You are on page 1of 78

Mục lục

MỸ THUẬT NGUYÊN THỦY VÀ THỜI ĐẠI ĐỒ ĐỒNG...........................................


MỸ THUẬT VIỆT NAM THỜI KỲ NGUYÊN THỦY.................................................
1. Khái quát về mỹ thuật thời nguyên thủy ở Việt Nam...............................................
2. Quá trình phát triển của mỹ thuật nguyên thủy........................................................
3. Đặc điểm mỹ thuật thời Nguyên thuỷ Việt Nam......................................................
3.1. Mỹ thuật thời kỳ đồ đá cũ.............................................................................
MỸ THUẬT VIỆT NAM THỜI KỲ DỰNG NƯỚC......................................................
1. Lịch sử và các giai đoạn phát triển văn hóa thời kỳ dựng nước...............................
1.1. Giai đoạn Phùng Nguyên..............................................................................
1.2. Giai đoạn Đồng Đậu....................................................................................
1.3. Giai đoạn Gò Mun........................................................................................
1.4. Giai đoạn Đông Sơn.....................................................................................
2. Sự phát triển của mỹ thuật thời đại Dựng nước........................................................
2.1. Nghệ thuật Kiến trúc.....................................................................................
2.2. Nghệ thuật Điêu khắc...................................................................................
3. Nghệ thuật Trang trí.......................................................................................
CHƯƠNG II: MỸ THUẬT VIỆT NAM THỜI KỲ PHONG KIẾN...........................
Mở đầu........................................................................................................................
MỸ THUẬT THỜI LÝ....................................................................................................
1. Khái quát văn hóa, xã hội thời Lý..........................................................................
2. Sự phát triển của các loại hình nghệ thuật..............................................................
2.1. Nghệ thuật kiến trúc....................................................................................
2.2 Nghệ thuật điêu khắc thời Lý.......................................................................
2.3. Nghệ thuật Hội hoạ thời Lý........................................................................
NGHỆ THUẬT GỐM.......................................................................................
MỸ THUẬT THỜI TRẦN (1226-1400).........................................................................
1. Khái quát văn hóa, xã hội thời Trần.......................................................................
2. Một số đặc điểm của mỹ thuật thời Trần................................................................
3. Sự sáng tạo trong mỹ thuật thời Trần.....................................................................
3.1. Nghệ thuật kiến trúc....................................................................................
1
3.2. Nghệ thuật Điêu khắc.................................................................................
3.3. Nghệ thuật Hội họa.....................................................................................
3.4. Nghệ thuật Gốm..........................................................................................
MỸ THUẬT THỜI LÊ SƠ (1427- 1527)........................................................................
1. Khái quát văn hóa xã hội thời Lê Sơ......................................................................
2. Sự phát triển của Mỹ thuật.....................................................................................
NGHỆ THUẬT GỐM.......................................................................................
MỸ THUẬT THỜI MẠC (1528-1597)...........................................................................
NGHỆ THUẬT GỐM.......................................................................................
CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT DÂN GIAN.......................................................
TRANH DÂN GIAN.........................................................................................
TRANH LỊCH SỬ.............................................................................................
- Những sự kiện lịch sự dân tộc..................................................................................
- Những nhân vật lịch sử: Bà Trưng, Bà Triệu cưỡi voi đánh giặc, Đinh Bộ Lĩnh
cờ lau tập trận….................................................................................................................
TRANH SINH HOẠT.......................................................................................
TRANH VĂN HỌC: thường lấy nội dung của Truyện Kiều, Thạch Sanh
làm đề tài............................................................................................................
ĐIÊU KHẮC ĐÌNH LÀNG VIỆT NAM...................................................................
MỸ THUẬT THẾ KỶ XVIII.............................................................................................
KIẾN TRÚC...............................................................................................................
MỸ THUẬT THỜI NGUYỄN........................................................................................
1. KIẾN TRÚC KINH ĐÔ HUẾ (PHÚ XUÂN)........................................................
2. MỸ THUẬT PHẬT GIÁO VƯƠNG TRIỀU NGUYỄN ĐÀNG TRONG...........
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HÓA MỸ THUẬT......................
VIỆT NAM HIỆN ĐẠI....................................................................................................

Năm 1946...........................................................................................................................
GIAI ĐOẠN 1964 - 1975:..........................................................................................
Mỹ thuật miền Nam:................................................................................................

1975 – ĐẾN NAY......................................................................................................


ĐIÊU KHẮC THẾ KỶ XX..............................................................................................

2
1. Giai đoạn 1925 - 1945............................................................................................
2. Giai đoạn 1945 - 1954............................................................................................
3. Giai đoạn 1954 - 1975............................................................................................
4. Giai đoạn Thập niên 60..........................................................................................
5. Giai đoạn Thập niên 70..........................................................................................
6. Giai đoạn từ 1975 - NAY.......................................................................................
Nghệ thuật sắp đặt..............................................................................................

3
MỸ THUẬT NGUYÊN THỦY VÀ THỜI ĐẠI ĐỒ ĐỒNG
Mở đầu

Năm 1960, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã tìm thấy di tích núi Đọ thuộc xã Thiệu
Khánh, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Hàng ngàn hiện vật khảo cổ được phát
hiện. Mặc dù đó là những mảnh tước, hạch đá, các công cụ chặt, nạo, rìu tay được chế
tác rất thô sơ và nghèo nàn về loại hình, song nó đã chứng tỏ sự có mặt , làm ăn sinh
sống của những người nguyên thủy trên dải đất Việt Nam của chúng ta. Di chỉ núi Đọ
được xếp tương đương với giai đoạn Sen và đầu Asơn thuộc sơ kỳ đồ đá cũ, cách ngày
nay khoảng 30 vạn năm. Mặc dù vậy, phải trải qua một thời gian dài chúng ta mời tìm
được một số hình khắc những dấu hiệu đầu tiên của một nền mỹ thuật Việt Nam thời
nguyên thủy. Trên cơ sở đó đến cuối thời kỳ đồ đá mới, mỹ thuật đã phát triển hơn một
nửa bước so với thời kỳ trước. Tuy vậy, phải đến thời kỳ đồ đồng, chúng ta mới tìm
được nhiều tác phẩm mỹ thuật thuộc nhiều loại hình nghệ thuật tạo hình. Những tác
phẩm quý báu là nguồn tư liệu cho các thế hệ con cháu ngày nay tìm hiểu và học tập
vốn tinh hoa của nghệ thuật truyền thống cha ông xưa. Đồng thời kết hợp với phong
cách tạo hình hiện đại để phát triển nền mỹ thuật hiện đại song vẫn giữ được sâu sắc
những nét văn hóa dân tộc.
Quay trở về thời kỳ xa xưa nhất của lịch sử mỹ thuật dân tộc, chúng ta sẽ tìm hiểu về
sự hình thành và phát triển mỹ thuật. Những loại hình nghệ thuật tạo hình nào xuất
hiện sớm nhất? Mỹ thuật nguyên thủy Việt Nam có phong phú như mỹ thuật nguyên
thủy trên thế giới không? Với trình độ xã hội thời nguyên thủy, trình độ mỹ thuật phát
triển ở mức độ nào? Giá trị nghệ thuật của trống đồng Đông Sơn biểu hiện ở loại hình
nghệ thuật nào? Chương đầu tiên của giáo trình Lịch sử mỹ thuật Việt Nam sẽ giúp trả
lời những câu hỏi đó. Chúng ta sẽ hiểu được những bước đi khởi đầu của nền nghệ
thuật tạo hình dân tộc. Tất cả những điều đó sẽ khẳng định tài năng mỹ thuật của cha
ông và khiến ta thêm tự hào về truyền thống văn hóa nghệ thuật mà tổ tiên từ ngàn xưa
đã xây dựng nên.

MỸ THUẬT VIỆT NAM THỜI KỲ NGUYÊN THỦY

1. Khái quát về mỹ thuật thời nguyên thủy ở Việt Nam


Mỹ thuật nguyên thuỷ VN hình thành với tư cách là một hoạt động thực tiễn với chế
tác đồ ứng dụng và các biểu tượng tôn giáo mông muội. ở phương diện đồ ứng dụng
phục vụ đời sống săn bắn, hái lượm có một bước chuyển dài từ công cụ tiện vừa đẹp,
tiến tới thoát ly hoàn toàn công năng biến đổi ứng dụng thanh vật trang trí thuần tuý.
Tư duy huyền thoại nguyên thuỷ tìm cách giải thích những ước muốn tìm hiểu tự
nhiên đã dẫn đến các biểu tượng nhằm cụ thể hoá tưởng tượng về thế giới tự nhiên đầy
quyền lực. Sự cảm nhận được cái không giải thích được đã dẫn tới tâm thức tôn giáo
và tâm thức nghệ thuật. Cả hai mặt đó đã kích thích trí tuệ con người, bàn tay khéo léo
lên, sự chiếm hữu tự nhiên và bản thân mình mở rộng, ham muốn bứt khỏi giới hạn
nhận thức, nhu cầu thẩm mỹ không tách rời đời sống nhưng lại có vai trò độc lập. Và
như vậy nghệ thuật ra đời.
Việt Nam được xác định là một trong những cái nôi của loài người, có sự phát triển
liên tục qua nhiều thế kỷ. Thời đại Hùng Vương với nền văn minh lúa nước đã phản
4
ánh sự phát triển của đất nước về kinh tế, quân sự và văn hoá - xã hội. Mỹ thuật
nguyên thủy Việt Nam chia làm 3 giai đoạn phát triển:
1.1 Thời kỳ đồ đá cũ
1.2 Thời kỳ đồ đá giữa
1.3 Thời kỳ đồ đá mới

2. Quá trình phát triển của mỹ thuật nguyên thủy


2.1 Mỹ thuật thời kỳ đồ đá giữa
2.2 Mỹ thuật thời kỳ đồ đá mới

3. Đặc điểm mỹ thuật thời Nguyên thuỷ Việt Nam.


3.1. Mỹ thuật thời kỳ đồ đá cũ.
Nếu như ở châu Âu, nghệ thuật tạo hình nguyên thuỷ phát triển đến trình độ cao
thì là thời kỳ đồ đá cũ. Nhưng ở Việt nam những di chỉ phát hiện được thì không một
vật nào có giá trị về mặt mỹ thuật. Do vậy không thể chia mỹ thuật nguyên thuỷ Việt
nam giống như sử nguyên thuỷ thường chia mà chỉ nhận xét chung về thời kỳ đó như
sau:
Dụng cụ thời kỳ đồ đá cũ ở Núi đọ còn rất thô sơ đến lưỡi rìu cầm tay như ở
Thiệu Dương (Thanh Hoá), cho thấy tổ tiên ta thời ấy đã có ý thức tìm tòi về hình
dáng làm cho dụng cụ thích ứng hơn trong việc sử dụng. Nó đã có hình thể nhất định –
chứng tỏ bàn tay người thợ đã thuần thục vững vàng.
Sang đến giai đoạn văn hoá Hoà Bình tiêu biểu cho đồ đá giữa và Bắc Sơn tiêu
biểu cho đồ đá mới thì nghệ thuật làm đồ đá có những sáng tạo đặc sắc. Công cụ bằng
đá hình dáng thống nhất gọi là “công cụ vạn năng” được thay bằng công cụ chuyên
môn. Mỗi công cụ có hình dáng khác nhau: rìu đá, rìu xương, công cụ hình đĩa ném,
kim bằng xương để khâu may, …. Trong việc gia công làm những vật dụng ấy, ta thấy
chủ nhân của chúng không phải có mục đích duy nhất là dùng được, mà còn quan tâm
đến mặt thẩm mỹ.
Sự phát triển liên tục nền văn hoá của tổ tiên ta từ thời đồ đá đến thời kỳ đồ
đồng được minh chứng rất đặc biệt là lưỡi rìu xéo của văn hoá Đông Sơn, ngoài lưỡi
rìu có vai danh tiếng thường được nói đến.
Những di tích thời đồ đá ở nước ta không phải chỉ tìm được trong hang động ở
sâu trong đất liền, nhiều di chỉ hậu kỳ đồ đá mới ở gần bờ sông hay ven biển thời
nguyên thuỷ như Văn Điển (Hà nội), Hạ Long (Quảng Ninh) và điển hình là những xã

5
Quỳnh Văn, Quỳnh Tùng, Quỳnh Hoa, …, ở huyện Quỳnh Lưu (Nghệ Tĩnh) bây giờ
là ven biển. Những địa phương ấy có những đống vỏ sò rộng hàng vạn mét vuông.
Những đống vỏ sò, điệp to lớn lẫn lộn với những bàn đá nghiền hạt, mảnh gốm
“chì lưới” bằng đất nung, … tìm được trong nhiều di chỉ hậu kỳ đồ đá mới, chứng tỏ
rằng người nguyên thuỷ ở Việt nam bấy giờ không phải chỉ sống bằng săn bắt thú rừng
như người nguyên thuỷ nhiều nơi khác, mà họ còn sống bằng cá, cua, sò, điệp, trai,
tôm, ốc tìm bắt ở sông, biển và đã bắt đầu biết một số cây ăn quả, nhất là lúa nước.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, đất Việt nam ta là một quê hương của lúa nước, … Thú
rừng không phải là vật duy nhất quan hệ đến đời sống của người nguyên thuỷ Việt
nam. Cho nên, chắc có lẽ vì vậy, ở các nơi cư trú của người nguyên thuỷ không thấy
vẽ hay tạc nhiều hình thú như ở Âu, Phi.
Nghệ thuật tạo hình đồ đá nguyên thuỷ
Tại Nà Ca (Thái Nguyên), người ta thấy hình một mặt người khắc vào đá. Trong
hang Đồng Nội (Hà Nam Ninh), thì có ba mặt người chạm nổi, ngoài ra còn có hình
đầu một loài thú, không rõ loài gì.
Tại di chỉ Văn Điển người ta phát hiện ra một tượng người đá bé bằng ngón tay út, tạc
hình người. Tượng tròn bé này cũng là tượng tròn hình người bằng đá độc nhất của người
nguyên thuỷ tìm được.
Những thể hiện hình người và vật kể trên còn rất thô sơ.
Đồ gốm thời nguyên thuỷ:
Việc biết dùng ngũ cốc làm thức ăn là một cuộc cách mạng trong xã hội nguyên thuỷ.
Chẳng những nó cho phép con người có thể định cư mà còn thay đổi nếp sống và dụng cụ
thường dùng. Những khí giới bằng đá không đủ cho đời sống hàng ngày nữa, người ta còn
cần có nồi, niêu, chum, vại để nấu, đựng thức ăn; do đó, đồ gốm ở nước ta được chế tạo ra
rất sớm để đáp ứng nhu cầu đời sống. Việc chế tạo ra đồ gốm là một sự kiện hết sức quan
trọng trong đời sống của người nguyên thuỷ; và trong việc chế tạo này, tổ tiên ta mới có
điều kiện phát triển khả năng về trang trí tạo hình.
Từ thời nguyên thuỷ xa xôi, nghề đan nát đã phát triển ở nước ta, do nguyên liệu
tre nứa rất dồi dào. Những người làm gốm đầu tiên, khi chưa biết dùng bàn nặn xoay,
thì thường đan khuôn bằng tre theo hình nồi, niêu, chum, vại rồi trát một lớp đất sét
dày mỏng tuỳ theo ý muốn đồ gốm dày hay mỏng. Khi đất khô, người thợ đem nung

6
cho cháy khuôn nan và chín đất. Khuân đan in vào vại, vò lúc còn ướt thành một thứ
hoa văn trang trí. Đến khi trình độ nghệ thuật của người thợ đồ gốm đã khá, người ta
không dùng khuân đan nữa, song vì quen mắt và yêu cầu thẩm mỹ, người ta vẽ bằng
que hay dập hoa văn phỏng theo dấu in của khuôn đan. Dần dần hoa văn trong đồ gốm
trở nên phong phú, chẳng hạn như hình kép của hình sóng gợn, hình nan rổ, hình răng
sói, ở nhiều nơi. Nhưng phải nói cuối thời đồ đá mới, khi kỹ thuật làm đồ đá phát triển
đến tuyệt đỉnh của nó, thì hoa văn trang trí mới đạt đến trình độ phong phú làm nền
tảng cho nghệ thuật trang trí đồ gốm và đồ đồng sau đấy.
 Kết luận
Nghệ thuật nguyên thuỷ phát sinh từ thời kì sơ khai của loài người, trước tiên
với 2 mục đích chính: sinh tồn và giải trí. Trong đó vấn đề sinh tồn, nghi lễ tôn giáo có
vai trò đặc biệt quan trọng (vì khi đó họ phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên như bão
lụt, sấm, sét…) bất chấp đời sống kinh tế thấp, lạc hậu nhưng con người nguyên thuỷ
đã tập trung các bộ lạc lại để tạo nên công trình nguyên thuỷ.Ví dụ: họ dựng đứng các
khối đá lên, do ý nghĩa tôn giáo giúp họ làm những việc đó.
- Người nghệ sĩ đã dần dần tách khỏi quá trình lao động
- Nghệ thuật nguyên thuỷ là bức tranh, tấm gương sinh động phản ánh hiện
thực, nó chứng tỏ họ quan sát đối tượng rất kỹ từ khái quát tới cụ thể và họ mô tả trực
tiếp, rõ ràng.
- Về mặt kỹ thuật: phương tiện làm việc thấp, màu trong thiên nhiên, kỹ thuật
đạt trình độ cao như biết đánh bóng khối, biết làm bố cục sinh động.
- Nghệ thuật nguyên thuỷ phản ánh rất ngây thơ, hồn nhiên, ngộ ngĩnh, gần với
nét vẽ trẻ thơ.

7
MỸ THUẬT VIỆT NAM THỜI KỲ DỰNG NƯỚC

1. Lịch sử và các giai đoạn phát triển văn hóa thời kỳ dựng nước
1.1. Giai đoạn Phùng Nguyên
Bắt đầu từ giai đoạn Phùng Nguyên cuối thời đồ đá mới, bước qua thời đồ đồng và
chấm dứt với giai đoạn đồng thau Đông Sơn. Nó chính thức chia ra làm 4 giai đoạn lớn là:
Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn.
Trong những di chỉ phát hiện đến nay thuộc giai đoạn này, có dấu vết làng mạc đông
dân cư và rất nhiều di vật. Di vật phát hiện được có nhiều loại bằng đá, bằng xương thú,
nhất là nhiều đồ gốm có loại hình hoa văn phong phú. Trong một số di chỉ của giai đoạn
Phùng Nguyên như Thượng nung (Gò Bông) đã thấy có xỉ đồng, chứng tỏ đã biết sử dụng
đồng để phục vụ đời sống.
Về mặt mỹ thuật, giai đoạn Phùng Nguyên có hai điểm nổi bật là trình độ tinh vi của
kỹ thuật làm đồ đá và nghệ thuật trang trí đồ gốm rất đặc sắc.
Người ta thấy những loại đục, dao, mũi tên, … được chế tác khéo hơn so với thời
trước, đồ trang sức như vòng tay, vòng khuyên, nhẫn, … đã chọn những đá quý nhiều màu
sắc đẹp, thích hợp với mục đích sử dụng, tạo nên nét thanh nhã nhất thời dựng nước. Đồ
gốm có độ nung không cao lắm, mặt ngoài nhẵn bóng, màu đỏ tươi hay màu đen; song hoa
văn đặc biệt phong phú. Họ đã biết dùng bàn nặn xoay.
Điểm đặc biệt quan trọng về mặt mỹ thuật là hoa văn trang trí đồ gốm Phùng Nguyên;
vì nó đã chứng tỏ trình độ nghệ thuật của người thợ đã khá cao, mà còn cho thấy những hoa
văn trang trí đặc sắc nhất của đồ đồng Đông Sơn đã được bắt đầu sáng tạo từ đây. Họ đã kế
thừa và nắm được nguyên tắc căn bản của nghệ thuật trang trí là luật lặp lại, luật xen kẽ và
luật đối xứng, nên cấu tạo được những đường nét hài hoà của hoa văn như ta thấy trên nhiều
đồ gốm.
Thời kỳ này đặt cơ sở nền móng cho các giai đoạn sau tiếp tục phát huy, nhất là hoa
văn gốm có một tầm quan trọng đặc biệt, nó giải thích nguồn gốc dân tộc những hoa văn
độc đáo của đồ đồng Đông Sơn.
1.2. Giai đoạn Đồng Đậu
Giai đoạn này đã phát triển thêm một bước về đồ đá và đồ gốm. Giai đoạn này
người thợ đã thành công trong kỹ thuật hợp kim đồng thau, tạo ra nhiều đồ đồng có
loại hình đặc sắc.

8
Tuy bắt đầu chế tạo đồ đồng, giai đoạn Đồng Đậu vẫn phát triển đồ đá để sử
dụng trong sản xuất và sinh hoạt. Đồ đá Đồng Đậu có điểm khác là có cải tiến về hình
dáng, có nhiều kiểu bầu dục, bán nguyệt, tam giác cân, hình thang cân, … trang sức
cũng có phần hoa mỹ hơn so với Phùng Nguyên.
Đồ gốm vẫn phát triển và giữ vai trò trọng yếu trong đời sống hàng ngày. Chất
gốm và trang trí đặc sắc hơn. Độ nung cao hơn và rắn chắc hơn, có kích thước to và
màu sắc phong phú hơn. Ngoài màu nâu xẫm và đỏ ta thấy có thêm màu xám, vàng
sẫm. Đặc biệt là hoa văn trang trí vẽ bằng dụng cụ như răng lược thành những đường
song song như khuông nhạc.
Lần đầu tiên giai đoạn này là sản xuất được nhiều đồ đồng thau, đánh dấu bước
tiến quan trọng của nền văn hoá dân tộc. Với các di vật như rìu, giáo, lao, đầu mũi tên,
đục, dao khắc, bàn chải, lưỡi câu, … mà có cả khuân đúc đồng bằng đá, những di vật
đó có sự ổn định về hình dáng, cân đối hài hoà và tương đối hoàn thiện.
Giai đoạn này hiện vật đồng thau vẫn còn hạn chế trong một số đồ dùng thường,
chưa mang tính chất tiêu biểu.
1.3. Giai đoạn Gò Mun
Với những di tích tập trung ở các tỉnh Vĩnh Phú, Hà Sơn Bình, Hà Bắc, Hà Nội.
Đồ đồng tiến thêm một bước và có thêm những hiện vật mà giai đoạn Đồng Đậu
không có như lưỡi hái đồng, rìu đồng, lưỡi xéo, …cho thấy kỹ thuật đúc đồng trong
giai đoạn này rất phổ biến và đã đến trình độ cao.
Đồ gốm giai đoạn này đã có những thay đổi đáng kể. Chất gốm rắn chắc hơn nhờ
độ nung cao; nhưng hoa văn trang trí thì được đơn giản hoá thành những hình học như
tam giác, chữ nhật, hình tròn, … Hoa văn chữ S cũng thành một hoạ tiết khác biệt so
với trước. Đặc trưng gốm giai đoạn này là thường có miệng loe ra ngoài, trên miệng có
trang trí hoa văn. Nhiều hoa văn này được lặp lại trong đồ đồng Đông Sơn.
Đây là giai đoạn chuẩn bị cho sự bùng nổ của đồ đồng Đông Sơn.
1.4. Giai đoạn Đông Sơn
Nghệ thuật đổ khuôn đúc đồng và chạm khắc đã đạt được nhiều ưu thế. Kỹ thuật chế
tác tinh vi hơn. Ngoài các vật dụng mang tính chất công năng được chế tác bằng đồng như
công cụ lao động: rìu, dao,… thì nghệ thuật điêu khắc, chạm khắc đóng vai trò quan trọng

9
và chiếm ưu thế lớn trong xã hội. Công cụ lao động không chỉ đơn thuần để sử dụng mà còn
là một thứ trang trí cho con người: ví dụ dao găm có trang trí ở cán hình người phụ nữ,…
Nhiều hiện vật bằng đồng được tìm thấy ở nhiều nới cho thấy các cư dân Việt cổ di cư
đến đâu họ để lại dấu tích nghệ thuật đến đó. Điển hình hơn cả là trống đồng, không chỉ gắn
với nhạc khí- một loại nhạc cụ dùng cho các nghi thức tôn giáo mà trống đồng với nhiều
kiểu dáng đã tạo nên một nền văn hóa Đông Sơn đa dạng và phong phú.

