You are on page 1of 40

1. Abenomics là gì?

Abenomics là các chính sách kinh tế được ban hành vào năm 2013 và
2015 dưới thời thủ tướng Abe Shinzo cầm quyền từ tháng 12 năm 2012
đến tháng 9 năm 2020. Abenomics là thuật ngữ được kết hợp giữa tên
Abe và economics giống như các chính sách trước đó như Reaganomics,
Clintonomics, Rogernomics.

2. Nội dung cơ bản của chính sách Abenomics:


Bao gồm 3 mũi tên chính:
a) Chính sách tiền tệ táo bạo và liều lĩnh
b) Chính sách tài khóa linh hoạt và đảm bảo
c) Chính sách cải cách cơ cấu kinh tế và đầu tư khu vực

3. Bối cảnh ra đời của chính sách Abenomics:


Đối với tình hình chính trị thế giới:
- Sự bành trướng của TQ:
Năm 2012, quan hệ Trung – Nhật hết sức lạnh nhạt, căng thẳng, thậm
chí cận kề đối đầu và rơi xuống mức thấp nhất sau 40 năm bình thường
hóa quan hệ. Trung Quốc, mặt khác, lại tích cực mở rộng sức ảnh hưởng
của mình ở khu vực châu Á nói riêng và trên toàn thế giới nói chung. TQ
tăng chi tiêu vào hiện đại hóa quân sự và quân đội. Mục tiêu của việc
tăng cường quốc phòng và quân sự của Trung Quốc là chi phối, thiết lập
trật tự mới tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Điểm nóng trong khu
vực cạnh tranh giữa Nhật Bản và Trung Quốc là khu vực biển Hoa Đông
và biển Đông. Những động thái của Trung Quốc trong thời gian qua đã
khiến Nhật Bản lo ngại. Minh chứng cho thấy nhờ sự trỗi dậy mạnh mẽ
về kinh tế, Trung Quốc liên tục tăng cường chi phí cho quốc phòng trong
nhiều năm qua. Từ năm 1996, Trung Quốc tăng chi phí quân sự trung
bình 11%/năm. Trong những năm gần đây có giảm tốc nhưng cũng tăng
đến 7,6%. Khi vùng biển Hoa Đông vốn đã là khu vực biển thương mại
lâu đời của Nhật trong khu vực Châu Á. Hơn nữa, Nhật Bản lo ngại nếu
Trung Quốc kiểm soát được khu vực biển Đông thì khả năng cao sẽ lấn
sang khu vực Ấn Độ Dương, đe doạ tuyến đường hàng hải với các quốc
gia Trung Đông, khu vực cung cấp 90% lượng dầu hoả cho Nhật Bản.

- Vị thế của Mỹ suy giảm trên đấu trường QT


Mặt khác, đồng Minh thân cận nhất của Nhật Bản là Mỹ, lại có sự suy
giảm tương đối vị thế và sức ảnh hưởng quốc tế trong thời kì này. Xu
hướng này làm thay đổi một phần tương quan lực lượng và trật tự thế
giới. Sự suy giảm đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân: sự nổi lên nhanh
chóng của các cường quốc như Trung Quốc, Ấn Độ, Nga v.v..; những sai
lầm trong chính sách đối nội, đối ngoại của Mỹ, nhất là sự sa lầy trong
cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan và khủng hoảng tài chính - kinh tế nổ ra
năm 2007. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007 đã khiến nền kinh tế
Mỹ rơi vào tình trạng mất cân bằng. Và khi cuộc khủng hoảng này lan ra
toàn thế giới vào năm 2008, hàng loạt tổ chức tài chính trong đó có
những tổ chức tài chính khổng lồ và lâu đời bị phá sản đã đẩy kinh tế Mỹ
vào tình trạng suy thoái nặng nề, tốc độ phát triển không đủ sức cạnh
tranh với các quốc gia thuộc khu vực Châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản.
Mỹ là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi kinh tế
suy thoái, xuất khẩu của nhiều nước bị thiệt hại, nhất là những nước theo
hướng xuất khẩu ở Đông Á. Một số nền kinh tế như Nhật Bản, Đài Loan,
Singapore và Hong Kong rơi vào suy thoái nặng. Nhật Bản có một hệ
thống tài chính tương đối vững vàng đã trải qua một thời kỳ tái cơ cấu
sau khủng hoảng 1996-1997. Tuy nhiên, tác động tiêu cực từ khủng
hoảng tài chính Hoa Kỳ vẫn khiến cho thị trường chứng khoán của nước
này rối loạn. Chỉ số giá cổ phiếu bình quân Nikkei đã xuống mức thấp
lịch sử vào các ngày 8 và 10 tháng 10/2008. Việc Mỹ suy yếu tương đối
khiến Nhật Bản cần phải chủ động nâng cao sức mạnh quốc gia, đóng vai
trò lớn hơn nữa trong mối liên minh này.

- Sự trỗi dậy của Triều Tiên


Ở phía Bắc Triều Tiên, Kim Jong-un cũng đồng thời thúc đẩy việc
mở cửa kinh tế nhưng vẫn giữ nguyên đường lối ý thức hệ cứng rắn. Bắc
Triều Tiên dưới sự lãnh đạo của Kim Jong-un gia tốc chương trình chế
tạo vũ khí hạt nhân. Sau vụ thử thứ ba, tháng 2/2013, Bình Nhưỡng tuyên
bố kể từ giờ Bắc Triều Tiên trở thành « cường quốc hạt nhân ». Ngày
29/8/2017, Triều Tiên phóng tên lửa theo hướng đông từ một khu vực gần
Sunan, Bình Nhưỡng, bay qua bầu trời Nhật Bản và rơi xuống bắc Thái
Bình Dương, ngoài vùng Đặc quyền kinh tế của Nhật Bản, cách mũi
Erimo của Hokkaido khoảng 1.180km về phía Đông. Thủ tướng Shinzo
Abe tuyên bố hành động phóng tên lửa bay qua lãnh thổ Nhật Bản là một
mối đe dọa nghiêm trọng, chưa từng có và gây tổn hại lớn đến an ninh,
hòa bình khu vực.

Đối với tình hình trong nước:


- Tàn dư của thảm họa sóng thần 11/3/2011
Thảm họa động đất sóng thần và khủng hoảng hạt nhân năm 2011
khiến tình hình kinh tế ở đất nước này càng thêm tồi tệ. Theo thống kê
chính thức, trong trận đại địa chấn Honshu năm 2011, 15.899 người đã
thiệt mạng với 2.572 người vẫn mất tích và được cho là đã chết. Trên
6.000 người bị thương. Nhiều thị trấn bị xóa sổ khỏi bản đồ. Nhiều nhà
máy phát điện đã ngưng hoạt động, và ít nhất 3 vụ nổ lò phản ứng do rò rỉ
khí hydro đã xảy ra tại nhà chứa các lò phản ứng khi hệ thống làm mát bị
hỏng hoàn toàn (Điển hình là nhà máy hạt nhân số 1 Nhật Bản
Fukushima). Đặc biệt, Vùng Tohoku (nơi xảy ra động đất) vốn được xem
là nơi có tài nguyên về du lịch phong phú như thiên nhiên tươi đẹp, suối
nước nóng chất lượng cao và các lễ hội độc đáo, nơi đây là một trong
những nhân tố quan trọng trong ngành dịch vụ du lịch, giúp thu hút khách
du lịch từ khắp thế giới, góp phần thúc đẩy GDP khu vực. Tuy nhiên,
mặc dù số lượng khách du lịch đến Nhật Bản vẫn tăng đều qua các năm,
lượng khách đến vùng Tohoku lại giảm bất ngờ. Đây có thể xem là một
trong những “tàn dư” của thảm họa, vùng Tohoku trong mắt thế giới giờ
đây gắn liền với hình ảnh “khu vực bị tàn phá bởi thiên tai”.

- Xã hội già hóa ở mức báo động: gây ảnh hưởng đến thị trường
lao động và ảnh hưởng đến chi tiêu xã hội của Nhà Nước
Trong bối cảnh đó, để tạo nên tăng trưởng ở một quốc gia với dân số
bị già hóa đã trở thành một nhiệm vụ hết sức khó khăn và đó cũng chính
là lý do nhiều đời Thủ tướng phải ra đi. Năm 1995, chi phí an sinh xã hội
tăng lên đạt hơn 64.730 tỷ yên, chiếm 17,09% thu nhập quốc gia, chi phí
lương hưu chiếm 8,84% trong chi phí an sinh xã hội, tăng 136% so với
năm 1985. Năm 2001, Nhật Bản dành 81.400 tỷ yên cho chi phí an sinh
xã hội, chiếm 22% trong thu nhập quốc dân. Chi phí về lương hưu chiếm
11,50% trong chi phí an sinh xã hội, tăng 130% so với năm 1995. Qua
việc trợ cấp lương hưu cho người cao tuổi, có thể thấy, Chính phủ Nhật
Bản đã làm khá tốt vấn đề an sinh xã hội. Song gánh nặng đối với nền
kinh tế Nhật Bản là điều ai cũng có thể nhận thấy, vấn đề này còn trở nên
nghiêm trọng hơn sau thảm họa năm 2011, khi nền kinh tế đất nước bị
phá hủy một cách nặng nề. Việc giảm tỷ lệ sinh, nguyên nhân chủ yếu
của tình trạng già hóa dân số ở Nhật Bản, cũng làm giảm dân số trong độ
tuổi lao động. Một trong những nhân tố góp phần tạo ra thần kỳ kinh tế
sau chiến tranh của Nhật Bản là sự vận hành của thị trường lao động nước
này, mà đặc trưng trước hết là mức việc làm ổn định và năng suất lao
động cao. Tuy nhiên, việc già hóa nhanh chóng dân số ở độ tuổi lao động
có thể ảnh hưởng đáng kể đến những thực tế lao động hiện hành ( tức là
sự an toàn lâu dài về việc làm và cơ cấu tiền lương dựa vào thâm niên).
Việc tỷ lệ lao động già so với lao động trẻ tăng cao sẽ làm giảm khả năng
đề bạt và nâng bậc theo thâm niên, làm yếu động cơ thúc đẩy làm việc
của lao động trẻ cũng như tinh linh hoạt bên trong xí nghiệp, và làm tăng
cấu thành chi phí lao động do phần lương và các khoản trợ cấp, phúc lợi
dành cho lao động già ngày càng tăng.

