You are on page 1of 30

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.

HỒ CHÍ MINH
LỚP: INE702_222_1_D04

TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ 2

SO SÁNH 2 ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN KINH TẾ DỰA


TRÊN “THAY THẾ NHẬP KHẨU” (IMPORT
SUBSTITUTION INDUSTRIALIZATION (ISI)) Ở CÁC
NƯỚC MỸ LATINH VÀ “HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU”
(EXPORT-ORIENTED INDUSTRIALIZATION (EOI)) Ở
CÁC NƯỚC ĐÔNG Á VÀ RÚT RA MỘT SỐ BÀI HỌC KINH
NGHIỆM CHO VIỆT NAM.

NHÓM: 11
Võ Thị Hằng
Bùi Trần Khánh Linh
Phạm Quỳnh Như
Lê Chí Thanh
Huỳnh Thị Tường Vy

GVHD: Trần Mạnh Kiên

TP.Hồ Chí Minh, 06/2022


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU........................................................................................................1
2. NỘI DUNG CỦA 2 ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN KINH TẾ...................2
2.1. “Thay thế nhập khẩu” (Import Substitution Industrialization (ISI)) ở
các nước Mỹ Latinh.........................................................................................2
2.2. “Hướng về xuất khẩu” (Export-oriented Industrialization (EOI)) ở
các nước Đông Á..............................................................................................6
3. SO SÁNH 2 ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRÊN.................11
3.1. Mục tiêu...................................................................................................12
3.2. Kết quả.....................................................................................................14
3.3. Chiến lược...............................................................................................15
3.4. Ưu điểm, hạn chế....................................................................................17
4. MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM.......................21
5. KẾT LUẬN.................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................26
DANH MỤC BẢNG BIỂU

BẢNG 1: Thành phần xuất khẩu ở Hàn Quốc tính theo phần trăm tổng xuất khẩu

DANH MỤC HÌNH ẢNH


HÌNH 1: Brazil-Các bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế (được lập chỉ mục tại ISI)
Tổng số và Tỷ lệ phần trăm thế giới-1981-2004
HÌNH 2: Biểu đồ thể hiện cơ cấu tỉ trọng xuất khẩu của Nhật Bản sang các nước trên
thế giới năm 2005
1. MỞ ĐẦU
Trong khoảng 25 năm cuối cùng của thế kỷ 20 sự khác biệt về mức độ
tăng trưởng kinh tế ngày càng rõ rệt giữa các quốc gia Mỹ Latinh và Đông Á.
Phần lớn nguyên nhân là do sự khác nhau giữa các mô hình phát triển kinh tế,
kể từ đó cả hai khu vực đã được phân tích để xác định hiệu quả của các chiến
lược công nghiệp hóa. Các tài liệu phần lớn mô tả mô hình tập trung vào xuất
khẩu của Đông Á là vượt trội hơn so với các chính sách bảo hộ của Mỹ Latinh.
Quá trình xem xét và phân tích những chiến lược được các quốc gia đang phát
triển sử dụng để phát triển kinh tế và những nhân tố trong nước ảnh hưởng như
thế nào đến những chiến lược này là điều cần thiết để đo lường được tính hiệu
quả của mô hình phát triển đó. Tầm ảnh hưởng của những chiến lược này phần
lớn là hoàn toàn khác nhau giữa các nước. Hai chiến lược phát triển kinh tế chủ
yếu được áp dụng là hướng về xuất khẩu (EOI) và thay thế nhập khẩu (ISI).
Các nước áp dụng EOI thường là các nước thuộc khu vực Đông Á, điển hình là
Singapore, Hong Kong, Đài Loan, Hàn Quốc hay còn được biết đến với tên gọi
là “Bốn con rồng của nền kinh tế Châu Á”. Các nền kinh tế này đã trải qua quá
trình công nghiệp hóa thần tốc đồng thời duy trì được tốc độ tăng trưởng đặc
biệt cao trong những năm từ thập niên 1960 cho đến đầu thế kỷ XXI. Ngoài ra
còn có các nước nằm trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) gồm
Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Philippines hay còn gọi là nhóm “Hổ mới Châu
Á”. Tám quốc gia này đã thành công trong việc phát triển kinh tế theo mô hình
EOI, sự tăng trưởng chóng mặt này thường được nhắc đến với cái tên “Kỳ tích
Đông Á”. Ngược lại, phía bên kia bán cầu, các nước Mỹ-Latinh lại theo đuổi
chiến lược phát triển ISI thay vì EOI. ISI thành công nhất ở các quốc gia như
Argentina, Brazil, Mexico (và ở mức độ thấp hơn là Chille, Uruguay và
Venezuela). Theo Eichengreen (2009), chiến lược ISI hoạt động hiệu quả ở các
nước Mỹ Latinh vì sau cuộc Đại khủng hoảng năm 1930 và Thế chiến thứ hai,
cả thương mại và cho vay quốc tế vẫn chưa phục hồi và sự tích lũy công nghệ
mới sẽ tạo ra tăng trưởng, tự cung tự cấp trong sản xuất sẽ giúp nền kinh tế ít bị
lệ thuộc vào nền kinh tế thế giới, có lợi cho sự phát triển lâu dài của quốc gia.
Tuy nhiên, đến những năm 1980, các quốc gia theo đuổi mô hình ISI bị ảnh
hưởng do cuộc khủng hoảng nợ công được xem là thảm họa lớn nhất trong khu
vực này, kể từ sau cuộc Đại khủng hoảng những năm 1930 và là cuộc khủng
hoảng nợ công đầu tiên trong lịch sử kinh tế hiện đại- trái ngược hoàn toàn với
“Kỳ tích Đông Á”.
Năm 1986, Việt Nam bước vào giai đoạn chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch
sang kinh tế thị trường, mở cửa với bên ngoài, thực hiện phương châm đa dạng
hóa, làm bạn với tất cả các nước… Cùng với sự mở cửa và phát triển của thị
trường, dòng vốn đầu tư, hàng hóa và doanh nghiệp nước ngoài bắt đầu thâm
nhập vào Việt Nam. Ở chiều ngược lại, Việt Nam với chiến lược thúc đẩy xuất
khẩu, nhận thức rõ tầm quan trọng của ngoại thương đối với nền kinh tế cũng
đã nhanh chóng bước vào quá trình toàn cầu hóa, các thành phố và đô thị từng
bước tham gia vào hệ thống phân công chức năng của kinh tế khu vực, cũng
như kinh tế toàn cầu. Công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu (EOI)- chiến lược
phát triển mang lại thành công và cho nhiều quốc gia khu vực Đông Á như
Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản… Cho đến nay, sau gần 30 năm đổi mới, cải
1
cách và mở cửa, chiến lược hướng về xuất khẩu mang lại nền kinh tế nước ta
nhiều thành tựu, song vẫn tồn tại đâu đó nhiều thách thức, khó khăn, đòi hỏi
phải có cách tiếp cận mới trên cơ sở chọn lọc những bài học kinh nghiệm của
các nước đi trước đó. Vậy nên, chúng ta cần tìm hiểu các cuộc công nghiệp hóa
hướng về xuất khẩu và công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu ở các nước Đông Á
và Mỹ Latinh để thấy rõ hơn phần nào thực trạng của vấn đề này, từ đó rút ra
bài học kinh nghiệm cho nền kinh tế Việt Nam trong tiến trình công nghiệp hóa
đang và sẽ tiếp tục diễn ra.

2. NỘI DUNG CỦA 2 ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN KINH TẾ

2.1. “Thay thế nhập khẩu” (Import Substitution Industrialization (ISI))


ở các nước Mỹ Latinh.
Bạn nghĩ thế nào nếu đất nước của bạn có thể sản xuất hầu hết mọi thứ trên
thế giới mà không cần phải nhập khẩu từ các nước khác? Nhiều người cho rằng
điều đó là thật sự hoàn hảo vì đất nước không phải phụ thuộc vào bất cứ quốc gia
nào, có thể tự cung tự cấp, mặt hàng do người dân trong nước sản xuất mà cũng do
người dân trong nước tiêu thụ, không lo bị dư thừa. Vâng, điều này đã thật sự xảy
ra. Sau Thế chiến II, nhiều quốc gia cũng đang cố gắng làm điều tương tự. Các
quốc gia đang cố gắng tự mình sản xuất mọi thứ bằng cách tạo ra các ngành công
nghiệp thay thế nhập khẩu mà không hề xem xét các tác động lâu dài của chúng
đối với nền kinh tế. Đó chính là chính sách “Thay thế nhập khẩu” (Import
Substitution Industrialization)
“Thay thế nhập khẩu (ISI)” là một chính sách kinh tế ủng hộ sự phát triển
của các ngành công nghiệp trong nước và giảm sự phụ thuộc vào hàng nhập khẩu
từ nước ngoài, chính sách này thường được các nước đang phát triển áp dụng để
giảm bớt sự phụ thuộc vào các nước phát triển. ISI là một chính sách nổi bật trong
thế kỷ 20 với mục tiêu tạo ra một thị trường nội địa tự cung tự cấp. Chính sách này
được thực hiện phổ biến ở các nước Châu Phi, một số nước ở Châu Á và các nước
Mỹ Latinh. Nhưng hiệu quả của chính của sách rất kém, vì thế đến những năm
1980, hầu hết các nước bác bỏ chính sách này.
“Thay thế nhập khẩu (ISI)” là chính sách đối ngoại kết hợp hàng hóa nước
ngoài với các sản phẩm nội địa. Chính phủ thực hiện chính sách này nhằm hỗ trợ
cho các doanh nghiệp quy mô nhỏ và trong nước. Thay thế nhập khẩu có thể bảo
vệ các nhà sản xuất địa phương khỏi sự cạnh tranh không cần thiết.
Thị trường quốc tế có quá nhiều sản phẩm rẻ và chất lượng, nhưng các nhà
sản xuất trong nước không thể sản xuất được nhiều sản phẩm chất lượng như vậy
với giá cả phải chăng. Vì vậy chính phủ đã hạn chế nhập khẩu bằng cách áp đặt
rào cản thương mại, thuế quan và hạn ngạch nhập khẩu. Nếu thuế nhập khẩu cao
sẽ dẫn đến hàng hóa nhập khẩu trở nên đắt hơn so với hàng hóa trong nước. Do
đó, nhu cầu sử dụng các hàng hóa nhập khẩu tại thị trường nội địa sẽ giảm. Vì thế,
khi áp dụng ISI, ISI sẽ mang lại sự độc lập kinh tế cho các quốc gia ví dụ như các
nước ở Mỹ Latinh như: tự cung tự cấp trong hàng hóa sản xuất sẽ giúp nền kinh tế

2
quốc gia ít phụ thuộc nền kinh tế thế giới, có lợi cho sự phát triển lâu dài của quốc
gia.
Chính sách ISI bao gồm việc thiết lập các cơ sở sản xuất trong nước cho
các mặt hàng sản xuất trước đây được xuất khẩu. Ngoài ra, chính phủ cũng đóng
vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ, trợ cấp cho
các công ty, đảm bảo tỷ giá hối đoái và khuyến khích quốc hữu hóa. Các công cụ
chính sách như thuế quan, hàng rào thuế quan và hạn ngạch, hàng rào phi thương
mại được sử dụng để chống lại các ngành của đối thủ cạnh tranh nhập khẩu. Hơn
nữa, để hạn chế nhập khẩu các sản phẩm chế tạo được sản xuất trong nước, chính
phủ đã áp dụng biện pháp kiểm soát tỷ giá hối đoái nghiêm ngặt.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp trong và ngoài nước chính phủ trợ cấp nhập
khẩu thiết nhập khẩu thiết bị vốn cho các ngành công nghiệp mới và tỷ giá hối
đoái được trao cho các công ty nhập khẩu nguyên liệu, nhiên liệu và hàng hóa
trung gian công nghiệp. Chính phủ tham gia trực tiếp vào một số ngành công
nghiệp nhất định, đặc biệt là các ngành công nghiệp nặng như thép. Ngoài ra chính
phủ cũng đặc biệt chú trọng vốn nước ngoài vì nó rất quan trọng đối với các ngành
sản xuất mới.
Theo Eichengreen (2009), ISI hoạt động hiệu quả và thành công nhất ở các
nước Mỹ Latinh. Vì một số nước ở đây như Argentina, Brazil, Mexico hay Chile,
Uruguay có dân số với mức thu nhập lớn và cho phép tiêu thụ được các sản phẩm
sản xuất trong nước.
ISI thường áp dụng đối với ngành công nghiệp non trẻ
Một trong những lập luận quan trọng nhất về thay thế nhập khẩu là lập
luận về ngành công nghiệp non trẻ. Trong trường hợp này, ngành công nghiệp
non trẻ đề cập đến các ngành công nghiệp mới. Theo lập luận, ngành công
nghiệp non trẻ ở các nước đang phát triển ban đầu không thể cạnh tranh với các
ngành công nghiệp lâu đời của các nước đang phát triển. Trong trường hợp
này, chính phủ phải xây dựng các chính sách hỗ trợ các ngành công nghiệp mới
cho đến khi chúng đủ mạnh để cạnh tranh ở cấp độ quốc tế.
Để hỗ trợ các ngành công nghiệp đó, chính phủ có thể áp dụng mức thuế
cao đối với hàng hóa nhập khẩu. Điều này sẽ dẫn đến hàng nhập khẩu đắt đỏ có
thể giúp người tiêu dùng chuyển sang hàng hóa rẻ tiền được sản xuất trong
nước. Tương tự như vậy, chính phủ cũng có thể áp đặt hạn ngạch nhập khẩu
hạn chế số lượng sản phẩm quốc tế có thể được nhập khẩu vào nước này. Điều
này sẽ giúp các ngành công nghiệp trong nước chiếm được thị phần lớn hơn.
Ví dụ: Giả sử, một quốc gia đang phát triển (Nepal) nhập khẩu khoai tây
chiên đóng gói từ Ấn Độ. Khoai tây chiên được tiêu thụ nhiều ở Nepal nhưng
hãy đoán xem nó được sản xuất ở đâu? Ở Ấn Độ. Giờ đây, Nepal quyết định
ngừng nhập khẩu khoai tây chiên đóng gói và sản xuất chúng trong nước. Do
đó, Nepal đang mong muốn xây dựng một ngành công nghiệp thay thế nhập
khẩu.
Tương tự như vậy, để chiến lược này hoạt động suôn sẻ, chính phủ
Nepal áp dụng nhiều chính sách khác nhau (thuế quan cao đối với hàng nhập
khẩu) hỗ trợ các nhà sản xuất trong nước và loại bỏ cạnh tranh nước ngoài.

