You are on page 1of 12

HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG

KHOA TÀI CHÍNH KẾ TOÁN

MÔN KINH TẾ VĨ MÔ


Đề tài : Nghiên cứu về mục tiêu và chính sách tănng trưởng
kinh tế của quốc gia Ấn Độ
Giảng viên bộ môn :
Nhóm thực hiện : 09

Mã lớp học : B22CQTC01-B

Hà Nội,năm 2022
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………1

NỘI DUNG

Vấn đề 1:Mục tiêu và chính sách phát triển kinh tế của Ấn Độ giai đoạn
1990-1995 .

1.Bối cảnh kinh tế xã hội của Ấn Độ trước những năm 1990……………2

2.Mục tiêu của Ấn Độ trong giai đoạn 1990-1995………………...………2

3.Các công cụ ,chính sách mà Ấn Độ đã thực hiện ………………………3

4.Kết quả đạt được và đánh giá thành tựu ……………………………… 3

Vấn đề 2: Bài học nghiên cứu……………………………………………....7

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU
Từ khi dành được độc lập từ tay thực dân Anh đến trước thập kỷ 90 của thế kỷ XX.Ấn Độ lựa
chọn cho mình mô hình phát triển đất nước là sự kết hợp giữa những yếu tố của mô hình tư
bản chủ nghĩa và mô hình xã hội chủ nghĩa .Nền kinh tế Ấn Độ là một nền kinh tế hỗn hợp
giữa thành phần kinh tế nhà nước với thành phần kinh tế tư bản tư nhân ,nhưng từ sau 1955
thành phần tư bản tư nhân cũng bị hạn chế.Mô hình kinh tế này đã mang lại nhiều thành tựu
cho Ấn Độ trong những năm 50-60 của thế kỷ XX.Những khó khăn kinh tế Ấn Độ trong thập
niên 70,80 của thế kỷ XX do cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1973 gây ra ngày càng khó

khan hơn bởi những biến động trong những năm 90:

NỘI DUNG
1
1,Bối cảnh kinh tế ,xã hội của Ấn Độ những năm trước 1990.
Do sự tập trung quan liêu bao cấp và tự lực cánh sinh theo kiểu đóng cửa, tự cấp tự túc, đến
cuối thập kỉ 80, đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX Ấn Độ lâm vào một cuộc khủng hoảng toàn
diện: Hơn 30 triệu người thất nghiệp, nợ nước ngoài lên tới 70 tỉ USD, dự trữ ngoại tệ đến
tháng 5-1991 chỉ còn 1 tỷ - đủ cho nhập khẩu 2 tuần; đầu tư nước ngoài trực tiếp chỉ đạt trung
bình khoảng 100 triệu USD/năm và giảm dần sau hai vụ Ấn Độ trục xuất hai công ty Coca
Cola và IBM. Khu vực thuộc sở hữu nhà nước phình to, đi đôi với hệ thống bao cấp nặng,
thông qua hàng loạt các hình thức từ bao cấp tài chính đến lương công chức cao, lợi tức thấp.
Cho nên, khu vực nhà nước ngày càng hoạt động kém hiệu quả. Tới đầu những năm 90 của
thế kỉ XX, gần một nửa số các công ty thuộc sở hữu nhà nước bị vì nợ với tổng mức là 1 tỷ
USD. Trong khi đó xí nghiệp tư nhân phải gánh chịu những khoản cống nạp khổng lồ cho
thói quan liêu, bệnh giấy tờ mà vẫn phải đợi 2-3 năm mới hoàn thành tất được các thủ tục
kinh doanh, mức thâm hụt tài chính hàng năm chiếm gần 8,5% GDP; cán cân thanh toán
thâm hụt nặng tới 3,5% GDP, không có ngân hàng nước ngoài nào sẵn lòng cung cấp tài
chính cho Ấn Độ. Vì thế, tài chính năm 1991 – 1992 lạm phát dâng cao, nhiều ngành công
nghiệp nặng khó khăn, cán cân thanh toán thiếu hụt lớn, tình hình xã hội căng thẳng, đời sống
nhân dân giảm sút.

