy nhiên, trong mạch nguồn truyền thống ấy, thơ Xuân Quỳnh cũng
luôn hướng đến sự cách tân, đem đến sự đan cài giữa yếu tố truyền thống và hiện đại. Các
bài thơ Trời trở rét, Tình ca trong lòng vịnh, Anh, Tiếng gà trưa… thể hiện rõ đặc điểm này.
Thế giới hình ảnh trong thơ Xuân Quỳnh giàu sức gợi, nhất là từ những từ ngữ ngừ
gắn với thiên nhiên như màu nắng, màu mây, màu hoa, trời xanh biếc, mái phố, bông cúc
xanh, hoa tường vi tím nhạt,... Cái hay là, hệ thống từ ngữ ấy được nhà thơ sử dung không
chỉ để miêu tả cái không gian khách quan mà là cái vĩnh cửu của nó, là chỗ dựa cho sự bình
yên, là sự chở che, là điểm tựa của tâm hồn, là nguồn thôi thúc khát vọng của cảm xúc về cái
đẹp, về hạnh phúc, về tình yêu... như Mùa hạ, Bàn tay em, Những con đường tháng giêng…
3.4. Kết luận chung
Nữ sĩ Xuân Quỳnh, một trong những cây bút tiêu biểu trong nền thơ ca hiện đại Việt
Nam. Với một cuộc đời lắm thăng trầm, ngang trái, bất hạnh nhưng bù lại, bà có được một
tài năng thơ thiên phú. Hành trình sáng tạo nghệ thuật tuy không dài nhưng Xuân Quỳnh đã
để lại một di sản thơ ca có giá trị. Tiếng thơ Xuân Quỳnh hồn hậu, dung dị, khao khát yêu
thương, truyền thống mà hiện đại, chở nặng bao dư vị của cuộc sống nên dễ thấm vào lòng
người. Thời gian sẽ phủ mờ tất cả, riêng con người và sự nghiệp thi ca của Xuân Quỳnh vẫn
mãi tỏa rạng, ngát hương.

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 3

CÂU NỘI DUNG CĐR HP


3.1 Anh/ chị, hãy tóm lược những thành tựu thơ ca của Xuân Quỳnh
CO1, CO2,
sau 1975?
CO5, CO6

3.2 Anh/ chị hãy phát hiện và phân tích yếu tố lạ hóa trong thơ Xuân
CO1, CO2,
Quỳnh sau 1975?
C03

3.3 Phân tích niềm suy tư trăn trở trong thơ Xuân Quỳnh sau 1975?
CO1, CO2

3.4 Tính nữ trong thơ Xuân Quỳnh sau 1975? CO1, CO2,
CO5, CO6

63
Chương 4: Nguyễn Duy

4.1. Vài nét về tiểu sử, con người và quan niệm sáng tác
4.1.1. Vài nét về tiểu sử
Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh tại xã Đông Vệ, thịxã Thanh Hóa
(nay là thành phố Thanh Hóa), tỉnh Thanh Hóa.
Năm 1965, từng làm tiểu đội trưởng tiểu đội dân quân trực chiến tại khu vực cầu Hàm
Rồng, một trọng điểm đánh phá ác liệt của không quân Mĩ trong những năm chiến tranh Việt
Nam. Năm 1966 ông nhập ngũ, trở thành lính đường dây của bộ đội thông tin, tham gia
chiến đấu nhiều năm trên các chiến trường đường 9 Khe Sanh, Đường 9 Nam Lào, chiến
trường miền Nam và biên giới phía Bắc.
Năm 1976, ông làm biên tập viên ở báo Văn nghệ giải phóng; năm 1977 làm việc cho
báo Văn nghệ ; năm 1987, là đại diện thường trú phí Nam của báo Văn nghệ tại thành phố
Hồ Chí Minh. Năm 2012, ông nghỉ hưu tại thành phố Hồ Chí Minh.
4.1.2. Vài nét về con người và quan niệm sáng tác
Nguyễn Duy sớm chịu cảnh mồ côi và phải sống với bà ngoại. Lớn lên, Nguyễn Duy
gắn liền với ruộng đồng, chịu cảnh khó khăn về điều kiện vật chất. Hoàn cảnh sống đã tác
động rất lớn đến con người và những trang thơ của ông – một con người giàu lòng yêu
thương đối với bà và những con người lao động vất vả; một con người luôn hồi tưởng về kí
ức tuổi thơ. Các bài thơ Cỏ dại, Tuổi thơ, Khúc dân ca, Muối trắng… đã thể hiện rất rõ
những đặc điểm này.
Trưởng thành trong khói lửa chiến tranh, ông trực tiếp cầm súng chiến đấu, có mặt
trên nhiều chiến trường ác liệt, đối mặt với vô vàn gian khổ, nguy hiểm cũng chính là điều
kiện để ông ngẫm nghiệm về con người và cuộc sống. Sự từng trải đã thấm vào máu thịt, câu
chữ để rồi từ đó ông sáng tạo nên những vần thơ thắm đượm tình yêu quê hương đất nước.
Nguyễn Quang Sáng từng nhận xét về con người Nguyễn Duy: “thuộc loại người
trọng tình bạn”, “luôn có chính kiến” và “tôi hiểu Nguyễn Duy gắn bó máu thịt với đất nước
mình bằng tình cảm rất cụ thể với người dân”. Chính những điều này đã góp phần tạo nên
“bản lĩnh và bản sắc thơ Nguyễn Duy”. Chu Văn Sơn lại cho rằng: “Cả trong thơ lẫn trong
đời, Nguyễn Duy đều coi chân thành là cứu cánh và cứu tinh của mình”.
Như vậy, hoàn cảnh riêng và bối cảnh chung của đất nước đã tác động đến con người
và hành trình sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Duy – “gã hát rong chả xin tiền” (Nguyễn
Duy).
Trong thơ Nguyễn Duy gần như không rõ một tuyên ngôn nghệ thuật nào. Nguyễn
Duy làm thơ để giãi bày những gì đang diễn ra trong hồn cốt mình, có cái hăm hở, có cái
lắng sâu, có cả cái “tào lao” như chuyện phiếm…thơ chính là mình, là mình không chút gọt

64
rũa. Chính vì vậy nếu đi tìm một tuyên ngôn nghệ thuật trong thơ ông quả thật không dễ
dàng.
Nguyễn Duy từng “thú nhận” rất chân thực về cái nghiệp văn chương: “Có đụng
chạm xã hội mới ra cái thần hồn văn chương”. Với ông, thơ và triết học có mối liên hệ mật
thiết với nhau bởi lẽ “từ những chuyện tầm phào nhất cũng có thể phả triết học vào, có thế
mới dội lại được cuộc đời. Chỉ khác nhà triết học trình bày triết học của mình bằng lý lẽ,
khoa học, còn nhà văn bằng cảm xúc”.
Nguyễn Duy cho rằng, “làm thơ phải đọc, phải đi đó đi đây, không có kiến thức tổng
hợp xã hội sao làm thơ ra cái thời hôm nay?” Nguyễn Duy đặt ra trách nhiệm tất yếu của
người cầm bút là phải đi, phải tìm hiểu, phải dấn thân mới tìm được bản chất cuộc sống, nhất
là cuộc sống đầy biến động của hiện tại. Với ông, thơ phải nói được nỗi niềm của con người
thời đại, phải gắn với cuộc sống, dù cuộc sống ấy thế nào nhà thơ cũng phải đứng vững trên
mảnh đất hiện tại.
Nguyễn Duy còn cho rằng, một nhà văn phải là một nhà văn hóa lớn. Vì thế, ông đã
đặt ra nhiệm vụ cho người nghệ sĩ – một nhiệm vụ cả cuộc đời chứ không phải ngày một
ngày hai là trên con đường sáng tạo nghệ thuật phải luôn trau dồi vốn văn hóa, không chỉ
riêng văn hóa dân tộc mình mà văn hóa nhân loại để làm giàu thêm cho tâm hồn và đẹp thêm
mỗi trang thơ.
* Tác phẩm chính
- Thơ: Cát trắng (1973), Ánh trăng (1984), Đãi cát tìm vàng (1987), Mẹ và
em (1987), Đường xa (1989), Quà tặng (1990), Về (1994), Bụi (1997), Tuyển tập thơ
Nguyễn Duy (2010),
- Tiểu thuyết: Khoảng cách (1985),…
- Bút kí: Nhìn ra bể rộng trời cao (1986),..
- Kịch: Em – Sóng (1983)

Năm 1973, ông đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ với chùm thơ: Hơi ấm
ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt Nam, Giọt nước mắt và nụ cười trong tập Cát trắng.
4.2. Quá trình sáng tác
4.2.1. Sáng tác của Nguyễn Duy trước 1975
Nguyễn Duy làm thơ rất sớm, khi đang còn là học sinh trường phổ thông Trung học
Lam Sơn, Thanh Hóa. Bài thơ Trên sân trường là bài thơ đầu tay của Nguyễn Duy. Năm
1973, ông đã khẳng định được vị trí của mình trên thi đàn Việt Nam với giải nhất cuộc thi
thơ do báo Văn nghệ tổ chức.
Bài thơ Tre Việt Nam của Nguyễn Duy là một bài thơ hay trong số những bài thơ đạt
giải của ông được nhiều người biết đến. Về sau, bài thơ này đã được đưa vào sách giáo khoa
phổ thông. Với bài thơ này, Nguyễn Duy đã thể hiện khá sinh động hình ảnh cây tre – một

65
biểu tượng đẹp về con người và đất nước Việt Nam với sức mạnh vô song và tinh thần lạc
quan bất diệt: “vươn mình trong gió tre đu/ trong kham khổ vẫn hát ru lá cành”.
Tập thơ Cát trắng (1973) là tiếng lòng của một hồn thơ rất chân thực gần gũi, mang
đậm vẻ đẹp dân gian mà hiện đại, trữ tình, thiết tha nhưng cũng giàu chất suy tư đã tái hiện
một cách gần gũi, chân thực, hiệu quả hình tượng đất nước và con người Việt Nam trong
cuộc chiến chống Mỹ.
Thơ Nguyễn Duy trước 1975 tập trung thể hiện bài ca về chủ nghĩa anh hùng cách
mạng – một đặc điểm chung của văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975. Nguyễn Duy đã
xây dựng thành công hình tượng người mẹ nghèo nhân hậu, vị tha: “Mẹ chỉ phân vân chiếu
chăn chả đủ/ Mẹ ôm rơm lót ổ tôi nằm” qua bài thơ Hơi ấm ổ rơm; hình ảnh những cô gái
vô cùng dũng cảm ở ngã ba Đồng Lộc đầy khói lửa, luôn đếm bom, điểm mặt quân thù:
“Ngàn trái bom không rơi ra ngoài mắt”và trong tâm hồn họ nơi tiền tuyến ấy, lúc nào cũng
“chỉ có một con đường” cách mạng (Ngã ba – Con mắt – Tấm lòng).
Vừa cầm súng, vừa cầm bút, Nguyễn Duy có điều kiện thấu cảm những cung bậc cảm
xúc, những nỗi niềm, những phút giây lãng mạn trong tâm hồn những người lính trẻ với
niềm khao khát yêu thương đến cồn cào, da diết. Xúc động nhất là những vần thơ thể hiện
lối sống vị tha của tình đồng đội, họ sẵn sàng nhường nhường cơm sẻ áo cho nhau. Đó là
biểu hiện ngời sáng nhất của tinh thần nhân bản, nhân văn trong thơ Nguyễn Duy. Các bài
thơ Tiếng chim sau trận B52 và Bếp lửa Hoàng Cầm… đã thể hiện rõ điều này.
Tựu trung, thơ Nguyễn Duy trước 1975 thể hiện khá đậm nét hình ảnh đất nước và
con người Việt Nam trong bão táp chiến tranh thời chống Mỹ qua những vần thơ vừa truyền
thống vừa hiện đại, đặt nền móng vững chắc cho giai đoạn sau 1975.
4.2.2. Sáng tác của Nguyễn Duy sau 1975
Sau 1975, hành trình sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Duy ngày càng được mở rộng
về phương diện thể loại, đặc biệt là mảng thơ ca với sự đa dạng về cảm hứng.
Tập thớ Ánh trăng (1984), tiếp tục khai thác cảm hứng chiến tranh dưới điểm nhìn
của con người trở về sau cuộc chiến. Chiến tranh đã đi qua, con người bắt đầu trở về với
cuộc sống đời thường, phải hứng chịu hậu quả của chiến tranh dai dẳng. Cái giá của tự do
được đánh đổi bằng bao mồ hôi và xương máu của nhân dân, vùng kí ức đau thương bị khỏa
lấp bởi âm hưởng hào hùng nay bừng dậy: “Người bạn tôi không về tới nơi này/ anh gục ngã
bên kia cầu xa lộ/anh nằm lại trước cửa vào thành phố/ Giây phút cuối cùng chấm dứt cuộc
chiến tranh” (Nghe tắc kè kêu trong thành phố). Tập thơ còn thể hiện sự bẽ bàng, chua xót
trước hiện trạng một bộ phận người trong xã hội đắm chìm trong hưởng thụ mà lãng quên
quá khứ, xem tri kỉ “như người dưng qua đường” (Ánh trăng).Nguyễn Duy còn gửi bức
thông điệp đến hậu nhân cần phải biết trân trọng quá khứ, sống sao cho trọn vẹn với công
lao của người đi trước và hãy yêu thương, trân quý cuộc sống bình dị đời thường (Lời ru từ
mũi Cà Mau).

66
Hai tập thơ Mẹ và em, Đãi cát tìm vàng (1987) ra đời đã đánh dấu sự chuyển biến về
tư duy thơ của Nguyễn Duy. Sau đổi mới, thơ Nguyễn Duy đi sâu khám phá những vấn đề
thế sự đời thường với cuộc sống xô bồ, ồn ã, những vấn nạn kinh tế, môi trường, văn hóa,
đánh thức tiềm lực quốc gia và cả những vần thơ viết về thiên nhiên, cuộc sống gia
đình…Tất cả các nguồn cảm hứng ấy được thể hiện bằng một giọng điệu bộc trực, thẳng
thắn, giàu chất suy tư, chiêm nghiệm. Những bài tho tiêu biểu như: Kim mộc thủy thỏa thổ,
Đánh thức tiềm lực, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Trăng trên sống Tiền, Một góc chiều Hà Nội,
Cầu Bố, Nha Trang có một mối tình…
Tập thơ Đường xa (1989), ghi lại chân xác cảm xúc chân thành của một con người
yêu thiết tha quê hương đất nước, thèm khát được đi nhiều nơi, khám phá nhiều điều mới lạ
để từ đó tìm hiểu sâu sắc hơn mọi bình diện về đất nước con người Việt Nam. Tập thơ này
đậm chất du kí, lưu dấu một hành trình tìm đến những vùng đất mới của nhà thơ. Qua đó,
giúp ông thấu cảm những khó khăn, gian khổ của đồng bào mình trước những trì trệ, bất cập
mà ông mắt thấy tai nghe trong thời kỳ bao cấp, với những câu thơ rất mạnh mẽ, “như những
nhát dao cứa vào lòng người đọc” (Lê Xuân Quang). Bên cạnh đó, ông cũng bày tỏ niềm
vui, thái độ tôn kính, ngưỡng vọng đối với bậc vĩ nhân. Các bài thơ Nhìn từ xa… Tổ quốc,
Rừng và phố, Thơ ngắn đường dài… được đánh giá là một trong những bài thơ hay trong tập
thơ này.
Tập thơ Về (1994), tập trung thể hiện nỗi trăn trở của nhà thơ về những bất an, phiền
muộn trước cuộc sống với một giọng điệu đầy chiêm nghiệm; viết về đời sống tình cảm gia
đình, về vợ đầy xúc cảm với giọng điệu thiết tha; đặc biệt là bày tỏ quan niệm làm thơ và
trách nhiệm của người cầm bút. Đây là một tập thơ mang hơi hướng siêu thực, rất khác với
những tập thơ trước đây của Nguyễn Duy, thể hiện niềm khao khát sáng tạo của nhà thơ.
Ông từng tâm sự về tập thơ này chính là “sự trở về trong tâm linh, làm thức dậy ký ức cùng
những giá trị tinh thần đang rũ rượi ngủ mê hoặc đang chết dần trong lòng mình. Thêm nữa
là… về già, về vườn, về nhà với vợ…". Những bài thơ tiêu biểu như: Ảo giác, Chùm “Mộng
du”, Chùm “Quả”, Chùm “Tơ lụa”, Bao cấp thơ, Vợ ơi, Vợ ốm, Áo trắng má hồng…
Tập thơ Bụi (1997), được xem là hành trình bước ra từ câu ca dao xưa đến các vùng
trời Âu, Mỹ, trên hành trình ấy, ông đã tìm thấy cái tôi đằm sâu cảm xúc của mình. Tập thơ
ghi lại hành trình trở về quê hương với nỗi trăn trở suy tư của một người từng trải, chứng
kiến bao cảnh đời cơ cực của cõi nhân sinh; ghi lại những ngẫm nghiệm về cuộc sống vật
chất khiến cho trục tình người và tiền bạc trở nên mất cân bằng… Những bài thơ tiêu biểu
như: Chỉ khác nhau cái nhìn, em ạ…, Laloire, Thách thức, Dân ơi, Thật thà, Xác thời gian,
Chạnh lòng 1, Chạnh lòng 2…
Nhìn chung, thơ Nguyễn Duy từ sau 1975 ghi dấu sự nỗ lực cách tân không ngừng
nghỉ của một cây bút tâm huyết với nghề. Song hành với những vần thơ tâm tình đằm thắm
là những vần thơ chở nặng chất suy tư chiêm nghiệm, trăn trở về cuộc sống của con người –
nhất là thời hậu chiến và thời đổi mới, về nghiệp văn chương. Chu Văn Sơn từng đánh giá
về Nguyễn Duy “Duy đi vào cái vô danh để mang về cái vô giá”.
67
4.3. Phong cách thơ Nguyễn Duy
4.3.1. Nguyễn Duy- một hồn thơ đậm chất dân gian
Nguyễn Duy sinh ra và lớn lên ở vùng đất “địa linh nhân kiệt”, nơi lưu giữ nhiều giá
trị văn hóa, lịch sử của dân tộc đã ảnh hưởng rất lớn đến tư duy thơ của ông. Nguyễn Duy
vận dụng sáng tạo, nhuần nhuyễn chất liệu văn học và văn hóa dân gian để sáng tạo và làm
mơi thơ mình như sử dụng thành ngữ dân gian, thể thơ lục bát, những lời ru, những cảnh hội
hè, điệu hát văn…
Nguyễn Duy là một trong số không nhiều cây bút thơ hiện đại đã góp phần làm mới
thể lục bát bằng những tìm tòi theo hướng hiện đại, tạo nên nét độc đáo, hấp dẫn trong cấu
trúc, hình ảnh và ngôn ngữ của thể thơ truyền thống này. Các bài thơ thiêu biểu như: Tre
Việt Nam, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Vô tư, Lời ru đồng đội…
4.3.2. Nguyễn Duy- một hồn thơ tôn tạo vẻ đẹp con người
Sinh trưởng ở một vùng đất đầy khắc nghiệt của thiên nhiên với nắng, mưa, bão lũ
liên hoàn, với “nước mặn, đồng chua”, hàng ngày, hàng giờ tiếp cận với những cảnh đời lam
lũ, vất vả rồi khi lớn lên, lại đi khắp mọi nẻo đường gian khó nên hình ảnh người dân lao
động dần trở thành nỗi ám ảnh trong tâm thức của Nguyễn Duy. Tuy nhiên, với cái nhìn đậm
tính nhân văn, những con người ấy, trong lam lũ, đói nghèo cũng hiên lên thật đẹp. Đó có
thể là người bà “bán trứng ở ga Lèn” quê ông; là người mẹ nghèo giàu đức hy sinh, thắm
tình mẫu tử “lòng ta – chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa”; là người cha đầy nghĩa khí, hơn người:
“Cha tôi đó, dân làng tôi vậy đó/ Xả hết mình khi nước gặp tai ương/ Rồi thanh thản trở về
với ruộng/ Sống lặng yên như cây cỏ trong vườn”(Cầu Bố); là ông già sông Hậu quanh năm
gắn bó với ruộng đồng, cây lúa nhưng bao giờ cũng thấm đậm nghĩa tình: “Dư ít nuôi làng,
dư nhiều nuôi nước/ thành tích có gì mà phải nêu tên” (Ông già sông Hậu)…
Nguyễn Duy là một nhà thơ đi qua chiến tranh, sống trọn vẹn với mùi thuốc súng và
ân tình đồng đội nên hình ảnh người lính luôn sống mãi trong ông và vụt hiện lên từng trang
viết đầy sức gợi. Đó là hình ảnh người lính luôn xem nhiệm vụ chống quân thù là mục tiêu
duy nhất: “đâu biết những gì chờ ta đằng kia/ chỉ biết đời ta khởi đầu từ nơi ấy” (Xó bếp);
là người lính luôn tự nhận thức được trách nhiệm của mình đối với quê hương, đất nước:
“Mười tám tuổi ra đi/ bước thứ nhất đặt bàn chân vào lửa/ đường chiến tranh biết chỗ nào
dừng” (Dòng sông mẹ); là người lính luôn trân quý những giây phút bình yên hiếm hoi giữa
chiến trường luôn hướng về những người thân yêu nhất: “Khoái nào bằng phút ngả lưng/
mở trang thư dưới bóng rừng đu đưa” (Bầu trời vuông);là người lính luôn đong đầy sự yêu
thương, sẻ chia, chăm sóc thắm tình đồng đội: “Ngủ đi bạn, ngủ đi anh/ cánh tay mình ngả
ra thành gối êm/ ngủ đi bạn, ngủ đi em/ ngủ ngon giấc ngủ gối lên tay mình …”(Lời ru đồng
đội)…
Rõ ràng, Nguyễn Duy là một nhà thơ biết dùng cây bút của mình để vẽ lên những
trang đời, tôn tạo vẻ đẹp của con người Việt Nam. Dẫu là tầng lớp nào, giới tính nào, tuổi tác
nào, trong mối quan hệ nào thì họ cũng đều hiện lên trên trang thơ của Nguyễn Duy thật đẹp,
68
thật đáng trân quý bởi họ được phục dựng từ một tấm lòng thấm đẫm chất nhân bản, nhân
văn.
4.3.3. Nguyễn Duy- một hồn thơ đa giọng điệu
Đọc thơ Nguyễn Duy, người đọc luôn ấn tượng bởi giọng điệu tâm tình, tha thiết
nhưng cũng không kém phần chiêm nghiệm suy tư, trăn trở. Nói cách khác, thơ Nguyễn Duy
luôn có sự kết hợp hài hòa giữa cái duyên dáng, trữ tình với chất thế sự đậm đặc, nhiều bài
thơ là tiếng nói khảng khái, bộc trực mà trầm tĩnh, giàu chiêm nghiệm và mang tinh thần
công dân sâu sắc.
Với giọng điệu trữ tình tha thiết đã giúp cho nhà thơ thể hiện tình “thương mến đến
tận cùng chân thật” trước cảnh vật muôn màu và con người Việt Nam trong tất thảy các mối
quan hệ từ gia đình đến ngoài xã hội, từ tình cảm riêng tư đến tình yêu quê hương đất
nước.Chúng ta có thể nhận thấy giọng điệu này trong nhiều bài thơ của Nguyễn Duy, tiêu
biểu như: Dòng sông mẹ, Cầu Bố, Vợ ơi, Vợ ốm, Lời ru đồng đội….
Với giọng thơ đầy chiêm nghiệm, suy tư, trăn trở đã giúp cho Nguyễn Duy thể hiện
tình sâu sắc những ngẫm nghiệm của cái tôi cá nhân về những vấn đề đặt ra trong cuộc sống.
Đó có thể là sự băn khoăn, trăn trở về những khó khăn, thiếu thốn của con người thời hậu
chiến; là biểu hiện của một bộ phận người lãng quên quá khứ, mãi chạy theo những đòi hỏi
cá nhân; là trách nhiệm của một công dân trước vấn đề tiềm lực của đất nước còn mãi ngủ
yên và cả những suy tư, trăn trở tìm đường cách tân nghệ thuật… Về giọng điệu này, thường
xuất hiện trong tho Nguyễn Duy sau 1975, tiêu biểu là: Nhìn từ xa…Tổ quốc, Đánh thức
tiềm lực, Chỉ khác nhau cái nhìn, em ạ…, Xác thời gian, Chạnh lòng 1, Chạnh lòng 2…
Sự đa dạng về giọng điệu đã đem đến sức hấp dẫn đặc biệt cho thơ Nguyễn Duy. Nếu
giọng điệu trữ tình thắm thiệt đưa người đọc chìm vào xúc cảm êm đềm lắng dịu thì giọng
điệu giàu chiêm nghiệm lại khiến người đọc ta phải giật mình suy nghĩ về chính mình, về
thời thế giữa cõi nhân gian.
4.4. Kết luận chung
Nguyễn Duy là một trong những cây bút có nhiều đóng góp cho nền văn học hiện đại
Việt Nam. Là một cây bút đa tài, ông khẳng định tài năng nghệ thuật của mình trên nhiều thể
loại khác nhau nhưng thơ ca được đánh giá là nổi trội hơn cả bởi sự đa dạng về hình thức,
phong phú về nội dung. Nếu trước đổi mới, dư âm của cuộc chiến tranh với chiến thắng lẫy
lừng của dân tộc ảnh hưởng tới nhiều bài thơ Nguyễn Duy, thì sau đổi mới ông lại thể hiện
một cái nhìn khá toàn diện về cuộc sống với cả khóc cười, động, tĩnh. Bên cạnh đó, Nguyễn
Duy còn đi sâu khám phá về cuộc sống con người trong một thế giới đời thường xô bồ và cả
những ngẫm nghiệm về hành trình cách tân thơ Việt. Thơ Nguyễn Duy luôn có sức hấp dẫn
riêng vì “đã tìm ra cái tươi ở cái khô, cái cao cả ở cái tầm thường, cái lạ ở cái nhàm” để
“phát hiện ra phẩm chất con người” (Lê Trí Viễn).