3
Tương tự, để đáp ứng nhu cầu trong nước về khai tây, chính phủ cũng
cố gắng khuyến khích các nhà sản xuất mới. Để khuyến khích các nhà sản xuất
mới tham gia sản xuất chip đóng gói, chính phủ quyết định trợ cấp.

* Thực trạng “Thay thế nhập khẩu (ISI)” ở các nước Mỹ Latinh:
Đại khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933 đã gây tổn hại nặng nề cho thị
trường xuất khẩu ở các nước Mỹ Latinh. Chính phủ các nước nhận ra rằng phụ
thuộc vào xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên đó là giải pháp không thể duy trì lâu và
sẽ khiến cho nền kinh tế các nước khu vực Mỹ Latinh dễ bị công kích trên thị
trường quốc tế. Các nguồn thu nhập của họ từ việc xuất khẩu đều được chi cho
nhập khẩu nước ngoài dẫn đến tăng trưởng bị trì trệ và tài nguyên nhanh chóng
cạn kiệt. Hơn nữa, thị trường nội địa của các nước Mỹ Latinh suy yếu bởi các
ngành công nghiệp nhỏ tự phát do giới nhà giàu cầm quyền dẫn đến tỷ lệ thất
nghiệp cao. Vì thế, công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu trở thành giải pháp cho
những vấn đề trên. Nhiều quốc gia ở Mỹ Latinh đã áp dụng chính sách này bằng
cách đầu tư mạnh vào các ngành công nghiệp quan trọng. Các ngành công nghiệp
tư nhân đã được quốc hữu hóa để nhà nước có thể tăng cường kiểm soát, thuế
quan và hạn ngạch được đưa ra để giảm nhập khẩu và thuế được tăng lên để hỗ trợ
chính sách. Trong hầu hết những năm 50 và 60, nhiều chính phủ Mỹ Latinh đã áp
dụng công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu (ISI) làm phương pháp chính của họ để
đạt được tăng trưởng kinh tế và hiện đại hóa kinh tế xã hội. Tuy nhiên, vào đầu
những năm 70 mươi, có sự nghi ngờ đáng kể về thành công của ISI trong việc giải
quyết vấn đề phát triển của khu vực. Ở nhiều quốc gia, khả năng thay thế nhập
khẩu tiếp theo đã biến mất. Tăng trưởng công nghiệp đã chậm lại, cơ hội việc làm
trong ngành công nghiệp cho dân số đô thị đang phát triển nhanh chóng của mỹ
latinh khan hiếm, phân phối thu nhập ở nhiều quốc gia vẫn không thay đổi hoặc đã
trở nên tập trung hơn so với những năm đầu sau Thế chiến II, và hầu hết các hàng
hóa công nghiệp được sản xuất trong khu vực có giá cao đến mức khả năng xuất
khẩu bị hạn chế nghiêm trọng. Hãy tìm hiểu điều đó qua một số quốc gia sau:
- Ở Brazil:
Công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu ở Brazil đã được thực hiện từ những
năm 1930 đến những năm 1980, và chính phủ đóng vai trò trung tâm thực hiện
quá trình này. Kết quả là GDP bình quân đầu người tăng với tốc độ trung bình
hàng năm là 3% từ năm 1930 đến năm 1980, do đó trở thành một trong những nền
kinh tế năng động nhất trên toàn thế giới. Phải khẳng định rằng rằng có sự tăng
trưởng năng suất lao động đáng kể từ 1945 những năm 1970 trong ngành công
nghiệp Brazil, có những dấu hiệu đáng kể cải tiến công nghệ được đánh giá bằng
xuất khẩu sản xuất và hiệu suất của các ngành công nghiệp và công ty ở Brazil sau
năm 1945. Tuy Nhiên, cũng thấy rằng lao đông của Brazil tăng trưởng năng suất
chậm hơn so với các nước công nghiệp hóa và phát triển khác từ giữa những năm
1970 và tiến bộ công nghệ đó không đồng đều giữa các công ty và lĩnh vực, vì hầu
hết các công ty công nghiệp đã sử dụng thiết bị cổ, thiếu chuyên môn kỹ thuật và
hóa ra sản phẩm chất lượng thấp. Những kết quả này cho thấy rằng một cấu trúc
rất không đồng nhất đã trở thành một đặc điểm chính của ISI Brazil trong những
năm sau chiến tranh, với kết quả không đồng đều và hỗn hợp.
4
Sau cú sốc dầu mỏ năm 1973 và 1979, chính quyền Brazil đã quyết định tài
trợ cho thâm hụt tài khoản vãng lai ngày càng tăng (vì Brazil là nước nhập khẩu
nhiên liệu ròng) bằng khoản nợ cao, nhằm duy trì tăng trưởng cao. Nợ nần chồng
chất đã làm sụp đổ nền kinh tế khi Hoa Kỳ tăng lãi suất trong giai đoạn 1979 -
1981 và sau đó là sau khi Mexico vỡ nợ nước ngoài vào năm 1982. Khi các ngân
hàng quốc tế gần như cắt mọi khoản cho vay đối với các quốc gia đang phát triển,
dự trữ ngoại hối của Brazil bắt đầu cạn kiệt. Tình trạng thiếu ngoại tế đã cản trở
tăng trưởng kinh tế và gây ra sự mất giá liên tục của đồng tiền quốc gia, thúc đẩy
lạm phát phi mã. Vì vậy, chính sách công nghiệp vốn khá theo chiều dọc và chủ
động đã bị nới lỏng và dần bị bỏ rơi do những khó khăn vĩ mô. Vào những năm
90, theo con đường mà hầu hết các quốc gia Mỹ Latinh còn lại đã thực hiện, Brazil
đã từ bỏ chiến lược ISI và thay thế nó bằng học thuyết đồng thuận của
Washington.

Hình 1: Brazil-Các bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế (được lập chỉ mục tại ISI) Tổng
số và Tỷ lệ phần trăm thế giới-1981-2004 (Nguồn báo: The Brazilian System of
Innovation: policy challenges)

- Ở Chi-lê:
Đi theo con đường của nhiều nước Mỹ Latinh vào đầu những năm 1930,
Chile đã thực hiện chiến lược phát triển dựa trên công nghiệp hóa thay thế nhập
khẩu. Kết quả là, chính phủ đóng vai trò t hen chốt trong nền kinh tế khi áp dụng
một loạt các biện pháp bảo hộ, chẳng hạn như thuế quan cao, trợ cấp, tín dụng giá
rẻ, đặc biệt là khả năng tiếp cận ngoại hối, tỷ giá hối đoái đa dạng và đầu tư công
vào cơ sở hạ tầng. Trong giai đoạn này, các doanh nghiệp nhà nước đã trở thành
những doanh nhân quan trọng nhất và toàn bộ các ngành công nghiệp mọc lên
dưới sự bảo hộ của Chính phủ như thép, xăng dầu, đường, điện và viễn thông. Trái
ngược với suy nghĩ thông thường, nhiều trong số này đã chứng minh là thu được
lợi nhuận.

5
Vào những năm 1950, chiến lược ISI đã được chấp nhận rộng rãi ở Chile,
nhưng tại địa phương, những năm đó được đánh dấu bằng sự xuất hiện của nhiều
vấn đề liên quan đến chiến lược phát triển. Một mặt, giá hàng xuất khẩu (khi đó
chiếm ưu thế), ảnh hưởng mạnh đến chu kỳ kinh tế. Đồng thời, quy mô của thị
trường nội địa đã hạn chế sự thành công của chiến lược phát triển “hướng nội”.
Ngoài ra, có những vấn đề lạm phát nghiêm trọng, vì giá cả hàng năm hiếm khi
giảm từ hai con số. Trong những năm 1960, một số thay đổi trong ISI của Chile
bắt đầu diễn ra, đặc biệt dưới thời chính quyền Đảng Dân chủ Cơ đốc giáo năm
1964, bao gồm sự phát triển của các lĩnh vực mới như viễn thông và hóa dầu, thúc
đẩy xuất khẩu phi truyền thống (trong các lĩnh vực như lâm nghiệp, cá hoặc trái
cây), một cuộc cải cách tài chính và đất đai quan trọng, và những bước đầu tiên
hướng tới việc quốc hữu hóa các mỏ đồng lớn hơn. Với việc quốc hữu hóa các mỏ
đồng vào những năm 1970, nhà nước trở thành nhà sản xuất chính của nền kinh tế
Chile. Quá trình công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu đã kết thúc với sự lật đổ
chính phủ xã hội chủ nghĩa của Salvador Allende vào ngày 11 tháng 9 năm 1973,
khi một cuộc đảo chính quân sự do Tướng Augusto Pinochet lãnh đạo và Hoa Kỳ
hậu thuẫn, chấm dứt 43 năm dân chủ không bị gián đoạn ở Chile.
- Ở Mexico:
Như các nước Mỹ Latinh khác, Mexico đã theo đuổi từ những năm 1940
đến nửa sau của những năm 1970, chiến lược phát triển kinh tế dựa trên công
nghiệp hóa thay thế nhập khẩu với sự can thiệp mạnh mẽ của nhà nước. Thuế
quan, bảo hộ thương mại, xúc tiến xuất khẩu và hỗ trợ tài chính là những chính
sách phổ biến, và thậm FDI cũng bị quản lý chặt chẽ và chỉ được chấp nhận là đối
tác thiểu số trong các lĩnh vực sản xuất phi chiến lược. Chính sách công nghiệp
vận hành thông qua các chương trình cụ thể theo ngành, với mục đích xây dựng
một ngành sản xuất có khả năng sản xuất tư liệu sản xuất và các đầu vào trung
gian hơi phức tạp. Các chương trình ngành thành công nhất bao gồm các ngành
công nghiệp ô tô, máy tính và dược phẩm.
Trong giai đoạn thay thế nhập khẩu, lĩnh vực sản xuất của Mexico đã nhận
được sự hỗ trợ của chính phủ thông qua bốn kênh khác nhau:
 Giá bán sỉ cao của các sản phẩm trong thị trường nội địa do bảo hộ thương mại
 Chi phí của các đầu vào chính thấp, năng lượng và các tiện ích khác do trợ cấp
và ưu đãi thuế
 Tín dụng được trợ cấp từ các ngân hàng phát triển, một số tổ chức công và
ngân hàng tư nhân
 Miễn thuế đối một số mặt hàng máy móc, thiết bị nhập khẩu.
Cũng như ở các nước Mỹ Latinh khác, ở Mexico, động lực tăng trưởng
được ghi nhận trong giai đoạn ISI đã kết thúc vào đầu những năm 1980 do cuộc
khủng hoảng nợ. Như Brazil và Argentina, Mexico cũng tăng nợ nước ngoài trong
những năm 70. Năm 1982, Mexico vỡ nợ quốc gia, do đó tạo ra hiệu ứng Domino
đối với các quốc gia Mỹ Latinh khác, khi các công ty tài chính quốc tế lớn hạn chế
cho vay. Do đó, trong suốt những năm 1980, nền kinh tế Mexico - cũng như
Argentina và Brazil - bị thiếu hụt ngoại hối nghiêm trọng, dẫn đến tình trạng phá
giá đồng tiền tái diễn. Kết quả là, lạm phát hàng năm trung bình là 88% từ năm

6
1982 đến năm 1988. Nỗ lực đàm phán lại nợ nước ngoài của Mexico ngụ ý áp
dụng các cải cách kinh tế tân tự do (chẳng hạn như thắt lưng buộc bụng về tài
chính, tư nhân hóa các công ty nhà nước, bãi bỏ quy định công nghiệp).