- Tình trạng kinh tế trì trệ kéo dài


Kể từ khi bong bóng trên thị trường bất động sản và thị trường chứng
khoán đổ vỡ hồi đầu những năm 1990, các công ty Nhật Bản đã tập trung
vào việc cắt giảm nợ và chuyển hoạt động sản xuất ra nước ngoài. Lương
không tăng lên hoặc tăng rất chậm khiến người tiêu dùng phải thắt chặt
chi tiêu. Điều này dẫn đến hai thập kỷ mất mát của Nhật Bản với tốc độ
tăng trưởng GDP hầu như bằng 0. Tăng trưởng kinh tế đạt mức thấp và
có xu hướng giảm dần. Nếu như năm 1990 tốc độ tăng trưởng đạt 4,893%
thì năm 2011 thậm chí là tăng trưởng âm 0,115%, năm 2012 cũng chỉ đạt
1,495%. Chỉ số giá tiêu dùng đã luôn giao động 0% trong đó hầu hết các
năm đạt âm, năm 2011 là âm 0,237%, năm 2012 là âm 0,057. Đặc biệt nợ
công của chính phủ tăng cao, nếu năm 1990 nợ công chỉ mới là 64,3%
GDP thì đến năm 2011 đã tăng gấp gần 4 lần lên mức 222,087% và năm
2012 thậm chí còn cao hơn, đạt 229,008%. Tỷ lệ thất nghiệp trong suốt
20 năm qua đều có xu hướng tăng và ở mức cao, nếu như năm 1990 chỉ là
2,1% thì đến năm 2011 là 4,583% và năm 2012 là 4,235%. Ngân hàng và
các tổ chức tín dụng ngập trong các món nợ khó đòi, các gia đình thắt
chặt chi tiêu, các công ty cắt giảm nhân sự, thắt chặt chế độ tuyển dụng
và đãi ngộ, người dân thấp thỏm lo âu không biết liệu tình hình có còn
xấu hơn nữa không. Những tác động to lớn này ảnh hưởng trực tiếp đến
một nhóm dân số hơn 20 triệu người, chiếm 16% dân số Nhật Bản năm
1990, được lịch sử gọi tên là “Lost Generation”, tức “thế hệ mất
mát”.  Theo Bộ Tài chính Nhật Bản (2012), thặng dư thương mại của
Nhật Bản trong 6 tháng đầu tài khóa 2012 đã đạt mức thấp kỷ lục 2.721
tỷ yên, chủ yếu do nhập khẩu khí đốt và nhiên liệu tăng. Thặng dư trong
giao dịch quốc tế của nước này cũng giảm 41,3% so với cùng kỳ năm
2011. Cụ thể, so với tháng 8/2012, các chỉ số ngẫu nhiên, như sản lượng,
doanh số bán lẻ và tỷ lệ việc làm mới trên số người tìm việc,... đã giảm
2,3 điểm trong tháng 9/2012, tháng giảm thứ 6 liên tiếp, xuống còn 91,2
điểm trên thang điểm 100. Tình trạng giảm phát nghiêm trọng, tỷ lệ thất
nghiệp vẫn ở mức cao (trên 5%) và đặc biệt là vấn đề nợ công cao do
thâm hụt ngân sách tích tụ từ nhiều năm nay.

4. Phân tích nội dung của chính sách Abenomics:


4.1. Abenomics 1.0 (2012 đến 2015)
a) Nội dung khái quát
Abenomics là chính sách kinh tế toàn diện và lâu dài. Chính sách
Abenomics 1.0 giai đoạn 2012-2015 với Nội dung chính là 3 mũi tên
nhắm vào 3 lĩnh vực kinh tế vô cùng quan trọng:

1. Chính sách tiền tệ táo bạo, liều lĩnh: Chính phủ thực hiện việc Nới
lỏng tiền tệ, phá giá đồng yên để đưa lạm phát lên 2%, qua đó giúp
tăng trưởng xuất khẩu, chấm dứt tình trạng thiếu phát kéo dài, tăng
trưởng kinh tế bền vững trên cơ sở tăng lợi nhuận của doanh nghiệp,
tăng lương, tạo việc làm, tăng đầu tư trong nước và mở rộng tiêu
dùng.

2. Chính sách tài khóa linh hoạt và đảm bảo: Nội dung chủ yếu của
chính sách này là Cải thiện các điều kiện kinh tế vĩ mô và cấu trúc
kinh doanh ở cấp vi mô của doanh nghiệp, kích thích tài chính thông
qua gói kích cầu 20,2 nghìn tỷ yên, tương đương 210 tỷ USD, trong
đó có 10,3 nghìn tỷ yên tương đương 116 tỷ USD dùng để tăng chi
tiêu chính phủ, tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng. Củng cố quá
trình phục hồi tái sinh kinh tế, duy trì tính vững mạnh của tài khóa để
đảm bảo niềm tin cho thị trường.

3. Chiến lược tái cấu nền kinh tế sâu và rộng: Nội dung chính mà
chiến lược này hướng đến là Đổi mới cấu trúc và hệ thống nền kinh
tế, nâng cao năng suất lao động và cải thiện thị trường lao động thông
qua hàng loạt các chính sách kinh tế - xã hội nhằm nâng cao tính cạnh
tranh của nền kinh tế Nhật Bản, đảm bảo môi trường kinh tế cởi mở,
cạnh tranh công bằng và tự do, mang lại cơ hội cho mọi người (bao
gồm cả phụ nữ), nâng cao chất lượng cuộc sống an toàn và đảm bảo
an sinh, đa dạng thành phần kinh tế - xã hội, luôn năng động và sáng
tạo, giữ bền vững kinh tế trong dài hạn

b) Mục tiêu và các chính sách, hành động và cam kết cụ thể
1. Chính sách tiền tệ liều lĩnh bao gồm các mục tiêu, cam kết và chính
sách cụ thể:
Trên cơ sở đề ra nội dung là 3 mũi tên cơ bản để phát triển nền kinh tế
thì Abenomics 1.0 cũng đã đưa ra những mục tiêu cụ thể, và những hành
động, cam kết mang tính thực tiễn.

- Chính sách tiền tệ có Mục tiêu cụ thể như sau: đạt lạm phát trong 2
năm tới là 2% so với âm 0.2% của 13 năm qua, kiểm soát giá cả thị
trường và nền kinh tế, ổn định giá cả đạt mức lạm phát 2% trong
vòng 2 năm tới. Đồng thời, tăng GDP khoảng 3% ở mức danh
nghĩa, 2% trên thực tế (nâng mức tăng trưởng kinh tế từ âm 0,7%
lên 2%)
Bên cạnh đó, những hành động của chính sách tiền tệ cũng được hoạch
hóa:
- Thông điệp chính sách chung vào tháng 1/2013 giữa chính phủ với
Ngân hàng Trung ương Nhật Bản là : chính phủ mua vào 70% lượng trái
phiếu phát hành mỗi tháng, bằng 1% tổng sản lượng, để nhân khối tiền tệ
lên gấp đôi từ 29% đến 56% tổng sản lượng và mua thêm các tài sản tài
chính có sự rủi ro hơn như các quỹ đầu tư tín thác.
- Chính phủ Thúc đẩy đầu tư của các doanh nghiệp, thực hiện đánh
thuế gắt gao tiền tích trữ của họ, cho các doanh nghiệp biết là chính sách
này sẽ được duy trì cho đến khi đạt được hiệu quả mong muốn.
- Ngoài ra, chính phủ còn thực hiện Kiểm soát khối lượng tiền Ngân
hàng Trung ương Nhật Bản phù hợp mức lạm phát đạt 2% để tăng chi
tiêu công qua gói kích thích kinh tế 116 tỷ USD để xây dựng CSHT, hệ
thống phòng chống động đất và tăng chi tiêu quốc phòng. Bơm tiền mặt
vào thị trường nhằm kích thích tín dụng, giảm chi phí cho vay để kích
thích đầu tư của doanh nghiệp và tiêu dùng của người dân. Việc tăng khối
lượng tiền tệ lưu hành lên gấp đôi con số 85 tỷ USD của Ngân hàng
Trung ương Mỹ, tương đương tăng 30% trong hai năm tới, qua việc bơm
ra thị trường 200 tỷ USD/tháng sẽ trực tiếp làm sụt giá đồng yên và gián
tiếp kích thích xuất khẩu.
- Chính phủ Cam kết tốc độ tăng lương cao hơn tốc độ tăng giá, cơ hội
việc làm gia tăng.

2. Chính sách tài khóa linh hoạt và đảm bảo:


Mục tiêu cụ thể: Theo đuổi mục tiêu đến năm tài khóa 2020, cán cân
tài chính cơ sở đạt thặng dư, đồng thời tăng trưởng GDP đạt mức tăng
2%.
- Quản lý triển khai các gói kích thích kinh tế với 10 nghìn tỷ yên để
tạo ra hệ số tác động nhân đôi “tương đương 20 nghìn tỷ yên về giá trị
quy mô của chương trình” vào tháng 1/2013.
- Tiếp tục đối phó với tác động tăng thuế tiêu dùng từ 5% lên 8% bằng
sử dụng gói thứ hai 5,5 tỷ yên vào tháng 12/2013.
- Tiếp tục duy trì mục tiêu củng cố tài khóa thông qua mục tiêu giảm
một nửa thâm hụt cơ bản ngân sách vào năm 2015, sao cho khi sử dụng
các gói kích thích kinh tế mới được triển khai, không kéo theo việc phải
tiếp tục phát hành trái phiếu chính phủ. Một báo cáo gần đây chỉ ra rằng
chi tiêu chính phủ đã đạt kỉ lục trong vòng hai năm qua.
- Tập trung hóa các khoản chi tiêu của chính phủ vào những vấn đề
trọng điểm của Nhật Bản: Trợ cấp, phúc lợi xã hội; trả nợ và chi tiêu
công. Cụ thể là 3 khoản chính: Khoản đầu tiên là đối phó với tình trạng
dân số già hóa của Nhật Bản, khoản thứ hai là đối phó với nợ công, nợ
công của Nhật Bản đã lên rất cao (mặc dù lãi suất lai thấp) và khoản thứ
ba là đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ cho Olympic Tokyo 2020.

3. Chính sách thúc đẩy tăng trưởng vào sâu bên trong cơ cấu nền kinh
tế:
Đối với chính sách……. thì Mục tiêu cụ thể là:
+ tăng tổng vốn đầu tư cho doanh nghiệp thêm 10% trong ba năm tới
lên mức khoảng 70.000 tỷ yên (khoảng 700 tỷ USD).
+ Tổng thu nhập bình quân đầu người danh nghĩa tăng hơn 3% trong
trung và dài hạn tức là tăng thêm hơn 1,5 triệu yên, so với mức của năm
2012 là 3,84 triệu yên, trong vòng 10 năm tới.
+ Năng suất lao động tăng ít nhất 2% trong trung và dài hạn.
+ Tăng gấp đôi tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để FDI
hằng năm của Nhật Bản phải đạt gần 345 tỷ USD.
+ Tăng kim ngạch thương mại với các nước ký kết hiệp định mậu dịch
tự do lên 70% từ nay đến năm 2018, tăng 19% so với hiện nay.
+ Tăng GDP 3% về danh nghĩa và 2% về thực tế (nâng mức tăng
trưởng cho nền kinh tế từ âm 0,7% và âm kéo dài lên nền kinh tế tăng
trưởng dương 2%)

- Tập trung vào cải cách 10 lĩnh vực then chốt, bao gồm: (1) tăng
cường quản trị doanh nghiệp; (2) cải cách quản trị quỹ công lập; (3)
khuyến khích doanh nghiệp mạo hiểm; (4) cải cách thuế thu nhập doanh
nghiệp và tăng cường thương mại; (5) khuyến khích đổi mới khoa học
công nghệ và cuộc cách mạng robot; (6) tăng cường sự tham gia và tiến
bộ của lao động nữ, cho phép thông lệ làm việc linh hoạt, cải cách thị
trường lao động; (7) thu hút nhân tài từ nước ngoài; (8) cải cách nông
nghiệp mạnh mẽ; (9) phát triển dịch vụ chăm sóc sức khỏe; (10) phát
triển dịch vụ chất lượng cao và mấu chốt để các chính sách được khuếch
tán trên toàn quốc thì chính phủ sẽ phát triển kinh tế địa phương kết hợp
với đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tái cơ cấu các nền
kinh tế vùng nhỏ hơn để từ đó lan tỏa ra toàn Nhật Bản.
- Các chính sách cụ thể cho từng lĩnh vực như sau:
(1) Thứ nhất, về tăng cường quản trị doanh nghiệp;
mở rộng sức cạnh tranh cho khu vực kinh tế tư nhân, thúc đẩy tự do hóa
các ngành công-nông nghiệp trên toàn quốc, để doanh nghiệp Nhật Bản
thành tiềm năng đầu tư cho các nhà đầu tư , bởi tính cạnh tranh về công
nghiệp trong doanh nghiệp, Trong diễn văn công bố chiến lược kinh tế
đầu tháng 6/2013, tại Hội nghị về cạnh tranh công nghiệp diễn ra ở
Tokyo, Thủ tướng Abe nhấn mạnh: “Xương sống của chính sách kinh tế
chính là chiến lược tăng trưởng, là một trong ba mũi tên. Chiến lược này
là nhằm khuyến khích cải cách công nghệ trong mọi lĩnh vực và khuyến
khích các hoạt động sáng tạo rộng khắp ở khu vực tư nhân”. Cam kết
thúc đẩy đầu tư cho lĩnh vực tư nhân và hoạt động của khối doanh
nghiệp, hoạch định chương trình phát triển kinh tế cho 5 năm tới với tên
“giai đoạn cải cách cơ cấu kinh tế khẩn cấp”.