2. Sự phát triển của mỹ thuật thời đại Dựng nước


2.1. Nghệ thuật Kiến trúc
Đây là giai đoạn cực thịnh của nền văn hoá đồ đồng danh tiếng của dân tộc ta,
cũng là giai đoạn được phát hiện sớm nhất của thời kỳ dựng nước. Nói đến văn hoá
Đông Sơn là nói đến nền văn hoá thời đại sơ kỳ sắt có tính chất chung rộng, phân bố
trên toàn bộ lãnh thổ phía Bắc Việt nam mà ảnh hưởng của nó đã lan rộng khắp vùng
Đông Nam Á.
Di tích Đông Sơn, tên một làng bên bờ sông Mã, thuộc tỉnh Thanh Hoá, đã được
phát hiện và nghiên cứu từ năm 1924, do các học giả nước ngoài thực hiện. Lúc đó,
các nhà nghiên cứu đã tiến hành khai quật với quy mô lớn, khu di tích này và thu thập
ở đây rất nhiều di vật quý. Cùng với việc thu lượm hiện vật ở Đông Sơn, họ cũng đã
tìm thấy ở hầu khắp các tỉnh trên Miền Bắc Việt Nam một khối lượng phong phú các
đồ đồng đẹp, có giá trị. Ngỡ ngàng trước một nền văn minh được phát hiện, họ đã vội
vàng truy tìm nguồn gốc của chúng. Song những việc làm đó không đem lại kết quả có
tính thuyết phục. Bởi lẽ, lúc này những tư liệu vật chất đích thực để chứng minh cho
sự ra đời của văn hoá Đông Sơn chưa được phát hiện. Chính vì vậy luận điểm của họ
đưa ra mang nhiều tính chất suy diễn, gán ghép hoặc áp đặt từ bên ngoài. Những luận
điểm đó bao gồm:
- Nền văn hoá Đông Sơn rực rỡ của Việt Nam không thể xuất phát tự thân. Có
được như vật là do sự du nhập từ bên ngoài mà điểm trực tiếp là đại lục Trung Quốc.
- Nguồn gốc phương Tây của văn hoá Đông Sơn. Do ông nghiên cứu từng di
vật, từng nét hoa văn trang trí trên những đồ đồng ở các vùng phía Tây, phía Đông,
phía Bắc, … xa xôi của trái đất, đem so sánh với những di vật Đông Sơn như: kiếm,
dao găm, chữ thập, cúc, rìu có tay, búa chim có trang trí soắn ốc, dải thừng bện, mô típ
xoáy tròn, một số hoa văn trên đồ đồng Hallstatt và phong cách hình học Hy Lạp, …

10
Cuối cùng ông khẳng định rằng đã có một cuộc thiên di mang ảnh hưởng văn hoá từ
Phương Tây sang Phương Đông vào thiên niên kỷ I trước công nguyên.
Do hạn chế về mặt tư liệu và cả quan điểm lịch sử đã không tránh khỏi dẫn đến
những nhận định phiến diện, vội vàng về nguồn gốc văn hoá Đông Sơn. Nguồn gốc
bản địa của nền văn hoá Đông Sơn.
Các học giả của ta trước Cách mạng tháng Tám đã bác bỏ những thuyết vô lý
trên và chỉ dẫn những hình trang trí như trên mặt trống đồng Ngọc Lũ thì phong tục
đánh trống rõ ràng còn thấy ở vùng đồng bào Mường, một chi nhánh anh em người
Kinh, con cháu người Lạc Việt, chủ nhân của những chiếc trống đồng. Trung tâm các
địa điểm tìm được những vật điển hình của văn hoá Đông Sơn là miền Bắc Việt nam.
Những cuộc khai quật khảo cổ học để tìm hiểu rõ hơn lịch sử dân tộc và phát
hiện ở Thiệu Dương (Thanh Hoá), Vinh Quang (Hà Sơn Bình), Việt Khê (Hải Phòng),
Cổ Loa (Hà nội), … cho thấy một cách không chối cãi được sự phát triển liên tục của
nền văn hoá nội địa của tổ tiên ta cho đến giai đoạn Đông Sơn.
Đồ đồng Đông Sơn có đầy đủ hiện vật cho thấy sức sáng tạo phong phú của chủ
nhân nó để xây dựng một nền văn hoá độc đáo có ảnh hưởng rộng ở vùng Đông Nam
châu á. Một nền văn hoá kéo dài đến sáu bảy thế kỷ, có sự giao lưu, ảnh hưởng qua lại
với nhiều dân tộc khác.
Trong giai đoạn đầu của Đông Sơn, nghệ thuật hoàn toàn bản địa, có những hiện
vật tuyệt mỹ như trống đồng Ngọc Lũ của thời cực thịnh; giai đoạn sau chót có ảnh
hưởng ngoại lai về loại hình và đồ thường dùng, hoa văn trong một số hiện vật được
cách điệu cao độ thành những đường nét tượng trưng, mất tính chất hiện thực như buổi
đầu.
Giai đoạn Đông Sơn, đồ đá bị giảm hẳn vai trò của nó trong đời sống; đá chỉ
còn được dùng trong đồ trang sức như vòng khuyên đeo tai hay làm khuôn đúc đồng
cho một số công cụ như lưỡi rìu; truyền thống về kỹ thuật làm đá của các giai đoạn bị
mai một.
2.2. Nghệ thuật Điêu khắc
2.2.1. Đồ gốm
Tuy không chung một số phận như đồ đá, như nồi, vò, bát.. vẫn còn được dùng
trong sinh hoạt hàng ngày, nhưng gốm Đông Sơn thường làm bằng chất liệu thô, độ

11
nung cao, ta không còn thấy những hoa văn đẹp như gốm Phùng Nguyên; bởi vì tổ tiên
ta thời này để hết tâm trí mình vào việc sáng tạo và tô điểm đồ đồng tuyệt xảo làm
niềm tự hào dân tộc.
2.2.2. Đồ đồng
Công cụ sản xuất nông nghiệp: với một số di vật điển hình thời Đông Sơn, (lưỡi
cày (Thiệu Dương – Thanh Hoá), lưỡi cuốc, lưỡi thuổng, xẻng, nhíp, lưỡi rìu). Sự xuất
hiện của loại hình di vật này trong văn hoá Đông Sơn cần được xem như thời điểm
đánh dấu, mở đầu một thời kỳ mới: nền nông nghiệp dùng cày ra đời đã đưa xã hội
Đông Sơn bước vào văn minh. Những kỹ thuật và kiều dáng khoa học được quy định
bởi đối tượng tác động tức loại hình đất đai trồng cấy, ngoài những công dụng thực tế,
còn có sự chế tác khéo léo với một sắc thái riêng biệt nhưng chưa được chuyên hoá.
- Dụng cụ thủ công: phục vụ nhu cầu đời sống, đặc biệt là chiếc
rìu lưỡi xéo được tổ tiên ta phát triển ra nhiều dáng rất đặc biệt, có loại là công cụ thủ
công mà cũng có loại là vũ khí.
- Vũ khí chiến đấu và săn thú: do chưa có sự phân chia về cương
vực, và là ngã tư đường giao thông thuỷ bộ nên tổ tiên ta thường xuyên phải đối đầu
với những đội quân xâm lược từ phương Bắc, chiến tranh có tính chất thường xuyên.
Vì sự sống của dân tộc, vũ khí trở thành nhu cầu chủ yếu của thời tổ tiên từ thời Phùng
Nguyên đến Đông Sơn. Vũ khí Đông Sơn hoàn toàn bằng đồng thau, với quan niệm
độc đáo về hình dáng, thẩm mỹ. Bộ sưu tập vũ khí đồng thau Đông Sơn cũng cực kỳ
phong phú về số lượng, đa dạng về loại hình và có rất nhiều dạng độc đáo, rất Đông
Sơn, nổi lên như những tiêu chí để nhận biết cái riêng của nền văn hoá này. Căn cứ
vào chức năng có thể chia vũ khí Đông Sơn thành 2 khối:
- Đồ dùng sinh hoạt: Trong bộ sưu tập di vật Đông Sơn đồ sộ,
cùng với công cụ sản xuất, đồ trang sức và nghệ thuật đã được phát hiện và nghiên
cứu, còn một khối lượng lớn những đồ dùng sinh hoạt, phục vụ đời sống hàng ngày
của người xưa. Nó đã được phát hiện ở hầu hết các địa điểm thuộc văn hoá Đông Sơn.
Bao gồm: Thạp đồng, Thố đồng, Bình, lọ, vò, âu Chậu, Nồi, ấm. Ngoài những đồ đựng
và đồ đun nấu thì trong văn hoá Đông Sơn còn phát hiện không nhiều lắm những đồ
đựng như thùng đồng, đỉnh, lư đồng, bát, đĩa, muôi, thìa, …
- Nhạc khí

12
- Trống Đông Sơn: đỉnh cao là trống đồng Ngọc Lũ, với trang trí
rất phong phú, xuyên qua đó ta có thể khái niệm được đời sống của tổ tiên ta trong thời
xa xăm của lịch sử. Nó cao 0,63m, đường kính mặt trống là 0,86m. Trống có thể chia
làm 2 phần: Thân trống ở giữa hình trụ và phía chân loe ra, phần trên của trống phình
ra.
Trên mặt và tang trống có trang trí người, động vật, hoa văn hình học, ở giữa
mặt trống có hình mặt trời, xung quanh đó có 12 vòng tròn đồng tâm, vành 4, 6, 8 từ
ngoài vào trang trí hình người và vật, hươu và chim xen kẽ nhau ở vành thứ 6, vành 8
hoàn toàn chim ăn cá, đặc biệt là vành 4 đã kể lại một số nét về đời sống của tổ tiên ta
thời trước Công nguyên với những mái nhà hình vòm như mui thuyền, người đánh
chiêng, người giã gạo, người cầm vũ khí vừa đi vừa múa. ở tang trống, phần phình ra,
có 6 hình thuyền, có dải hoa văn xoắn ốc xen kẽ. Những hình trên mặt trống là những
hình khắc chìm, còn hình thuyền là hình khắc nổi.
- Chuông đồng: là nhạc khí tìm được nhiều nhất trong các làng cổ và khu mộ
táng Đông Sơn. Những hình chuông và người đánh chuông được khắc rõ nét trên mặt
trống đồng sớm như trống Ngọc Lũ và ở những vị trí trang trọng nhất.
- Đồ trang sức của văn hoá Đông Sơn có chất liệu đồng thau tương đối phong
phú về loại hình, chiếm số lượng nhiều, ta có thể xem những đồ vật sau:
- Vòng tay: có số lượng nhiều, loại hình đa dạng. Thấy nhiều ở Đồng Vừng,
Hoằng lý, …
- Vòng ống chân: chỉ tìm thấy ở Làng Vạc, được sắp xếp theo mộ táng.
- Khuyên tai đồng: tìm được không nhiều.
- Vòng đeo cổ: bên cạnh những đồ trang sức đeo cổ truyền thống như hạt chuỗi,
hạt cườm làm bằng đá và thuỷ tinh, còn tìm được các vòng đeo cổ, trông như những
chiếc nhẫn đồng.
- Khoá thắt lưng
- Khung chạm: là một tác phẩm nghệ thuật, tìm được duy nhất 1 chiếc ở địa
điểm Đông Sơn.
- Xà tích: là trang sức độc đáo của văn hoá Đông Sơn, tìm được 2 chiếc giống
nhau ở Làng Vạc

13
- Bùa đeo cổ: thấy bên cạnh những chiếc bùa bằng răng nanh động vật và bằng
đá (Gò De), có hình dấu phảy, mũi cong tròn, bên trong rỗng. Chiều dài nhất 3cm.
Về nghệ thuật của nền văn hoá Đông Sơn, tượng được tìm thấy không nhiều,
với dạng tượng người, tượng cóc, tượng chim, tượng voi, tượng hổ, rắn, chó, …, và
những con vật gần gũi với cuộc sống của người dân.
3. Nghệ thuật Trang trí
Có thể thấy trên các đồ gốm thời trước như văn vòng đồng tâm, vòng tròn có
tiếp tuyến, văn chữ S, văn thừng, văn răng lược, …, được trang trí quanh trống đồng
làm nổi nhân vật
Loại hình nhân vật như trên trống đồng Ngọc Lũ: qua diễn tả bằng những nét
đặc trưng có thể biết được người đó đang làm gì, chứng tỏ tác giả có sự nghiên cứu kỹ
thực tế.
Hoa văn trên đồ sắt: đồ sắt tuy số lượng ít so với đồ đồng, song loại hình đồ sắt
cũng khá phong phú và đa dạng. Rất có thể kỹ thuật luyện sắt của cư dân Đông Sơn
được bắt nguồn từ kỹ thuật luyện đồng và đúc đồng ở trình độ cao, song ngay từ đầu,
đồ sắt đã chiếm một vị trí rất quan trọng bởi tính ưu việt hơn các kim loại khác. Với
thuộc tính cứng hơn, sắc hơn rất nhiều lần, do vậy đồ sắt đã được cư dân Đông Sơn sử
dụng ngay vào việc chế tạo công cụ sản xuất, vũ khí và ở một số nơi còn dùng để chế
tạo đồ trang sức. Nhưng do nó là đồ dễ bị han rỉ, khó bảo vệ nên đồ sắt được phát hiện
thường gỉ nát, gãy, khó phát hiện ra hình dáng.
Ở giai đoạn sớm của văn hoá Đông Sơn ít những di vật sắt còn nguyên vẹn, đa
số là những mảnh vỡ, khó xác định công dụng. Đến giai đoạn muộn, có nhiều di vật
sắt với nhiều loại hình khác nhau ở nhiều địa phương, những sản phẩm sắt đã dần hoàn
hảo to, chắc, khoẻ, …, nhờ kỹ thuật đúc đảm bảo tính cứng, sắc, đạt yêu cầu thẩm mỹ
bền đẹp. Cho đến nay đa số các địa phương ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã phát hiện
được các di vật sắt thuộc văn hoá Đông Sơn. Tập trung nhiều nhất ở Thanh Hoá, Nghệ
An, Hà Tây, Hà Nội, … Dựa vào chức năng của di vật có thể phân đồ sắt trong văn
hoá Đông Sơn thành 4 nhóm chính, đó là: công cụ sản xuất, vũ khí, đồ trang sức và đồ
dùng sinh hoạt. Mỗi loại hình có những kiểu khác nhau, ngoài ra còn một khối lượng
lớn những xỉ, quặng, thỏi sắt và những di vật sắt không xác đinh rõ công dụng.

14
- Công cụ sản xuất: với thuộc tính cứng hơn, sắc hơn rất nhiều lần so với đồ
đồng, nên ngay từ lúc ra đời, đồ sắt đã được người thợ đúc tạo những công cụ sản xuất
khá hoàn chỉnh và hợp lý, bao gồm rìu, cuốc, liềm, dao, đục, dùi, ….
- Vũ khí: có lao (là loại vũ khí đánh xa, chức năng gần như giáo, song chế tạo
khác hơn), kiếm (là loại vũ khí đánh gần, chức năng gần như dao găm), dao găm, giáo
(nhìn giống giáo đồng nhưng thô hơn, có họng tra cán, mũi nhọn, lưỡi sắc), …
- Đồ dùng sinh hoạt: phát hiện không nhiều: nồi sắt, cối sắt;
- Đồ trang sức: rất ít, tính thẩm mỹ không cao, có vòng tay, vòng cổ, khuyên tai.
Đồ đá thuỷ tinh: Nó được hiện diện với một tư cách khác. Đồ thuỷ tinh nhân tạo
là thành tựu mới thuộc nửa cuối của văn hoá này. Cũng chính về mới xuất hiện giai
đoạn đầu (từ giữa thiên niên kỷ I trước công nguyên đến đầu công nguyên) nên đồ
thuỷ tinh được ưa chuộng. Chúng được dùng làm đồ trang sức mỹ nghệ quý, đẹp. Tuy
mới hiện diện nhưng đồ trang sức bằng thuỷ tinh đã thực sự có vị trí trong cuộc sống,
nghề thuỷ tinh cũng đã thực sự phát triển và trở thành một mảng quan trọng trong
mảng thủ công nghiệp mỹ nghệ buổi đầu dựng nước. Đồ đá và đồ thuỷ tinh trong văn
hoá Đông Sơn là hai loại hình chất liệu khác nhau. Và, chúng cũng có những đặc trưng
riêng. Trong khi các hiện vật đá càng ngày càng suy giảm về mặt số lượng và phần nào
cả về loại hình thì đồ thuỷ tinh, tuy mới hiện diện song đã khá hấp dẫn và phong phú
về loại hình di vật để ngày càng phát triển và hoàn thiện ở những giai đoạn kế tiếp
Đồ đá giai đoạn này có sự giảm sút. Sự giảm sút đó không biểu hiện sự xuống
dốc của kỹ thuật và càng không biểu hiện sự suy thoái của văn minh vật chất thời bấy
giờ mà ngược lại, nó gián tiếp phản ánh một cuộc cách mạng mới của đời sống đương
thời. Như vậy qua một số di tích, chúng ta thấy rằng sang giai đoạn văn hoá Đông Sơn,
đồ đá giảm sút ở nhóm công cụ sản xuất theo ý nghĩa cũ (trừ loại hình bàn mài) và
không còn tồn tại ở nhóm vũ khí. Đồ trang sức bằng đá cơ bản vẫn chỉ là những loại
hình đã thấy ở các giai đoạn trước, sự gia công đồ trang sức đã không còn tỉ mỉ, công
phu như trước. Người Đông Sơn đã ở đỉnh cao của kỹ thuật đúc đồng và kỹ nghệ rèn
sắt đang dần phát triển. Chính vì yếu tố này, đồ đá dần dần mất đi vị trí của nó trong
xây dựng, tuy nhiên điều đó không có nghĩa là đồ đá chỉ tồn tại một cách ngẫu nhiên
do lưu giữ từ các giai đoạn trước. Người Đông Sơn vẫn có những trung tâm chuyên
chế tác đồ trang sức bằng đá quý như cụm công xưởng Bái Tê, Bái Khuýnh, Cồn Cấu,
Mả Chùa (xã Đông Lĩnh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá)
15
Đồ thuỷ tinh từ buổi khai sinh nhân tạo cũng đã phản ánh rõ, đây là một chất
liệu được quý chuộng, loại hình di vật bao gồm duy nhất các mỹ phẩm được chế tạo
dùng làm đồ trang sức, vòng tay, khuyên tai và hạt chuỗi. Kích thước có phần thanh
mảnh, nhẹ và đẹp hơn so với đồ đá tự nhiên, song về kiểu dáng nó lại được sao chép
lại của đồ đá. Qua nghiên cứu cho thấy đồ thủy tinh xuất hiện ở Việt nam vào giai
đoạn sơ kỳ thời đại sắt. Những mẩu thủy tinh ở làng Vạc, mới được phát hiện và phân
tích đã cho hay: đồ trang sức thủy tinh được sản xuất tại chỗ.
Đồ gốm và loại khác: Nghề chế tác đồ gốm là một trong những nghề thủ công
có một vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của người tiền sử. Đồ gốm được phát
minh ra vào thời đại đồ đá mới, nó dần trở thành những vật dùng rất thông dụng. Nó
xuất phát từ nhu cầu thiết yếu của con người trong sản xuất và đặc biệt là trong sinh
hoạt. Mặt khác bản thân đồ gốm được chế tác từ đất sét là thứ nguyên liệu dễ kiếm và
rẻ tiền. Những hiện vật bằng gốm phản ánh một sự tồn tại khách quan tiêu biểu của
văn hoá Đông Sơn. Trong hàng trăm di tích thuộc văn hoá Đông Sơn đã phát hiện và
nghiên cứu, chúng ta thấy chỉ có vài chục di tích tìm được những đồ gốm còn nguyên
vẹn, với sự phong phú, đa dạng về loại hình, phần lớn đều là những di tích thuộc loại
hình mộ táng. Đặc biệt là sự phát triển của các loại hình bình vò ở lưu vực sông Mã,
sông Chu, bình hình con tiện là loại hình đặc trưng cho đồ gốm ở khu vực này.
Đến giai đoạn Đông Sơn, đặc biệt là thời kỳ đồ sắt ra đời và phát triển với sự
hoàn thiện của kỹ thuật luyện sắt, người Đông Sơn đã đạt những thành tựu mới trong
khai thác, sử dụng đồ gỗ, chúng dùng để chế tạo ra công cụ sản xuất, vũ khí, đồ dùng
sinh hoạt.
Một nền văn hoá như Đông Sơn nhất định phải có ảnh hưởng lâu dài, điều đó
được chứng minh qua kỹ thuật làm đồ đồng vẫn được ông cha ta phát triển cho đến
ngày dân tộc đứng lên chống quân phong kiến xâm lược. Xưởng chế tạo ra tên đồng và
hàng vạn mũi tên làm rất khéo phát hiện ở Cổ Loa đã chứng minh truyền thống ấy.
Tuy nhiên, một nền văn hoá đã có gốc rễ ăn sâu trong nhân dân thì không một lực
lượng chính trị nào, hay một biến cố nào của lịch sử tiêu diệt nó hoàn toàn được, bởi
thế, sau 1000 năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, các triều đại phong kiến ta sau khi
giải phóng đất nước vẫn xem trống đồng là một nhạc khí quan trọng về mặt lễ giáo.

16
CHƯƠNG II: MỸ THUẬT VIỆT NAM THỜI KỲ PHONG KIẾN
Mở đầu

Khoảng đầu thế kỷ III trước Công Nguyên, nhà nước Âu Lạc ra đời. Đó là sự
hợp nhất hai bộ tộc Lạc Việt à Tây Âu, đứng đầu là An Dương Vương. Nước Âu Lạc
tồn tại trong khoảng từ năm 208 đến năm 179 trước Công Nguyên (TCN). Đây là hình
thức phát triển cao hơn của nhà nước Văn Lang. Về nhiều mặt không có sự thay đổi
lớn, mà là sự tiếp tục phát triển trên cơ sở những thành tựu của giai đoạn trước. Năm
179 TCN, Nhà nước Âu Lạc bị nhà Triệu xâm chiếm, mở đầu cho giai đoạn mất tự do
độc lập của dân tộc ta: Thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc. Bắt đầu từ nhà Triệu
đến nhà Hán, Ngô, Ngụy, Tấn, Tống, Tề, Lương, Tùy Đường liên tục xâm lược nước
ta. Thời kỳ này kéo dài hơn 1000 năm từ 179 TCN đến năm 905. Đây là một giai đoạn
đau thương của dân tộc ta. Song cũng là thời kỳ dân tộc ta đấu tranh kiên quyết, bền bỉ
để giữ gìn bảo vệ nền độc lập dân chủ, chống lại sự đồng hóa của phương Bắc và chiến
thắng truyền thống văn hóa từ nghìn xưa vẫn được giữ gìn. Không những thế trong quá
trình phát triển, dân tộc ta còn biết chọn lọc, tiếp thu tinh hoa văn hóa bên ngoài song
phù hợp với tâm lý người Việt, làm phong phú thêm cho bản sắc văn hóa dân tộc. Đạo
Nho, đạo Phật được truyền bá vào Việt Nam, phần nào ảnh hưởng đến văn hóa bản địa
dân tộc. Tuy vậy, về cơ bản nhà nước Âu Lạc vẫn giữ được những phong tục, tập
quán, lễ nghi, tín ngưỡng truyền thống. Vì vậy về nền văn hóa nghệ thuật vẫn duy trì
và phát triển nền văn hóa dân tộc, trên cơ sở của thời Văn Lang – Âu Lạc.
Từ thế kỷ X, dân tộc ta bước vào thời đại phong kiến dân tộc độc lập. Thời đại
đó bắt đầu từ nhà Khúc đến nhà Nguyễn. Dấu mốc kết thúc là lúc triều đình Huế ký
hiệp ước đầu hàng Pháp. Đó cũng là thời điểm mở đầu thời kỳ Pháp thuộc.
Thời kỳ phong kiến dân tộc tự chủ kéo dài từ năm 905 đến năm 1885 và trải qua
nhiều triều đại phong kiến như: Khúc – Ngô- Đinh – Tiền Lê – Lý – Trần – Hậu Lê-
Tây Sơn và Nguyễn. Ở giai đoạn đầu của thời đại phong kiến dân tộc ta vẫn phải liên
tục chống giặc ngoại xâm, do đó phần nào ảnh hưởng đến sự phát triển mỹ thuật. Hơn
nữa do điều kiện khí hậu nóng ẩm cộng với sự tàn phá của chiến tranh chúng ta không

17
giữ được nhiều các tác phẩm mỹ thuật. Mặc dù vậy ở thời kỳ này, trong lịch sử vẫn ghi
nhận nhiều công trình kiến trúc có giá trị của dân tộc như thành Hoa Lư (Ninh Bình),
chùa Bích gắn liền với Bích Động (Nam thiên đệ tam động), đền thờ, lăng mộ của Vua
Đinh, Vua Lê. Các công trình này được xây dựng và được sắp xếp thành một tổng thể
hài hòa, phù hợp với thuyết Phong thủy, tạo nên cảnh quan độc đáo cho các di tích.
Thiên nhiên hùng vĩ của Hoa Lư cũng góp phần tạo ra vẻ đẹp cho các công trình kiến
trúc cố đô Hoa Lư. Ngày nay, đến đây chúng ta vẫn cảm nhận được vẻ đẹp đó, mặc dù
các di tích cổ đã qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa. Tuy vậy, để đáp ứng mục tiêu và
phù hợp với chương trình mỹ thuật thời đại phong kiến dân tộc độc lập, chúng tôi xin
được bắt đầu từ mỹ thuật thời Lý (1009-1225) và kết thúc vào thời Nguyễn (1802-
1885)

18
MỸ THUẬT THỜI LÝ

1. Khái quát văn hóa, xã hội thời Lý


Năm 1010 Lý Công Uẩn dời đô ra “nơi trung tâm” và đặt tên đế đô là Thăng
Long – hình ảnh “rồng bay lên” đẹp đẽ và kiêu hãnh - đã tượng trưng cho khí thế vươn
mình của cả dân tộc. Tên nước được đặt là Đại Việt với ý so sánh ngang hàng và bình
đẳng với Đại Đường, Đại Tống ở phương Bắc. Lòng tự hào dân tộc ấy đã biểu hiện
sức mạnh của một dân tộc có chủ quyền, bình đẳng với mọi dân tộc khác tên thế giới.
Nó nói lên sức sống của một dân tộc đã làm chủ một phương trời và có một nền văn
hoá bản địa lâu đời do chính mình sáng tạo ra.
Trong quá trình hình thành Nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, nhà Lý
đã xây dựng được một nền tảng vững chắc và toàn diện về mọi mặt. Một chính quyền
tập trung và có tổ chức là cần thiết để phát triển nông nghiệp, huy động được số lượng
nhân công lớn cho các công trình xây dựng. Công thương nghiệp và giao thông mở
mang, Thăng Long phát triển mạnh, nhân dân có phần no đủ sung túc. Mặt khác, nước
ta ở trên ngã ba đường tiếp xúc và giao lưu với các luồng văn hoá của nhiều dân tộc
khác nhau trên đất liền và hải đảo các vùng Nam á. Phật giáo đã du nhập vào nước ta
và nó nhanh chóng trở thành quốc giáo nên các công trình nghệ thuật được xây dựng
trong giai đoạn này chủ yếu là phục vụ Phật giáo. Đạo Phật thời Lý chẳng những
không tách khỏi việc đời mà còn gắn chặt với đời sống tinh thần của cả dân tộc.