2.2. “Hướng về xuất khẩu” (Export-oriented Industrialization (EOI)) ở


các nước Đông Á.
Đường lối phát triển kinh tế "Hướng về xuất khẩu" (Export-oriented
Industrialization - EOI) là một chiến lược kinh tế mà một quốc gia sử dụng nhằm
tập trung vào việc phát triển và thúc đẩy ngành công nghiệp xuất khẩu nhằm đạt
được tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Trong chiến lược này, quốc gia
tập trung vào việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị
trường quốc tế và xuất khẩu chúng để kiếm được doanh thu và thu hút đầu tư nước
ngoài.
EOI đã được áp dụng thành công bởi một số quốc gia và vùng lãnh thổ, đặc
biệt là các nền kinh tế mới nổi như Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Chiến lược
này đặt mục tiêu phát triển các ngành công nghiệp xuất khẩu, như sản xuất điện tử,
ô tô, hàng dệt may, sản phẩm công nghệ cao và dịch vụ, nhằm tăng trưởng kinh tế,
tạo việc làm và tăng thu nhập cho quốc gia. Đường lối EOI yêu cầu các quốc gia
tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu, bao gồm hỗ trợ đầu tư, cải
thiện cơ sở hạ tầng vận tải và viễn thông, đào tạo lao động có kỹ năng, thúc đẩy
xuất khẩu và tiếp cận thị trường quốc tế, và đảm bảo môi trường kinh doanh và
quy định thương mại thân thiện với doanh nghiệp xuất khẩu. Mục tiêu của EOI là
tạo ra tăng trưởng kinh tế, cải thiện chất lượng cuộc sống và tăng thu nhập quốc
gia thông qua việc tăng cường xuất khẩu và tiếp cận thị trường quốc tế. Tuy nhiên,
cần chú ý đến việc duy trì sự cân đối giữa việc tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi
trường, đảm bảo công bằng xã hội và sự phát triển bền vững cho toàn bộ xã hội.
Quốc gia áp dụng EOI đặt mục tiêu sản xuất hàng hóa và dịch vụ có khả
năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và xuất khẩu chúng để kiếm được doanh
thu và thu hút đầu tư nước ngoài. Việc tập trung vào xuất khẩu giúp quốc gia tận
dụng lợi thế cạnh tranh của mình, tăng cường năng lực sản xuất và tạo điều kiện
thuận lợi cho việc tiếp cận thị trường quốc tế. EOI có thể đạt được bằng cách đầu
tư vào các ngành công nghiệp xuất khẩu, xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao năng
lực sản xuất và xây dựng mạng lưới tiếp thị và phân phối hiệu quả. Đồng thời,
việc áp dụng các chính sách hỗ trợ, giảm thuế quan và thủ tục nhập khẩu đơn giản
cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu. Tuy EOI có thể mang
lại nhiều lợi ích như tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và thu hút đầu tư nước
ngoài, nhưng cũng cần lưu ý các thách thức và rủi ro. Việc phụ thuộc quá mức vào
thị trường quốc tế có thể tạo ra sự không ổn định khi có biến động trong nền kinh
tế toàn cầu. Ngoài ra, cần đảm bảo rằng việc phát triển xuất khẩu không gây ra các
vấn đề xã hội và môi trường như bất công xã hội, suy thoái tài nguyên và ô nhiễm
môi trường. Đường lối EOI đã được chứng minh là hiệu quả và thành công ở
nhiều quốc gia. Tuy nhiên, để đạt được sự phát triển bền vững, cần phải cân nhắc
và đảm bảo rằng mô hình này được thực hiện theo cách công bằng, bảo vệ môi
trường và mang lại lợi ích cho toàn bộ xã hội.

7
*Thực trạng “Hướng về xuất khẩu” (EOI) ở các nước Đông Á:
Trong giai đoạn đầu tiên của công nghiệp hóa, các nước đang phát triển
thường chỉ có lợi thế ở những ngành thuộc khu vực một của nền kinh tế như khai
thác tài nguyên thiên nhiên và nông nghiệp. Đây là giai đoạn công nghiệp hóa theo
hướng xuất khẩu sơ khai, khi các quốc gia tập trung vào việc sản xuất và xuất
khẩu các sản phẩm cơ bản, thô sơ, chủ yếu dựa vào tài nguyên tự nhiên và lao
động giá rẻ.
Nhật Bản là một ví dụ điển hình cho giai đoạn công nghiệp hóa theo hướng
xuất khẩu sơ khai. Vào cuối thế kỷ 19, Nhật Bản đã khai thác lợi thế tài nguyên
trong nước, chủ yếu là gỗ và than đá, để sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng cơ
bản như gỗ xẻ, than đá và nông sản. Nhờ vào xuất khẩu các sản phẩm này, Nhật
Bản đã thu về nguồn thu ngoại tệ và tạo ra nguồn tài chính để đầu tư vào việc phát
triển ngành công nghiệp hơn nữa.
Tương tự, Hàn Quốc và Đài Loan cũng trải qua giai đoạn công nghiệp hóa
theo hướng xuất khẩu sơ khai từ đầu những năm 1960. Vào thời điểm đó, cả hai
quốc gia đều đối mặt với nền kinh tế nghèo đói và hạn chế tài nguyên. Tuy nhiên,
họ đã nhìn thấy tiềm năng của việc phát triển ngành công nghiệp xuất khẩu để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hàn Quốc tập trung vào sản xuất và xuất khẩu các
sản phẩm công nghiệp như dệt may, điện tử và kim loại. Qua việc tận dụng nguồn
lao động rẻ và đầu tư vào công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm, Hàn Quốc
đã nhanh chóng trở thành một trong những quốc gia sản xuất và xuất khẩu hàng
công nghiệp hàng đầu trên thế giới. Đặc biệt, họ cũng đã xây dựng các tập đoàn
công nghiệp lớn và phát triển một hệ thống cung ứng đa dạng, từ những nhà máy
lớn cho đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong khi Đài Loan tập trung vào công
nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là trong lĩnh vực điện tử, máy móc và thiết bị công
nghiệp. Qua việc đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ, Đài Loan đã
thành công trong việc sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp có chất
lượng cao và giá cả cạnh tranh. Họ đã xây dựng một mạng lưới các doanh nghiệp
nhỏ và vừa, cùng với sự phát triển của các công ty đa quốc gia, tạo ra một nền
kinh tế đa dạng và cung cấp nhiều cơ hội việc làm cho người dân.

Bảng 1: Thành phần xuất khẩu ở Hàn Quốc tính theo phần trăm tổng xuất khẩu (Nguồn:
J. Weiss, 2005, bảng 2, trang 5)
Tuy giai đoạn sơ khai này của Hàn Quốc và Đài Loan đã đạt được thành
công đáng kể, nhưng cũng không thiếu nhược điểm. Một trong những thách thức

8
quan trọng là sự cạnh tranh từ các quốc gia khác trên thị trường xuất khẩu. Để duy
trì và tăng cường sự cạnh tranh, cả Hàn Quốc và Đài Loan đã phải đối mặt với áp
lực giảm giá và nâng cao chất lượng sản phẩm, cùng với việc nâng cao năng lực
cạnh tranh và sự đổi mới công nghệ. Ngoài ra, cả Hàn Quốc và Đài Loan cũng
phải đối mặt với vấn đề bảo vệ môi trường và tài nguyên. Sự tăng trưởng nhanh
chóng của ngành công nghiệp xuất khẩu có thể gây ra áp lực lớn đến tài nguyên tự
nhiên và môi trường, như ô nhiễm không khí, nước và chất thải công nghiệp. Qua
việc tập trung vào xuất khẩu các mặt hàng sơ khai, các nước Đông Á đã thu về
nguồn thu ngoại tệ và tạo ra cơ sở tài chính cho việc đầu tư vào phát triển ngành
công nghiệp và cơ sở hạ tầng. Đây là bước đệm quan trọng để xây dựng các cụm
công nghiệp mạnh mẽ và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Trong giai đoạn thứ hai của công nghiệp hóa theo hướng xuất khẩu (EOI),
các nước Đông Á đã chọn các ngành công nghiệp thâm dụng lao động như dệt
may, đóng giày, thực phẩm qua chế biến, đồ gỗ qua gia công và các ngành công
nghiệp nhẹ khác, cùng với ngành đóng tàu và nhiều ngành công nghiệp khác. Các
ngành công nghiệp này được lựa chọn dựa trên lợi thế của quốc gia, đó là có lao
động rẻ và tay nghề không đòi hỏi cao.
Vào thời kỳ này, Nhật Bản đã trải qua giai đoạn công nghiệp hóa EOI từ
hai thập niên đầu của thế kỷ 20. Nhật Bản đã tận dụng lợi thế của lao động rẻ và
tập trung vào các ngành công nghiệp thâm dụng lao động như dệt may, chế biến
thực phẩm và đóng tàu. Qua đó, Nhật Bản đã xây dựng được một nền kinh tế công
nghiệp mạnh mẽ và đạt được sự phát triển nhanh chóng. Nhờ vào sự tập trung và
đầu tư vào các ngành công nghiệp thâm dụng lao động, Nhật Bản đã có thể sản
xuất hàng hóa có chất lượng cao và giá cả cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Các
ngành công nghiệp dệt may và chế biến thực phẩm đã trở thành những trụ cột
quan trọng trong nền kinh tế của Nhật Bản, cung cấp việc làm cho hàng triệu
người và đóng góp đáng kể vào xuất khẩu của quốc gia. Đặc biệt, ngành công
nghiệp đóng tàu cũng đã phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn này. Nhật Bản đã sử
dụng công nghệ và kiến thức từ các nước phương Tây để xây dựng các tàu thương
mại hiện đại và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.Vào thời
điểm đó, công nghiệp nặng, bao gồm các ngành sản xuất thép, than, xi măng và
máy móc, thu hút tới 40% tổng số lao động của Nhật Bản. Nó cũng đóng góp
khoảng 50% vào sản lượng công nghiệp tổng thể của đất nước. Sự thành công của
ngành công nghiệp đóng tàu đã góp phần quan trọng vào sự phát triển nhanh
chóng của Nhật Bản và đưa quốc gia này trở thành một trong những nền kinh tế
hàng đầu thế giới.
Trong khi đó, Hàn Quốc và Đài Loan đã chọn hướng đi khác. Vì hai quốc
gia này đã nhanh chóng cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và nông nghiệp không đáp
ứng được nhu cầu nội địa, họ đã từ bỏ giai đoạn đầu của công nghiệp hóa EOI và
chuyển sang giai đoạn thứ hai từ nửa cuối thập niên 1960. Hàn Quốc và Đài Loan
đã tập trung vào các ngành công nghiệp thâm dụng lao động, tận dụng lợi thế của
lao động rẻ để tạo ra các sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao và giá cả cạnh
tranh trên thị trường quốc tế. Các ngành công nghiệp như dệt may, chế biến thực
phẩm, đồ gỗ và đóng tàu đã trở thành những trụ cột quan trọng trong nền kinh tế
của cả Hàn Quốc và Đài Loan. Cả hai quốc gia đã đầu tư mạnh vào phát triển
nguồn nhân lực có tay nghề cao và nâng cao hiệu suất sản xuất. Điều này giúp

9
tăng cường khả năng cạnh tranh và tạo ra những sản phẩm xuất khẩu có giá trị gia
tăng. Đặc biệt, ngành công nghiệp đóng tàu của cả Hàn Quốc và Đài Loan đã phát
triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu quốc tế và đưa hai quốc gia trở thành các
cường quốc xuất khẩu tàu thương mại.
Một ưu điểm của việc tập trung vào ngành công nghiệp thâm dụng lao động
là tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Việc gia công và sản xuất các sản
phẩm xuất khẩu đã cung cấp cơ hội việc làm cho hàng triệu người dân, giảm tỷ lệ
thất nghiệp và nâng cao mức sống của họ. Tuy nhiên, cũng có nhược điểm trong
giai đoạn này. Sự tập trung vào ngành công nghiệp thâm dụng lao động có thể gây
ra một số vấn đề như chất lượng cuộc sống thấp, công việc có tính lặp lại và môi
trường lao động không an toàn. Đồng thời, việc phụ thuộc quá mức vào ngành
công nghiệp xuất khẩu cũng có thể khiến các quốc gia gặp khó khăn khi thị trường
xuất khẩu biến đổi hoặc cạnh tranh trở nên khốc liệt hơn.m Tuy giai đoạn thứ hai
của công nghiệp hóa EOI tập trung vào các ngành công nghiệp thâm dụng lao
động, nó đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế của các nước Đông Á.
Việc tạo ra việc làm, thu hút đầu tư nước ngoài, nâng cao năng lực sản xuất và
xuất khẩu các sản phẩm có giá trị gia tăng đã giúp các nước này đạt được sự tăng
trưởng kinh tế ấn tượng và nâng cao đời sống của người dân.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã chuyển sang giai đoạn thứ ba
của công nghiệp hóa theo hướng xuất khẩu (EOI). Sau Thế chiến II, Nhật bản trải
qua chi phí lao động cao và tình trạng thiếu lao động, khuyến khích các công ty
Nhật bản bắt đầu chuyển địa điểm sản xuất, đầu tư trực tiếp, liên doanh và chuyển
giao công nghệ về phía ngoài, tận dụng lợi thế mạnh mẽ của các quốc gia ở vị trí
địa chính trị gần Nhật Bản. Đặc biệt, Hàn quốc và Đài Loan đã trở thành địa điểm
lý tưởng đối với những ca này.
Nhật Bản đã tận dụng được kinh nghiệm và sự phát triển từ các giai đoạn
trước đó để tập trung vào các ngành công nghiệp thâm dụng vốn và lao động có kỹ
năng. Sản xuất hàng điện gia dụng-điện tử, cơ khí đơn giản và các sản phẩm công
nghiệp khác đã trở thành lĩnh vực tạo ra giá trị gia tăng cao và có tiềm năng thu
hút đầu tư từ nước ngoài. Nhật Bản đã nhanh chóng phát triển và nâng cao chất
lượng sản phẩm, từ đó tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường quốc tế. Qua
việc tận dụng lợi thế của nguồn lao động có kỹ năng và hệ thống giáo dục chất
lượng, Nhật Bản đã xây dựng được một nền công nghiệp hiện đại, với khả năng
nghiên cứu và phát triển công nghệ tiên tiến. Điều này không chỉ tạo ra sự tăng
trưởng kinh tế mạnh mẽ, mà còn đóng góp vào việc nâng cao chất lượng cuộc
sống và phát triển xã hội của người dân.
Đặc biệt, việc thu hút đầu tư vốn nước ngoài đã giúp Nhật Bản có nguồn tài
chính để đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ, cải thiện cơ sở hạ tầng và
mở rộng quy mô sản xuất. Điều này góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của
nền kinh tế và gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Vào năm 1950, tổng sản phẩm quốc nội của Nhật Bản vẫn nhỏ hơn bất kỳ
quốc gia phương Tây nào và chỉ đạt một tỷ lệ nhỏ so với Mỹ, nhưng đến năm
1960 thì Nhật Bản đã vượt qua Canada, trong thập kỷ 1960 vượt qua Anh và Pháp,
và năm 1968 đã vượt qua Tây Đức. Với lòng tin vào khả năng cạnh tranh của
mình, từ năm 1960, Nhật Bản đã bắt đầu mở cửa tự do thương mại. Năm 1963,