69
CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 4

CÂU NỘI DUNG CĐR HP


4.1 Trình bày những thành tựu thơ ca của Nguyễn Duy sau 1975? CO1, CO2,
CO5, CO6
4.2 Anh/ chị hãy phát hiện và phân tích yếu tố lạ hóa trong thơ Nguyễn
CO1, CO2,
Duy sau 1975?
C03

4.3 Phân tích sự cách tân về hình thức biểu hiện trong thơ Nguyễn Duy
sau 1975? CO1, CO2

4.4 Cảm nhận chất dân gian trong thơ Nguyễn Duy sau 1975? CO1, CO2,
CO5, CO6

70
Chương 5: Phan Thị Thanh Nhàn

5.1. Vài nét về tiểu sử và con người


5.1.1. Vài nét về tiểu sử
Phan Thị Thanh Nhàn sinh ngày 9 tháng 8 năm 1943 tại Hà Nội, một vùng đất hào
hoa, thanh lịch nghìn năm văn hiến đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành và phát triển
nhân cách và hồn thơ của thi sĩ. Bà sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống hiếu học.
Cha của bà rất say mê đọc các tác phẩm Tam quốc, Thủy hử, Hồng lâu mộng.... Chị gái đầu
yêu thơ phú. Chính cái nôi văn hóa ấy đã ươm mầm cho hồn thơ Thanh Nhàn từ tấm bé.
Phan Thị Thanh Nhàn đã có một tuổi thơ nghèo khó, vất vả nhưng vui sống trong tình
yêu thương của gia đình. Bố mất sớm, mẹ phải vất vả tảo tần nuôi một đàn con, người em
trai của nhà thơ hi sinh trong chiến trường- điều đó đã in đậm trong những trangviết xúc
động nhất mà bà dành riêng cho họ.
Năm 1960, Phan Thị Thanh Nhàn là học viên lớp báo chí trường Tuyên giáo trung
ương, sau đó trở thành phóng viên của báo Hà Nội mới từ năm 1962 đến 1985.
Năm 1967, bà kết hôn với nhà nghiên cứu dân tộc học, nhà thơ Thi Nhị. Ông là người
biết đồng cảm, sẻ chia, luôn yêu thương, quan tâm chở che cho bà. Tiếc là hạnh phúc ngắn
chẳng tày gang vì năm 1979, khi Phan Thị Thanh Nhàn đi thực tế ở Nha Trang thì chồng bà
đột ngột ở Hà Nội và không được nhìn nhau lần cuối.
Năm 1969, ba bài Hương thầm, Xóm đê, Bản mới của bà đoạt giải Nhì cuộc thi thơ
của báo Văn nghệ. Hương thầm là bài thơ có ý nghĩa định danh tên tuổi Phan Thị Thanh
Nhàn trên thi đàn. Năm 1971, bà là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam; là Ủy viên Ban Chấp
hành Hội Nhà Văn Việt Nam từ năm 2001- 2005; Phó Tổng biên tập báo Người Hà Nội;
phó Chủ tịch Thường trực Hội Văn nghệ Hà Nội. Hiện tại, trong căn nhà bên Hồ Tây lộng
gió, bà sống vui vẻ, ấm áp bên đứa con gái của mình với một tình yêu thương nhất mực.
5.1.2. Vài nét về con người
Sinh trưởng ở mảnh đất thủ đô nên Phan Thị Thanh Nhàn có được vốn hiểu biết sâu
rộng và giành một tình yêu sâu sắc đối với cảnh vật, con người cũng như nét đẹp văn hóa
của mảnh đất ngàn năm văn hiến. Đây cũng là yếu tố ảnh hưởng sâu sắc đến hành trình sáng
tạo nghệ thuật của nhà văn.
Phan Thị Thanh Nhàn là một con người đậm chất Hà Nội. Theo tác giả Trần Thị
Trường trong bài Chất Hà Nội trong gia đình nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn, thì ở bà có
“cái chất dịu dàng, điềm tĩnh từ nhiều năm đến nay, chẳng bao giờ thay đổi (…) cho đến
bây giờ tôi thấy chị vẫn thế, lúc nào cũng tươi vui, nhanh nhẹn và khiêm nhường. Người ta
bảo những người Hà Nội gốc thường có cái chất ấy và nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn trong
số đó nhưng đặc biệt hơn. Không chỉ biểu lộ rõ rệt trong ứng xử ngày thường mà chính
trong bài Hương thầm, Đám cưới ngày mùa của chị cũng nói lên điều đó”.

71
Phan Thị Thanh Nhàn là một con người nhạy cảm, đằm thắm, luôn tự đối diện với
chính mình và có nhu cầu thể hiện cái tôi riêng tư. Bà nói chuyện rất cởi mở, hóm hỉnh, tươi
vui nhưng điềm đạm, sâu sắc, duyên dáng, lịch lãm, đúng cốt cách của một người Hà Nội.
Bà đã tự “tổng kết” về con người mình trong bài thơ Ngày sinh: “Một tấm lòng chân thật/
Một tình yêu nồng nàn/ Một tâm hồn trong sạch/ Một cái nhìn tươi non”.
* Tác phẩm chính
- Thơ: Tháng giêng hai (1969) in chung, Hương thầm (1973), Chân dung người chiến
thắng (1977), Hoa mặt trời (1978), Ánh sáng của anh (1978), Bông hoa không tặng (1987),
Nghiêng về anh (1992), Bài thơ cuộc đời (1999), Thơ với tuổi thơ (thơ, 2002), Con muốn
mặc áo đỏ đi chơi (2016)…
- Truyện thiếu nhi: Xóm đê ngày ấy (1977), Tuổi trăng rằm (1982), Bỏ trốn (1995)…
- Chân dung văn học: Sự cực đoan đáng yêu (2010)
Trong hành trình sáng tạo nghệ thuật, Phan Thị Thanh Nhàn đã nhận được nhiều giải
thưởng: giải Nhì cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969, giải A hội Văn nghệ Hà Nội 1980-
1984, giải A Nhà xuất bản Kim Đồng 1995, đặc biệt là giải thưởng Nhà nước về văn học
nghệ thuật năm 2007.
5.2. Quá trình sáng tác
5.2.1. Sáng tác của Phan Thị Thanh Nhàn trước 1975
Tập thơ Tháng giêng hai (In chung, 1969), tập trung bộc lộ tâm trạng của nhà thơ
trước cuộc sống muôn màu muôn vẻ, gắn liền với những năm tháng tuổi trẻ. Đó là một Hà
Nội kiên cường trong cuộc chiến Mỹ; là những cô gái gan dạ, anh hùng mà cũng rất đỗi hồn
nhiên phá đá, phá bom mở đường cho đoàn xe ra tiền tuyến. Tập Tháng giêng hai cuốn hút
người đọc bởi sự nhạy cảm, tinh tế của nhà thơ trước những hình ảnh bình dị của cuộc sống
thông qua những sườn núi, luống cải, đóa hoa, cái cúi đầu xấu hổ… qua các bài thơ: Hoa
mặt trời, Bản mới, Gặp, Cửa nhà tôi…Tuy nhiên, đây là tập thơ đầu tay của bà nên vẫn chưa
nhiều sức nặng, vẫn còn lẫn trong thơ của nhiều người.
Tập Hương thầm (1973), tập trung miêu tả cuộc sống và con người với nhiều hình
ảnh đẹp, mang âm hưởng hào hùng của cả dân tộc trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước; là một không gian, bối cảnh thời chiến ở hậu phương Hà Nội và những con người
tự ý thức trách nhiệm trước cuộc sống cũng như các mối quan hệ giữa con người với con
người, giữa cái riêng và cái chung. Tập thơ đem đến cho ngƣời đọc những mẫu lí tưởng, tiêu
biểu của thời đại đang“gồng mình gánh đất nước trên vai” (Bằng Việt). Những bài thơ tiêu
biểu như: Hương thầm, Tóc của mẹ tôi, Gửi em trai, Nhớ bạn, Bên hồ, Gương mặt sư
đoàn… Tất cả đã hợp lưu cái tôi và cái ta trong cảm hứng sáng tác không chỉ của Phan Thị
Thanh Nhàn mà của cả một thế hệ nhà thơ thời chống Mỹ.
Tựu trung, ở hai tập thơ này, Phan Thị Thanh Nhàn đã viết về cái chung, về cuộc
sống lao động chiến đấu trên quê hương, đất nước thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Qua mỗi bài

72
thơ, Phan Thị Thanh Nhàn luôn cố gắng gắn cảm xúc với tâm trạng, tạo nên chiều sâu của
hình tượng nghệ thuật.
5.2.2. Sáng tác của Phan Thị Thanh Nhàn sau 1975
Tập thơ Chân dung người chiến thắng (1977), gồm các bài sáng tác trong thời gian từ
1972 - 1976 phần lớn nói về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân, đặc biệt là
người dân Hà Nội. Dễ nhận thấy ngay từ nhan đề tập thơ, một số bài thơ trong đó vẫn trượt
theo quán tính của âm hưởng sử thi, lãng mạn. Thành phố tôi yêu mang âm điệu hào hùng bi
tráng kết nối quá khứ, hiện tại và tương lai mà điểm nhấn là chiến thắng pháo đài bay B52
mười hai ngày đêm trên bầu trời Hà Nội: “Tháng mười hai Hà Nội vào đông/ Điềm tĩnh và
cảnh giác/ Còi báo động suốt mười hai đêm thức/ Cháy trong lòng bao cảm xúc lớn lao”.
Đó còn là lòng cảm phục, tự hào chiến công của người lính, về nữ anh hùng Võ Thị Sáu: Tôi
quỳ bên ngôi mộ/ Đặt đóa hoa trắng trong/ Trời cao xanh mênh mông/ Biển rộng xa xao
động/ Chị Sáu nằm thanh thản/ Mái tóc gió bay tung/ Và bao chuyện lạ lùng/ Trong lòng tôi
tha thiết/ Bỗng như là sự thật/ Sống mãi cùng thời gian” (Truyền thuyết ttrên đảo Côn Sơn).
Phan Thị Thanh Nhàn đã rung cảm với những vui buồn của nhân dân, tiếng thơ bà tuôn chảy
trong giai điệu hào hùng của ngày toàn thắng: “Đêm hè quen bỗng hóa khác thường/ Náo
nức quá không làm sao ngủ được” (Ngày thống nhất)…
Tập thơ Bông hoa không tặng (1987) đánh dấu sự chuyển mình trong hành trình thơ
của Phan Thị Thanh Nhàn. Bà nhanh chóng nhận ra diện mạo của cuộc sống từ những đổi
thay, biến động với bao phức tạp, bao lo toan thường nhật và nhu cầu thể hiện cái tôi. Tập
thơ thể hiện nhiều nguồn cảm hứng khác nhau: về quê hương, đất nước: Động Hoa Lư, Đêm
Rạch Gía, Thị trấn Xuân Mai, Ninh Bình;… về mẹ: Ngày sinh, Làng quê;…về người em trai
đã hy sinh khi lời yêu còn chưa kịp ngỏ: Em tôi; về con gái: Con mười lăm tuổi, Lời con,…
về cõi riêng tư của chính mình với những lời tâm tình, thủ thỉ của người phụ nữ lắm đắng
cay, mất mát, cô đơn, nhiều trăn trở day dứt về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi: “Căn phòng
vắng một người bỗng trở nên trống rỗng/…Bữa ăn vắng một người tìm đâu ra mùi vị/…
Thành phố vắng một người đường không ai dạo chơi… (Một người). Có thể xem Bông hoa
không tặng là một hành trình tìm kiếm hạnh phúc của người phụ nữ dẫu có đắng cay nhưng
nhân vật trữ tình vẫn tin tưởng, hy vọng và nhắn nhủ chính mình: “Xin đừng hóa đá đăm
đăm/ Hãy tìm nhau giữa tháng năm, giữa đời” (Với nàng Tô Thị). Như vậy, tập thơ này đã
thể hiện sự chuyển biến đáng kể về đề tài, giọng điệu và tư duy thơ Phan Thị Thanh Nhàn
“từ chỗ là những ca sĩ ngợi ca đất nước và nhân dân bằng cái nhìn sử thi và cảm hứng lãng
mạn, giờ đây các nhà thơ chuyển từ “bè cao” sang “giọng trầm” (Nguyễn Đăng Điệp)
hướng về hiện thực đời sống con người, về thế thái nhân tình và con người cá thể. Tư duy
thơ Phan Thị Thanh Nhàn cũng vận động theo quỹ đạo chung ấy, đáp ứng được nhu cầu đổi
mới của nền văn học dân tộc.
Tập thơ Nghiêng về anh (1992), tập trung thể hiện nỗi cô đơn thường trực trong trái
tim người phụ nữ từng trải, đầy chiêm nghiệm, nhận thức được những giá trị nhân bản, luôn

73
khát yêu thương. Vì thế, nhân vật trữ tình dẫu có những lo âu, trăn trở, nhưng vẫn không vơi
cạn niềm tin: “Và tôi hiểu ra trong thăm thẳm niềm đau/ tôi vẫn còn yêu đời quá!” (Yêu
đời). Trong tập thơ, Phan Thị Thanh Nhàn còn dành những lời tri ân mộc mạc, chân thành
đến bạn đọc của mình qua bài thơ Cảm tạ.
Tập thơ Bài thơ cuộc đời (1999), tập trung thể hiện những xúc cảm về cuộc đời và
con người. Dọc theo chiều dài đất nước, đi đến đâu nhà thơ cũng gửi lại chút tình ấm áp. Tập
thơ còn bộc lộ nỗi lòng của người phụ nữ luôn khát khao được giao cảm, được thấu hiểu và
có cả sự kiếm tìm, lắng đợi: “Người tôi yêu đã đi xa/ Người yêu tôi lại ở nhà, chán ghê!”
(Thơ một câu trong nhật ký). Theo dòng của chảy thời gian, những mất mát đau thương
trong tâm hồn nhà thơ dần lùi vào dĩ vãng, nhường chỗ cho niềm vui, hạnh phúc giữa đời
thường. Bà ru vỗ nỗi buồn của mình bằng cách “xóa nỗi buồn chỉ giữ lại niềm vui”. Các bài
thô thiêu biểu như: Buổi sớm Hạ Long, Huế mưa, Vườn mặt trời quả mặt trăng, Vũng Tàu,
Bảo Lộc, Thăm Vạn Lý Trường Thành, Mơ, Biển vắng, Yêu, Viếng mộ, Bầu trời thuở ấy, Thổ
lộ, Thơ một câu trong nhật ký …
Tập thơ Thơ với tuổi thơ (2002), thể hiện suối nguồn yêu thương với những tâm tình
chia sẻ nỗi lòng của một người phụ nữ trải đời. Phan Thị Thanh Nhàn “lặn sâu vào lòng
mình, mạnh dạn mà cũng khá nhuần nhuyễn bộc lộ nỗi riêng tư rất cá thế trước cuộc đời”
(Vũ Quần Phương). Tập thơ như một cuốn lý lịch cuộc đời được viết bằng những kỉ niệm ấu
thơ, bằng chính những chất liệu của cuộc sống thường nhật với cảm xúc chân thực nhất.
Tập thơ “Con muốn mặc áo đỏ đi chơi” (2016), ra đời đáp ứng lòng mong mỏi tiếng
nói cười trẻ thơ trong ngôi nhà của nữ sĩ. Trong tập thơ này, có những bài thơ bà sáng tác khi
còn là trẻ nhưng cũng có những bài khi trưởng thành bà viết về trẻ thơ. Dù sáng tác ở thời
điểm nào thì độc giả vẫn nhận ra một Phan Thị Thanh Nhàn luôn nhẹ nhàng, thủ thỉ mà thân
quen. Mỗi bài thơ là một nội dung riêng, một cảm xúc riêng của tác giả nhưng hầu hết các
bài thơ trong tập thơ này đều hướng đến một chữ “tình”. Đó là tình yêu lứa đôi, tình mẫu tử
thiêng liêng, tình anh em thắm thiết, chân thành; cảm xúc trước cảnh sắc thiên nhiên; tình
yêu quê hương, đất nước. Một số bài thơ tiêu biểu như: Làm anh, Dặn con, Trại hè, Nàng
tiên Ốc, Truyền thuyết trên đảo Côn Sơn, Tóc của mẹ tôi, Hoa quỳnh …
Như vậy, từ tập thơ đầu tay Tháng giêng hai đến Con muốn mặc áo đỏ đi chơi là một
quá trình lao động nghệ thuật bền bỉ của Phan Thị Thanh Nhàn. Hành trình sáng tạo thơ ca
của bà vừa nhất quán với chất giọng hương thầm vừa chuyển đổi ở mức độ vừa phải với
cách thế hiện của riêng mình trước những đổi thay của thời cuộc, đời sống xã hội và con
người trong bối cảnh đổi mới và hội nhập hiện nay. Mỗi tập thơ mang một dấu ấn riêng, thể
hiện những vui buồn, trải nghiệm của người phụ nữ khao khát sống, khao khát yêu và thành
thật đến tận cùng với mọi cung bậc cảm xúc bằng một tiếng thơ đằm thắm, dịu dàng, khiêm
nhường và đậm chất nữ tính trong dòng chảy thi ca đương đại.
5.3. Phong cách thơ Phan Thị Thanh Nhàn
5.3.1. Phan Thị Thanh Nhàn – một hồn thơ đậm tình quê hương, đất nước

74
Với hành trình sáng tạo vắt qua hai thế kỷ, chứng kiến những thay đổi không ngừng
trên đất nước, Phan Thị Thanh Nhàn luôn dành tình cảm cho quê hương, đất nước và con
người qua những trang thơ. Sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, cái “chất Hà Nội” luôn biểu hiện
đậm nét trong thơ bà với một Hà Nội lịch lãm, sang trọng, một xóm đê ven đô và những con
người giàu tình yêu thương (Xóm đê). Cảm hứng về Tổ quốc, không chỉ với niềm tự hào dào
dạt, mà thơ bà còn mang nặng nỗi đau hiện hữu qua từng tên đường, góc phố: “Em đã qua
rồi trong đêm Khâm Thiên/ Không khóc được bởi căm thù quá lớn/ Chúng nó đã ném bom
hòng hủy diệt/ Hủy diệt việc ăn làm, hủy diệt tình yêu…Phố của ta thành nhức nhối niềm
đau/ Thành tiếng gọi từ thủ đô Hà Nội”(Từ Khâm Thiên). Trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn,
Hà Nội luôn ngời sáng, Hà Nội là “Thành phố tôi yêu”: “Con đường nào cây cũng bước
song đôi/ Anh đã đến chia cùng em tuổi trẻ/ Bàn tay gầy thương bàn tay gầy th/ Thức canh
trời thành phố đáng yêu thêm”.
Vừa là nhá báo, vừa là nhà thơ, Phan Thị Thanh Nhàn luôn có mặt khắp các nẻo
đường đất nước, mỗi dấu chân qua đề lưu lại bao kỉ niệm ân tình. Bà từng đến với Chợ Tết
vùng cao, Về Tân Phong mùa gặt, vui với Đám cưới ngày mùa: “Các cụ ông say thuốc/ Các
cụ bà say trầu/ Còn con trai con gái/ Chỉ nhìn mà say nhau”; đến với Đà lạt thoáng qua với
nét đẹp riêng của thành phố ngàn hoa: “Tôi đã đi gần khắp quê hương/ Mỗi thành phố một
gương mặt đẹp/ Riêng Đà lạt tuyệt vời thanh khiết/ Duyên dáng và dịu êm”. Đến với Quảng
Trị: “Trưa bình yên nắng cũng thơm tho/ Mùa gặt ở Triệu Phong như ở quê tôi đấy/ Mồ hôi
đọng thành hạt vàng tròn mẩy/ Khóm lúa cong mềm mang dáng mẹ nắng mưa” (Mùa gặt
Triệu Phong); đến với Tháp Chàm, nhà thơ lại ấn tượng bởi: “rực rỡ như ráng chiều/ cũ
càng như chuyện cổ/ uy nghi như đất trời/ duyên dáng như thiếu nữ (Tháp Chàm); vào thành
phố mang tên Bác, bà lại vương vấn những con đường ngập lá me bay: “những hàng me
xanh mát/ đường phố dài thung dung…/ Mà hôm nay trở lại/ bây giờ như bao giờ/ tôi cứ yêu
đắm đuối/ với mối tình ngây thơ (Trở lại Sài Gòn); xuôi Cần Thơ, bà lại ấn tượng với dòng
sông Hậu: “Bây giờ tôi Hậu Giang/ Bến Ninh Kiều với vầng trăng thuở nào/ Cần Thơ sóng
nước xôn xao/ Thủy triều lên gọi biển vào cùng sông”(Những dòng sông)…
Bằng tình cảm chân thành kết hợp với niềm đam mê xê dịch, Phan Thị Thanh Nhàn
đã in dấu tâm hồn suốt chiều dài Tổ quốc và “nơi nao qua mà lòng chẳng yêu thương” (Chế
Lan Viên). Chính những những điều đó đã tạo nên dấu ấn phong cách riêng cho hồn thơ
Phan Thị Thanh Nhàn thấm đậm tình quê hương, đất nước
5.3.2. Phan Thị Thanh Nhàn – một hồn thơ đậm chất thế sự, đời tư
Văn học thời kỳ đổi mới, cảm hứng sử thi nhạt dần, nhường chỗ cho cảm hứng thế sự
đời tư. Với khát vọng dân chủ, ý thức tôn trọng sự thật, thơ ca đã không ngần ngại chạm đến
những vấn đề cốt lõi của thực tại, của thân phận con người. Hòa chung vào dòng chảy ấy,
duy thơ Phan Thị Thanh Nhàn có sự chuyển đổi tự nhiên, nhuần nhuyễn từ cảm hứng ngợi
ca sang cảm hứng thế sự đời tư qua các tập thơ “Bông hoa không tặng” (1987), Nghiêng về
anh (1992), Bài thơ cuộc đời (1999), Thơ với tuổi thơ (2002). Vốn là ngƣời tinh tế, nhạy