2. Sự phát triển của các loại hình nghệ thuật


2.1. Nghệ thuật kiến trúc
Thăng Long được chia làm 2 khu vực riêng biệt: Hoàng thành (là nơi vua ở và
triều đình làm việc) và Kinh thành (bao bọc Hoàng thành, là nơi quân đội và nhân dân
ở); phía giữa Hoàng thành còn có Cấm thành (là nơi vua, hoàng hậu, cung tần mỹ nữ
ở…) Trải qua suốt hai thế kỷ tồn tại của triều Lý, kinh đô Thăng Long được mở mang,
càng ngày càng rộng. Các cung điện, lầu gác, đình tạ, chùa tháp, kho trạm, cầu cống,
chợ búa, … được dựng lên và tu bổ liên tục. Hầu như không năm nào là không có
chuyện tu tạo. Các công trình này, phần lớn là những cơ sở vật chất nhằm phục vụ cho
mọi sinh hoạt của bộ máy Nhà nước phong kiến. Khu kinh thành rộng lớn hơn Hoàng
thành nên được xây dựng rất nhiều. ở đây, ngoài các khu nhà cửa của nhân dân, còn là
khu tập trung những dinh thự của các tầng lớp quan lại, những lầu gác của kẻ giàu có
và cả doanh trại của quân đội.
19
Bao quanh Kinh thành là thành Đại La cao rộng, bằng đất, có nhiều cửa thông ra
ngoài và đặc biệt, phía đông được xây dựng bằng gạch để có điều kiện chống chọi với
nước sông Hồng trong những ngày lũ lụt. Ngoài Thăng Long ra, những kiến trúc chủ
yếu như dinh thự, điện đường thuộc thái ấp của các công hầu, khanh tướng cũng được
xây dựng ở một số địa phương. Các đơn vị hành chính như châu, quận, trấn, phủ cũng
được Nhà nước cho xây nhà, đắp luỹ để trấn giữ và làm các kho chứa. Ngoài ra, rải rác
các địa phương, triều đình còn cho xây dựng nhiều hành cung để nhà vua du ngoạn,
nghỉ chơi hoặc tổ chức lễ.
Thời Lý, Phật giáo phát triển mạnh gần như chiếm vị trí độc tôn trong tín
ngưỡng của quần chúng và của giai cấp thống trị, với tư tưởng từ bi, bác ái và ôn hoà
của đạo Phật đã dễ dàng chinh phục và dễ gặp gỡ được tấm lòng của người Đại Việt.
Giai cấp thống trị dựa vào chủ trương nhập thế tích cực của phái Thiền Tông để trị
nước. Đạo Phật được phát triển rộng rãi đến mức sử gia Lê Văn Hưu nói: “Nhân dân
quá nửa làm sãi, trong nước chỗ nào cũng có chùa”.
Sự bành trướng và địa vị của đạo Phật đã dẫn đến một nhu cầu kiến trúc to lớn:
đó là việc xây chùa tháp. Nhiều chùa tháp có tiếng được dựng lên trong giai đoạn này
là chùa Một cột, Báo Thiên, Thắng Nghiêm, Chân Giáo, …, ở địa phương có chùa
Giạm, Chương Sơn (ý Yên – Nam Hà), … những chùa này đều do triều đình đứng ra
xây dựng. Nhưng vai trò quan trọng hơn cả là sự góp công, góp của của nhân dân. Các
chùa tháp dựng lên để làm nơi thờ cúng Phật, gửi gắm lòng tin, chỗ dựa tinh thần, cầu
mong sự che trở của đấng thần linh.
Kiến trúc thời Lý chủ yếu là kiến trúc Phật giáo song nhân dân ta vốn có một
lòng yêu nước, yêu cuộc sống độc lập, tự chủ cho nên cũng rất có ý thức về truyền
thống, uống nước nhớ nguồn, giàu lòng tôn kính đối với những vị anh hùng hào kiệt
của dân tộc nên đã dựng nên các đền, miếu thờ để bày tỏ tấm lòng của kẻ hậu thế. Ví
dụ: Trấn Vũ (Quán Thánh) Voi Phục, …
Kiến trúc thời Lý được phát triển mạnh chính vì nó còn dựa vào một nền kinh tế
khá thịnh vượng. Các vua Lý đã chú ý phát triển kinh tế làm cơ sở giàu mạnh cho đất
nước. Nền nông nghiệp đã được hết sức chú trọng. Đê điều đã được bồi đắp tu sửa,
sông hồ, kênh rạch được nạo vét hoặc đào thêm để có nước tưới và tiện bề giao thông.
Tình hình công thương nghiệp cũng có những bước lớn phát triển mới. Các
nghề thủ công phát triển khá đều như in, chạm khắc, đúc đồng, nung gạch ngói, gốm,
20
làm vôi, … Ví dụ: Phần trên của tháp Báo Thiên được đúc bằng đồng, chùa Phật tích,
chùa Giạm.. có khá nhiều viên gạch với độ nung rất già, có khắc hoa văn tinh xảo,
phản ánh một trình độ kỹ thuật điêu luyện của các thợ xưa. Giao thông đặc biệt phát
triển, việc buôn bán trong nước ngoài nước đã được chú trọng, cho thấy kinh tế Đại
Việt khá phát triển là cơ sở vật chất vững chắc cho cha ông chúng ta có điều kiện xây
dựng được những công trình đồ sộ. Cũng bởi tiềm lực kinh tế giàu mạnh này là một
trong những lý do tạo nên tình hình kiến trúc thời Lý phát triển mạnh hơn thời Trần.
Kiến trúc thời Lý có quy mô to lớn.
Sau khi rời đô về Thăng Long, các nhà kiến trúc đã xây ở đây một kinh thành
rộng lớn, các cung điện lầu gác này thường được xây thành từng cụm quây quần với
nhau tạo nên một quần thể kiến trúc trông rất bề thế. Lối xây dựng này đòi hỏi các kiến
trúc sư phải có tầm nhìn rộng, sức khái quát và một trình độ thiết kế kỹ thuật vững
vàng. Và về mặt nghệ thuật, nó tạo nên được cảm giác tráng lệ huy hoàng, tránh được
sự cô độc, trơ trọi.
Kiến trúc tôn giáo cũng phát triển mạnh, các chùa tháp thời này nói chung đều
to cao và lớn rộng như chùa Giạm, chùa Phật Tích, Chùa Một Cột (được dựng ở kinh
thành Thăng Long vào năm 1049), các tháp đá như tháp Chương Sơn, tháp Sùng Thiện
Diên Linh (Duy Tiên – Hà Nam), tháp Báo Thiên (Hà nội). Kích thước cao rộng của
các chùa tháp thời này ngoài việc tạo nên một sự lộng lẫy bề thế, đẹp đẽ cho kiến trúc,
ngoài việc phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt vật chất (làm nơi thờ cúng) của đạo Phật,
còn có tác dụng củng cố tinh thần nhân dân. Những điện đường đồ sộ, những tháp cao
chọc trời đã gây nên không khí thiêng liêng, trầm mặc ở cửa Phật và thu hút được nhân
tâm con người.
Một đặc điểm dễ nhận thấy là các kiến trúc Phật giáo thời Lý hầu hết đều được
xây dựng trên các triền núi, lấy núi làm chỗ dựa. Điều này cũng xuất phát từ ý nghĩa
của Phật giáo vào kiến trúc là địa bàn đồi núi có những điều kiện phù hợp với chức
năng thờ cúng chùa tháp. Núi đồi cao hun hút, với những cây cối um tùm, đá bày lặng
lẽ dễ gây được cảm giác trang nghiêm, tĩnh mịch, kính cẩn. Những núi ở đây lại là
những núi mọc lên giữa đồng bằng nên nó càng giúp cho các kiến trúc Phật giáo này
mang một giá trị thực tiễn là chinh phục được quần chúng cả một vùng rộng lớn.

21
Không những thế, hầu hết địa hình các chùa tháp thời này đều gắn bó với sông, nước,
hồ, ao. Bởi sông có giá trị thực tế ở chỗ ven bờ của nó là nơi sinh sống tốt nhất của con
người nên mật độ dân cư đông. Dưới góc độ nghệ thuật thì có lẽ ông cha ta đã thấm
nhuần chân lý “sơn thuỷ hữu tình” nên đã tìm kiếm những địa thế có núi có sông mà
xây dựng. Việc tìm kiếm những môi trường đẹp cho kiến trúc này đã được các đời sau
ít nhiều tiếp thu và phát huy.
Kiến trúc thời Lý còn đẹp ở ngay trong sự sắp xếp bên trong của nó. Đó là
những bố cục cân xứng, hài hoà làm cho môi trường và kiến trúc gắn bó thành một
khối thống nhất.
Bố cục mặt bằng của các kiến trúc thời này lấy sự cân xứng, đăng đối làm
phương thức chủ đạo.
Bất kỳ một kiến trúc nào hay một quần thể kiến trúc nào, chúng ta cũng thấy
đều được bố trí, cân bằng, tương xứng nhau. Điều đáng chú ý là sự đăng đối thường
quy tụ về một tâm điểm ở giữa, khác hẳn lối đăng đối theo một trục dài của các kiến
trúc về sau. Trong một quần thể kiến trúc, người xây dựng thường dựa vào kiến trúc
trọng tâm, lấy đó làm nhân tố để quy chiếu tất cả các kiến trúc khác lại thành một khối
chung tương xứng. Ví dụ: chùa Linh Xứng, tháp Sùng Thiện Diên Linh, … Lối bố cục
quy tụ về một điểm trung tâm này có tác dụng phân biệt được những kiến trúc chính
phụ, hay nói đúng hơn, làm nổi bật kiến trúc trọng tâm tập trung chú ý của người ta
vào đó, ví dụ: chùa Một Cột, … nếu nghiên cứu kỹ, ta vẫn nhận ra có một trục chính
dọc theo công trình, từ cổng vào như chùa Giạm, chùa Phật Tích, …. Ngoài ra cũng có
những cụm kiến trúc, do địa thế đặc biệt, nên bố cục mặt bằng của nó vừa quy tụ theo
tâm điểm nhưng cũng vừa đăng đối theo một trục dài.
Một đặc điểm nữa của bố cục kiến trúc thời Lý là cung điện vua chúa hay chùa
tháp Phật giáo hầu như quay về hướng Nam, đây là một hướng rất phù hợp với khí hậu
của xứ nhiệt đới nước ta. Điều này một lần nữa nói lên tính thực tế của các nhà kiến
trúc thời Lý.
Ngoài những bố trí mặt bằng theo hình chữ nhật thông thường, thời này còn có
những nhà làm theo kiểu hình bát giác như điện Thiên Khánh, điện Hồ Thiên, … hoặc
cũng có những cung tứ giác như cung ở chùa tháp Sùng Thiện Diên Linh. Bên cạnh
những nhà có “mái hiên cong cong như trĩ xoè cánh, ngói lợp lớp lớp như vẩy rồng”
(chùa Hướng Nghiêm) cũng có những nhà “khám nhọn vuông” (chùa tháp Sùng Thiện
22
Diên Linh) hoặc “gác đối vẽ phượng sáng sao Ngưu sao Đẩu, Lầu núi tay rồng với tới
sao trời” (chùa Phật Tích). Sự đa dạng, phong phú này gây nên không khí vui tươi, rộn
ràng cho toàn bộ công trình xây dựng. Chúng ta còn gặp một loại hình dáng được sáng
tác theo hình tượng hoa sen nhà Phật. Đó là loại hình dáng có cấu trúc dùng một cột
hình hoa sen nổi lên trên mặt nước khá độc đáo. Với nhiều chức năng khác nhau,
nhưng các kiến trúc có hình dáng cấu trúc này tạo nên một hình tượng hoa sen thành
công và tiêu biểu cho nền kiến trúc thời Lý. Nó phản ánh được tài nghệ khéo léo, trí
thông minh, sức tưởng tượng của cha ông chúng ta.
Hình dáng phong phú nhưng cấu trúc của các kiến trúc thời Lý vẫn đảm bảo
tính bền vững. Ví như nền bó đá ở chùa Phật Tích và chùa Giạm còn lại ngày nay là cả
một công trình tính toán cẩn thận. Sau khi đã bạt sườn núi thành các lớp nền, để chống
lại với sự xói mòn rất ghê gớm của những cơn giông nhiệt đới, những người xây dựng
đã cho bó một lớp đá ngoài. Nhưng các lớp đá ghép này không làm theo lối đứng
thành vai, mà đã biết ứng dụng lối choãi chân đê, với độ chếch khoảng 65 0 – 700. Nhờ
vậy nên các lớp nền cho đến ngày nay, đã ngót 9 thế kỷ mà vẫn còn khá nguyên vẹn.
Đáng chú ý là việc nghiên cứu đánh giá tính năng của từng loại chất liệu để sử dụng
cho thích hợp. Những tảng đá xanh có độ chịu nén cao, lại nặng nề nên được dùng
ghép ở dưới, còn ở các phần trên đòi hỏi phải nhẹ, người ta lại sử dụng các gạch mỏng,
đất nung, thậm chí còn dùng cả đồng mỏng (tháp Báo Thiên).
Tượng tròn phục vụ trong các kiến trúc thời này có 2 loại :
- Bản thân nó mang thuần tuý tính chất trang trí như tượng sấu đá trên thành bậc
(chùa Hương Lãng, Bà Tấm) các tượng chim thần trên các con sơn (tháp Chương
Sơn),…
- Trình bày mang ý nghĩa nhất định như tượng Kim Cương trấn giữ trên các
tháp (Sùng Thiện Diên Linh _ Báo Thiên), sư tử đội đài sen thờ Phật (Hương Lãng),

Các phù điêu, hoa văn và tranh vẽ trang trí rất phong phú, đề tài nhiều loại với
mục đích là làm đẹp nên nó không phân biệt giữa kiến trúc cung đình hay tôn giáo vì
chúng đều được chạm rồng, hạc, thần tiên, hoa văn dây cúc mềm mại, hoa văn cánh
sen uốn lượn và những hoa văn sóng nước, vân mây, … được khắc trên vách tường,
thành bậc cửa, gạch lát nền, kèo cột, … làm tăng giá trị của kiến trúc lên rất nhiều.
Một số còn được trang trí thành một bức tranh hoàn chỉnh (chùa Sùng Nghiêm Diên
23
Thánh). Đáng chú ý là trang trí bằng những “lời ghi đẹp đẽ đều khắc vào bên cạnh toà
sen, mở tấm lòng trong trắng soi sáng mãi đời sau” mang tính chất giáo dục như kiểu
câu đối.
2.2 Nghệ thuật điêu khắc thời Lý
2.2.1. Tượng Adiđà - Chùa Phật tích
Sự xuất hiện đặc biệt phong phú của các Chùa, Tháp cho phép ta nghĩ rằng có
một số tượng không nhỏ các tác phẩm tượng Phật cũng ra đời vào thời kỳ này như pho
tượng Hộ pháp tìm thấy ở chùa Phật Tích và mấy pho Kim cương ở Phật Tích và ở
chùa Long Đọi. Ngoài ra còn có những tượng thú vật. Phần lớn đó là tượng những con
vật có thực, rất quen thuộc và tìm thấy ngay ở bản địa như: trâu, ngựa, voi, … Đặc biệt
lại có tượng con vật thần tính nửa người nửa chim tìm thấy ở chùa Phật Tích và Long
Đọi.
Để làm được những pho tượng này, người ta đã sử dụng nhiều loại chất liệu. Đá
có lẽ được dùng nhiều bởi nó thích nghi được với tính chất bền vững và quy mô to lớn
của những công trình kiến trúc. Cũng có một số tượng bằng đất nung là những bộ phận
trang trí nho nhỏ trong kiến trúc. Một chất liệu khá phổ biến nữa Tượng Adiđà - Chùa
Phật tích

Adida- chùa Phật Tích

Tượng A di đà được tạc khá lớn, riêng tượng cao 1m78, kể cả bệ cao 2m77, có
diện mạo bất biến của các tượng A di đà xưa nay. Đó là kiểu ngồi thuyết pháp, hai
chân xếp bằng, hai tay để ngửa trong lòng, mình mặc áo pháp. Tượng toát lên vẻ thanh
tú, dịu dàng, lại có vẻ vừa trầm tư vừa rạng rỡ. Sự lưu loát trong bút phát chứng tỏ rõ
ràng một sự khổ công tìm tòi và rèn luyện. Pho tượng được đặt trên một cái bệ 8 cạnh,
hình tháp, trên cũng có đài sen loe rộng. Hình trang trí trên bệ và đài sen ta thấy nó
được tạo vào một thời kỳ muộn hơn. Còn các bệ được trang trí dày đặc những hình
rồng hình hoa dây và hình sóng nước với lối thể hiện tinh tế điển hình của thời Lý.
Giữa các bệ và pho tượng có một sự hoà hợp tuyệt đẹp bởi chúng thống nhất trong một
phong cách tạo hình mềm mại, thanh nhã. Đây là pho tượng Phật duy nhất còn lại gần
như nguyên vẹn của nền nghệ thuật thời Lý và đây cũng là một trong những mẫu mực
điển hình về cái đẹp của nghệ thuật tượng nước ta.
2.2.2.Tượng kim cương - Chùa Phật tích
24
Hiện nay tượng không còn được nguyên vẹn vì mất đầu, mất hai chân, mất
gươm và nhiều bộ phận khác trên thân thể cũng bị sứt mẻ. Nhưng qua đối chiếu có thể
thấy tượng cao khoảng 1m60, đứng chống gươm trước bụng, phục sức theo lối võ
quan, lá chắn trước áo được trang trí tỉ mỉ bằng những hình hoa, hình xoắn. Trên toàn
thân có rải rác những bông hoa nhỏ nhiều cánh rất quen thuộc, cách xử lý nếp áo giống
như tượng A di đà, cán gươm có trang trí hình hoa cúc dây, bộ mặt được diễn tả theo
cái diện mạo có vẻ hung tợn thường gán cho các võ quan, bằng cách nhấn mạnh sự rõ
nét của các bắp thịt, … toát lên diện mạo hùng dũng cần phải có của một vị võ quan.
2.2.3.Tượng nửa người nửa chim – Chùa Phật tích
Là vật trang trí trên đầu cột, kích thước nhỏ, chỉ cao chừng 40cm, tượng thể
hiện một nhân vật thần tính, nửa trên hình người, hai tay bưng cái trống đeo ngang
trước ngực, nửa dưới hình chim có cánh, chân có móng và đuôi nhiều lông, nhìn
nghiêng có thể nhận ra tạo hình của nó gần như nửa hình lá đề. Nó mang bộ mặt trầm
tư, vừa có vẻ đẹp dịu dàng và rạng rỡ. Hoạ tiết trang trí quen thuộc thời Lý đó là đoá
hoa nhỏ nhiều cánh kết thành dải trên đầu như vòng vương miện rực rỡ.
2.2.4.Tượng Sư tử chùa Hương Lãng
Chất hiện thực trong hình tượng này là vẻ dũng mãnh của vị chúa sơn lâm. Hiệu
quả được diễn tả được tăng lên ở mũi căng tròn, mắt lồi, trán cao ngạo nghễ … Tuy
nhiên chất mềm mại vẫn toát lên qua nếp nhăn thanh nhã, đều đặn trên mũi, hoa văn
rất mực tinh tế, … bên cạnh đó tạo hình tưởng như rất không cân đối: chân bé hơn so
với đầu to. Phía sau mông thể hiện căng tròn và trang trí dầy đặc những hoa văn.
Chòm đuôi lông và tấm lá chắn phủ trên thân tạo hình thành ba vòng xoắn ốc lớn lật
qua, lật lại rất cân xứng.
Những dây hoa cúc chen nhau liên tiếp làm nền. Những hình trang trí này khéo
léo tinh vi đến mức khiến ta phải ngạc nhiên. Chúng nổi lên dầy đặc mà vẫn có vẻ
mong manh, nuột nà như không phải trên đá mà là trên đồ kim hoàn.
2.3. Nghệ thuật Hội hoạ thời Lý
Tiếp tục truyền thống của cư dân thời vua Hùng “lấy mực vẽ hình thuỷ quái ở
mình”, quân đội và dân tự do thời Lý đều xăm hình rồng vào ngực và chân. Đồng thời,
thời Lý còn vẽ lên những công trình kiến trúc, và coi nó như một bộ phận không thể
thiếu của cái toàn thể.

25
Một trong những ngôi chùa dựng khá sớm ở thời Lý là chùa Một Cột, cái đẹp
của chùa không chỉ ở kiểu dáng bông sen khổng lồ vọt lên giữa hai lần hồ Linh Chiểu
và Bích Trì mà tất cả còn được làm tôn lên bởi những hình vẽ ở hành lang chạy vòng
quanh bờ của hồ trong. Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh còn để lại văn bia khắc ngay
khi dựng xong chùa đã tả lại rất đầy đủ quá trình xây dựng và quy mô to lớn của chùa,

Trong giai đoạn cực thịnh của đạo Phật của nước ta, chùa tháp mọc lên nhiều
nên tranh Phật cũng được vẽ nhiều.
Rõ hơn cả là những hình trang trí được khắc rạch trên mặt bằng của đá (tượng A
di đà có chạm khắc hình vẽ sóng nước, hoa, lá, người và rồng, mây, hoa cúc, …; tấm
bia khổng lồ Sùng Thiện Diên Linh có trán, diềm và cạnh đều lấy hình rồng làm đối
tượng trang trí), đặc biệt là trên gốm tráng men thời Lý đó người ta dùng nét và kết
hợp nét với tô màu trang trí cho gốm hoa nâu, nó thường tái hiện thiên nhiên với các
hình quen thuộc như hoa lá, sóng nước, một số sinh vật, đôi khi cả người, hoa sen,
mẫu đơn, ngọc lan, … để viền vòng quanh đồ gốm. Trang trí sóng nước dùng ở phần
dưới của thạp. Sinh động nhất là hình các con vật như chim công và chim thước, voi
và hổ, tôm, cá, …
Mỹ thuật thời Lý mang tính lý tưởng, phục vụ Phật giáo và đậm tính chất nhân
văn. Kiến trúc có quy mô lớn, điêu khắc Phật giáo phát triển mạnh. Nghệ thuật trang
trí chủ yếu thể hiện trên Gốm, Hội họa chỉ căn cứ trên các sử cứ, thi ca.
Với khả năng phản ánh thực trạng và nâng thực trạng lên mức nghệ thuật, Hội
hoạ thời Lý đã nuôi dưỡng trong lòng người dân Việt tình cảm thiêng liêng về “Nam
quốc sơn hà” gấm vóc bằng hình ảnh những em bé, hoa, lá, sông nước, sản vật của đất
nước. Hội hoạ lại tô điểm cho các chùa tháp và cung điện bằng những hình vẽ trang trí
Rồng, Hạc, Hoa lá, và Tên nữ, …
Những bức tranh về thế giới nhà Phật, đã phục vụ đắc lực cho việc tuyên truyền
tư tưởng nhân nghĩa, vô lượng vô biên của Phật giáo. Hội hoạ thời Lý còn giáo dục
thẩm mỹ bằng phản ánh thiên nhiên vô cùng phong phú của Đại Việt trên đá và vẽ trên
gốm bằng nét và màu.
Cảnh sắc đất nước qua tay nghệ sĩ thời Lý không còn là trạng thái tự nhiên mà
được nghệ thuật hoá, tái tạo bằng những nét vẽ điển hình. Nhìn 2 chiến sĩ đang tập
luyện trên thành thạp gốm Thanh Hoá, ta thấy cả bầu trời cao rộng, sông nước xôn
26
xao, hoa lá tươi tốt, … Phản ánh thiên nhiên sau khi đã nâng nó lên tầm nghệ thuật Hội
hoạ thời Lý đã làm ta nức lòng với cảnh sắc đất nước, tăng lòng tự hào về quê hương
và thêm yêu tổ quốc.
Tên nước Đại Việt đã không phải sự tự hào của riêng dòng họ nắm chính quyền
mà là niềm kiêu hãnh của mọi thành viên sống trên dải đất có chung nguồn gốc, thì
nghệ thuật nói chung, hội hoạ nói riêng cũng không thể chỉ chiều cái thẩm mỹ của
triều đình, mà phải đi theo cái thẩm mỹ được cả dân tộc chấp nhận. Vì vậy có thể nói
quán xuyến và nổi trội ở hội hoạ thời Lý là tính dân tộc mà cốt lõi của nó là tính dân
gian.
Tính chất nữa của hội họa thời Lý là tính trang trí. Các nguồn tài liệu trực tiếp
và gián tiếp, hiện vật, văn tự giúp ta biết về hội hoạ thời Lý, đều thống nhất cho hay
chỉ một số ít tranh đứng tách ra tồn tại độc lập còn hầu hết được vẽ trên những thành
phẩm khác làm tôn thành phẩm ấy và khi thành phẩm ấy mất thì tranh cũng mất theo.
Hội hoạ phục vụ kiến trúc có tranh vẽ trên tường, trên gỗ ở các chùa tháp và cung điện
(chùa Một Cột, Phật Tích…). Bên cạnh đó hội hoạ thời Lý còn toát ra ở chỗ nó được
dùng vẽ trang trí cho các đồ dùng hàng ngày để làm tăng vẻ đẹp và giá trị của đồ dùng.
Sự sắp xếp hình của những cảnh vẽ trên gốm hoa nâu thời Lý rất thực thà, rõ
ràng, đầy đặn; từng nhóm, từng mảng hợp lại không lấn nhau, không đè nhau. Chủ đề
bao giờ cũng nổi rõ, sự việc minh bạch. Tất cả được vẽ theo quy luật của tình cảm. ánh
sáng, xa gần và trạng thái cấu trúc thực thể đều do tình cảm sai khiến. Hình được tạo
ra không biến dạng vì khoảng cách và ngoại cảnh, nhưng để nó hiện ra đầy đủ, có khi
vẽ rõ cả mặt nước và hai mặt bên. Nét khoẻ mập, thường tập trung khuếch đại chi tiết
theo cùng một chiều hướng, nâng nhịp điệu toàn thể lên mà vẫn giữ được vẻ hài hoà.
NGHỆ THUẬT GỐM

Đặc trưng của gốm nhà Lý là gốm men Ngọc. Đây là giai đoạn phục hưng văn
hóa dân tộc, phát triển kinh tế, củng cố nền độc lập. Nhiều ngành nghề thủ công được
phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Nghề gốm có bước phát triển nhảy vọt, đạt trình độ
cao về kỹ thuật và nghệ thuật. Đồ gốm thời kỳ này phong phú, đa dạng về số lượng,
loại hình, kiểu dáng, có giá trị sử dụng và mang đậm chất nghệ thuật cao, ghi dấu một
cột mốc quan trọng trong tiến trình gốm sứ Việt Nam.

27
Gốm men ngọc thời Lý là loại gốm đơn sắc, được làm từ đất sét trắng đã qua sàng
lọc kỹ. Tạo hình trên bàn xoay nên xương gốm mỏng đều, hình dáng cân đối, tròn
trĩnh. Nhiệt độ nung dành cho loại gốm men ngọc khá cao nên xương gốm chớm cháy,
tương đối mịn, cứng, cầm nặng tay, gõ có tiếng kêu thanh. Gốm có màu men xanh
ngọc thanh mát đặc trưng được làm từ men đất và men tro, cho cảm giác mát tay, dịu
mắt. Phương pháp trang trí trên gốm men ngọc là khắc chìm khi phôi gốm đã được
hong gần khô với độ nông sâu khác nhau nên khi phủ men tương đối dày sẽ làm cho
hoa văn có có chiều sâu, ẩn hiện lung linh, sinh động.

Gốm men ngọc đẹp ở sự hài hòa của màu sắc men long lanh với sự mềm mại,
uyển chuyển của những đường nét hoa văn khắc chìm. Kiểu dáng, loại hình đa dạng và
độc đáo từ sản phẩm dùng trong thờ cúng, trưng bày đến ăn uống, chứa đựng hàng
ngày. Hoa văn phổ biến được sử dụng trên gốm men ngọc là các hình ảnh vể sen từ
hoa lá, gương sen, phản ánh sâu sắc vị trí của Phật giáo thời kỳ này.

MỸ THUẬT THỜI TRẦN (1226-1400)

1. Khái quát văn hóa, xã hội thời Trần


Đất nước Việt Nam ta vào những năm đầu thế kỷ thứ VIII, mặc dầu có những
biến động lớn, dẫn đến sự thay thế quyền lãnh đạo từ họ Lý sang họ Trần, nhưng về
mọi mặt cơ cấu xã hội, cơ bản vẫn không có gì thay đổi. Chế độ trung ương tập quyền
được khôi phục và củng cố thêm một bước. Mọi kỷ cương và thể chế cũng được chỉnh
đốn lại và tăng cường thêm. Nhìn chung giai cấp thống trị nhà Trần sau khi lên nắm
chính quyền đã cố gắng tiếp tục duy trì và phát huy những thành quả mà ngót ba trăm
năm, kể từ khi giành lại được độc lập tự chủ, nhân dân ta đã lao động đấu tranh để tạo
nên.
Đất nước tuy đã trải qua hơn một thế kỷ sạch bóng quân xâm lược nhưng nền
độc lập dân tộc vẫn bị giặc ngoại xâm đe doạ. Do vậy ở thời này tinh thần tự cường, tự
chủ vẫn là cơ sở thôi thúc nhân dân ta không ngừng vươn lên xây dựng một đất nước
giàu mạnh.