10
Nhật Bản trở thành thành viên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Năm 1964, Nhật Bản gia
nhập Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế. Vào năm 1970, 72,4% kim ngạch
xuất khẩu của Nhật Bản đến từ các sản phẩm công nghiệp nặng và hóa chất. Nhật
Bản đã nhanh chóng trở thành một trong những quốc gia hàng đầu thế giới về sản
xuất sợi tổng hợp, cao su, gang, xe ôtô khách và đứng thứ ba về sản xuất bột giấy,
phân đạm, xi măng, đồng và nhôm. Trong lĩnh vực công nghiệp, Nhật Bản đã áp
dụng chính sách tăng về khối lượng và đồng thời tăng về số lượng sản phẩm mới
như cao su tổng hợp, hàng điện tử, và hoá dầu... Điều này đã giúp Nhật Bản trở
thành một trong những quốc gia có ngành công nghiệp tiên tiến nhất thế giới vào
những năm đầu thập kỷ 70. Trong lĩnh vực xuất khẩu, các đối tác chính của Nhật
Bản là Hoa Kỳ (22.9%), Trung Quốc (13.4%), Hàn Quốc (7.8%), Đài Loan (7.3%)
và Hồng Kông (6.1%) vào năm 2005. Các mặt hàng chủ yếu xuất khẩu của Nhật
Bản bao gồm thiết bị giao thông vận tải, xe cơ giới, hàng điện tử, máy móc điện tử
và hóa chất.

Hình 2: Biểu đồ thể hiện cơ cấu tỉ trọng xuất khẩu của Nhật Bản sang các
nước trên thế giới năm 2005

Vào năm 2002, tốc độ tăng trưởng GDP của Nhật Bản đạt 0.2%, tăng mạnh
so với mức tăng trưởng sau khủng hoảng kinh tế khu vực vào năm 1997 (0.3%).
Mặc dù có một số tác động không tốt từ sự giao động trong chính sách và một số
tập đoàn phá sản, nhưng tương lai của nền kinh tế Nhật Bản vẫn rất triển vọng. Kể
từ năm 2003, đầu tư tại Nhật Bản đã có xu hướng tích cực, tỷ lệ thất nghiệp giảm
và lòng tin của người tiêu dùng đã được phục hồi. Trong lĩnh vực xuất khẩu, mặc
dù giá trị đồng Yên tăng, nhưng tác động tích cực từ sự phục hồi kinh tế ở các
nước Đông Nam Á và kinh tế Hoa Kỳ mạnh mẽ đã thúc đẩy xuất khẩu của Nhật
Bản tăng nhanh từ năm 2001 trở đi. Đóng góp của xuất khẩu vào tăng trưởng kinh
tế chung của đất nước đã đạt 0.2% và 0.3% trong các năm tài chính 1999-2000 và
2000-2001. Có thể nói rằng các biện pháp về chính sách tài chính và khuyến khích
xuất khẩu đã là yếu tố quan trọng quyết định tăng trưởng GDP của Nhật Bản trong
giai đoạn từ năm 2000 đến 2003.
Tuy nhiên, trong quá trình công nghiệp hóa theo hướng xuất khẩu, Nhật
Bản cũng đã đối mặt với một số thách thức. Một trong những thách thức quan
trọng là cạnh tranh từ các quốc gia khác trên thị trường xuất khẩu. Để duy trì và

11
nâng cao sự cạnh tranh, Nhật Bản đã phải đối mặt với áp lực giảm giá và nâng cao
chất lượng sản phẩm. Tuy đã có sự phát triển đáng kể, công nghiệp hóa EOI cũng
đặt ra một số vấn đề về tài nguyên và môi trường. Việc sử dụng tài nguyên tự
nhiên và tiến hành sản xuất công nghiệp có thể gây ra ô nhiễm môi trường và làm
suy giảm các nguồn tài nguyên quan trọng.
Đầu thập niên 1980, Hàn Quốc và Đài Loan đã chuyển sang giai đoạn công
nghiệp hóa theo hướng xuất khẩu (EOI) và tập trung vào việc phát triển các ngành
công nghiệp thâm dụng vốn và lao động có kỹ năng.
Trọng tâm của EOI là tạo ra các sản phẩm công nghiệp có chất lượng cao,
kỹ thuật tiên tiến và có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Hàn Quốc và
Đài Loan đã đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng như thiết bị điện tử, máy móc chính
xác, viễn thông, ô tô, sản phẩm hóa chất và các sản phẩm công nghiệp khác. Đồng
thời, họ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển
công nghệ.
Hàn Quốc có các tập đoàn công nghệ lớn như Samsung, LG và Hyundai.
Samsung và LG đạt được thành công lớn trong lĩnh vực điện tử, bao gồm các sản
phẩm như điện thoại di động, máy tính bảng, tivi và thiết bị gia dụng thông minh.
Hyundai là một trong những nhà sản xuất ô tô hàng đầu thế giới.
Đài Loan cũng có sự xuất hiện của các tập đoàn công nghệ quan trọng như
Foxconn và TSMC. Foxconn là một trong những nhà sản xuất điện tử lớn nhất thế
giới và là đối tác chính của Apple trong việc sản xuất iPhone và các sản phẩm
công nghệ khác. TSMC (Taiwan Semiconductor Manufacturing Company) là một
trong những công ty dẫn đầu trong lĩnh vực sản xuất chip bán dẫn.
Nhờ vào việc tập trung vào ngành công nghiệp thâm dụng vốn và lao động
có kỹ năng, cả Hàn Quốc và Đài Loan đã đạt được sự tăng trưởng kinh tế ấn tượng
và nâng cao đời sống của người dân. Cả hai quốc gia đã đầu tư lớn vào giáo dục
và đào tạo nhân lực có kỹ năng, cung cấp một lực lượng lao động chất lượng cao
cho các ngành công nghiệp.

3. SO SÁNH 2 ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRÊN

3.1. Mục tiêu


Trong mô hình EOI, các quốc gia đặt mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu các
ngành mà họ có lợi thế so sánh. Các quốc gia này thường sẽ áp dụng các chính
sách có lợi cho các nhà xuất khẩu này, bắt đầu với các ngành thâm dụng lao
động và kỹ năng thấp trước khi chuyển sang EOI thứ cấp, liên quan đến nhiều
hơn hàng công nghệ tiên tiến. Trái với mô hình ISI, các quốc gia thường áp đặt
các chính sách bảo hộ và rào cản thương mại đối với hàng nhập khẩu nước
ngoài nhằm thúc đẩy sản xuất trong nước.
Trong giai đoạn đầu sau Thế chiến thứ hai, nhiều quốc gia tập trung vào
công nghiệp hóa hướng nội, áp đặt các hạn chế thương mại mang tính phân biệt
đối xử để có lợi cho các nhà sản xuất trong nước. Các nền kinh tế Đông Á cũng
không ngoại lệ trong giai đoạn Công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu này
(Jaspersen, 1997). Chỉ trong những năm 1960, Đông Á mới chuyển sang các
chính sách ưu đãi cho các nhà xuất khẩu, với nỗ lực chuyển nền kinh tế của họ

12
từ nền kinh tế dựa vào nông nghiệp sang dựa vào sản xuất (Numazaki, 1998).
Sự tăng trưởng sau đó không được thúc đẩy bởi thị trường trong nước, mà thay
vào đó là sự gia tăng ngoại thương, đặc biệt là với Mỹ và Nhật Bản. Một số
quốc gia thúc đẩy việc sử dụng các chính sách thuận lợi cho xuất khẩu này là
cái gọi là “bốn con rồng của kinh tế Châu Á”, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore
và Hồng Kông. Sau khi chuyển sang chiến lược tăng EOI, bốn nền kinh tế này
đã trải qua tốc độ tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội cao và ổn định, gần như
toàn dụng lao động và tăng phân phối thu nhập tương đối bình đẳng. Theo một
nghiên cứu năm 1998 của Ichiro Numazaki, từ năm 1965 đến 1980, bốn nước
này có tốc độ tăng trưởng hàng năm là 8,6 - 10%. Sau giai đoạn này, họ đã có
thể duy trì mức ổn định và cao bất chấp sự suy thoái của các quốc gia phát
triển. Từ năm 1983 đến 1993, Đài Loan và Hàn Quốc đã có thể tăng gấp bốn
lần Tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu người, trong khi Hồng Kông và
Singapore tăng gấp ba lần. Sự mở rộng nhanh chóng này có thể được coi là mối
tương quan trực tiếp với các chính sách mới dựa trên xuất khẩu, vì tỷ lệ xuất
khẩu trên Tổng sản phẩm quốc nội là hơn 50% (Numazaki, 1998). Sự gia tăng
xuất khẩu này phần lớn đến từ các ngành công nghiệp như quần áo, dệt may và
các sản phẩm chế tạo khác. Khoảng từ 31,1 - 68,8% hàng xuất khẩu của các
nước trên là hàng công nghiệp. Những hàng hóa này chủ yếu sử dụng nhiều lao
động và không đòi hỏi trình độ lao động lành nghề cao. Tuy nhiên, đến năm
1981, sự thay đổi trong xuất khẩu đã được thực hiện đối với các sản phẩm có
công nghệ tiên tiến, chẳng hạn như thiết bị vận tải, máy móc điện và phi điện.
Sự thay đổi này tuân theo một mô hình công nghiệp hóa được Bruce
Cummings (Numazaki, 1998) gọi là “mô hình công nghiệp hóa theo chu kỳ sản
phẩm cổ điển”. Trong mô hình này, các nước sẽ bắt đầu với các sản phẩm sơ
cấp có kỹ năng thấp hơn mà họ có lợi thế so sánh trong sản xuất, tập trung đẩy
mạnh xuất khẩu vào các sản phẩm này. Sau giai đoạn ban đầu này, các quốc gia
chuyển sang sử dụng lao động có kỹ năng cao hơn, tiến bộ từ chuyển giao công
nghệ thông qua tăng cường thương mại quốc tế và tham gia. Giai đoạn công
nghiệp hóa thứ hai này cuối cùng sẽ thúc đẩy các quốc gia tiến tới mức độ tiến
bộ công nghệ cao hơn và sản xuất các sản phẩm như vậy. Theo sát bốn nước
này trong mô hình công nghiệp hóa theo chu kỳ sản phẩm là các quốc gia ban
đầu của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), bao gồm Indonesia,
Malaysia, Thái Lan và Philippines. Các quốc gia này có tốc độ tăng trưởng cao
tương tự nhau trong suốt những năm 1960 và 1980, với Thái Lan đạt tốc độ
tăng trưởng trung bình hàng năm là 9% trong những năm 1990.
Mục tiêu chính của chiến lược ISI là tăng cường sản xuất trong nước
bằng cách giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu. Trước hết cố gắng tự sản xuất để
đáp ứng đại bộ phận nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ cho thị trường nội địa.
Đảm bảo cho các nhà sản xuất trong nước có thể làm chủ được kỹ thuật sản
xuất hoặc các nhà đầu tư nước ngoài cung cấp công nghệ vốn và quản lý hướng
vào việc cung cấp cho thị trường nội địa là chính. Tiếp đến là lập ra các hàng
rào bảo hộ để hỗ trợ cho sản xuất trong nước, khuyến khích các nhà đầu tư. Sản
phẩm nhập khẩu sẽ bị áp đặt những loại thuế quan, hạn ngạch khác nhau nhằm
hạn chế nhập khẩu để tăng cường sản xuất trong nước. Ngoài ra chính phủ đã
áp dụng biện pháp kiểm soát tỷ giá hối đoái nghiêm ngặt. Tóm lại mục tiêu của