Có thể nói rằng, với chính sách hướng nội, thay thế nhập khẩu kéo dài suốt từ khi giành độc
lập đến cuối những thập kỉ 80 của thế kỉ XX, kinh tế Ấn Độ bị cô lập với các thị trường thế
giới nhằm bảo hộ nền kinh tế còn mong manh của mình và cũng để tự cung tự cấp. Tuy
nhiên, theo như QUID 1993 đã mô tả, hậu quả là: “trong giai đoạn 1980 – 1985, 600 triệu
người sống khép kín ở nông thôn, sức mua và khả năng thương mại hoá sản phẩm hầu như
bằng không. Trên tổng số 750 triệu dân, khoảng 350 triệu người sống với chỉ 10
USD/tháng/đầu người, 73 triệu người với 4 USD. Năm 1992, 410 triệu người (38% dân số)
sống dưới ngưỡng ngèo khổ (30 USD/tháng)”.

Nhìn chung, tới đầu năm 1990, kinh tế Ấn Độ ngày càng yếu kém và trì trệ do mất bạn hàng
Liên Xô, Đông Âu và cuộc chiến tranh Vùng Vịnh khiến Ấn Độ bị mất thị trường Trung
Đông. Vì thế cuộc khủng hoảng trở nên nghiêm trọng, mức tăng trưởng GDP tụt xuống còn
0,8% (1991 – 1992), lạm phát lên cao tới trên 13%. Thủ tướng N. Rao phải nói rằng: “Tình

2
hình ngoại tệ gần như tuyệt vọng. Tình hình tài chính tồi tệ. Chúng tôi đã đến mức như một
nước vì nợ trong thời gian vài ngày”.

Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính khiến cho người dân hoang mang, kéo theo những rối
loạn nghiêm trọng về mặt xã hội. Những mâu thuẫn giữa các tôn giáo, đẳng cấp, sắc tộc, cộng
đồng trong nước càng có điều kiện phát triển. Ví dụ như mâu thuẫn giữa những người theo
Ấn Độ giáo và Hồi giáo trong việc dựng lại ngôi đền Ấn Độ giáo tại thị trấn Ayodhya đẫ dẫn
tới đổ máu; các vụ bạo loạn đòi li khai ở các bang Pujab, Kasihmir ở miền Bắc; bang Assam
ở miền Đông bắc, việc hơn 6000 người Tamin gốc Ấn Độ sinh sống ở miền Bắc và miền
Đông Srilanka đã tràn về tị nạn tại Ấn Độ và tiếp tục tràn về hàng ngày do việc đòi quyền tự
trị của họ ở Sri Lanka chưa được giải quyết.

Cuộc khủng hoảng toàn diện đó đã làm mất lòng tin của dân chúng đối với chính phủ. Vì thế,
Đảng Quốc đại đã bị mất quyền lãnh đạo trong cuộc bầu cử năm 1989 và sau đó, Thủ tướng
Rajiv Gandhi đã bị ám sát trong khi đang vận động tranh cử vào ngày 21 – 5 – 1991. Sau đó,
các đảng khác lên cầm quyền đều phải liên minh mới nhau, tạo ra các chính phủ liên minh.
Do tính chất liên minh, các chính phủ này tồn tại rất bấp bênh và không có khả năng thống
nhất ý kiến quan điểm trong việc quyết định các chính sách đối nội, đối ngoại. Vì thế, các
chính phủ này gặp nhiều khó khăn trong việc điều hành đất nước. Đồng thời, sự thay đổi của
các chính phủ thể hiện sự bất ổn về chính trị.