2. Một số đặc điểm của mỹ thuật thời Trần


Ngay từ khi lên nắm chính quyền, việc xây dựng đã được triều đình nhà Trần
lưu ý. Nhiều công trình kiến trúc cũ đổ nát hư hỏng được trùng tu, sửa chữa và mở
mang. Nhiều công trình mới cũng được xây dựng, bổ xung thêm. Kinh đô Thăng Long

28
dưới triều nhà Lý vốn đã là chốn đô hội tấp nập, sang thời Trần lại được triều đình tổ
chức tu sửa, bổ xung và mở rộng hơn.
Trải qua ba lần xâm lược của giặc Nguyên Mông, Thăng Long bị tàn phá nặng
nề, song vua Trần vẫn cố gắng sửa sang lại, tô điểm cho thủ đô của tổ quốc được lộng
lẫy như xưa, xứng đáng với chiến thắng mà toàn dân tộc vừa giành được. Đến cuối
triều, thì được xây dựng nhiều công trình phục vụ cho cuộc sống xa hoa, hưởng lạc
như vua Trần Dụ Tông cho “đào hồ ở vườn ngự trong hậu cung, trong hồ xếp đá làm
thành núi, bốn mặt khai ngòi, chảy thông nhau”, …
Song song với việc tu bổ Thăng Long, bắt đầu từ năm 1239 các vua Trần đã cho
xây dựng tại quê hương Tức Mặc của mình hàng loạt cung điện lầu gác, nhà cửa để
làm nơi ở của con cháu họ hàng thân thích thuộc hoàng gia và ngay cả bản thân mình
lúc đã nhường ngôi. Vùng đất này về sau đổi là phủ Thiên Trường, được xây dựng gần
như là một kinh đô thứ hai của nước ta thời bấy giờ. Ở đây có cung Trùng Quang to
lớn được dựng năm 1239 để làm nơi ngự cho các vua cha lúc đã nhường ngôi. Ngày
nay các công trình kiến trúc này không còn gì nữa, nhưng qua nhiều dấu tích và hiện
vật như viên gạch vuông dày và to quá cỡ (40cm x 40cm x 7cm) có trang trí hoa văn
dây bố cục theo lối uốn lượn cuộn tròn trong ô vuông, những viên ngói chiếu dẹt vừa
rộng vừa dài, ngói cong úp nóc có gắn cả môtíp hình rồng, phượng to, khắc hoạ tinh
vi, những chiếc thạp cao to men trắng, … đều nằm trong kiến trúc Thiên Trường.
Không riêng gì các công trình của Nhà nước, các dinh thự các ấp của các cá
nhân thời này cũng được xây dựng rất nhiều do chế độ điền trang thái ấp phát triển
mạnh như trang ấp Vạn Kiếp (Chí Linh), … Ngoài ra ở các địa phương còn có những
nhà dùng để làm chỗ dạy học hoặc là nơi để dưỡng thân, cùng các bạn bè lui tới ngâm
vịnh.
Phật giáo thời Trần, nhất là giai đoạn đầu, cơ bản vẫn phát triển mạnh, mặc dù
trong lĩnh vực tư tưởng, do nhu cầu trị nước, đạo Nho đã có ưu thế rõ rệt, việc cai quản
chính quyền cho các nho sĩ vốn được đào thạo có hệ thống và quy củ. Song chùa tháp
vẫn là nơi thu hút cuộc sống tinh thần của quảng đại quần chúng và đạo Phật vẫn
chiếm vị trí quan trọng mà đáng chú ý hơn cả là “Trúc Lâm Tam tổ”. Trước tình hình
đó, việc tu tạo của chùa tháp là một nhu cầu to lớn trong việc xây dựng cơ sở cật chất
cho giới thiền.

29
Bên cạnh việc tu bổ lại những ngôi chùa thời Lý, nhà Trần vẫn cho dựng những
công trình mới như chùa Hương Tích (Nghệ Tĩnh), chùa Hoa Long và chùa Thông
(Thanh Hoá), tháp Bình Sơn (Vĩnh Phúc), chùa Bối Khê (Hà Tây), chùa Thái Lạc (Hải
Dương), chùa Phổ Minh (Nam Định), chùa ở núi Yên Tử (Quảng Ninh), …. Đặc biệt
khu chùa tháp ở núi Yên Tử có một hệ thống các công trình kiến trúc Phật giáo đồ sộ
đã được xây dựng do nhiều nhà sư trông coi. Nơi đây hàng năm vào mùa xuân, các
ngự y của triều đình lên để luyện thuốc.
Những dấu tích còn lại: những viên gạch vuông cỡ lớn (40cm x 40cm x 7cm),
phía trên được trang trí hoa văn dây, bố cục theo lối cuộn tròn, nét khắc có phần vụng
về song độ nung lại rất già, đều. ở lớp nền dưới ngay sau cổng có một tháp đá cao,
được lắp ghép bởi nhiều phiến đá lớn xếp theo kiểu vỉa múi cam, giữa chúng có các cá
chì kết nối, phía ngoài của lớp nền đế có trang trí hoa văn sóng nước mềm mại.
Bên cạnh các chùa tháp thờ Phật, các kiến trúc về đền miếu thờ các thần thánh ở
thời Trần cũng vẫn được duy trì và phát triển và mở mang song phần lớn vẫn là các vị
anh hùng dân tộc, những người tài ba lỗi lạc, người có công với đất nước như đền thờ
Trần Hưng Đạo, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải, ….
Do sự lớn mạnh của đạo Nho nên miếu thờ Khổng Tử cũng được mở mang tu
bổ nhiều và cho người trông coi cẩn thận.
Công việc xây dựng các lăng tẩm ở thời Trần đã được chú ý rất nhiều. Chẳng
những khi tìm địa điểm, cất táng, người ta phải di về địa phương để chọn cho được
những địa hình khoáng đãng, rộng rãi, phù hợp với yêu cầu của thuyết phong thuỷ,
phù hợp với không khí tôn nghiêm kính cẩn mà ngay cả khi đã cất táng rồi, triều đình
còn cho dựng ở mỗi lăng một miếu điện riêng để có chỗ thờ cúng và còn cho trồng
thêm cây cối, ghép các bờ đá, có tạo ra một khu vực biệt lập với ngoài. Có những khu
vực đáng chú ý như khu lăng An Sinh. ở đây các lăng mộ đều được xây sát rìa chân
núi, cách nhau rất xa. Nhưng tất cả đều tụ về một hướng là khu đền An Sinh. Ngoài
những điện miếu đã xây ở các lăng, triều đình còn cho xây ở khu này nhiều toà điện
miếu lớn để làm chỗ tế lễ, cửa các quan về trông coi. Tuỳ theo chức tước thứ bậc mà
mộ của họ được xây dựng to nhỏ khác nhau và có những đặc điểm chung như sau:
- Kích thước tương đối lớn, căn cứ vào dấu tích nền nhà, các tảng đá kê chân cột
ta thấy các kiến trúc này cũng phải bằng cả một ngôi chùa nhỏ như lăng Trần Thủ Độ,
Nguyễn Sĩ Cố, …
30
- Bố cục các lăng mộ thời Trần vẫn giữ được truyền thống bố cục của các kiến
trúc thời Lý, đó là lối bố cục đăng đối, quy tụ vào một điểm giữa, lấy phần mộ làm
chính rồi vây quanh nó mới là các thành đá, các bậc cửa, …, tất cả đều lấy phần mộ
làm nhân tố tổng hợp để quy chiếu thành một khối chung, vuông vắn, tương xứng
nhau. Chính về lối bố cục này nên các lăng mộ thời Trần thường có mặt bằng vuông
và các cửa mở ra ba phía: trước hai hai bên cạnh. Ví dụ: lăng Đồng Thái, Trần Thủ
Độ, …
- Trang trí: trên các lăng mộ thời Trần, các nhà kiến trúc đã chú ý sử dụng các
tượng trang trí. Tượng ở đây thường được gắn vào các thành bậc như các tượng rồng,
sấu hoặc mang những nội dung có quy ước lâu đời như các tượng tứ linh chỉ phương
hướng (lăng Trần Thủ Độ), hoặc tượng mang tính chất chầu, thờ cúng người đã khuất
như các tượng ở lăng Nghệ Sơn. Các tượng ở đây đều có phong thái hiện thực, khoẻ
mạnh và mang được tính chất trang nghiêm của nơi thờ cúng.

Tượng thú lăng mộ thời Trần

3. Sự sáng tạo trong mỹ thuật thời Trần


3.1. Nghệ thuật kiến trúc
3.1.1. Sự độc đáo của các vì kèo.
Các vì kèo gỗ thời Trần còn lại nay ở các chùa Thái Lạc, chùa Dâu, chùa Bối
Khê đều thuộc vị trí gian giữa toà Thượng Điện. Chúng đều có kích thước vừa phải và
đã bị cắt xén, và ghép thêm nhiều. Chúng là những bộ phận trụ chống chủ yếu, được
nối với nhau bằng những đường xà dọc (dưới) và các đường hoành (trên) để tạo thành
một khung cốt vững chắc, nhằm đỡ toàn bộ lực đè của mái nhà. Thành phần của chúng
là các cột cái, cột con, và một số đường xà, con chồng, đấu kê, … Chúng đều có dáng
thấp. Và đặc biệt ở giữa không để rỗng mà được lắp ghép một mảng gỗ có tạo hình
quầng lửa nhọn đầu. Ngoài ra ở chùa Thái Lạc còn có một số mảng cốn và cột cốn
được lắp trên các xà nách và đặc biệt, có một số ván nong to lớn có chạm khắc đẹp
được ghép ở giữa các xà dọc thượng và xà dọc hạ, chúng có tác dụng che kín các lớp
kiến trúc và trang trí thêm cho đẹp. Chùa Bối Khê còn giữ được nhiều đầu đao rấp
mập của toà thượng điện, chúng nhằm chống đỡ cho toàn bộ khung nhà được vững
vàng. Về kết cấu được giải quyết bằng mộng chốt.

31
Về trang trí, các vì kèo gỗ thời Trần đều được khắc chạm rất phong phú, hơn
hẳn các đời về sau. Đề tài của chúng mang tính chất quyền quý, trang trọng. ở ván
lưng có hình quầng lửa nhọn đầu cả hai mặt thường được chạm đôi rồng cuộn khúc từ
trên xuống, uốn vào giữa rồi ngẩng đầu lên, chầu đỡ viên ngọc sáng. Cũng có nơi là
hai tiên nữ đầu người mình chim hoặc hai hình chim phượng chầu mặt nguyệt. Các trụ
chống chạm mặt tiên nữ đang uốn người giơ tay đỡ bệ sen phía trên, phía dưới là các
sóng nước dập dờn, hoặc đoá hoa mẫu đơn đang nở rộ. ở các ván nong chùa Thái Lạc
được chạm nhiều cảnh về đề tài các tiên nữ. Nơi thì hai tiên nữ đang cưỡi phượng,
người thổi tiêu, người kéo nhị. Nơi khác các tiên nữ lại thổi sáo đánh đàn. Hoặc cũng
có cảnh tiên nữ đầu người mình chim đang giơ tay dâng hoa. Thú vị hơn, còn có cả
cảnh chạm một dàn nhạc ba người đang sử dụng những nhạc cụ dân tộc. Các nét chạm
trang trí trên gỗ của thời Trần tỏ ra tinh xảo nhưng không bay bướm như thời Lý, trông
nó thật hơn, khoẻ khoắn hơn. Tuy đề tài chính thống, quyền quý, nhưng thấp thoáng
đây đó chất dân gian đã được bộc lộ trong các đường nét hình khối và bố cục.
Được đào ở cánh đồng láng Bói. Gồm có các ván nong chạm rồng cuộn khúc và
các ván bưng có hình quầng lửa nhọn đầu; các con tiện: là các thỏi gỗ tròn được chuốt
thành nhiều ngấn, dùng làm chấn song, cửa sổ hoặc chấn song lan can; những phiến gỗ
dài có trang trí những hình mẫu mới lạ, cả hai mặt được chạm các cành sen viền quanh
và do một tiên nữ quỳ chân uốn mình giơ tay đỡ, hai bên là các đồ án hoa dây được
đóng khung trong các ô uốn hình cánh lá.
3.1.2. Bộ cánh cửa chùa Phổ Minh
Đây là bộ cánh cửa lớn bốn tấm bằng gỗ lim, được lắp ráp ở bái đường, ngay ở
lối đi vào cổng chính giữa của chùa. Trang trí trên cánh cửa rất đẹp, đề tài trang trí vẫn
là những hình rồng cuộn khúc quen thuộc, những hoa văn sóng nước và hoa văn hình
hoa lá khác. Các hoa văn được bố cục đăng đối cân xứng nhau, lúc đóng lại, tạo nên cả
một khung cảnh rất hoàn chỉnh trọn vẹn nhưng cũng không kém phần sinh động. Nó
gợi cho khách hành hương những cảm giác uy nghi, trang nghiêm trước lúc bước bào
chiêm ngưỡng Phật tổ. Nó đã giúp ta hình dung được phần nào sự khang trang và lộng
lẫy của chùa xưa.
3.1.3. Kiến trúc tháp đá và đất nung
Cũng như thời Lý, tháp thời Trần được dựng khá nhiều và có vị trí quan trọng
trong kiến trúc Phật giáo nói chung. Song tháp thời Trần có kích thước nhỏ hơn nhưng
32
về kiểu dáng thì cơ bản là một. Đó là loại tháp gồm nhiều tầng mặt cắt vuông hoặc
cũng có một số tháp mặt cắt hình lục giác, càng lên cao tháp thu nhỏ dần và tận cùng
đỉnh thường là một khối tròn vút nhọn. Các tầng tháp đều có mái hẹp nhô ra và các
mặt đều trổ cửa (tượng trưng). Các tháp thời này đều là những kiến trúc có tính chất
phụ thêm vào cả quần thể kiến trúc của chùa như tháp Phổ Minh, tháp Bình Sơn, tháp
Trần Nhân Tông, …, thường được xây phía trước sân chùa.
Trang trí của các tháp cũng không phong phú như các tháp thời Lý. Nó không
còn những tượng Kim Cương đứng gác ở các cửa những “tiên nữ bưng mâm hứng
móc ngọc” ở đỉnh, …, tuy nhiên với những trang trí hoa văn hình rồng hoa lá, đơn
giản, khúc triết lại tạo nên những nét riêng độc đáo cho nghệ thuật thời Trần.
Sử dụng chất liệu ở đây được kết hợp giữa đá và gạch. Hoặc có những tháp, nhà
kiến trúc đã mạnh dạn dám dựng tất cả bằng đất nung. Về kỹ thuật đã sử dụng các
mộng én và các hồ vữa kết dính để gắn các thành phần kiến trúc, hoặc dùng dây đồng
dùi xuyên qua gạch để tăng độ bền cho tác phẩm của mình.
3.1.4. Tháp và chùa Phổ Minh
Nằm trong khu vực phủ Thiên Trường xưa, triều đình nhà Trần cho xây dựng
công trình này có lẽ nhằm phục vụ cho nhu cầu lễ Phật của con em họ hàng quanh
vùng.
Chùa Phổ Minh là một công trình do triều đình xây dựng vào buổi đầu của
vương triều nên quy mô khá to lớn. Trong chùa có nhà thuỷ tạ để lễ hội, trước chùa có
đỉnh đồng to lớn. Tháp là một công trình kiến trúc thời Trần còn lại hiện nay mà còn
tương đối nguyên vẹn nhất. Gồm 14 tầng, cao 21m2, mái của các tầng rất hẹp, điều
đáng chú ý là nhà kiến trúc đã biết cách giải quyết các tầng mái bằng cách xây gạch
nhô dần ra thành nhiều lớp nhỏ, uốn cong lên, hoà vào cái thế vươn lên chung của toàn
bộ kiến trúc, càng lên cao các tầng thu hẹp dần và kết thúc bằng một chỏm nhọn hình
bầu rượu có nhiều cạnh, quay về hướng nam, mặt bằng bố cục vuông. Các tầng đều có
cửa bốn phía, riêng tầng dưới cao lên có thể vào thắp hương dễ dàng. Tháp được xây
dựng trên một hồ.
Chất liệu hỗn hợp giữa gạch và đá. Bệ và tầng dưới xây bằng loại đá xanh, tầng
trên được xây bằng gạch nung mỏng. Kết cấu tháp ở tầng đá chủ yếu dựa vào mộng và
keo vữa kết dính, phía trên ngoài vữa còn có các dây đồng xâu móc các viên gạch tăng
độ vững.
33
Trang trí tháp cũng đơn giản, ngoài các tượng hình sấu, rồng được tạc ở các
thành bậc cửa và quanh tháp, thì trên lớp cánh sen có chạm nhiều hoa văn hoa dây uốn
lượn quanh cửa, tầng trên tháp trang trí trực tiếp vào các viên gạch. Cạnh ngoài mỗi
viên đều có hình rồng cuộn khúc vờn mây (tuy phải khắc trước khi nung song các hình
trông vẫn giữ được nét mềm mại, chứng tỏ họ đã làm chủ được kỹ thuật và có tay nghề
vững vàng). Trải qua bao đời, tuy có được trùng tu sửa nhiều lần, nhưng nó vẫn giữ
được cốt cách xưa.
3.1.5. Tháp Bình Sơn và chùa Vĩnh Khánh
Thuộc Lập Thạch – Vĩnh Phú. Đây là kiến trúc thời Trần xa Thăng Long về
hướng Tây Bắc. Nó được dựng trên một ngọn đồi thấp trong các triền đồi kéo dài của
vùng trung du.
Tháp Bình Sơn được dựng ngay giữa sân trước cửa chùa Vĩnh Khánh. Đây là
công trình kiến trúc bằng đất nung khá lớn, vì bị hỏng mất mấy tầng trên nên chỉ còn
11 tầng cao 15m. Về hình dáng nó cũng có những nét gần gũi với chùa Phổ Minh,
nhưng đáng chú ý là vì góc độ thu nhỏ của các tầng trên ít nên trông tháp Bình Sơn có
dáng đậm, chắc nịch, không thanh mảnh như tháp Phổ Minh, điều này rất hợp với chất
liệu đất nung của toàn bộ công trình.
Cấu trúc của nó cũng riêng biệt, phía trong lõi của cốt trụ người ta lại để rỗng,
có thể là chỗ để thoát khói hương, hoặc thông hơi. Kết cấu của tháp dựa chủ yếu vào
mộng cốt, cá chì (mộng én) và vữa kết dính, ngoài ra để tăng độ bền vững cho lớp
gạch ốp bên ngoài người ta đã đúc chúng thành những viên gạch có chân gấp khúc, và
khi xây họ đánh dấu để tránh lầm lẫn.
Trang trí chủ yếu là hoa văn, song nó phong phú, tất cả các tầng tháp đều trang
trí kín khắp lượt, ở lớp đế tháp có chạm các phù điêu hình sư tử đang vờn quả cầu, ở
tầng 1 hai bên cửa trang trí các hình rồng, có mào nhọn, đang cuộn khúc trong ô tròn
được bố cục thành ba mảng dọc dài, mỗi mảng ba ô, phía trên đó là những hình con
sơn ba chạc và xen kẽ giữa các con sơn là hình sừng tê hoặc hoa lá được bố cục trong
các hình quầng lửa sáng nhọn đầu. Lên các tầng, hình rồng được thay thế bằng những
hình tháp đang toả hào quang và những hình hoa chanh.
3.2. Nghệ thuật Điêu khắc
3.2.1. Tượng hổ ở lăng Trần Thủ Độ

34
Lăng Trần Thủ Độ được xây dựng vào năm 1264. Tượng hổ với kích thước gần
như thực, đã lột tả một cách tài tình tính cách dũng mãnh của vị chúa sơn lâm trong tư
thế nằm xoải dài, với thủ pháp dứt khoát mạnh mẽ, đã sáng tạo những hình khối đơn
giản, chọn lọc và sắp xếp chúng trong một cấu trúc chặt chẽ, vững chãi. Cái đầu ngẩng
cao trên bộ ức nở nang với tầm mắt phóng xa tìm kiếm cho một cảm giác về sự thức
dậy của cái thể chất ấy. Đặc biệt là khúc đuôi, bằng một hình khối vuông cạnh sắc,
chạy suốt sống lưng rồi quặt trở lên với những đợt uốn sóng nhẹ nhàng vừa phải nó
vừa yên tĩnh vừa sống động trong cái thể nghỉ ngơi sẵn sàng cho sự bật dậy của một
sinh lực dồi dào. Tượng không gây cảm giác quá tĩnh và sự nghỉ ngơi, cũng không gây
cảm giác tan vỡ vì sự căng thẳng đến mức cuối cùng, mà nó luôn luôn được coi là sự
bắt đầu với tất cả sức mạnh tiềm tàng còn đang chờ đợi để chồm lên. Ngoài ra, cũng
với sự trau chuốt, nuột nà của hình khối và đường nét, những đường chải mượt tinh tế
của bờm tóc, hoa văn trang trí càng khiến cho cái dũng mãnh của nó trở thành ung
dung.
3.2.2. Tượng sư tử ở chùa Thông - Thanh Hoá
Kích thước của nó dài 1m25, nó diễn tả con sử tử trong tư thế nằm xoải dài,
chân thu về phía trước, đầu ngẩng cao. Nó thiên về tả trang trí hơn bởi vậy sức mạnh
của con sư tử mặc nhiên là thuộc tính tự nhiên của nó nên chỉ hiện ra trong tác phẩm
một cách kín đáo, từ tốn, phẳng lặng. Song điều đáng quan tâm hơn cả là vẻ hoa mỹ
của tác phẩm được thể hiện bằng hàng loạt những hoa văn rất mực tinh tế phủ khắp
toàn thân con sư tử, chỉ với một vài văn dạng cơ bản như hình soắn ốc đuổi, hình chải
mượt mà… được thay đổi, sắp xếp trong những bố cục khác nhau cũng đem lại sự
phong phú cho những hoa văn, dải vặn thừng bao quanh cổ trở thành vành dây đeo
nhạc, còn cái đuôi uốn lượn nhè nhẹ vắt ngược lên lưng. Trên mặt bệ tượng cũng có
hoa văn hình sóng nhiều tầng, chen nhau phủ kín.
3.2.3. Tượng chó ở lăng Trần Hiến Tông
Kích thước 54cm, diễn tả trong tư thế nằm khoanh tròn, chân thu vào lòng, đầu
gục xuống, mõm ghếch lên hai chân trước, đuôi quặt sang một bên hông. Tạo hình nói
chung đơn giản và vững chãi, không vượt xa hình thức của tự nhiên, mảng khối diễn tả
cái mình con chó từ cổ tới đuôi căng tròn, trau chuốt, nhưng hơi đơn điệu, chi tiết diễn
tả chân, đuôi lại hơi tủn mủn, nhất là chỗ gặp gỡ giữa những đường của cổ và bắp chân
tạo cảm giác phân tán, tách biệt.

35
3.2.4. Tượng trâu ở ở lăng Trần Hiến Tông
Tượng này hiện đang bị vỡ đôi và sứt mẻ nhiều chỗ, kích thước dài khoảng 1m,
diễn tả con trâu đang nằm phủ phục. Cả thân mình nó là một khối lớn nặng nề, căng
khoẻ, áp đặt trên bốn cẳng chân thon nhỏ. Cái cổ hơi vươn dài ra, đường gáy và đường
sống lưng nối nhau gần như một tuyến đường ngang. Tạo hình đơn giản. Cấu trúc khối
hình chặt chẽ. Bốn cẳng chân thon nhỏ gắn với một thân mình to lớn, nặng nề, song ăn
nhịp một cách tự nhiên. Chúng xoá bỏ cho người xem cảm giác về sự khá nặng nề của
toàn khối lượng. Đây là một trong những pho tượng giàu chất thực của thời Trần, xử lý
tạo hình tốt, có vẻ đẹp khỏe mạnh, bề thế, vững chắc.
3.2.5. Tượng người quan hầu ở lăng Trần Hiến Tông
Nằm ở khu vực cửa lăng, đến nay hai pho này đều bị mất đầu. Chiều cao từ cổ
đến chân 1m30. Diễn tả một viên quan hầu cận, đang đứng nghiêm trang, hai tay nâng
vật gì đó ngang tầm ngực. Cách phục sức rất trang nhã. Tấm áo đại trào rủ chùng sát
đất, phần dưới loe ra phủ gần kín chân, hai ống tay áo rất rộng, dải lưng thắt nút hình
số tám, hai đầu có tua thả so le phía trước. Vài mươi đường khắc chìm đơn sơ và đều
đặn chạy gần như song song ở hai bên phần dưới thân áo, ở vạt phía sau, ở khuỷu tay
và ống tay, diễn tả sự chống chất lên nhau thành nếp của tấm áo rộng thùng thình vừa
trở thành những đường trang trí phá vỡ ấn tượng tẻ nhạt và đơn điệu trên bề mặt rộng
của những mảng khối to lớn. Toàn thân tượng tạo hình chân thật, đơn giản, cân xứng,
trau chuốt và khá độc đáo. Nếu cắt ngang phần thắt lưng, ta sẽ được một thiết diện gần
như hình thang cân mà đáy nhỏ là phía trước mặt, đáy lớn là phía sau lưng tượng. Ba
cạnh của hình thang này cong lõm vào, riêng cạnh đáy lớn cong phình ra. Như vậy
thân tượng gần như trở thành một khối dài, bốn cạnh nổi rõ gân guốc và mạnh mẽ. Đó
chính là thể hiện bản chất của phong cách tạo hình thời Trần, ưa cái khoẻ mạnh,
chuộng cái mập.
3.2.6. Tượng Rồng ở một số di tích thời Trần
Xuất hiện ở các lăng mộ, thành quách và chùa chiền trên những vị trí của những
thành bậc. Hình tượng rồng thời Trần đã có sự thay đổi. Đó hoàn toàn không phải chỉ
là sự thay đổi đơn thuần của phong cách, đem cái đẹp của một lối tạo hình trau chuốt,
tinh tế và thanh mảnh. Mà đó còn là sự thay đổi của một quan niệm về hình tượng.
Chính sự bành trướng của Nho giáo cùng với sự lớn mạnh của chế độ tập quyền đã
làm cho hình tượng rồng thời Trần tiến thêm một bước trên con đường phong kiến
36
hoá. Nếu ở thời Lý, nó còn mang nặng ý nghĩa theo tín ngưỡng dân gian cổ xưa của
một cư dân nông nghiệp, thì ở thời Trần nó đã được dần thay đổi bởi một ý nghĩa khác
theo quan niệm phong kiến. Bởi vậy, những chi tiết cấu tạo thành cái đầu của nó đã bị
biến đổi nhiều. Một mặt văn dạng chữ “S” mà lai lịch của nó vốn “có nhiều quan hệ
với lôi vũ (sấm mưa)” đang dần mất đi, mặt khác cặp sừng và đôi tai là những chi tiết
mới đột nhiên xuất hiện. Cái đầu, vì thế dữ hơn tinh thần của tác phẩm, cố gắng đạt
cho được vẻ uy nghi, đường bệ.
So với thời Lý, ở thời Trần hình tượng con rồng được thể hiện cũng đa dạng
hơn. Ngay nhiều tượng rồng của khu lăng mộ ở An Sinh (Quảng Ninh) mặc dù được
sáng tác trong khoảng cùng một thời gian, nhưng về mặt chi tiết đã có nhiều chỗ khác
nhau, lúc bắt gặp ở những tượng rồng có dạng đuôi thẳng và nhọn, khi lại có dạng đuôi
xoắn tròn như văn dạng xoắn ốc; hoặc khi thì có vẩy như dạng hình hoa, khi lại có vẩy
chỉ là những nét võng cung chạm kép, thậm chí chỉ chạm đơn; hoặc nữa, khi thì văn
dạng chữ “S” nổi lên rõ rệt trên trán, khi lại mất đi hay biến thành những hình cong
khác.
Đôi tượng rồng ở lăng mộ Trần Anh Tông có thân hình mình tròn lẳn, mập mạp,
múp dần về phía sau đuôi, uốn khúc rất nhẹ, chỉ như mặt gợn sóng. Chúng có hình
dáng giống như một con vật bò sát với cái đuôi to, dài và hơi nhọn, kéo ra từ thân, với
bốn chân to mập, móng khoẻ, mọc dồn cả lên nửa thân phía trên. Cái đầu của chúng
hơi có vẻ dữ tợn bởi cái mào trước mũi kéo dài về phía trước; bởi cặp sừng nhọn vút
về phía sau; bởi hai vành xoắn ốc đối chiếu thành hình chữ “S” ngạo nghễ trên vừng
trán; bởi cái bờm tóc to trải ra gần như phủ kín tất cả nửa thân và cuối cùng, bởi những
chòm lông quanh cổ dựng lên trong những hình xoắn ốc. Khắp mình chúng được phủ
kín bởi một lớp vẩy có dáng như những nửa hình hoa tròn nhiều cánh chạm rất đều và
tinh. Đôi tượng rồng đó thể hiện một sự kết hợp nhuần nhị và rõ ràng giữa cái khoẻ
mạnh vững chắc của thời Trần với cái mềm mại tinh tế của thời Lý. Chỉ bằng những
khúc uốn sóng đều đặn, rõ ràng, nhịp nhàng cũng đã khiến cho tấm thân hình ống, mập
mạp, rất dài, trở nên dịu dàng, uyển chuyển. Chất mềm mại ấy lại được tăng thêm bởi
những nét chạm vòng cung kép thể hiện những hình vẩy phủ kín trên khắp mình tượng
tinh tế như những hoa văn; bởi một phần không gian giới hạn quanh mình con rồng
được chạm thủng rất tinh xảo, hoa văn xoắn ốc đuôi kết hợp và đối chiếu nhau thành
một thể liên hoàn.