13
ISI là tập trung vào phát triển kinh tế trong nước để giảm sự phụ thuộc vào
nước ngoài.
Các nước Mỹ Latinh đi theo con đường công nghiệp hóa rất giống với
các nước Đông Á trong thời kỳ ngay sau Thế chiến thứ hai. Trong giai đoạn
này, điều kiện và cơ cấu tăng trưởng kinh tế ở cả hai khu vực thực tế phản ánh
chính sách tương tự nhau. Cả Đông Á và Mỹ Latinh đều có cái được coi là
“nền kinh tế hỗn hợp” (mixed economies) nghĩa là vừa áp dụng nền kinh tế thị
trường song song với việc nhà nước can thiệp hạn chế trong nỗ lực thúc đẩy
phát triển (Birdsall và Jaspersen, 1997). Trong giai đoạn sau giữa những năm
1900, ngày càng có nhiều quốc gia đưa ra ý kiến chống xuất khẩu đặc biệt
mạnh mẽ trong chính phủ và cơ chế thương mại của họ, điều này càng được
củng cố bởi các chính sách bảo hộ nhằm mang lại lợi ích cho các nhà sản xuất
trong nước. Giai đoạn đầu tiên của ISI ở Mỹ Latinh đã đạt được một số thành
công nhất định sau giữa những năm 1900. Tốc độ tăng trưởng ở mức vừa phải
vào đầu những năm 1960, với tốc độ tăng trưởng GDP trung bình hàng năm là
7,4% trên khắp Châu Mỹ Latinh vào năm 1964 (World Bank, 2019). Sau Thế
chiến thứ hai, nền kinh tế thế giới bị cắt đứt liên kết, Mỹ Latinh đã tìm thấy khả
năng sản xuất trong nước để thay thế hàng nhập khẩu nước ngoài nhờ nguồn tài
nguyên thiên nhiên dồi dào trong nước. Những nguồn tài nguyên thiên nhiên
này cho phép các nước Mỹ Latinh chỉ tập trung vào công nghiệp hóa hướng nội
với sự tăng trưởng trong nền kinh tế của họ. Ban đầu, Mỹ Latinh nhấn mạnh
vào việc thay thế nhập khẩu nước ngoài bằng sản xuất trong nước trong lĩnh
vực sản xuất ‘dễ dàng’ chủ yếu là hàng hóa sơ cấp (Bruton, 2002). Những hàng
hóa này phần lớn yêu cầu về mặt kỹ thuật thấp và sử dụng nhiều lao động,
tương tự như giai đoạn đầu của mô hình công nghiệp hóa theo chu kỳ sản phẩm
của mô hình EOI. Việc chuyển sang ISI thứ cấp kết hợp đầu tư nhiều hơn vào
kỹ năng và lực lượng lao động trong nước để thích nghi với sản xuất có kỹ
năng cao hơn và công nghệ tiên tiến. Cách tiếp cận ISI thứ cấp này liên quan
đến sự can thiệp mạnh mẽ của chính phủ thông qua đầu tư vào con người và
vốn vật chất, thường làm tăng mức nợ (Cypher, 1997). Bằng cách thực hiện các
chính sách tự do hóa thương mại và tài chính ở Mỹ Latinh, giá cả đã giảm và
vay nước ngoài trở nên dễ dàng hơn để tài trợ cho tiêu dùng trong nước. Tuy
nhiên, điều này vô tình dẫn đến sự mất mát trong tiết kiệm tư nhân trong nước
(Birdsall và Jaspersen, 1997). Khả năng vay nước ngoài đã tạo ra không gian
cho Mỹ Latinh cố gắng tài trợ cho ISI thứ cấp của họ thông qua vay nặng lãi
bên ngoài, do đó khiến các quốc gia này dễ bị ảnh hưởng bởi các cú sốc bên
ngoài. Các nỗ lực thúc đẩy phát triển tự cung tự cấp ở Mỹ Latinh, trong đó
khuyến khích sản xuất đối với hàng hóa trung gian và hàng hóa tư bản cũng
như hàng hóa cuối cùng, đã được lập luận là không có lợi cho tăng trưởng vì nó
cản trở sự tập trung vào các ngành có thể đạt được mức tăng trưởng cao nhất.
Sản lượng có thể do lợi thế so sánh và tuyệt đối của họ (Baer, 1972). Những
khoản vay nợ nước ngoài và giảm tiết kiệm tư nhân là nền tảng cho những cú
sốc dầu mỏ trong những năm 1970 và 1980 có tác động lớn đến các nền kinh tế
Mỹ Latinh. Sau cuộc khủng hoảng năng lượng này, nhận thức của các chủ nợ
đã thay đổi do lãi suất mới và những thay đổi trong điều kiện thương mại quốc
tế. Việc cắt đứt đột ngột việc tài trợ cho sự mất cân bằng kinh tế vĩ mô bằng

14
vay nợ bên ngoài đã trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ ở Mỹ Latinh. Chỉ
vào thời điểm này, phần lớn các nước Mỹ Latinh cuối cùng đã từ bỏ các chính
sách bảo hộ nghiêm ngặt của họ và đưa ra các cải cách kinh tế mang tính cơ
cấu. Tăng trưởng trì trệ trong giai đoạn này thường được gọi là “thập kỷ mất
mát” tăng trưởng ở các nước Mỹ Latinh, với lạm phát trung bình 75% hàng
năm trong ba thập kỷ tính đến năm 1990 (Jaspersen, 1997).

Trong khi sự phong phú về tài nguyên thiên nhiên ở Mỹ Latinh khuyến
khích các chiến lược ISI tiếp tục, các quốc gia Đông Á đang phát triển lại
không có đủ nguồn lực để thúc đẩy chiến lược này. Tuy nhiên mô hình ISI
cũng không tạo ra đủ cơ hội việc làm trong quá trình di cư ồ ạt từ nông thôn ra
thành thị ở Mỹ Latinh (Baer, 1972). Mô hình tăng trưởng ở Mỹ Latinh vào thời
điểm đó có thể được đặc trưng bởi các chính sách thương mại ngày càng hạn
chế với sự bùng phát của lạm phát và khủng hoảng cán cân thanh toán. Khi
cuộc khủng hoảng năng lượng tấn công các nền kinh tế trên toàn cầu, Đông Á
đã phản ứng bằng cách tăng cường xuất khẩu và sản xuất. Mức tiết kiệm tư
nhân cao ở các quốc gia Đông Á cũng có thể hạn chế thành công gánh nặng
thiệt hại kinh tế mà các quốc gia ở Mỹ Latinh phải gánh chịu. Trong một phần
tư cuối cùng của thế kỷ 20, các nền kinh tế Đông Á đã trải qua mức tăng trưởng
cao khoảng 5 - 10% hàng năm so với mức trung bình 1,2% của các nền kinh tế
Mỹ Latinh. Nhìn chung, từ cuối Thế chiến II đến cuối thế kỷ 20, tám quốc gia
Đông Á đã trải qua sự tăng trưởng với tốc độ nhanh gấp 3 lần so với Mỹ Latinh
và Caribe (Birsdall và Jaspersen, 1997).

3.2. Kết quả


Đến thập niên 1960, chính sách ISI đã xuất hiện những hạn chế đáng kể.
Mặc dù kết quả khác nhau giữa các quốc gia, song các quốc gia đều gặp các vấn
đề như sản xuất không mở rộng sang các ngành khác ngoài hàng tiêu dùng, tăng
trưởng việc làm chậm, suy giảm ngành nông nghiệp. Xung đột xã hội cũng xuất
hiện và được xem là một phần là do sự di cư nội bộ gia tăng và bất bình đẳng lớn
hơn. Mặc dù với chính sách ISI, các quốc gia lớn như Brazil, Mexico đã tạo ra
được tăng trưởng ngắn hạn, nhưng với các quốc gia nhỏ như Ecuador, Honduras
lại kém thành công hơn. Các nhà phê bình ở Mỹ Latinh, đặc biệt tại Ủy ban Kinh
tế Mỹ Latinh và Đại học Chile ở Santiago đã lên án sự phụ thuộc của ISI vào TNC
và sự thất bại của nó trong việc thúc đẩy phát triển bình đẳng. Trong những năm
1970, sự thất bại của ISI trở nên rõ ràng đối với các nhà kinh tế và các nhà hoạch
định chính sách. Do đó, chính phủ các nước Mỹ Latinh đã phải đối mặt với tình
thế tiến thoái lưỡng nan. Họ có thể chấm dứt tình trạng méo mó của thị trường
bằng cách mở cửa cho ngoại thương nghĩa là dỡ bỏ các rào cản thương mại và phá
giá đồng tiền của quốc gia. Hoặc là, có thể hưởng lợi từ sự bùng nổ của thị trường
vốn quốc tế và đi vay để trợ cấp cho một hệ thống đã rơi vào tình trạng giảm lợi
nhuận cận biên. Và ở đây cũng thể hiện rõ tầm quan trọng của Nhà nước.
Các nhà kinh tế cũng chỉ ra rằng vai trò quyết định của Nhà nước đối với sự
nghiệp công nghiệp hóa rất quan trọng. Thế nhưng cấu trúc kinh tế xã hội ở Mỹ

15
Latinh rất khác so với Đông Á. Giới thượng lưu kiểm soát các thị trường hấp dẫn
bên ngoài đối với hàng xuất khẩu chính của khu vực không có nhiều mong muốn
thay đổi hiện trạng. Hơn nữa, Mỹ Latinh không có các tầng lớp doanh nhân, lực
lượng lao động, cơ sở hạ tầng, quy mô thị trường, hoặc năng lực hành chính để đối
phó với một quá trình công nghiệp hóa sâu rộng. Ở Mỹ Latinh, các nhà hoạch định
chính sách không bị giới hạn bởi các cơ quan bầu cử. Người tiêu dùng không có
tiếng nói chính trị, vì vậy không cần chiến lược tăng trưởng và không cần chi phí
chính trị cho việc bảo hộ thuế quan. Và đây là một trong những lý do cho việc
triển khai sai ISI có bản chất sâu xa về mặt thể chế.
Đây là những gì họ đã chọn để làm. Họ đã “câu giờ bằng cách vay mượn
nước ngoài”. Điều này đã kết thúc trong nhiều cuộc khủng hoảng nợ vào những
năm 1980, và IFM đã vào cuộc và chấm dứt ISI thông qua các chương trình điều
chỉnh cơ cấu nhằm tự do hóa thương mại và dòng vốn. Nhìn chung, câu chuyện
dường như là, trong một thế giới toàn cầu hóa, phát triển hướng nội là rất tốn kém.
Mỹ Latinh đã bỏ lỡ những lợi ích, đó là nhập khẩu hàng hóa đầu tư và hàng hóa
trung gian không có sẵn trong nước với chi phí tương đương, tiếp cận các nguồn
tiết kiệm nước ngoài, chuyển giao công nghệ và ý tưởng. Ngược lại, ISI có tính
xuyên tạc và ngăn cản việc phân bổ hiệu quả các nguồn lực dọc theo đường lợi thế
so sánh. Các nhà phê bình chỉ ra cách thể hiện ISI bừa bãi của giới chức trách Mỹ
Latinh. Với thị trường nội địa nhỏ, vốn hạn chế và thiếu nhân lực lành nghề, tăng
trưởng công nghiệp tự động dẫn đến sự phát triển của các ngành công nghiệp kém
hiệu quả và chi phí cao, cơ cấu xuất khẩu thiếu đa dạng và ngành nông nghiệp
thiếu các khoản đầu tư. ISI là một thất bại hoàn toàn ở Mỹ Latinh.
Bên cạnh sự thất bại của ISI. Nền kinh tế của bốn con hổ Châu Á được xem
xét là có lợi ích do EOI mang lại bởi tăng trưởng GNP ổn định, phân phối thu
nhập tương đối bình đẳng, gần tỷ lệ toàn dụng và phụ thuộc nhiều vào ngoại
thương. Các yếu tố này khuyến khích tăng trưởng kinh tế khi được sử dụng phối
hợp với các chính sách tập trung vào xuất khẩu nhưng các quốc gia không có xã
hội bình đẳng đồng nhất không nhất thiết đạt được thành công như nhau thông qua
EOI.

3.3. Chiến lược


Trong mô hình EOI, việc tăng cường xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ có thể
giúp quốc gia tiết kiệm ngoại tệ và kiểm soát tài chính. Bằng cách tăng thu nhập
ngoại tệ thông qua xuất khẩu, quốc gia có thể tạo ra động lực cho tăng trưởng kinh
tế và giảm phụ thuộc vào việc nhập khẩu từ các quốc gia khác. Việc mở rộng xuất
khẩu cũng tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước để tiếp cận thị trường
quốc tế, thúc đẩy sự phát triển và cạnh tranh trong ngành công nghiệp. Đồng thời,
việc tăng cường xuất khẩu cũng có thể mang lại lợi ích về công nghệ và kiến thức
từ việc tiếp xúc với các thị trường quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh
của quốc gia. Ngược lại, chiến lược hướng nội (ISI) tập trung vào sự tự cung cấp
và bảo vệ thị trường trong nước. Thông qua việc thúc đẩy sản xuất trong nước và
áp dụng biện pháp bảo hộ thương mại, quốc gia có mục tiêu giảm sự phụ thuộc
vào việc nhập khẩu và tăng cường khả năng tự cung cấp. Điều này thường được

16
thực hiện để bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước, đồng thời tạo ra một thị
trường nội địa ổn định cho các doanh nghiệp trong nước.
Mô hình EOI thay vì bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước như mô
hình ISI, quốc gia tạo ra môi trường cạnh tranh và đầu tư vào các ngành sản xuất
có tiềm năng xuất khẩu. Điều này bao gồm việc tạo ra điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp xuất khẩu, như giảm các rào cản thương mại, cải thiện cơ sở hạ tầng,
tăng cường năng lực cạnh tranh và đào tạo lao động có kỹ năng phù hợp với yêu
cầu xuất khẩu. Việc tăng cường xuất khẩu có thể giúp quốc gia thúc đẩy sản xuất
và tăng cường năng suất lao động, từ đó đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Đồng
thời, việc mở rộng xuất khẩu cũng giúp giảm thiểu sự phụ thuộc vào thị trường nội
địa và tăng cường tính bền vững của nền kinh tế. Qua việc tiếp xúc với các thị
trường quốc tế, quốc gia có thể học hỏi và áp dụng các công nghệ, quy trình sản
xuất và kiến thức mới, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành công
nghiệp trong nước. Trong khi đó, mô hình ISI thường đi kèm với việc thiết lập các
hàng rào bảo hộ nhằm hỗ trợ sản xuất trong nước. Những biện pháp bảo hộ này có
thể bao gồm áp thuế nhập khẩu cao để làm tăng giá thành của hàng hóa ngoại
nhập, áp dụng quy định chứng nhận chất lượng và tiêu chuẩn kỹ thuật phức tạp để
hạn chế cạnh tranh từ hàng hóa nhập khẩu. Mục tiêu chính của các biện pháp bảo
hộ trong mô hình ISI là bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước khỏi sự cạnh
tranh không cân bằng từ hàng hóa nhập khẩu và tạo điều kiện công bằng cho các
doanh nghiệp trong nước phát triển. Bằng cách tạo ra một môi trường có lợi cho
các ngành sản xuất trong nước, nhà nước hy vọng sẽ thúc đẩy sự phát triển công
nghiệp và tạo ra việc làm cho người dân trong nước.

