Professional Documents
Culture Documents
Abenomics là các chính sách kinh tế được ban hành vào năm 2013 và
2015 dưới thời thủ tướng Abe Shinzo cầm quyền từ tháng 12 năm 2012
đến tháng 9 năm 2020. Abenomics là thuật ngữ được kết hợp giữa tên
Abe và economics giống như các chính sách trước đó như Reaganomics,
Clintonomics, Rogernomics.
- Xã hội già hóa ở mức báo động: gây ảnh hưởng đến thị trường
lao động và ảnh hưởng đến chi tiêu xã hội của Nhà Nước
Trong bối cảnh đó, để tạo nên tăng trưởng ở một quốc gia với dân số
bị già hóa đã trở thành một nhiệm vụ hết sức khó khăn và đó cũng chính
là lý do nhiều đời Thủ tướng phải ra đi. Năm 1995, chi phí an sinh xã hội
tăng lên đạt hơn 64.730 tỷ yên, chiếm 17,09% thu nhập quốc gia, chi phí
lương hưu chiếm 8,84% trong chi phí an sinh xã hội, tăng 136% so với
năm 1985. Năm 2001, Nhật Bản dành 81.400 tỷ yên cho chi phí an sinh
xã hội, chiếm 22% trong thu nhập quốc dân. Chi phí về lương hưu chiếm
11,50% trong chi phí an sinh xã hội, tăng 130% so với năm 1995. Qua
việc trợ cấp lương hưu cho người cao tuổi, có thể thấy, Chính phủ Nhật
Bản đã làm khá tốt vấn đề an sinh xã hội. Song gánh nặng đối với nền
kinh tế Nhật Bản là điều ai cũng có thể nhận thấy, vấn đề này còn trở nên
nghiêm trọng hơn sau thảm họa năm 2011, khi nền kinh tế đất nước bị
phá hủy một cách nặng nề. Việc giảm tỷ lệ sinh, nguyên nhân chủ yếu
của tình trạng già hóa dân số ở Nhật Bản, cũng làm giảm dân số trong độ
tuổi lao động. Một trong những nhân tố góp phần tạo ra thần kỳ kinh tế
sau chiến tranh của Nhật Bản là sự vận hành của thị trường lao động nước
này, mà đặc trưng trước hết là mức việc làm ổn định và năng suất lao
động cao. Tuy nhiên, việc già hóa nhanh chóng dân số ở độ tuổi lao động
có thể ảnh hưởng đáng kể đến những thực tế lao động hiện hành ( tức là
sự an toàn lâu dài về việc làm và cơ cấu tiền lương dựa vào thâm niên).
Việc tỷ lệ lao động già so với lao động trẻ tăng cao sẽ làm giảm khả năng
đề bạt và nâng bậc theo thâm niên, làm yếu động cơ thúc đẩy làm việc
của lao động trẻ cũng như tinh linh hoạt bên trong xí nghiệp, và làm tăng
cấu thành chi phí lao động do phần lương và các khoản trợ cấp, phúc lợi
dành cho lao động già ngày càng tăng.
1. Chính sách tiền tệ táo bạo, liều lĩnh: Chính phủ thực hiện việc Nới
lỏng tiền tệ, phá giá đồng yên để đưa lạm phát lên 2%, qua đó giúp
tăng trưởng xuất khẩu, chấm dứt tình trạng thiếu phát kéo dài, tăng
trưởng kinh tế bền vững trên cơ sở tăng lợi nhuận của doanh nghiệp,
tăng lương, tạo việc làm, tăng đầu tư trong nước và mở rộng tiêu
dùng.
2. Chính sách tài khóa linh hoạt và đảm bảo: Nội dung chủ yếu của
chính sách này là Cải thiện các điều kiện kinh tế vĩ mô và cấu trúc
kinh doanh ở cấp vi mô của doanh nghiệp, kích thích tài chính thông
qua gói kích cầu 20,2 nghìn tỷ yên, tương đương 210 tỷ USD, trong
đó có 10,3 nghìn tỷ yên tương đương 116 tỷ USD dùng để tăng chi
tiêu chính phủ, tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng. Củng cố quá
trình phục hồi tái sinh kinh tế, duy trì tính vững mạnh của tài khóa để
đảm bảo niềm tin cho thị trường.
3. Chiến lược tái cấu nền kinh tế sâu và rộng: Nội dung chính mà
chiến lược này hướng đến là Đổi mới cấu trúc và hệ thống nền kinh
tế, nâng cao năng suất lao động và cải thiện thị trường lao động thông
qua hàng loạt các chính sách kinh tế - xã hội nhằm nâng cao tính cạnh
tranh của nền kinh tế Nhật Bản, đảm bảo môi trường kinh tế cởi mở,
cạnh tranh công bằng và tự do, mang lại cơ hội cho mọi người (bao
gồm cả phụ nữ), nâng cao chất lượng cuộc sống an toàn và đảm bảo
an sinh, đa dạng thành phần kinh tế - xã hội, luôn năng động và sáng
tạo, giữ bền vững kinh tế trong dài hạn
b) Mục tiêu và các chính sách, hành động và cam kết cụ thể
1. Chính sách tiền tệ liều lĩnh bao gồm các mục tiêu, cam kết và chính
sách cụ thể:
Trên cơ sở đề ra nội dung là 3 mũi tên cơ bản để phát triển nền kinh tế
thì Abenomics 1.0 cũng đã đưa ra những mục tiêu cụ thể, và những hành
động, cam kết mang tính thực tiễn.
- Chính sách tiền tệ có Mục tiêu cụ thể như sau: đạt lạm phát trong 2
năm tới là 2% so với âm 0.2% của 13 năm qua, kiểm soát giá cả thị
trường và nền kinh tế, ổn định giá cả đạt mức lạm phát 2% trong
vòng 2 năm tới. Đồng thời, tăng GDP khoảng 3% ở mức danh
nghĩa, 2% trên thực tế (nâng mức tăng trưởng kinh tế từ âm 0,7%
lên 2%)
Bên cạnh đó, những hành động của chính sách tiền tệ cũng được hoạch
hóa:
- Thông điệp chính sách chung vào tháng 1/2013 giữa chính phủ với
Ngân hàng Trung ương Nhật Bản là : chính phủ mua vào 70% lượng trái
phiếu phát hành mỗi tháng, bằng 1% tổng sản lượng, để nhân khối tiền tệ
lên gấp đôi từ 29% đến 56% tổng sản lượng và mua thêm các tài sản tài
chính có sự rủi ro hơn như các quỹ đầu tư tín thác.
- Chính phủ Thúc đẩy đầu tư của các doanh nghiệp, thực hiện đánh
thuế gắt gao tiền tích trữ của họ, cho các doanh nghiệp biết là chính sách
này sẽ được duy trì cho đến khi đạt được hiệu quả mong muốn.