37
3.2.7. Chạm khắc
Đến nay những di vật đương thời hiện còn được bảo lưu tại đây chỉ có một số
bộ phận kiến trúc, trong đó có những mảng chạm khắc trên gỗ. Phần lớn những mảng
chạm khắc này đều nằm ở vị trí những tấm ván nong giữa hai thanh xà thượng và hạ.
Nội dung diễn đạt chủ yếu của chúng là những cảnh dâng hoa, tấu nhạc với
những nhân vật trung tâm là vũ nữ, là nhạc công hay có thể là con chim thần thoại
Kin-na-ri nửa trên hình người nửa dưới hình chim. Cảnh nào cũng đều được thể hiện
theo một lối bố cục và một bút pháp giống nhau. Lấy cảnh đôi Kin-na-ri dâng hoa làm
ví dụ. Cả hai, trong đội hình hàng một, đều cùng tư thế đầu hơi nghiêng về phía sau,
đôi tay kính cẩn nâng bình hoa dâng về phía trước, đôi cánh chim dang rộng, khoảng
không gian bao quanh chen đặc những hình soắn ốc diễn tả hoa và mây.
Có lẽ đây chỉ là một đoạn còn lại của cả mảng chạm khắc dài hơn nửa trong chỗ
ván nong mà mỗi hình Kin-na-ri dâng hoa là một hình tượng lặp lại trong tổ chức tiết
điệu lớn bao trùm của toàn bộ tác phẩm. Người xem không vì thế mà không dễ dàng
nhận thấy hiện tượng lặp lại trong không gian của hình tượng, thấy sự cân đối theo lối
đăng đối của bố cục và cũng không vì thế mà không cảm thụ được gì ở tác phẩm.
Cùng với vẻ dịu dàng của tác phẩm, một cái đẹp chắc khoẻ vẫn náu mình nơi những
đường cong dẻo chắc, những mảng khối đầy đặn, những nét hình gân guốc và hoa mỹ.
3.3. Nghệ thuật Hội họa
Những biến động lớn của lịch sử, các bức tranh của thời Trần đã bị huỷ hoại
nhiều nhưng thời gian đã chứng kiến và ghi nhận sự hiện diện của nó trên nhiều tài
liệu khác nhau, đã khẳng định về một nền hội hoạ có thực ở thời Trần, và sự thâm
nhập của nó vào chạm khắc, trang trí.
Tục xăm hình rồng có từ thời Hùng Vương, đến thời Trần càng phát triển mạnh
mẽ. Từ vua quan cho đến quân dân đều vẽ rồi xăm hình rồng ở trước bụng, sau lưng và
hai đùi. Xăm hình, thích hình lên cơ thể chính là một cách vẽ lên da thịt, ít nhiều có
tính tạo hình trang sức. Sự phổ biến của việc xăm hình ở thời Trần thành tập tục, và
mức độ nghệ thuật của nó đòi hỏi xã hội có hẳn những người thợ xăm chuyên nghiệp.
Ngoài ra họ còn vẽ lên đầu mũi thuyền hình con chim với ngụ ý không sợ sóng gió.
Tranh chữ và nghệ thuật viết chữ trang trí cũng rất được chú ý viết hoặc khắc
vào đá, gỗ. Nghệ thuật thêu khá phát triển, hình thêu chẳng những đòi hỏi phải có hình

38
vẽ làm mẫu, mà bản thân nó cũng là một bức tranh “vẽ” bằng kim và chỉ màu. Hoặc
nhà Trần đã sử dụng các màu vàng, đen, xanh, đỏ để vẽ những lá cờ và giữa bốn góc
có vẽ hình ngôi sao, thiên thần, quỷ sứ, …; trang trí bình phong là vẽ thu nhỏ thiên
nhiên đã chọn lọc, và do đó mà bức bình phong vẽ được coi là tiêu chuẩn của thiên
nhiên. Và sau nữa là những hình vẽ trên tiền giấy “Thông bảo hội sao” phát hành năm
1396, tiền có giá trị khác nhau thì hình vẽ có khác nhau: 10 đồng vẽ rong, 30 đồng vẽ
sóng, 1 tiền vẽ mây, 2 tiền vẽ rùa, 3 tiền vẽ lân, 5 tiền vẽ phượng, 1 quan vẽ rồng.
Song đó chỉ là những hình trang trí trên những hiện vật, mà khi những hiện vật này
mất đi thì hình trang trí đó cũng mất đi.
Qua tài liệu văn tự, ta biết thêm thời Trần cũng có những tác phẩm hội hoạ độc
lập. Đó là những bức chân dung, những bức vẽ người thực việc thực, những bức tranh
phong cảnh không trang trí cho một vật dụng nào. Ví dụ: bức chân dung Khổng tử và
72 học trò, những người có nhiều công lao trong cuộc xây dựng đất nước, anh hùng
chống giặc, … là những bức chân dung mang được cả hồn của thời đại và hồn của
nhân vật, là những tác phẩm nghệ thuật chân thực có sức sống và rung động lòng
người. Ví dụ: Bức chân dung Trần Bang Cẩn, Bùi Mộc Đạc, …
Sự có mặt của hội hoạ trong nghệ thuật tạo hình thời Trần đã được chính người
thời ấy khẳng định và kể lại với chúng ta. Ngày nay, chúng ta còn có thể biết được
những yếu tố hội hoạ thời Trần qua những hình vẽ bằng đục của các nghệ sỹ chạm
khắc gỗ và đá, những hình vẽ bằng vật cứng và vật mềm của các nghệ sĩ gốm. Từ
những hình chạm nổi trên gỗ ở chùa Thày, chùa Bối Khê, chùa Dâu, chùa Thái Lạc,
…, ta thấy nghệ sĩ trong khi vận dụng thủ pháp chạm nổi nông, đã chú ý nhiều đến
tiếng nói chung của đường nét đã làm, là tiếng nói của mảng khối, và hiệu quả của
đường nét đã làm cho những bức chạm có hình như tờ tranh đồ họa. Sang chất liệu đá,
những hình chạm nổi và đặc biệt những hình khắc chìm lại càng toát lên chất hoạ một
cách rõ ràng và đầy đủ hơn nữa. Đó là những hình trang trí trên mặt tháp ở những phần
bằng đá. Đó là những hình trang trí trên mặt tháp ở những phần bằng đá, mặt bia và
nhiều hơn cả là trên mặt một số bệ tượng có niên đại thời Trần, hoặc ghi niên đại
nhưng thống nhất một phong cách nghệ thuật thời Trần. Trừ những hình chạm nổi cao,
tròn trịa và mập mạp do mảng khối của điêu khắc được vận dụng nhiều, tiếng nói của
đường nét của hội hoạ chỉ phụ họa vào để gia giảm thêm hiệu quả thẩm mỹ, còn rất
nhiều hình chạm nổi thấp mặt hơi vênh, rồi từ hình chạm nổi thấp đến mặt bẹt, đến

39
những hình khắc nét chìm, ta luôn thấy nghệ sĩ vận dụng ngày càng nhiều và càng
thành thạo những yếu tố của nghệ thuật hội họa, để ngay trên đá, nó đã như bức tranh,
khi in sang giấy thì giống hình được vẽ bằng bút. Những hình trang trí trên đá vô cùng
gần gũi với hội họa. Chính là những hình được nghệ sĩ tạo thành bởi thủ pháp khắc
rạch chìm những nét nông, mảnh, từng nét cứ hiện ra dưới lưỡi đục sắc khi thì nhịp
nhàng chính xác, lúc lại vung vẩy phóng khoáng. Những hình thực sự do nghệ sĩ vẽ
bằng đục như thế cả trên tháp, bia, và phổ biến là trên bệ tượng. Sớm nhất là từ những
hình khắc rạch trên phần đá của tháp Phổ Minh tạo ra cả hoa văn hoa lá, sóng nước và
mây trời đơn giản, sáng sủa rất sinh động viền quanh thân tháp.
Sang chất liệu gốm gia dụng và gốm kiến trúc, nhiều hình trang trí thực sự đã
trở thành bức tranh, nhìn vào đó ta chỉ còn thấy những yếu tố của nghệ thuật hội họa.
Bình gốm Bát Tràng tám múi là một bình cắm hoa cỡ lớn, về mặt hội họa là những
hình khắc chìm rồi tô màu nâu ở trên các múi. Bố cục hình vẽ trang trí theo đồ án dọc,
trên mặt của tám múi được vẽ tám bình cắm hoa khá giống nhau, có nhiều chi tiết
riêng vui mắt. Đặc biệt phải nói đến những hình vẽ bằng tay trên tháp Bình Sơn. Hoa
văn trang trí ở mặt tháp thường là in khuôn rồi dán vào, nhưng sau khi in xong được
sửa lại bằng tay và trực tiếp dùng vật cứng vẽ thêm vào, nên đường vuốt dứt khoát, nét
khắc rất sắc, làm cho hình hiện ra rành mạch, hồn nhiên, tươi tắn và duyên dáng.
Hàng loạt hoa lá được vẽ trên gốm, chạm khắc như vẽ trên gỗ và đá, là những
hoa và lá mọc trong ao, trong vườn Việt nam và luôn gây ấn tượng mạnh mẽ trong tình
cảm người Việt nam. Đó là hoa sen, hoa cúc, hoa mai.. và những dây leo trên giàn hay
bờ giậu của nhiều gia đình đã đi vào ca dao, vào thơ văn của dân tộc. Cả những cảnh
vẽ trên bình phong, trên quạt cũng là những cảnh đẹp của thiên nhiên Việt nam: ngồi
quán bên ao, cây già bên suối…, đến tranh chân dung thì phần lớn nhân vật là những
anh hùng, những dũng sĩ có công với dân tộc trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại
chống xâm lược Nguyên – Mông. Màu sắc mà hoạ sĩ thời Trần dùng vào tác phẩm hội
hoạ của mình cũng là màu của đất nước, của cuộc sống: màu vàng, màu đỏ, màu xanh,
và đặc biệt màu nâu.
Ngay trong bước đi đầu ấy, ta đã thấy mối quan hệ qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau
giữa chúng: Trên nhiều bia và bệ đá tượng Phật vừa có hình rồng, hình phượng, vừa có
hình dây leo, và thường thì hình rồng, hình phượng được chạm khắc công phu, chau
chuốt, còn hình dây leo thì đơn giản, phóng khoáng. Thạp gốm hoa nâu Cửa Triều và

40
bình gốm hoa nâu Bát Tràng là những đồ gốm gia dụng cỡ lớn của lớp trên, song
chẳng những xương đất, men và hoa nâu như ở vật dụng của bình dân, mà ngay cả cây
sen tuy nét vẽ đã tinh khôn và khép kín nhưng vẫn đều là đơn giản. Ngay trong tiền
giấy Thông bảo hội sao, bên cạnh những hình thuộc bộ tứ linh (rồng, phượng, lân,
rùa), lại có cả những hình quen thuộc với dân gian (rong, rêu, mây trời, sóng nước…).
Hội họa thời Trần, bên cạnh một số tranh độc lập, tự thân là một tác phẩm nghệ
thuật, như tranh chân dung, tranh người thực việc thực thuộc lịch sử nước nhà hoặc
lịch sử nước ngoài, ít tranh cảnh vật, …, thì đa số là những hình vẽ hoặc hình chạm
khắc đậm đà chất họa dùng để trang trí cho vật phẩm khác. Yêu cầu trang trí bằng hội
họa, và bằng chất họa của dân tộc ta ở thời Trần rất cao: trang trí ngoại thất, trang trí
nội thất, trang trí đồ dùng trong nhà, trang trí phương tiện đi lại, trang trí ngay cả quần
áo và thân thể, … Chính tính trang trí của hội họa thời Trần đã gắn giá trị nghệ thuật
của hình vẽ với giá trị thực dụng của kiến trúc, của vật dụng, và do đó càng thúc đẩy
nền nghệ thuật thủ công phát triển.
Qua những hình vẽ trên gốm và những hình chạm khắc như vẽ trên gỗ đá, ta
luôn thấy nghệ sĩ vận dụng những đường cong mềm dẻo và linh động, khi thì cuồn
cuộn, lúc lại thoăn thoắt, nhịp nhàng nhưng bao giờ cũng rõ ràng và thoải mái. Xen
vào đó, đường thẳng đôi khi cũng được lưu ý nhưng rất dè dặt. Cái thế chung của toàn
hình cũng theo hướng cong dẻo. Vì vậy, hình tượng bao giờ cũng tươi mát và gợi cảm,
chất họa toát ra từ nét chạm khắc còn mang nhiều chất thơ.
Về màu sắc, những hình vẽ của thời Trần còn lại cho ta biết rất ít. Màu sắc chắc
chắn của thời Trần mà ta được thấy mới chỉ còn có màu nâu vẽ trên gốm. Nếu chiếc
thạp đào được ở đồng Cửa Triều, màu nâu vẫn chỉ có một sắc độ đậm thì đến chiếc
bình hoa tám múi Bát Tràng, nghệ sĩ đã sử dụng thành thạo hai sắc độ đậm nhạt khác
nhau. Màu nâu của hoạ sĩ thời Trần là tiếp tục truyền thống màu nâu của hoạ sĩ thời
Lý, nhưng được phát triển thêm một bước, bên cạnh màu nâu đậm đã có thêm màu nâu
nhạt, cả hai sắc độ được vận dụng ngay vào một mẫu hình thật hài hoà, bên cạnh nhau
chứ không vờn khối.
Qua tài liệu văn tự, ta biết họa sĩ thời Trần đã vận dụng vào họa phẩm của mình
các màu vàng, đen, xanh, đỏ và biết làm tôn lẫn nhau bằng các mảng màu đối lập, như
vẽ núi xanh làm nền cho cây đỏ trên một bức bình phong.

41
Các họa sĩ thời Trần khi xây dựng nhân vật, điều băn khoăn chính là cuộc sống
nội tâm phong phú của nhân vật. Chẳng hạn khi vẽ tranh chân dung Trần Bang Cẩn,
hoạ sĩ có thể quả quyết “mọi vẻ phong lưu tô được hết”, nhưng vẫn cứ canh cánh rằng
“không tô choi chói tấm lòng son”. Rồi từ những hiểu biết tổng hợp, họa sĩ xây dựng
nhân vật hoàn chỉnh trong ý tưởng, sau đó ý tưởng ấy chỉ đạo bàn tay sử dụng đồ nghề
trong lúc sai khiến chất liệu. Vì vậy, những hình vẽ hoặc hình chạm khắc rất giàu chất
hoạ ở thời Trần mà ngày nay chúng ta còn thấy, nhân vật của họ không phụ thuộc vào
giải phẫu cơ thể, nhưng rất có duyên.
3.4. Nghệ thuật Gốm

Gốm men ngọc vẫn tiếp tục phát triển đến thời Trần. Nhưng bên cạnh đó, đặc
trưng nổi bật của gốm thời Trần là gốm hoa nâu. Nếu như vẻ đẹp quý phái, thanh thoát
dành để nói về gốm men ngọc thì sự chắc khỏe, nồng đượm dân dã, bình dị rất Việt
Nam dành cho gốm hoa nâu.

Gốm hoa nâu được làm từ đất sét thường hay đất sét trắng được phủ men nâu trắng
ngà, trang trí hoa văn bằng phương pháp khắc vạch và bôi màu nâu lên hoa văn với độ
đậm nhạt, sâu nông, dày mỏng khác nhau. Màu nâu được tạo nên từ oxit sắt có trong
đá son, đá thối, rỉ sắt và cả trong đất phù sa. Đây là loại gốm chỉ nung qua lửa một lần
và thuộc dòng gốm tô màu trên men, màu chảy hòa vào lớp men nên có độ bóng cao.
Gốm hoa nâu có xương gốm dày dặn, kích thước to lớn, dáng hình nhìn chung chắc
khỏe, hoa văn trang trí tương đối thoáng, chủ yếu bằng nét chìm phủ khắp thân sản
phẩm, mang đậm vẻ đẹp của nghệ thuật điêu khắc, được nhấn mạnh trên hình khối.

Dòng gốm Hoa nâu đặc trưng xuất hiện và tồn tại chủ yếu ở thời Trần (thế kỷ
XI-XIV) đã để lại một kiểu thức trang trí đặc biệt với nhiều loại hoa văn mà được sử
dụng nhiều nhất là hoa văn hoa lá dây.

MỸ THUẬT THỜI LÊ SƠ (1427- 1527)

1. Khái quát văn hóa xã hội thời Lê Sơ


Sau khi thắng quân xâm lược nhà Minh, thì Lê Lợi, một ông vua đã sống trong
nhân dân để kháng chiến, muốn nuôi dưỡng sức dân để hưởng lâu dài, nên hạ chiếu
cho các quan không nên xây dựng cung thất, lâu đài quá to, thêm khổ cho dân. Các đời
vua sau cũng theo chính sách đó, nên công việc kiến thiết rất hạn chế và không lớn lao.

42
Đối với nhà chùa thì Lê Lợi và các vua thời Hậu Lê, tiếp tục chính sách của Hồ Quý
Ly, thanh trừ những phần tử du thủ du thực. Trong thời Hậu Lê Nho giáo là độc tôn,
còn Phật giáo và Đạo giáo đều bị xem là tà đạo và bị hạn chế.
Thêm một yếu tố quan trọng nữa là thời Hậu Lê, mặc dù nông dân còn bị bóc lột
tàn nhẫn, thiếu thốn đói kém trăm phần, nhưng đã được giải phóng khỏi ách nô tì của
đại điền trang; họ có thể làm thêm nghề thủ công sau những ngày cày cấy. Nhờ điều
kiện kinh tế và tình trạng tinh thần như thế cho nên thời Hậu Lê là một trong những
thời xây dựng chùa và phát triển nghệ thuật tạo hình nhiều nhất trong lịch sử phong
kiến nước ta. Những di tích mỹ thuật còn đến nay phần nhiều do bàn tay người thợ
thời Hậu Lê trùng tu hay tân tạo. Bởi thế khi nói về mỹ thuật thời Hậu Lê, chúng ta
phải kể đến những đình chùa, tuy nguồn gốc là xây dựng từ thời Lý, Trần nhưng đến
thời thời Hậu Lê thì làm lại hoàn toàn khác hẳn so với thời trước. Di tích của thời Hậu
Lê chẳng những quan trọng về số lượng mà cũng là toàn diện hơn thời Lý, Trần,
những tác phẩm hội hoạ xưa nhất của ta còn cho đến nay cũng chỉ được sáng tác từ
thời Hậu Lê.

2. Sự phát triển của Mỹ thuật


2.1. Nghệ thuật kiến trúc
2.1.1 Kiến trúc cung đình.
2.1.1.2. Kiến trúc Đông Kinh (Thăng Long)
Trong công cuộc khôi phục lại đất nước, đưa tổ quốc tiến lên con đường phồn
vinh, vào đầu triều Lê, việc xây dựng và phát triển kiến trúc chiếm một vai trò khá
quan trọng. Trải qua hai mươi năm đô hộ của bọn xâm lược, nền kiến trúc nước ta đã
chịu một hậu quả nặng nề. Biết bao chùa, tháp bị đập phá, bao nhiêu lầu gác, cung điện
của các tầng lớp thống trị và nhà cửa của nhân dân bị thiêu đốt, huỷ hoại. Do vậy, sau
khi cuộc kháng chiến thắng lợi, cùng với việc khôi phục nền kinh tế, triều đình Hậu Lê
đã chú trọng đến việc tu sửa và xây dựng các công trình kiến trúc.
Trong nhiều mặt nhất là kiến trúc và điêu khắc, tính chất dân tộc được biểu hiện
rõ rệt, ví dụ chùa Keo ở Thái Bình hay đình Chu Quyến.
Trong bố cục chung của một ngôi chùa lớn thì nhà kiến trúc thời Hậu Lê còn
theo công thức cũ, như kiểu chữ “đinh”, chữ “công”, chữ “môn”, chữ “tam” theo kiểu

43
“nội công ngoại quốc”, … Nhưng kiến trúc “tam quan” trang trí kiến trúc đình, chùa
thì riêng Hậu Lê.
Một điểm đáng chú ý là kiến trúc gỗ Hậu Lê còn đến nay nói chung có quy mô
tương đối lớn, trong khi những công trình kiến trúc đồ sộ của Lý, Trần thì bị phá huỷ
không còn, một hai ngôi chùa, đình còn sót lại như chùa Thái Lạc, Bối Khê, chẳng hạn
thì nhỏ bé. Tiếng lớn, bé dùng ở đây là tương đối, vì chúng ta đã biết kiến trúc gỗ chỉ
cho phép phát triển một cách hạn chế kích thước của ngôi nhà, phát triển kích thước
một ngôi nhà gỗ đến chừng mực nào là phải thay đổi tất cả kỹ thuật xây dựng. Đối với
một ngôi đình to như đình Chu Quyến, với hai hàng cột giữa to, nền xà, kèo là những
khúc gỗ nặng hàng tấn. Đưa những khúc gỗ nặng ấy lên cao để lắp mộng khít vào nhau
là cả một vấn đề phức tạp, đòi hỏi người thợ phải có nhiều kinh nghiệm và một kỹ
thuật điêu luyện.
Nhưng chi tiết không có trong ngôi một ngôi nhà nhỏ, trở nên cần thiết trong
kiến trúc một ngôi đình chùa to lớn, như những “con đội”, “cái đấu”, “con chồng”, …
Những thượng lương, đầu dư, câu đầu, … trong đình lớn là bộ phận quan trọng cần
phải có trang trí. Trên nóc đình chùa Hậu Lê hình trang trí phát triển hơn thời Lý,
Trần, ví dụ hình “Lưỡng long triều nguyệt”, hình “con kim”, “con đao”, “con sô”, …
đó là những tác phẩm mỹ thuật mà nhà trang trí kiến trúc để nhiều công phu thể hiện.
Hình trang trí kiến trúc đặc biệt thời Hậu Lê đến nay hãy còn phổ biến là hình
“phượng” hay là “cá gáy” đấu nhau trên đầu trụ cổng. Phần trang trí kiến trúc này là
hình ảnh đặc biệt dân tộc rất quen thuộc ở nông thôn Việt nam.
Một bộ phận của đình, chùa mà thời Hậu Lê phát triển thành công trình kiến
trúc quan trọng là cửa “tam quan”. ở nhiều nơi, cửa “tam quan” là bộ phận mà nhà
kiến trúc đem hết tài sáng tạo của mình để tô điểm cho đẹp nhằm thu hút tín đồ. Một
số đình, chùa xung quanh Thủ đô Hà nội cũng đã cho thấy sự phong phú của thời Hậu
Lê về mặt này. Những tam quan như Đình Bảng, Hạ Hồi, chùa An Định, Văn Miếu, …
là những di tích đẹp của kiến trúc thời phong kiến nước ta.
Kiến trúc cung đình thời Hậu Lê tập trung vào hai việc chính là tu bổ cung điện
đền miếu ở Đông Kinh (Thăng Long) và xây dựng Lam Kinh.
Đông Kinh là Thăng Long cũ. Sau khi lên ngôi vua, Lê Lợi vẫn lấy tên nước là
Đại Việt và đổi tên kinh đô Thăng Long thành Đông Kinh. Về cơ bản thì vẫn giữ
nguyên bố cục của thành Thăng Long thời Lý – Trần, nghĩa là thành vẫn chia làm 2
44
lớp. Lớp trong là khu Hoàng thành, nơi ở và làm việc của vua và triều đình. Lớp ngoài
là nơi ở của quan lại, sĩ phu và các tầng lớp nhân dân. Trong khu vực Hoàng thành,
triều đình đã cho xây dựng và sửa chữa nhiều công trình kiến trúc. Đó là những cung
điện, lầu gác làm nơi ở của vua, hoàng hậu và các cung nữ, những cung điện làm nơi
hội họp, bàn bạc việc triều chính, nơi làm việc của các cấp chính quyền hoặc là các
kho chứa, ….
Năm 1428, Lê Lợi cho xây dựng nhiều cung điện lớn, như các điện Kính Thiên,
điện Cần Chính, điện Vạn Thọ là những công trình kiến trúc có tiếng thời bấy giờ.
Ngoài những công trình kiến trúc đồ sộ còn có những công trình kiến trúc đơn giản,
kích thước vừa phải, nhưng cũng khá đẹp, được người thời đó ca ngợi, tán tụng như
đình Quảng Văn, Nghị sự đường, Vân tập đường, … là nơi dùng để đọc sách và thi cử;
Một số công trình khác như cầu Ngoạn Thiềm, vườn Thượng Uyển, …Đến nay, các
cung điện, dinh thự, đàn tế không còn lại dấu tích. Tất cả đều bị các đời sau sửa sang
thay thế hết hoặc bị phá huỷ.
Hiện nay, chúng ta chỉ còn lại một số di vật của các công trình kiến trúc thời
này, đó là thành bậc cửa ở điện Kính Thiên. Nó gồm 4 thành chạy dài suốt chín cấp từ
dưới đất lên tạo thành ba lối đi vào điện. Đây là những tác phẩm điêu khắc bằng đá
còn tương đối nguyên vẹn. Hai dãy thành giữa chạm hình rồng uốn khúc đầu nhô cao,
bò từ trên nền điện xuống. Rồng có đầu to, sừng dài có nhánh, bờm mượt cuộn ra sau,
lưng rồng có kỳ nổi cao và sắc, mắt lồi, một chân đang cầm lấy râu.
Hai dãy thành bậc ở hai bên cũng được chạm thành khối cuồn cuộn nhưng
không phải là hình rồng mà chỉ là mây lửa và hoa lá cách điệu. Nét chạm sắc sảo, điêu
luyện vẫn giữ được truyền thống chạm đá thời xưa. Thành bậc có chiều ngang 13,7m,
chiều dọc 4,45m và cao 2,1m (đây cũng là chiều cao của nền điện). Qua kích thước to
lớn của thành bậc này, phần nào chúng ta cũng có thể hình dung được sự khang trang,
rộng lớn của điện Kính Thiên xưa. Đáng chú ý hơn, đây là những tác phẩm nghệ thuật
có niên đại chính xác, năm 1467. Nó phản ánh khá tiêu biểu cho nền nghệ thuật tạo
hình thời Hậu Lê, một nền nghệ thuật đã đi vào khuôn phép, trang nghiêm, khác với sự
tươi mát đầy sức sống của nghệ thuật dân gian.
Ngoài thành bậc cửa điện Kính Thiên, còn có thành bậc cửa ở đàn Nam Giao.
Đó là hai thành bậc ở về cùng một phía bên phải cửa, hiện được làm thành bậc cửa cho
sinh phần của Hoàng Cao Khải ở Thái ấp. Đây là những thành bậc cửa bằng đá, nhỏ