75
cảm và giàu lòng trắc ẩn, Phan Thị Thanh Nhàn xót xa khi chứng kiến những nghịch lí xảy
ra trong đời sống, những giá trị đạo đức của con người và xã hội bị đảo lộn, mệt nhoài vì
cơm áo, gạo tiền, tranh giành tư lợi: “Sống làm chi khi bè bạn bon chen/ Cơ quan quanh
năm đấu đá/ Sống làm chi khi người yêu thành người lạ Sống làm chi lương ba cọc ba đồng
Viết báo làm thơ kiếm từng xu vẫn loay hoay không đủ/ Sống làm chi khi mọi tượng thần sụp
đổ Người ta tin yêu lại hóa tầm thường”. Dù buồn chán nhưng bà vẫn tìm cho mình một lối
đi riêng với những câu thơ dung dị, vừa tâm tình, vừa bao dung vừa nhắn gửi: “Nếu anh đi
với người yêu/ Chỉ mong anh nhớ một điều nhỏ thôi/ Con đường ta đã dạo chơi/ Xin đừng đi
với một người khác em” (Con đường).
Những cuộc tình đã qua dù dở dang, nhân vật trữ tình trong thơ bà vẫn không oán
tránh, hận thù mà chỉ ngậm ngùi chấp nhận: “Rồi có thể ta nhìn nhau ngượng ngập/ Anh đi
cùng cô gái khác xinh tươi/ Tôi cố để không rơi dòng nước mắt/ Có ai đâu thương mến dỗ
cho nguôi/ Rất có thể vợ và con ríu rít/ Anh nhẹ nhàng quên hết chuyện đôi ta (Rồi có thể).
Cảm giác bất an, lo âu về hạnh phúc luôn thường trực trong thơ bà ngay cả lúc đang yêu:
“Như niềm hy vọng mong manh/ Cầm tay rồi lại hóa thành giấc mơ” (Không đề).
Phan Thị Thanh Nhàn lấy chính cuộc đời mình, làm chất liệu cho thơ. Hành trình thơ
của Phan Thị Thanh Nhàn là hành trình của cái tôi trữ tình tìm kiếm diện mạo chân thật của
bản ngã để thấy ý nghĩa của cuộc sống, lý tưởng, đam mê. Không chỉ hồi ức về tuổi thơ, bà
còn rất chân thật khi viết về hạnh phúc đời thường “đâu đây trong cuộc đời thường/ của em
ngày tháng vui buồn có anh” (Không đề) và cả những nỗi buồn khi xung đột, bất hòa:
“Chiều nay chắc giận em ghê lắm/ Anh bực mình triết lý lung tung”, “cũng có khi em dỗi/
Thế là mình giận nhau”, song họ sinh ra là để cho nhau như trời cần có đất: “Nhưng anh có
biết không? trời đất/ Sẽ chả là gì nếu thiếu nhau” (Trời và đất). Bà cũng dành nhiều bài thơ
để thổ lộ tâm tình với bạn bè, với mẹ, với em… Những vần thơ ấy cũng góp phần không
nhỏ, tô đậm thếm chất thế sự đời tư trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn.
5.3.3. Phan Thị Thanh Nhàn – một hồn thơ đa giọng điệu
Giọng điệu là một thuộc tính có vẻ bề ngoài nhưng lại là thước đo không thể thiếu để
xác định tài năng và phong cách độc đáo của người nghệ sĩ. Giọng điệu đồng thời cũng là
một hiện tượng có tầm văn hóa ảnh hưởng đến các thời đại văn học. Ở ba cấp độ chính:
giọng điệu tác phẩm, giọng điệu nhà văn, giọng điệu thời đại thì giọng điệu nhà văn phải
được coi là đơn vị cơ bản nhất. Có thể nói thơ Phạn Thị Thanh Nhàn là sự phối trộn các sắc
thái giọng điệu: Giọng ngợi ca, tự hào; giọng tự sự giãi bày và giọng đằm thắm, giàu nữ tính.
Trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, ý thức được trách nhiệm của người
cầm bút trước thời đại, bà đã viết nên những vần thơ phản ánh cuộc sống chiến đấu của quân
và dân ta trên khắp mọi miền Tổ quốc. Cuộc sống chiến đấu của nhân dân, hình ảnh đẹp của
anh bộ đội, của những cô gái mở đường hồn nhiên mà gan góc, cô gái nuôi quân, cô gái tải
đạn, hình ảnh quê hương với bao tên làng, tên núi, tên sông đã đi vào trang thơ bà tự nhiên,
thuần hậu bằng nét vẽ mộc mạc với giọng tự hào, lạc quan. Giọng điệu này được thể hiện rõ

76
khi bà viết về Hà Nội: “Còi báo động suốt mười hai đêm thức/ Cháy trong lòng bao cảm xúc
lớn lao/ Những mắt người mắt sung ngẩng cao/ Thành phố đứng tựa lưng vào lịch sử/ Dáng
kiêu hãnh khiến quân thù khiếp sợ/ Hà Nội thành tọa độ lửa kiên trung” (Mười hai ngày
không quên). Nhà thơ cũng đã bộc lộ sự cảm phục các chiến sĩ ở sân bay Ái Tử đã anh dũng
lập chiến công bằng một giọng ngợi ca đầy tin yêu; ngợi ca những con người cần mẫn trong
lao động, luôn vững vàng trước mọi gian lao trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc:
“Ong bay về phía mặt trời/ Mặt em là đóa hoa ngời hướng dương” (Cô gái mù nuôi ong);
“Dừng chân gỡ một cọng rơm/ Bỗng nghe bát ngát mùi hương lúa đồng/ Tiếng ai cười đến
là trong/ Nhấp nhô nón trắng lưng ong mịn màng” (Về Tân Phong mùa gặt)…
Dấu hiệu dễ nhận biết nhất ở giọng điệu tự sự, giãi bày trong thơ Thanh Nhàn là qua
những bài thơ của bà viết về mẹ, với em trai, em gái, với người yêu, với chồng, với con và
với chính mình. Bà làm thơ như một phương cách để tâm sự, giãi bày chính nỗi lòng mình.
Lời tự sự giãi bày nhiều khi được đan dệt bằng những câu chuyện bà kể bằng thơ với ngôn
từ dung dị đời thường và những hình ảnh thơ “biết nói”: “Nhớ sao một tối mùa đông/ Cùng
anh nói những chuyện không đầu đề/ Mưa rơi ướt cả liếp tre/ Giữ chân anh chẳng cho về,
hộ em” (Gặp). Hay trong bài thơ Tạ lỗi đã chất chứa nỗi lòng của nhân vật trữ tình trước lời
tỏ tình: “Anh chuyển sang gọi “em”/ Nói thương tôi tha thiết/ Mong tôi về cùng anh/ Biển
Hạ Long rất đẹp/ Tôi ngồi nghe im lặng/ Thấy lòng mình thờ ơ/ Ôi những lời thương mến/
Sao tim tôi hững hờ?... Bài thơ này tôi viết / Tạ lỗi người thương tôi/ Bởi người tôi thương
mến/ Đã thờ ơ mất rồi…(Tạ lỗi). Ở giọng điệu này, ta có thể tìm thấy trong các bài thơ Tiếng
mùa xuân, Nhớ Hải Phòng,…
Chất giọng đằm thắm, giàu nữ tính của bà thường xuất hiện trong những trang thơ
viết về Hà Nội, về xóm đê nghèo Yên Phụ giúp nhà thơ thể hiện chân thành, xúc động những
tình cảm với quê hương mình qua các bài Xóm đê, Thành phố tôi yêu, Một vòng Hồ Tây…
Giọng điệu này còn được thể hiện qua một tâm hồn dịu dàng, đằm thắm, giàu nữ tính khi
yêu:“Cô gái như chùm hoa lặng lẽ/ Nhờ hương thơm nói hộ tình yêu”(Hương thầm); hay:
“Chiều chia tay ta tránh lối đông người/ Hai đứa dạo theo bờ đê thân thuộc/ Trời vừa mưa
vạt cỏ mềm đẫm nước/ Đất mịn màng tinh nghịch: vết chân đôi/ Lặng im thôi anh nhé lặng
yên thôi/ Sông đang hát theo rất nhiều cung bậc/ Sóng dìu dịu ru bờ về xa tắp/ Sóng giữa
dòng thành nước xoáy rất sâu” (Với sông Hồng). Ta còn tìm thấy chất giọng này qua các bài
thơ khác của bà như Con đường, Nhớ tới mẹ, Dựa vai anh…
Thanh Nhàn đã tạo cho mình một giọng điệu riêng trong hành trình sáng tạo nghệ
thuật. Nếu chất giọng ngợi ca, tự hào giúp bà thể hiện trọn vẹn tình cảm chung về đất nước,
nhân dân; giọng giãi bày khi viết về chính mình và đời sống thường nhật thì giọng đằm
thắm, dịu dàng, nữ tính lại giúp bà thành công khi viết về tình yêu đôi lứa, về Hà Nội, về mẹ,
em trai, em gái, bạn gái, con gái… Bao trùm lên tất cả là một chất giọng vừa dịu nhẹ, đằm
thắm, dịu dàng, nữ tính, pha một chút ngậm ngùi cho duyên phận.

77
5.4. Kết luận chung
Phan Thị Thanh Nhàn được đánh giá là cây bút tài năng, sáng tác nhiều thể loại và có
sức viết bền bỉ. Ngoài làm thơ, bà còn viết báo, truyện ngắn, truyện cho thiếu nhi. Hành trình
sáng tạo nghệ thuật của bà luôn bám sát vào những bước thăng trầm của lịch sử xã hội, đóng
góp không nhỏ cho nền văn học dân tộc, đặc biệt là lĩnh vực thơ ca với những lời thơ từ hào
sảng, nhẹ nhàng, tươi tắn đến giàu trải nghiệm, trăn trở, suy tư… Sức hấp dẫn của thơ Phan
Thị Thanh Nhàn chính là sự chân thành, gần gũi, khiêm nhường đầy nữ tính trong dòng chảy
thi ca đương đại.

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 5

CÂU NỘI DUNG CĐR HP


5.1 Khái quát những thành tựu thơ ca của Phan Thị Thanh Nhàn sau
CO1, CO2,
1975?
CO5, CO6

5.2 Anh/ chị hãy phát hiện và phân tích yếu tố lạ hóa trong thơ Phan
CO1, CO2,
Thị Thanh Nhàn sau 1975?
C03

5.3 Tính nữ trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn sau 1975?
CO1, CO2

5.4 Nét đặc sắc ở mảng thơ viết cho thiếu nhi của Phan Thị Thanh CO1, CO2,
Nhàn sau 1975? CO5, CO6

78
Chương 6: Lưu Quang Vũ (1948 - 1988)

6.1. Vài nét về tiểu sử và con người


6.1.1. Vài nét về tiểu sử
Lưu Quang Vũ sinh ngày 17/4/1948 tại xã Thiệu Cơ, huyện Hạ Hóa, Phú Thọ. Cha là
nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận, quê ở thành phố Đà Nẵng tỉnh Quang Nam. Mẹ là
Vũ Thị Khánh nữ sinh trường Trung học Đồng Khánh, người Hà Nội. Thuở nhỏ, lưu Quang
Vũ sống cùng với mẹ và hai em trai tại chiến khu Việt Bắc.
Năm 1954, Lưu Quang Vũ trở về Hà Nội sống cùng gia đình. Năm 1965, Mĩ bắn phá
miền Bắc, Lưu Quang Vũ đang học lớp 10 nhưng đã tình nguyện nhập ngũ, đóng quân tại tại
binh chủng Phòng không- sân bay Cát Bi (Hải Phòng). Năm 1967, ông chuyển về sân bay
Đa Phúc (nay là Nội Bài).
Năm 1970, Lưu Quang Vũ xuất ngũ, lập gia đình với diễn viên điện ảnh Tố Uyên rồi
li hôn năm1973. Năm 1973, ông kết hôn với nhà thơ Xuân Quỳnh (theo thông tin từ Lưu
Khánh Thơ).
Lưu Quang Vũ làm nhiều nghề khác nhau để kiếm sống: vẽ panô quảng cáo, làm bưu
thiếp, sửa morát cho nhà xuất bản, làm thơ, viết báo, phóng viên của Tạp chí Sân khấu, viết
kịch.
Lúc tài năng đang độ chín, gia đình nhỏ của ông gặp tai nạn giao thông, ông ra qua
đời cùng với Xuân Quỳnh và đứa con trai Lưu Quỳnh Thơ lúc 17 giờ ngày 29 tháng 8 năm
1988. Với
6.1.2. Vài nét về con người
Yếu tố quê hương và gia đình đã ảnh hưởng rất lớn đến việc định hình và phát triển
nghệ thuật của Lưu Quang Vũ. Mẹ là người Hà Nội, cái nôi văn hiến của cả nước, cha là nhà
soạn kịch nên Lưu Quang Vũ có nhiều cơ hội để tiếp cận với nghệ thuật từ rất sớm. Những
câu chuyện về văn chương, luận bàn về sân khấu giữa các văn nghệ sĩ như là chất phù sa của
nghệ thuật trầm tích theo năm tháng bồi đắp làm cho tâm hồn nghệ sĩ Lưu Quang Vũ.
Lưu Quang Vũ đã từng trải qua nhiều đau khổ, mất mát, vì thế ông luôn mang trong
mình tâm trạng buồn bã, cô đơn. Có lúc Lưu Quang Vũ đã chạm đến tận cùng của nỗi cô
đơn: “Tôi là đứa con cô đơn ngay khi ngồi cạnh mẹ/ Thằng bé lẻ loi giữa lớp học ồn à/ Bàn
chân hồ nghi giữa đường phố xôn xao Giữa sự thông minh của đông vui bè bạn” (Mấy đoạn
thơ). Nhiều khi, ông rơi vào bế tắc, không biết nương tựa vào đâu: “Có những lúc tâm hồn
tôi rách nát/ Như một chiếc lá khô như một chồng gạch vụn” (Có những lúc).
Tình yêu đưa đến cho Lưu Quang Vũ niềm đau nhưng cũng là nhịp cầu để ông bước
qua vực thẳm. Gặp được Xuân Quỳnh, người phụ nữ tài hoa, sâu sắc, hồn hậu đã khâu kín
vết thương lòng, xoa dịu nỗi đau nơi ông: “Anh đã khổ đau, khổ đau dài hơn số tuổi/ Vẫn
trong lành khi em đến cầm tay” (Anh đã mất chi anh đã được gì). Từ đây, Lưu Quang Vũ đã

79
thực sự “phục sinh tâm hồn”, lấy lại được niềm tin yêu cuộc sống: “Biết ơn em, em từ miền
cát gió/ Về với anh, bông cúc nhỏ hoa vàng/ Anh thành người có ích cũng nhờ em/ Anh biết
sống vững vàng không sợ hãi” (Và anh tồn tại.
Lư Quang Vũ xuất thân từ người lính nên cái “chất lính” luôn đậm đặc trong ông, tạo
nên một bản lĩnh tiên phong rất đáng trân quý. Bản lĩnh ấy đã giúp ông trở thành một cây bút
tiên phong trong cuộc đấu tranh xóa bao cấp, đòi đổi mới tư duy, thực hiện dân chủ và đổi
mới quản lí xã hội thông qua những sáng tác kịch gây được tiếng vang lớn trong những năm
80 của thế kỉ XX.
Với tài năng, bản lĩnh và sự đóng góp lớn của ông và nữ sĩ Xuân Quỳnh đối với nền
văn học dân tộc, mới đây, thành phố Hà Nội đã đặt tên hai tuyến phố một cõi tình mang tên
Lưu Quang Vũ – Xuân Quỳnh
* Các tác phẩm chính
- Thơ: Hương cây- Bếp lửa (in chung, 1968), Mây trắng của đời tôi (1984), Bầy ong
trong đêm sâu (1993), Thơ tình Xuân Quỳnh-Lưu Quang Vũ (1994), Lưu Quang Vũ Thơ và
đời (1997), Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi (2013).
- Truyện ngắn: Người kép đóng hổ (1983), Mùa hè đang đến (1983), 15 truyện ngắn
Lưu Quang Vũ (2000).
- Kịch: Sống mãi tuổi 17 (1979), Mùa hạ cuối cùng (1981), Nàng Si-ta (1981), Tôi và
chúng ta (1984), Hồn trương Ba, da hàng thịt (1984), Ngọc Hân công chúa (1984), Lời nó
dối cuối cùng (1985), Bệnh sĩ (1988), Lời thề thứ 9 (1988),…
6.2. Quá trình sáng tác
6.2.1. Kịch của Lưu Quang Vũ
6.2.1.1. Nội dung kịch Lưu Quang Vũ
* Lời cảnh tỉnh về sự xuống cấp về đạo đức, lối sống
Những năm 80 của thế kỉ XX, Kịch Lưu Quang Vũ xuất hiện, tạo được tiếng vang
lớn với công chúng bạn đọc. Trước hết, tác phẩm của ông là hồi chuông cảnh báo về lối sống
vũ lợi đang bào mòn nhân cách con người, làm băng hoại giá trị đạo đức xã hội, thui chột
phẩm chất tốt đẹp của con người, cần phải đấu tranh cho lẽ phải.
Vở kịch Mùa hạ cuối cùng (1981), ghi dấu sự nỗ lực trong hành trình sáng tác kịch
của Lưu Quang Vũ. Vở kịch giáo dục con người bằng niềm tin, là tiếng nói của những học
sinh với khao khát đầu đời, mong muốn được trở thành những người có ích cho xã hội. Câu
chuyện kể về Châu, một học sinh giỏi, thông minh và trung thực. Trong kì thi cuối năm lớp
12, Châu phát hiện mình đã biết trước đề thi nên phản ánh với thầy giáo và mong muốn đề
thi được thay đổi. Ban giám hiệu đã họp và để đảm bảo cho danh dự của nhà trường, đề nghị
của Châu không được chấp nhận. Châu thất vọng, đánh mất niềm tin và bỏ đi… Cuối cùng,
mọi chuyện được giải quyết sáng tỏ, công bằng. Vở diễn khép lại với thông điệp: “Lẽ phải,
nhân cách và lòng trung thực phải là những giá trị tuyệt đối”.

80
Với Lưu Quang Vũ, lối sống ích kỉ, vũ lợi của người lớn - biểu hiện suy thoái đạo đức
xã hội đã ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ.
Sự phản ứng của nhân vật Hán nói nói với bố mình: “Tôi chán ghét cái nhà này lắm rồi!
Ngấy lắm rồi! Bố dưỡng dục tôi ngày nào?” (Dạ khúc tình yêu) đã cho người đọc cảm nhận
rõ tác hại ghê gớm của sự xuống cấp về đạo đức xã hội.
Lưu Quang Vũ còn mạnh dạn phê phán cách làm việc tắc trách, thói quan liêu hách
dịch, giả dối của một bộ phận người trong xã hội, đặc biệt là những người có chức có quyền
đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống con người cũng như sự vận động và phát triển của xã
hội: “trên trời dưới đất đều thế cả” (Hồn Trương Ba, da hàng thịt).
* Đau đáu về lẽ sống, lẽ làm người
Trước cuộc sống đây phức tạp, cái xấu, cái ác đang lấn át, tàn phá phần tốt đẹp của
con người, Lưu Quang Vũ đã bộc lộ tâm trang đau đáu về vấn đề hoàn thiện nhân cách. Ông
quan niệm, sống là một cuộc đấu tranh liên tục của con người để đạt đến sự hoàn thiện, để
hóa thân vào cái đẹp. Sự đấu tranh quyết liệt giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịc trong vở
kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt thực chất là cuộc đấu tranh giữa hai con người trong một
con người để hướng đến sự hoàn thiện nhân cách, hướng đến khát vọng được sống là chính
mình “tôi muốn được là tôi tìan vẹn”. Kết thúc tác phẩm là một bi kịch lạc quan, là sự chiến
thắng của cái thiện, cái đẹp, đậm màu sắc nhân văn. Các vở kịch Mùa hạ cuối cùng, Người
trong cõi nhớ cũng thể hiện rõ vấn đề này.
Lưu Quang Vũ luôn thể hiện khát vọng lao động sáng tạo nghệ thuật trong tác phẩm
của mình. Với ông, người cầm bút là phải luôn hun đúc cho mình nguồn cảm hứng sáng tạo,
phải có nghị lực, niềm tin để biến ước mơ, khao khát thành hiện thực. Ông luôn đau đáu với
câu hỏi: sống như thế nào cho có ý nghĩa? Đây cũng là câu hỏi của nhiều người, nhất là các
bạn trẻ đương thời. Với câu hỏi ấy, bằng những vở kịch của mình, ông đã lí giải nguyên do
dẫn đến trạng thái tâm lí băn khoăn, trăn trở của một bộ phận giới trẻ là bắt nguồn từ sự khát
vọng viễn vông, khó thực hiện, dẫn đến hoang mang, mất niềm tin vào cuộc sống hoặc lối
sống thực dụng đến tầm thường. Tuy nhiên, khép lại tác phẩm luôn ánh lên một sự đổi thay,
một hướng đi tốt đẹp. Nhân vật Trâm trong Cô gái đội mũ nồi xám là nhân vật thể hiện rõ tư
tưởng này.
Lưu Quang Vũ luôn xem niềm khao khát sáng tạo nghệ thuật là cú hích, là động lực
thúc đẩy sự phát triển trong tư duy của con người cũng như xã hội. Cuộc sống của con người
nêu thiếu đi khát vọng sẽ trở nên nhàm chán, thậm chí tàn lụi về tâm hồn. Vì vậy, con người
muốn có một cuộc sống đúng nghĩa cần phải nỗ lực xây dựng những phương án và cách thức
thực hiện tốt nhất cho chính mình. Các nhân vật như: Mợi trong Vách đá nóng bỏng, Hoàng
Việt, Lê Sơn, Thanh trong Tôi và Chúng ta, Định trong Nếu anh không đốt lửa, Thụy trong
Quyền được hạnh phúc là những con người luôn cháy bỏng niềm khát khao đổi mới, sáng
tạo.

81
* Sự ngẫm nghiệm về cái chết
Kịch Lưu Quang Vũ luôn hiện diện sự sống và cái chết. Vân đề này được tác giả diễn
đạt bằng hàng loạt hình ảnh mang ý nghĩa ẩn dụ như: Gió đã dừng, Mưa đã tạnh, Nắng đã
tắt, Đường đã hết, Phút cuối cùng… Đặt ra vấn đề cái chết, Lưu Quang Vũ như muốn nhắc
nhở một quy luật vĩnh hằng của cuộc đời con người gắn liền với sinh - lão bệnh – tử để
ngầm nhắc nhở con người hãy biết trân trọng những ngày tháng hữu hạn của đời người. Và
hơn thế nữa, ông muốn gửi bức thông điệp sâu sắc đến mọi người thông qua một số tác
phẩm Tôi và chúng ta, Khoảnh khắc và vô tận, Người trong cõi nhớ… rằng hãy sống sao
cho xứng đáng một con người, hãy đối xử với nhau tốt đẹp nhất khi có thể.
Với Lưu Quang Vũ, đời người thật ngắn ngủi trước cái vô cùng của thời gian nên cần
phải sống hết mình để không phải nuối tiếc, hối hận. Đắm mình ngẫm nghiệm về cái chết
cũng chính là là sự tự ý thức của nhà văn về sự ngắn ngủi của kiếp người. Từ đó, Lưu
Quang Vũ chắt chiu, yêu quý cái quỹ thời gian hữu hạn của cõi tạm nơi trần thế. Tuy nhiên,
dẫu là cõi tạm thì con người vẫn phải sống cho đáng sống, phải đấu tranh để được sống là
chính mình, được sống hạnh phúc như những gì mình mong muốn. Không thể nghĩ đời là
cõi tạm mà chạy theo lối sống hưởng thụ vật chất tầm thường để rồi phải hối tiếc trong muộn
màng: “những gì cần làm thì phải làm ngay khi mình còn sống, bây giờ có muốn cũng chẳng
làm thêm gì được” (Người trong cõi nhớ).
6.2.1.2. Nghệ thuật kịch Lưu Quang Vũ
* Các dạng xung đột kịch
- Xung đột giữa cái mới và cái cũ
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, xung đột giữa cái mới và cái cũ, cái tiến bộ với
cái lạc hậu chính là vấn đề cốt lõi của thực tại đời sống. Lưu Quang Vũ đã nhìn rõ mối xung
đột của thời hậu chiến, những băn khoăn lớn của thời đại nên đã thể hiện rất thành công mối
xung đột này qua hai vở kịch Tôi và chúng ta, Người tốt nhà số năm.
Tôi và chúng ta chở nặng những băn khoăn lớn của thời đại chứ không phải sự việc
nhỏ bé từ những vướng bận riêng tư của nhà văn trong cuộc sống đời thường. Với tác phẩm
này, Lưu Quang Vũ đã phản biện lại cả một cơ chế. Ông thống kê được 21 nguyên tắc tài vụ
cũ kỹ, lỗi thời, kìm hãm sản xuất và công khai bảo vệ những tư tưởng mới, những lối nghĩ
mới, lối làm ăn mới, đồng thời công khai phê phán cơ chế quan lieu bao cấp cả trong lĩnh
vực quản lý kinh tế – xã hội lẫn trong lĩnh vực tư tưởng tinh thần.
Vở kịch Người tốt nhà số năm, được công diễn năm1985, Lưu Quang Vũ cũng đề cập
đến nêu vấn đề cơ chế quản lý các ngành dịch vụ, cụ thể là ngành điện lực với nhiều bất cập
cần phải đổi thay..
Cuộc đấu tranh không ngừng chống lại cái trì trệ, lỗi thời là cuộc chạy tiếp sức vượt
qua vô số chướng ngại vật, khó khăn nhưng nhờ vậy, nhân loại mới vượt lên phía trước.
Lòng yêu sự tiến bộ, thái độ sôi nổi, nhiệt tình của tác giả đã tạo nên chất chính luận sắc sảo
cho tác phẩm.