- Ngoài ra, chính phủ còn thực hiện Kiểm soát khối lượng tiền Ngân
hàng Trung ương Nhật Bản phù hợp mức lạm phát đạt 2% để tăng chi
tiêu công qua gói kích thích kinh tế 116 tỷ USD để xây dựng CSHT, hệ
thống phòng chống động đất và tăng chi tiêu quốc phòng. Bơm tiền mặt
vào thị trường nhằm kích thích tín dụng, giảm chi phí cho vay để kích
thích đầu tư của doanh nghiệp và tiêu dùng của người dân. Việc tăng khối
lượng tiền tệ lưu hành lên gấp đôi con số 85 tỷ USD của Ngân hàng
Trung ương Mỹ, tương đương tăng 30% trong hai năm tới, qua việc bơm
ra thị trường 200 tỷ USD/tháng sẽ trực tiếp làm sụt giá đồng yên và gián
tiếp kích thích xuất khẩu.
- Chính phủ Cam kết tốc độ tăng lương cao hơn tốc độ tăng giá, cơ hội
việc làm gia tăng.
3. Chính sách thúc đẩy tăng trưởng vào sâu bên trong cơ cấu nền kinh
tế:
Đối với chính sách……. thì Mục tiêu cụ thể là:
+ tăng tổng vốn đầu tư cho doanh nghiệp thêm 10% trong ba năm tới
lên mức khoảng 70.000 tỷ yên (khoảng 700 tỷ USD).
+ Tổng thu nhập bình quân đầu người danh nghĩa tăng hơn 3% trong
trung và dài hạn tức là tăng thêm hơn 1,5 triệu yên, so với mức của năm
2012 là 3,84 triệu yên, trong vòng 10 năm tới.
+ Năng suất lao động tăng ít nhất 2% trong trung và dài hạn.
+ Tăng gấp đôi tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để FDI
hằng năm của Nhật Bản phải đạt gần 345 tỷ USD.
+ Tăng kim ngạch thương mại với các nước ký kết hiệp định mậu dịch
tự do lên 70% từ nay đến năm 2018, tăng 19% so với hiện nay.
+ Tăng GDP 3% về danh nghĩa và 2% về thực tế (nâng mức tăng
trưởng cho nền kinh tế từ âm 0,7% và âm kéo dài lên nền kinh tế tăng
trưởng dương 2%)
- Tập trung vào cải cách 10 lĩnh vực then chốt, bao gồm: (1) tăng
cường quản trị doanh nghiệp; (2) cải cách quản trị quỹ công lập; (3)
khuyến khích doanh nghiệp mạo hiểm; (4) cải cách thuế thu nhập doanh
nghiệp và tăng cường thương mại; (5) khuyến khích đổi mới khoa học
công nghệ và cuộc cách mạng robot; (6) tăng cường sự tham gia và tiến
bộ của lao động nữ, cho phép thông lệ làm việc linh hoạt, cải cách thị
trường lao động; (7) thu hút nhân tài từ nước ngoài; (8) cải cách nông
nghiệp mạnh mẽ; (9) phát triển dịch vụ chăm sóc sức khỏe; (10) phát
triển dịch vụ chất lượng cao và mấu chốt để các chính sách được khuếch
tán trên toàn quốc thì chính phủ sẽ phát triển kinh tế địa phương kết hợp
với đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tái cơ cấu các nền
kinh tế vùng nhỏ hơn để từ đó lan tỏa ra toàn Nhật Bản.
- Các chính sách cụ thể cho từng lĩnh vực như sau:
(1) Thứ nhất, về tăng cường quản trị doanh nghiệp;
mở rộng sức cạnh tranh cho khu vực kinh tế tư nhân, thúc đẩy tự do hóa
các ngành công-nông nghiệp trên toàn quốc, để doanh nghiệp Nhật Bản
thành tiềm năng đầu tư cho các nhà đầu tư , bởi tính cạnh tranh về công
nghiệp trong doanh nghiệp, Trong diễn văn công bố chiến lược kinh tế
đầu tháng 6/2013, tại Hội nghị về cạnh tranh công nghiệp diễn ra ở
Tokyo, Thủ tướng Abe nhấn mạnh: “Xương sống của chính sách kinh tế
chính là chiến lược tăng trưởng, là một trong ba mũi tên. Chiến lược này
là nhằm khuyến khích cải cách công nghệ trong mọi lĩnh vực và khuyến
khích các hoạt động sáng tạo rộng khắp ở khu vực tư nhân”. Cam kết
thúc đẩy đầu tư cho lĩnh vực tư nhân và hoạt động của khối doanh
nghiệp, hoạch định chương trình phát triển kinh tế cho 5 năm tới với tên
“giai đoạn cải cách cơ cấu kinh tế khẩn cấp”.
(5) khuyến khích đổi mới khoa học công nghệ và cuộc cách mạng robot;
Rô - bốt hóa nền kinh tế, tăng cường sử dụng rô - bốt để nâng cao năng
suất lao động trong bối cảnh dân số bị giảm và già hóa. Diễn đàn về
“cuộc cách mạng rô - bốt”, Nhật Bản hy vọng đến năm 2020, ngành
nông nghiệp sẽ sử dụng số lượng rô - bốt gấp 20 lần so với hiện nay, các
ngành còn lại tăng gấp đôi.
(6) tăng cường sự tham gia và tiến bộ của lao động nữ,
Thu hút khoảng 30% lao động nữ vào năm 2020, để bù đắp cho sự thiếu
hụt về nguồn lao động. Khuyến khích phụ nữ làm lãnh đạo, mở thêm
trường mẫu giáo, thậm chí cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào
việc mở trường. Sẽ phải ban hành các chính sách chăm sóc và quản lí trẻ
em tốt hơn.
(6) cho phép thông lệ làm việc linh hoạt, cải cách thị trường lao động;
Giảm tỷ lệ thất nghiệp khoảng 20%, cụ thể, quý I/2014 số người thất
nghiệp dài hạn đã giảm xuống 1,24 triệu người, giảm 10% so với 1,38
triệu người của quý I/2013. Trong hai năm, Chính phủ Nhật Bản quyết
tâm tạo thêm 600.000 việc làm. Xóa bỏ những điều luật phức tạp trong
Luật lao động, khắc phục tỷ lệ sinh thấp và duy trì dân số Nhật Bản ở
mức 100 triệu người sau 50 năm, đồng thời cho phép tiếp nhận thêm lao
động nước ngoài tham gia vào thị trường lao động
b) Mục tiêu và các chính sách, hành động và cam kết cụ thể
Giống vói chính sách Abenomics 1.0, ở Abenomics 2.0 thủ tướng Abe
cũng đề ra những mục tiêu, chính sách và cam kết cụ thể.
Mục tiêu thứ nhất: Tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu tăng trưởng GDP 600
nghìn tỷ yên (5.000 tỷ USD) vào năm 2020 so với con số GDP 490.000
tỷ yên của Nhật Bản trong năm tài khóa 2014.
Mục tiêu thứ hai: Tăng cường các biện pháp hỗ trợ nuôi và sinh con.
Tăng tỷ lệ sinh lên mức bình quân từ 1,4 lên 1,8 trẻ/bà mẹ. Đồng thời
cam kết duy trì dân số luôn ở mức 100 triệu dân từ nay đến năm 2050.