45
hơn các thành bậc cửa ở nền điện Kính Thiên nhiều. Hình dáng của nó giống hai thành
bậc cửa hai phía bên ngoài của điện Kính Thiên, nghĩa là được tạo thành những khối
cuộn, ngấn khúc theo dáng các hình mây lửa trang trí mặt cạnh phía ngoài của thành
bậc. Các hình trang trí trên mặt cạnh ngoài của nó cũng có nhiều nét khác hơn. Phía
trên, ta thấy có hình mây xoắn cuộn khúc, thỉnh thoảng có điểm những đường mác dài,
là lối trang trí gặp khá nhiều ở kiến trúc thời Hậu Lê. Trong vòng tam giác của khung
viền hình hoa chanh, đặc biệt có chạm nhiều đề tài mang chất dân gian lành mạnh. Đó
là hình hai con vịt đang chao mình bơi trên sóng nước, con trước ngoái đầu lại chờ,
con sau đang dướn cổ bơi nhanh. Phía trước nữa là hình chạm theo đề tài cá hoá rồng.
Nghệ nhân đã chạm một hình cá mình ngập trong nước, còn đầu và đuôi nhô lên cao.
Đuôi cá có hình giống đuôi cá thật, nhưng đầu lại có thêm râu, mặt, kiểu đầu rồng.
2.1.1.2. Kiến trúc Lam Kinh
Được coi là thủ đô thứ hai của đất nước, nay thuộc xã Xuân Lam (Thọ Xuân –
Thanh Hoá). Được khởi công xây dựng từ năm 1433, sau này bị hư hỏng và sửa sang
nhiều lần đến 1448 thì xong. Nơi đây được dựng lên để làm nơi tụ họp sinh sống của
họ hàng thân thích nhà vua. Đặc biệt, chung quanh điện là khu lăng tẩm của các vua và
hoàng hậu.
Khu điện Lam Kinh được xây dựng theo một đồ án hình chữ nhật, một chiều dài
315m và chiều kia dài 256m. Cạnh sau của khu điện cong nống ra ngoài gần như là
một cung tròn. Bốn bề cửa điện còn nhiều dấu tích của một thành bao bọc. Toàn bộ nền
của khu điện Lam Kinh được dựng trên một triền đồi thoai thoải nên nhà kiến trúc đã cho
bạt thành ba cấp bằng phẳng từ dưới lên, tạo thành ba lớp rõ rệt.
Lớp nền 1 gồm có: Cổng ngoài, cổng trong, sân điện, 1 cái hồ. Phía ngoài cổng
điện Lam Kinh còn có một số di vật bằng đá khác hình dáng rất lạ. Trong cổng là một sân
bằng phẳng. Có lẽ là sân chính của điện, mà các tài liệu quen gọi là sân rồng.
Lớp nền 2 là lớp có nền điện chỉnh. Lối lên là một bậc cửa khá lớn chia làm 3
lối đi, ngăn cách bởi 4 thành bậc. Cấu tạo và trang trí của bốn thành bậc này rất giống
với các thành bậc của điện Kính Thiên. Tiếp theo là nền điện dài 48m, rộng 37m hình
chữ “công”, gồm ba nhà gắn vào nhau.
Lớp nền 3 gồm: 9 nền nhà nhỏ và 1 giếng nước ở phía sau, được xây hàng
ngang so với toàn bộ khu điện, nhưng càng vào giữa trung tâm, chúng lại chếch dần về
phía sau, tạo thành một vòng cung cân xứng, đều đặn. Phía trước các nền nhà đều có
46
bậc cửa đi xuống lớp thứ hai, trang trí trên các thành bậc này chủ yếu là những hình
mây xoắn và các hình hoa lá khắc. Nét chạm trơn nhẵn, điêu luyện, độ chạm trông đều.
Ngoài khu điện Lam Kinh còn có bia Vĩnh Lăng, lăng Lê Lợi, …Cùng với các
trụ sở của công, để phục vụ cho việc trú ngụ của nhà vua lúc về các địa phương, triều
đình Hậu Lê còn cho xây dựng nhiều hành điện khắp các mọi miền. Những công trình do
Nhà nước đứng ra xây dựng để phục vụ cho họ hàng, những người có công.
Thời Hậu Lê chế độ điền trang đã tan rã nên không còn những phủ đệ to lớn trong
các thái ấp làm nơi ở của gia chủ và hàng ngàn gia nô như thời Lý, Trần nữa, nhưng thay
vào đó lại có những dinh thự cao đẹp của các tầng lớp địa chủ mới trỗi dậy.
NGHỆ THUẬT GỐM

Gốm thời Lê là bước phát triển tiếp nối của dòng gốm Lý - Trần. Song ở giai
đoạn này gốm men ngọc và gốm hoa nâu đã không còn được ưa chuộng, thay vào gốm
men trắng xanh giữ vai trò quan trọng và trở thành dòng gốm tiêu biểu của thởi kỳ
này. Đây là thời kỳ lịch sử có nhiều biến động, với nhiều cuộc chiến thay đổi triều đại,
cùng các cuộc khởi nghĩa của nông dân đã ảnh hưởng đến việc sản xuất đồ gốm. Trong
quãng thời gian dài, tùy lúc, tùy nơi, nghề thủ công gốm lên xuống thất thường. Tuy
vậy đây cũng chính là thời kỳ mà các trung tâm gốm nở rộ và mang tính chuyên
nghiệp cao hơn hẳn với những phong cách vô cùng đa dạng về nguyên vật liệu cũng
như về kiểu dáng, hoa văn trang trí và màu men. Nổi tiếng nhất phải kể đến làng gốm
Bát Tràng (HN), Chu Đậu (Hải Dương) chuyên sản xuất các sản phẩm gốm men trắng
xanh, men màu tam thái, ngũ thái, men rạn, làng gốm Thổ Hà (Bắc Ninh), Hương
Canh (Vĩnh Phúc) với thế mạnh là gốm sành nâu sắc đỏ không men, Phù Lãng (Bắc
Ninh) chuyên về gốm sành nâu phủ men da lươn, Đình Trung, Hiển Lễ (Vĩnh Phúc),
Vân Đình (Hà Tây) sản xuất đồ đất nung…Song nổi bật nhất thời kỳ này là dòng gốm
men xanh trắng mà có nhiều tài liệu gọi là gốm hoa lam.

Khác với gốm thời Lý - Trần, gốm men xanh trắng đã vượt qua các loại gốm
sành xốp, gốm đàn phổ biến của các giai đoạn trước đó, để tạo nên một bước phát triển
đỉnh cao rực rỡ cả về kỹ thuật lẫn nghệ thuật. Các mô típ trang trí trên gốm men xanh
trắng thời Lê cũng vô cùng đa dạng và phong phú hơn với các đồ án hoa văn sinh
động, mang đậm bản sắc dân tộc. Sản phẩm gốm thời kỳ này không chỉ đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng trong nước mà còn xuất đi nhiều nước khác trên thế giới.

47
Gốm men xanh trắng phát triển rực rỡ, mạnh mẽ thế kỷ XV-XVI và suy tàn vào
thế kỷ XVIII nhưng ảnh hưởng của dòng gốm này vẫn còn lưu lại trên các dòng gốm
thời kỳ sau.

MỸ THUẬT THỜI MẠC (1528-1597)


Mạc Đăng Dung là một quan vơ lên nắm quyền lật đổ nhà Lê đã suy tàn.

- Kiến trúc đình làng và những ngôi chùa có kích thước nhỏ, xây dựng các công
trình kiến trúc và điêu khắc gỗ, nhưng còn nhiều bí ẩn đối với chúng ta.

Một số đình làng nổi tiếng như đình Lỗ Hạnh xây Sùng Khang thứ mười (1576,
Hà Bắc), đình Tây Đằng , chùa Cói (Vĩnh Phú), chùa Thầy, chùa Bà Tấm (Hà nội)...
với những bức chạm rồng phượng, hoa lá.

- Hình ảnh con rồng cũng có những nét đặc trưng :

Râu dài,mảnh, thưa, lăn tăn như sóng gợn, khúc uốn của rồng có lúc nhịp điệu
làn sóng nhẹ, có lúc vơng lưng yên ngựa, mình nhỏ thanh, nhưng hiền hòa, không
phức tạp, dữ tợn như rồng Trung Hoa.

-Phượng có mỏ nhọn, ngắn, cánh xòe ra hơi cất lên đối xứng như cánh diều,
những lông ở đầu cánh có đường cong xoắn lại.

- Phù điêu trang trí với đề tài mô tả cuộc sống của người dân thường.
- Điêu khắc Phật giáo- đây cao hình tượng quan thế Am Bồ tát – người nghe tiếng kêu
thống khổ của chúng sinh, người có khả năng cứu độ chúng sinh. Sự xuất hiện hàng
loạt các tượng Phật 1000 mắt, 1000 tay, Quan Am nam hải ; là chuyện tất yếu. Những
tượng này biểu tượng cho sự thiêng liêng, niềm hy vọng của dân đen.

- Gốm Mạc là một giai đoạn mới so với thời Lý, Trần. Các đề tài trang trí thì
không thay đổi, nhưng cách biểu hiện thì rất đa dạng. Chúng được đắp nổi, chạm bong,
chạm lộng, áp khuôn, in hình nổi, kết hợp với nét vẽ hoa lam, hoặc phủ men lục, da
lươn, trắng ngà, trắng vàng...đặc biệt là lò gốm Bát Tràng.
NGHỆ THUẬT GỐM

Thời nhà Mạc, các sản phẩm gốm không còn sự phát triển rực rỡ nữa mà dần đi
vào quỹ đạo đơn giản, đi theo xu hướng dân gian, mang chất lượng thấp. Sản phẩm
48
gốm thời kỳ này được lưu thông rộng rãi do chính sách nhà Mạc đối với công thương
nghiệp cởi mở hơn, không chủ trương “ức thương” như trước nên kinh tế hàng hóa có
nhiều điều kiện phát triển thuận lợi hơn. Riêng trên dòng gốm Bát Tràng thời Mạc có
nhiều sản phẩm có minh văn ghi rõ năm chế tạo, người đặt hàng và nơi sản xuất. Sản
phẩm gốm Bát Tràng kế thừa những kỹ thuật của gốm men xanh trắng nhưng thay đổi
phong cách nhằm đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng đương thời.

CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT DÂN GIAN


TRANH DÂN GIAN
Tranh dân gian hay còn gọi là tranh khắc gỗ chắc chắn có ở Việt Nam từ rất lâu,
nhưng thực tế sự phát triển của nó rực rỡ nhất là vào thế kỷ XVII. Người nghệ sỹ là
những nông dân có cuộc sống mộc mạc, họ tận dụng những tyhời gia rảnh rổi để làm
tranh. Tranh dân gian được chia thành các lọai sau:
Tranh Tết: dùng trang trí trong những ngày Tầt cổ truyền với những đề tài mang
ý nghĩa cầu chúc có một cuộc sống hạnh phúc, no ấm. Chúc sự thành đạt. Loại tranh
này chiếm số lượng nhiềy nhất, nên đôi khi người ta gọi tranh dân gian là tranh Tết.
Ngày Tết trong mỗi gia đình; dù nghèo hay giàu cũng đều treo tranh tạo sự ấm cúng,
vui vẻ như tranh gà đàn, Lợn đàn, Vinh quy bái tổ…
Tranh châm biếm: dùng phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội với lối tả dí
dỏm, hóm hỉnh tạo tiếng cười phê phán tinh tế: “Đánh ghen” – phê phán thói trăng hoa
của các ông chồng, “Đám cưới chuột” – thói xu nịnh, hách dịch…
Tranh thờ cúng: cũng là một lọai tranh phổ biến. Tranh vẽ các thần, anh hùng
dân tộc, thành hòang, ngũ hổ.

Tranh Tết: dùng trang trí trong những ngày Tầt cổ truyền với những đề tài mang
ý nghĩa cầu chúc có một cuộc sống hạnh phúc, no ấm. Chúc sự thành đạt. Loại tranh
này chiếm số lượng nhiều nhất, nên đôi khi người ta gọi tranh dân gian là tranh Tết.
Ngày Tết trong mỗi gia đình; dù nghèo hay giàu cũng đều treo tranh tạo sự ấm cúng,
vui vẻ như tranh gà đàn, Lợn đàn, Vinh quy bái tổ…

49
TRANH LỊCH SỬ

- Những sự kiện lịch sự dân tộc

- Những nhân vật lịch sử: Bà Trưng, Bà Triệu cưỡi voi đánh giặc, Đinh Bộ Lĩnh
cờ lau tập trận…
TRANH SINH HOẠT

Đây là một trong những thể loại chiếm số lượng nhiều và phong phú, phản ánh
một cách sinh động đời sống của người nông dân.

Những sinh hoạt đời thường của người nông dân ở nông thôn: những công việc
nhà nông như cấy, cày, bừa, gặt hái, cảnh sinh hoạt trong gia đình: trẻ em chơi đùa
ngoài sân, ngừơi già ngồi hàn huyên uống trà, trong sân những đàn lợn, gà, chó, mèo,
chim…

Những sinh hoạt khác: tiếng sáo mục đồng, những sinh hoạt văn hóa trong dịp lễ,
tết, hội làng, cả cảnh làm mai mối cho trai gái nên duyên vợ chồng, Thanh niên rước
trống, Rước rồng

TRANH VĂN HỌC: thường lấy nội dung của Truyện Kiều, Thạch Sanh làm đề
tài
Tranh dân gian thường không đề tên tác giả, chúng được làm bởi những nhóm, thường
thi do các thành viên trong gia đình làm, mỗi người chịu trách nhiệm một khâu, từ em
bé đến cụ già đều có thề tham gia .
Quy trình làm tranh dân gian:
Người nghệ sỹ vẽ tranh lên giấy
Dán tranh lên một miếng ván, dùng các dụng cụ để đục, khắc nét trên ván
In tranh là công đọan cucối cùng. Có hai cách in: 1: in chỉ một lần lấy nét rồi sẽ
tô màu lên sau, 2: in mỗi màu một lần – như vậy mỗi màu là một miếng ván in. Như
thế đòi hỏi sự chính xác cao, và nét đen là in sau cung.
Giấy in tranh: dùng loại giấy được làm từ cây dó; vì thế người ta gọi là giấy dó.
Lọai này rất dễ thấm mực, có độ loang nhất định và được làm bằng phương pháp thủ
công.

50
Màu dùng vẽ tranh: nguyên liệu chủ yếu lấy từ thiên nhiên: lá cây, trái cây, đất
… được chế biến. Tranh dân gian thường có gam màu rất tươi, phù hợp với không khí
vui tươi ngày tết, những gam màu chủ yếu là : màu vàng, xanh, đỏ, đen…
Một số dòng tranh nổi tiếng:
Tranh Đông Hồ: (gần ngọai thành Hà Nội): là một dòng tranh nổi tiếng với tất cả
các lạoi đề tài. Đặc trưng kỹ thuật của dòng tranh này là mỗi bức tranh đều được in
nhiều lần, mỗi màu một lần in, gam màu tươi tắn, bố cục giản dị, hình chắc khỏe.
Tranh Đông Hồ có mặt kháp mọi nơi trên đất nước.
Tranh Hàng Trống: (Hà Nội): kỹ thuật in khác tranh Đông Hồ ở chỗ; tranh chỉ in
nét một lần, sau đó người nghệ sỹ sẽ tô màu sau, như vậy người nghệ sỹ có thể có sự
tự do phóng bút khi tô màu.
Tranh làng Sình (huế), tranh Nam Bộ và tranh thờ cúng của các dân tộc ít người:
chủ yếu dùng để thờ cúng.

ĐIÊU KHẮC ĐÌNH LÀNG VIỆT NAM


Đình làng có từ trước thế kỷ 16, nhưng những đình còn lại là từ thế kỷ 16. Là
loại nhà công cộng của làng xã, nơi thờ thành hoàng địa phương, nơi tụ họp đình đám
hội hè, nó thực hiện
Chức năng:
- Tôn giáo: thờ thành hoàng, sơn thủy thần...
- Hành chính: gần như một triều đình nhỏ các chánh tổng, lý trưởng, hương lý
giải quyết mọi việc trong làng ở đình
- Văn hóa: nơi đây diễn ra các lễ hội, sinh hoạt văn hóa của làng. “Cây đa, bến
nước, sân đình” đã trở thành biểu tượng của làng xã.
Thế đất xây đình: Người ta cho rằng nếu chọn hướng, vị trí đình không tốt sẽ ảnh
hưởng xấu đến làng. Vì vai trò của ngôi đình quan trọng nên được chọn rất kỹ lưỡng,
thận trọng, là một phần của quy hoạch, tạo cảnh.
- Đình thường quay về hướng nam (các vua đều ngồi quay về hướng này), các
thành hoàng cũng ngồi quay về hướng nam, hướng gió mát mẻ
- Có sân, ao, cây cối, bãi cỏ, gò đống
- Vị trí tiện lợi cho việc qua lại, tụ họp của các xóm chứ không phải bắt buộc ở
giữa làng

51
Kiến trúc đình: kiến trúc đình làng là một thành tựu của lịch sử Mỹ thuật VN. Kiến
trúc gạch, gỗ là truyền thống lớn nhất, thì đình làng là ngôi nhà gỗ lớn nhất với những
đặc trưng cơ bản:
- Khung gỗ được tạo nên bởi các vì kèo và các vì kèo cách nhau 1 gian. Chúng
được nối bởi các xà ngang. Khung gỗ được đặt trên các chân cột, trên nền, có
thể tháo ráp được.
- Mái nhà: cao và rộng. Chiều cao của mái = 2/3 chiều cao của đình: có mái 4
chiều, 2 trái thấp hơn so với các đầu đao cong vút lên. Đây là kiến trúc đặc
trưng VN.
- Nền nhà cao, có khi như cấu trúc nhà sàn: sàn có chiều cao 70-100cm
- Tường bao quanh có thể tháo ráp đực cả hệ thống cửa gỗ, cũng có khi là tường
gạch, chỉ giữ vai trò vách ngăn, không chịu lực
- Chỉ có bàn thờ đặt ngay giữa, còn lại là mặt bằng để trống
Mặt bằng: đơn giản và khúc triết: xung quanh đất không có tường rào bao.
Đình Lỗ Hạnh (Bắc giang): được coi là có niên đại sớm nhất. Trên cốn có ghi
ngày 7/6/1576 (năm Sùng Khang thứ nhất). Lúc đầu đình xây theo kiểu chữ nhất rất
phổ biến, sau đó xây thêm chuôi vồ thành chữ đinh (J).
Đình Tây Đằng (Hà Tây) thì cho đến nay vẫn là cấu trúc kiểu chữ nhất khá
nguyên vẹn so với ban đầu. Đình được làm năm quí mùi (1583) trên khung cột.
Đình Thổ Hà (Bắc Giang) cũng có kiến trúc chữ nhất, nhưng nay là chữ I thay đổi theo
thời gian.
Thế kỷ 16: đình chỉ có cấu trúc chỉ là chữ nhất; tức có một tòa nhà với 3 gian, 2
chái, kích thước 20 x 10 m, không dài quá 30m không rộng quá 16 m. Gian giữa lớn
hơn, các gian được chia ra bởi các vì kèo liên kết 4 hàng cột: 2 cột cái và 2 hàng cột
quân nhỏ hơn. Hai cột cáí nối nhau bằng 1 thanh xà là câu đầu, chỉ kê lên đầu cột cái
chứ không có mộng, ở các đầu cột cái có đầu dư vươn ra đỡ câu đầu .
Thế kỷ 17: Kiến trúc đình có thay đổi: xuất hiện hậu cung dựng liền sau đại
đình thờ thần. Trước đây chỉ thờ ở đền, nghè, nay rước về đình, đó là sự gần gũi với
dân làng, phần lớn các đình được mở rộng hơn. Có 6 hàng cột (thay vì 4 như thế kỷ
16): thêm 2 hàng cột hiên ngoài hành lang để nâng mái; liên kết giữa cột quân và cột
hiên là kẻ: thanh gỗ dài nối 2 hàng cột bằng mộng; trên kẻ là ván dong
Thế kỷ XVIII : Thế kỷ 18

52
Kiến trúc đình làng càng trở nên đa dạng hơn
Mặt bằng kiến trúc phức tạp hơn:
Có thêm loại kiến trúc kiểu chữ nhị thêm một nhà sau đại đình
Có thêm loại kiến trúc kiểu chữ tam thêm một nhà trước đại đình
Có thêm loại kiến trúc kiểu chữ công (đình Bảng, Bắc Ninh
Thế kỷ XIX: có thêm kiến trúc chữ khẩu : 4 ngôi nhà nối nhau vuông góc.
Ban thờ:
- Trong thờ thành hoàng,
- cờ xí, bài vị, vũ khí,
- hoành phi câu đối
Kiến trúc đình làng thay đổi theo thời gian mặc dù các đình có pha trộn các yếu tố có
niên đại khác nhau.
Những ngôi đình có niên đại xưa nhất là ở lưu vực sông Hồng cũng chỉ thuộc thế kỷ
16. Dù theo tài liệu viết chắc chắn có những ngôi đình xưa hơn rất nhiều, có khi ngay
sau văn hóa Đông Sơn: mái đình cong giống như hoa văn trên trống đồng. Đình ở
miền Trung và miền Nam cũng có những nét khác với đình ở miền Bắc.

Đình Trung Bộ
Chịu ảnh hưởng của kiến trúc nhà dân dụng, thích nghi cho việc phòng chống bão, lũ
nên cột giữa nhô cao đến tận nóc, chịu lực, tạo thành vì kèo chữ thập (+).
Khi người Việt di cư vào phía Nam đình cũng được xây dựng. Nhưng hiện nay không
tìm thấy các đình thế kỳ 15,16, mặc dù tương truyền có đình ở miền Quảng Nam từ
thời Hồng Đức (1476, Lê Thánh Tôn).
Đình Hà Thượng ở Gio linh, Quảng Trị (1690) 4 xã cùng xây nhưng phần đông các
đình miền trung xây vào thời các chúa Nguyễn hay vua Nguyễn. Các đình ở miền
Trung có những đặc điểm giống nhau và khác đình ở miền bắc:
- Chịu kiến trúc nhà dân dụng miền Trung
- Thích nghi việc phòng chống bão lụt lớn: cột giữa nhô vao đến tận nóa, chịu lực, tạo
thành vì kèo chữ + trong 2 vì có 4 cột đặt trên tảng đá ; kiểu nhà rường
- Thường có 3 gian, 2 chái như nhà rường dân dụng nhưng kích thước lớn hơn. với 24
hoặc 36 cột (do mở thêm 2 hàng liên ở phía sau.

53
- Không có xà nách nối cột cái với các cột con mà chỉ có những trếnh hay xuyên (loại
xà) nối các cột cái còn từ cột cái ra cột con thì không có mà chỉ có liên kèo
- Thường có cấu trúc chữ tam ; đình Phú Xuân, Huế.