82
- Xung đột giữa người dân lương thiện tích cực và thế lực đen tối tiêu cực
Nhiều vở kịch của Lưu Quang Vũ mang đậm tính chất phê phán, phủ định cái ác, cái
xấu, khẳng định cái thiện và cái đẹp thông qua miêu tả xung đột giữa người dân lương thiện,
chân thật với thế lực đen tối tiêu cực, tàn ác và giả dối. Đây cũng là mối xung đột thể hiện rõ
bản chất của cuộc sống. Chừng nào còn con người thì xung đột này còn tồn tại. Vở Bệnh sĩ
đã tái hiện sinh động xung đột giữa một bên là người dân lao động hiền lương ở xã Cà Hạ,
còn bên kia là Nguyễn Toàn Nha – chủ tịch xã và Sửu – thư ký của Nha đại biểu cho thế lực
đen tối, xảo trá. Thói sĩ diện đãd ẫn Nha đến chỗ lừa bịp mọi người.
Xung đột trong vở Người tốt nhà số năm cũng xảy ra giữa một bên là người trí thức
trung thực, thẳng thắn (Hiệp) với một bên là người lãnh đạo nham hiểm, vụ lợi (Bình). Bình
tiêu biểu cho những kẻ xu thời, cơ hội, nịnh bợ; chỉ vì sự thăng quan tiến chức của riêng
mình, Bình đã làm nhiều việc xấu xa, bất chấp tổn thất của cả cộng đồng. Đáng tiếc là ngay
trên mảnh đất ươm mầm cuộc sống mới, đám trí thức rởm, vô lương tâm như Bình vẫn còn
đất sống và tung hoành làm méo mó đời sống con người.
Trong Lời thề thứ chín cũng diễn ra giữa hai lực lượng không cùng giai cấp. Một bên
là ông Thịnh, Xuyên – con trai ông và đồng đội của anh, còn bên kia là tên chủ tịch xã
Quách Văn Tuần bạo ngược, tham lam. Sở dĩ tên Tuần dám lộng hành, lợi dụng chức quyền
để trục lợi bởi y có ô dù trên ủy ban huyện và tỉnh. Mối nguy hiểm càng đe dọa tính mạng
người dân (ông Thịnh) thì tính chất gay gắt của xung đột trong Lời thề thứ chín càng tăng.
Xung đột được giải quyết khi những người lính trẻ tự ý ra tay giành lại công lý rồi sau đó
chính họ cũng bị bắt giam. Những trang viết hừng hực tính chiến đấu của Lưu Quang Vũ
như một hồi chuông cảnh tỉnh, khuyến khích lòng dũng cảm, kiên định không lùi bước trước
cái xấu, biểu dương tinh thần đấu tranh của những cựu chiến binh và chiến binh gan dạ;
đồng thời đề cập đến vấn đề cấp bách là phải kiện toàn công tác quản lý cán bộ ở cấp cơ sở.
- Xung đột giữa cái xấu và cái tốt
Bên cạnh vấn đề đạo đức thời đại, cái xấu và cái tốt cũng là những xung đột cụ thể
được đặt ra trong khá nhiều vở kịch nổi tiếng của Lưu Quang Vũ như: Hoa cúc xanh trên
đầm lầy, Nguồn sáng trong đời, Lời nói dối cuối cùng, Hồn Trương Ba da hàng thịt… Vở
kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt được đánh giá cao vì nó không chỉ dừng lại ở chỗ mô
phỏng đời sống mà còn khám phá các mặt đối lập ngay trong bản thân con người. Lưu
Quang Vũ vừa miêu tả xung đột giữa những người có chức có quyền với những người dân
bình thường, xung đột giữa tính cách Trương Ba với hoàn cảnh lắt léo mà nhân vật phải đối
mặt, đồng thời cũng xây dựng các lớp kịch biểu hiện xung đột giữa linh hồn cao khiết với
dục vọng thân xác của con người. Qua đó, tác giả nêu lên vấn đề triết lý nhân sinh sâu sắc:
tự mỗi người hãy biết đấu tranh hoàn thiện mình để ngày càng trở nên tốt đẹp hơn từ trong
chính cuộc đời còn đầy khó khăn, phức tạp này.
Kịch của Lưu Quang Vũ theo sát cuộc sống nên có khi nhà văn miêu tả nhiều xung
đột trong một kịch bản, cùng lúc có thể tồn tại xung đột chính và xung đột phụ. Vì thế câu
chuyện kịch không đơn giản mà nhiều xung đột chồng chéo, giúp cho người đọc, người xem
83
cảm nhận được hiện thực cuộc sống phức tạp, bộn bề. Kết thúc tác phẩm Lưu Quang Vũ đã
đưa ra hướng giải quyết các mối xung đột kịch bằng cách xây dựng lối kết cấu gợi mở và sự
tự ý thức của nhân vật.
* Hành động kịch
- Dẫn dắt hành động kịch dựa trên quy luật nguyên nhân - kết quả
Kịch Lưu Quang Vũ thường dẫn dắt hành động kịch dựa trên quy luật nguyên nhân -
kết quả nên mọi biến cố lớn hay chi tiết nhỏ được đưa ra đều có nguyên nhân cụ thể. Để đảm
bảo tính logic của hành động kịch và câu chuyện kịch không có các chi tiết vô lý, trước khi
tạo ra sự biến, tác giả đã chuẩn bị bằng một loạt những nguyên cớ khiến cho sự biến đó phát
sinh. Sự biến trong kịch Lưu Quang Vũ được cho là hợp lý bởi nó phù hợp với hoàn cảnh cụ
thể và tính cách nhân vật, thể hiện qua các vở Hồn Trương Ba da hàng thịt, Hoa cúc xanh
trên đầm lầy, Đường bay… Ở Đường bay, Thảo - trung đoàn phó tranh luận với Viễn về
chiến thuật không kích. Trước đó quan hệ giữa hai thầy trò đã không được êm ả vì không
thống nhất quan điểm. Viễn bướng bỉnh, chần chừ chưa muốn lái máy bay luyện tập minh
họa rập khuôn theo đúng lời Thảo. Thảo nổi giận, đích thân ngồi lên máy bay tự mình bay
minh họa, trong cơn bực tức, tâm lý nặng nề, tinh thần không thoải mái, lại thêm bệnh huyết
áp, quá lâu chưa cầm lái, khi hạ cánh Thảo quên không bấm nút hạ càng, khiến cho máy bay
bốc cháy. Sự biến này kéo theo một loạt hành động của các nhân vật, qua đó, đặc điểm tính
cách từng nhân vật càng được bộc lộ rõ hơn, thể hiện rõ hành động kịch theo quy luật
nguyên nhân - kết quả.
- Hành động kịch dự báo tương lai
Người cầm bút luôn cần có sự mẫn cảm để sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật mà
trong đó thấp thoáng hình bóng tương lai. Lưu Quang Vũ đã làm được điều này, ngoài
những chức năng thông thường của tác phẩm nghệ thuật, các vở kịch Tôi và chúng ta, Bệnh
sĩ, Hoa cúc xanh trên đầm lầy, Khoảnh khắc và vô tận còn có thêm chức năng dự báo. Tôi
và chúng ta miêu tả hành động khắc phục tình trạng sản xuất trì trệ, vượt thoát khỏi cơ chế
bao cấp cũ kỹ không còn phù hợp với giai đoạn mới của đất nước. Thói quen được bao cấp
về mọi mặt, bao cấp cả về tư tưởng tạo cho các công chức sức ỳ lớn, họ đến cơ quan được
“giao gì làm nấy, chỉ đâu đánh đấy”, nhắm mắt làm theo những nguyên tắc từ lâu đã thành
bất hợp lý, kéo theo sự thua lỗ của hầu hết doanh nghiệp nhà nước, rất cần một cuộc cách
mạng để thay đổi.
Trong vở Bệnh sĩ, qua miêu tả hành động nông dân phản đối lại vị chủ tịch xã mê sản
xuất pháo, Lưu Quang Vũ phê phán hiện tượng bỏ bê, xao lãng sản xuất nông nghiệp, trong
khi nước ta vốn là một nước có truyền thống văn minh lúa nước từ bao đời nay. Sản xuất
pháo không phải là kế sách hay, đốt pháo chẳng được ích lợi gì mà chỉ tiêu tốn tiền của, đó
là chưa kể đến chuyện sau giây phút nhà nhà cùng đốt pháo, cả một vùng không gian bị ô
nhiễm. Bệnh sĩ được công diễn năm 1988 là kết quả của cái nhìn sắc sảo do nhà văn quan sát
và suy nghĩ mang lại tính dự báo cao.

84
* Ngôn ngữ kịch
Ngôn ngữ trong tác phẩm kịch là yếu tố quyết định giá trị của tác phẩm, bởi vì qua
ngôn ngữ, người xem nắm bắt được hành động, tính cách nhân vật, xung đột kịch, cốt truyện
kịch, phong cách tác giả và chủ đề tưtưởng của tác phẩm.
- Ngôn ngữ đối thoại
Ngôn ngữ đối thoại đảm nhiệm mọi chức năng trần thuật như giới thiệu nhân vật,
nhắc chuyện cũ, đánh giá sự việc ở hiện tại, giúp người xem hiểu rõ mức độ căng thẳng
trong xung đột kịch, cách giải quyết xung đột và tư tưởng - tình cảm của tác giả. Lời đối
thoại gắn liền với việc các nhân vật nói với nhau, hướng vào nhau, tác động lẫn nhau. Trong
kịch Lưu QuangVũ, ngôn ngữ đối thoại của nhân vật không mang giọng văn vẻ trơn tuột,
sáo rỗng. Lời đối đáp vừa có tính khẩu ngữ, giọng chân thực của lời hội thoại vừa mang chất
văn học. Thông qua những lớp đối thoại tự nhiên, giản dị, anh khắc sâu tính cách nhân vật,
gợi cho người xem nhiều suy nghĩ về thế thái nhân tình. Các vở Nguồn sáng trong đời, Hồn
Trương Ba, da hàng thịt… thể hiện rõ đặc điểm này.
- Ngôn ngữ độc thoại
Lưu Quang Vũ không chỉ viết về mối quan hệ giữa con người với xã hội mà còn miêu
tả mối quan hệ giữa con người với chính bản thân mình, những giây phút nhân vật độc thoại
là lúc nhân vật đang nói với chính mình để tự an ủi hoặc suy nghĩ để chọn lựa hành vi ứng
xử. Mỗi loại tính cách, mỗi loại người, mỗi độ tuổi có cách nghĩ riêng, tuỳ theo hoàn cảnh.
Sự kiện, biến cố trong kịch có sức mạnh lớn, tạo nên những phản ứng nội tâm của các nhân
nhằm đưa ngôn ngữ nội tâm từ bên trong ra bên ngoài. Hoa cúc xanh trên đầm lầy, Hồn
Trương Ba, da hàng thịt là những vở kịch thể hiện rõ nhất đặc điểm này.
- Ngôn ngữ giàu chất triết lý, hàm súc
Là người có ý thức công dân tích cực khiến Lưu Quang Vũ thường ưu tư về con
người và thời cuộc. Vì vậy, ngôn ngữ kịch của ông thường đậm chất triết luận - trữ tình.
Chất triết lý toát lên từ lời thoại của một số nhân vật nhưng không phải bằng giọng văn lên
gân, thuyết giáo mà ngược lại, rất tự nhiên, mộc mạc, dễ hiểu. Có lúc lời tâm sự bày tỏ quan
niệm của tác giả về con người như hoà quyện vào trong lời thoại kịch: “Tôi không muốn
chia cuộc đời thành người tốt kẻ xấu, chỉ có người thúc đẩy sự tiến hoá và người cản trở”
(Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh gửi lại).
Lưu Quang Vũ cũng thường gửi gắm quan niệm về lẽ sống chết ở đời: “Sống giả tạo
mới thực là chết” (Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh gửi lại). Không ai thoát khỏi sinh, lão,
bệnh, tử. Cuối cùng cái chết mang người ta đi “Trong chuyến đi này, người ta chẳng có
hành lý gì mang theo” (Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh gửi lại). Cho nên “so với lẽ sống
chết của cuộc đời, mọi thứ của cải là vô nghiã hết, chỉ có tình yêu thương là đáng kể” (Lưu
Quang Vũ và Xuân Quỳnh gửi lại).
Với ông, con người chân chính luôn vươn tới cuộc sống có ý nghĩa, người sống hết
mình là người suốt đời cống hiến và kiên trì tìm tòi, học hỏi: “Không thể không học không
tìm hiểu mà việc gì cũng giỏi giang ngay được” (Tôi và chúng ta). Theo Lưu Quang Vũ, đã
85
là phái mạnh tất phải sống khoẻ khoắn, lành mạnh: “Đàn ông người ta phải đầy đam mê
hoài bão, sự nghiệp, tình yêu, nếu không thì cũng phải mê một thứ gì đó: Văn chương, đàn
hát, thể thao chẳng hạn. Kẻ tầm thường hơn thì ham tiền” (Tôi và chúng ta)… Cuộc sống trở
nên vô nghiã, vô vị khi con người thiếu khát vọng, thiếu lý tưởng. Trong vở “Đường bay”,
nhân vật Tuấn đã nói về mối liên hệ chặt chẽ giữa lối sống và cung cách làm việc của từng
người: “Sống bệ rạc, nhơ nhớp trên mặt đất thì không thể đàng hoàng, dũng mãnh trên trời
được”. Người chiến sĩ phi công nhận ra một điều vô cùng tinh tế: “Ta nhìn nhận hôm nay,
nhìn nhận tuổi trẻ bằng những khuôn mẫu của ngày hôm qua, dẫn đến sự trì trệ luẩn quẩn
khiến không ai có thể vượt xa hơn đường bay của người đi trước” (Đường bay). Cái nhìn
khách quan và quan điểm biện chứng thực sự luôn cần thiết khi xem xét mọi khía cạnh của
- Ngôn ngữ hóm hỉnh, hài hước
Tiếng cười là một trong những điều kỳ diệu của cuộc sống. Nếu ung đột kịch quá
căng thẳng liên tục từ đầu đến cuối dễ tạo ra cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Vì vậy Lưu
Quang Vũ thường xen vào những lớp thoại dí dỏm, hài hước vừa để người xem thư giãn vừa
tạo độ giãn cách hợp lý giữa các bước tiến triển của xung đột kịch.
Bệnh sĩ cất lên tiếng cười phủ định, cương quyết không để cho thói làm láo báo cáo
hay còn tồn tại. Tác giả vận dụng thành công yếu tố hài hước, trào lộng để công kích vào tư
tưởng hủ bại, lối sống dối trá. Ngay cả cái tên của nhân vật cũng ngộ nghĩnh, dí dỏm. Tên
của chủ tịch xã là Nguyễn Toàn Nha, Nha nghĩa là răng, Toàn Nha nghiã là toàn răng, gã
này chỉ giỏi ăn, nhai, nuốt và hô các khẩu hiệu. Thế nhưng, lúc nào cũng lên mặt tự phụ,
khoác lác. Chính Nha bị một tên giả làm nhà văn lừa phỉnh nhưng Nha vẫn nghĩ xưa nay chỉ
có mình lừa người khác chứ ai dám lừa mình; cho nên ông ta liền nói theo thói quen mở
miệng là chê bai thiên hạ: “họ bị lừa rồi”. Lưu Quang Vũ đã kết hợp thủ pháp cường điệu
với kiểu chơi chữ đồng âm để tạo ra chất hài hước của đoạn thoạn, khiến cho ngôn ngữ kịch
trở nên hấp dẫn hơn.
- Ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, gần gũi với lời nói hàng ngày
Chất khẩu ngữ tự nhiên là kết quả của việc Lưu Quang Vũ thường vận dụng ngôn ngữ
dân gian với các từ láy như: om sòm, rầm rĩ, vất vả;… các thành ngữ “ngồi lê đôi mách, có ít
sít ra nhiều;…tục ngữ, ca dao: Chân mình thì lấm bề bề / Lại toan cầm đuốc đi rê chân
người…
Lời thoại của Trương Ba thì theo kiểu mộc mạc đúng như cách nói năng của nông
dân. Trương Ba kể cho vợ nghe chuyện trồng trọt: “Bà nó ơi, dãy na tôi trồng bữa trước đã
bắt đầu ra lá non…”. Cách xưng hô “tôi” với “bà” vốn rất dân dã thường được các cặp vợ
chồng đã có tuổi sử dụng hàng ngày. Với con trai của mình, khi tức giận, Trương Ba gọi con
là “mày” xưng “tao”: “Đi ngang về tắt, ra bến vào thành, giao du với lắm bọn mờ ám, có
ngày quan nha thừa lại họ gông mày lại!” (Hồn Trương Ba, da hàng thịt).
Có thể nói, kịch là một thể loại góp phần không nhỏ trong việc khẳng định tài năng,
vị trí của Lưu Quang Vũ trên văn đàn Việt Nam. Bên cạnh sự phong phú về đề tài, những
nét đặc sắc về nghệ thuật đã tạo nên chất thơ tỏa rạng, sức hấp dẫn lâu bền với người đọc.
86
6.2.2. Thơ của Lưu Quang Vũ
6.2.2.1. Nội dung thơ Lưu Quang Vũ
Nhắc đến Lưu Quang Vũ từng đạt giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật
cùng với tư cách nhà viết kịch. Song, thơ ca cũng lại là một loại thể giúp ông khẳng định tên
tuổi của mình trước khi chuyển sang viết kịch. Thơ là nơi ông gửi gắm, giãi bày nhiều tâm
sự nhất. Với ông, “Thơ và kịch rất gần nhau” nên ông luôn khao khát “được sống cùng một
lúc với hai người vợ ấy mãi”
Tập thơ Hương cây - Bếp lửa (1968, in chung với Bằng Việt), tập thơ đã làm xao
động tâm hồn con người bởi chất tươi mát ngọt ngào và những hoài niệm đẹp đẽ về tình yêu
cuộc sống. Chỉ với hơn 20 bài thơ đầu tay nhưng ông đã tạo dựng cho mình một “điệu tâm
hồn riêng”, kịp định hình một phong cách thơ trẻ trung, sôi nổi, mê đắm, tràn ngập niềm yêu
đời và yêu cuộc sống, yêu quê hương đất nước. Hình tượng đất nước trong thơ ông hiện lên
muôn sắc, muôn hương của thiên nhiên; một đất nước với không khí rộn ràng khi ra trận và
công cuộc dựng xây. Bên cạnh đó, còn là những tình cảm mến thương với tuổi thơ, với mẹ,
với những rung động ngọt ngào trong tình yêu của ông.
Tập thơ Bầy ong trong đêm sâu (1993), là tập hợp những bài thơ được Lưu Quang Vũ
sáng tác từ những năm đầu thập kỉ 70, khi đất nước bước vào giai đoạn cuối của cuộc kháng
chiến chống Mỹ. Đây cũng là khoảng thời đoạn “gian khó, cô đơn đến cùng cực”của Lưu
Quang Vũ nên không ít vần thơ đong đầy sự “viễn vông cay đắng u buồn” được ra đời. Tập
thơ chứa đựng tinh thần hiện thực, góp phần làm phong phú thêm cho diện mạo thơ ca kháng
chiến chống Mỹ nói riêng và thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.
Tập thơ Mây trắng của đời tôi (1984) được Lưu Quang Vũ viết vào những năm 80,
khi nhà thơ đã vượt qua những tháng ngày khủng hoảng của cuộc đời nên hơi thơ có phần
ấm áp, vui tươi hơn. Tập thơ đề cập đến những vấn đề sinh hoạt đời thường qua một số bài
thơ như: Thằng Mý, Nhà chật, Buổi chiều đón con,… đồng thời còn hướng đến những vấn đề
lớn lao của đất nước, ước mơ, khát vọng của con người về một thế giới tốt đẹp hơn như: Đất
nước đàn bầu, Gió và tình yêu thổi trên đất nƣớc tôi…
Tuyển tập thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi (2013) với hơn 100 thi phẩm,
khái quát được hành trình sáng tạo thi ca của Lưu Quang Vũ. Từ những vần thơ trong trẻo
của buổi đầu đến những linh cảm, lo âu và bi kịch vỡ mộng của con người đã từng mang
trong mình nhiều khát vọng, ước mơ trước cuộc sống hiện thực trần trụi. Tuyển tập thơ
mang đến cho độc giả một thế giới tinh thần phong phú của Lưu Quang Vũ với nhiều sắc
màu tình yêu: tình yêu với thành phố nơi mình sinh ra và lớn lên; tình yêu đôi lứa, tình yêu
quê hương, đất nước; tình yêu bạn bè, đồng loại… Nhà thơ Vũ Quần Phương có nhận xét
trong tuyển tập thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi: “Đây là một tập thơ hay, có lẽ hay
nhất trong các tập của Lưu Quang Vũ. Tôi đọc và sửng sốt, đây là một Lưu Quang Vũ khác,
một Lưu Quang Vũ mà bạn bè còn ít biết tới. Ở đây anh cô đơn hơn, cay đắng hơn và nhiều
ý nghĩ của anh bế tắc quá. Nhưng cũng chính ở đây anh viết thực chân thành, trái tim trần