Mục tiêu thứ ba: Cải thiện an sinh xã hội. Trong 5 năm tới, Nhật Bản
sẽ xây dụng thêm nhiều nhà dưỡng lão để giảm bớt gánh nặng cho lao
động trẻ, giúp họ yên tâm làm việc, giảm được hàng chục ngàn lao động
phải ở nhà chăm sóc cho cha mẹ già. Đây là sự khác biệt lớn nhất trong
chính sách Abenomics giai đoạn 2.0 so với giai đoạn 1.0.
Về các chính sách hoạt động thực tiễn:
Chính sách nới lỏng tiền tệ vẫn được Thủ tướng Abe tiếp tục thực hiện
và với mức độ mạnh mẽ hơn. Để triển khai chính sách kinh tế mới, ngày
7/10/2015, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã quyết định duy trì chính
sách nới lỏng tiền tệ hiện nay, với chương trình kích thích kinh tế trị giá
80.000 tỷ yên (665 tỷ USD), do xu hướng giảm phát của nền kinh tế Nhật
vẫn gia tăng. Đồng yên yếu là điểm cốt lõi trong chính sách Abenomic
của Thủ tướng Abe nhằm chấm dứt tình trạng giảm phát của nền kinh tế
Nhật Bản, do đó mũi tên nới lỏng tiền tệ sẽ vẫn được trì trong giai đoạn
tiếp theo. Tình thế buộc chính quyền Abe sẽ duy phải hành động mạnh
tay hơn trong cải cách cấu trúc nền kinh tế, nhằm thúc đẩy tính cạnh tranh
và giải quyết vấn đề lương, thu nhập cho người lao động, nới lỏng tiền tệ
vẫn chỉ là giải pháp hỗ trợ.
Cam kết tăng thêm số nhà dưỡng lão với mục tiêu đến năm 2020 sẽ
không còn người già phải xếp hàng chờ. Điều này sẽ giúp giảm số người
trong độ tuổi lao động phải bỏ việc để chăm sóc cha mẹ già, giải quyết
tình trạng thiếu hụt lao động,
Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi Xã hội, tính đến năm 2025, Nhật Bản
phải cần tới 2,53 triệu lao động làm việc trong các nhà dưỡng lão. Nếu
như tỷ lệ lao động tham gia và rời bỏ công việc điều dưỡng tiếp tục diễn
biến như tốc độ hiện nay thì Nhật Bản sẽ thiếu khoảng 377.000 lao động
trong lĩnh vực này. Từ năm tài khoá 2016, Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi
xã hội tăng trợ cấp cho các công ty nhằm hỗ trợ nhân viên cân đối giữa
công việc với trách nhiệm chăm sóc cha mẹ già. Ngoài ra hiện nay, bộ
này đang cân nhắc trình dự luật sửa đổi, theo đó, tăng thêm số lần cho lao
động được tạm nghỉ để chăm sóc cha mẹ già, so với mức một lao động
được tạm nghỉ một lần như hiện nay.
Việc xây dựng và vận hành các nhà dưỡng lão đòi hỏi nguồn kinh phí
lớn. Số người làm việc cho các nhà dưỡng lão tăng thì chi phí để thuê
những lao động này sẽ trở nên đắt đỏ hơn so với chăm sóc người già tại
nhà. Chi phí bảo hiểm điều dưỡng tăng sẽ làm gia tăng gánh nặng kinh tế
đối với người dân. tiếp theo là nếu số lượng nhà dưỡng lão tăng lên, có
nguy cơ những người đang sống tại các cơ sở dưỡng lão tư nhân có trả
phí và những người chưa thực sự có nhu cầu cần phải chăm sóc đặc biệt,
vẫn có thể tự chăm sóc tại nhà, sẽ muốn được chuyển vào các nhà dưỡng
lão của nhà nước. Điều đó gây ra lo ngại ngân sách chăm sóc điều dưỡng
sẽ phình to. Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi đã đẩy mạnh việc chăm sóc tại
nhà trong những năm gần đây và siết chặt tiêu chuẩn được vào nhà dưỡng
lão. Từ tháng 4/2015, việc nhập viện điều dưỡng được quy định từ cấp độ
3 trở lên.
Tập trung vào xây dựng thêm nhiều nhà trẻ (hiện Nhật Bản đang thiếu
nhà trẻ) là một công việc cực kỳ quan trọng. Việc cụ thể hóa vào việc
tăng tỷ lệ sinh là xây dựng thêm nhà trẻ là điều gần như toàn nhân dân
Nhật Bản mong muốn. Vì vậy Abenomics mới sẽ giải tỏa không chỉ tâm
lý, tinh thần cho mọi người dân Nhật Bản mà còn chuẩn bị cho tương lai
lâu dài.
Một số chỉ số kinh tế khác về tiêu dùng, việc làm, tăng lương
(lương có mức tăng lớn nhất kể từ 10 năm trở lại đây) và chỉ số
chứng khoản đều cho thấy kinh tế Nhật Bản có dấu hiệu phục hồi.
Bên cạnh đó, tỷ lệ việc làm trên hồ sơ xin việc đạt mức cao nhất
trong 8 năm gần đây và mức tăng lương đạt tỷ lệ cao nhất trong cả
thập kỷ qua. Tỉ lệ thất nghiệp đạt mức thấp nhất từ năm 1997 tới
nay ở con số 3,5%. Tổng đầu tư ra nước ngoài đã tăng từ 9,8 nghìn
tỷ Yên năm 2012 lên 13,2 nghìn tỷ Yên năm 2013; số lượng các dự
án hạ tầng do các doanh nghiệp Nhật Bản thực hiện tăng lên gấp 3
lần khoảng 9 nghìn tỷ Yên; Năm 2013, số lượng khách nước ngoài
tới Nhật Bản lần đầu tiên đã vượt con số 10 triệu người, so với
2012, cán cân thanh toán trong dịch vụ vận tải lần đầu tiên đạt
thặng dư trong vòng 44 năm.
Thứ hai, thị trường chứng khoán có dấu hiệu khởi sắc, niềm tin
của các nhà đầu tư được củng cố. Những tháng đầu năm 2013 khi
bắt đầu thực hiện chính sách Abenomics, chỉ số Nikkei 225 liên tục
tăng điểm tới 35%. Sau một năm rưỡi triển khai chính sách
Abenomics, ngày 25/8/2014, chỉ số Nikkei 225 đã đạt 15.600 điểm.
Sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp (DN) Nhật Bản đã có
dấu hiệu hồi phục ngay khi triển khai kế hoạch Abenomics. Từ
mức 10.688 điểm hồi đầu năm lên ngưỡng 11.000 điểm
Sau hơn 2 năm thực hiện Abenomics, trong ngày giao dịch
02/03/2015, chỉ số này có lúc lên tới 18.939,17 điểm, là mức cao
nhất trong ngày giao dịch 15 năm qua kể từ tháng 4/2000. Qua đó,
góp phần quan trọng vào hạ giá đồng Yên trên thị trường hối đoái.
b) Abenomics 2.0
1. Tăng GDP
GDP thực tế đã tăng 6,3% so với trước Abenomics. Đặc biệt GDP
danh nghĩa sau 5 năm đã tăng trưởng hơn 10%, cho thấy suy thoái
kinh tế đã có sự chuyển biến chắc chắn.