(2) cải cách quản trị quỹ công lập;


Đề nghị Quỹ Đầu tư hưu trí Chính phủ (GPIF) sửa đổi danh mục đầu tư
hiện đang bị thống trị bởi trái phiếu trong nước, thúc giục GPIF thu mua
các tài sản khác với mục tiêu khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài
mua chứng khoán Nhật Bản.

(3) khuyến khích doanh nghiệp mạo hiểm;


Cam kết phá bỏ rào cản trong phát triển lĩnh vực khoa học - công nghệ do
thiếu các nhà đầu tư mạo hiểm, thành lập trung tâm nghiên cứu đẳng cấp
quốc tế để hỗ trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp trong các ngành công
nghệ cao, đến năm 2020, thay đổi tình trạng độc quyền trong lĩnh vực
điện lực hiện nay ở Nhật Bản.

(4) cải cách thuế thu nhập doanh nghiệp;


Cắt giảm thuế doanh nghiệp, thiết lập các đặc khu kinh tế, giúp kích thích
vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, gia tăng hoạt động thương mại, kéo
theo tăng trưởng lợi nhuận sau thuế của các công ty; bỏ bớt các điều luật
phức tạp, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp; cam kết sẽ cắt
giảm 35% thuế suất doanh nghiệp xuống dưới 30% trong vài năm tới so
với tài khóa 2015, vì mức thuế suất hiện đang quá cao khiến dòng vốn
đầu tư nước ngoài chảy vào Nhật Bản với tốc độ chậm.

(4) tăng cường thương mại;


Thực hiện tự do thương mại và xóa bỏ các hàng rào đầu tư trực tiếp vào
Nhật Bản: Như đàm phán và ký kết Hiệp định Đối tác kinh tế Chiến lược
xuyên Thái Bình Dương (TPP) và nỗ lực kết thúc đàm phán Hiệp định
thương mại tư do với Úc bởi Các giao dịch trong các khu vực mậu dịch
tự do hiện mới chiếm 18,9% tổng các giao dịch thương mại của Nhật
Bản, trong khi 65,5% là nằm trong các cuộc đàm phán thương mại đang
tiến hành. Việc đi đến kết thúc và ký kết đàm phán các hiệp định kinh tế
là vô cùng quan trọng trong việc cân bằng cán cân thương mại quốc gia.

(5) khuyến khích đổi mới khoa học công nghệ và cuộc cách mạng robot;
Rô - bốt hóa nền kinh tế, tăng cường sử dụng rô - bốt để nâng cao năng
suất lao động trong bối cảnh dân số bị giảm và già hóa. Diễn đàn về
“cuộc cách mạng rô - bốt”, Nhật Bản hy vọng đến năm 2020, ngành
nông nghiệp sẽ sử dụng số lượng rô - bốt gấp 20 lần so với hiện nay, các
ngành còn lại tăng gấp đôi.

(6) tăng cường sự tham gia và tiến bộ của lao động nữ,
Thu hút khoảng 30% lao động nữ vào năm 2020, để bù đắp cho sự thiếu
hụt về nguồn lao động. Khuyến khích phụ nữ làm lãnh đạo, mở thêm
trường mẫu giáo, thậm chí cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào
việc mở trường. Sẽ phải ban hành các chính sách chăm sóc và quản lí trẻ
em tốt hơn.

(6) cho phép thông lệ làm việc linh hoạt, cải cách thị trường lao động;
Giảm tỷ lệ thất nghiệp khoảng 20%, cụ thể, quý I/2014 số người thất
nghiệp dài hạn đã giảm xuống 1,24 triệu người, giảm 10% so với 1,38
triệu người của quý I/2013. Trong hai năm, Chính phủ Nhật Bản quyết
tâm tạo thêm 600.000 việc làm. Xóa bỏ những điều luật phức tạp trong
Luật lao động, khắc phục tỷ lệ sinh thấp và duy trì dân số Nhật Bản ở
mức 100 triệu người sau 50 năm, đồng thời cho phép tiếp nhận thêm lao
động nước ngoài tham gia vào thị trường lao động

(7) thu hút nhân tài từ nước ngoài;


Mở rộng cánh cửa cho người nước ngoài: Nhanh chóng cung cấp nơi ở
cho những người nước ngoài có trình độ cao, mang nhiều người nước
ngoài/du học sinh/nghiên cứu sinh đến với các trường Đại học của Nhật
Bản qua chương trình G30, đồng thời tạo điều kiện cho nhiều sinh viên
Nhật Bản ra nước ngoài du học.

(8) cải cách nông nghiệp mạnh mẽ;


Đưa nông nghiệp trở thành “ngành công nghiệp thứ 6” trong nền kinh tế
4
, mở rộng thị trường tiêu thụ, đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm nông -
lâm - ngư nghiệp 1, cam kết thúc đẩy sản lượng nông sản xuất khẩu đạt
mục tiêu tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu từ 450 triệu yên lên 1.000 tỷ
yên từ nay đến năm 2020 và 5.000 tỷ yên đến năm 2030 2; Nới lỏng
những hạn chế đối với sự tham gia của các công ty nhân vào nông nghiệp
3
.

(9) phát triển dịch vụ chăm sóc sức khỏe


Ứng dụng các công trình khoa học như y học tái sinh (IPS), bãi bỏ một số
quy định trong các ngành y tế, cho phép tiếp nhận thêm lao động nước
ngoài tham gia vào các lĩnh vực lao động như giúp việc trong gia đình và
chăm sóc y tế, điều này không chỉ cải thiện chất lượng dịch vụ chăm sóc
sức khỏe mà còn tạo điều kiện cho phụ nữ Nhật Bản tham gia vào thị
trường lao động.
(10) phát triển dịch vụ chất lượng cao
Thúc đẩy chương trình du lịch Cool Japan: Tăng cường xuất khẩu các
sản phẩm văn hoá đại chúng Nhật Bản như hoạt hình, truyện tranh, âm
nhạc, ẩm thực…, tăng cường lượng du khách đến với Nhật Bản bằng
cách giảm hạn chế Visa và mua sắm miễn thuế.

4.2. Abenomics 2.0 (2015 đến 2017)


a) Nội dung khái quát
Abenomic phiên bản 2.0 lần này với 3 mũi tên mới của Thủ tướng Abe
là:
+ “Xây dựng nền kinh tế mạnh để tạo ra hy vọng”;
+ “Hỗ trợ tăng tỷ lệ sinh để nuôi dưỡng ước mơ”;
+ “Đảm bảo một xã hội bình yên”.

b) Mục tiêu và các chính sách, hành động và cam kết cụ thể
Giống vói chính sách Abenomics 1.0, ở Abenomics 2.0 thủ tướng Abe
cũng đề ra những mục tiêu, chính sách và cam kết cụ thể.
Mục tiêu thứ nhất: Tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu tăng trưởng GDP 600
nghìn tỷ yên (5.000 tỷ USD) vào năm 2020 so với con số GDP 490.000
tỷ yên của Nhật Bản trong năm tài khóa 2014.
Mục tiêu thứ hai: Tăng cường các biện pháp hỗ trợ nuôi và sinh con.
Tăng tỷ lệ sinh lên mức bình quân từ 1,4 lên 1,8 trẻ/bà mẹ. Đồng thời
cam kết duy trì dân số luôn ở mức 100 triệu dân từ nay đến năm 2050.
Mục tiêu thứ ba: Cải thiện an sinh xã hội. Trong 5 năm tới, Nhật Bản
sẽ xây dụng thêm nhiều nhà dưỡng lão để giảm bớt gánh nặng cho lao
động trẻ, giúp họ yên tâm làm việc, giảm được hàng chục ngàn lao động
phải ở nhà chăm sóc cho cha mẹ già. Đây là sự khác biệt lớn nhất trong
chính sách Abenomics giai đoạn 2.0 so với giai đoạn 1.0.
Về các chính sách hoạt động thực tiễn:
Chính sách nới lỏng tiền tệ vẫn được Thủ tướng Abe tiếp tục thực hiện
và với mức độ mạnh mẽ hơn. Để triển khai chính sách kinh tế mới, ngày
7/10/2015, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã quyết định duy trì chính
sách nới lỏng tiền tệ hiện nay, với chương trình kích thích kinh tế trị giá
80.000 tỷ yên (665 tỷ USD), do xu hướng giảm phát của nền kinh tế Nhật
vẫn gia tăng. Đồng yên yếu là điểm cốt lõi trong chính sách Abenomic
của Thủ tướng Abe nhằm chấm dứt tình trạng giảm phát của nền kinh tế
Nhật Bản, do đó mũi tên nới lỏng tiền tệ sẽ vẫn được trì trong giai đoạn
tiếp theo. Tình thế buộc chính quyền Abe sẽ duy phải hành động mạnh
tay hơn trong cải cách cấu trúc nền kinh tế, nhằm thúc đẩy tính cạnh tranh
và giải quyết vấn đề lương, thu nhập cho người lao động, nới lỏng tiền tệ
vẫn chỉ là giải pháp hỗ trợ.
Cam kết tăng thêm số nhà dưỡng lão với mục tiêu đến năm 2020 sẽ
không còn người già phải xếp hàng chờ. Điều này sẽ giúp giảm số người
trong độ tuổi lao động phải bỏ việc để chăm sóc cha mẹ già, giải quyết
tình trạng thiếu hụt lao động,
Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi Xã hội, tính đến năm 2025, Nhật Bản
phải cần tới 2,53 triệu lao động làm việc trong các nhà dưỡng lão. Nếu
như tỷ lệ lao động tham gia và rời bỏ công việc điều dưỡng tiếp tục diễn
biến như tốc độ hiện nay thì Nhật Bản sẽ thiếu khoảng 377.000 lao động
trong lĩnh vực này. Từ năm tài khoá 2016, Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi
xã hội tăng trợ cấp cho các công ty nhằm hỗ trợ nhân viên cân đối giữa
công việc với trách nhiệm chăm sóc cha mẹ già. Ngoài ra hiện nay, bộ
này đang cân nhắc trình dự luật sửa đổi, theo đó, tăng thêm số lần cho lao
động được tạm nghỉ để chăm sóc cha mẹ già, so với mức một lao động
được tạm nghỉ một lần như hiện nay.
Việc xây dựng và vận hành các nhà dưỡng lão đòi hỏi nguồn kinh phí
lớn. Số người làm việc cho các nhà dưỡng lão tăng thì chi phí để thuê
những lao động này sẽ trở nên đắt đỏ hơn so với chăm sóc người già tại
nhà. Chi phí bảo hiểm điều dưỡng tăng sẽ làm gia tăng gánh nặng kinh tế
đối với người dân. tiếp theo là nếu số lượng nhà dưỡng lão tăng lên, có
nguy cơ những người đang sống tại các cơ sở dưỡng lão tư nhân có trả
phí và những người chưa thực sự có nhu cầu cần phải chăm sóc đặc biệt,
vẫn có thể tự chăm sóc tại nhà, sẽ muốn được chuyển vào các nhà dưỡng
lão của nhà nước. Điều đó gây ra lo ngại ngân sách chăm sóc điều dưỡng
sẽ phình to. Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi đã đẩy mạnh việc chăm sóc tại
nhà trong những năm gần đây và siết chặt tiêu chuẩn được vào nhà dưỡng
lão. Từ tháng 4/2015, việc nhập viện điều dưỡng được quy định từ cấp độ
3 trở lên.
Tập trung vào xây dựng thêm nhiều nhà trẻ (hiện Nhật Bản đang thiếu
nhà trẻ) là một công việc cực kỳ quan trọng. Việc cụ thể hóa vào việc
tăng tỷ lệ sinh là xây dựng thêm nhà trẻ là điều gần như toàn nhân dân
Nhật Bản mong muốn. Vì vậy Abenomics mới sẽ giải tỏa không chỉ tâm
lý, tinh thần cho mọi người dân Nhật Bản mà còn chuẩn bị cho tương lai
lâu dài.