Đảm bảo môi trường đầu tư thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài là một
trong những chiến lược quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế của một quốc gia.
Qua việc thiết lập chính sách khuyến khích và kinh tế tự do, quốc gia có thể thu
hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài. Tạo một môi trường đầu tư thuận lợi
bao gồm việc đảm bảo sự ổn định chính trị, pháp lý rõ ràng và công bằng, và đảm
bảo quyền sở hữu tài sản. Ngoài ra, các chính sách khuyến khích đầu tư như miễn
thuế, hỗ trợ tài chính và hỗ trợ đào tạo nhân lực cũng có thể được áp dụng để thu
hút nhà đầu tư nước ngoài. Khi nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào quốc gia, họ
thường mang theo công nghệ tiên tiến, trình độ quản lý và kinh nghiệm quốc tế.
Điều này có thể góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia thông qua
việc chuyển giao công nghệ và trình độ quản lý, đồng thời tạo ra việc làm và thúc
đẩy phát triển công nghiệp trong nước. Tuy nhiên, chiến lược hướng nội thì chú
trọng vào các ngành công nghiệp trong nước, nâng cao năng suất và chất lượng
sản xuất, cũng như phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng là những yếu tố quan trọng để
đáp ứng nhu cầu hàng hóa và dịch vụ trong thị trường nội địa. Điều này giúp giảm
sự phụ thuộc vào nhập khẩu và tăng cường sự tự cung tự cấp trong nước. Bằng
cách xây dựng một cơ sở sản xuất mạnh mẽ trong nước, quốc gia có thể tận dụng
tối đa tiềm năng sản xuất và tạo ra việc làm cho người dân trong nước. Đảm bảo
công nghệ sản xuất là một yếu tố quan trọng để đảm bảo rằng các nhà sản xuất
trong nước có khả năng đáp ứng yêu cầu về chất lượng và cạnh tranh trên thị
trường nội địa. Nhà nước có thể đảm bảo rằng các doanh nghiệp trong nước có
khả năng làm chủ công nghệ sản xuất thông qua việc đầu tư vào nghiên cứu và

17
phát triển, đào tạo nhân lực chất lượng cao và tạo điều kiện thuận lợi để hợp tác
với các nhà đầu tư nước ngoài để chuyển giao công nghệ. Điều này không chỉ tăng
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước mà còn góp phần vào sự phát
triển và tăng trưởng bền vững của quốc gia.

3.4. Ưu điểm, hạn chế


Thay thế nhập khẩu (ISI) và hướng về xuất khẩu (EOI) là hai phương pháp
phát triển kinh tế đã được áp dụng bởi các quốc gia đang phát triển trong thế kỷ
qua. ISI là một chiến lược bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước khỏi cạnh
tranh nước ngoài bằng cách áp đặt thuế quan, hạn ngạch và các rào cản thương
mại khác. Trái lại, EOI là một chiến lược khuyến khích các ngành công nghiệp
trong nước xuất khẩu sản phẩm của mình bằng cách cung cấp hỗ trợ tài chính,
miễn thuế và các ưu đãi khác. Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và hạn chế
riêng.
3.4.1. Ưu điểm, hạn chế của phương pháp “Công nghiệp hóa thay thế
nhập khẩu” (ISI)
ISI là một chính sách nổi bật trong thế kỷ 20, khi các nước đang phát triển
tìm cách giảm bớt sự phụ thuộc vào các nước phát triển, với mục tiêu tiến tới công
nghiệp hóa và cuối cùng trở thành tự cung tự cấp. Tuy nhiên, chính sách này đã
mất đà vào nửa sau của thế kỷ. Một số lợi thế của phương pháp ISI phải kể đến
như:
- ISI giúp tạo việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Khi các ngành
công nghiệp trong nước được bảo vệ khỏi cạnh tranh nước ngoài, họ có thể sản
xuất hàng hóa và dịch vụ với chi phí đầu vào thấp hơn, dẫn đến giá cả hàng hóa
thấp hơn cho người tiêu dùng và đồng thời mang đến lợi nhuận cao hơn cho doanh
nghiệp.
- ISI làm giảm sự phụ thuộc của một quốc gia vào nhập khẩu. Khi các
ngành công nghiệp trong nước có thể tự sản xuất hàng hóa và dịch vụ mà trước
đây phải nhập khẩu, quốc gia đó sẽ giảm thâm hụt thương mại, đồng thời cải thiện
cán cân thanh toán. Điều này giúp đất nước tự chủ hơn về tài chính và khó có thể
bị ảnh hưởng bởi những biến động kinh tế từ các quốc gia khác
- ISI có thể đóng góp vào phát triển công nghệ, bảo vệ an ninh quốc gia.
Khi các ngành công nghiệp trong nước được bảo vệ khỏi cạnh tranh nước ngoài,
họ có nhiều khả năng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển hơn, quốc gia đó sẽ ít bị
tổn thương hơn trước sự gián đoạn trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Điều này khá
quan trọng đối với các ngành công nghệ, năng lượng và quốc phòng.
- Hỗ trợ sự phát triển của các doanh nghiệp địa phương và quy mô
nhỏ. Các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ sẽ thường bị yếu thế hơn doanh
nghiệp trong nước khác, đặc biệt hơn nữa sẽ bị đe dọa bởi sự xuất hiện của
doanh nghiệp nước ngoài, vì thế mà ISI có thể là một chính sách hợp lý để hỗ
trợ họ
- Tạo ra khoảng trống trong nền kinh tế, khuyến khích đầu tư.
- Sự phát triển của các ngành công nghiệp địa phương tạo ra nhiều
việc làm hơn cho công dân của đất nước. Thúc đẩy phát triển doanh nghiệp

18
trong nước đồng nghĩa với việc sẽ có các nhà máy, các nơi sản xuất ở trong
nước, từ đó tạo cơ hội việc làm cho công dân trong nước
- Nó có thể giúp tạo ra sự cân bằng giữa nhập khẩu và xuất khẩu. Do
đó, các doanh nghiệp địa phương hoạt động hiệu quả sẽ nhận được sự thúc
đẩy mạnh mẽ và ghi nhận mức tăng trưởng theo cấp số nhân.

Tuy nhiên, ISI tồn tại một số hạn chế khá lớn.
- ISI có thể gây bất lợi cho các mặt hàng xuất khẩu. Điều này xuất phát từ
việc ISI thường dẫn đến sự phát triển chủ yếu của các ngành công nghiệp chỉ để
đáp ứng nhu cầu nội địa, dẫn đến sự thiếu cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Kết
quả là sự tăng trưởng xuất khẩu bị hạn chế và tiếp cận các thị trường quốc tế gặp
khó khăn, dẫn đến hệ quả tất yếu là giảm doanh thu xuất khẩu và thâm hụt thương
mại.
- Phương pháp ISI có thể dẫn đến sự thiếu hiệu quả trong nền kinh tế.
Khi các doanh nghiệp trong nước được bảo vệ khỏi cạnh tranh nước ngoài, các
doanh nghiệp trong nước có ít động lực để cải thiện chất lượng sản phẩm, hiệu
suất sản xuất, và cũng ít khả năng đưa ra các sản phẩm và dịch vụ mang tính sáng
tạo để nắm bắt thị trường quốc tế. Điều này có thể dẫn đến hàng hóa và dịch vụ có
chất lượng thấp hơn, giá cao hơn và ít đổi mới hơn.
- ISI có thể dẫn đến sự gia tăng can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế.
Chính phủ thường áp dụng các biện pháp bảo hộ như thuế quan, hạn ngạch và trợ
cấp để bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước. Tuy nhiên, các chính sách này
có thể làm méo mó thị trường và hạn chế sự tăng trưởng kinh tế. Sự can thiệp của
chính phủ có thể làm biến đổi giá cả và phân bổ tài nguyên không hiệu quả, ảnh
hưởng đến tính cạnh tranh và sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
- ISI làm tăng sự bất bình đẳng trong thu nhập. Các chính sách ISI
thường mang lại lợi ích cho những người giàu có và quyền lực nhưng lại gây thiệt
hại cho người nghèo, người có địa vị xã hội thấp. Điều này là do các chính sách
ISI có xu hướng ưu tiên phát triển các doanh nghiệp lớn, lâu đời hơn là những
doanh nghiệp nhỏ và mới nổi, gây ra sự mất cân bằng về cơ hội kinh doanh và thu
nhập, tạo ra sự không công bằng và không ổn định trong xã hội.
Công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu cũng có thể có tác động bất lợi đối với
đất nước. Khi một quốc gia tìm cách tối ưu hóa hoạt động kinh doanh sản xuất của
mình bằng cách áp dụng một số chính sách làm giảm hoặc loại bỏ nhập khẩu, điều
đó sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu của một quốc gia khác. Vì vậy, các quốc gia khác
cũng có thể ngừng nhập khẩu sản phẩm từ quốc gia của bạn, có khả năng dẫn đến
chiến tranh thương mại về lâu dài. Kết quả là, sự thiếu hiệu quả của thị trường
phát sinh.
Một khách hàng thích hàng ngoại sẽ không mua hàng nội. Tuy nhiên, nhu
cầu của người tiêu dùng vẫn cần phải được đáp ứng trong các tình huống như vậy.
Việc không có cạnh tranh nước ngoài có thể giúp các nhà sản xuất, nhưng
người tiêu dùng có thể trả số tiền tương tự cho hàng hóa dưới tiêu chuẩn.
Việc áp dụng thay thế nhập khẩu quá mức sẽ dẫn đến tỷ giá hối đoái được
định giá quá cao.

19
Nhìn chung, ISI là một chính sách kinh tế phức tạp với cả ưu điểm và hạn
chế. Nó có thể là một chiến lược thành công để phát triển kinh tế, nhưng quan
trọng là phải xem xét cẩn thận các chi phí và lợi ích tiềm năng trước khi thực hiện
các chính sách ISI. Vào đầu những năm 1980, nhiều quốc gia Mỹ Latinh đã vỡ nợ,
mặc dù đã áp dụng chính sách ISI thành công để vượt qua Cuộc Đại suy thoái năm
1930. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới đã can thiệp, nhưng chỉ
với điều kiện là các quốc gia này từ bỏ ISI để ủng hộ các chính sách tân tự do. Kết
quả là ISI nhanh chóng mất sức ảnh hưởng của mình ở Mỹ Latinh. Bất chấp
những hạn chế của nó, ISI vẫn là một chiến lược phát triển kinh tế quan trọng đối
với nhiều nước đang phát triển.
3.4.2. Ưu điểm, hạn chế của phương pháp “Công nghiệp hóa theo hướng
xuất khẩu” (EOI)
Định hướng xuất khẩu (EOI) là một chiến lược phát triển kinh tế nhấn
mạnh vào việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ để xuất khẩu. EOI đã được ghi nhận
là đã giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước đang phát triển. Ví dụ, các
nền kinh tế Đông Á, như Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore, đã tăng trưởng nhanh
chóng trong những năm 1980 và 1990, một phần là do họ đã áp dụng các chính
sách EOI.
- EOI có thể giúp mở rộng thị trường, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Quốc
gia sản xuất hàng hóa và dịch vụ để xuất khẩu sẽ có cơ hội tiếp cận được nhiều
khách hàng tiềm năng và thị trường lớn hơn. Điều này giúp tăng doanh thu và lợi
nhuận cho các doanh nghiệp xuất khẩu, đồng thời tạo ra thu nhập và cơ hội việc
làm mới cho người lao động, thúc đẩy sự phát triển và tăng trưởng kinh tế tổng thể
của quốc. Việc này sẽ dẫn đến một chu kỳ tăng trưởng kinh tốt, vì xuất khẩu tăng
dẫn đến đầu tư và chi tiêu của chính phủ tăng, từ đó dẫn đến xuất khẩu tiếp tục
tăng nhiều hơn.
- EOI giúp quốc gia phân bổ nguồn lực hiệu quả, tăng năng suất lao
động. Bằng cách khuyến khích các ngành công nghiệp xuất khẩu, EOI thúc đẩy sự
tập trung vào các lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh và tiềm năng tăng trưởng cao. Các
doanh nghiệp trong ngành xuất khẩu có xu hướng sử dụng nguồn lực sản xuất hiện
có của mình một cách tối ưu nhất, đồng thời tăng đầu tư vào công nghệ và quản lý,
từ đó cải thiện năng suất và chất lượng sản phẩm. Khi năng suất lao động tăng,
quốc gia có thể tận dụng tiềm năng phát triển kinh tế và cải thiện mức sống của
người dân
- EOI có thể giúp cải thiện cán cân thanh toán. Khi một quốc gia xuất
khẩu nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn nhập khẩu, quốc gia đó sẽ có thặng dư
thương mại. Tiền thu được từ việc bán hàng hóa và dịch vụ cho các quốc gia khác
có thể giúp cải thiện tình hình tài chính của quốc gia và giảm áp lực nợ. Đồng
thời, khi cán cân thanh toán dương, các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp sẽ đánh
giá cao tính ổn định và khả năng thanh toán của quốc gia đó, làm tăng khả năng
thu hút vốn đầu tư nước ngoài, góp phần vào sự phát triển kinh tế bền vững của
quốc gia.
- EOI có thể linh hoạt đối phó với những biến động không lường trước
được. Điều này là do khi các nhà xuất khẩu cần một chuỗi cung ứng nội địa đáng
tin cậy, các doanh nghiệp nhỏ cung cấp đầu vào sẽ được thành lập, kéo theo sự
phát triển các dịch vụ marketing, sửa chữa và thiết kế. Điều này tạo ra một khu