Nền kinh tế Nhật Bản đã mở rộng 0,5% vào tháng Ba năm 2016, so
với ước tính ban đầu của tăng trưởng ở mức 0,4%.
5 năm sau khi Abenomics được thực thi lợi nhuận vận dụng quỹ lương
hưu công trong 5 năm nhiệm kỳ thứ 2 của thủ tướng Abe đã tăng lên
46 ngàn tỷ Yên, và quỹ lương hưu của khối doanh nghiệp đã tăng
thêm 29 ngàn tỷ Yên
Tiêu dùng cá nhân cũng đã tăng nhanh hơn dự kiến, trong khi chỉ tiêu
kinh doanh giảm thấp hơn nhiều so với dự kiến và chi tiêu chính phủ
và xuất khẩu là phù hợp với mong đợi.
Tốc độ tăng GDP ở Nhật Bản trung bình 0,48 phần trăm từ năm 1980
đến năm 2016, Mặc dù rất thấp, nhưng con số đó vẫn là tăng trưởng
dương.
5. Tạo môi trường để lao động nữ có thể phát huy năng lực
Sau 5 năm thực hiện Abenomics, số sinh viên nữ tốt nghiệp đại học
có việc làm đã tăng thêm 1.520.000 người. Liên quan đến việc tăng
cường các dịch vụ và cơ sở hạ tầng chăm sóc trẻ em, trong thời gian
này cũng đã có thêm 600.000 chỗ học tại nhà trẻ và mẫu giáo, giúp
giảm số lượng trẻ phải chờ suất để được gửi vào các nhà trẻ, mẫu
giáo.
Có thể nói xuất khẩu của Nhật Bản là một chìa khóa cho sự phục hồi
kinh tế đất nước trong những năm gần đây. Đồng Yên giảm giá
khoảng 30% trong thời gian qua cũng giúp cho giá hàng hóa xuất
khẩu của Nhật Bản, đặc biệt là ô tô và sản phẩm điện tử… nâng cao
được khả năng cạnh tranh trên các thị trường nước ngoài, đặc biệt là
châu Âu và Mỹ. Đến tháng 6/2018 xuất khẩu của Nhật đã tăng tháng
thứ 19 liên tiếp bất chấp sự gia tăng căng thẳng trong thương mại
quốc tế thời gian gần đây.
7. Chỉ số Nikkei
Một trong những hiệu quả chắc chắn mà Abenomics mang lại chính là
thúc đẩy thị trường chứng khoán Nhật Bản tăng trưởng, chỉ số Nikkei
đã tăng 22.865 Yên (giá đóng cửa ngày 1/9/2018). Vào đầu 2018, chỉ
số Nikkei từng đạt tới mức trên 24.000 Yên. Đây là lần đầu tiên chỉ số
chứng khoán Nhật Bản quay trở lại ngưỡng 24.000 Yên của 26 năm
trước đây.
Chỉ số Nikkei Flash quản lý thu mua sản xuất (PMI) tăng 47 từ quý
1/2016 (báo cáo trước đó la 46.5) đến 49,0 trong quý 3.
Thống kê trên cho thấy rằng, mặc dù vẫn còn ở dưới 50, song các đơn
đặt hàng mới và cổ phiếu mua hàng được cải thiện so với quý trước rất
nhiều. Tuy có tác động rất ít nhưng là điểm tích cực cho nền kinh tế
Nhật Bản phát triển.
5. Những mặt hạn chế trong 2 giai đoạn của chính sách Abenomics
a) Abenomics 1.0: mặt hạn chế của Abenomics 1.0 đó là:
Ba mũi tên của Abenomics có hiệu ứng lan tỏa không đều: Khi chính
sách được tập trung và chịu áp đặt mạnh mẽ từ sự chủ quan của
Abenomics, đặc biệt các tác động rực rỡ có thể thấy từ chính sách tiền tệ
và tài khóa lại mang tính tạm thời về kinh tế vĩ mô mà chưa có sự phục
hồi bền vững bên trong, bởi thiếu những bước đột phá ngoạn mục qua
hàng loạt các cải cách.
- Mặt hạn chế của chính sách tiền tệ có ba điều: thứ nhất là:
1. Lượng cung tiền bị phá vỡ liên tục do bị kiểm soát một cách
chủ quan và tạm thời đã gây ra nỗi lo cho người dân và đánh
mất sự tín nhiệm từ họ đối với Ngân hàng,
điều này được giải thích như sau:
Vốn dĩ sự độc lập của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đối với việc
giám sát chính sách tiền tệ đã được ghi nhận trong pháp luật. Song Thủ
tướng Shinzo Abe muốn can thiệp vào sự độc lập này để có thể nhanh
chóng quản lý được sự thay đổi trong chính sách tiền tệ - vì vậy ông đã
tạo áp lực chính trị thông qua sự luân chuyển một thống đốc mới và hai
thành viên của Hội đồng Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.
Bằng các mệnh lệnh hành chính, ngay lập tức, Abenomics được hậu
thuẫn cho việc xác lập cơ sở quyết định lượng cung tiền ra thị trường với
một mục tiêu mới rõ ràng. Cung tiền vào lưu thông đã được tăng gấp đôi
từ 138 nghìn tỷ yên vào cuối năm 2012 đến 270 nghìn tỷ yên vào cuối
năm 2014 không kể lãi suất phát triển như thế nào.
Vì vậy, lượng tiền cơ sở đã tăng hơn gấp đôi, gần 60% khác hẳn với
thông lệ quốc tế khi con số này chỉ từ 5 – 10% là phổ biến. Điều này cho
thấy Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã tạo ra mức sàn mới về lượng
cung tiền. Chính sách tiền tệ mang tính định lượng này được thực hiện
bằng cách mua trái phiếu của chính phủ Nhật Bản, bao gồm cả trái phiếu
dài hạn trong vòng sáu tháng đến tám năm, để tác động đến lãi suất thị
trường vốn dài hạn một cách hiệu quả. Từ đó thúc đẩy giảm tỷ lệ lãi suất
dài hạn và chính sách lãi suất âm, hỗ trợ phát triển tài sản hữu hình và chế
áp tỷ giá hối đoái của đồng yên theo hướng giảm giá mạnh có chủ định.
Và quá trình mở rộng tiền tệ trên đã khiến tỷ lệ lạm phát được đo bằng
chỉ số giá tiêu dùng (CPI) thực sự trở về con số tích cực. Trong tháng 4
năm 2014 nó đạt đỉnh 2,1%. Nhưng sau đó tỷ lệ lạm phát đã quay đầu
giảm một lần nữa theo hướng trở lại hiện tượng giảm phát và cùng với đó
là làm giảm độ tin cậy của các ngân hàng Nhật Bản vào giải pháp cung
tiền hướng tới mục tiêu lạm phát 2% của Ngân hàng Trung ương Nhật
Bản.
