Professional Documents
Culture Documents
Kinh tế CA-TBD
Kinh tế CA-TBD
Quyết định thành lập AFTA được đưa ra tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần IV ở Singapore tháng 2/1992. Theo kế hoạch ban đầu,
AFTA được hoàn thành vào năm 2008 với mục đích cơ bản là “Tăng cường khả năng cạnh tranh của ASEAN như một cơ sở quốc tế
nhằm cung cấp hàng hóa ra thị trường thế giới”.
Tuy nhiên, trước sự cạnh tranh mạnh mẽ của các kinh tế toàn cầu khác, cũng như do sự tiến bộ của chính các quốc gia ASEAN; tại
Hội nghị các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (AEM) lần XXVI tháng 9/1994, ASEAN đã quyết định xúc tiến việc thành lập AFTA sớm
hơn (trong vòng 5 năm), từ 1/1/2003, thay cho thời hạn cuối cùng năm 2008. Mục tiêu này sẽ giúp cho ASEAN tiến nhanh trong các
thỏa thuận thương mại tự do đã phát thảo trong GATT và APEC.
Mục tiêu của AFTA:
- Tự do hóa thương mại nội bộ ASEAN bằng cách loại bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Quy mô thị trường ASEAN tương đối
nhỏ so với các thị trường thương mại khu vực khác như EU và NAFTA..
- Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo dựng một khối thị trường thống nhất. Đây là mục tiêu trung tâm của
AFTA, điều đó cho phép hợp lý hóa sản xuất, chuyên môn hóa và khai thác thế mạnh của các nền kinh tế thành viên khác nhau, có 3
lý do:
+ Sự phân công quốc tế được đẩy mạnh trong nội bộ ASEAN;
+ Đầu tư trực tiếp vào các nước ASEAN sẽ tăng kết quả chuyển hoàn mậu dịch giữa các quốc gia này tăng theo;
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI vào ASEAN tăng nhờ sự lớn mạnh của thị trường nội địa và tăng sức mua thị trường này.
- ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là trong sự phát triển của xu thế tự do hóa thương mại
thế giới.
Tác động của AFTA đối với nền kinh tế Việt Nam.
a. Về thương mại quốc tế.
* Nhập khẩu: Trong những năm gần đây, hàng hóa ASEAN vào Việt Nam chiếm khoảng 25% kim ngạch nhập khẩu, trong đó nguyên,
vật liệu dùng cho sản xuất và hàng công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Đến hết tháng 9 năm 2014 các doanh nghiệp Việt Nam đã nhập
khẩu 16,99 tỷ USD hàng hóa có xuất xứ từ các nước ASEAN, tăng 7,4% và chiếm 15,8% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước từ
tất cả các thị trường. Các mặt hàng này đã có thuế suất dưới 5% trước khi thực hiện CEPT. Vì vậy, AFTA không có tác động trực tiếp
tới việc nhập khẩu những mặt hàng này.
* Xuất khẩu: AFTA có tác động tăng sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trưởng ASEAN nhờ giảm thuế quan và loại bỏ
các hàng rào phi thuế quan. Trong vài năm tới, khả năng AFTA làm tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước này không
lớn do các nguyên nhân sau:
Xét về cơ cấu hàng xuất khẩu: ASEAN thường chiếm khoảng 20-23% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Xét về bạn hàng: hơn 2/3 doanh số bán hàng của Việt Nam với ASEAN được thực hiện với Singapore.
* Về phần xuất khẩu sang các nước ngoài ASEAN: AFTA có tác động gián tiếp làm tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các
thị trường ngoài ASEAN do nhập được đầu vào cho sản xuất xuất khẩu với giá rẻ hơn từ các nước ASEAN. Các doanh nghiệp Việt
Nam đã xuất khẩu hàng hóa sang khu vực thị trường ASEAN đạt trị giá 13,64 tỷ USD, chỉ tăng nhẹ 0,3% và chiếm 12,4% kim ngạch
xuất khẩu của cả nước ra thế giới.
b. Về đầu tư nước ngoài.
- Đầu tư từ các nước ASEAN khác:
với tiến trình hiện thức hóa Khu vực Đầu tư ASEAN, các nhà đầu tư ASEAN nói riêng và các nhà đầu tư nước ngoài nói
chung sẽ có nhiều thủ tục thuận lợi về hành chính cũng như pháp lý khi đầu tư vào Việt Nam.
- Đầu tư từ các nước ngoài ASEAN:
các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam, họ sẽ không chỉ nghĩ đến một thị trường với gần 100 triệu dân, mà còn
tính đến cả thị trường ASEAN với trên 600 triệu người.
để tận dụng được những cơ hội thu hút đầu tư từ các nước khác mà AFTA đem lại, Việt Nam cần phải tiếp tục cải thiện một
cách đồng bộ và toàn diện môi trường đầu tư.
Công nghiệp.