87
trụi nhoi nhóp đập sau nét chữ mảnh mai như chữ con gái - chưa bao giờ tôi thấy thơ Lưu
Quang Vũ chân thành đến tàn nhẫn với chính mình như ở tập này”. Những bài thơ tiêu biểu
trong tập thơ này như: Việt Nam ơi, Tiếng Việt, Thôn Chu Hương, Đêm hành quân, Người
cùng tôi…
6.2.2.2. Phong cách thơ Lưu Quang Vũ
* Lưu Quang Vũ – tiếng thơ vang vọng về đất nước và con người Việt Nam
Trong hành trình sáng tạo thơ ca, những vần thơ viết về Tổ quốc và nhân dân được đã
góp phần tạo nên dấu ấn phong cách riêng cho hồn thơ Lưu Quang Vũ. Thông qua những
vần thơ, ông đã thể hiện một cách sâu sắc nhất tiếng nói tri ân của mình với Tổ quốc và nhân
dân. Lưu Quang Vũ luôn trăn trở, thấu cảm với số phận của dân tộc từng nếm trải muôn vàn
thử thách, đắng cay suốt chiều dài lịch sử: Việt Nam ơi! Mấy mươi năm đã mấy lớp người/
Chia lìa gục ngã/ Đã tận cùng nỗi khổ…/ Nghĩ đến Người lòng tôi rách nát/ Xin Người đừng
trách giận, Việt Nam ơi”(Việt Nam ơi).
Lưu Quang Vũ cảm thấu được giá trị, vai trò thiêng liêng của nhân dân – những con
người đã làm nên lịch sử, làm nên đất nước này. Vì thế, ông luôn gửi gắm lòng biết ơn sâu
sắc và niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của nhân dân; ông nguyện vui buồn cùng dân tộc
“Giữa đau thương, người đã nắm trong tay/ Địa chỉ của Niềm Vui/ Những lý do của hy
vọng/ Tôi tìm đời tôi trong lẽ phải của Người/ Tìm lẽ phải nơi trán Người bình tĩnh/ Hạt
muối tôi trong biển Người vô tận/ Chỉ khổ đau vì đau khổ của Người/ Chỉ sướng vui trong
vui sướng của Người thôi… “(Người cùng tôi). Lưu Quang Vũ luôn khao khát được trở
thành làn gió mát để mang tình yêu, hạnh phúc nhằm xoa dịu mọi đau thương, mất mát của
nhân dân: “Ước chi được hoá thành ngọn gió/ Để được ôm trọn vẹn nước non này/ Để thổi
ấm những đỉnh đèo buốt giá/ Để mát rượi những mái nhà nắng lửa/ Để luôn luôn được trở
lại với đời…” (Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi).
Viết về đất nước, thơ của Lưu Quang Vũ lôi cuốn người đọc không phải ở sự chau
chuốt ngôn từ với những kĩ xảo, ngón nghề mà chính là ở giọng điệu đắm say và xúc cảm
chân thành, giản dị, tự nhiên. Cách ông thể hiện tình yêu nước vào tình yêu tiếng Việt thật
độc đáo: “Ai thuở trước nói những lời thứ nhất/ Còn thô sơ như mảnh đá thay rìu/ Điều anh
nói hôm nay, chiều sẽ tắt/ Ai người sau nói tiếp những lời yêu?” (Tiếng Việt).
Tình yêu quê hương, đất nước còn được Lưu Quang Vũ được thể hiện qua những
điều rất đỗi đời thường, gần gũi: “Ôi hạnh phúc thấm đầy nước mát/ Lan trên má ta những
giọt sáng ngời” (Cái máy nước đầu ngõ). Lưu Quang Vũ là người rất giàu cảm xúc và trí
tưởng tượng, nên khi viết về đất nước, thơ ông luôn đầy ắp các hình ảnh vừa cụ thể vừa
tưởng tượng, vừa hiện thực vừa lãng mạn, tạo nên sự đắm say, lôi cuốn rất khó tả: “Trái
sung non thì chát/ Quả dọc già thì chua/ Em đến cùng tôi như chùm vải đầu mùa/ Tóc hoang
dại lòa xòa trên ngực nắng/ Ngực em sáng như mặt trời sắp lặn/ Tôi đầm đìa sương lạnh
của bờ đê/ Tôi thấm đầy nước mắt của trời khuya/ Trăng đã hiện đêm ca dao vầng vặc/
Những cô Tấm thử hài trong tiếng nhạc/ Những nàng Kiều hồi hộp bấm dây tơ (Đất nước
đàn bầu).
88
Hoặc khi cảm nhận về đất nước trong nhịp sống thường nhật, Lưu Quang Vũ cũng tạo
dựng cho mình một dấu ấn phong cách riêng, nhẹ nhàng, tinh tế. Chỉ cần những âm thanh
đơn giản hòa với nhịp điệu lao động vọng về trong buổi sáng tinh mơ cũng đủ để ông thể
hiện tiếng lòng da diết trước cuộc sống đời thường: “Tiếng bắp cải nặng vai tròn kĩu kịt/
Tiếng guốc lanh canh tiếng cười ríu rít” (Trên cầu Long Biên). Ta còn bắt gặp cảm xúc
nồng nàn, da diết, đắm say trong thơ Lưu Quang Vũ qua sự cảm nhận tinh tế về cảnh sắc
thiên nhiên: “Nơi vòm lá rì rào xao động cơn mưa/ Quả ngọt chín khi mùa ve lại đến/
Những chân trời màu hồng những chân trời màu tím/ Những ngôi sao bàng bạc cả hoàng
hôn” (Vườn trong phố). Thơ Lưu Quang Vũ còn hấp dẫn người đọc bởi những câu thơ đặc
sắc viết về nhân dân, về đất nước, bình dị, đời thường mà sâu lắng, da diết, giàu sức gợi:
“Những ban mai xanh biếc tiếng đàn bầu/ Bà hiền hậu têm trầu bên chõng nước/ Em đi gặt
trên cánh đồng cổ tích/ Lúa bàng hoàng chín rực những triền sông” (Đất nước đàn bầu).
Hay: “Ở nơi ấy có một đồi mua tím/ Có con đường đất mịn mát chân đi/ Ở nơi ấy có một
rừng bưởi chín/ Có người em bé nhỏ ngóng ta về” (Nơi ấy).
Xuất thân từ người lính nên Lưu Quang Vũ cũng sáng tạo những vần thơ viết về
người lính rất chân thật. Chỉ cần một câu thơ dung dị“Đêm sâu này thức trắng với quê
hương” cũng đủ để Lưu Quang Vũ gieo một ấn tượng tốt đẹp trong lòng người đọc về hình
ảnh người lính trẻ thời chống Mỹ. Họ thức trọn đêm nay, đêm hành quân ra mặt trận để
chiến đấu với quân thù trong tâm thế đầy hào khi: “Anh nghĩ gì trong đêm hành quân/ Trên
những chặng đường xưa ra trận/ Ngụy trang reo như rừng gió chuyển/ Bước quân đi cuồn
cuộn đường dài/ Tiếng ai hò? Dáng lạ cũng thân quen/ Đường nào vui bằng đường ra trận
tuyến/ Nam Bắc lòng ta chung tiếng gọi mẹ hiền/ Ta náo nức như suối về sông biển”(Đêm
hành quân).
Viết về hình ảnh người lính, Lưu Quang Vũ không chỉ ngợi ca vẻ đẹp của ý chí sắt
thép, của lòng kiên định mà còn khẳng định đời sống tình cảm phong phú: “Lòng ta đẹp như
là đất nước/ Như gió vui rung ngọn lá trên cành” (Thức với quê hương). Trên mỗi bước
đường hành quân, người lính luôn ấp ủ trong lòng nỗi nhớ và dáng dấp quê hương với hương
vị của cỏ cây, hoa trái: “Đi xa lòng vẫn nhớ/ Dáng quê hương trong cây lá hiền lành” (Lá
bưởi lá chanh). Người lính trong thơ Lư Quang Vũ giã từ quê hương ra trận tuyến nhưng sâu
thẳm trong tâm hồn lãng mạn, khao khát yêu thương ấy vẫn chở nặng mối tình quê với bao
luyến thương gây xúc động lòng người: “Nào đâu phải ngày đi không lưu luyến/Mắt người
trong như nước giếng ban đầu/ Mảnh trăng liềm nghiêng một nỗi nhớ nhau/ Còn biết mấy
hẹn hò dang dở” (Đêm hành quân).
Chính ân tình của quê hương đã trở thành thứ vũ khí vạn năng giúp người lính vượt
lên, chiến thắng mọi khó khăn, gian khổ và sự hủy diệt của chiến tranh: “Ta đi giữ nước yêu
thương lắm/ Mỗi xóm thôn qua mỗi nghĩa tình” (Gửi tới các anh), khắc tạc nên một dáng
đứng oai hùng“Phải đứng trên cao mà đánh quân thù” (Trên cầu Long Biên) và một niềm
tin chiến thắng: “Tôi chẳng có thời giờ cho nước mắt/ Viên đạn nằm trong lòng súng đợi
bay lên”(Mùa xoài chín).
89
Có thể khẳng định, cảm hứng về đất nước và con người Việt Nam đã góp phần không
nhỏ trong việc định hình và khẳng định dấu ấn phong cách thơ Lưu Quang Vũ.
* Lưu Quang Vũ – tiếng thơ của tình yêu đôi lứa nhiều cung bậc cảm xúc
Thơ Lưu Quang Vũ là đời Lưu Quang Vũ, là tâm hồn nhà thơ nên rất phong phú, đa
dạng, mang nhiều sắc thái khác nhau.
Tình yêu thuở ban đầu được nhà thơ thể hiện một cách thật chân thành, giản dị mà
vẫn không kém phần ngọt ngào, say đắm: “Trong thành phố có một vườn cây mát/ Trong
triệu người có em của ta” (Vườn trong phố). Tình yêu trong thơ Lưu Quang Vũ gắn liền với
nỗi nhớ nhung da diết: “Anh nhớ em trong nỗi nhớ lá cành/ Nhớ nỗi nhớ của vườn xưa tội
quá/ Dẫu mưa mùa đông dẫu dông mùa hạ/ Dẫu ngày mai chẳng biết sẽ ra sao” (Bài thơ
khó hiểu về em).
Tình yêu trong thơ Lưu Quang Vũ thấm đẫm nỗi buồn bởi tình đầu chóng phai,
vương đọng lại niềm nuối tiếc, chán chường, đắng cay: “Hai ta không chung một ngả đường
dài/ Không chung khổ đau không cùng nhịp thở/ Những gì em cần, anh chẳng có/ Em không
màng những ngọn gió anh trao/ Chiếc cốc tan, không thể khác đâu em/ Anh nào muốn nói
những lời độc ác/ Như dao cắt lòng anh như giấy nát/ Phố ngoài kia ngột ngạt những toa
tàu” (Từ biệt). Hay: “Chiếc cốc rơi, mọi điều vỡ hết/ Em có còn mong ước nữa không em?”
(Gửi một người bạn gái).
Tình yêu trong thơ ông vừa tin tưởng vừa hoài nghi, phấp phỏng lo âu: “anh tin đời
theo nghĩa lứa đôi…/ con tàu nào mang gió ấy ra khơi/ chẳng hề có một ngày cập bến/ đích
của nó luôn luôn là phía trước/ là chân trời mãi mãi ở trong em” (Em – Tình yêu những
năm đau xót và hy vọng); “ Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa/ Thương vườn cũ gãy cành và rụng
trái/ Áo em ướt để anh buồn khóc mãi/ Ngày mai chúng mình sẽ ra sao em ơi” (Anh chỉ sợ
rồi trời sẽ mưa).
Dẫu đau khổ nhưng tình yêu trong thơ Lưu Quang Vũ vẫn toát lên sự vị tha, thu tất cả
những lỗi lầm về mình, không muốn gây đau khổ cho người mình yêu: “Em đi nhanh cho
kịp chuyến tàu đông/ Và anh đứng âm thầm trong bóng tối” (Anh chẳng còn gì nữa). Khi
tình yêu tan vỡ, không trách giận mà lặng lẽ buồn: “Thôi nhé, em đi/ Như một cánh chim
bay mất/ Phòng anh chẳng có gì ăn được/ Chim bay về những mái nhà vui/ Nghĩa gì đâu kỷ
niệm tháng năm dài/ Lời thương mến nhớ lại thành chua chát/ Lòng ta cạn hay tại đời quá
hẹp/ Nghĩ cho cùng, nào dám trách chi em” (Từ biệt). Dẫu đau khổ nhưng trái tim vẫn thiết
tha yêu: “Anh bỏ nhà ra đi như ngọn gió/ Ngọn gió âm thầm quằn quại vẫn yêu em” (Không
đề). Hay: “Dẫu bao lần người làm tôi thất vọng/ Tôi vẫn yêu người lắm lắm người ơi/ Tình
yêu tôi như một tiếng chuông dài/ Làm run rẩy hoa hồng trên ngực nắng” (Có những lúc).
Tình yêu ấy còn mang lại nghị lực, sức mạnh, niềm tin để con người chiến thắng mọi
nghịch cảnh: “Khi tàu đông anh lỡ chuyến đi dài/ Chỉ một người ở lại với anh thôi/ Lúc anh
vắng người ấy thường thức đợi/ Khi anh khổ chỉ riêng người ấy tới/ Anh yên lòng bên lửa
ấm yêu thương/ Người ấy chỉ vui khi anh hết lo buồn” (Và anh tồn tại). Hay: “Biết ơn em,

90
em từ miền gió cát/ Về với anh, bông cúc nhỏ hoa vàng/ Anh thành người có ích cũng nhờ
em/ Anh biết sống vững vàng không sợ hãi” (Và anh tồn tại).
Tiếng thơ tình yêu trong thơ Lưu Quang Vũ được cất lên từ nhiều cung bậc cảm xúc
khác nhau. Từ dịu nhẹ say mê, đổ vỡ chia ly, lòng vị tha, hy vọng đến niềm tin vào sức
mạnh vô biên... đã tạo nên một nét riêng cho phong cách thơ Lưu Quang Vũ.
* Lưu Quang Vũ – tiếng thơ đầy trăn trở, suy tư về cuộc sống
Thơ chính là nơi Lưu Quang Vũ ghi dấu một “Tâm hồn anh dằn vặt cuộc đời anh”, là
“mây trắng cuộc đời”. Viết về chiến tranh, Lưu Quang Vũ không chỉ đắm chìm vào cảm
hứng sử thi còn mà đậm chất thế sự. Ông cảm nhận đằng sau tấm hào quang của tấm huân
chương là thân phận con người: “Quần áo và mặt người màu cỏ héo/ Thiếu ăn, thiếu mặc,
thiếu nhà/ Người đợi tàu ngủ chật sân ga/ Trẻ con thiếu nơi học hành dạy dỗ”(Viết lại một
bài thơ Hà Nội). Ông thẳng thắn bộc lộ nỗi đau chiến tranh: “Giữa chiến tranh hiểu đời thực
hơn nhiều/ Rách tan cả những làn sương phủ đẹp/ Chỉ còn lại nỗi buồn trơ núi đá/ Điều em
tin là nhảm nhí mà thôi” (Gửi một người bạn gái). Cảm hứng về chiến tranh trong thơ Lưu
Quang Vũ là cái bất thường, phi lý, vô nghĩa. Vì vậy, giữa dàn đồng ca thơ kháng chiến,
dường như thơ Lưu Quang Vũ có phần lạc điệu, nhưng chính cái lạc điệu ấy lại tạo nên sức
hấp dẫn riêng. Phạm Xuân Nguyên đã nhận định về mảng thơ viết về chiến tranh của Lưu
Quang Vũ: “Người công dân trong anh không cho anh lãng tránh sự thật đau thương của
đất nước mình. Người thi sĩ trong anh không cho anh viết những câu thơ nhàn nhạt, dửng
dưng trước nổi đau nhân dân mình”. Khát vọng khám phá sự thật đã trở thành ý thức nghệ
thuật chi phối quá trình sáng tạo nghệ thuật của Lưu Quang Vũ. Ông quan niệm; “Thơ phải
dạy ta nhìn bằng con mắt thật” (Nói với mình và các bạn); thơ “như nhịp đập của trái tim
trung thực…Trước đau khổ của nhân dân thơ đã không gian dối” (Nếu đó là tội lỗi).
Trong thơ Lưu Quang Vũ, chúng ta còn bắt gặp không ít những vần thơ bộc lộ những
cảm nhận tinh tế của ông về nỗi gian truân, đau đớn của đất nước vừa bước qua cuộc chiến
tranh tàn khốc: “Bây giờ lại bắt đầu khó khăn của thời hậu chiến/ Chưa ai dựng nhà trên
bãi nền đổ nát/ Nơi máu đổ quá nhiều chưa ai dám trồng hoa/ Chưa ai yêu thương bên huyệt
mộ căm thù” (Tháng 5).
Thơ ca không phải là loại thể đưa tên tuổi của Lưu Quang Vũ lên đài cao của sự
nghiệp văn chương nhưng cũng không thể phủ nhận những giá trị vĩnh hằng từ những dòng
thơ chứa đựng nhiều cung bậc cảm xúc. Thơ Lưu Quang Vũ như một sự kí thác, gửi gắm, tự
bộc lộ những gì chất chứa trong lòng với những “tin yêu cuộc đời theo cách của tôi” nên tạo
được sức hấp dẫn riêng.
6.3. Kết luận chung
Lưu Quang Vũ là một hiện tượng đặc biệt trong lịch sử văn học nghệ thuật Việt Nam.
Ông là một nghệ sĩ đa tài, xông xáo và gặt hái được nhiều thành công trong hành trình sáng
tạo. Không chỉ nổi danh ở thể loại kịch mà còn là một cây bút thơ độc đáo, góp phần đáng kể
trong tiến trình phát triển thơ hiện đại Việt Nam. Ở lĩnh vực truyện ngắn tuy thành công

91
không vang dội như thơ nhưng cũng để ít nhiều dư vị nơi người đọc. Thời gian – người phán
xét nghiêm minh và sáng suốt” (Khrapchenko) sẽ khẳng định vị thế và sự đóng góp không
nhỏ của Lưu Quang Vũ đối với nền văn học Việt Nam.

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 6

CÂU NỘI DUNG CĐR HP


6.1 Khái quát những thành tựu Kịch của Lưu Quang Vũ? CO1, CO2,
CO5, CO6
6.2 Phân tích yếu tố lạ hóa trong thơ Lưu Quang Vũ sau 1975? CO1, CO2,
C03
6.3 Phân tích tính triết lí trong kich Lưu Quang Vũ?
CO1, CO2

6.4 Tìm hiểu chất thơ trong kịch Lưu Quang Vũ? CO1, CO2,
CO5, CO6

92
Chương 7: Nguyễn Ngọc Tư

7.1. Vài nét về nhà văn Nguyễn Ngọc Tư


Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976 trong một gia đình nghèo tại xã Tân Duyệt, huyện
Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Nguyễn Ngọc Tư có một tuổi thơ khá vất vả.
Năm 15 tuổi, vừa học hết lớp 9 thì gia đình gặp biến cố: Ông ngoại mất, kinh tế gia
đình khó khăn nên chị phải rời ghế nhà trường. Chị bắt đầu tập viết lách và nhận được sự
động viên của người cha: “Nghĩ gì viết nấy, viết những gì con đã trải qua”. Thật vui khi ba
truyện đầu tay của chị được tạp chí Văn nghệ bán đảo Cà Mau chọn đăng. Sau đó chị được
nhận vào làm văn thư và học làm phóng viên tại báo này. Chị lập gia đình với một thợ kim
hoàn và hiện đang cùng chồng con cư ngụ tại thành phố Cà Mau, làm phóng viên cho tạp chí
Văn nghệ bán đảo Cà Mau và Hội Văn học Nghệ thuật Cà Mau.
Nguyễn Ngọc Tư là một người phụ nữ Nam Bộ “điềm đạm mà thấu đáo” (Dạ Ngân),
bình dị mà sắc sảo. Chị là một trong số hiếm những tác giả trẻ nhận được những lời nhận
xét, đánh giá cao và được coi là một “hiện tượng” của đời sống văn học đương đại.
7.2. Quá trình sáng tác
Sau chuyến đi công tác trong cơn bão số năm tại Đất Mũi chị đã hoàn thành tập kí sự
mang tên Nỗi niềm sau cơn bão dữ. Tác phẩm này đoạt giải ba Giải Báo chí toàn quốc năm
1997, tạo bước ngoặt trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của chị. Nguyễn Ngọc Tư chính
thức bước vào nghề văn với nhiều giải thưởng: Giải nhất văn học tuổi hai mươi do báo Tuổi
trẻ tổ chức; giải B của Hội Nhà văn Việt Nam về truyện ngắn 2000 với tác phẩm Ngọn đèn
không tắt; giải tác giả trẻ nhất của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật
Việt Nam; giải thưởng của Hội Nhà văn về tập truyện Giao thừa năm 2003, Nguyễn Ngọc
Tư trở thành một trong “Mười gương mặt trẻ tiêu biểu năm 2002” do Trung ương Đoàn trao
tặng; giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2006 với tác phẩm Cánh đồng bất tận
đoạt; giải thưởng văn học các nước ASEAN do hoàng gia Thái Lan trao tặng năm 2008 với
tác phẩm Ngọn đèn không tắt và Cánh đồng bất tận, chị là nhà văn nữ Việt Nam đầu tiên
nhận giải thưởng danh giá này; giải thưởng LiBeraturpreis 2018 do Hiệp hội Quảng bá văn
học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin tại Đức (Liprom) bình chọn với tác phẩm Cánh đồng bất
tận. Năm 2019, Nguyễn Ngọc Tư thuộc Top 50 người phụ nữ có ảnh hưởng nhất tại Việt
Nam 2018 do tạp chí Forbes bình chọn.
Từ năm 2000 đến nay, nhiều tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư đã liên tục được dịch ra
tiếng Hàn, tiếng Anh, tiếng Thụy Điển. Chị đã thử sức nhiều thể loại: tản văn, truyện ngắn,
tùy bút, thơ, tiểu thuyết. Hơn 20 năm sáng tác, Nguyễn Ngọc Tư đã ghi lại dấu ấn trong lòng
người đọc với những sáng tác tiêu biểu:
- Truyện ngắn, tản văn: Ngọn đèn không tắt (tập truyện ngắn, 2000); Ông ngoại (tập
truyện thiếu nhi, 2001); sau có tên Xa xóm Mũi (tập truyện ngắn thiếu nhi 2015); Biển người
mênh mông (tập truyện ngắn thiếu nhi, 2003); Giao thừa (Tập truyện ngắn, 2003); Nước
93
chảy mây trôi (tập truyện ngắn và kí, 2004); Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (tập truyện ngắn,
2005); Cánh đồng bất tận (tập truyện ngắn, 2005); Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư (tập tạp bút,
2005); Sống chậm thời @ (tập tản văn, 2006); Ngày mai của những ngày mai (gồm 35 tản
văn, 2007), đến năm 2015 nhà xuất bản Văn học tái bản và bổ sung thành 54 tản văn; Gió lẻ
và 9 câu chuyện khác (tập truyện ngắn, 2008); Yêu người ngóng núi (tản văn, 2009); Khói
trời lộng lẫy (tập truyện ngắn, 2010); Gáy người thì lạnh (tập tản văn, 2012); Bánh trái mù
xưa (tập tản văn, 2012); Đảo (tập truyện ngắn, 2014); Trầm tích (tập truyện ngắn, 2014);
Đong tấm lòng (gồm hơn 30 tản văn, 2015); Không ai qua sông (tập truyện ngắn, 2016); Cố
định một đám mây (tập truyện ngắn, 2018); Hành lý hư vô (tập tản văn, 2019);
- Thơ ca: Chấm (tập thơ, 2013); Gọi xa xôi (tập thơ, 2015);
- Tiểu thuyết: Sông (2012); Biên sử nước (2020) Nguyễn Ngọc Tư đến với mảnh đất
văn chương bằng chất mộc mạc, bình dị của một người con vùng sông nước.
Điểm qua quá trình sáng tác và thành tựu của Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta dễ nhận
thấy đây là một trong những cây bút cần mẫn, đa năng, nghiêm túc tìm tòi, sáng tạo nghệ
thuật. Chị đã thể nghiệm nhiều thể loại khác nhau, thể loại nào cũng đạt được những thành
tựu đáng ghi nhận nhưng thành công nhất là thể loại truyện ngắn. Đọc văn Nguyễn Ngọc Tư,
người đọc cảm nhận được bức tranh đời sống muôn màu đang hiện diện trên từng con chữ
bởi lối viết rất lạ, rất Nam Bộ - chân chất, gần gũi mà không kém sắc sảo.
7.3. Phong cách nghệ thuật
7.3.1. Nguyễn Ngọc Tư – một cây bút giàu cảm xúc
Nguyễn Ngọc Tư từng chia sẻ: “Tôi viết như cảm xúc của mình”, viết để giải tỏa
những điều chất chứa trong lòng. Vì vậy, dù viết về mảng nào, lĩnh vực nào thể loại nào thì
với Nguyễn Ngọc Tư, điều quan trọng vẫn là cảm xúc. Với chị, “một trang viết chỉ có kĩ
thuật thôi mà không có thế thái nhân tình, không hồn vía con người thì ai mà chịu đọc”. Hầu
hết những trang văn của chị đều được chắt lọc từ những cảm xúc tự trong lòng nên thật dung
dị mà không kém phần sâu sắc. Chị khẳng định: “Tôi là đứa viết văn không chuyên, dựa vào
cảm xúc mà viết” nên những trang văn của chị đều thấm đẫm cảm xúc của chính chị.
Nguyễn Ngọc Tư thường viết về những gì mà chị cảm nhận được từ đời sống. Chị lắng lòng
trước cuộc sống, trước những số phận người nông dân nghèo khó, lam lũ, những nghệ sĩ bất
hạnh, những đứa trẻ đáng thương, những người đàn bà tội nghiệp… Chính những tình cảm,
số phận trớ trêu của họ đã tạo cảm xúc cho Nguyễn Ngọc Tư sáng tác. Những con người với
cuộc sống lam lũ, vất vả ở mảnh đất cuối trời và những kỷ niệm đã nuôi dưỡng tâm hồn, vun
đắp tài năng, vốn sống và khơi nguồn cảm hứng dồi dào cho sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.
Từng trang văn của Nguyễn Ngọc Tư đi sâu vào hoàn cảnh, tâm trạng, những cảm
xúc chân thực của những người dân vùng đất phương Nam nên đã tạo được những phát hiện
thú vị về một vỉa tầng của cuộc sống, của môi trường sống. Khác với lối văn chương ưa cầu
kì, bóng bẩy của những con chữ, tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư không màu mè mà vẫn luôn
tạo được dấu ấn đậm, có sức hấp dẫn, thậm chí ám ảnh người đọc, một phần là nhờ những
94
tình cảm chân chất khởi phát từ trái tim chị. Một trong những tác phẩm tiêu biểu, thể hiện rõ
dấu ấn phong cách này của chị phải kể đến Cánh đòng bất tận, Cố định một đám mây, Yêu
người bóng núi, Gió lẻ…
7.3.2. Nguyễn Ngọc Tư – một cây bút của nỗi cô đơn
Đọc văn Nguyễn Ngọc Tư là đọc những trang đời, nơi ấy có những niềm vui nhưng
cũng đong đầy nỗi cô đơn của cõi nhân sinh. Bước vào đời, vào nghề, chị sớm nhận cảm và
ý thức được sự khắc nghiệt của cuộc đời cũng như nỗi cô đơn trong sáng tạo của người nghệ
sĩ. Bởi vậy, trong sáng tác của chị thường xuất hiện những con người “sống trong cô đơn tận
cùng, trong hoang hoải, chán chường. Tôi cũng như những con người trong “Cánh đồng bất
tận” sống giữa nhiều người, sống giữa cộng đồng, sống giữa biển người nhưng có cảm giác
bị bỏ rơi” (Nguyễn Ngọc Tư trả lời phỏng vấn).
Nguyễn Ngọc Tư cho rằng, sự cô đơn là một điều cần thiết, một chất xúc tác đối với
người nghệ sĩ trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Bởi lẽ cô đơn “là một điều kiện hàng đầu
của nhà văn. Không một người viết hay nào tôi biết mà không cô đơn, không một thần tượng
văn chương nào của tôi mà không bị cô đơn giày vò. Và để chạy trốn nỗi cô đơn trong giao
tiếp đơn thuần mặt nhìn mặt, tay nắm tay, việc viết văn đã dẫn tôi đến sự cô đơn khác… Khi
người ta bằng mọi cách chạy trốn sự cô đơn thì tôi và những đồng nghiệp của tôi lại nuôi cô
đơn, cho nó ăn để duy trì sự cô đơn tồn tại trong người mình cho cái gọi là sáng tạo văn
chương” (Lời tựa Biển của mỗi người). Đây cũng là lời biện giải cho sự xuất hiện những
nhân vật cô đơn xuất hiện với một tần xuất cao trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư. Đó có
thể là những con người bé mọn trong cuộc sống đời thường, những người nghệ sĩ sống trong
tận cùng nỗi cô đơn, Biển của mỗi người, Lời cho má, gió lẻ… thể hiện rõ dấu ấn phong cách
đặc trưng này của Nguyễn Ngọc Tư.
7.3.3. Nguyễn Ngọc Tư – một cây bút của niềm tin yêu và hy vọng
Ý thức được nỗi cô đơn là điều thường đeo bám con người, khó rứt ra và cũng khó lí
giải. Vì thế, với Nguyễn Ngọc Tư, giải pháp để bào mòn nỗi cô đơn chính là sức mạnh của
tình yêu thương. Tình yêu thương xâm chiếm vào mọi góc nẽo tâm hồn chị, để rồi từ đó, trải
dài trên trang sách với muôn ngàn cung bậc. Đó là tình yêu của Nguyễn Ngọc Tư dành cho
cha mẹ, quê hương, kỷ niệm tuổi thơ, khoảng sân đầy nắng và yêu những con người lam lũ,
tảo tần…Với Nguyễn Ngọc Tư, tình yêu thương là lẽ sống, ngay cả trong tình yêu đơn
phương cũng ẩn chứa niềm vui: “Dù tôi có yêu đơn phương (chắc là cũng hơi buồn) nhưng
bản thân việc yêu đã là sống, là vui”.
Trong một lần trả lời phỏng vấn, Nguyễn Ngọc Tư đã trải lòng: “Người ta sẽ nhận ra
ai cũng có nhu cầu được ấm áp, yêu thương ngay cả những người mạnh mẽ, tàn nhẫn nhất
cũng mong muốn có một ngày được hoàn lương, một mái nhà yên ấm”. Xuất phát từ tâm
niệm này, chị đã hóa thân một cách trọn vẹn vào hầu hết các nhân vật của mình, trao gởi cho
họ tình yêu thương và niềm khát khao được yêu thương, chở che, đùm bọc, nhất là những
người bất hạnh. Có những lúc, chị cảm thấy lo lắng bất an trước cái xấu, cái ác đang hiện
95
diện trong cuộc sống, nó là nguồn cơn làm vơi cạn lòng yêu thương, khiến cho con người trở
nên lạnh lùng, tàn nhẫn, làm giảm đi cái thiện, cái đẹp. Với tấm lòng nhân hậu, chan chứa
yêu thương, Nguyễn Ngọc Tư luôn níu giữ lòng tin yêu của con người. Chị mong muốn khi
còn sống trên cõi đời này, con người “đừng bao giờ mất hy vọng vào tâm hồn người trẻ. Bởi
vì sau tất cả những bất đồng, những biểu hiện vô tâm nếu có, thì rồi ai cũng sẽ có nhu cầu
được yêu thương. Mà muốn được vậy, phải biết chia sẻ lòng nhân từ, sự quan tâm từ chính
trái tim mình trước nhất” (Nguyễn Ngọc Tư trả lời phỏng vấn). Có thể nói, mỗi lời văn của
Nguyễn Ngọc Tư chính là những giọt yêu thương được chắt lọc từ tâm hồn thanh khiết, đong
đầy yêu thương của chị.
Nguyễn Ngọc Tư cho rằng: “Sống là luôn hy vọng… Hy vọng là liều thuốc chữa được
bách bệnh”. Quan niệm đó đã chi phối cách tiếp cận, phản ánh hiện thực đời sống và con
người của trong trang viết của Nguyễn Ngọc Tư. Dù rơi bất kỳ hoàn cảnh khó khăn, thảm
đạm nào, các nhân vật trong tac phẩm của chị vẫn luôn ánh lên niềm tin vào cuộc sống rồi sẽ
tốt đẹp hơn, bất hạnh, khó khăn sẽ qua đi và hạnh phúc lại mỉm cười. Chị viết về nỗi khổ, sự
khó khăn chồng chất của người nông dân nuôi vịt bị vướng dịch cúm da cầm trở nên kiệt
quệ, người nuôi tôm dính “bão tôm” bị trắng tay… nhưng chị vẫn gieo vào lòng họ niềm tin
mãnh liệt vào cuộc sống: “Rầu cũng nghèo mà cười cũng nghèo, sao mình hỏng cười, hỏng
hy vọng cho đỡ khổ hả cô”.“Lúa thất thì hy vọng mùa sau, giá rẻ như bèo thì cứ đinh ninh
năm sau được giá. Lứa tôm này chết thì chờ lứa sau. Lúc thả bọc tôm như cây kim xuống
đầm, vẫn mong mai này còn gặp lại chúng”.
Nhân vật Nương trong Cánh đồng bất tận là một nhâ vật sống trong tận cùng của nỗi
đau. Từ tấm bé đã thiếu thốn tình thương yêu của mẹ, sống bên cạnh người cha đầy lòng thù
hận, nhưng Nương vẫn không thôi hy vọng, vẫn tin một ngày nào đó cha cô sẽ thay đổi,
cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn. Ngay cả khi bản thân mình bị làm nhục, Nương vẫn nghĩ rằng nếu
lỡ có con, cô “sẽ đặt tên nó là Thương, Nhớ hay Dịu, Xuyến, Hường… Đứa bé không cha
nhưng chắc chắn sẽ được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời, vì được mẹ
dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ cho lỗi lầm của người lớn”. Nương cứ níu giữ niềm tin để
sống, cố vượt thoát khỏi oán hận và không nghĩ về cái chết vì “con người mà tắt hy vọng thì
chết còn sướng hơn” (Nguyễn Ngọc Tư). Rất nhiều tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư viết về
tình yêu, niềm tin yêu và hy vọng như Cánh đồng bất tận, Khói trời lộng lẫy, Ngậm ngùi
Hưng Mĩ, Thư từ quê, Đi qua những cơn bão khô, Chờ đợi những mùa tôm, Gió mùa thao
thức…
Như vậy, chính yêu thương và hy vọng là liều thuốc nhiệm màu giúp con người đủ
sức mạnh, nghị lực, niềm tin để sống. Chất nhân văn tỏa rạng từ trang viết của Nguyễn Ngọc
Tư làm ấm lòng người đọc và cũng chính điều này góp phần tô đậm thêm phong cách văn
chương của cây bút vùng đất mới phương Nam.