2. điều thứ 2 là Chính sách không đủ sức chống chọi khi gặp
những biến động đến từ phản ứng tiêu cực về việc tăng lãi suất
không đúng lúc trong chính sách Abenomics và việc giảm giá
dầu của thế giới:
Chính việc tăng thuế có hiệu lực vào ngày 1 tháng 4 năm 2014, tiêu
dùng cá nhân và hoạt động doanh nghiệp đã đi vào một trạng thái cực
đoan nhất. Trong hai quý tiếp theo, nền kinh tế trượt vào vùng tiêu cực.
Một lần nữa Nhật Bản nhận thấy quốc gia lại rơi vào tình trạng tạm thời
suy thoái. Theo thống kê nhanh của Văn phòng Nội các, vào năm 2014,
GDP của Nhật Bản chỉ duy trì mức của năm trước (+ 0,0%). Rõ ràng việc
vội vàng giải quyết bài toán cân bằng ngân sách thông qua việc tăng thuế
tiêu dùng đưa ra lúc này không phải là một sự lựa chọn thích hợp mà nó
chính là liều thuốc độc giết chết sự hồi phục yếu ớt của nền kinh tế. Đặc
biệt nó sẽ có tác động tiêu cực lên tâm lý thị trường của người tiêu dùng
lẫn khu vực sản xuất. Xu hướng tăng thuế là tất yếu, song không phải thời
điểm này.
Trong khi thực tế chiến lược tái cơ cấu kinh tế vẫn chưa phát huy được
hiệu quả về kinh tế mà Abe đã đặt ra thì giá dầu lại có khuynh hướng đi
xuống, kéo theo đó là tỷ lệ lạm phát giảm và trở lại trong vùng tiêu cực,
đạt - 0,4% vào tháng 5/2014. Cùng thời gian này, nền kinh tế không cho
thấy sự thích ứng với biến động bởi hộ gia đình không có đủ sức mua cần
thiết để thúc đẩy tiêu dùng vì vốn dĩ họ chưa có được sự kích thích tài
chính hiệu quả từ lúc đầu. Khi mà năm 2014 và 2015, tiền lương thực tế
của họ đã bị ảnh hưởng theo xu hướng của việc giảm giá chung., hơn nữa
lạm phát tăng phần nào cộng thêm tiền lương danh nghĩa chững lại hoặc
chỉ tăng không đáng kể vào năm 2014. Thêm vào đó là sự mất giá của
đồng yên và giảm mạnh lãi suất tiền gửi tiết kiệm và rõ ràng trong điều
kiện này, tiêu dùng khó có thể được thúc đẩy sớm.
3. điều thứ 3 là Việc áp dụng chính sách tiền tệ theo quan điểm
chủ quan của Nội Các Abe theo lý thuyết Keynes để kích thích
tăng trưởng kinh tế tuy có thể khắc phục được cấu trúc kinh tế
và giải quyết các vấn đề dài hạn nhưng lại đối mặt với các rủi
ro khác như sau:
Khi mở rộng tiền tệ quá nhanh thì sẽ khó quản lý nợ và vay, cũng như
đã đề cập, các gói kích thích kinh tế nhằm tăng chi tiêu công của Chính
Phủ đã dẫn đến thâm hụt ngân sách nhà nước, khi vốn dĩ nợ công Nhật đã
đạt 245% vào năm 2010 và từ các năm 2011 đến năm 2015 luôn giữ trung
bình trên 200% so với GDP.
Trong khi đó 1.các công ty Nhật lại không được tài trợ qua cổ phiếu mà
vẫn bị kiểm soát qua các khoản vay ngân hàng nên dù lãi suất có thấp
nhưng lại không có sự tăng lên trong tín dụng các khoản vay của doanh
nghiệp.
Thêm vào đó, 2.Lưu thông tiền tệ đang kém và chậm với thực trạng là
thu nhập thực tế và sức mua của người dân giảm do tiền lương trì trệ, cho
thấy sự khó khăn trong kiểm soát vận tốc tiền tệ của chính phủ bằng
chính sách tiền tệ vì lo ngại lạm phát.
Hơn nữa, 3.việc bơm lượng lớn tiền mặt vào lưu thông tiền tệ không chỉ
gây sự giảm giá đột ngột về đồng yên khiến cho dễ kích động cuộc chạy
đua phá giá tiền tệ dẫn đến nguy cơ bong bóng đầu cơ gia tăng, đồng thời
ảnh hưởng đến uy tín của Ngân Hàng trong việc in tiền để thúc đẩy lạm
phát.
- mặt hạn chế của chiến lược cải cách cơ cấu kinh tế đó là :
Khi Abenomics được triển khai, số lượng lao động Nhật Bản đạt mức
cao mới trong năm 2014. Tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống còn 3,4% trong
tháng 12 năm 2014. nhưng Nhược điểm của xu hướng tích cực này trong
thị trường lao động là việc làm toàn thời gian đã giảm trong hơn hai mươi
năm qua. Trong giai đoạn này, 21% lao động nam và 55% lao động nữ
cảm thấy họ đang ở trong điều kiện việc làm nhiều hơn hoặc ít hơn so với
với bình thường. chính điều này đã tạo tâm lý e ngại về sự bấp bênh, dẫn
đến tìm kiếm cơ hội việc làm mới đối với những lao động bán thời gian
ngày càng lớn. Họ kiếm được thu nhập ít hơn đáng kể so với người lao
động làm việc toàn thời gian, lại không được bảo vệ khi chống lại sa thải
và việc họ tiếp cận đến các lợi ích phúc lợi xã hội bị hạn chế. Sự gia tăng
việc làm bán thời gian là một phần nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm tiền
lương thực tế và làm chậm năng suất lao động của Nhật Bản. Nếu không
có một sự bảo đảm việc làm dài hạn, các công ty không muốn đầu tư vào
đào tạo và giáo dục nguồn lao động mới. Khi các công ty gặp khó khăn
về chi phí hoặc duy trì lợi thế cạnh tranh của họ, họ thay thế người lao
động toàn thời gian bằng người lao động bán thời gian thay vì đầu tư vào
các biện pháp để tăng năng suất.
Chính quyền Abe đã bắt đầu một loạt các cải cách về cơ cấu và khu
vực, nhưng cho đến nay vẫn chưa có bước đột phá ngoạn mục để có thể
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, khuyến khích tăng trưởng tiềm
năng. Thay vào đó, quá trình cải cách chỉ ở mức theo sau các mức của
năm trước với tốc độ chậm, tuy không có dấu hiệu dừng lại nhưng lại
không kịp thích ứng chung với 2 mũi tên chính sách còn lại và vẫn còn
thua xa các nước khác trong khu vực cụ thể như Trung Quốc. Các biện
pháp được giới thiệu cho đến nay bao gồm tự do hóa việc thu hồi đất,
nhằm tạo điều kiện cho việc tạo ra các vùng nông nghiệp lớn hơn, có lợi
hơn; việc mở rộng các trung tâm chăm sóc trẻ em trong và sau giờ học;
thành lập sáu khu kinh tế đặc biệt điều chỉnh bởi pháp luật lao động và
phân vùng tự do; thúc đẩy xuất khẩu và đầu tư nước ngoài; soạn thảo
code quản trị doanh nghiệp theo mô hình Anh; giới thiệu tiết kiệm cá
nhân chiếm tỷ trọng như một trụ cột mới của bảo hiểm hưu trí. Nhưng
thực tế nhịp độ tiến triển của các kế hoạch trên trong mũi tên cải cách cơ
cấu diễn ra chậm chạp, mặc dù nếu làm tốt từ đầu sẽ có tác động rất tích
cực tới khả năng làm hồi sinh nền kinh tế.