4.3. Thành quả đạt được của 2 giai đoạn Abenomics


a) Abenomics 1.0
Sau hơn hai năm triển khai thực hiện 3 “mũi tên” của chính sách
Abenomics, đến nay, nền kinh tế Nhật Bản đã đạt được những kết
quả khả quan:
Thứ nhất, nền kinh tế bắt đầu tạm thoát khỏi suy thoái do tác
động tích cực của biện pháp nới lỏng tiền tệ mạnh mẽ và thúc đẩy
đầu tư công với chính sách tài khóa linh hoạt đã góp phần đáng kể
vào sự phục hồi của nền kinh tế Nhật Bản. Việc đồng Yên giảm giá
so với đồng USD khoảng 10% đã có tác động thúc đẩy tiêu dùng vì
sẽ thu hút được khách du lịch đến Nhật Bản vì tiêu dùng, mua sắm
tại Nhật Bản trở nên rẻ hơn. Bên cạnh đó, đồng yên Nhật yếu sẽ
thúc đẩy xuất khẩu vì hàng Nhật trở nên rẻ hơn. Theo thông báo
của Chính phủ Nhật, tốc độ tăng trưởng của kinh tế Nhật dạng
thích từng bước với 3 quý tăng trưởng dương liên tiếp 1.4%, 0.8%,
0.4%, trong 3 quý đầu năm 2013, và lại đạt được 1.3% vào quý 1
năm 2014 sau khi giảm xuống -0.3% trong quý 4/2013. Sau khi
việc tăng thuế tiêu thụ vào tháng 4/2014 gây tác động tiêu cực đến
tiêu dùng khiến tốc độ tăng trưởng GDP giảm sút trầm trọng trong
2 quý tiếp đó, ở mức âm 1.6% và âm 0.7%, nền kinh tế Nhật Bản
lại quay trở lại quĩ đạo phục hồi với mức tăng trưởng GDP đạt
0.4% vào quí 4/2014.

Một số chỉ số kinh tế khác về tiêu dùng, việc làm, tăng lương
(lương có mức tăng lớn nhất kể từ 10 năm trở lại đây) và chỉ số
chứng khoản đều cho thấy kinh tế Nhật Bản có dấu hiệu phục hồi.
Bên cạnh đó, tỷ lệ việc làm trên hồ sơ xin việc đạt mức cao nhất
trong 8 năm gần đây và mức tăng lương đạt tỷ lệ cao nhất trong cả
thập kỷ qua. Tỉ lệ thất nghiệp đạt mức thấp nhất từ năm 1997 tới
nay ở con số 3,5%. Tổng đầu tư ra nước ngoài đã tăng từ 9,8 nghìn
tỷ Yên năm 2012 lên 13,2 nghìn tỷ Yên năm 2013; số lượng các dự
án hạ tầng do các doanh nghiệp Nhật Bản thực hiện tăng lên gấp 3
lần khoảng 9 nghìn tỷ Yên; Năm 2013, số lượng khách nước ngoài
tới Nhật Bản lần đầu tiên đã vượt con số 10 triệu người, so với
2012, cán cân thanh toán trong dịch vụ vận tải lần đầu tiên đạt
thặng dư trong vòng 44 năm.

Thứ hai, thị trường chứng khoán có dấu hiệu khởi sắc, niềm tin
của các nhà đầu tư được củng cố. Những tháng đầu năm 2013 khi
bắt đầu thực hiện chính sách Abenomics, chỉ số Nikkei 225 liên tục
tăng điểm tới 35%. Sau một năm rưỡi triển khai chính sách
Abenomics, ngày 25/8/2014, chỉ số Nikkei 225 đã đạt 15.600 điểm.
Sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp (DN) Nhật Bản đã có
dấu hiệu hồi phục ngay khi triển khai kế hoạch Abenomics. Từ
mức 10.688 điểm hồi đầu năm lên ngưỡng 11.000 điểm
Sau hơn 2 năm thực hiện Abenomics, trong ngày giao dịch
02/03/2015, chỉ số này có lúc lên tới 18.939,17 điểm, là mức cao
nhất trong ngày giao dịch 15 năm qua kể từ tháng 4/2000. Qua đó,
góp phần quan trọng vào hạ giá đồng Yên trên thị trường hối đoái.

b) Abenomics 2.0
1. Tăng GDP

GDP thực tế đã tăng 6,3% so với trước Abenomics. Đặc biệt GDP
danh nghĩa sau 5 năm đã tăng trưởng hơn 10%, cho thấy suy thoái
kinh tế đã có sự chuyển biến chắc chắn.

Nền kinh tế Nhật Bản đã mở rộng 0,5% vào tháng Ba năm 2016, so
với ước tính ban đầu của tăng trưởng ở mức 0,4%.

5 năm sau khi Abenomics được thực thi lợi nhuận vận dụng quỹ lương
hưu công trong 5 năm nhiệm kỳ thứ 2 của thủ tướng Abe đã tăng lên
46 ngàn tỷ Yên, và quỹ lương hưu của khối doanh nghiệp đã tăng
thêm 29 ngàn tỷ Yên

Tiêu dùng cá nhân cũng đã tăng nhanh hơn dự kiến, trong khi chỉ tiêu
kinh doanh giảm thấp hơn nhiều so với dự kiến và chi tiêu chính phủ
và xuất khẩu là phù hợp với mong đợi.

Tốc độ tăng GDP ở Nhật Bản trung bình 0,48 phần trăm từ năm 1980
đến năm 2016, Mặc dù rất thấp, nhưng con số đó vẫn là tăng trưởng
dương.

2. Cán cân thương mại:


Riêng trong quý 2/2016, kim ngạch xuất khẩu danh nghĩa có giá trị
giảm 7,4% so
với cung quý năm 2015 (trong khi mức giảm của tháng 5 là 11,3%).
Do đồng yên tăng
mạnh và nhu cầu toan cầu đang đè nặng lên ngành sản xuất hướng
ngoại của Nhật Bản.Tuy nhiên, con số giá trị xuất siêu tuyệt đối vẫn là
thanh tích tốt nhất của Nhật Bản trong quý 2/2016 dẫn tới kim ngạch
mậu dịch đạt thặng dư.

3. Tạo thêm cơ hội việc làm


sau 5 năm thực hiện Abenomics tỷ lệ tuyển dụng tại Nhật Bản đã đạt
đến mốc cao vượt trội, và mức cao này cũng lần đầu diễn ra đồng
thời ở tất cả các địa phương trong cả nước, kể cả những khu vực như
Okinawa hay Kochi-ken.

4. Tỷ lệ thất nghiệp của Nhật Bản


Hiện tại tỷ lệ việc làm/ứng viên đang ở mức 1,56, có nghĩa là có sẵn
156 việc làm cho mỗi 100 lao động tìm việc, mức cao nhất trong gần
44 năm qua.
Tỷ lệ tuyển dụng của sinh viên tốt nghiệp đại học từ 93,9% tháng 4
năm 2013 đến tháng 4 năm 2018 là 98%, trong đó tỷ lệ nữ tốt nghiệp
đại học được tuyển dụng là 98,6, nam là 97,5, khối khoa học tự nhiên
là 97,2%, khối khoa học xã hội là 98,2%. Đây là tỷ lệ tuyển dụng ở
mức cao nhất từ trước đến nay. Trước đây vốn dĩ tại Nhật Bản có một
tình trạng là sinh viên tốt nghiệp vào kỳ tuyển việc đầu năm tài chính
(1/4 hàng năm) không xin được việc làm và phải tìm việc làm thêm
tạm bợ. Giờ đây những thanh niên này có thể một lần nữa thi tuyển
việc với cơ hội tăng hơn trước. Khi gần 100% công dân có việc làm,
giới trẻ Nhật Bản cũng có thể kỳ vọng nhiều hơn ở tương lai.

5. Tạo môi trường để lao động nữ có thể phát huy năng lực
Sau 5 năm thực hiện Abenomics, số sinh viên nữ tốt nghiệp đại học
có việc làm đã tăng thêm 1.520.000 người. Liên quan đến việc tăng
cường các dịch vụ và cơ sở hạ tầng chăm sóc trẻ em, trong thời gian
này cũng đã có thêm 600.000 chỗ học tại nhà trẻ và mẫu giáo, giúp
giảm số lượng trẻ phải chờ suất để được  gửi vào các nhà trẻ, mẫu
giáo.

6. Gia tăng xuất khẩu

Có thể nói xuất khẩu của Nhật Bản là một chìa khóa cho sự phục hồi
kinh tế đất nước trong những năm gần đây. Đồng Yên giảm giá
khoảng 30% trong thời gian qua cũng giúp cho giá hàng hóa xuất
khẩu của Nhật Bản, đặc biệt là ô tô và sản phẩm điện tử… nâng cao
được khả năng cạnh tranh trên các thị trường nước ngoài, đặc biệt là
châu Âu và Mỹ. Đến tháng 6/2018 xuất khẩu của Nhật đã tăng tháng
thứ 19 liên tiếp bất chấp sự gia tăng căng thẳng trong thương mại
quốc tế thời gian gần đây.
7. Chỉ số Nikkei
Một trong những hiệu quả chắc chắn mà Abenomics mang lại chính là
thúc đẩy thị trường chứng khoán Nhật Bản tăng trưởng, chỉ số Nikkei
đã tăng 22.865 Yên (giá đóng cửa ngày 1/9/2018). Vào đầu 2018, chỉ
số Nikkei từng đạt tới mức trên 24.000 Yên. Đây là lần đầu tiên chỉ số
chứng khoán Nhật Bản quay trở lại ngưỡng 24.000 Yên của 26 năm
trước đây.

Chỉ số Nikkei Flash quản lý thu mua sản xuất (PMI) tăng 47 từ quý
1/2016 (báo cáo trước đó la 46.5) đến 49,0 trong quý 3.

Thống kê trên cho thấy rằng, mặc dù vẫn còn ở dưới 50, song các đơn
đặt hàng mới và cổ phiếu mua hàng được cải thiện so với quý trước rất
nhiều. Tuy có tác động rất ít nhưng là điểm tích cực cho nền kinh tế
Nhật Bản phát triển.

5. Những mặt hạn chế trong 2 giai đoạn của chính sách Abenomics
a) Abenomics 1.0: mặt hạn chế của Abenomics 1.0 đó là:
Ba mũi tên của Abenomics có hiệu ứng lan tỏa không đều: Khi chính
sách được tập trung và chịu áp đặt mạnh mẽ từ sự chủ quan của
Abenomics, đặc biệt các tác động rực rỡ có thể thấy từ chính sách tiền tệ
và tài khóa lại mang tính tạm thời về kinh tế vĩ mô mà chưa có sự phục
hồi bền vững bên trong, bởi thiếu những bước đột phá ngoạn mục qua
hàng loạt các cải cách.

- Mặt hạn chế của chính sách tiền tệ có ba điều: thứ nhất là:

1. Lượng cung tiền bị phá vỡ liên tục do bị kiểm soát một cách
chủ quan và tạm thời đã gây ra nỗi lo cho người dân và đánh
mất sự tín nhiệm từ họ đối với Ngân hàng,
điều này được giải thích như sau:

Vốn dĩ sự độc lập của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đối với việc
giám sát chính sách tiền tệ đã được ghi nhận trong pháp luật. Song Thủ
tướng Shinzo Abe muốn can thiệp vào sự độc lập này để có thể nhanh
chóng quản lý được sự thay đổi trong chính sách tiền tệ - vì vậy ông đã
tạo áp lực chính trị thông qua sự luân chuyển một thống đốc mới và hai
thành viên của Hội đồng Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.