Về lâu dài, khi các ngành công nghiệp của những nước thành viên không còn được bảo hộ, AFTA sẽ làm thay đổi cơ cấu công nghiệp
khu vực theo hướng chuyên môn hóa và phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý hơn.
AFTA tạo cho Việt Nam điều kiện và thời gian để chuẩn bị và vươn lên để có thể đứng vững và phát triển vì:
- Mọi thời hạn thực hiện và hoàn thành AFTA/CEPT đối với Việt Nam được cộng thêm 3 năm.
- Cũng như các nước ASEAN khác, Việt Nam không cần phải đưa ngay một lúc tất cả các danh mục hàng hóa vào chương trình giảm
thuế.
- Sau khi một mặt hàng được giảm thuế, các hàng rào phi thuế quan sau đó 5 năm mới được xóa bỏ.
- Việc cắt giảm thuế nhập khẩu đối với một số nguyên liệu, sản phẩm đầu vào sẽ làm giảm chi phí sản xuất và do vậy góp phần nâng
cao khả năng cạnh tranh cho một số sản phẩm công nghiệp.
Ngân sách nhà nước.
Tham gia vào AFTA và thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan theo CEPT sẽ tác động đến nguồn thu ngân sách, ít nhất là giai
đoạn đầu khi Việt Nam thực hiện cắt giảm thuế quan.
Thời gian gần đây, Việt Nam nhập khẩu từ các nước ASEAN chiếm khoảng 20-23%, thuế xuất khẩu (trừ dầu thô) đóng góp khoảng
25% tổng thu ngân sách. Như vậy, khi cắt giảm thuế quan thì nguồn thu ngân sách sẽ bị giảm.
Nhìn chung, khi Việt Nam tham gia thực hiện cắt giảm thuế để thiết lập AFTA, tổng số thu ngân sách không có biến động lớn bởi vì
việc giảm thu do giảm thuế nhập khẩu sẽ được bù lại bởi phần tăng thu từ các sắc thuế khác.
Để thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI vào VN từ các nước trong khu vực
Trước hết, nền kinh tế của chúng ta chưa thực sự phát triển mạnh mẽ so với các nước cùng tham gia AFTA. Việc lưu chuyển
hàng hóa là điều chúng ta chưa thực sự tham gia nên cần có sự cố gắng rất nhiều. Bên cạnh đó, sức cạnh tranh của hàng Việt
với với hàng ngoại còn ở mức thấp dẫn đến việc hàng hóa của Việt Nam sản xuất ra không có nơi tiêu thụ.
Tham gia vào AFTA hàng hóa phải chịu không ít chi phí cho việc nhập khẩu nên giá cả hàng hóa sẽ cao hơn các nước thành
viên. Chính vì thế, việc đầu tiên khi tham gia AFTA, Việt Nam cần có sự chuyển dịch cơ cấu, đẩy mạnh sản xuất những mặt
hàng thuộc phần cắt giảm thuế CEPT. Đồng thời, đơn giản về thủ tục nhập khẩu, giảm giá thành nhằm tăng sức cạnh tranh
của hàng hóa trên thị trường
phát huy những kết quả đạt được, khắc phục những tồn tại trong thu hút FDI từ các nước ASEAN vào Việt Nam, cần tiếp tục
hoàn thiện chính sách thuế và hải quan trong môi trường AEC, nhằm đảm bảo tự do hóa thương mại hàng hóa, tự do di
chuyển vốn đầu tư trong khối ASEAN. Để tránh tình trạng chuyển giá, trốn thuế, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hành lang
pháp lý về quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá. Bên cạnh đó, các cơ quan hữu quan cần xây dựng chế tài xử phạt đủ
mạnh, đảm bảo tính răn đe đối với trường hợp cố tình vi phạm.
Nhà nước cần đẩy nhanh tiến độ giải ngân, không cho phép các dự án lạc hậu, không khả thi tác động xấu đến môi trường
được triển khai. Thẩm tra lại các dự án sử dụng nhiều đất, giao đất theo tiến độ và có điều kiện đính kèm…
Các cơ quan chức năng cần định hướng và khuyến khích doanh nghiệp trong nước đầu tư vào nghiên cứu, ứng dụng công
nghệ mới nhằm tăng sức cạnh tranh với các đối thủ trong khối ASEAN.
Khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ, đầu tư vào các vùng trồng nguyên liệu nhằm tăng tỷ lệ nội địa hóa nguyên phụ
liệu và giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung cấp từ nước ngoài; Nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư; Tiếp tục xây
dựng và cải thiện môi trường đầu tư...
Doanh nghiệp trong nước cần nâng cao năng lực cạnh tranh để tiếp nhận dòng vốn FDI, đồng thời, tạo sự gắn kết để học hỏi,
tận dụng cơ hội từ các nước này; Tăng cường xúc tiến thương mại, quảng bá hình ảnh của doanh nghiệp, sản phẩm Việt, từ
đó, nâng cao khả năng thu hút sự hợp tác, liên kết kinh doanh từ các doanh nghiệp trong và ngoài khối ASEAN...