Đình miền Nam


Từ thế kỷ 17 (1698); khi Nguyễn Hữu cảnh – chưởng Cơ vâng lệnh chúa Nguyễn Phúc
Chu lập ấp: các ngôi đình cũng được mọc lên và chúng được trùng tu nhiều lần. Đặc
điểm của đình miền Nam:
- Là quần thể gồm nhiều nhà vuông có 4 cột cái (tứ trụ hay tứ tượng) mở ra 4 phía
bằng kèo đâm và kèo quyết vuông vức.
- Là nơi thờ tự, chứ không ở. Có người cho rằng do ảnh hưởng của Stupa (thap Ấn Độ;
có nhười cho là người Việt đã xây những nhà như thế – nơi sinh hoạt của từng làng,
xóm phát triển
- Các nhà này gọi là nhà xuyên trính gần giống như nhà rường miền Trung: 4 cột cái
nối nhau theo chiều ngang
Mặt bằng kiến trúc có khác và đơn nguyên kiến trúc những ngôi nhà có chức năng
riêng biệt theo thứ tự từ ngoài vào : cổng - Đàn thờ xã tắc (bằng bệ xây gạch) – Bình
phong (xây bằng gạch) – Bia ông hổ (vẽ trổ rồng) – nhà Vơ ca (chỉ có ở đình Nam bộ,
nơi tập kết người và nghi trượng cúng tế, diễn tuồng) – nhà Chầu (dành cho người
cầm chầu khi có hội hè) - ngôi nhà Sở – nơi làm việc

ĐIÊU KHẮC ĐÌNH LÀNG


Là nguồn tư liệu quí để nghiên cứu:
- Lịch sử mỹ thuật VN
- Đời sống sinh hoạt, tinh thần của người nông dân
Nói đến điêu khắc đình làng là nói đến nghệ thuật trang trí:
Gắn liền và hài hòa với kiến trúc, người thợ đã biết tận dụng những phần gỗ dư bắt
buộc phải có trong cấu trúc làm chức năng chịu lực để đục, chạm thành những hình thù
phong phú, đẹp mắt gây sự chú ý của người thăm quan như các đầu dư, đầu bẩy, xà
nách v.v. đã được che đậy bằng những hình rồng...
Một ngôi đình thường có 2 hiệp thợ làm tạo sự phong phú về phong cách, luật trang trí
được nới lỏng

54
Ngay từ những đình thế kỷ 16 (Tây Đằng, Lỗ Hạnh) cho thấy trang trí rất phong phú.
Đình Tây Đằng hầu như không có chỗ nào trống trên gỗ mà không được chạm khắc
trang trí với các loại hình:
Rồng: chiếm những vị trí quan trọng nhất: vì nóc, con sơn, đầu dư, rồng mắt to, cầm
bạnh, rồng chầu, cá hóa long không con nào giống con nào
Tiên nữ: được chạm thành tượng tròn: tiên nữ đang thổi sáo ngang, sáo dọc, đánh
đàn...
Thú : voi lồng, ngựa bay, phượng bay trong mây, hươu chạy
Sinh hoạt: là những đề tài sinh động nhất:
Đốn củi Bắt rắn
Cày voi Chồng làm xiếc
Đuổi hổ Chèo thuyền uống rượu
Hình thù kỳ dị
Điêu khắc một số đình nổi tiếng
Đình Tây Đằng: (theo phong cách kiến trúc và điêu khắc thế kỷ 16: có đề Tây Đằng,
thị trấn Ba vì, Hà tây) Thờ Sơn tinh – thần núi, xây năm quý mùi (1583)
Đình là ngôi nhà hình chữ nhật 3 gian, 2 chái và 2 nhà hữu mạc ở hai bên, 48 cột 8
hàng ngang và 6 hàng dọc, có hàng hiên bao quanh. Đình lợp ngói, có đầu đao cong
vút có gắn tứ linh bằng gốm. Hình ảnh rồng giống thời Trần: thú 4 chân có sừng, tai.
Phượng múa cánh xòe hai bên, đầu to, cổ mập, mỏ ngắn, đuôi ngắn
Voi lồng, hình hoa lá: cúc, phù dung.
Chặt củi
Mẹ gánh con
Bơi thuyền sống dộng nhưng bị hư nhiều mất nhiều.
Trồng chuối
Trai gái chải tóc cho nho nhau
Đình Lỗ Hạnh: thôn Lỗ, xã Đông Lỗ, Hiệp Hòa, Bắc Giang. Thờ Cao Sơn Đại Vương
người giúp vua Hùng đánh giặc.
Dựng vào thời Mạc (1576?), tu sửa nhiều lần. Trên các thanh rường, xà, ván nong, cốn
đều được chạm trổ thành các hình rất sống động với: Rồng, Phượng,Cá hóa long, Hoa
lá, Mây lửa, …
Có thể gọi TK. 17 là thế kỷ của đình: số lượng nhiều, Điêu khắc giá trị cao

55
Kỹ thuật chạm lộng, chạm bong tạo nhiều lớp chồng chéo tách khỏi nền để trở thành
những bức chạm hoàn thiện. Có đình còn tạo hẳn hai cây cột nối hai vỉ kèo để chạm
hai đề tài, một hoạt cảnh có hàng ngàn nhân vật. Có lúc dài đến 5m, cao 1,2 m dày 0,7
m với 4 -5 lớp chạm: chú trọng khoảng cách giữa các hình thể; sự vặn, kéo dài, thu
ngắn hình thể càng thể hiện rơ vào cuối thế kỷ 17.
Tương quan trong cấu trúc không gian tạo nên hiệu quả thẩm mĩ của đk đình làng.
Mỗi đình là 1 phong cách phù điêu, nhưng vẫn có điểm chung của từng vùng rơ rệt.
Thế kỷ 17 điêu khắc đình có những hiệu quả lớn về nghệ thuật học, tính chất nhân văn
trong từng bức chạm và tổng thể.
Đình Chu Quyến, Đình Bảng ,đình Hạnh Thổ Hà,, Đình Yên Sở có những hoa văn
trang trí rất sinh động: người, rồng phượng.

THẾ KỶ 18
Cũng còn nhiều đình có đk trang trí đẹp Đình Bảng.
Song sự suy giảm của phong trào dựng đình kéo theo sự đi xuống của điêu khắc.
Nghệ thuật chạm bong nhiều lớp thế kỷ 17 ít dần.
Đường nét nuột nà hơn, khéo léo hơn, do tính phù điêu giảm, nhưng tính chất trang trí
lại thể hiện rõ nét được nét chạm súc tích, ít rối rắm.
Thay vào đó là các ô hình học trang trí như ở vòng của Đình Bảng, Đình Bình Lục.
Quay lại kiểu chạm mặt phẳng của Đình Tây Đằng, các đề tài: ngựa, thú, mèo ngoạm
cá- hình to, chạm nông, thô mộc:- chèo thuyền - quan văn vinh quy - đánh cờ
- cất vó đánh cá - thi đấu
- Phong cách độc đáo và tâm hồn sôi nổi (cả những cảnh vui nhộn của đôi trai gái,
nhất là ở đình Phù pháo.).
Các Đình miền Trung: điêu khắc trang trí không phong phú như ở đình miền bắc;
không có cảnh sinh hoạt, còn: Tứ linh, Đắp nổi, vôi, vữa, gắn sứ.
Các đình miền Nam: chủ yếu thế kỷ 19, có lối trang trí đắp nổi mặt ngoài giống như
đình ở miền Trung, nhưng trên gỗ có khác biệt: 4 cột gỗ được trang trí hình rồng long
trụ hoặc tứ linh.Các bao lam trước điện cùng chạm hình tứ linh, cá hóa long rất tinh
vi.

56
MỸ THUẬT THẾ KỶ XVIII

Là một thế kỷ phức tạp của lịch sử VN. Phần thịnh ở thời kỳ dầu, chiến tranh,
khủng hoảng ở thời kỳ cuối. Cho đến chiến thắng của Nguyẽn Huệ chấm dứt thời kỳ
mở mang bờ cơi. Đây là giai đoạn phát triển rực rỡ của văn hóa nghệ thuật Việt Nam.
Văn hóa làng xã phát triển đến đỉnh cao rồi đi vào suy tàn hòan tòan.

Ngay từ nửa thế kỷ XVII giáo lý Nho đã không còn giữ vững vai trò quan trọng
như trước đó. Phật giáo tích cực trở lại nhất là những lễ nghi. Thời kỳ này sản sinh ra
những bộ óc khoa học lớn: Phan Huy Ích với Lịch triều hiến chương loại chí, Lê Quí
Đôn – nhà sử học, Lê Hữu Trác – nhà y học, Đoàn thị Điểm – nhà thơ, văn, Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Du, Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều, Đào Duy Từ ...

Nghệ thuật tạo hình phát triển mạnh, với quy mô đồ sộ về số lượng, đa dạng và
phong phú.

KIẾN TRÚC

Tiếp tục phát triển những công trình kiến trúc Phật giáo.

Mở đầu là xây dựng lại quy mô chùa Giám (chùa trăm gian, Hải Dương) xây từ
năm 1619 – 1635) với những tác phẩm điêu khắc trang trí.

Xây dựng lại chùa Kim Liên (Từ Liêm, Hà Nội) 1792 trên nền đất cũ từ thời Lý
thần Tông, sát hồ Tây với kiến trúc đặc sắc: có cổng tam quan; cụm kiến trúc chính có
3 nếp nhà mái kép song song chữ Tam; các đầu đao cong giăn ra vườn cây rậm rạp -
như bông sen vàng trên mặt nước, tên chùa Kim Liên

Kiến trúc lăng tẩm: đền Phú Gia, Lăng Đinh Hương, lăng họ Đỗ (Hà Bắc), lăng
Bầu (Xuân cẩm Hà Bắc)

Kiến trúc đình làng: tiếp tục xây những đình nổi tiếng:

- Đình Bảng (Hà Bắc) là kiểu đình điển hình của nghệ thuật này. (20m x
14m cao 8m) có 7 gian chính, 2 gian trái, 60 cột, có tam quan, trang trí
điêu khắc đẹp.

57
- Đình Phú Mỹ (Mê Linh, Hà Nội))

- Đình Hồi Quang (Hà Bắc),

- Hoàng Sơn (nghệ An

- Hàng kinh (Hải Phòng)

Đình làng càng về cuối càng trở nên khô khan

Kiến trúc Phật giáo: hòa vào thiên nhiên, có hồ rộng, lưng chừng núi hòa vào cây
cối, mây núi v.v. tạo những công trình độc đáo, đặc sắc.

Kiến trúc lăng tẩm mới bắt đầu

Có thể nói thế kỷ 18 là thời kỳ mà điêu khắc Phật giáo phát triển rực rỡ ở các
chùa Bắc Bộ. Là thời kỳ mà nhiều tượng Phật được xác định rơ niên đại. Hàng loạt các
chùa được trùng tu, xây mới và hệ thống tượng rất đặc sắc được thể hiện trong một số
chùa tiêu biểu:

- Chùa Giám: Trong khoảng năm 1706 – 1718 đã có 46 pho tượng chính
cho chùa. Với các văn bia ghi rơ năm đúc tượng

- Tượng Đế thích (1708)

- Tượng Adiđà (1712)

- Quan âm (1711)

- Đức Thánh (1711) bằng vàng

- Mục Liên (1711) bằng vàng

- 18 vị La hán, 8 Kim Cương (1715)

Ngày nay bị xáo trộn nhiều so với lúc đầu

- Chùa Kim Liên: Hệ thống tượng nhiều, mang tính hỗn hợp, thần Phật
nhiều hơn:

58
- Đức ông, Quan Hầu, Ngựa hồng, Bà thủ đền, bà chúa Quỳnh Hoa, ông
Hoàng...

- Văn Thù Bồ tát

- Phổ Hiền Bồ tát

- Tông Ngộ Không

- Quan âm 12 tay, cao 1.2m

Chùa Mía: tượng ở chùa Mía (Sùng Nghiêm tự, Ba vì, Hà Nội) là sự tập hợp
không thuần nhất; do nhiều lần dồn chùa, đền nên các tượng từ nơi khác đến, nhưng
tượng thế kỷ 18 chiếm căn bản. Chùa được trùng tu năm 1632. Hiện nay có 287 pho
tượng. Trong đó có những tượng quý:

- Tượng tuyết Sơn

- Quan âm tống tử

- Bát bộ Kim cương: 8 pho tượng cao 220 cm (cả bệ) đặc trưng cho loại
tượng tròn bằng đất sét phủ sơn. So với tượng gỗ chùa Tây Phương thì
tượng ở chùa Mía có vẻ mạnh mẽ hơn ở những động tác.

- 18 pho tượng La hán cao 135 cm là đất sét phủ sơn

- Tượng Bồ tát

- Tượng di Lặc được đánh giá là Dilặc đẹp nhất trong điêu khắc cổ VN.

Chùa Tây Phương: cũng kiểu kiến trúc trên nhưng độc đáo hơn, thành công hơn
(1794, Thạch Thất, Hà Tây) do quý tộc Phan Huy Ích cùng nhân dân xây lại trên ngọn
núi , là khối kiến trúc mái cong duyên dáng. Có 3 tòa nhà: Thượng, Trung, Hạ

Trang trí đặc sắc

Văn thù cao 172 cm đứng bên phải Dilặc, bệ cao 442 cm. Hai tay chắp phía
trước, chân đất, các ngón chân bấm móng xuống bẹ, vòng tràng hạt nổi cao chạy trong
nếp y phục. Xiêm y buông rủ, khối chắc chắn.

59
Phổ Hiền: cao 173 cm + 40 cm bệ. Chắp tay trước ngực, mắt sáng, xiêm y rộng
phủ toàn thân với những ếp xếp chạy từ trên xuống mềm mại, chân đi đất.
Bộ tượng kim cương: Thể hiện sự vận động mạnh mẽ của hình thể, phong phú về
tư thế, động tác, tính khí: (Huy Cận “Các vị La hán chùa Tây phương”)

Bộ tượng Di đà tam tôn:

A di đà cao 184cm: tượng đứng, thuộc loại hiếm thấy, một tay dẫn đường, một
tay nép, cầm ngọc

Di lặc cao 165 cm (tính cả bệ tượng) thế giới cực lạc trong tương lai, ngồi hơi
ngả về sau, toàn thân là khối đặc khép kín, thỏa măn, vui vẻ.
Thế Chí cao 179 cm
Tuyết Sơn cao 138 cm + bệ 39 cm, màu đen thẫm, mô tả thích ca một ngày ăn 1
hạt Kê, 1 hạt vừng đề hành xác, vươn tới thế giới tinh thần sáng láng. Chân phải gập
vào lòng tay phải đặt trước bụng. Chân trái chống cằm tay trái ôm đầu gối. Khoác áo
cà sa mỏng hở da thịt,các xương lộ rõ. Nhấn chìm toàn bộ cơ thể trong suy tưởng, đối
lập với khối đầu tròn, căng, trán cao rộng, mắt trũng sâu, hướng nội giới.
Văn thù cao 172 cm đứng bên phải Dilặc, bệ cao 442 cm. Hai tay chắp phía
trước, chân đất, các ngón châm bấm móng xuống bẹ, vòng tràng hạt nổi cao chạy
trong nếp y phục. Xiêm y buông rủ, khối chắc chắn. Văn thù cao 172 cm đứng bên
phải Dilặc, bệ cao 442 cm. Hai tay chắp phía trước, chân đất, các ngón chân bấm
móng xuống bẹ, vòng tràng hạt nổi cao chạy trong nếp y phục. Xiêm y buông rủ, khối
chắc chắn.

Phổ Hiền cao 173 cm + 40 cm bệ. Chắp tay trước ngực, mắt sáng, xiêm y rộng
phủ toàn thân với những ếp xếp chạy từ trên xuống mềm mại, chân đi đất.

Bộ tượng tam thế

Quá khứ – Hiện tại – tương lai: cao trung bình 2126 cm (tính cả bệ). Về cơ bản
các tượng này giống nhau; chỉ khác ở thế tay; tọa thiền; y phục phủ kín cơ thể, nếp xếp
đơn giản, mềm mại, đài sen nhiều lớp; bệ hình bát giác 3 tầng có trang trí vòng hào
quang chạm khảm.

60
Thập điện diêm vương

18 Vị La hán – tượng các vị tổ là những tượng đep và mang tính chất hiện
thực cao: nội tâm, số phận riêng biệt, điển hình về tướng mạo
Điêu khắc lăng mộ ở lang Ninh Hương, Hiệp Hòa, Hà Bắc bằng đá mang đậm
yếu tố nghệ thuật dân gian: Tương quan võ dắt ngựa, trượng quan võ, tượng người
hầu gái…

61
MỸ THUẬT THỜI NGUYỄN

1. KIẾN TRÚC KINH ĐÔ HUẾ (PHÚ XUÂN)


Khi vua Gia Long đại định thiên hạ lúc mới về Phú Xuân, triều đình đóng trên gò
Dương Xuân.

Năm 1804 sai Nguyễn Văn Yến và Đỗ Phúc Trạch với sự giúp đỡ của chuyên
gia phương Tây phá hết thành quách cũ có từ thời Vơ Vương.

Năm1739 xây dựng lại kinh thành Huế .

- Dựng điện Cần Chánh để thiết thường triều

- Dựng điện Thái Chánh để thiết đại triều.

- Khi vua Minh Mạng lên ngôi đã quy hoạch lại Hoàng Thành gồm ba vòng
thành gần vuông:

- Vòng thành ngoài chu vi gần 10km, mặt trước trên đường trục dựng kỳ đài
xung quanh trổ 10 cửa, có hào sâu bao quanh, có nơi làm việc ở bên trong, trụ sở của
triều đình, vườn cảnh.

-Vòng thành giữa, trên đường trục có cửa thành Ngọ Môn cửa chính đứng phía
trước, chu vi vòng thành khoảng 2,5km đều xây bằng gạch lớn (gạch vỡ ) cũng có hào
sâu như vòng ngoài, tiếp các cửa có kiến trúc Ngọ Môn cửa chính xây dựng năm 1833
triều vua Minh Mệnh.

Ngọ Môn cao 14m80 gồm 2 phần chính: phần dưới có phương thức tường thành
“Thượng thu hạ thách” độ dốc dường như thẳng đứng vững chãi ,bề thế, chất liệu xây
gạch vồ khổ to. Nền lát đá và mép viền quanh diềm cổng, chân thành bằng đá , tổng
chiều dài 57m95 gồm 5 cửa vòm cao và sâu.

Phần trên :kiến trúc 2 tầng là lầu Ngũ Phụng gồm 100 cột gỗ lớn nhỏ, được liên
kết bởi 9 bộ mái riêng biệt, lớn nhỏ cao thấp khác nhau.

62
Lầu Ngũ Phụng kết cấu đặt trên mặt thành dài, nền đá phiến hình chữ U được bỏ
trống quanh lầu 3 mặt, phía lưng trang trí kín, tầng trên được trang trí hoa văn, có lan
can, các khoanh lầu có cửa tròn, v.v…toàn bộ lầu Ngũ Phụng được sơn son thiếp vàng.
Phần mái dùng ngói uyên ương( ngói ống) men mầu ngọc bích, phần diềm mái có hoa
văn rồng cách điệu nghệ thuật, nề ngoã ghép các mảnh sứ màu trang trí,v.v…

2. MỸ THUẬT PHẬT GIÁO VƯƠNG TRIỀU NGUYỄN ĐÀNG TRONG


Sau khi Đoan quốc công Nguyễn Hoàng vào trấn thũ đất Thuận Hoá thì những
đoàn dân Nam tiến cứ theo đó mà mở rộng bờ cơi. Họ cùng xây dựng làng xã, nương
tựa vào nhau, an ủi nhau để cùng nhau tạo dựng cuộc sống trên vùng đất mới. Trong
quá trình phát triển đó, họ cũng xây dựng nhiều chùa chiền (vì lúc này Phật giáo thịnh
hành trở lại). Cùng với sự giao lưu với dân cư bản địa, họ đã tạo nên những công trình
mỹ thuật Phật Giáo có giá trị, những công trình kiến trúc mang màu sắc vương triều
Nguyễn (đàng trong) mà cho đến nay ta vẫn còn thấy sự hiện diện của một số chùa
chiền tiêu biểu.

Chùa Thiên Mụ là một trong những ngôi chùa cổ tại PHú Xuân còn tồn tại trên
500 năm. Sách Ô Châu cận lục của Dương Văn An đã mô tả:”Chùa phía nam làng
Giang Đạm huyện Kim Trà, nóc ở đỉnh núi, chân gối dòng sông tưởng như ngang tấc
bên trời, vượt hẳn ba ngàn thế giới. Những du khách đăng lâm thưởng lăm, bất giác
lòng thành phát động, niềm tạc sạch không, đáng là cảnh trí non bồn nước nhược…”

Chùa Kim Liên là một ngôi chùa cổ. Vị tổ đầu tiên là Hòa thượng Bích Phong
Việt lão cho trùng kiến chùa vào cuối thế kỷ XVII. Ơ phía Tây chùa còn một giếng
cổ, gắn liền với huyền thoại vào những đêm trăng sáng yên tĩnh thường có tiên nữ
xuống đây tắm, chính vì vậy mà lần trùng tu vào thế kỷ XVIII Vơ vương Nguyễn Phúc
Khoát cho dựng lầu Vọng Tiêu trước chùa với quy cách tráng lệ

63
Nghệ thuật phật giáo đàng trong thể hiện bằng sự có mặt của nhiều chùa, nhưng
nói chung đến nay đã không còn nhiều di vật, kiến trúc cũ đã bị chiến tranh tàn phá
thiêu hủy, các chùa đến triều nguyễn hầu như đã được xây dựng lại với kiến trúc nhỏ,
trang trí chạm khắc đơn giản, truyền thống tạc tượng không để lại dấu ấn nghệ thuật
cao. Nhìn trên tổng thể tượng phật triều Nguyễn trên phật đài phát triển nhiều. Tượng
được làm mang tính nghi thức, tượng trưng khô cứng, nhiều tượng có tỉ lệ tạo hình
thiếu cân đối. Tượng quan âm đá chùa Thiên hương đầu thế kỷ XIX chạm khắc đơn
giản, tạo hình chưa cân đối, trang trí lối ô hộc hoa điểu, cúc trúc và thơ văn chữ hán.

Mỹ Thuật triều Nguyễn có nhiều tượng nhỏ xuất hiện với đề tài nội dung đa
dạng. Đó là các tượng thị giả được diển tả theo lối hiện thực: người vấn khăn, mặc áo
dài, cuộn tóc hoặc áo tứ thân,người nghệ nhân thể hiện mộc mạc một vẻ đôn hậu, dân
dã, vui mắt. Một nội dung mới thể hiện được hiện tượng “Bát tiên quá hải”. Trong
chùa thời Nguyễn xuất hiện nhiều phù điêu chạm gỗ sơn son thiếp vàng Cảnh Thập
điện Diêm Vương. Chùa Huyền Kỳ có bộ phận Thập điện Diêm Vương chạm gỗ thể
hiện vị trí trung tâm là Diêm Vương ngồi trên long ngai, tả hữu có phán quan. Phía
dưới là quỷ sứ đang làm nhiệm vụ thi hành trừng phạt ác tội nhân chịu hình.

64
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HÓA MỸ THUẬT
VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Mỹ thuật hiện đại VN có thể xác định mốc lịch sử từ đầu thế kỷ XX cho tới nay.
Các yếu tố hình thành nền Mỹ thuật hiện đại Việt Nam:

- Sự xâm lược của thực dân Pháp từ giữa thế kỷ XIX: ngòai những yếu tố mang
tính chất thực dân xâm lược, muốn kìm hăm sự phát triển của xã hội VN, thì sự xâm
lược của thực dân Pháp đã góp phần vào sự hình thành nền MTHĐ VN, đó là sự tiếp
cận và tiếp thu những tiến bộ của mỹ thuật Phương Tây cũng như trong công tác đào
tạo đội ngũ nghệ sỹ chuyên nghiệp.

- Người VN đã biết bảo tồn và phát huy những giá trị của văn hóa nghệ thuật dân
tộc, tạo nên những giá trị mới, bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển một nền nghệ
thuật mới.

- Sự ra đời của Đảng CSVN với đường lối văn hóa- văn nghệ của đảng đã làm
nảy sinh nghệ thuật cách mạng – nghệ thuật phục vụ cách mạng, tạo ra một nền nghệ
thuật mang những đặc trưng riêng, đẩy nghệ thuật VN bước một bước dài về phía
trước phù hợp từng giai đọan của lịch sử xã hội VN .

Đây là một mốc quan trọng trong việc xây dựng nền hội họa VN hiện đại.
Trường tồn tại trong 20 năm (đóng cửa năm 1945 khi Nhật đảo chính Pháp).

Mục đích thành lập: đào tạo những nghệ nhân sản xuất hàng mỹ nghệ xuất khẩu
phục vụ cho mục đích kinh tế của Pháp mà thôi, bởi vì sự khéo léo của người An
Nam, giá nhân công lại rẻ mạt.

Nhưng trên thực tế ngay từ những năm mới thành lập, Trường đã xứng đáng là
trung tâm mỹ thuật có uy tín. Những tác phẩm của sinh viên VN đã gây tiếng vang
trong và ngoài nước, nhất là tranh lụa truyền thống.

Những họa sỹ trẻ VN đã chứng tỏ người VN cũng có năng khiếu để trở thành
những nghệ sỹ chân chính và họ sẵn sàng được hưởng như thế – Victor Tardieu khẳng
định.

65
Các họa sỹ VN đã nhận ra vai trò của Trường lúc đó như người chỉ đường dẫn lối.

Năm 1945 Nhật đảo chính Pháp, trường đóng cửa.

Trong 20 năm tồn tại trường đã có 149 người trúng tuyển vào trường trong đó:

- 128 người đã tốt nghiệp với: 118 họa sỹ, 10 người điêu khắc

Chương trình học của trường gồm: hội họa, sơn mài, điêu khắc; trang trí; thẩm
mỹ và lịch sử mỹ thuật; khảo cổ học; nghệ thuật kiến trúc Viễn đông; phân tích bối
cảnh

Những nét mới trong thuật tạo hình

- Thoát khỏi giai đoạn khuyết danh

- Sự hình thành các đô thị, giai cấp, tầng lớp mới trong xã hội.

- Đã tạo ra các nghệ sỹ chuyên nghiệp đủ loại, người nghệ sỹ không còn là “thợ”
nữa trước đây là những thợ sơn, vẽ, nề... giờ đã gia nhập giới trí thức. Sáng tạo ra
nghệ thuật tạo hình đã thành phong trào ).

- Các hội nghệ sỹ, các triển lăm mĩ thuật trong - ngoài nước xuất bản tranh tượng,
giới thiệu về chúng làm cho nhân dân tiếp xúc nhiều hơn với nghệ thuật tạo hình.

- Cùng với văn học và các lọai hình nghệ thuật khác, mỹ thuật VN đã có tiếng
vang ra ngòai biên giới, có những bước chuyển biến rơ nét với xu hướng chính: lăng
mạn.

Tính chất lăng mạn vốn có từ nền nghệ thuật phương Tây thế kỷ XIX(đã chấm
dứt), nay được thực dân Pháp khuyến khích, người nghệ sỹ trẻ VN đi vào những tình
cảm nhân, nên chúng ta không ngạc nhiên khi thấy trong hội họa thời kỳ này hình ảnh
những cô gái thành thị đọc sách, ôm thơ, mơ hoa… “buồn không biết vì sao tôi
buồn”…

* Tiếp thu phương pháp khoa học của nghệ thuật phương Tây ( từ phục Hưngđến
hiện thời ): luật viễn cận, luật bố cục, giải phẫu học mĩ thuật, lý thiết về màu, hình,
chất liệu, chất liệu mới: sơn dầu, bột màu, thạch cao.

66
* Tiếp tục phát huy các chất liệu đã tạo cho sự phát triển sau này:

- Sơn mài mỹ nghệ - chất liệu trang trí cổ truyền nay thành chất liệu tạo hình độc
đáo, có ngôn ngữ kỳ lạ hấp dẫn.

- Lụa cũng đã đặc trưng cho VN.

- Khắc gỗ cũng có những nét mới.