Bằng các mệnh lệnh hành chính, ngay lập tức, Abenomics được hậu
thuẫn cho việc xác lập cơ sở quyết định lượng cung tiền ra thị trường với
một mục tiêu mới rõ ràng. Cung tiền vào lưu thông đã được tăng gấp đôi
từ 138 nghìn tỷ yên vào cuối năm 2012 đến 270 nghìn tỷ yên vào cuối
năm 2014 không kể lãi suất phát triển như thế nào.

Vì vậy, lượng tiền cơ sở đã tăng hơn gấp đôi, gần 60% khác hẳn với
thông lệ quốc tế khi con số này chỉ từ 5 – 10% là phổ biến. Điều này cho
thấy Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã tạo ra mức sàn mới về lượng
cung tiền. Chính sách tiền tệ mang tính định lượng này được thực hiện
bằng cách mua trái phiếu của chính phủ Nhật Bản, bao gồm cả trái phiếu
dài hạn trong vòng sáu tháng đến tám năm, để tác động đến lãi suất thị
trường vốn dài hạn một cách hiệu quả. Từ đó thúc đẩy giảm tỷ lệ lãi suất
dài hạn và chính sách lãi suất âm, hỗ trợ phát triển tài sản hữu hình và chế
áp tỷ giá hối đoái của đồng yên theo hướng giảm giá mạnh có chủ định.
Và quá trình mở rộng tiền tệ trên đã khiến tỷ lệ lạm phát được đo bằng
chỉ số giá tiêu dùng (CPI) thực sự trở về con số tích cực. Trong tháng 4
năm 2014 nó đạt đỉnh 2,1%. Nhưng sau đó tỷ lệ lạm phát đã quay đầu
giảm một lần nữa theo hướng trở lại hiện tượng giảm phát và cùng với đó
là làm giảm độ tin cậy của các ngân hàng Nhật Bản vào giải pháp cung
tiền hướng tới mục tiêu lạm phát 2% của Ngân hàng Trung ương Nhật
Bản.

2. điều thứ 2 là Chính sách không đủ sức chống chọi khi gặp
những biến động đến từ phản ứng tiêu cực về việc tăng lãi suất
không đúng lúc trong chính sách Abenomics và việc giảm giá
dầu của thế giới:

Chính việc tăng thuế có hiệu lực vào ngày 1 tháng 4 năm 2014, tiêu
dùng cá nhân và hoạt động doanh nghiệp đã đi vào một trạng thái cực
đoan nhất. Trong hai quý tiếp theo, nền kinh tế trượt vào vùng tiêu cực.
Một lần nữa Nhật Bản nhận thấy quốc gia lại rơi vào tình trạng tạm thời
suy thoái. Theo thống kê nhanh của Văn phòng Nội các, vào năm 2014,
GDP của Nhật Bản chỉ duy trì mức của năm trước (+ 0,0%). Rõ ràng việc
vội vàng giải quyết bài toán cân bằng ngân sách thông qua việc tăng thuế
tiêu dùng đưa ra lúc này không phải là một sự lựa chọn thích hợp mà nó
chính là liều thuốc độc giết chết sự hồi phục yếu ớt của nền kinh tế. Đặc
biệt nó sẽ có tác động tiêu cực lên tâm lý thị trường của người tiêu dùng
lẫn khu vực sản xuất. Xu hướng tăng thuế là tất yếu, song không phải thời
điểm này.

Trong khi thực tế chiến lược tái cơ cấu kinh tế vẫn chưa phát huy được
hiệu quả về kinh tế mà Abe đã đặt ra thì giá dầu lại có khuynh hướng đi
xuống, kéo theo đó là tỷ lệ lạm phát giảm và trở lại trong vùng tiêu cực,
đạt - 0,4% vào tháng 5/2014. Cùng thời gian này, nền kinh tế không cho
thấy sự thích ứng với biến động bởi hộ gia đình không có đủ sức mua cần
thiết để thúc đẩy tiêu dùng vì vốn dĩ họ chưa có được sự kích thích tài
chính hiệu quả từ lúc đầu. Khi mà năm 2014 và 2015, tiền lương thực tế
của họ đã bị ảnh hưởng theo xu hướng của việc giảm giá chung., hơn nữa
lạm phát tăng phần nào cộng thêm tiền lương danh nghĩa chững lại hoặc
chỉ tăng không đáng kể vào năm 2014. Thêm vào đó là sự mất giá của
đồng yên và giảm mạnh lãi suất tiền gửi tiết kiệm và rõ ràng trong điều
kiện này, tiêu dùng khó có thể được thúc đẩy sớm.

3. điều thứ 3 là Việc áp dụng chính sách tiền tệ theo quan điểm
chủ quan của Nội Các Abe theo lý thuyết Keynes để kích thích
tăng trưởng kinh tế tuy có thể khắc phục được cấu trúc kinh tế
và giải quyết các vấn đề dài hạn nhưng lại đối mặt với các rủi
ro khác như sau:

Khi mở rộng tiền tệ quá nhanh thì sẽ khó quản lý nợ và vay, cũng như
đã đề cập, các gói kích thích kinh tế nhằm tăng chi tiêu công của Chính
Phủ đã dẫn đến thâm hụt ngân sách nhà nước, khi vốn dĩ nợ công Nhật đã
đạt 245% vào năm 2010 và từ các năm 2011 đến năm 2015 luôn giữ trung
bình trên 200% so với GDP.
Trong khi đó 1.các công ty Nhật lại không được tài trợ qua cổ phiếu mà
vẫn bị kiểm soát qua các khoản vay ngân hàng nên dù lãi suất có thấp
nhưng lại không có sự tăng lên trong tín dụng các khoản vay của doanh
nghiệp.
Thêm vào đó, 2.Lưu thông tiền tệ đang kém và chậm với thực trạng là
thu nhập thực tế và sức mua của người dân giảm do tiền lương trì trệ, cho
thấy sự khó khăn trong kiểm soát vận tốc tiền tệ của chính phủ bằng
chính sách tiền tệ vì lo ngại lạm phát.
Hơn nữa, 3.việc bơm lượng lớn tiền mặt vào lưu thông tiền tệ không chỉ
gây sự giảm giá đột ngột về đồng yên khiến cho dễ kích động cuộc chạy
đua phá giá tiền tệ dẫn đến nguy cơ bong bóng đầu cơ gia tăng, đồng thời
ảnh hưởng đến uy tín của Ngân Hàng trong việc in tiền để thúc đẩy lạm
phát.

- mặt hạn chế của chính sách tài khóa:


Điều dễ nhìn thấy là với năm 2013, khi chi tiêu bổ sung vốn ngân sách
đã kích thích được nền kinh tế và tạo đà phát triển cho các năm tiếp theo,
thì ngược lại, vào năm 2014 chính sách tài khóa đã tập trung vào việc
củng cố lại ngân sách. Sự gia tăng nói trên trong thuế tiêu thụ dẫn đến
một vụ “tai nạn” kinh tế là sự thiếu hụt trong thu thuế và thâm hụt ngân
sách quốc gia đạt 7,1% - bằng với mất hơn 1% của GDP - so sánh với
năm 2013 là 8,3%. Nợ quốc gia gộp lại từ các năm trước 2014 tăng lên
mức kỷ lục 245% so với GDP. Khi đó chính sách tài khóa một lần nữa
mở rộng. Điều này càng tạo thế chồng chéo và phức tạp giữa kế hoạch và
mục tiêu ưu tiên cần đạt trong những năm sắp tới khiến nó khó xác định
và không khả thị trong việc tiếp tục triển khai một cách hiệu quả các
chính sách của Abenomics.

- mặt hạn chế của chiến lược cải cách cơ cấu kinh tế đó là :
Khi Abenomics được triển khai, số lượng lao động Nhật Bản đạt mức
cao mới trong năm 2014. Tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống còn 3,4% trong
tháng 12 năm 2014. nhưng Nhược điểm của xu hướng tích cực này trong
thị trường lao động là việc làm toàn thời gian đã giảm trong hơn hai mươi
năm qua. Trong giai đoạn này, 21% lao động nam và 55% lao động nữ
cảm thấy họ đang ở trong điều kiện việc làm nhiều hơn hoặc ít hơn so với
với bình thường. chính điều này đã tạo tâm lý e ngại về sự bấp bênh, dẫn
đến tìm kiếm cơ hội việc làm mới đối với những lao động bán thời gian
ngày càng lớn. Họ kiếm được thu nhập ít hơn đáng kể so với người lao
động làm việc toàn thời gian, lại không được bảo vệ khi chống lại sa thải
và việc họ tiếp cận đến các lợi ích phúc lợi xã hội bị hạn chế. Sự gia tăng
việc làm bán thời gian là một phần nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm tiền
lương thực tế và làm chậm năng suất lao động của Nhật Bản. Nếu không
có một sự bảo đảm việc làm dài hạn, các công ty không muốn đầu tư vào
đào tạo và giáo dục nguồn lao động mới. Khi các công ty gặp khó khăn
về chi phí hoặc duy trì lợi thế cạnh tranh của họ, họ thay thế người lao
động toàn thời gian bằng người lao động bán thời gian thay vì đầu tư vào
các biện pháp để tăng năng suất.

Chính quyền Abe đã bắt đầu một loạt các cải cách về cơ cấu và khu
vực, nhưng cho đến nay vẫn chưa có bước đột phá ngoạn mục để có thể
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, khuyến khích tăng trưởng tiềm
năng. Thay vào đó, quá trình cải cách chỉ ở mức theo sau các mức của
năm trước với tốc độ chậm, tuy không có dấu hiệu dừng lại nhưng lại
không kịp thích ứng chung với 2 mũi tên chính sách còn lại và vẫn còn
thua xa các nước khác trong khu vực cụ thể như Trung Quốc. Các biện
pháp được giới thiệu cho đến nay bao gồm tự do hóa việc thu hồi đất,
nhằm tạo điều kiện cho việc tạo ra các vùng nông nghiệp lớn hơn, có lợi
hơn; việc mở rộng các trung tâm chăm sóc trẻ em trong và sau giờ học;
thành lập sáu khu kinh tế đặc biệt điều chỉnh bởi pháp luật lao động và
phân vùng tự do; thúc đẩy xuất khẩu và đầu tư nước ngoài; soạn thảo
code quản trị doanh nghiệp theo mô hình Anh; giới thiệu tiết kiệm cá
nhân chiếm tỷ trọng như một trụ cột mới của bảo hiểm hưu trí. Nhưng
thực tế nhịp độ tiến triển của các kế hoạch trên trong mũi tên cải cách cơ
cấu diễn ra chậm chạp, mặc dù nếu làm tốt từ đầu sẽ có tác động rất tích
cực tới khả năng làm hồi sinh nền kinh tế.