96
7.3.4. Nguyễn Ngọc Tư – một cây bút đậm chất Nam Bộ
Cà Mau là một mảnh đất màu mỡ, bồi đắp chất “phù sa” trầm tích, ươm mầm và phát
triển tài năng nghệ thuật cho Nguyễn Ngọc Tư. Từ khi cầm bút cho đến nay, chị vẫn luôn
gắn bó với mảnh đất cuối trời, từ chối nhiều lời mời của các thành phố lớn vì niềm khao khát
khám phá về tình đất, tình người nơi đây còn rất lớn. Có lần Nguyễn Ngọc Tư từng khẳng
định mình mới “chỉ chạm tới lớp áo ngoài của miền đất này” nên “khiến tôi nghĩ mình sẽ ở
lại lâu”. Cũng chính bởi chị sống và yêu hết mình với mảnh đất Cà Mau nên không muốn
dời xa nơi đã nuôi dưỡng đứa con tinh thần của mình, nơi đã góp phần làm nên tên tuổi của
chị.
Khi nhắc đến vùng đất Nam Bộ, chúng ta thường nhớ đến một số cây bút thuộc thế hệ
trước Nguyễn Ngọc Tư như Hồ Biểu Chánh, Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Đoàn
Giỏi,… những người đã tạo dấu ấn mang đậm sắc thái Nam Bộ được bằng những sáng tác
của họ. Là cây bút thuộc thế hệ sau, Nguyễn Ngọc Tư rất khâm phục cách viết của những
bậc lão thành nhưng chị không bị lệ thuộc mà đã sáng tạo cách viết riêng.Vùng đất cuối trời
luôn xuất hiện trong văn Nguyễn Ngọc Tư như chính gia đình của chị vậy. Trong tản văn
Đất Mũi mù xa, chị viết: “Đất Mũi thiệt tình không có núi cao, không có biển xanh, không
có cát trắng, không cung đình cổ kính lại càng không có phố cổ đìu hiu. Đất Mũi chỉ có bùn
sình, rừng thẳm và biển. Dẫu biển không xanh ngằn ngặt mà đục ngầu phù sa nhưng ở đây
nhiều biển lắm. Biển đằng trước, biển bên phải, biển bên trái. Bình minh, mặt trời từ biển
quẩy nước ngoi lên rồi khi chiều về, mặt trời chín đỏ già nua lại ngụp về biển sau một ngày
tự cháy”. Với khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và vùng đất Nam Bộ nói chung,
Nguyễn Ngọc Tư là một cây bút trẻ có nhiều tiềm năng. Nhiều ý kiến cho rằng, khi Nguyễn
Ngọc Tư xuất hiện đã làm thay đổi quan niệm, cách viết của một bộ phận nhà văn. Những
trải nghiệm thực sự trên vùng đất ấy đã giúp Nguyễn Ngọc Tư có những tìm tòi và khám phá
rất đáng trân quý.
Việc sử dụng ngôn ngữ đời thường trong tác phẩm cũng là một yếu tố tạo nên dấu ấn
Nam Bộ trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư. Hệ thống ngôn ngữ được Nguyễn Ngọc Tư sử
dụng trong tác phẩm thường gắn liền với người dân sống ở thôn quê, ruộng vườn, cho nên
cách hành văn, diễn đạt của chị nôm na dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và vì thế cũng dễ đi vào lòng
người. Ví dụ như “lẹt đẹt bên hông Chợ Lớn. Nhiều bữa hát ế ngoi ngóp nằm nghe mưa
dầm, nhiều bữa đứng soát vé bị bọn du đãng địa phương rượt chạy xịt khói…” (Cải ơi); hay
“Nhà mấy cưng ở chỗ nào? Thằng Điền đổ quạu: “Biết chết liền!” (Cánh đồng bất tận); cách
nói ngộ nghĩnh “đã thiệt”, “đánh lô tô”, “mát trời ông địa”;… Các tên gọi theo thứ tự sinh
mang tính đặc thù của vùng đất Nam Bộ như: Anh Hai, anh Năm, hoặc khi gọi kèm tên thật:
Hai Nhớ, Út Thà; …cách xưng hô: Tao nè, Tư Đấu nè, bác Mười Mực của mày nè, má, tía,
mấy sắp nhỏ; … Cách sử dụng từ địa phương cũng được Nguyễn Ngọc Tư sử dụng khá
nhiều như: mướn, thèm, biểu, lội, mần dắt, xúm, dòm,… Hoặc cách dùng khẩu ngữ của chị
cũng rất độc đáo, mới lạ: Ngoẻo cù nèo, buồn anh cõng buồn em, thấy mồ, hết thuốc chữa,

97
biết chết liền,… Việc nâng ngôn ngữ đời thường thành ngôn ngữ nghệ thuật là một thành
công đáng kể của Nguyễn Ngọc Tư. Với hệ thống ngôn ngữ này đã giúp chị “lột tả hết được
cái tình của người dân quê” (Nguyễn Ngọc Tư).
Bên cạnh đó, trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư còn sử dụng khá nhiều từ đặc trưng
cho vùng văn hóa sông nước như các tên riêng: Xóm Rạch, Chợ Nổi Cà Mau, Kinh Mười
Hai, Cù lao Mút Cà Tha, Sông Cái Lớn;… các từ chỉ phương tiện đi lại: Ghe, xuồng, máy
đuôi tôm, xà lan;… các từ chỉ địa hình: kinh, rạch, đìa;… các từ chỉ sản vật, đồ vật: bông
súng, cá sặc, dừa nước, tép đất,… Chính vì thế mà trang văn của Nguyễn Ngọc Tư đã mang
lại cho người đọc những trải nghiệm thú vị.
Đặt những sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư trong dòng chảy chung của văn xuôi nữ
đương đại, có thể thấy, Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn có lối viết rất riêng vì tạo ra được phong
cách cho mình – phong cách của một người phụ nữ chân thành có cái nhìn sâu sắc, một “đặc
sản miền Nam” (Trần Hữu Dũng).
7.4. Kết luận chung
Nguyễn Ngọc Tư là một cây bút có trách nhiệm với nghề. Chị có sự sáng tạo, tìm tòi,
đổi mới cảm hứng sáng tạo và bút pháp thể hiện. Những trang viết của chị xuất phát từ tình
cảm chân thành, từ hiện thực đời sống muôn màu của mảnh đất, con người phương Nam kết
hợp với hệ thống ngôn ngữ mang đậm bản sắc vùng miền, giọng điệu trữ tình, ấm áp, mộc
mạc, tự nhiên đã tạo được sức hấp dẫn với người đọc. Nguyễn Ngọc Tư đã mang đến một
“hơi hướng” lạ, một không khí lạ, cần thiết cho văn xuôi hậu đổi mới. Tuy nhiên, cũng cần
thấy rằng, việc chị sử dụng quá nhiều phương ngữ và ngôn ngữ đời thường trong tác phẩm
cũng là điều đáng bàn.

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 7

CÂU NỘI DUNG CĐR HP


7.1 Tại sao nói Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn của Nam Bộ? CO1, CO2,
CO5, CO6
7.2 Theo Anh/chị, những yếu tố nào góp phần tạo nên dấu ấn phong CO1, CO2,
cách của Nguyễn Ngọc Tư? C03
7.3 Việc sử dụng lớp ngôn ngữ đời thường có làm giảm giá trị tác phẩm
của Nguyễn Ngọc Tư? Hãy lí giải? CO1, CO2

7.4 Tìm hiểu chất thơ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư? CO1, CO2,
CO5, CO6

98
Chương 8: Giới thiệu một số cây bút trẻ đương đại

8.1. Minh Nhật


8.1.1. Vài nét nhà văn Minh Nhật

Minh Nhật sinh ngày 03/03/1987, tên khai sinh là Nguyễn Minh Nhật, sinh ra và lớn
lên tại Hà Nội. Từ thuở ấu thơ cho đến hiện tại, phần lớn anh gắn bó với thủ đô Hà Nội. Là
một học sinh học chuyên toán, chuyên Lý nhưng anh lại đi thi học sinh giỏi môn Ngữ văn.
Năm mười bốn tuổi anh đã có truyện ngắn được đăng trên báo Hoa Học Trò. Và không bao
lâu, tên tuổi của anh được đông đảo bạn đọc, nhất là giới trẻ biết đến.
Minh Nhật là người sáng lập và cũng đồng thời là người giải đáp những thắc mắc về
tâm lí tình cảm cho các em học sinh với bút danh “Sky” (có nghĩa là bầu trời) trên báo Hoa
Học Trò. Với sự năng động, xông xáo của tuổi trẻ nhà văn Minh Nhật đã có thời gian làm
việc cho kênh giải trí tổng hợp và thể thao Đài truyền hình Việt Nam (VTV3).
Minh Nhật từng đi du học ở Singapore với chuyên ngành Quản trị kinh doanh. Ngoài
thời gian học, anh tích cực tham gia viết báo cho tạp chí Seventeen - một tạp chí chuyên
nghiệp của xứ sở chuột túi. Đây cũng là quãng thời gian rát có ý nghĩa với Minh Nhật, giúp
anh tìm được nguồn cảm hứng để viết thành công về đề tài du học.
Minh Nhật là một cây bút trẻ, sức viết đều đặn, ngày càng chứng tỏ được vị trí của
mình trên văn đàn dân tộc đương đại, nhất là ở mảng truyện ngắn.
8.1.2. Quá trình sáng tác

Minh Nhật bén duyên với văn chương từ rất sớm. Thành công ngay từ tác phẩm đầu
tay Nơi bắt đầu một tình yêu. Không bao lâu, người đọc đã biết đến anh với nhiều tác phẩm
với nhiều bút danh khác nhau như: Nhật Zest, Lê Minh, Minh Minh, Minh Nhật.
Sau truyện ngắn được đăng lần đầu năm 2001 trên báo Hoa Học Trò, anh liên tiếp cho
xuất bản nhiều tập truyện, có thể kể đến như: Sự lựa chọn của bầu trời (2003); Bỗng một
ngày đẹp trời (2004); Hà Nội chờ (2007); Một chút mỗi ngày (2009); Cafe yêu (2011); Nơi
những cơn gió dừng chân (2012); Những đêm không ngủ (2013).; Những quân cờ Domino
(2014); Lạc lối giữa cô đơn (2014); Chúng ta rồi sẽ ổn thôi - với nhà văn Gào (2015); Âm
thanh của im lặng (2016); Những người xa lạ (2016); Chạy trốn mặt trời (2017); Chắc gì
ta đã yêu nhau (2018)
Truyện ngắn của Minh Nhật lưu lại dấu ấn trong lòng độc giả về những câu chuyện
nhẹ nhàng, sâu lắng thấm đẫm những tâm tư tình cảm của lứa tuổi mới lớn. Hai tập truyện
Sự lựa chọn của bầu trời, Một mỗi chút ngày gồm 40 truyện ngắn chủ yếu xoanh quanh đề
tài du học, tâm trạng, tình cảm, những băn khoăn trăn trở, những nỗi niềm khát vọng của
giới trẻ.
99
Năm 2012 Minh Nhật ra mắt độc giả 20 truyện ngắn nằm trong tập truyện mang tên Nơi
những cơn gió dừng chân. Tập truyện đã đưa độc giả phiêu lưu với nhiều cảm xúc mới mẻ,
mong manh và rồi mỗi người sau khi đọc xong đều rút ra cho mình những trải nghiệm lí thú.
Trong tập truyện, có một số truyện ngắn nhà văn sử dụng bút pháp hiện thực huyền ảo đậm
vẻ huyễn hoặc, giả định, vì thế mà tạo được sức hấp dẫn lôi cuốn bạn đọc.
Tập truyện ngắn Lạc lối giữa cô đơn gồm mười bốn truyện ngắn xuất bản năm 2014 thể
hiện một cái “tôi” quyết đoán, mạnh mẽ. Từ những câu chuyện tình cảm, nhà văn lồng vào
đó những ngẫm nghiệm về những vấn đề đang đặt ra trong cuộc sống, nhất là nỗi cô đơn và
cách thoát khỏi nó. Tác giả Nguyên Phương ở bài viết Cách vượt qua nỗi cô đơn của tuổi trẻ
nhận xét: “Nỗi cô đơn của anh mang một kiểu rất riêng. Nỗi cô đơn ấy phẳng lặng, tựa như
mặt hồ mùa thu hơi se lạnh, thoang thoảng hương hoa, tinh tế chứ không nồng nàn như
nước hoa… Không chỉ vậy anh biến cô đơn thành một thứ gì đó rất thi vị, kiên nhẫn len lỏi
từng chút một chứ không đánh thẳng vào cảm xúc con người ta, khơi gợi khiến người đọc
chìm đắm, luôn muốn tận hưởng cái gọi là “cô đơn” của anh”.
Tập truyện ngắn Những người xa lạ xuất bản năm 2016, gồm 20 truyện ngắn, ghi lại
nhiều kí ức của tác giả về những nơi mà nhà văn đặt chân tới, hoặc của những người đã đồng
hành cùng anh. Ở đó, nhà văn đã tái hiện những mảnh đất, những cuộc đời, những con người
và cả những yêu thương hờn giận. Nội dung chính của tập truyện xoay quanh tình yêu quê
hương của các du học sinh nơi đất khách, đó còn là tình yêu, tình bạn của những du học
sinh. Tác giả Hồng Liên cũng có ý kiến nhận xét: “Với lối viết nhẹ nhàng và mềm mại Minh
Nhật đã cho người đọc cảm được những cảm giác của anh về những người xa lạ. Những
người đó bước vào cuộc đời mỗi người và cũng tự động ra khỏi theo một cách riêng biệt nào
đó”.
Sự nghiệp sáng tác của Minh Nhật không chỉ gói gọn trong những tập truyện ngắn mà
còn phải kể đến một mảng sáng tác thuộc thể Tản văn bao gồm các tập: Đến với Những đêm
không ngủ người đọc bắt gặp một Minh Nhật luôn khắc khoải về thời gian - một thời gian
nhiều chiều, nhiều cung bậc. Tuy nhiên ẩn dưới bước chuyển của thời gian là băn khoăn của
những người trẻ về cuộc đời vốn đa sự, đa đoan. Tập tản văn là một chuỗi những dòng tâm
sự, ẩn chứa những triết lí của một Minh Nhật không chỉ là chàng trai trẻ với nhiệt huyết yêu
đương và mong muốn khám phá thế giới. Mà ở đó còn là một hành trình dài với những trải
nghiệm và suy tư sâu sắc về tình bạn, tình yêu và cả những trăn trở rất đời thường.
Bên cạnh thể loại truyện ngắn, Minh Nhật còn viết rất thành công thể loại tản văn với
các tác phẩm như Những đêm không ngủ, Chạy trốn mặt trời, Chắc gì ta đã yêu nhau,… Với
lối suy tư trầm tĩnh, giọng văn nhẹ nhàng mà sâu lắng, tản văn của Minh Nhật có sức lan tỏa
mạnh mẽ, tác động vào tâm trí của mỗi người, nhất là giới trẻ.