20
vực công nghiệp đa dạng và linh hoạt, được trang bị tốt để xử lý những thay đổi
bất ngờ trên thị trường. Điều này thể hiện rõ qua cách Hàn Quốc và Đài Loan đối
phó với cú sốc dầu mỏ toàn cầu năm 2011. Cả hai nước đều có thể nhanh chóng
điều chỉnh nền kinh tế của mình và tránh được suy thoái kinh tế.
Tuy mô hình EOI đã thành công ở nhiều quốc gia, nhưng chiến lược EOI
không phải không có nhược điểm.
- Quốc gia áp dụng EOI có thể dễ bị tổn thương trước những thay đổi
trong nền kinh tế toàn cầu. Do nền kinh tế gắn chặt với thị trường quốc tế nên
nếu nhu cầu toàn cầu đối với hàng xuất khẩu của quốc gia đó giảm, nền kinh tế
của quốc gia đó có thể bị ảnh hưởng khá lớn. Đây là trường hợp của nhiều nước
đang phát triển, trong đó có Việt Nam, trong cuộc khủng hoảng tài chính năm
2008. Trước đó, Việt Nam đã tập trung vào việc mở rộng xuất khẩu và thu hút vốn
đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, khi cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra, nền kinh tế
toàn cầu suy thoái và nhu cầu tiêu thụ giảm mạnh. Việt Nam, với sự phụ thuộc
nhiều vào xuất khẩu, đã chịu ảnh hưởng tiêu cực, gặp khó khăn trong việc tiếp cận
thị trường và giảm sản xuất khiến tốc độ tăng trưởng kinh tế bị trì hoãn. Việc tập
trung vào các ngành cụ thể có thể dẫn đến giảm đa dạng hóa. Chẳng hạn, một
quốc gia có thể trở nên phụ thuộc vào hiệu quả kinh tế của một ngành cụ thể. Về
lâu dài, một trạng thái như vậy có thể trở nên rất dễ bị tổn thương trước những
thay đổi của môi trường bên ngoài. Lập luận này đặc biệt nếu người ta nói về các
quốc gia xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ và khí đốt. Chiến lược này
có thể làm tăng GDP của các quốc gia này; tuy nhiên, không phải lúc nào nó cũng
tăng cường sự dịch chuyển xã hội đi lên. Ví dụ hùng hồn nhất là Nigeria xuất khẩu
dầu khí; tuy nhiên, các lĩnh vực khác của nền kinh tế này vẫn kém phát triển.
Trong trường hợp này, cần chú ý nhiều đến lĩnh vực sản xuất không thể
trở nên cạnh tranh. Hiện tượng này thường được mô tả như một lời nguyền tài
nguyên, có nghĩa là việc xuất khẩu tài nguyên đi kèm với sự suy giảm của các
ngành công nghiệp khác. Nhìn chung, lời nguyền tài nguyên có thể ảnh hưởng
đến cả các nước đang phát triển và các nước tiên tiến. Tuy nhiên, tình trạng này
có thể là do các yếu tố như tham nhũng, thiếu cơ sở hạ tầng và sự sụp đổ của hệ
thống giáo dục. Vì vậy, không nên cho rằng công nghiệp hóa hướng vào xuất
khẩu luôn mang lại thành công. Tuy nhiên, những vấn đề gặp phải có thể được
giải quyết bởi chính phủ.
- EOI có nguy cơ làm giảm tốt độ thay đổi cơ cấu kinh tế. Ở các nước
đang phát triển với nền kinh tế tăng trưởng chậm, sản xuất không theo kịp nhu cầu
trong nước. Nếu chỉ dựa vào xuất khẩu sản phẩm dư thừa để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế mà không có sự thay đổi và cải tiến cơ cấu kinh tế, quốc gia đấy sẽ nhanh
chóng đạt đến điểm nghẽn, khả năng xuất khẩu sẽ bị hạn chế và tăng trưởng kinh
tế bị chậm chạp lại
- Phương pháp EOI có thể rủi ro liên quan đến chi phí cố định cao. Để
thành công trong việc xuất khẩu, các doanh nghiệp phải đầu tư đáng kể vào các
hoạt động như: đóng gói sản phẩm, nghiên cứu và phát triển thị trường, quảng cáo
và xây dựng mối quan hệ với các nhà nhập khẩu tiềm năng. Những khoản đầu tư
này không chỉ đòi hỏi một số lượng lớn vốn, mà còn không đảm bảo rằng sẽ đạt
được thành công. Các doanh nghiệp phải đối mặt với nguy cơ không thể kiểm soát

21
như sự thay đổi trong nhu cầu thị trường, cạnh tranh khốc liệt và thậm chí là các
vấn đề về thương mại và chính trị. Tất cả những yếu tố này có thể làm tăng rủi ro
và khiến chi phí cố định trở nên không thể dự đoán, gây áp lực lớn cho các doanh
nghiệp và ngăn chặn sự phát triển trong việc xuất khẩu.
Hơn nữa, cần phải nhớ rằng lợi thế so sánh của một quốc gia là động
(Dynamic). Một quốc gia có thể nhanh chóng đạt được trình độ chuyên môn
trong những lĩnh vực mà trước đây bị thống trị bởi các quốc gia khác như Hoa
Kỳ. Ví dụ sinh động nhất của sự chuyển đổi này là Nhật Bản vì nước này đã
giành được vai trò dẫn đầu trong các ngành công nghiệp như sản xuất ô tô hay
điện tử. Tương tự, Đài Loan và Singapore đã phát triển chuyên môn trong sản
xuất công nghệ thông tin, trong khi vào những năm 60, các công ty có trụ sở tại
các quốc gia này chủ yếu tham gia vào lĩnh vực sản xuất sử dụng nhiều lao
động. Do đó, công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu có thể thành công nếu các
doanh nhân áp dụng các công nghệ giúp nâng cao khối lượng sản xuất hoặc cải
thiện chất lượng hàng hóa do các công ty sản xuất. Nếu không có sáng kiến
này, nền kinh tế của một quốc gia có thể ngừng tăng trưởng. Đây là rủi ro chính
mà các doanh nhân nên nhận thức được.
Nhìn chung, Công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu (EOI) có cả ưu điểm
và nhược điểm đối với các quốc gia đang tìm kiếm sự phát triển kinh tế. Trong khi
EOI có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo cơ hội việc làm và thúc đẩy tiến bộ
công nghệ, nó cũng đặt ra những thách thức như dễ bị tổn thương trước những
biến động kinh tế toàn cầu, bất bình đẳng thu nhập và nguy cơ mất việc làm. Để
tối đa hóa lợi ích và giảm thiểu nhược điểm, các quốc gia thực hiện EOI nên áp
dụng các chính sách thúc đẩy tăng trưởng toàn diện, phát triển bền vững và đa
dạng hóa nền kinh tế của họ. Điều cần thiết là phải đạt được sự cân bằng giữa các
ngành công nghiệp định hướng xuất khẩu và sự phát triển của các ngành công
nghiệp trong nước để đảm bảo ổn định kinh tế và phúc lợi xã hội lâu dài.

3.4.3. Kết luận chung


Cả ISI và EOI đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Do đó, việc
tuyệt đối hóa vai trò của ISI hay EOI rất thiếu khách quan. Cách tiếp cận tốt nhất
cho các nước đang phát triển là kết hợp ISI và EOI theo cách giảm thiểu nhược
điểm của cả hai chiến lược. Ví dụ: Một số quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao như
Hàn Quốc và Đài Loan đã kết hợp thành công ISI và EOI. Các quốc gia này bắt
đầu với ISI để xây dựng lĩnh vực sản xuất của họ, sau đó chuyển sang EOI để xuất
khẩu sản phẩm của họ ra thị trường toàn cầu. Kết quả là các nước này đã đạt được
tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và trở thành những nước xuất khẩu lớn.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng cách tiếp cận tốt nhất cho một quốc gia đang phát
triển sẽ khác nhau, tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước đó. Các quốc gia
cần xem xét cẩn thận điểm mạnh và điểm yếu của mình, cũng như môi trường
kinh tế toàn cầu trước khi đưa ra quyết định.

4. MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM


Qua việc nghiên cứu các tình hình ứng dụng ISI và EOI ở các nước
Đông Á và Mỹ Latinh, chúng ta có thể rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý
22
giá để phát triển Việt Nam một cách hiệu quả và bền vững. Một trong những
bài học quan trọng nhất là phải biết kết hợp khéo léo hai mô hình này, thực
hiện trình tự một chuỗi các bước theo chu kỳ tuần hoàn: Nhập khẩu -> Công
nghiệp hóa thay thế nhập khẩu -> xuất khẩu.
Hàn Quốc và Đài Loan là những quốc gia đã thực hiện thành công mô
hình công nghiệp hóa theo hướng thay thế nhập khẩu và hướng xuất khẩu xen
kẽ. Trước hết bắt đầu bằng việc nhập khẩu hàng hóa cơ bản và nguyên liệu thô
như thực phẩm, quần áo và máy móc. Sau đó, các quốc gia này sử dụng
phương pháp thay thế nhập khẩu để sản xuất những hàng hóa này trong nước,
nghĩa là chính phủ sẽ đặt thuế quan hoặc hạn ngạch đối với các mặt hàng nhập
khẩu, khiến chúng trở nên đắt đỏ hơn, làm cho các doanh nghiệp trong nước có
lợi hơn. Sau đó, họ tiến xa hơn bằng việc xuất khẩu các sản phẩm đã qua chế
biến hoàn thiện như giấy, đồ nội thất, dệt may. Cuối cùng, họ tập trung vào
việc sản xuất các hàng công nghiệp cao cấp nhằm thay thế hàng nhập khẩu bao
gồm máy móc, ô tô và thiết bị điện tử. Bên cạnh đó, họ cũng mở rộng ngành
công nghiệp để xuất khẩu các sản phẩm khác như:
Trong thế giới ngày nay, đối với các quốc thực hiện công nghiệp hóa
muộn, việc kết hợp công nghiệp hóa xen kẽ giữa ISI và EOI đã trở thành một
xu thế tất yếu. Tuy nhiên, chìa khóa thành công nằm ở cách các mô hình này
được kết hợp với nhau. Việt Nam đã đạt được tiến bộ trong công nghiệp hóa
nhưng vẫn còn một chặng đường dài để đi. Việt Nam có thể học hỏi nhiều bài
học kinh nghiệm từ các nước Đông Á và Mỹ Latinh trong việc áp dụng ISI và
EOI.
Một trong những bài học quan trọng mà Việt Nam có thể học từ các
nước Đông Á thực hiện "Hướng về xuất khẩu" là sự quan tâm đặc biệt đến việc
xây dựng một môi trường đầu tư thuận lợi và khuyến khích các hoạt động kinh
doanh xuất khẩu. Để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài và tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp phát triển, Việt Nam cần đẩy mạnh việc cải thiện môi trường
kinh doanh, đơn giản hóa quy trình hành chính, giảm bớt các rào cản thương
mại, giảm thuế, cung cấp hỗ trợ tài chính và kỹ thuật.
Thứ hai, việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật và vận tải hiện đại là một yếu tố
quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu. Việt Nam cũng cần tăng cường đầu
tư vào cơ sở hạ tầng cả về phương diện vận tải và cơ sở hạ tầng kỹ thuật để
nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực xuất khẩu: Nâng cao khả năng vận
chuyển hàng hóa thông qua việc phát triển các cảng biển hiện đại, cải thiện
mạng lưới đường bộ và đường sắt, cũng như đầu tư vào công nghệ thông tin và
truyền thông để tăng cường quản lý và theo dõi quá trình vận chuyển hàng hóa.
Thứ ba, chú ý phát triển việc xây dựng một cơ sở công nghiệp cơ bản,
chú trọng đến việc phát triển các nguồn lực tự nhiên và đa dạng hóa cấu trúc
kinh tế. Việc tận dụng tối đa các nguồn tài nguyên tự nhiên, đặc biệt là trong
lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp chế biến, dệt may, công nghiệp chế tạo máy
móc và điện tử. Việc phát triển các ngành công nghiệp cơ bản giúp Việt Nam
tự cung cấp các hàng hóa và dịch vụ mà trước đó phải nhập khẩu, từ đó giảm
sự phụ thuộc vào nguồn cung nước ngoài và tăng cường sức cạnh tranh của
Việt Nam trên thị trường quốc tế.