Mặc dù do hoàn cảnh thị trường quốc tế đương thời đang gặp khủng
hoảng, suy thoái dẫn tới cán cân thương mại của Nhật Bản đã chìm sâu
trong màu đỏ tại thời điểm năm 2014, với mức thâm hụt 108 tỷ USD. Tuy
nhiên, tài khoản hiện tại đã hiển thị 45 tỷ USD thặng dư do tăng tài sản
đáng kể từ nước ngoài. Cơ cấu thặng dư thương mại đến nay đã trở thành
huyền thoại của Nhật Bản do siêu cấu trúc. Ba yếu tố sau là nguyên nhân
của sự phát triển này.
Thứ nhất, các công ty Nhật Bản chuyển giao 20% sản xuất của họ ra
nước ngoài và không quan tâm về chi phí cũng như marketing.
Thứ hai, các nhà máy điện hạt nhân đã được đóng cửa sau thảm họa
Fukushima và đã được thay thế bởi các loại nhiên liệu hóa thạch nhập
khẩu.
Và thứ ba, với những lý do này, sự mất giá của đồng yên hiện nay có
tác động vào xuất khẩu của Nhật Bản yếu hơn so với nó đã làm trong quá
khứ. Đồng yên mất giá 36% so với đồng USD (từ đầu năm 2013 đến cuối
năm 2014) đã dẫn đến thặng dư xuất khẩu, nhưng nhập khẩu cũng tăng
lên.
Kết quả là không có lợi ích ròng thu được từ xuất khẩu.

b) Abenomics 2.0
thứ 1 đó là Kỳ vọng tăng trưởng GDP đột phá thiếu thực tế của Abe qua
những mục tiêu đầy tham vọng:

Sau khi tái đắc cử chức Chủ tịch Đảng Dân chủ tự do (LDP) cầm
quyền, Thủ tướng Shinzo Abe đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP lên mức
600 nghìn tỷ yên . Nếu điều này trở thành hiện thực, nền kinh tế Nhật
Bản sẽ có quy mô lớn nhất kể từ sau Chiến tranh Thế giới thứ 2.
Thế nhưng, mục tiêu này dường như quá tham vọng khi trong quý 2
vừa qua, nền kinh tế Nhật Bản đã tăng trưởng âm 1,6% so với cùng kỳ
năm trước. Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế, nếu nền kinh tế đạt
tốc độ tăng trưởng kinh tế 2%-3%, mức được coi là khả quan nhất trong
điều kiện hiện nay, thì phải đến năm 2021 GDP Nhật Bản mới cán mốc
600 nghìn tỷ yên, trong khi nhiệm kỳ của ông Abe sẽ kết thúc vào năm
2018.
Bên cạnh đó, theo số liệu thống kê được công bố ngày 25/9,Tỷ lệ lạm
phát lõi được đo bằng chỉ số giá tiêu dùng còn gọi là CPI lõi) trong
tháng 8 của nước này giảm 0,1%, lần đầu tiên kể từ tháng 4 năm 2013.
CPI giảm cho thấy sức mua của người tiêu dùng vẫn còn yếu ớt, ảnh
hưởng tiêu cực tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó đồng
nghĩa với việc chính phủ vẫn còn phải đối mặt với không ít thách thức
nhằm ngăn chặn tình trạng giảm phát của nền kinh tế, cũng như đẩy mạnh
sự phát triển của các doanh nghiệp nội địa.

-hạn chế thứ hai trong chính sách abenomics 2.0 này là Sự bất khả
thi trong việc ngăn chặn đà giảm và già hóa dân số:
Thủ tướng Nhật Bản đã cam kết sẽ hỗ trợ tài chính cho các gia đình và
đề ra mục tiêu tăng tỷ lệ sinh từ mức 1,4 trẻ/ bà mẹ lên mức trung bình
1,8 trẻ/ bà mẹ. Tờ Nikkei đặt câu hỏi, nguồn tiền mà chính phủ cam kết
để hỗ trợ tăng tỷ lệ sinh sẽ lấy từ đâu, sau khi phải chi tiền hỗ trợ hàng
triệu người cao tuổi?
Chuyên gia phân tích Masamichi Adachi tại ngân hàng JP Morgan, chi
nhánh Tokyo nhận định: “Ông Shinzo Abe đã khẳng định trọng tâm trong
các chính sách của mình là kinh tế, để mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho
tất cả mọi người. Chẳng có gì là sai khi đặt ra mục tiêu như vậy, nhưng
làm thế nào để đạt được mục tiêu lại là một câu chuyện khác”.
Việc gia tăng chi tiêu công vào lĩnh vực dân số sẽ khiến nợ công của
Nhật Bản, vốn đang ở mức 245% GDP, có thể tiếp tục phình to hơn nữa.
IMF cảnh báo, nếu không có những biện pháp kiểm soát chi tiêu, gánh
nặng nợ công của chính phủ Nhật Bản có thể sẽ tăng gấp 3 lần vào năm
2030.

- thứ ba là Mối lo trong việc cải thiện an sinh xã hội: xuất phát từ
nghịch cảnh số lượng người già tăng cao nhưng nguồn lao động và
ngân sách lại có hạn
Theo số liệu do Bộ Nội vụ Nhật Bản công bố, tính đến ngày 15/9/2015,
cả nước Nhật có khoảng 10 triệu người trên 80 tuổi, chiếm 7,9% dân số.
Số lượng người trên 65 tuổi cũng chạm mức cao kỷ lục là 33,84 triệu,
chiếm 26,7% dân số.
Theo Thủ tướng Abe, đến năm 2020, xã hội Nhật Bản có thêm khoảng 8
triệu người, những người được sinh ra trong giai đoạn bùng nổ tỷ lệ sinh
1947 - 1949, sẽ bước vào tuổi 70. Mà hệ thống nhà dưỡng lão chăm sóc
người già sẽ không đáp ứng đủ nhu cầu nếu như không được cải thiện và
chuẩn bị ngay từ bây giờ.
Trong trường hợp đó, những người được sinh ra trong giai đoạn 1971 -
1974, là con của thế hệ bùng nổ tỷ lệ sinh, đang trong thời kỳ làm việc tốt
nhất, phải nghỉ việc để chăm sóc cha mẹ. Nếu như vậy thì nền kinh tế và
xã hội Nhật Bản sẽ sụp đổ.
Theo số liệu điều tra của Bộ Thông tin và các Vấn đề Đối nội (2015),
tình trạng thiếu hụt nhà dưỡng lão đã làm tăng mạnh áp lực lên số người
già cần chăm sóc, khoảng 150.000 người, hầu hết ở cấp độ 3 (trong hệ
thống 5 cấp độ) hoặc cao hơn, tức là không tự chăm sóc được bản thân,
cần sự hỗ trợ đặc biệt. Tình trạng này kéo theo thực tế hàng năm có
khoảng 100.000 người trong độ tuổi lao động bỏ việc để chăm sóc cha mẹ
già.
Trước thực trạng này, ông Abe cam kết sẽ xây dựng thêm nhiều nhà
dưỡng lão để ngăn chặn tình trạng người dân trong độ tuổi lao động phải
nghỉ việc để chăm sóc bố mẹ già, gây ra tình trạng thiếu hụt lao động, làm
giảm động lực phát triển kinh tế. Tuy nhiên, theo Bộ Y tế, Lao động và
Phúc lợi xã hội Nhật Bản, nước này sẽ cần hơn 2,5 triệu lao động xây
dựng và làm việc trong các nhà dưỡng lão, khiến nguy cơ thiếu hụt lao
động trong nền kinh tế có thể sẽ thêm trầm trọng, đó là chưa kể tới sức ép
lớn đối với nguồn ngân sách dành cho an sinh xã hội khi chính phủ tăng
chi tiêu vào việc xây dựng nhà dưỡng lão, chăm sóc y tế và chi trả bảo
hiểm cho người già.

6. Tác động bên ngoài của chính sách kinh tế Abenomics lên chính
trị, ngoại giao và xã hội Nhật Bản
1.1 Ổn định chính trị nội bộ
Thủ tướng Shinzo Abe đã đạt được mục đích giữ vững ổn định trong
quốc hội khi giành chiến thắng trong cuộc bầu cử Thượng viện năm 2013
và 2016.
Thủ tướng Shinzo Abe đã vận dụng hiệu quả chiêu bài giải tán Hạ viện
bầu cử sớm theo điều 7 Hiến pháp Nhật Bản. Hiến pháp không quy định
điều kiện giải tán mà xác định theo sự đồng ý của Nội các, Nhật Hoàng
có thể thay mặt nhân dân thực hiện quyền giải tán Hạ viện.
Tháng 9/2017, Thủ tướng Shinzo Abe tiếp tục quyết định giải tán Hạ
viện để tổ chức bầu cử sớm hơn so với kế hoạch 1 năm. Kết quả, liên
minh đảng cầm quyền Dân chủ Tự do và Công minh chiến thắng áp đảo
từ đó dành được quyền nghị luận về vấn đề sửa đổi Hiến pháp.
Với những thắng lợi trong các cuộc bầu cử Thượng viện và Hạ viện từ
năm 2013 đến nay, chính quyền Thủ tướng Abe đã thực hiện được mục
tiêu chấm dứt một quốc hội chia rẽ và bảo đảm ổn định chính trị cho Nhật
Bản vốn đã trải qua 7 đời thủ tướng từ năm 2006 đến năm 2012.

1.2 Tăng cường sức mạnh quân sự


Trước những bất ổn trong mối quan hệ với Triều Tiên và Trung Quốc.
Nhật Bản đã không còn muốn dựa vào “chiếc ô” quân sự của Mỹ và
nhằm thực hiện điều đó Shinzo Abe đã đưa ra những chính sách táo bạo
nhằm củng cố và phát triển lực lượng phòng vệ Nhật Bản.
Nguồn kinh phí quốc phòng chủ yếu được phân bổ trong hai vấn đề
chính. Thứ nhất là dùng để phát triển chương trình tên lửa với mục tiêu
phòng thủ, thứ hai là dùng để thành lập Hội đồng An ninh Quốc gia Nhật
Bản.

1.3 Sửa đổi hiến pháp


Với chiến thắng áp đảo trong cuộc bầu cử Thượng viện diễn ra ngày
21/7/2013, chính quyền Abe đã thực hiện được mục tiêu chấm dứt một
quốc hội chia rẽ và bảo đảm ổn định chính trị cho Nhật Bản. Điều này
giúp cho chính quyền của Thủ tướng Abe có thể triển khai việc sửa đổi
Hiến pháp theo hướng gỡ bỏ hạn chế về quốc phòng và hoạt động quân
sự của Nhật Bản ở nước ngoài.
Ở trong nước, ý đồ sửa đổi Hiến pháp của Thủ tướng Abe chưa có được
sự nhất trí hoàn toàn của Đảng Công minh thuộc liên minh cầm quyền.
Các đảng khác có tư tưởng sửa đổi Hiến pháp cho rằng việc sửa đổi có
thể dẫn tới cho phép sử dụng vũ lực ngoài lãnh thổ, không phận và lãnh
hải (của Nhật Bản). Nếu đã khởi xướng việc sửa đổi thì khó có thể rút lại
Chính quyền Thủ tướng Shinzo Abe nỗ lực tìm cách xóa bỏ hạn chế của
điều 9 Hiến pháp hòa bình đối với việc phát triển lực lượng quân sự và sử
dụng vũ lực. Trong bối cảnh điều kiện sửa đổi Hiến pháp còn gặp nhiều
khó khăn, cách diễn giải Hiến pháp cho phép sử dụng quyền phòng thủ
tập thể là phù hợp với tình hình thực tế của Nhật Bản.
1/7/2014, Nội các Nhật Bản đã chính thức thông qua “Quyết định của Nội
các về Phát triển Luật an ninh để đảm bảo sự tồn tại của Nhật Bản và bảo
vệ người dân”.
Chính phủ quy định trong luật dự thảo rằng, về nguyên tắc trước khi chỉ
thị cho Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản dùng vũ lực, cần có sự phê chuẩn
của quốc hội. Tuy nhiên, diễn giải mới không cho phép Lực lượng phòng
vệ Nhật Bản được sử dụng quyền này trong mọi trường hợp. Luật mới
này mở rộng vai trò của Lực lượng Phòng vệ, cho phép Nhật Bản thực thi
quyền phòng thủ tập thể.
Trên bình diện quan hệ quốc tế, luật an ninh mới làm tăng cường liên
kết quốc tế mà trước hết là quan hệ đồng minh Nhật - Mỹ. Đồng thời là
đường hướng để Nhật Bản có thể đóng góp hơn nữa cho việc duy trì hòa
bình và ổn định của thế giới thông qua hỗ trợ nhân đạo và hỗ trợ quân sự
cho các nước khác.
Có thể thấy, lập trường của chính quyền Abe nhất quán rằng luật an ninh
quốc gia mới là cần thiết để bảo vệ người dân Nhật Bản, đảm bảo một
cuộc sống hòa bình và ngăn chặn chiến tranh.