Mặc dù do hoàn cảnh thị trường quốc tế đương thời đang gặp khủng
hoảng, suy thoái dẫn tới cán cân thương mại của Nhật Bản đã chìm sâu
trong màu đỏ tại thời điểm năm 2014, với mức thâm hụt 108 tỷ USD. Tuy
nhiên, tài khoản hiện tại đã hiển thị 45 tỷ USD thặng dư do tăng tài sản
đáng kể từ nước ngoài. Cơ cấu thặng dư thương mại đến nay đã trở thành
huyền thoại của Nhật Bản do siêu cấu trúc. Ba yếu tố sau là nguyên nhân
của sự phát triển này.
Thứ nhất, các công ty Nhật Bản chuyển giao 20% sản xuất của họ ra
nước ngoài và không quan tâm về chi phí cũng như marketing.
Thứ hai, các nhà máy điện hạt nhân đã được đóng cửa sau thảm họa
Fukushima và đã được thay thế bởi các loại nhiên liệu hóa thạch nhập
khẩu.
Và thứ ba, với những lý do này, sự mất giá của đồng yên hiện nay có
tác động vào xuất khẩu của Nhật Bản yếu hơn so với nó đã làm trong quá
khứ. Đồng yên mất giá 36% so với đồng USD (từ đầu năm 2013 đến cuối
năm 2014) đã dẫn đến thặng dư xuất khẩu, nhưng nhập khẩu cũng tăng
lên.
Kết quả là không có lợi ích ròng thu được từ xuất khẩu.
b) Abenomics 2.0
thứ 1 đó là Kỳ vọng tăng trưởng GDP đột phá thiếu thực tế của Abe qua
những mục tiêu đầy tham vọng:
Sau khi tái đắc cử chức Chủ tịch Đảng Dân chủ tự do (LDP) cầm
quyền, Thủ tướng Shinzo Abe đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP lên mức
600 nghìn tỷ yên . Nếu điều này trở thành hiện thực, nền kinh tế Nhật
Bản sẽ có quy mô lớn nhất kể từ sau Chiến tranh Thế giới thứ 2.
Thế nhưng, mục tiêu này dường như quá tham vọng khi trong quý 2
vừa qua, nền kinh tế Nhật Bản đã tăng trưởng âm 1,6% so với cùng kỳ
năm trước. Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế, nếu nền kinh tế đạt
tốc độ tăng trưởng kinh tế 2%-3%, mức được coi là khả quan nhất trong
điều kiện hiện nay, thì phải đến năm 2021 GDP Nhật Bản mới cán mốc
600 nghìn tỷ yên, trong khi nhiệm kỳ của ông Abe sẽ kết thúc vào năm
2018.
Bên cạnh đó, theo số liệu thống kê được công bố ngày 25/9,Tỷ lệ lạm
phát lõi được đo bằng chỉ số giá tiêu dùng còn gọi là CPI lõi) trong
tháng 8 của nước này giảm 0,1%, lần đầu tiên kể từ tháng 4 năm 2013.
CPI giảm cho thấy sức mua của người tiêu dùng vẫn còn yếu ớt, ảnh
hưởng tiêu cực tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó đồng
nghĩa với việc chính phủ vẫn còn phải đối mặt với không ít thách thức
nhằm ngăn chặn tình trạng giảm phát của nền kinh tế, cũng như đẩy mạnh
sự phát triển của các doanh nghiệp nội địa.
-hạn chế thứ hai trong chính sách abenomics 2.0 này là Sự bất khả
thi trong việc ngăn chặn đà giảm và già hóa dân số:
Thủ tướng Nhật Bản đã cam kết sẽ hỗ trợ tài chính cho các gia đình và
đề ra mục tiêu tăng tỷ lệ sinh từ mức 1,4 trẻ/ bà mẹ lên mức trung bình
1,8 trẻ/ bà mẹ. Tờ Nikkei đặt câu hỏi, nguồn tiền mà chính phủ cam kết
để hỗ trợ tăng tỷ lệ sinh sẽ lấy từ đâu, sau khi phải chi tiền hỗ trợ hàng
triệu người cao tuổi?
Chuyên gia phân tích Masamichi Adachi tại ngân hàng JP Morgan, chi
nhánh Tokyo nhận định: “Ông Shinzo Abe đã khẳng định trọng tâm trong
các chính sách của mình là kinh tế, để mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho
tất cả mọi người. Chẳng có gì là sai khi đặt ra mục tiêu như vậy, nhưng
làm thế nào để đạt được mục tiêu lại là một câu chuyện khác”.
Việc gia tăng chi tiêu công vào lĩnh vực dân số sẽ khiến nợ công của
Nhật Bản, vốn đang ở mức 245% GDP, có thể tiếp tục phình to hơn nữa.
IMF cảnh báo, nếu không có những biện pháp kiểm soát chi tiêu, gánh
nặng nợ công của chính phủ Nhật Bản có thể sẽ tăng gấp 3 lần vào năm
2030.
- thứ ba là Mối lo trong việc cải thiện an sinh xã hội: xuất phát từ
nghịch cảnh số lượng người già tăng cao nhưng nguồn lao động và
ngân sách lại có hạn
Theo số liệu do Bộ Nội vụ Nhật Bản công bố, tính đến ngày 15/9/2015,
cả nước Nhật có khoảng 10 triệu người trên 80 tuổi, chiếm 7,9% dân số.
Số lượng người trên 65 tuổi cũng chạm mức cao kỷ lục là 33,84 triệu,
chiếm 26,7% dân số.
Theo Thủ tướng Abe, đến năm 2020, xã hội Nhật Bản có thêm khoảng 8
triệu người, những người được sinh ra trong giai đoạn bùng nổ tỷ lệ sinh
1947 - 1949, sẽ bước vào tuổi 70. Mà hệ thống nhà dưỡng lão chăm sóc
người già sẽ không đáp ứng đủ nhu cầu nếu như không được cải thiện và
chuẩn bị ngay từ bây giờ.
Trong trường hợp đó, những người được sinh ra trong giai đoạn 1971 -
1974, là con của thế hệ bùng nổ tỷ lệ sinh, đang trong thời kỳ làm việc tốt
nhất, phải nghỉ việc để chăm sóc cha mẹ. Nếu như vậy thì nền kinh tế và
xã hội Nhật Bản sẽ sụp đổ.
Theo số liệu điều tra của Bộ Thông tin và các Vấn đề Đối nội (2015),
tình trạng thiếu hụt nhà dưỡng lão đã làm tăng mạnh áp lực lên số người
già cần chăm sóc, khoảng 150.000 người, hầu hết ở cấp độ 3 (trong hệ
thống 5 cấp độ) hoặc cao hơn, tức là không tự chăm sóc được bản thân,
cần sự hỗ trợ đặc biệt. Tình trạng này kéo theo thực tế hàng năm có
khoảng 100.000 người trong độ tuổi lao động bỏ việc để chăm sóc cha mẹ
già.