100
Những năm gần đây, Minh Nhật đang có sự chuyển hướng sáng tác sang thể loại tiểu
thuyết để thỏa mãn đam mê sáng tạo của mình. Chỉ một thời gian ngắn, bằng thực tiễn sáng
tác, Minh Nhật đã tạo cho mình một chỗ đứng nhất định trong nền văn chương đương đại.
8.1.3. Đặc điểm truyện ngắn Minh Nhật
8.1.3.1. Đặc điểm nội dung
* Những trang văn viết cho giới trẻ về ước mơ khát vọng và những thách thức,
bi kịch
Hầu hết những trang viết của Minh Nhật đều hướng về việc phản ánh tâm thức của
giới trẻ trong nhịp sống đương đại. Tác phẩm của anh đã đặt ra cho giới trẻ những thời cơ
lẫn thách thức của xã hội thời hội nhập để từ đó, mỗi người tự xây dựng cho mình những
mục tiêu phù hợp.
Minh Nhật đã khơi dậy nơi giới trẻ những ước mơ, khát vọng và sự bứt phá để vươn
lên chinh phục thử thách nhằm đạt được ước mơ. Các tác phẩm tiêu biểu như: Hoa anh đào
trong gió, Những hương vị cocktails, Nơi những cơn gió dừng chân, Người lạ quen thuộc,
Những ngày mưa lạ, Chiếc đồng hồ mười bảy nghìn USD…
Minh Nhật ý thức được sự phức tạp của đời sống nên những trang văn của anh còn
mang ý nghĩa cảnh báo cho giới trẻ về những thách thức, mất mát, bi kịch khó tránh khỏi
trong cuộc sống. Đó có thể là những bi kịch xảy ra từ cuộc sống gia đình mà họ- giới trẻ chỉ
là nạn nhân; những khó khăn không nhỏ khi sống ở nước ngoài trong thời gian du học;
những góc khuất của cuộc sống đầy hiểm nguy, cạm bẫy mà tuổi trẻ chưa đủ tầm để nhận
cảm… Nội dung này được thể hiện rõ trong các tác phẩm như: Ngôi sao trên bầu trời
Brisbane, Trò chơi đuổi bắt, Những người xa lạ, Ở cạnh khi mình khóc, Những bản phác
thảo chì, Bước chân tới thiên đường, Khi mùa đông đến…
* Những trang văn viết về tình bạn, tình yêu của giới trẻ
Một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn cho truyện ngắn Minh Nhật là những
trang văn viết về tình bạn. Minh Nhật là một cây bút cảm thấu sâu sắc về vai trò của tình
bạn, bạn cần cho ta và ta cũng cần cho bạn nữa. Vì thế, anh đã dành không ít những trang
văn của mình đề cập đến chủ đề này. Với Minh Nhật, tình bạn như một liều thuốc nhiệm
màu có thể mở rộng mối quan hệ, mở rộng cơ hội tìm hiểu, khám phá về con người và cuộc
sống cũng như làm lành những nỗi đau. Những tác phẩm tiêu biểu cho chủ đề này phải kể
đến: Vết sẹo kim cương, Cơn mưa tháng ba, Tuyết rơi ở Northampton, Ở cạnh khi mình
khóc, Chỉ uống trà lúc nửa đêm, Những hương vị cocktails…
Viết về đề tài tình yêu đôi lứa, Minh Nhật lại đem đến cho người đọc những ấn tượng
khó phai. Từ những câu chuyện tình yêu, Minh Nhật đã đánh thức niềm khát vọng yêu và
đươc yêu ở mỗi con người. Với anh, yêu và được yêu không chỉ là niềm hạnh phúc mà còn
là quyền của mỗi con người. Tình yêu đã giúp cho con người có thêm niềm tin và nghị lực
101
để vượt qua nghịch cảnh, chiến thắng bản thân và đắp bồi lối sống vị tha. Tuy nhiên, Minh
Nhật cũng cảnh báo bạn trẻ về những nỗi đau của tình yêu đằng sau những ngọt ngào để từ
đó giúp cho mỗi người biết nuôi dưỡng tình yêu bằng cảm xúc và lí trí. Những truyện ngắn
tiêu biểu như: Tháng Giêng diệu kỳ, Chàng trai cổ điển, Giấc mơ mùa đông, Những bản
phác thảo chì, Bão từ,…
Bám sát vào dòng chảy của đời sống đương đại, Minh Nhật lắng lòng và cảm thấu
tiếng lòng của giới trẻ. Từ đó, anh đã chắt lọc cảm xúc và chiêm nghiệm của bản thân để viết
lên “những điều kì diệu” về thế hệ mình, để lại những thông điệp giàu ý nghĩa nhân văn.
8.1.3.2. Đặc điểm nghệ thuật
* Về cốt truyện
Truyện ngắn Minh Nhật thường được xây dựng với cốt truyện đơn giản, ít sự kiện và
cốt truyện có kết thúc mở.
Là một cây bút chủ yếu viết về tuổi mới lớn nên cốt truyện thường giản đơn, xoay
quanh chuyện trường lớp, học hành, tình bạn, tình yêu đầu đời với vẻ đẹp hồn nhiên trong
trẻo. Chính vì thế, hệ thống chi tiết được nhà văn xây dựng để tạo nên biến cố, xung đột
trong tác phẩm cũng giản đơn, không phức tạp nhưng cũng nhờ đó mà truyện ngắn của Minh
Nhật dễ đi vào lòng người. Bắt nguồn từ kí ức tuổi thơ, từ những trải nghiệm của bản thân
còn nóng hổi, Minh Nhật đã sử dụng nó một cách công hiệu trong quá trình xây dựng và
triển khai, khiến cho tác phẩm mang đậm hơi thở của thực tiễn đời sống đương đại, thu hút
được tầm đón đợi của độc giả, đặc biệt là thế hệ trẻ. Những tác phẩm tiêu biểu cho dạng cốt
truyện đơn giản như: Bão từ, Tháng Giêng diệu kỳ, Và như thế là đủ để nhớ về cô ấy,
Chuyến tàu cuối cùng, Người yêu cũ của người yêu mới,…
Bên cạnh việc xây dựng cốt truyện đơn giản, Minh Nhật cũng đặc biệt quan tâm xây
dựng cốt truyện với kết thúc mở. Phải chăng, Minh Nhật chịu ảnh hưởng tư tưởng của nhà
phê bình văn học Nga Aimafox: “Một tác phẩm chân chính không bao giờ kết thúc ở trang
cuối cùng”. Dạng cốt truyện với kết thúc mở luôn khiến cho tác phẩm hết mà chưa hết, dừng
lại mà chưa khép lại. Sau dấu chấm cuối cùng của tác phẩm luôn gieo vào tâm thức của
người đọc nhiều ngẫm nghiệm về cõi nhân sinh. Đây cũng là kết cấu thường thấy trong văn
học đương đại. Truyện ngắn tiêu biểu của Minh Nhật có rất nhiều tác phẩm được viết với
dạng thức này, têu biểu là: Tuyết rơi ở Northampton, Bức ảnh Polaroid, Đoạn đường của
tình yêu, Chỉ có bạch tú cầu mới hiểu, Cửa hàng Mộc Lan,…
* Về ngôn ngữ
Minh Nhật rất linh hoạt trong việc sử dụng ngôn ngữ. Có khi là lời ăn tiếng nói hằng
ngày, gia tăng khẩu ngữ tạo nên sự bình dị cho câu văn; lúc lại sử dụng hệ thống ngôn ngữ
ngôn ngữ của tuổi mới lớn theo kiểu tiếng lóng thời hội nhập, tạo nên sự đa dạng và phù hợp

102
với tâm thức của giới trẻ; hoặc sử dụng nhiều từ ngữ giàu sức gợi, tạo nên chất thơ lấp lánh
cho truyện ngắn của mình.
Việc sử dụng ngôn ngữ đời thường đan xen với lớp ngôn ngữ giàu sức gợi, thấm đẫm
chất thơ có thể tìm thấy trong các truyện ngắn của anh như: Bay về cuối chân trời, Tuyết rơi
ở Northampton, Cửa hàng Mộc Lan, Trò chơi đuổi bắt, Cỏ mềm,…
Minh Nhật sử dụng hệ thống ngôn ngữ tuổi teen trong tác phẩm, một mặt kích thích,
đáp ứng được thị hiếu và nhu cầu đọc của giới trẻ nhưng nếu không tiết chế tần xuất thì cũng
ảnh hưởng ít nhiều đến sự chuẩn tác vốn có của ngôn ngữ văn chương. Có thể điểm qua một
số từ ngữ thường được Minh Nhật sử dụng như: “ngọt ngào như mì xào”,“hiền lành, học
tanh, con nhà danh giá”,“phong phú con cá mú ra phết”,“nhí nhảnh như con cá
cảnh”,“nhân hậu như một củ đậu”,“chuyện thường ở trên phường”, “sáng giá trong đám
cá”,… Những tác phẩm tiêu biểu phải kể đến như: Điều kì diệu ở New York, Định nghĩa tình
yêu, Lạc lối giữa cô đơn, Sự lựa chọn của bầu trời, Sự lựa chọn của mỗi ngày…
Sự đa dạng hóa trong việc sử dụng ngôn ngữ không chỉ tạo sự hấp dẫn, tránh đơn điệu
cho tác phẩm mà còn thể hiện tài năng của một cây bút trẻ không ngừng tìm tòi, khám phá,
sáng tạo nghệ thuật.
* Về giọng điệu
Trong quá trình sáng tạo, Minh Nhật thường sử dụng nhiều giọng điệu khác nhau như:
giọng bông đùa hài hước, giọng xót xa thương cảm và đặc biệt là giọng nhẹ nhàng, dí dỏm
và giọng chiêm nghiệm, triết lí. Việc sử dụng đa giọng điệu có tác dụng thể hiện thái độ của
nhà văn đối với hiện thực được mô tả trong tác phẩm. Giọng điệu không đơn giản là một tín
hiệu âm thanh có âm sắc đặc thù để nhận ra người nói, mà giọng điệu mang nội dung tình
cảm, thái độ ứng xử trước các hiện tượng đời sống.
Giọng ngọt ngào, thiết tha được sử dụng hiệu quả trong các truyện ngắn tiêu biểu: Giấc
mơ mùa đông, Những hương vị cocktails, Chàng trai cổ điển, Cuộc đời còn nhiều thứ đẹp
hơn cả tình yêu …
Giọng điệu hài hước, dí dỏm pha chút bông đùa rất phù hợp với tâm lí tuổi mới lớn
được tác giả thể hiện rõ qua các truyện ngắn: Hoa hồng có gai - Người con gái vĩ đại, Chúng
ta không bao giờ nhìn lên, Những điều chẳng thật sự có tên, Những hương vị cocktails,…
Giọng điệu chiêm nghiệm, triết lí trong sáng tác của Minh Nhật được thể hiện rất linh
hoạt, có khi được bộc lộ qua lời đối thoại của nhân vật, có lúc lại bộc lộ qua dòng duy suy
ngẫm nội tâm nhân vật: Dây thần kinh cháy chậm, Chàng trai cổ điển, Ba phút, Trà xanh,
Bức ảnh Polaroid, Nơi những cơn gió dừng chân,…
Việc sử dụng đa giọng điệu cũng được xem là điểm sáng trong nhiều truyện ngắn của
Minh Nhật, tạo sức hút đối với bạn đọc, nhất là tuổi mới lớn.

103
8.1.4. Kết luận chung
Là một cây bút trẻ nhưng Minh Nhật đã từng bước khẳng định được vị trí của mình
trên văn đàn đương đại. Sư xuất hiện của Minh Nhật cùng với một số cây bút trẻ khác đã
thổi một luồng gió mát góp phần làm phong phú hơn cho nền văn học đương đại. Với tài
năng và niềm đam mê cháy bỏng với văn chương, thiết nghĩ, Minh Nhật sẽ đem lại nhiều
điều thú vị cho độc giả.
8.2. Vi Thùy Linh
8.2.1. Vài nét về tiểu sử, con người
Vi Thùy Linh quê gốc ở Cao Bằng, sinh ngày 04/4/1980 tại Hà Nội. Vi Thùy Linh tốt
nghiệp Đại học Báo chí nhưng lại bén duyên rất sớm với sáng tác thơ ca. Tuy là một nhà thơ
nữ trẻ nhưng Vi Thùy Linh đã nhanh chóng trở thành một “hiện tượng” trong nền thi ca
đương đại Việt Nam bởi những sáng tác của chị đã trở thành đề tài cho nhiều cuộc tranh luận
trong nghiên cứu và phê bình văn học.
Vi Thùy Linh là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (2007), hội viên Hội Điện ảnh Việt
Nam; hội viên Hội Văn học nghệ thuật Các dân tộc thiểu số Việt Nam; Ủy viên Ban Chấp
hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội (nhiệm kỳ 2018-2021).
Chị là nhà thơ Việt Nam đầu tiên được mời biểu diễn đêm thơ riêng tại Paris mang
tên “Tình tự Hà Nội” và cũng là nhà thơ đầu tiên thực hiện tour diễn Pháp – Châu Âu. Với
tài năng thơ nổi bật, thơ chị vinh dự được giới thiệu và in trên tạp chí Europe số tháng
4.2002 của Pháp; Chị là nhà thơ đầu tiên của Việt Nam có tour trình diễn tại 7 thành phố
châu Âu ở các nước Pháp, Ba Lan, Bỉ, Czech… năm 2011.
8.2.2. Quá trình sáng tác
Vi Thùy Linh đến với thơ ca từ rất sớm. Năm 1995, chị đã sáng tác bài thơ đầu tay và
được đăng trên báo Tiền phong. Năm 1999, Vi Thùy Linh cho ra mắt độc giả tập thơ Khát,
đánh dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp sáng tác thơ ca của mình. Tập thơ là biểu hiện của
những nét cách tân táo bạo trong việc thể hiện những khao khát cá nhân.
Năm 2000, Vi Thùy Linh tiếp tục cho ra đời tập thơ Linh, thể hiện rất rõ hơn cái tôi
cá nhân đầy cá tính. Nguyễn Huy Thiệp nhận định: “so với các nhà thơ nữ trên văn đàn,
Linh không chỉ “đáng kể nhất”, mà còn “nguy hiểm nhất”. Với hai tập thơ đầu tay, chị đã
tạo được sự chú ý đối với độc giả và giới nghiên cứu, phê bình văn học. “Hiện tượng Vi
Thùy Linh” đã gây ra một cuộc tranh luân sôi nổi trên báo Người Hà Nội.
Năm 2005, Vi Thùy Linh cho ra mắt độc giả tập thơ song ngữ Việt – Pháp Đồng tử.
Ba năm sau, Vi Thùy Linh tiếp tục cho ra đời tập thơ song ngữ Việt – Anh ViLi in love. Với
hai tập thơ song ngữ, Vi Thùy Linh tiếp tục khẳng định được sự trưởng thành trên con
đường sáng tạo nghệ thuật của mình.
Năm 2010, Vi Thùy Linh giới thiệu tiếp tập thơ Phim đôi – Tình tự chậm. Tác phẩm
là sự kết hợp giữa nhiều lĩnh vực nghệ thuật từ thơ ca, đến âm nhac, hội họa và điện ảnh.

104
Trong tập thơ còn có nhiều bức tranh của các họa sĩ tên tuổi như Lê Thiết Cương, Thành
Chương, Đào Anh Khánh, Nguyễn Thị Hiền, Đào Hải Phong, Lương Xuân Đoàn, Đỗ
Dũng…tạo nên dấu ấn đặc biệt cho thi phẩm.
Năm 2011, chị cho ra đời tập thơ viết cho thiếu nhi Chu du cùng ông nội, thể hiện
được những nét đặc sắc, phong phú trong phong cách sáng tác của Vi Thùy Linh. Tập thơ
thể hiện xúc cảm rất chân thành của một tâm hồn trẻ thơ đối với ông của mình, nhận được sự
đón nhận tích cực từ độc giả.
Ngày 1/12/2012, tác giả đã tổ chức thành công buổi trình diễn văn học “Bay cùng
ViLi”, giới thiệu tập thơ ViLi in Paris và cuốn ViLi tùy bút- một thể nghiệm mới của Vi Thùy
Linh. Cả hai tác phẩm này đều thể hiện một Vi Thùy Linh đầy khao khát cuộc sống với một
quá trình làm việc nghiêm túc và tận lực để cho ra đời những tác phẩm có giá trị.
Năm 2015, Vi Thùy Linh tiếp tục ra mắt tùy bút Hộ chiếu tâm hồn – cuốn tùy bút thứ
hai của chị, thể hiện những thức cảm của tác giả về cuộc sống, nhận được sự đón nhận từ
độc giả.
Những năm gần đây, Vi Thùy Linh vẫn không ngừng sáng tạo nghệ thuật. Theo dự
kiến, sắp tới chị sẽ cho ra mắt tập Thơ Tình, thơ cho thiếu nhi và tùy bút.
Có thể nói rằng, Vi Thùy Linh chính là một “hiện tượng” của thơ ca đương đại, chị
hoạt động nghệ thuật và sáng tác không ngừng nghỉ. Thơ ca của Vi Thùy Linh mang đậm
hơi thở của cuộc sống hiện đại nhưng luôn sâu lắng những cảm xúc, suy tư cá nhân. Với thơ
ca, chị được tự do thể hiện tất cả cá tính, sự táo bạo, phóng khoáng; đó là người con gái có
bản lĩnh, có tài năng. Với chị, làm thơ “bây giờ thật khó khăn, khó không ở việc làm ra thơ,
mà tác phẩm ấy phải khác trước và gây ấn tượng lâu bền. Sáng tạo nhất thiết phải tìm ra cái
mới, khác và phải là mình”...
8.2.3. Đặc điểm thơ Vi Thùy Linh
8.2.3.1. Đặc điểm nội dung
* Thơ Vi Thùy Linh – Một cái tôi đầy cá tính
Vi Thùy Linh từng thể hiện quan điểm của mình: “Tôi không bao giờ hoá trang để
nhập vai kẻ khác”. Chị là một trong những cây bút trẻ mạnh mẽ “đoạn tuyệt với một thời mê
hát đồng ca chân thành say đắm” để tìm cho mình lối đi riêng, chủ quan, độc đáo, khẳng
định vị thế của mình với xã hội. Vi Thùy Linh không chấp nhận những gì quá quen thuộc và
không thể buộc mình vào khuôn khổ: “Tôi không muốn nhảy múa trong rắc rối/ Bắt đầu
dùng tay cào đất và đào móng cho ngôi nhà nước ngầm chưa ứa/ Tôi đã thấy nó thành đầm
nước để tôi soi mái tóc (Ngôi nhà). Ở thơ chị, sự tự ý thức về cái bản ngã rất cao: “Khi tôi bị
gọi nhầm tên/ Tôi không nói gì/ Khi ai đó nói rằng, tôi giống người như họ đã gặp/ Tôi bỏ
đi…/ Tôi là tôi” (Tôi). Vi Thùy Linh còn muốn: “Đập nát đơn điệu, khuôn khổ của cũ kĩ,
nhàm chán và cam chịu/ Em tự làm mất đối xứng – “bằng em” (Không thanh thản).
Vi Thùy Linh từng mạnh dạn khẳng định vẻ đẹp của chính mình, ví tên mình như một
loài hoa và kiêu sa, hạnh phúc vì tuổi trẻ và tuổi yêu đang độ sung mãn nhất: “Khe khẽ hoa