a) Về mặt ngoại giao


2.1 Quan hệ Nhật-Mỹ
Quan hệ Nhật - Mỹ đã chứng minh độ bền vững trong hơn 7 thập kỷ
qua.
Năm 2014, Tổng thống Barack Obama đã đến Tokyo. Cuộc gặp diễn ra
trong thời điểm quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ đang khá tốt đẹp song hai
bên bắt đầu có thái độ hoài nghi. Các chính trị gia Nhật Bản muốn thấy
Mỹ thực sự có hành động trước các hành động của Trung Quốc tại khu
vực châu Á - Thái Bình Dương trong khi Mỹ cho rằng Nhật Bản đang
muốn xích lại gân Nga. Dường như quan chức Mỹ nghĩ rằng Nhật lo sợ
ảnh hưởng của Mỹ đang yếu đi và bắt đầu tự mình hành động.
Mọi nghi ngờ dường như được giải tỏa khi tuyên bố chung Nhật - Mỹ
được công bố sau hội nghị thượng đỉnh. Tuyên bố khẳng định Mỹ và
Nhật Bản cam kết thực hiện các biện pháp mạnh mẽ cần thiết để hoàn
thiện một thỏa thuận TPP toàn diện. Lần đầu tiên một vị Tổng thống Mỹ
khẳng định quân đội Mỹ có bổn phận bảo vệ quần đảo Senkaku. Điều này
khẳng định quan hệ liên minh song phương Nhật - Mỹ được củng cố, thắt
chặt hơm nữa.
Tổng thống Mỹ Donald Trump đã đến thăm Nhật Bản trong năm 2017.
Sang năm 2018, Thủ tướng Abe đã nhiều lần gặp gỡ trực tiếp với Tổng
thống Donald Trump để thảo luận về tình hình bán đảo Triều Tiên và
thương mại song phương 2 nước.
Năm 2017, Tổng thống Mỹ Donald Trump đưa ra cụm từ “Ấn Độ - Thái
Bình Dương” (Indo - Pacific) với mục đích kết nối địa chính trị của Ấn
Độ với châu Á - Thái Bình Dương. để xây dựng hệ thống kinh tế và trật
tự thế giới lấy Mỹ làm trung tâm, tăng cường liên kết với các quốc gia
khác trên cơ sở quan hệ liên minh Nhật - Mỹ.
Chiến lược xoay trục sang châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ vẫn tiếp
tục nhưng được mở rộng với cái tên mới Ấn Độ - Thái Bình Dương. Đối
với Mỹ, Nhật Bản là cứ điểm quan trọng để triển khai sức mạnh quân sự,
nên liên minh Nhật - Mỹ giữ vai trò quan trọng trong tiến trình này.
Trong những năm tới đây Nhật Bản là đồng minh thân cận sẽ giúp Mỹ
phát huy vai trò chủ đạo và thực hiện chiến lược Ấn Độ - Thái Bình
Dương, đối trọng với chiến lược “Một vành đai một con đường” của
Trung Quốc.

2.2 Quan hệ Nhật – Trung


Năm 2010, Trung Quốc chính thức soán ngôi Nhật Bản, trở thành cường
quốc thứ hai trên thế giới. Thêm vào đó, quan hệ Nhật - Trung trở nên
xấu đi liên quan đến va chạm giữa tàu cá Trung Quốc với tàu tuần tra
Nhật Bản và sự kiện Nhật Bản quốc hữu hóa quần đảo Senkaku/Điếu
Ngư vào năm 2012, Thời điểm Thủ tướng Abe trở lại cầm quyền lần thứ
hai gần như trùng với việc ông Tập Cận Bình trở thành lãnh đạo tối cao
của Trung Quốc. . Trong tương quan với Nhật Bản, những hành động của
Trung Quốc thể hiện rõ trên vùng biển Hoa Đông và Biển Đông khiến
Tokyo quan ngại. Dù vậy, Nhật Bản và Trung Quốc là hai quốc gia láng
giềng có nhiều lợi ích chung với nhau. Nhật Bản cần Trung Quốc để theo
đuổi mục tiêu nước lớn chính trị, đồng thời Bắc Kinh là thị trường lớn
đầy tiềm năng. Trung Quốc cũng cần Nhật Bản để đảm bảo môi trường
bên ngoài thuận lợi cho công cuộc hiện đại hóa đất nước. Do đó, những
điều chỉnh chính sách đối với Trung Quốc của Nhật Bản thể hiện rõ trên
hai mặt: một mặt thể hiện sự đối trọng và phòng ngừa, mặt khác cải thiện
quan hệ ngoại giao với Trung Quốc.

2.3 Quan hệ Nhật – Triều Tiên


Về an ninh: Năm 2018, Triều Tiên tuyên bố đã thành công trong việc
chế tạo tên lửa xuyên lục địa mang đầu đạn hạt nhân và sẽ không phát
triển chương trình tên lửa và hạt nhân nữa, song với vũ khí hiện có hoàn
toàn có thể là nguy cơ với Nhật Bản. Khi chưa có hiệp định hòa bình trên
bán đảo Triều Tiên thì Nhật Bản vẫn coi Triều Tiên là mối đe dọa an ninh
lớn nhất. Nếu xung đột xảy ra thì hậu quả đối với Nhật Bản sẽ nghiêm
trọng hơn bất kỳ cuộc chiến ở châu Á nào.
Về chính trị: Tuy gập nhiều bất lợi do những vấn đề lịch sử trong Chiến
tranh thế giới thứ hai dẫn đến sự muộn màng trong quan hệ ngoại giao,
Nhật Bản đang nỗ lực xác lập vai trò chính trị và ảnh hưởng của mình với
Triều Tiên. Nếu thành công, vị thế của Nhật Bản với các nước lớn sẽ
được nâng lên đáng kể. Rõ ràng, bán đảo Triều Tiên là nơi Nhật Bản có
thể tìm kiếm vai trò chính trị tương xứng với sức mạnh kinh tế của mình
sau Chiến tranh Lạnh.
Về kinh tế: Hiện nay, Nhật Bản là bạn hàng lớn của Hàn Quốc và quan
hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa hai nước ngày càng sâu sắc. Triều Tiên là nơi
nhiều tiềm năng về thị trường và tài nguyên và là nơi Nhật Bản muốn mở
rộng ảnh hưởng của mình trong tương lai.
Nhật Bản mong muốn bán đảo Triều Tiên không có xung đột, song lại
không mong muốn hai miền sớm đi vào thống nhất một cách nhanh
chóng.
Đối với Nhật Bản, chủ trương chính sách hai miền Triều Tiên cùng tồn
tại, nhưng hòa bình và ổn định, như là một thời kỳ quá độ trước khi đạt
được thống nhất là phù hợp với lợi ích an ninh, kinh tế, chính trị của nước
này.
=> Có thể thấy, sách Xanh ngoại giao Nhật Bản xác định chính sách của
Nhật Bản đối với Triều Tiên là “gây áp lực và đối thoại”. Về cơ bản vẫn
là tăng cường gây áp lực buộc Triều Tiên từ bỏ đổi chương trình tên lửa
hạt nhân và đồng thời mở cơ hội đối thoại qua ngoại giao.

2.4 Quan hệ giữa Nhật Bản và Đông Nam Á


Thủ tướng Shinzo Abe đã đề xuất 5 nguyên tắc cơ bản của quan hệ giữa
Nhật Bản và ASEAN:
1. Cùng các nước ASEAN xây dựng và mở rộng các giá trị phổ quát,
như quyền cơ bản của con người, chủ nghĩa dân chủ, tự do.
2. Cùng các nước ASEAN bảo vệ vùng biển mở và tự do, đảm bảo
tính thượng tôn của pháp luật chứ không phải bằng vũ lực, đồng
thời hoan nghênh sự chú trọng châu Á của Mỹ.
3. Tích cực thúc đẩy đầu tư thương mại như dịch vụ, nguồn nhân lực,
qua mạng lưới liên kết kinh tế đa dạng, thúc đẩy phục hồi kinh tế
Nhật Bản, xây dựng sự thịnh vượng chung với ASEAN.
4. Cùng ASEAN nuôi dưỡng và gìn giữ truyền thống văn hóa đa
dạng của châu Á.
5. Thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau, giao lưu văn hóa của thế hệ tương lai.

Các định hướng trong chiến lược chủ đạo chính sách an ninh mới của
Nhật Bản với Đông Nam Á là:
1. Tăng cường quan hệ đồng minh, ủng hộ chiến lược “xoay trục”
của Mỹ sang châu Á
2. Tăng cường hợp tác an ninh và quốc phòng thông qua cơ chế đa
phương
3. Tăng cường hợp tác an ninh hàng hải đối với các nước ASEAN
4. Can dự mạnh mẽ trong vấn đề Biển Đông.

Tại Hội nghị Shangri-La diễn ra ở Singapore (năm 2014), Thủ tướng
Nhật Bản Shinzo Abe đã cam kết “để đóng góp nhiều hơn nữa, tích cực
hơn nữa cho hòa bình, ổn định ở châu Á, Nhật Bản sẽ hỗ trợ tối đa cho
các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)”.

b) Về mặt xã hội
3.1 Phát triển theo khu vực địa phương
Ngày 03/9/2014, Thủ tướng Abe đã công bố một loạt chính sách liên
quan đến phát triển địa phương. Đây cũng được coi là chính sách
“Abenomics địa phương”.
Tháng 9/2014, Chính quyền Abe đã xây dựng “Chiến lược tổng hợp
phát triển sáng tạo khu phố, con người, công việc”. Tháng 11/2014, “Luật
phát triển sáng tạo khu phố, con người, công việc” được thông qua.
Mục tiêu của chiến lược trong giai đoạn 2015 - 2019 là
1. Tạo ra việc làm và môi trường yên tâm làm việc tại các địa
phương
2. Tạo ra dòng người mới đổ về các địa phương
3. Tăng cường liên kết địa phương.

Chính phủ hỗ trợ thúc đẩy liên kết giữa các địa phương, hình thành nên
các vùng với thành phố trung tâm và các địa phương vệ tinh. Đồng thời,
dựa trên các đặc khu chiến lược quốc gia tại một số địa phương, Chính
phủ Nhật Bản cũng thúc đẩy sự phát triển của các địa phương, giải phóng
gánh nặng cho các đô thị lớn, bãi bỏ lệnh cấm doanh nghiệp sở hữu đất
nông nghiệp.

3.2 Đẩy mạnh nghiên cứu năng lượng bền vững


Sau sự cố Fukushima ngày 11/3/2011, Nhật Bản đã buộc phải đóng cửa
52 trên 54 lò phản ứng hạt nhân. Ngày 14/9/2012, Chính phủ Nhật Bản đã
thông báo hủy bỏ dần hạt nhân trong 30 năm và giải quyết tạm thời sự
thiếu năng lượng bằng cách phát triển các năng lượng thay thế.
Nhật Bản là nước nghèo tài nguyên năng lượng nên chú trọng đến đảm
bảo năng lượng và các vấn đề liên quan như “đảm bảo môi trường”, “hiệu
quả kinh tế”, “cung cấp ổn định”.
Tháng 7/2015, Bộ Kinh tế Công nghiệp Nhật Bản đã công bố kế hoạch
“Tầm nhìn năng lượng dài hạn”, xác định cơ cấu nguồn năng lượng điện
đến năm 2030
Bản kế hoạch “Tầm nhìn cung cấp năng lượng dài hạn” của Bộ Kinh tế
Công nghiệp Nhật Bản năm 2015 đã xác định rõ bốn phương châm cơ
bản là tính an toàn, nguồn cung ổn định, hiệu quả kinh tế và đảm bảo môi
trường.
Trong kế hoạch phát triển năng lượng bền vững, Nhật Bản thúc đẩy hiệu
quả nguồn nhiệt điện, sử dụng năng lượng tái tạo, triệt để tiết kiệm năng
lượng, đồng thời xác định phương hướng cơ bản của chính sách như giảm
hết mức có thể sự phụ thuộc vào năng lượng hạt nhân.