23
Thứ tư, đầu tư vào năng lực nội địa và nâng cao chất lượng sản phẩm
cũng là một nhân tố cần thiết. Việt Nam cần tăng cường đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực có kỹ năng cao, đáp ứng được yêu cầu của các ngành công
nghiệp cơ bản. Đồng thời, việc đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển, đổi mới
công nghệ sẽ giúp cải thiện chất lượng và giá trị gia tăng của các sản phẩm, từ
đó nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Thứ năm, Việt Nam cũng có thể học hỏi từ kinh nghiệm của các nước
Mỹ Latinh trong việc thúc đẩy hợp tác kinh tế vùng. Việc tạo ra các liên kết
kinh tế với các nước trong khu vực và tham gia vào các thỏa thuận thương mại
tự do sẽ giúp mở rộng thị trường xuất khẩu và tăng cường khả năng cạnh tranh
trên thị trường quốc tế. Việc xây dựng mối quan hệ hợp tác kinh tế vùng sẽ tạo
ra cơ hội tiếp cận thị trường lớn hơn và khách hàng đa dạng, đồng thời giúp
chia sẻ nguồn lực và kiến thức với các đối tác kinh tế, để mở rộng thị trường
xuất khẩu và tăng cường khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực và
trên toàn cầu.
Ngoài ra, việc tạo ra các chính sách đổi mới và khuyến khích nghiên cứu
và phát triển cũng là một yếu tố quan trọng. Các nước Đông Á đã đầu tư vào
việc phát triển công nghệ và đổi mới để nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng
của các sản phẩm xuất khẩu. Việt Nam cũng nên tập trung vào việc nâng cao
năng lực nghiên cứu và phát triển, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào công
nghệ và đổi mới để tạo ra những sản phẩm có chất lượng và giá trị cạnh tranh
trên thị trường quốc tế. Việt Nam nên thúc đẩy đổi mới trong lĩnh vực sản xuất
của mình. Điều này có thể được thực hiện bằng cách cung cấp các khoản trợ
cấp cho các doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, đồng thời tạo ra
một môi trường thuận lợi cho các công ty khởi nghiệp.
5. KẾT LUẬN
Nhìn vào thực tế để nhận thấy, bất kỳ đường lối nào cũng sẽ có mặt ưu
điểm và nhược điểm, không thể nói đường lối này là sai hay đường lối kia là đúng
hoàn toàn vì nó còn phụ thuộc vào thời điểm áp dụng đường lối. Điển hình như có
thể thấy mô hình ISI đã từng giúp các nước như là Brazil, Chile, Argentina hay là
Mexico phát triển kinh tế tốt và trở thành “con hổ” của Mỹ Latinh, nhưng bên
cạnh đó cũng có thể thấy EOI đã giúp các nước như Hàn Quốc hay Singapore phát
triển kinh tế vượt bậc, nổi trội của Châu Á. Rất nhiều người cho rằng ISI là một
đường lối sai lầm nhưng nhìn vào Brazil chúng ta có thể thấy ISI không hề sai
lầm, chỉ là cách áp dụng nó như thế nào và có phù hợp với tình thế của đất nước
hay không.
Các nhà phê bình thị trường về công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu ở Mỹ
latinh từ lâu đã chỉ ra những sai lệch và kém hiệu quả tích lũy do khả năng bảo vệ
và thay thế đặc biệt cao bằng bất kỳ chi phí nào chiếm ưu thế trong hầu hết các
quốc gia trong khu vực. Một quan điểm có ảnh hưởng đã lập luận rằng Các nước
công nghiệp mới như Brazil đã phải trả một cái giá rất cao cho sự thành công ngắn
hạn của họ trong tăng trưởng kinh tế và đa dạng hóa công nghiệp. Các chính sách
của nhà nước can thiệp, đặc biệt là bảo vệ thương mại cao, đã dẫn đến những biến
dạng lớn gây ra sự kém hiệu quả kinh tế trên diện rộng và thiếu tiến bộ kỹ thuật.
Công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu sau đó sẽ là một thất bại chính xác ở quốc gia

24
đó mà cho đến những năm 1970 là nhà công nghiệp hóa muộn thành công nhất Ở
Mỹ latinh. Một quan điểm khác đã được thực hiện bởi các học giả nhấn mạnh kết
quả không đồng nhất của công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu, mặc dù cũng nhấn
mạnh sự biến dạng và không hiệu quả. Một cơ quan nghiên cứu thực nghiệm vẫn
còn thưa thớt về các ngành và công ty riêng lẻ đã thu thập bằng chứng về học tập
và năng suất công nghệ Ở Brazil, cho thấy di sản của công nghiệp hóa thay thế
nhập khẩu là một trong những kết quả hỗn hợp và không đồng đều.
Những tác động tiêu cực của các rào cản thương mại đặc biệt cao được
nhấn mạnh bởi các nhà phê bình thị trường là quan trọng, nhưng hầu như không
phải là yếu tố duy nhất giải thích hiệu suất của các công ty và ngành công nghiệp.
Nhiều khả năng là bảo vệ thương mại kết hợp với thị trường lao động và các điều
kiện xã hội để định hình cách thức công nghiệp hóa diễn ra ở Brazil sau chiến
tranh. Kết quả là cấu trúc không đồng nhất đã trở thành một đặc điểm quan trọng
của công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu, vì chỉ có một nhóm các công ty hàng đầu
đạt được lợi thế cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất. Có lẽ, chúng ta vẫn cần nhiều
nghiên cứu lịch sử chi tiết hơn, theo kinh nghiệm về công nghiệp hóa, đặc biệt là ở
cấp độ vi mô của các công ty và ngành công nghiệp. Thay vì bị đình trệ công nghệ
lan rộng, một số công ty đã tìm cách hiện đại hóa và tăng năng suất. Và thay vì
thất bại, đã có những trường hợp thành công và kết quả hỗn hợp.
Đối với chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, ta có thể kể đến là
Hàn Quốc, kỷ lục tăng trưởng kinh tế chưa từng có của Hàn Quốc bắt đầu vào đầu
những năm 1960 khi chính sách của chính phủ chuyển từ thay thế nhập khẩu sang
định hướng xuất khẩu. Hiệu suất xuất khẩu vượt trội là đặc điểm nổi bật của Hàn
quốc. Chính phủ đã cung cấp nhiều ưu đãi khác nhau để thúc đẩy xuất khẩu, mong
đợi tăng trưởng kinh tế do xuất khẩu lãnh đạo. Giá trị xuất khẩu tăng từ 87 triệu
USD năm 1963 lên 17,5 tỷ USD năm 1980, sau đó lên 363,5 tỷ USD năm 2009.
Mặc dù giá trị nhập khẩu lớn hơn 6 lần so với giá trị xuất khẩu vào năm 1963,
thặng dư thương mại đã được ghi nhận từ năm 1998. Tỷ lệ phụ thuộc thương mại
được định nghĩa là (giá trị xuất khẩu + giá trị nhập khẩu)/GNP tăng từ 46,6% vào
năm 1972 lên 78,9% vào năm 1980, lên 76,6% vào năm 2001 và sau đó lên 98,6%
vào năm 2009. Do đó, nền kinh tế Hàn Quốc được coi là một trong những tỷ lệ
phụ thuộc thương mại rất cao.
Kể từ thời hoàng kim của công nghiệp hóa xuất khẩu, thế giới đã thay đổi
và kinh nghiệm của Hàn Quốc cũng rất ít để cung cấp cho các nước mới nổi và các
nước đang phát triển hiện nay. Chỉ có 2 điều được rút ra sau khi nhìn sự phát triển
của Hàn Quốc dựa vào chiến lược hướng về xuất khẩu: Thứ nhất là không để tình
trạng quan liêu thiếu hiệu quả diễn ra nhiều, thứ hai là các quy định của WTO
ngăn cản các biện pháp can thiệp có chọn lọc được áp dụng trong quá khứ. Tuy
nhiên, kinh nghiệm của Hàn Quốc khẳng định rằng tăng trưởng xuất khẩu sản xuất
mạnh mẽ tích hợp việc không gây mất cân bằng kinh tế vĩ mô có thể xây dựng cơ
sở vững chắc cho quá trình tích lũy xuất khẩu cao - lợi nhuận cao - tiết kiệm cao -
đầu tư cao - xuất khẩu cao.
Một bài học cơ bản khác là tạo ra giá thuê cho các doanh nghiệp sản xuất
để đạt được khuyến mãi xuất khẩu bền vững với tính chất giới hạn thời gian.
Ngoài ra, mục tiêu mở rộng cải cách phải được thiết lập để xây dựng khả năng
cạnh tranh xuất khẩu trong một số loại hoạt động sản xuất và chế biến nông

25
nghiệp nhẹ như giày dép, hàng may mặc, đồ chơi, hàng thể thao và chế biến thực
phẩm; Ngoài ra, có thể hợp lý hóa trong việc khuyến khích các liên kết địa phương
đến các nhà cung cấp đầu vào, tiếp cận miễn thuế vào đầu vào nhập khẩu; để tài
trợ cho các khoản tín dụng xuất khẩu và các chương trình bảo hiểm xuất khẩu
cũng được tính là hữu ích; để cải cách lĩnh vực tài chính để phát triển các nguồn
tài chính dài hạn cho ngành công nghiệp.
Hàn Quốc Nổi tiếng với những thành tựu kinh tế đáng chú ý. Nó đã tăng
hơn 8% mỗi năm kể từ đầu những năm 1960, khiến nó trở thành nền kinh tế phát
triển nhanh nhất trên thế giới. Quá trình phát triển của Hàn Quốc được coi là đặc
biệt ấn tượng vì nó đã đạt được bất chấp những trở ngại như chế Độ thực Dân
Nhật bản, sự tàn phá Của chiến tranh Triều Tiên, bất ổn chính trị và chi tiêu quân
sự nặng nề dưới sự phân chia quốc gia. Kỷ lục tăng trưởng kinh tế chưa từng có
của Hà Quốc bắt đầu vào đầu những năm 1960 khi chính sách của chính phủ
chuyển từ thay thế nhập khẩu sang định hướng xuất khẩu. Việc mở rộng xuất khẩu
được cho là có thể thực hiện được bằng các chính sách thúc đẩy xuất khẩu tích
cực, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của phát triển kinh tế. Chính phủ Hàn Quốc đã
cung cấp các ưu đãi về thuế và tài chính ngoài các ưu đãi như thành lập các tổ
chức để thúc đẩy xuất khẩu. Kinh nghiệm tăng trưởng kinh tế Của Hàn quốc đã
được coi là một ví dụ về việc theo đuổi chiến lược tăng trưởng kinh tế do xuất
khẩu lãnh đạo. Việt Nam có thể theo đó để phát triển hơn nữa nền kinh tế, có một
chiến lược xúc tiến xuất khẩu rõ ràng sẽ giúp ích, mặc dù một số lập luận bất lợi
được đưa ra. Tuy nhiên giống như đã phân tích ngay từ đầu, cần phải xem xét rõ
ràng về tình hình khách quan và chủ quan của đất nước hiện tại để biết lúc nào nên
áp dụng ISI và lúc nào nên áp dụng EOI.

26
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bertola L. & Ocampo J.A. (2012). Latin America’s Debt Crisis and
“Lost Decade”, Paper for Conference “Learning from Latin America: Debt
Crises, Debt Rescues and When They and Why They Work”, Institute for the
Study of the Americas, School of Advanced Study, University of London.
2. Cổng thông tin điện tử Bộ Công Thương (2022), Chiến lược xuất nhập
khẩu hàng hóa của Việt Nam đến năm 2030
3. Cổng thông tin điện tử Bộ Công Thương (2022), Xuất nhập khẩu: Động
lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế đất nước
4. Guider Inn. (2023). Import Substitution and Export Promotion | ISI and
EOI Strategies. Youtube.
5. Evaluating ISI and EOI: Circumstances for Success in Latin America
and East Asia Adele Gordon St. Olaf College PSCI 322: Economic Statecraft
Professor Cilizoglu Fall 2019.
6. IvyPanda (2020), Export-Oriented Industrialization and Its Principles
Essay
7. José Eduardo Cassiolato (2008), The paper discusses the ewvolution
and dynamics of the Brazilian National System of Innovation
8. Prof. Dr. Bui Tat Thang. APPROACHES TO DEVELOPMENT OF
VIETNAM’S INDUSTRIAL POLICIES IN THE COMING TIME. Vietnam
Institute for Development Strategies.
9. Renato Perim Colistete, Revisiting Import-Substituting Industrialisation in
Post-War Brazil
10. Sanzharbek Mavlianov, Export-led Growth and Economic Development of
South Korea: Lessons for Kyrgyzstan
11. Studysmarter, Import Substitution Industrialization
12. ThS. Tạ Đức Thanh (2013). Khủng hoảng nợ công thế giới và bài học
cho Việt Nam. Tạp chí tài chính.
13. U.S. Library of Congress, Import-Substitution Industrialization, 1945-64,

27

You might also like