Trước thực trạng này, ông Abe cam kết sẽ xây dựng thêm nhiều nhà
dưỡng lão để ngăn chặn tình trạng người dân trong độ tuổi lao động phải
nghỉ việc để chăm sóc bố mẹ già, gây ra tình trạng thiếu hụt lao động, làm
giảm động lực phát triển kinh tế. Tuy nhiên, theo Bộ Y tế, Lao động và
Phúc lợi xã hội Nhật Bản, nước này sẽ cần hơn 2,5 triệu lao động xây
dựng và làm việc trong các nhà dưỡng lão, khiến nguy cơ thiếu hụt lao
động trong nền kinh tế có thể sẽ thêm trầm trọng, đó là chưa kể tới sức ép
lớn đối với nguồn ngân sách dành cho an sinh xã hội khi chính phủ tăng
chi tiêu vào việc xây dựng nhà dưỡng lão, chăm sóc y tế và chi trả bảo
hiểm cho người già.
6. Tác động bên ngoài của chính sách kinh tế Abenomics lên chính
trị, ngoại giao và xã hội Nhật Bản
1.1 Ổn định chính trị nội bộ
Thủ tướng Shinzo Abe đã đạt được mục đích giữ vững ổn định trong
quốc hội khi giành chiến thắng trong cuộc bầu cử Thượng viện năm 2013
và 2016.
Thủ tướng Shinzo Abe đã vận dụng hiệu quả chiêu bài giải tán Hạ viện
bầu cử sớm theo điều 7 Hiến pháp Nhật Bản. Hiến pháp không quy định
điều kiện giải tán mà xác định theo sự đồng ý của Nội các, Nhật Hoàng
có thể thay mặt nhân dân thực hiện quyền giải tán Hạ viện.
Tháng 9/2017, Thủ tướng Shinzo Abe tiếp tục quyết định giải tán Hạ
viện để tổ chức bầu cử sớm hơn so với kế hoạch 1 năm. Kết quả, liên
minh đảng cầm quyền Dân chủ Tự do và Công minh chiến thắng áp đảo
từ đó dành được quyền nghị luận về vấn đề sửa đổi Hiến pháp.
Với những thắng lợi trong các cuộc bầu cử Thượng viện và Hạ viện từ
năm 2013 đến nay, chính quyền Thủ tướng Abe đã thực hiện được mục
tiêu chấm dứt một quốc hội chia rẽ và bảo đảm ổn định chính trị cho Nhật
Bản vốn đã trải qua 7 đời thủ tướng từ năm 2006 đến năm 2012.
Các định hướng trong chiến lược chủ đạo chính sách an ninh mới của
Nhật Bản với Đông Nam Á là:
1. Tăng cường quan hệ đồng minh, ủng hộ chiến lược “xoay trục”
của Mỹ sang châu Á
2. Tăng cường hợp tác an ninh và quốc phòng thông qua cơ chế đa
phương
3. Tăng cường hợp tác an ninh hàng hải đối với các nước ASEAN
4. Can dự mạnh mẽ trong vấn đề Biển Đông.
Tại Hội nghị Shangri-La diễn ra ở Singapore (năm 2014), Thủ tướng
Nhật Bản Shinzo Abe đã cam kết “để đóng góp nhiều hơn nữa, tích cực
hơn nữa cho hòa bình, ổn định ở châu Á, Nhật Bản sẽ hỗ trợ tối đa cho
các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)”.
b) Về mặt xã hội
3.1 Phát triển theo khu vực địa phương
Ngày 03/9/2014, Thủ tướng Abe đã công bố một loạt chính sách liên
quan đến phát triển địa phương. Đây cũng được coi là chính sách
“Abenomics địa phương”.
Tháng 9/2014, Chính quyền Abe đã xây dựng “Chiến lược tổng hợp
phát triển sáng tạo khu phố, con người, công việc”. Tháng 11/2014, “Luật
phát triển sáng tạo khu phố, con người, công việc” được thông qua.
Mục tiêu của chiến lược trong giai đoạn 2015 - 2019 là
1. Tạo ra việc làm và môi trường yên tâm làm việc tại các địa
phương
2. Tạo ra dòng người mới đổ về các địa phương
3. Tăng cường liên kết địa phương.
Chính phủ hỗ trợ thúc đẩy liên kết giữa các địa phương, hình thành nên
các vùng với thành phố trung tâm và các địa phương vệ tinh. Đồng thời,
dựa trên các đặc khu chiến lược quốc gia tại một số địa phương, Chính
phủ Nhật Bản cũng thúc đẩy sự phát triển của các địa phương, giải phóng
gánh nặng cho các đô thị lớn, bãi bỏ lệnh cấm doanh nghiệp sở hữu đất
nông nghiệp.
7. Bài học và những gợi ý về chính sách cho Việt Nam trong quan hệ
với Nhật Bản
Abenomics là chính sách kinh tế toàn diện với những mục tiêu và tham
vọng dài hạn của Nhật Bản. Với kết quả tích cực mà chính sách
Abenomics mang lại cho nền kinh tế Nhật Bản đã chứng minh được hiệu
quả thực tiễn của chính sách này. Bên cạnh những tác động rõ ràng đối
với nền kinh tế Nhật Bản thì chính sách Abenomics cũng đã để lại bài học
lớn cho các nước, trong đó có Việt Nam:
Thứ nhất, phát triển kinh tế phải đi đôi với đảm bảo công bằng xã
hội . Mặc dù Việt Nam có tốc độ phát triển kinh tế nhanh , các chỉ báo
kinh tế liên tục tăng , nhưng tính bền vững , đặc biệt sự hải hòa giữa tăng
trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề an sinh xã hội vẫn còn hạn chế .
Trên cơ sở 3 trụ cột của chính sách kinh tế Abenomics , Việt Nam nên
học hỏi kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc xây dựng chiến lược phát
triển kinh tế , đảm bảo công bằng và ổn định xã hội .
Thứ hai, tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng: Theo chiến lược tăng
trưởng của Abenomics, Chính phủ Nhật Bản hướng tới tăng cường đầu tư
cho hạ tầng ở nước ngoài. Phương châm mà Chính phủ nước này đề ra là
dự kiến đến năm 2020 sẽ đầu tư khoảng 30.000 tỷ Yên cho cơ sở hạ tầng
ở nước ngoài, trong đó, Việt Nam là điểm đầu tư được Nhật Bản đặc biệt
coi trọng. Nếu Nhật Bản đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng tại Việt Nam thì
hệ thống cơ sở hạ tầng ở Việt Nam sẽ hoàn chỉnh hơn và có lợi cho cả hai
nước.