3.3 Thúc đẩy bình đẳng giới trong lao động


Ngày 24/6/2014, Nội các Nhật Bản đã quyết định thông qua chiến lược
tăng trưởng. Chiến lược này đặt phụ nữ ở vị trí quan trọng để thúc đẩy
nền kinh tế Nhật Bản, và đề ra các chính sách tạo điều kiện thuận lợi hơn
để phụ nữ gia nhập lực lượng lao động.
Nhằm phát huy năng lực của phụ nữ, Văn phòng Nội các Chính phủ
Nhật Bản công bố gồm nhiều nhóm biện pháp khác nhau. Nội dung chính
của các biện pháp tập trung ở những khía cạnh sau.
1. Hỗ trợ phụ nữ yên tâm mang thai, sinh đẻ, nuôi dạy con cái và
chăm sóc gia đình.
2. Tạo môi trường linh hoạt tại nơi làm việc.
3. Hỗ trợ làm việc và phát triển tại khu vực sinh sống.
4. Xây dựng cuộc sống ổn định và khỏe mạnh.
5. Tạo dựng cuộc sống yên tâm và an toàn.
6. Hỗ trợ tiếp cận thông tin.

3.4 Tăng cường lao động nước ngoài


Trong tháng 6/2018, Chính phủ Nhật Bản quyết định sẽ tiếp nhận hơn
100.000 người lao động nước ngoài từ nay đến năm tài chính 2025, nhằm
khắc phục tình trạng thiếu hụt nhân lực.
Tuy nhiên, thực tế đã có rất nhiều những lời chỉ trích về việc một số nhà
tuyển dụng đã lạm dụng chương trình này như một cách để có được
nguồn lao động rẻ.
Năm 2016, trong số 5.672 nơi sử dụng lao động được kiểm tra thì có
đến 4.004 trường hợp vi phạm quyền của người lao động nước ngoài, bao
gồm cả việc trục xuất.
Nhằm đảm bảo quyền lợi của thực tập sinh, tạo niềm tin tiếp tục thu hút
lao động qua kênh tiếp nhận này, Chính phủ Nhật Bản đã xây dựng Luật
Triển khai chương trình thực tập sinh kỹ năng đúng quy định và bảo hộ
thực tập sinh kỹ năng. Luật được ban hành vào tháng 11/2017 với mục
đích chính đảm bảo lợi ích cho thực tập sinh, và chương trình được triển
khai đúng như mục đích ban đầu đề ra là đào tạo kỹ năng.

7. Bài học và những gợi ý về chính sách cho Việt Nam trong quan hệ
với Nhật Bản
Abenomics là chính sách kinh tế toàn diện với những mục tiêu và tham
vọng dài hạn của Nhật Bản. Với kết quả tích cực mà chính sách
Abenomics mang lại cho nền kinh tế Nhật Bản đã chứng minh được hiệu
quả thực tiễn của chính sách này. Bên cạnh những tác động rõ ràng đối
với nền kinh tế Nhật Bản thì chính sách Abenomics cũng đã để lại bài học
lớn cho các nước, trong đó có Việt Nam:
Thứ nhất, phát triển kinh tế phải đi đôi với đảm bảo công bằng xã
hội . Mặc dù Việt Nam có tốc độ phát triển kinh tế nhanh , các chỉ báo
kinh tế liên tục tăng , nhưng tính bền vững , đặc biệt sự hải hòa giữa tăng
trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề an sinh xã hội vẫn còn hạn chế .
Trên cơ sở 3 trụ cột của chính sách kinh tế Abenomics , Việt Nam nên
học hỏi kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc xây dựng chiến lược phát
triển kinh tế , đảm bảo công bằng và ổn định xã hội .
Thứ hai, tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng: Theo chiến lược tăng
trưởng của Abenomics, Chính phủ Nhật Bản hướng tới tăng cường đầu tư
cho hạ tầng ở nước ngoài. Phương châm mà Chính phủ nước này đề ra là
dự kiến đến năm 2020 sẽ đầu tư khoảng 30.000 tỷ Yên cho cơ sở hạ tầng
ở nước ngoài, trong đó, Việt Nam là điểm đầu tư được Nhật Bản đặc biệt
coi trọng. Nếu Nhật Bản đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng tại Việt Nam thì
hệ thống cơ sở hạ tầng ở Việt Nam sẽ hoàn chỉnh hơn và có lợi cho cả hai
nước.
Thứ ba, cải thiện thị trường lao động và chất lượng lao động:
Abenomics cũng đề cao vấn đề cải thiện thị trường lao động của Nhật
Bản bằng cách nới lỏng luật tuyển dụng lao động nước ngoài, đặc biệt là
những lao động có trình độ và tài năng. Nhật Bản có chủ trương tiếp nhận
lao động Việt Nam sang làm việc và nhiều doanh nghiệp đang tiếp nhận
các thực tập sinh của Việt Nam. Chính phủ Nhật Bản đã mở rất nhiều
những đặc khu kinh tế, trao quyền cho doanh nghiệp tự do lựa chọn lao
động, đây là những cơ hội cho thị trường xuất khẩu lao động của Việt
Nam.
Thứ tư, chú trọng phát triển các ngành dịch vụ đặc biệt là du lịch:
Trong cơ cấu nền kinh tế của một quốc gia thì nhóm ngành dịch vụ chiếm
tỷ trọng càng cao thì quốc gia ấy càng phát triển. Ở chiến lược tăng
trưởng của Abenomics, Nhật Bản còn chú trọng phát triển các ngành dịch
vụ, trong đó có dịch vụ chăm sóc người già. Dịch vụ này đòi hỏi rất nhiều
hộ lý, điều dưỡng viên. Với chế độ đãi ngộ phù hợp, Nhật Bản đã thu hút
được rất nhiều nguồn nhân lực nước ngoài có trình độ tham gia vào các
ngành dịch vụ của nước Nhật, nâng cao chất lượng ngành dịch vụ.
Thứ năm, đổi mới trong chính sách tài khóa- tiền tệ, kiểm soát vấn đề
công nợ: Chính sách Abenomics hướng tới nới lỏng chính sách tài khóa,
cụ thể là thúc đẩy chi tiêu công để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Trong năm
2013, chi tiêu vượt mức của Chính phủ được tài trợ bởi ngân sách bổ
sung đã kích thích sự phát triển kinh tế chậm chạp. Sang năm 2014, thực
thi chính sách tài khóa nới lỏng dẫn tới thâm hụt NSNN ở mức 7,1% do
thu thuế giảm và nền kinh tế tăng trưởng chậm, trong khi nợ công gia
tăng và ở mức cao. Điều này buộc Chính phủ Nhật Bản phải xem xét các
chính sách thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài cấp vốn cho
các khoản chi tiêu của mình. Bên cạnh đó, để hạn chế mặt tiêu cực của
việc bơm tiền, Chính phủ Nhật Bản phải đưa ra chính sách tăng thuế tiêu
dùng 5% - 8% khiến cho việc chi tiêu cá nhân rơi vào tình trạng yếu ớt…
Hiện tại, chính sách kinh tế Abenomics vẫn đang được tiếp tục triển
khai và thực hiện ở Nhật Bản và đạt được nhiều thành tựu đã chứng
minh được hiệu quả thực tiễn của chính sách này. Từ những thành tựu về
tăng trưởng kinh tế cũng như những thách thức trong thực thi chính sách
Abenomics, Việt Nam có thể rút ra những bài học hữu ích trong tiến trình
hội nhập và phát triển kinh tế. Từ đó đưa ra những chính sách kinh tế phù
hợp như:
Thứ nhất, chú trọng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại, ứng dụng
các thành tựu khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất.Việt Nam đã có
nguồn lao động dồi dào cộng với việc đầu tư cơ sở hạ tầng hiện đại và
chất lượng thì Việt Nam sẽ trở thành quốc gia tiềm năng để thu hút sự
đầu tư vốn của nước ngoài.
Thứ hai , kiểm soát, giám sát và đối phó vấn đề nợ công . Hiện tại,
Việt Nam là một nước có số nợ công tuy chưa lớn nhưng cần giám sát
chặt chẽ. Khi đánh giá cụ thể nền kinh tế Nhật Bản có thể thấy, mặc dù
nước này có tỷ lệ nợ công ở mức trên 200 % GDP nhưng vẫn được đánh
giá là nền kinh tế khỏe mạnh”. Bởi vì, phần lớn nợ công của Nhật Bản
thuộc về tạo chủ nợ nội địa ( các công ty trong nước và người dân Nhật
Bản nổi tiếng về tiết kiệm trên thế giới ). Do đó, Nhật Bản vẫn chưa rơi
vào tình trạng khủng hoảng. Tuy nhiên hình phủ Nhật Bản vẫn đang phải
rất nỗ lực trong việc giảm bớt số nợ công. Việt Nam không có sức mạnh
kinh tế như Nhật Bản nên để có thể giảm bớt nợ công thì không có cách
nào khác ngoài việc hoạch định và thực thi các chính sách đầu tư hiệu quả
, giảm bớt lượng phải thất thoát từ nguồn lực đầu tư.
Thứ ba, thúc đẩy thị trường lao động phát triển và nâng cao chất
lượng lao động. Nếu khó khăn của Nhật Bản là thiếu lao động thì ở Việt
Nam là tình trạng dư thừa lao động, tuy nhiên hiệu suất lao động không
cao. Chính vì vậy, nền kinh tế muốn phát triển không thể chỉ dựa mãi vào
lực lượng lao động dư mà phải quan tâm đến chất lượng lao động. Chính
sách Abenomics đã đưa ra yêu cầu trong việc trả lương cho người lao
động không phải dựa vào số giờ làm việc mà phải dựa vào hiệu quả của
công việc. Thiết nghĩ, đây cũng là một kinh nghiệm quý báu cho doanh
nghiệp cơ quan của Việt Nam.
Thứ tư, cải thiện các chính sách liên quan đến du lịch để tăng cường
khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế và biến du lịch trở thành ngành
công nghiệp chủ chốt. Để thực hiện được mục tiêu trên, ngành Du lịch
Việt Nam cần nắm bắt được các xu hướng du lịch mới của thế giới và đưa
ra chiến lược phát triển du lịch phù hợp. Trong nội dung của công tác
quản lý kinh tế vĩ mô thì vấn đề quy hoạch phát triển luôn đóng một vai
trò hết sức quan trọng đặc biệt là đối với lĩnh vực du lịch một ngành kinh
tế mang tính tổng hợp cao. Trong quá trình thực thi chính sách phát triển
du lịch, Việt Nam cần tăng cường tính liên kết giữa các cấp, các bộ,
ngành trung ương với địa phương, tăng cường tính liên kết giữa ngành du
lịch với các ngành nghề khác; chú trọng đến phát huy tài sản trí tuệ địa
phương trong phát triển du lịch thuộc khuôn khổ hành lang pháp lý cho
phép. Bên cạnh đó, cần đấy mạnh triển khai việc hình thành các chuỗi
liên kết vùng trong phát triển du lịch giữa các địa phương nhằm khai thác
tối đa lợi thế của du lịch trong cả một vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm
nhiều tỉnh, thành phố, hoặc tăng cường kết nối và khuyến khích các tập
đoàn kinh tê tư nhân trong và ngoài nước bỏ vốn đầu tư nhằm phát triển
du lịch, qua đó phát huy mạnh mẽ nguồn lực của thành phần kinh tế tư
nhân nhằm gia tăng khả năng cạnh tranh cho du lịch Việt Nam. Và đặc
biệt, cần đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng du lịch theo hướng chuyên
nghiệp và hiện đại hơn.

You might also like