105
Thùy Linh nở/ Xuất thần một cuộc yêu chưa từng thấy” (Sinh năm 1980 – Đồng tử). Đọc thơ
Vi Thùy Linh, người đọc dễ nhận thấy một cái tôi cá nhân đầy bản lĩnh: “Tôi tự tin dòng
máu chủng tộc” (Sinh năm 1980); “Tôi sống hết tôi từng khoảnh khắc/ Tôi nở thẫm vào
bóng tối ở đấy, cô đơn rạng rỡ” (Ngày thường); một cái tôi đầy những khao khát yêu và
được yêu: “Em muốn anh nhập em vào định mệnh” (Nơi ánh sáng) và “Em thích khám phá
mình qua sự bí ẩn của đêm” (Tình tự ca)…
Điểm qua một vài biểu hiện, chúng ta thấy hiện lên trong thơ Vi Thùy Linh một cái
tôi khát vọng được khẳng định, được bày tỏ và với tất cả những biểu hiện phức tạp của thế
giới nội tâm sâu kín. Khao khát được thành thực với mình, được là mình trở thành một nhu
cầu, một mong muốn khẩn thiết trong thơ Vi Thùy Linh.
* Thơ Vi Thùy Linh – Một cái tôi đầy khát khao sáng tạo nghệ thuật
Vi Thùy Linh luôn muốn tạo sự độc đáo, riêng biệt trong tư duy nên nhân vật trữ tình
trong thơ luôn: “Tôi yêu thơ bằng tình yêu say đắm, tận trung của một người si tình, chung
tình, không tiếc gì cho tình yêu ấy” (Vi Thùy Linh). Chị có một niềm tin sâu sắc vào nghệ
thuật, vào sự bất tử của sáng tạo: “Thơ không bao giờ chết! Bản chất của Sáng tạo là Mới và
Đẹp”. Với những quan niệm ấy, chị vẫn đang từng ngày dồn hết sinh lực để góp phần đổi
mới thi ca Việt, tạo nên một lối thơ “bạo động chữ” (Văn Giá), một “tư duy về lời” (Trần
Thiện Khanh), một “khát vọng trẻ” (Nguyễn Thụy Kha), một “thi sĩ của ái quyền” (Chu
Văn Sơn),...
Vi Thuỳ Linh từng khẳng định, viết thơ làm văn phải có “cảm xúc và tư chất”, “tôi
sống và viết vì đời sống giá trị thực sự, chứ không vì đời sống dư luận”. Với Vi Thuỳ Linh,
làm thơ là một sự “lao tâm” và “lao sức” đáng được trân trọng: “Em hằng đau trong nhiều
đêm không ngủ/ Em toả nhiệt vào thơ bất kể mùa nóng lạnh/ Thơ là em hay em là thơ?...
Thơ em mặn...” (Những câu thơ mang vị mặn – Khát); Và, làm thơ là cả một sự hy sinh
nhọc nhằn trên từng con chữ: “Mắt trũng đêm quên ngủ/ Chỉ chiếc gương lõm làm sự vật ở
xa càng xa hơn/ Chỉ có chữ luôn ở trong em, chữ va nhau đánh lửa” (Một lá thư chưa gửi).
Chị là một người nhạy cảm và ý thức rất cao về giá trị nghề nghiệp. Với chị, thơ là
một phần làm nên giá trị của bản thân: “- Tôi không bán chữ/ Tôi làm thơ/… - Tôi làm thơ để
giải tỏa những mong đợi/ -Con người tôi nếu trừ thơ, không còn là tôi nữa” (Nhà thơ và
những đối thoại).
Vi Thùy Linh từng tự tin tâm sự: “Tôi bất chấp mọi giông bão để dấn thân bởi tôi tin
vào con đường mình đã chọn. Nhân cách và tài năng là những yếu tố không thể nào thay thế
ở một người cầm bút. Những cuộc tranh cãi, khen chê ầm ĩ trên báo chí rồi cũng bị lãng
quên. Cái đọng lại ở một nhà văn cuối cùng là tác phẩm - nơi kết tinh sức lao động nghệ
thuật, đạo đức của người viết”. Một cây bút trẻ đầy tài năng và tâm huyết với sáng tạo nghệ
thuật, rất đáng trân trọng.
* Thơ Vi Thùy Linh – Một cái tôi khao khát giải phóng tính dục
Sự xuất hiện của Vi Thùy Linh cùng một số cây bút trẻ đã “phá vỡ hệ thẩm mĩ truyền
thống”, buộc người đọc phải tiếp nhận thơ ca với thái độ và lối tư duy mới. Trong đó, ý thức
106
phái tính được xem như là một cá tính sáng tạo và trở thành chủ đề bàn luận trên văn đàn
như chuyện sex, giải phóng nữ giới…
Trong văn học trung đại, yếu tố tính dục được nói đến một cách kín đáo: “Tiếc thay
một đóa trà my/ Con ong đã tỏ đường đi lối về” (Truyện Kiều – Nguyễn Du),“Cái đêm hôm
ấy đêm gì/ Bóng dương lồng bóng đồ my trập trùng” (Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia
Thiều). Đến phong trào Thơ mới, vấn đề này được đề cập trong thơ Hàn Mặc Tử, Xuân
Diệu, Bích Khê… Thơ ca 1945 – 1975 chỉ tập trai gái dẫu yêu nhau đến mấy cũng chỉ dám:
“Dấu một chùm hoa sau chiếc khăn tay/ Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm” (Hương
thầm – Phan Thị Thanh Nhàn) mà thôi.
Sau 1975, vấn đề phái tính, đặc biệt là yếu tố tính dục được nhìn nhận cởi mở hơn
nên cách thể hiện trong thơ cũng táo bạo hơn ở nhiều cây bút trẻ như Vi Thùy Linh, Phan
Huyền Thư, Lê Thị Mây, Phạm Thị Ngọc Liên, Thuỵ Du, Ly Hoàng Ly... Vi Thùy Linh đã
thẳng thắn bày tỏ quan điểm về vấn đề tính dục trong đời sống và trong thơ chị: “Tình yêu
cần sự hòa hợp của cả thể xác và tâm hồn. Thơ tôi nói về tình dục như một khía cạnh trong
tình yêu”. Thơ chị miêu tả hình ảnh người tình không chịu dừng lại ở dạng thức tâm tình, mà
nhanh chóng chuyển sang và lấp đầy bằng dạng thức làm tình. Đó là lúc tình yêu đã có sự
kết hợp màu nhiệm giữa xúc cảm tinh thần và thân thể: “Khi em hòa trong toàn vẹn Anh/
Không còn biết một chấn động nào hơn/Anh xoáy vào em/ Cơn lốc” (Đôi mắt Anh). Hay:
“Hỡi những người phụ nữ, hãy yêu và sống đến cùng như mình muốn/ Đừng mặc cảm giấu
che!” (Yêu cùng George Sand). Đọc những vần thơ của Vi Thùy Linh: “Hãy yêu nhau, đừng
chần chừ nữa/ Đừng giam đời trong hèn yếu, sợ đàm tiếu điều tiếng…” (Bản Đồ Tình yêu),
Dương Tường cho rằng đây là“một biểu tượng giải phóng phụ nữ trong thơ”.
Có thể tìm đọc nhiều bài thơ của Vi Thùy Linh viết về đề tài này như: Thiếu phụ và
con đường, Do dự, Thay, Tín hiệu, Chân dung, Điều anh không biết, Nói với anh, Chờ tháng
Tư, Phía tây, nơi bắt đầu, Hôn Việt Trì …
Cái tôi phái tính nữ trong thơ Vi Thùy Linh thường khẳng định sự tồn tại của thân xác
hiện hữu. Trong thơ chị, ngực là nơi khởi phát tiếng gọi: “Cảm thấy tiếng gọi lan trên hai
bầu vú” (Thiếu phụ và con đường) nên bầu ngực trở nên lớn vụt, trở thành biểu tượng của
những ẩn ức đòi được giải toả. Vóc dáng thân thể là chi tiết thường được lướt rất nhanh
nhưng chứa đựng chất lửa và sự ám ảnh tính dục trong thơ Vi Thùy Linh. Thơ chị phô bày
những đường nét gợi cảm: “Từ nơi khởi nguyên/ Lửa mọc mầm theo đường cong thân thể”
hay: “Tấm lòng khóc, rung mọi đường kinh tuyến” và bàn tay đầy nhục cảm bởi sự tạo hình:
“Những bàn tay khoả thân như những con buồm trắng”. Trong thơ chị, các bộ phận cơ thể
như mắt, môi, lưỡi, thịt da, chân… thường gắn liền với yếu tố tính dục, biểu hiện niềm khát
khao hoan lạc của bản thể nữ. Thơ Vi Thùy Linh mở ra cánh đồng thịt da lụa là cuồn cuộn
với “từng bầy môi” “cuống quýt vội vã và nồng nàn đau đớn”, với “cặp chân mở con
đường thẳm”, những “cầu đùi muốt”, những “da thịt dậy tình”, “eo chờ đợi vuốt ve”, “mùi
thịt da mượt mềm”… Trong tập thơ Đồng tử, chị đã phô bày thân xác của người phụ nữ làm
mẹ thật táo bạothông qua một hệ từ vựng sinh nở: cuộc yêu, khai mạc, e lệ nở, ùa về đòi
107
chào đời, phóng sinh, tung rợp trời, khai hóa, ôm chặt, ghì lấy, nở tận cùng đến chết, đỉnh
yêu độc đạo, huyết di truyền đại ngàn - biển cả, buông thõng chiêm bao thiếu nữ, thụ phấn,
những cơn lốc sinh nở, đầu thai, giao hoan, đường cong, ngón tay phóng sóng cuồng hoan,
thân nhiệt thành quyền lực, mùa yêu lời ca đồng trinh, thịt da phồn sinh..., mùa động tình,
cơn gió động tình, hợp cẩn…; những biểu tượng thân xác gắn với cảm quan sinh nở hoặc
tính giao: bụng, bầu vú, môi lịm, cặp đùi bơ vơ...; những hình ảnh khỏa thân hoặc gợi sự
khỏa thân: bàn tay khỏa thân, bông hoa khỏa thân, trút bỏ, thoát y...
Đọc thơ Vi Thùy Linh, yếu tố khỏa thể xuất hiện với tần xuất cao nhưng khi trút bỏ
yếu tố nhục dục tầm thường, người đọc sẽ nhận cảm được một tình yêu không vụ lợi, một
tiếng lòng thành thật của một người phụ nữ đang yêu thật mãnh liệt, khát khao dâng hiến đến
tận cùng cho tình yêu. Thơ Vi Thùy Linh viết về tình dục, mô tả thân xác, bản thể, tình dục
chỉ là phương tiện để thể hiện khát vọng giải phóng tính dục một cách thành thật, vươn tới
bình đẳng giới nên thấm đẫm chất nhân văn.
* Thơ Vi Thùy Linh – Một cái tôi khao khát khai thác thế giới vô thức tâm linh
Tâm linh vô thức là một mặt khác của đời sống con người, thể hiện bản chất tự nhiên,
tính bản năng của con người. Cái tôi trữ tình trong thơ Vi Thùy Linh nó riêng, thơ trẻ đương
đại nói chung đã thể hiện một cái nhìn đa chiều về thế giới và con người, có khả năng thâm
nhập đánh thức những vùng mờ của ý thức. Xuất phát từ nhu cầu khám phá chiều sâu bí ẩn
trong tâm hồn con người nên thơ Vi Thùy Linh thường đi sâu vào những vùng mờ tâm linh
đậm chất tượng trưng siêu thực nhằm thể hiện rõ ý thức về một “cái tôi chưa biết”, “cái tôi
ngoài mình” và “cái tôi trong mình”. Chị khao khát đào sâu, tìm hiểu, lí giải chính mình:
“Vì sao/ Em không quên nổi ánh nhìn gió đông của Anh/ Vì sao/ Em không tin có ngọn phồn
linh và lời thiêng “Vừng ơi!”/ Em không thể nào lý giải!/ Thơ là nỗi buồn trường cửu/ Thơ
em mặn…” (Những câu thơ mang vị mặn). Thấu hiểu sự dấn thân với cuộc đời đầy những
gian khó và tiên cảm con đường thơ đầy chông gai cũng là cái chiều sâu tâm linh - nơi nhận
ra bản ngã của các nhà thơ trẻ hôm nay nói chung, Vi Thùy Linh nói chung.
Vi Thùy Linh mượn tôn giáo để nói về tình yêu: “Em cần anh/ như con chiên cần
Cha đạo” (Thánh ca). Bản thể con người vốn đa chiều kích, nên việc chú trọng đến thế giới
tâm linh, vô thức là một nỗ lực nhằm nhận thức về con người một cách toàn diện hơn. Thế
giới tâm linh của con người, ngoài phần sáng rõ của ý thức vẫn còn những phần mờ, bí ẩn
mà kinh nghiệm lí trí khó cắt nghĩa được: “Tôi nghe sấm phục sinh rền mặt đất/ Cơn mưa
rào lân tinh/ Nấm mộ nở vụt hoa Tử Huyền/ Và giấc mơ của lưỡi/ Bắt đầu mở nguyên âm”
(Giấc mơ của lưỡi).
Càng đi sâu vào vô thức, Vi Thùy Linh càng ý thức sâu sắc sự hiện hữu phù du, mong
manh, cô đơn của kiếp người: “Bập bênh khóc – cười, bập bênh số phận” (Bập bênh); Hay:
“Lo âu đánh cắp của em sự thanh thản/ Em đón nhận và tiên cảm mọi điều bằng linh giác/
Sự nhạy cảm quá mức làm nặng giọt nước mắt/ Người ta an ủi nhau bằng cách quy về số
phận” (Không thanh thảnh); “Thôi thì là số phận/ Thôi thì là cơ duyên/ Vì sao em yêu anh?/
Vì đâu em một mình” (Anh còn cho em ).
108
Mô típ về giấc mơ, giấc ngủ, đêm … xuất hiện nhiều trong thơ Vi Thùy Linh, là cánh
cửa để dẫn đến thế giới tâm linh vô thức. Nó bắt nguồn từ những ám ảnh, bất an, những
mong muốn khát khao chưa thành sự thật. Trong thơ Vi Thùy Linh, giấc mơ gắn liền với thế
giới hồn nhiên trong sáng, giàu khát vọng yêu thương: “Trong giấc mơ/ Ta mải kiếm tìm/
Một vầng trăng không bao giờ khuyết/ Một mùa trăng lênh đênh/...Người ơi!/ Lời gọi vang
lên/ Trên đỉnh cao im lặng/ Những giọt đêm…” (Không đề I); Hoặc: “Giấc mơ mỏng như
heo may bay trong ý nghĩ/ Lẻ loi buồn/ lắng xuống/ đáy tim” (Lang thang); Giấc mơ ấy còn
đánh thức trong cô những cảm thức tình yêu mãnh liệt: “Em ôm em ngủ mơ anh” (Nói với
anh) và rồi: “Sau giấc mơ/ Em còn nguyên cảm giác được ôm anh rất chặt; Em cố thiếp đi
nhưng kí ức thức/ Bên giường” (Tiếc nuối); “Mơ là cách để an ủi/ Tôi đang mơ đang trôi
trong Anh” (Thánh giá).
Thế giới trong thơ Vi Thùy Linh luôn được cảm nhận từ hai chiều vận động âm –
dương, ương, từ vô thức - tiềm thức bởi “Sự vận động Âm – Dương là bản chất của thế
giới” (Mùa linh hồn). Ý thức sâu sắc về thế giới thứ hai – thế giới của con người sau khi giã
biệt cõi đời, nên Vi Thùy Linh đã thả hồn mình trong những giấc mơ giả định: “Không kịp
thấy mặt lúc lìa đời/ Hoa rụng tán rợp trời/ Khói nhang mờ mịt lối/ Ơi chú, ơi ông, ơi em, ơi
thím/ Sao đau đớn nhường kia” (Ly); Hay: “Anh đã hiện trong nụ cười đau đớn của em/ Em
vẫn mường tượng về cái chết và muốn thoát khỏi/… Ám ảnh cái chết vẫn bủa vây áp giải
chúng ta” (Solo); “Đầu rỗng/ Tôi tập chết/ Để - biết – mình đang – sống” (Chân dung)…
Tóm lại, thơ Vi Thùy Linh thể hiện cái tôi trữ tình cá nhân với nhiều nét độc đáo
riêng biệt. Đó là một cái tôi đầy cá tính với sự trỗi dậy mạnh mẽ của ý thức, luôn khao khát
hướng đến sự khác lạ, muốn bứt phá khỏi ràng buộc để thể hiện những thiên tính vĩnh cữu
trong bản thể và bản năng của người phụ nữ nhưng vẫn hòa nhịp với những chuẩn mực của
luân lí xã hội.
8.2.3.2. Đặc điểm nghệ thuật
* Sự đa dạng về thể thơ
Vi Thùy Linh đều sử dụng thể thơ tự do như là một phương tiện hữu hiệu nhất để
biểu đạt thế giới cảm xúc của mình. Khởi đầu là những bài thơ ngắn, câu thơ gọn, từ ngữ
giản dị. Về sau, thơ chị trải dài hơn, ngắt dòng bất chợt, tự nhiên, ít có sự hiệp vần nhằm
chuyển tải những nội dung rộng lớn hơn. Thể thơ tự do giúp Vi Thùy Linh bộc lộ cảm xúc
một cách mạnh mẽ, bạo liệt, tuôn trào không ngưng đọng. Đồng thời, thể thơ tự do còn giúp
cho chị phản ánh nhiều bề hiện thực của đời sống. Trong thơ Vi Thùy Linh, có dòng thơ chỉ
một chữ, có dòng thơ nhiều chữ đan xen, liền kề, kết hợp với nhau một cách tự nhiên tạo nên
nét độc đáo. Một số bài thơ tiêu biểu như: Những đối lập, Mùa thụ mầm, Khát, Linh, Giao
cảm, Từ phía ngày nắng tắt…
Ví dụ như: “Con/ rơi/ xuống/ dòng sông đỏ đang chuyển dịch vào bóng những vì sao/
Đêm, sông cũng không ngớt sóng/ Từng cánh sao ướt sáng dần chìm, con chỉ ước mình bé
thơ, khi hiểu những điều lớn lao chẳng làm vơi đi bất hạnh mỗi đời người” (Những đối lập);

109
Hay: “Em tức tưởi trở về khoảng trời bóng đỏ/ Bóng chèn nhau/ vỡ/ Lòng em/ vỡ/
Em lầm lũi lại đến trước nhà anh nhặt xác nỗi buồn, đốt lên thành lửa/ Rồi đi/ Sau lưng em
ngày nắng tắt” (Từ phía ngày nắng tắt)
Vi Thùy Linh kế thừa và phát triển thể thơ văn xuôi - một hình thức của thơ được viết
bằng văn xuôi nhưng giàu chất thơ. Chị đã dũng cảm dấn thân hướng đến sự cách tân thơ
Việt một cách quyết liệt. Ở thể thơ này, Vi Thùy Linh thường sáng tạo những câu thơ có độ
dài khác nhau, ít vần điệu mà chủ yếu là tạo nhịp, tạo giọng và hình ảnh. Lời thơ văn xuôi
của Vi Thùy Linh mang một nhạc tính nội tại, thứ nhạc do một xung động tiềm thức tạo ra
và tác động tới tiềm thức người đọc. Thể điệu thơ không định sẵn, thể hiện trung thực và
trực tiếp sự bộc phát và diễn tiến lắm khi đầy nghịch lý của tâm trạng nhà thơ. Một số bài
thơ tiêu biểu như: Ở lại, Cái chân vịt và tiếng còi tàu…
Thơ Vi Thùy Linh có xu hướng giao thoa về mặt thể loại và sự xâm lấn của các loại
hình nghệ thuật khác vào thơ như hội họa, âm nhạc, nghệ thuật trĩnh diễn, kiến trúc... góp
phần làm làm phong phú thế giới nghệ thuật thơ Vi Thùy Linh. Bên cạnh những bài thơ bề
bộn chữ vẫn xuất hiện những bài thơ chịu ảnh hưởng của yếu tố truyền thống nhưng đã được
khúc xạ qua lăng kính sáng tạo của Vi Thùy Linh như: Bài Đồng dao sông Thao, Như tiếng
đồng dao, Đồng dao trông trăng...
* Về ngôn ngữ thơ
Ngôn ngữ thơ Vi Thùy Linh giàu hình, vừa mang ý nghĩa tả thực vừa giàu tính biểu
tượng. Với những bài thơ đậm chất hiện thực, ngôn ngữ thơ Vi Thùy Linh rất ít xuất hiện
những hình ảnh hoa mĩ mà đậm chất đời thường, thậm chí có phần thô ráp. Chẳng hạn như:
“Đừng hỏi vì sao chú hề lại khóc/ Khi nước mắt thật chảy làm hoen nước mắt hóa trang”
(Nước mắt hề xiếc). Hay: “Em như bùi nhùi rơm/ ngày ngày đợi chờ” (Liên tưởng); “Nỗi cô
đơn cùng cực này/ Như một quả xà cừ/ Cắn không vỡ” (Lá thư và ổ khóa); “Hình như/ Có
nỗi buồn nằm nghiêng/ Nơi bóng tối vỡ òa/ Hình như phía sau hơi thở/ Mảnh trăng co mình
(Không đề I); Hình như em không thể xa anh thêm nữa/ Tim em để quên trong ngực anh
(Sóng )...
Một số bài thơ tiêu biểu khác như: Những ý nghĩ, Lá thư và ổ khóa, Một ngày chưa có
trong sự thật, Mùa đông cuối cùng, Sinh năm 1980…
Bên cạnh lớp ngôn ngữ đậm chất đời thường, thơ Vi Thùy Linh còn xuất hiện dày đặc
hệ thống hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng giàu màu sắc phái tính. Vi Thùy Linh đã tạo
dựng một hệ biểu tượng có quan hệ về bản thể với mẫu gốc như: Đất là mẫu tính, Nước là
nữ tính, Đêm như là bản tính.
Biểu tượng Đất trong thơ Vi Thùy Linh được dùng như là mẫu tính. Trong Kinh
Dịch, đất là quẻ Khôn, là tính thụ động hoàn hảo, mọi người đều sinh ra từ đất vì đất là đàn
bà và bà mẹ, với đức tính dịu dàng, kiên định. Trong thơ của Vi Thùy Linh sự sống hiện
hình luôn tồn tại với thế giới tự nhiên gắn liền với mẫu gốc của thế giới cỏ dại côn trùng…
Các nhà thơ nữ hay sử dụng hình ảnh trứng như biểu tượng của sự sinh sôi. Vườn là biểu
tượng thiên đường trên mặt đất. Thế nhưng, trong thơ Thùy Linh nó được tôn vinh như một
110
khu vườn tình ái, miền linh thánh nên khi viết về tình yêu, chị thường đặt nhân vật người
tình ở giữa những khung cảnh thiên nhiên cao rộng, phóng khoáng, bát ngát, giữa bầu trời,
sông biển, cánh rừng, thậm chí đẩy lên thành không gian của huyền tích, huyền sử. Trong
đôi mắt kẻ đang yêu, thế giới là cõi yêu. Từ những khu vườn, căn nhà, ban công, ô cửa sổ
đến những quán cà phê, khách sạn sang trọng, lãng mạn, từ những con phố đến ruộng đồng
hay vượt qua biên giới đến Paris, Rome, từ trần giới đến vườn Địa đàng, cả lúc thức và trong
chiêm bao… Nhờ vậy, tình yêu trong thơ Linh được nới rộng, mở ra, thoát khỏi các giới hạn
trần thế thông thường. Các bài thơ tiêu biểu như: Thung lũng thanh, Đồng dao sông Thao,
Yêu ở Rome, Thiếu phụ và con đường…
Biểu tượng Nước theo nghĩa gốc thiên về tính nữ, mát lành, dịu dàng. Trong thơ Thùy
Linh, nước lại gắn với biểu tượng về dòng sông thanh tẩy tâm hồn: “Anh bế em vừa tắm
sông Hằng, trở về ngôi báu” (Teressa).
Biểu tượng Đêm trong mẫu gốc gắn với bóng tối, màu đen, giấc ngủ… Thế nhưng,
Đêm trong thơ Vi Thùy Linh lại được nâng lên thành một miền cảm xúc phong phú, đa
dạng. Đêm với người nữ thường xuất hiện hình ảnh của Tóc, theo logic của phái tính. Tóc
trong thơ Thùy Linh là biểu tượng cho nỗi bất an, sự tàn phai tuổi trẻ: “Em không nhớ đã thả
đi biết bao nhiêu nỗi buồn bằng tóc rụng/ Tóc mỗi năm một mỏng” (Từ phía ngày nắng tắt);
Tóc trong thơ Vi Thùy Linh còn là biểu tượng cho sự quấn quýt trong tình yêu: “mái tóc em
nằm trên ngực anh/ mỗi sợi tóc là một lời yêu anh (Bầy chim lửa). Đêm về cũng gợi biểu
tượng của hoan lạc. Vì thế trong thơ Vi Thùy Linh, Đêm mang ý nghĩa biểu tượng cho nỗi
khao khát bản năng; Đêm trở thành cõi tình để “người tình” sống đau đáu, khao khát đến
cuồng dại, say đắm đến tôn thờ; Đêm hóa thành biển hoang trống mênh mông để cái tôi trữ
tình đắm say trong suy tưởng về mình; Đêm nhuốm màu cổ kính đánh thức niềm hoài cổ…
Những bài thơ tiêu biểu như: Chân dung, Trên ngực anh, Van nài, Khoảng trống...
* Về giọng điệu
Xuyên suốt các sáng tác của Vi Thùy Linh là một giọng đắm say, mãnh liệt, nồng
nàn, rất nữ tính, thể hiện một tâm hồn đam mê khao khát sống và yêu hết mình. Phạm Xuân
Nguyên đã đánh về thơ Vi Thùy Linh: “Khao khát nữ tính đàn bà đồng trinh luôn chất chứa
và sục sôi trong mình”. Đó là giọng điệu của người con gái hiện đại quyết liệt khẳng định
quyền được yêu và tự do hết mình với tình yêu không gì trói buộc: “Có yêu nhau thương
nhau thì vượt đêm mà về/ Có nhớ nhau, có khát nhau hãy cuộn tung thác nguồn/ Cuộn lửa
tình mà cháy...” (Gọi nguồn). Hay: “Giá chúng mình mãi mãi ở bên nhau/ Anh chớp mắt đổ
một trời ánh sáng/ Những khát vọng thành cỏ đời xanh mướt/ Đi hết ánh nhìn, mình hóa đá
trong nhau (Tự tình). Kể cả lúc buồn, giọng thơ thơ Vi Thùy Linh vẫn mê đắm và đầy cao
thượng, vị tha: “Ngay cả khi anh làm em buồn thảng thốt/ Em vẫn hướng về anh bằng tình
yêu trọn vẹn của mình” (Người dệt tầm gai).
Giọng điệu nồng nàn, thắm thiết được Vi Thùy Linh thể hiện trong những bài thơ bộc
lộ niềm khát khao làm mẹ ngay ở tuổi hai mươi tuổi, chưa hề lập gia đình: “Con ơi! Con ơi!
/ Con đang bay ở đâu? Con đang bay ở đâu!? (Những mặt trời đang phôi thai). Vi Thùy
111
Linh hình dung được vai trò của người mẹ trong tương lai nên đã khẳng định sự che chở cho
con và gián tiếp kêu gọi hãy để trẻ em sống trong bình yên hạnh phúc: “Xù yêu ơi, mẹ không
muốn kéo màn che để con biết phần trần trụi sân khấu đời” (Cám ơn con).
Giọng điệu trăn trở, suy tư, đầy hoài nghi về cuộc sống hiện đại cũng thường xuất
hiện trong thơ Vi Thùy Linh. Chị lo âu về cuộc sống đổi thay: “Tại sao nước mặn chiếm ba
phần tư trái đất/ Tại sao con người ít cười hơn khóc” (Những đối lập); chị lo âu về Hà Nội
trước những đổi thay nhanh chóng: “Nếu không còn cây hồ, nhà cổ/ Hà Nội sẽ ở đâu, Hà
Nội ơi” (Tình tự Hà Nội – Vili in love); chị âu lo, tiếc nuối về tình yêu: “Em lo âu, nhưng
con thuyền tim không vượt nhịp dồn dập/... Em bắt đầu nghi ngại sức mạnh của mình”
(Người dệt tầm gai); chị thảng thốt âu lo về sự rượt đuổi của thời gian làm tàn phai nhan sắc:
“Ta âu lo một ngày/ Bàn tay nhăn nheo những sợi tóc bạc ngã gục/ Những sợi tóc không thể
mọc thêm không bao giờ đen được nữa/ Màu trắng run lên” (Lặng lẽ),…
8.3. Kết luận chung
Thời kỳ đổi mới đất nước sau 1986 đã tạo điều kiện cho sự trở lại của cái tôi cá nhân
trong thơ. Cùng với nhiều cây bút trẻ khác, Vi Thùy Linh luôn khát khao khẳng định cái tôi
chủ quan với những độc đáo riêng biệt mang bản sắc cá thể trong sáng tạo nghệ thuật, hướng
đến sự cách tân thơ Việt từ nội dung đến hình thức biểu hiện. Với sự nỗ lực của mình, Vi
Thùy Linh đã góp phần không nhỏ trong hành trình phác dựng diện mạo mới cho thơ ca
đương đại.

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 8

CÂU NỘI DUNG CĐR HP


8.1 Những yếu tố nào tạo nên sức hấp dẫn trong truyện ngắn Minh
CO1, CO2,
Nhật?
CO5, CO6

8.2 Phân tích chất thơ trong truyện ngắn Minh Nhật? CO1, CO2,
C03
8.3 Yếu tố lạ hóa trong thơ Vi Thùy Linh?
CO1, CO2

8.4 Tính nữ trong thơ Vi Thùy Linh? CO1, CO2,


CO5, CO6
8.5 Tại sao nói thơ Phan Thùy Linh là “những trận bạo động chữ”? CO1, CO2,
CO5, CO6
8.6 Hãy tìm hiểu và giới thiệu về nhà thơ Nguyễn Phúc Lộc Thành; Tuệ CO1, CO2,
Nghi và một số cây bút trẻ đạt giải mới đạt giải. CO5, CO6

112
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Thông tin về tài liệu Số đăng kí cá biệt


1. Phan Cự Đệ (Chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB
MON.019237
Giáo dục, Hà Nội.
2. Nguyễn Lâm Điền (Chủ biên) Trần Văn Minh – Lê Hương Giang MOL.079097
MOL.079098
(2015), Văn học Việt Nam 1975 – 2000, NXB Đại học Cần Thơ.
MOL.079583
MOL.079584
MOL.079585
3. Nguyễn Văn Long (2007), Nguyễn Minh Châu và công cuộc đổi mới MOL.056195
MON.034939
văn học Việt Nam sau 1975, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
SP.018889
4. Nguyễn Văn Long – Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên) (2009), Văn học MOL.072728
Việt Nam sau 1975 – những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo MOL.072729
MON.049351
dục, Hà Nội. SP.020367
5. Nguyễn Đăng Mạnh (Chủ biên) (2002), Lịch sử văn học Việt Nam,
MON.034674
tập 3, NXB Đại học Sư Phạm, Hà Nội. SP.018930
6. Trần Văn Minh (Chủ biên) (2017), Văn học Việt Nam 1945 – 2000, MOL.083576
NXB Đại học Cần Thơ. MOL.083577
MOL.083578
MON.058568
MON.058569
SP.022583
7. Lê Lưu Oanh (1998), Thơ trữ tình Việt Nam 1975 – 1990, NXB Đại MOL.022871
MON.013217
học quốc gia, Hà Nội.
SP.016462

113

You might also like