Thứ ba, cải thiện thị trường lao động và chất lượng lao động:
Abenomics cũng đề cao vấn đề cải thiện thị trường lao động của Nhật
Bản bằng cách nới lỏng luật tuyển dụng lao động nước ngoài, đặc biệt là
những lao động có trình độ và tài năng. Nhật Bản có chủ trương tiếp nhận
lao động Việt Nam sang làm việc và nhiều doanh nghiệp đang tiếp nhận
các thực tập sinh của Việt Nam. Chính phủ Nhật Bản đã mở rất nhiều
những đặc khu kinh tế, trao quyền cho doanh nghiệp tự do lựa chọn lao
động, đây là những cơ hội cho thị trường xuất khẩu lao động của Việt
Nam.
Thứ tư, chú trọng phát triển các ngành dịch vụ đặc biệt là du lịch:
Trong cơ cấu nền kinh tế của một quốc gia thì nhóm ngành dịch vụ chiếm
tỷ trọng càng cao thì quốc gia ấy càng phát triển. Ở chiến lược tăng
trưởng của Abenomics, Nhật Bản còn chú trọng phát triển các ngành dịch
vụ, trong đó có dịch vụ chăm sóc người già. Dịch vụ này đòi hỏi rất nhiều
hộ lý, điều dưỡng viên. Với chế độ đãi ngộ phù hợp, Nhật Bản đã thu hút
được rất nhiều nguồn nhân lực nước ngoài có trình độ tham gia vào các
ngành dịch vụ của nước Nhật, nâng cao chất lượng ngành dịch vụ.
Thứ năm, đổi mới trong chính sách tài khóa- tiền tệ, kiểm soát vấn đề
công nợ: Chính sách Abenomics hướng tới nới lỏng chính sách tài khóa,
cụ thể là thúc đẩy chi tiêu công để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Trong năm
2013, chi tiêu vượt mức của Chính phủ được tài trợ bởi ngân sách bổ
sung đã kích thích sự phát triển kinh tế chậm chạp. Sang năm 2014, thực
thi chính sách tài khóa nới lỏng dẫn tới thâm hụt NSNN ở mức 7,1% do
thu thuế giảm và nền kinh tế tăng trưởng chậm, trong khi nợ công gia
tăng và ở mức cao. Điều này buộc Chính phủ Nhật Bản phải xem xét các
chính sách thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài cấp vốn cho
các khoản chi tiêu của mình. Bên cạnh đó, để hạn chế mặt tiêu cực của
việc bơm tiền, Chính phủ Nhật Bản phải đưa ra chính sách tăng thuế tiêu
dùng 5% - 8% khiến cho việc chi tiêu cá nhân rơi vào tình trạng yếu ớt…
Hiện tại, chính sách kinh tế Abenomics vẫn đang được tiếp tục triển
khai và thực hiện ở Nhật Bản và đạt được nhiều thành tựu đã chứng
minh được hiệu quả thực tiễn của chính sách này. Từ những thành tựu về
tăng trưởng kinh tế cũng như những thách thức trong thực thi chính sách
Abenomics, Việt Nam có thể rút ra những bài học hữu ích trong tiến trình
hội nhập và phát triển kinh tế. Từ đó đưa ra những chính sách kinh tế phù
hợp như:
Thứ nhất, chú trọng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại, ứng dụng
các thành tựu khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất.Việt Nam đã có
nguồn lao động dồi dào cộng với việc đầu tư cơ sở hạ tầng hiện đại và
chất lượng thì Việt Nam sẽ trở thành quốc gia tiềm năng để thu hút sự
đầu tư vốn của nước ngoài.
Thứ hai , kiểm soát, giám sát và đối phó vấn đề nợ công . Hiện tại,
Việt Nam là một nước có số nợ công tuy chưa lớn nhưng cần giám sát
chặt chẽ. Khi đánh giá cụ thể nền kinh tế Nhật Bản có thể thấy, mặc dù
nước này có tỷ lệ nợ công ở mức trên 200 % GDP nhưng vẫn được đánh
giá là nền kinh tế khỏe mạnh”. Bởi vì, phần lớn nợ công của Nhật Bản
thuộc về tạo chủ nợ nội địa ( các công ty trong nước và người dân Nhật
Bản nổi tiếng về tiết kiệm trên thế giới ). Do đó, Nhật Bản vẫn chưa rơi
vào tình trạng khủng hoảng. Tuy nhiên hình phủ Nhật Bản vẫn đang phải
rất nỗ lực trong việc giảm bớt số nợ công. Việt Nam không có sức mạnh
kinh tế như Nhật Bản nên để có thể giảm bớt nợ công thì không có cách
nào khác ngoài việc hoạch định và thực thi các chính sách đầu tư hiệu quả
, giảm bớt lượng phải thất thoát từ nguồn lực đầu tư.
Thứ ba, thúc đẩy thị trường lao động phát triển và nâng cao chất
lượng lao động. Nếu khó khăn của Nhật Bản là thiếu lao động thì ở Việt
Nam là tình trạng dư thừa lao động, tuy nhiên hiệu suất lao động không
cao. Chính vì vậy, nền kinh tế muốn phát triển không thể chỉ dựa mãi vào
lực lượng lao động dư mà phải quan tâm đến chất lượng lao động. Chính
sách Abenomics đã đưa ra yêu cầu trong việc trả lương cho người lao
động không phải dựa vào số giờ làm việc mà phải dựa vào hiệu quả của
công việc. Thiết nghĩ, đây cũng là một kinh nghiệm quý báu cho doanh
nghiệp cơ quan của Việt Nam.
Thứ tư, cải thiện các chính sách liên quan đến du lịch để tăng cường
khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế và biến du lịch trở thành ngành
công nghiệp chủ chốt. Để thực hiện được mục tiêu trên, ngành Du lịch
Việt Nam cần nắm bắt được các xu hướng du lịch mới của thế giới và đưa
ra chiến lược phát triển du lịch phù hợp. Trong nội dung của công tác
quản lý kinh tế vĩ mô thì vấn đề quy hoạch phát triển luôn đóng một vai
trò hết sức quan trọng đặc biệt là đối với lĩnh vực du lịch một ngành kinh
tế mang tính tổng hợp cao. Trong quá trình thực thi chính sách phát triển
du lịch, Việt Nam cần tăng cường tính liên kết giữa các cấp, các bộ,
ngành trung ương với địa phương, tăng cường tính liên kết giữa ngành du
lịch với các ngành nghề khác; chú trọng đến phát huy tài sản trí tuệ địa
phương trong phát triển du lịch thuộc khuôn khổ hành lang pháp lý cho
phép. Bên cạnh đó, cần đấy mạnh triển khai việc hình thành các chuỗi
liên kết vùng trong phát triển du lịch giữa các địa phương nhằm khai thác
tối đa lợi thế của du lịch trong cả một vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm
nhiều tỉnh, thành phố, hoặc tăng cường kết nối và khuyến khích các tập
đoàn kinh tê tư nhân trong và ngoài nước bỏ vốn đầu tư nhằm phát triển
du lịch, qua đó phát huy mạnh mẽ nguồn lực của thành phần kinh tế tư
nhân nhằm gia tăng khả năng cạnh tranh cho du lịch Việt Nam. Và đặc
biệt, cần đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng du lịch theo hướng chuyên
nghiệp và hiện đại hơn.