Tóm lại, cuộc khủng hoảng từ lĩnh vực tài chính, kinh tế những năm 1990 – 1991 ở Ấn Độ đã
biến thành cuộc khủng hoảng toàn diện và đó là động cơ trực tiếp thôi thúc Ấn Độ phải tiến
hành cải cách và tiến hành nhanh chóng. Hơn nữa, cuộc khủng hoảng toàn diện góp phần quy
định tính toàn diện của cuộc cải cách. Bản thân những nhà cầm quyền lại càng phải tìm các
biện pháp đối phó với khủng hoảng, trong đó cải cách kinh tế – hành chính được coi là một
giải pháp tối ưu.

Khi nhìn lại những năm tháng này, Thủ tướng M. Singh coi cuộc khủng hoảng năm 1991 như
một dịp may. Ông lập luận: “Chính cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1991 đã giúp Chúng tôi
cải cách, đổi mới nền kinh tế nước nhà. Sẽ thật khó khăn nếu tiến hành tự do hoá nền kinh tế
mà không có một cuộc khủng hoảng nào”.

Đồng thời, bộ máy hành chính quan liêu, bao cấp cũng bộc lộ nhiều nhược điểm. Nó trở
thành trở ngại chính cho sự phát triển, cản trở đến cuộc cải cách kinh tế. Nhiều người dân cho

3
rằng các viên chức là những người vụ lợi, cố ý gây trở ngại và tham nhũng, được luật lao
động bảo vệ và các hợp đồng suốt đời làm cho họ trở thành người hoàn toàn vô trách nhiệm.
Thậm chí, có hiện tượng bộ máy hành chính Ấn Độ bị các chính trị gia lũng đoạn để tạo công
ăn việc làm và thu nhập cho các bạn bè và người ủng hộ họ. Do đó, nhà nước Ấn Độ không
còn tạo ra hàng hóa công mà thay vào đó là việc tạo ra những lợi ích cá nhân cho người kiểm
soát nó. Hậu quả là, cả bộ máy hành chính Ấn Độ không có tinh thần trách nhiệm và giảm sút
về chất lượng quản lí. Trong khi đó, các cán bộ chính phủ thì vẫn bám chặt vào niềm tin cho
rằng phải dựa vào nhà nước và dịch vụ dân sự để đáp ứng những nhu cầu của người dân.

Nhìn chung, nền hành chính Ấn Độ đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX không còn bộc lộ ưu thế
như thời kỳ đầu sau độc lập - thời kỳ mà nền hành chính nổi tiếng là trong sạch.

2.Mục tiêu của Ấn Độ giai đoạn 1990-1995

Có thể nói rằng ,cho đến năm 1991,cải cách không còn là hiện tượng cá biệt.đơn lẻ mà đã
trở thành xu hướng phổ biến trên khắp thế giới không phân biệt khu vực và đường lối chính
trị và Ấn Độ cũng không ngoại lệ.
Từ tháng 7-1991.trên cơ sở phân tích thực trạng nền kinh tế khó khan của đất nước ,Chính
phủ Ấn Độ đã đề ra một loạt các biện pháp cải cách mạnh mẽ về kinh tế thông qua các chính
sách về tài chính để ổn định nền kinh tế vĩ mô,các chính sách về công nghiệp và đầu tư nước
ngoài ,các biện pháp đổi mới trong nông nghiệp và chính sách về thuế và thương mại…
Những chính sách hợp lí đã được tiến hành một cách tuần tự,không nóng vội đã dần dần tháo
gỡ những khó khan của kinh tế Ấn Độ,xoá bỏ những cơ chế quản lí kém hiệu quả,tạo điều
kiện để tự do hoá nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành ,nghề,từng bước đưa
nền kinh tế Ấn Độ cất cánh với những thành tựu to lớn,độc đáo.
1. Mục tiêu chung: đưa nền kinh tế Ấn Độ hội nhập với nền kinh tế toàn cầu và quyết tâm
đưa Ấn Độ trở thành một quốc gia hiện đại, trở thành một cường quốc kinh tế không chỉ ở
khu vực Châu Á mà còn trên phạm vi toàn thế giới
2. Cụ thể hơn là 3 mục tiêu chủ yếu sau: 
3. -Một là, dựa vào khu vực để phục vụ cho sự phát triển ổn định của Ấn Độ, đặc biệt là
thúc đẩy sự phát triển ở 7 bang vùng Đông Bắc Ấn Độ - những bang kém phát triển về
kinh tế - xã hội và bất ổn an ninh; 
4. -Hai là, hội nhập kinh tế khu vực; 
4
5. -Ba là, mở rộng ảnh hưởng của Ấn Độ ra toàn khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (CA -
TBD)