GIAI ĐOẠN 1945 - 1954


Tại triển lãm năm 1945

Bác Hồ đã nói “ các chú vẽ nhiều thiếu nữ khỏa thân, vẽ nhiều hoa, cái ấy cũng
đẹp, nhưng đẹp trên cao, sao các chú không vẽ cái đẹp dưới đất chung quanh ta ”.
Năm 1946
Đội ngũ sáng tác: kháng chiến chống Pháp là một cuộc thử thách đối với các
nghệ sỹ được đào tạo tại CĐMT Đông Dương: họ đã tự lột xác nhiều lần; trở thành thế
hệ nghệ sỹ cách mạng đầu tiên, phát hiện ra 1 thực tế mới, nét đẹp mới:
- Lành mạnh, trong sáng của con người lao động.
- Chất anh hùng, bình dị của người chiến sỹ.
- Thiên nhiên giàu đẹp, hùng vĩ.
+ Được thành lập năm 1952, Trường Mỹ Thuật Việt Bắc đã đào tạo ra những
lớp nghệ sỹ mới, kế tục với lớp trước đi theo k/c. báo hiệu sự phát triển mạnh mẽ hơn
của nghệ thuật trong giai đoạn sau. Trường tuyển và đào tạo được hai khóa, trong đó
có nhiều họa sĩ nổi tiếng như Lưu Công Nhân, Vũ Giáng Hương, Lê Lam…
Các nghệ sỹ vừa sáng tác vừa thực hiện nhiệm vụ chính trị như tuyên truyền
chủ trương, đường lối cách mạng.
Nghệ sỹ chia nhau đi khắp các chiến trường miền Bắc, miền Trung và miền Nam, nhất
là trong chiến dịch Điện Biên Phủ 1954: Mai Văn Hiến ở Bộ Tư lệnh mặt trận,
Nguyễn Sáng cùng đại đoàn 316, Lưu Công Nhân ở Cục Địch vận, Tô Ngọc Vân,
Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Sỹ Ngọc ở đèo Lũng Lô…
Hoạt động sáng tác:
Tranh cổ động: thế mạnh của tranh đồ họa đã được phát huy trong kháng chiến
như một vũ khí sắc bén để động viên tinh thần quân và dân chiến đấu. Tiêu biểu là

67
tranh của các họa sĩ Trần Văn Cẩn Nước Việt Nam của người Việt Nam, Nguễn Sáng
Toàn dân đoàn kết, tranh ở bộ đội của Phạm Thanh Tâm, Huy Toàn, Nguyễn Bích…
Ký họa- thể loại phổ biến và phù hợp hoàn cảnh chiến tranh. Các họa sỹ đã
tranh thủ ký họa tư liệu, nhiều ký họa xuất sắc của các họa sỹ Tô Ngọc Vân Đốt được
đi học, Hành quân qua suối, Đi học bổ túc…,các ký họa của Trần Văn Cẩn, Diệp Minh
Châu, Nguyễn Sáng, Phạm Thanh Tâm, Nguyễn Văn Tỵ…
Sáng tác tác phẩm: trong hoàn cảnh chiến tranh khó khăn cho việc thực hiện tác
phẩm. giai đoạn này chỉ có ít tác phẩm được ra đời như Bộ đội nghỉ chân trên đồi(sơn
mài) của Tô Ngọc Vân, Bát nước của Sỹ Ngọc, Giặc đốt làng tôi của Nguyễn Sáng,
Gặp gỡ của Mai Văn Hiến
-Triển lăm mỹ thuật VN 1958 tại Moscow gây tiếng vang lớn trong và ngoài nước: tác
phẩm sơn mài, lụa, khắc gỗ đã đi vào lịch sử nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại.

GIAI ĐOẠN 1958 - 1964


Đây là thời kỳ:
- N/t phát triển theo chiều sâu
- Chất liệu được sử dụng mạnh bạo
- Đội ngũ nghệ sỹ đông đảo hơn
- Đề tài rộng hơn

Đề tài:
- Nếu như trước 1945 trong tranh là những cô tiểu thư và hoa, một nét mới, cuộc sống
đời thường đã đi vào nghệ thuật nhưng dường như nó chỉ phản ánh hiện thực một cách
lờ mờ thì ở giai đoạn kháng chiến chống Pháp hiện thực được phản ánh rộng lớn hơn,
sinh động hơn.
- Sau năm 1954 - nội dung mới, biểu hiện khá phong phú hiện thực của đất nước:
những công trường, xưởng máy, tổ đốc công, hợp tác xã, những đoàn quân lội suối
băng rừng … chưa bao giờ lượng thông tin thời đại lại chứa nhiều như vậy trong
nghệ thuật tạo hình, tính hiện thực đậm đà nhất từ trước tới nay, đặc biệt là hình tượng:
- Người chiến sỹ: “nhớ một chiều Tây bắc” Phan Kế An”
- “Công nhân” của Nguyễn Đỗ Cung, Sỹ Ngọc.
- Nông dân, “Bình minh trên nông trang”của Nguyễn Đức Nùng.
- Phụ nữ “Bát nước” của Sỹ Ngọc.

68
- “Chị cốt cán” của Tô Ngọc Vân,
- “Hạnh phúc” của Nguyễn Thị Kim v.v...,
- “Tát nước đồng chiêm” của Trần Văn Cẩn.
- Hồ Chủ Tịch.
Chất liệu: những nghệ sỹ Việt Nam đã được tiếp thu kỹ thuật của phương Tây, làm
quen với những chất liệu mới đã nhanh chóng nắm bắt được, kết hợp với nghệ thuật
truyền thống một cách nhuần nhuyễn. Hàng lọat các họa sỹ tên tuổi xuất hiện như: Tô
Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Gia Trí, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm,
Nguyễn Sáng …
Người nghệ sỹ, với đội ngũ ngày càng đông, ngày càng gắn bó với cuộc sống thực tiễn,
góp phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp chung của toàn dân tộc, tác phẩm của họ trở
thành món ăn tinh thần của nhân dân.
Ngày nay mỹ thuật Việt Nam đang từng bước hội nhập với mỹ thuật thế giới mà
không để mất đi những bản sắc riêng của dân tộc. Đây là một quá trình khá phức tạp
và không ít khó khăn.

Tô Ngọc Vân: Bác Hồ làm việc ở Bắc bộ phủ (1946), Hà Nội vùng lên (1946),
Hai chiến sĩ, Đi học đêm (1954)
Diệp Minh Châu: Du kich Bến Tre (1948)
Nguyễn Tư Nghiêm: Trạm gác (1949)
Tô Ngọc Vân: Dừng chân bên đường (1953)
Nguyễn Tường Lân: Bà và cháu (1946)
Trần Lưu Hậu: Bộ đội về bản. Lụa
Mai Văn Hiến: Gặp gỡ (1954)

GIAI ĐOẠN 1964 - 1975:


• Kháng chiến chống Mỹ:
• Hoàn cảnh lịch sử: Mỹ không thực hiện Hiệp định Geneva, xâm chiếm miền
Nam chia cắt đất nước. Mỹ thuật giai đoạn này chia làm hai mảng Mỹ thuật ở
miền Bắc và mỹ thuật ở miền Nam:
• Miền Bắc xây dựng và đấu tranh chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền
Bắc, là hậu phương vững chắc cho miền Nam
• Miền Nam: sự khốc liệt của cuộc chiến

69
• - Người nghệ sỹ đi vào kháng chiến tự nguyện, số lượng cao hơn:
• Các họa sĩ từ Mỹ thuật Đông Dương đào tạo tại Cao đẳng MT Hà Nội (mở lại
sau 1954), trường Mỹ thuật Gia Định, ở các nước XHCN
• - Ở miền Bắc: người nghệ sỹ hòa mình vào cuộc sống sản xuất và là chiến sỹ
lăn lộn trên chiến trường, sống, chiến đấu, sáng tác vì lý tưởng chung của dân
tộc.
Các chất liệu được phát huy mạnh, nhất là sơn mài. Đây là giai đoạn có nhiều
thành công nhất của sơn mài truyền thống.
Mỹ thuật miền Nam:
Đội ngũ sáng tác: các họa sĩ kháng chiến từ miền Bắc gồm: Thái Hà, Lê Lam,
Phạm Đỗ Đồng, Nguyễn Ngoan, Trương Ngọc Lâm, Trịnh Dũng… Họ là những nghệ
sĩ đã được đào tạo tại Trường Mỹ thuật Hà Nội hoặc được học tại các nước Xã hội
Chủ nghĩa trở về, tình nguyện khoác ba lô lên vai đi bộ vượt Trường Sơn suốt mấy
tháng trời để vào miền Nam sống và sáng tác giữa làn tên mũi đạn cho đến hết chiến
tranh.
Các họa sĩ quê Nam bộ đã tập kết ra Bắc, được đào tạo chuyên môn mỹ thuật, nay
muốn trở về quê hương sống và hoạt động nghệ thuật. Đó là các họa sĩ: Huỳnh Phương
Đông (Huỳnh Công Nhăn), Quách Phong (Quách Văn Phong), Nguyễn Thanh Châu,
Lê Văn Chương, Nguyễn Thái Bình, Nguyễn Văn Trừ, Lê Hồng Hải (Lê Minh Tiên),
Hoàng Anh, Vơ Kiến Nghiệp, Hà Quang (Nguyễn Quang Bửu), Huỳnh Quốc Trọng,
Nguyễn Hoàng, Nguyễn Chí Hiếu, Nguyễn Văn Trừ. Tình yêu quê hương đất nước đã
thôi thúc họ trở về sống giữa vùng đất quê hương, cùng chia sẻ những khó khăn gian
khổ với đồng bào và mong góp sức mình vào cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc.
Những sinh viên mỹ thuật tại Sài Gòn và các địa phương miền Nam, theo phong
trào yêu nước ra bưng biền cầm súng trực tiếp chống Mỹ và sáng tác mỹ thuật như:
họa sĩ Trang Phượng, Cổ Tấn Long Châu, Châu Hồ, Phương Hùng, Tam Bạch,
Nguyễn Hiển, Trần Tấn Thanh.
Các họa sĩ ở vùng tạm chiếm đã sống trong một môi trường văn hóa của một giai
đoạn và điều kiện lịch sử đặc biệt. Họ đã tự do sáng tác và tác phẩm của họ mang
những nét riêng thể hiện BSVHDT.
Một trong những yếu tố có ý nghĩa quan trọng đối với sự hình thành đội ngũ
sáng tác là chủ trương và chương trình đào tạo của các trường mỹ thuật.

70
Việc cải tổ Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn nhằm tạo ra những tác
phẩm mỹ thuật thuần túy, mang đậm tính dân tộc. Trong Nghị định 272 QVH/VH/NĐ
ngày 3/8/1971 đã ghi rõ: “Bảo tồn và phát huy những tinh hoa của nền trang trí Đông
phương và cổ truyền Việt Nam” [20, tr.37].
Một trong những thuận lợi của công tác đào tạo đội ngũ sáng tác chính là đội
ngũ giáo viên có trình độ và tâm huyết với nghề. Nhiều người có trọng trách như Lê
Văn Đệ, Lưu Đình Khải, Nguyễn Văn Anh từng học Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông
Dương, tu nghiệp ở nước ngoài đã đóng góp công sức mình để tạo ra những thế hệ họa
sĩ trẻ biết tiếp thu cái mới của nghệ thuật thế giới nhưng vẫn giữ được nét riêng của
nghệ thuật dân tộc. Sự ra đời của Hội họa sĩ trẻ Việt Nam vào đầu thập niên bảy mươi
đã quy tụ nhiều nghệ sĩ trẻ say mê nghề, luôn tìm tòi sáng tạo để mang hơi thở của thời
đại vào tác phẩm của mình. Nhóm này phải kể đến Tạ Tỵ, Thái Tuấn, Duy Thanh,
Ngọc Dũng, Nguyễn Lâm, Hồ Hữu Thủ, Nguyễn Trung, Nguyên Khai, Nguyễn Cao
Nguyên, Nguyễn Đồng. Bên cạnh đó, họ cũng thể hiện tính cách của tuổi trẻ, năng
động, khát khao tìm tòi cái mới để góp phần tạo nên một nền mỹ thuật vừa truyền
thống vừa hiện đại.
Vẫn là hai chủ đề chính trong nghệ thuật tạo hình là thiên nhiên và con người,
hội họa miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 đã kế thừa những nội dung trong hội họa
truyền thống, nhất là hội họa Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, đồng thời đã tạo ra những
đặc trưng riêng trong một hoàn cảnh cụ thể và một không gian cụ thể ở Nam bộ trong
những năm chiến tranh chống Mỹ. Chủ đề thiên nhiên trong hội họa giai đoạn này là
hình ảnh quê hương đất nước trong chiến tranh.
- Chủ đề quê hương đất nước
- Chủ đề con người
Chủ đề con người chiếm số lượng nhiều hơn chủ đề thiên nhiên trong hội họa
Nam bộ giai đoạn 1954-1975 và thể hiện những giá trị truyền thống quí báu của con
người Việt Nam ở tinh thần yêu nước, ý chí tự độc lập dân tộc, lòng nhân ái khoan
dung. Do điều kiện hoạt động sáng tạo khác nhau nên chủ đề con người được thể hiện
trong tác phẩm của các họa sĩ kháng chiến và các họa sĩ Sài Gòn cũng khác nhau. Nếu
truyền thống yêu nước của dân tộc được các họa sĩ kháng chiến đã thể hiện một cách
thẳng thắn, trực tiếp, thì các họa sĩ Sài Gòn lại tập trung nói lên tâm trạng băn khoăn

71
day dứt trước sự tàn khốc của chiến tranh, trước những nỗi đau của dân tộc, tinh thần
phản chiến, ước vọng hòa bình.
- Các trường phái nghệ thuật mới du nhập từ phương Tây đã được các họa sĩ
Sài Gòn thử nghiệm, khai thác khả năng biểu đạt của chúng phục vụ cho ý đồ sáng tác
của mình, nhất là đối với các chất liệu hội họa truyền thống. Nếu như trước năm 1954,
tranh sơn mài Việt Nam thường được sáng tác theo các xu hướng Hiện thực, Lăng
mạn, thì trong những năm sau đó đã có những tranh sơn mài theo xu hướng Trừu
tượng, Lập thể, Siêu thực

1975 – ĐẾN NAY


- Hoàn cảnh lịch sử xã hội: khó khăn sau chiến tranh, công cuộc đổi mới và những
thuận lợi khó khăn trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
- Đội ngũ sáng tác nhiều nhất và từ nhiều nguồn đào tạo
- Các chất liệu truyền thống được tiếp tục phát huy và khám phá
- Các xu hướng nghệ thuật phong phù nhất từ đầu thế kỷ XX đến nay
- Xuất hiện các loại hình nghệ thuật mới (xem trong phần mỹ thuật thế giới) từ đầu thế
kỷ 21.
- Thành công của mỹ thuật VN đương đại qua những tác giả, tác phẩm nổi tiếng

ĐIÊU KHẮC THẾ KỶ XX

1. Giai đoạn 1925 - 1945


- Ảnh hưởng của điêu khắc phương Tây: chuẩn mực về tỉ lệ, thước đo thích ứng với xã
hội đang Âu hóa vào đầu thế kỷ XX
- Dòng nghệ thuật dân gian tạm ngưng
- Xuất hiện một số tác phẩm theo phương pháp tả thực, cố gắng tả chính xác các chi
tiết: Em bé ngồi học, Sỹ - Nông - Công - Thương, Cụ già (1927) của Nguyễn Đức
Thục, Cô gái cài lược của Vũ Cao Đàm, Hạnh phúc của Phạm Gia Giang
- Từ 1925-1945 điêu khắc chưa thực sự có tiếng nói trong đời sống mỹ thuật như hội
họa: số sinh viên học ít (18), triển lãm cũng không nhiều như hội họa.
- George Khánh Phu khuân vác
- Vũ Cao Đàm Chân dung
- Vũ Cao Đàm Người con gái Việt Nam
- Nguyễn Đức Thục Chân dung ông già

72
- Phạm Gia Giang Hạnh phúc

2. Giai đoạn 1945 - 1954


Trong điều kiện chiến tranh, công tác đào tạo nghệ sỹ đựơc tiến hành tại Chiến khu
Việt Bắc, nhưng không mở khoa điêu khắc vì không có giáo viên hướng dẫn và điều
kiện để học điêu khắc cũng khó hơn hội họa.
- Năm 1946 nhà điêu khắc Nguyễn Thị Kim là người phụ nữ đầu tiên và duy nhất duy
nhất được nặn tượng Bác Hồ ở bắc Bộ phủ. Bức tượng theo phong cách tả thực vẻ
trang nghiêm khắc khổ của vị lãnh đạo Cách mạng - 1949 nhà điêu khắc Nguyễn Thị
Kim sáng tác phù điêu Hạnh phúc ở Liên khu V.
- Nguyễn Thị Kim Hạnh phúc
- Vũ Cao Đàm Chân dung chủ tịch Hồ Chí Minh
- Vũ Cao Đàm Chân dung Bác Hồ

3. Giai đoạn 1954 - 1975


- Hoàn cảnh lịch sử sau chiến tranh
- Sự thay đổi của các nghệ sỹ sau kháng chiến: nhân sinh quan và thế giới quan: nghệ
thuật phục vụ chính trị, nghệ sỹ là chiến sỹ.
- Đội ngũ sáng tác; lực lượng chính vẫn là những điêu khắc gia lớp trước do Trường
Cao đẳng MT Đông Dương.
- Ngôn ngữ điêu khắc: chân thực , dễ hiểu phù hợp với đối tượng thưởng thức nghệ
thuật có trình độ còn thấp. Chú trọng đến nội dung hơn là sự phong phú về sắc thái về
hình khối.
- Các tác phẩm chính toát ra chất hàn lâm kinh viện chủ nghĩa và có phần nào mang
tính tự nhiên chủ nghĩa
 Nữ du kích Miền Nam của Nguyễn Văn Lý – tác phẩm đầu tiên trong tư thế nằm
trong điêu khắc VN khác với tượng cổ.
 Phạm Gia Giang - Anh hùng Lê Minh Đức
 Đắp đường thống nhất của Nguyễn Minh Trí: niềm khao khát đất nước thống
nhất
 Võ Thị Sáu, Đuốc tháng 8 của Diệp Minh Châu: sự rung động mănh liệt đựơc
diễn đạt bằng nét chấm phá, cào dập trên bề mặt tượng

73
 Em bé đi học của Đào Văn Can: giản dị về phong cách nói lên cuộc sống đang
đổi thay, trẻ em được đi học
 Nắm đất miền Nam của Phạm Xuân Thi :tâm trạng khi chia tay về chủ đề thống
nhất đất nước. Lối diễn đạt giản dị mà hiệu quả.
 Phạm Xuân Thi Nắm đất miền Nam
 Diệp Minh Châu Hương sen Đồng Tháp
 Diệp Minh Châu Phú Lợi căm thù
 Trần Văn Lắm Cắm thẻ nhận ruộng
 Văn Hòe - Bom ba càng
 Văn Hòe - Nữ xà viên

4. Giai đoạn Thập niên 60


- Thế hệ thứ 2 các điêu khắc gia đựơc hình thành:
- Các sinh viên đựơc đào tạo tại Cao đẳng MT VN, Cao đẳng MT Công nghiệp, đào
tạo ở nước ngoài trở về.
 Nguyễn Phước Sanh, Dương Đăng Cẩn, Châu Đình Du, Nguyễn Hải, Lê Công
Thành, Lê Thược, Cần Thư Công, Phạm Mười, Lều Thị Phương, Nguyễn
Thiện, Trần Tía…
- Điêu khắc đã mang diện mạo mới:
 Những biểu hiện của trong tượng của Nguyễn Phước Sanh Bác Hồ ở chiến dịch
biên giới.
 Dương Văn Cẩn: Vẻ đẹp gân guốc tính khái quá cao ngôn ngữ tượng đài trong
tác phẩm của Bác dịch lịch sử Đảng CSLX
 Vẻ đẹp nhẹ nhàng, dịu, mềm mại, mịn màng của Lê Thược, Phạm Mười Vót
chông – cách tân ngôn ngữ điêu khắc
 Lê Công Thành, một trong những ngừơi tạo nên diện mạo mới cho điêu khắc
đầu thập niên 70 với những đặc điểm NT: Hình khối gọn gàng, chắc chắn và
giản dị, Bề mặt tượng được chăm chút kỹ lưỡng, Đường nét uyển chuyển nhẹ
nhàng, Vẻ đẹp mượt mà, mang đầy cảm xúc của tác giả. Ông có ảnh hưởng đến
nhiều điêu khắc gia các thế hệ sau.
- Tượng
 Lê Công Thành - cô gái Tây Nguyên

74
 Nguyễn Hải là một trong những nhà điêu khắc báo hiệu một bước ngoặt trong
đk VN đương đại. Đặc điểm NT của ông: khối hình khỏe khoắn, mạnh mẽ, rắn
chắc nhưng cũng rất lăng mạn; Vận dụng và kết hợp hài hòa giữa khối âm và
khối dương; sức truyền cảm mạnh mẽ, tính chất hoành tráng và ngôn ngữ tượng
đài được thể hiện khá rơ trong nhiều tác phẩm của Nguyễn Hải. Một số tác
phẩm tiêu biểu: Anh Trỗi, Chiến thắng, Thủ Khoa Huân, Ngựa Gióng
 Song Vân - Con trâu quả thực
 Văn Hòe - Hũ gạo nuôi quân

5. Giai đoạn Thập niên 70


 Đinh Rú: hình khối mộc mạc, thô khỏe – dấu ấn của NT dân tộc ít người “Hũ
gạo kháng chiến”
 Lê Đình Quy: Phong cách cổ điển và tượng trưng, khối chắc, khỏe “Lão dân
quân Hoàng Trường”
 Lưu Thanh Danh: Nhóm tượng tưởng niệm các liệt sỹ ở Hàng Dương, Côn
Đảo,
 Hứa Tử Hoài: không chú ý chi tiết phụ, mà tập trung vào khuôn mặt của nhân
vật trong “Hồ Chủ Tịch đi công tác”, “Kim Đồng”, “Những người đi mổ”
 Ninh Thị Đền: hình ảnh người phụ nữ anh hùng trong thời đại mới: tự tin, lạc
quan “Ra trận”
 Lê Đình Quỳ: “Lão quân Hoàng Trưởng”
 Võ Văn Tấn: “Nguyễn Văn Trỗi”
 Vũ Long: “Hai công nhân”
 Trần Tiá: “Bà má”
 Trần Văn Lắm: “Lý Tự Trọng”
 Lều Thị Phương: “Gia đình”
 Đào Văn Cẩn: “Ẵm em đọc sách”
 Hà Trí Dũng: “Công nhân chăn nuôi”
 Phạm Xuân Thi: “Hoa thơm mãi trong lịch sử thế giới”
 Nguyễn Thanh Tịnh: “Gia đình”
 Nguyễn Việt Ly: “Nữ chiến sĩ thành đồng”
 Lê Văn Dieu: “Em bé nhảy dây”
75
 Nguyễn Văn Kim: “Chân dung em bé”
 Hoàng Văn Để: “Mẹ con”
 Nguyễn Thị Hiền: “Con trai của tôi”
 Molokai: “Tiếng cồng Tây nguyên”
 Đinh Rú: “Hũ gạo kháng chiến”
 Nguyễn Thiên: “Gác bom nổ chậm”
 Lưu Thành Danh: “Mẹ con”
 Tạ Tấn: “Thần lửa”
 Lê Thành Nhơn: “Phan Bội Châu”

6. Giai đoạn từ 1975 - NAY


Chức năng phục vụ chính trị không còn hiểu cứng nhắc như trước nữa. Các
nghệ sỹ thể hiện không chỉ hình khối mang tính hiện thực, mà hình khối còn thể hiện
diễn biến sâu kín trong tâm hồn biểu hiện ấn tượng thị giác.
Điêu khắc là sự kết hợp hài hòa của bố cục, hình khối, đường nét, nhịp điệu,
chất liệu, chứ không chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào nội dung.
Triển lãm 10 năm điêu khắc 1993 có hơn 500 tác phẩm của hơn 200 tác giả,
xuất hiện hàng 100 tác giả mới, cách nhìn, tư duy phong phú, đa dạng
Thế hệ điêu khắc thứ IV hình thành với tên tuổi của các điêu khắc gia
Kinh tế đất nước có nhiều thay đổi tạo điều kiện cho việc thực hiện tác phẩm
bằng những chất liệu bền vững và đẹp như đá, đồng, nhôm…
Một số loại hình nghệ thuật mới
Nghệ thuật sắp đặt
Thời điểm và nơi xuất hiện:
• Bắt đầu từ tư tưởng của họa sĩ Marcel Duchamp trong tác phẩm “Bánh Xe đạp”;
• Manh nha trong nghệ thuật thập niên 50-60
• Chính thức mở rộng vào thập niên của thế kỷ XX tại Mỹ và các nước Tây Âu.
Là nghệ thuật tổng hợp tất cả các phương tiện biểu đạt từ hai chiều, ba chiều và môi
trường không gian
Tác phẩm là một tổ hợp các hình vẽ, tranh, tượng, đồ vật, hiện vật, phim ảnh, âm
nhạc, mùi hương

76
Tên và thành phần tác phẩm không cố định mà tùy tư tưởng sắp đặt của từng lần sắp
đặt
Người thưởng thức phải “đi vào” bên trong tác phẩm để nhìn ngắm, lắng nghe âm
thanh, sờ chạm hiện vật, ngửi, cảm nhận cả mùi vị
Nội dung là tư tưởng là một chuỗi hiệu quả tổng hợp tương tác của các hiện vật,
hình ảnh, âm thanh, ánh sáng, màu sắc, mùi vị…
Tác phẩm nghệ thuật này rất khó bán và động cơ sáng tác cũng không phải để bán
mà để trình bày tư tưởng.
Tác phẩm chỉ tồn tại tại nơi trưng bày một thời gian ngắn rồi phải tháo dỡ ra nếu
không có không gian lắp đặt, trưng bày cố định
Nghệ thuật trình diễn
Ra đời trong khoảng thời gian trong thập niên 1960
Là nghệ thuật mà trong đó hoạt động của một cá nhân hay một nhóm được diễn ra ở
một vị trí đặc biệt và cũng trong một thời gian đặc biệt để hình thành tác phẩm
Bốn yếu tố cơ bản như sau: thời gian, không gian, thân thể người diễn và mối quan
hệ tương tác giữa người diễn và người thưởng ngoạn
• Có thể được phối hợp bao gồm một chuỗi những hoạt động như sân khấu, múa,
âm nhạc, tung hứng, xiếc nhưng do những nghệ sĩ mỹ thuật thực hiện nhằm diễn đạt tư
tưởng của nghệ thuật tạo hình chứ không phải tư tưởng văn học thuần túy.
• Bản thân tác giả lại chính là một bộ phận của tác phẩm hay chính là tác phẩm,
• Nên tác giả cũng chính là tác phẩm và tác phẩm chính là tác giả và có sự giao
lưu thực sự giữa tác giả - tác phẩm và người xem
Nghệ thuật Thân thể
Là nghệ thuật rất gần với Nghệ thuật Trình diễn, nhưng chu kỳ diễn rất ngắn hay
bản thân tác giả thực hiện một thế dáng, động tác nào đó và giữ thế “yên tĩnh” suốt
thời gian trình bày
Ra đời trong những thập niên 1960 – 1970
Hình thái biểu hiện của nó mang đôi phần gợi dục, bản thân tác giả – tác phẩm phải
khỏa thân hay tối thiểu là mặc quần hay áo ôm sát thân thể như là “không mặc y
phục”
Sự tạo hình theo các dạng sau đây: Tạo hình xăm trên cả cơ thể, tô màu trên cả cơ
thể, treo gắn, dán… các đồ vật nào đó vào cơ thể

77
78

You might also like