3.Các công cụ, chính sách mà Ấn Độ đã thực hiện


Cải cách tài khóa: 
 Một yếu tố quan trọng trong nỗ lực ổn định là khôi phục kỷ luật tài khóa. Dữ liệu cho
thấy thâm hụt ngân sách trong giai đoạn 1990-91 lớn tới 8,4% GDP. Ngân sách giai
đoạn 1991-92 đã thực hiện một bước táo bạo theo hướng điều chỉnh sự mất cân đối tài
khóa. Nó dự kiến giảm thâm hụt ngân sách gần hai điểm phần trăm GDP từ 8,4%
trong năm 1990-91 xuống còn 6,5% trong năm 1991-92.
 Ngân sách nhằm kiềm chế chi tiêu của chính phủ và tăng thu nhập; đảo ngược xu
hướng giảm tỷ trọng thuế trực thu trong tổng thu từ thuế và hạn chế tiêu dùng phô
trương. Một số sáng kiến chính sách quan trọng được đưa ra trong ngân sách cho năm
1991-92 để khắc phục tình trạng mất cân bằng tài chính là: giảm trợ cấp phân bón, bãi
bỏ trợ cấp đường, thoái vốn một phần vốn cổ phần của chính phủ trong một số hoạt
động của khu vực công, và chấp nhận các khuyến nghị chính của Ủy ban cải cách
thuế do Raja Chelliah đứng đầu. Những khuyến nghị này nhằm tăng doanh thu thông
qua việc tuân thủ tốt hơn đối với thuế thu nhập, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế hải
quan, đồng thời làm cho cơ cấu thuế ổn định và minh bạch.

b. Cải cách khu vực tài chính và tiền tệ: 


 Cải cách tiền tệ nhằm loại bỏ tình trạng bóp méo lãi suất và hợp lý hóa cơ cấu lãi suất
cho vay. Chính sách mới đã cố gắng theo nhiều cách để làm cho hệ thống ngân hàng
hoạt động hiệu quả hơn. Một số biện pháp đã thực hiện là:
 Yêu cầu dự trữ: giảm tỷ lệ thanh khoản theo luật định (SLR) và tỷ lệ dự trữ
tiền mặt (CRR) phù hợp với khuyến nghị của Báo cáo Ủy ban Narasimham,
1991. Vào giữa năm 1991, SLR và CRR rất cao. Nó đã được đề xuất cắt giảm
SLR từ 38,5 phần trăm xuống 25 phần trăm trong khoảng thời gian ba năm.
Tương tự, người ta đề xuất rằng CRR br giảm xuống 10 phần trăm (từ 25 phần
trăm trước đó) trong khoảng thời gian bốn năm

5
 Tự do hóa lãi suất: Trước đó, RBI đã kiểm soát lãi suất phải trả đối với các
khoản tiền gửi có kỳ hạn khác nhau và cả lãi suất có thể tính cho các khoản
vay ngân hàng thay đổi tùy theo lĩnh vực sử dụng và quy mô của khoản vay.
Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn được bỏ kiểm soát theo một trình tự các bước bắt
đầu với tiền gửi có kỳ hạn dài hơn và tự do hóa dần được mở rộng đối với tiền
gửi có kỳ hạn ngắn hơn
 Cạnh tranh lớn hơn giữa lĩnh vực công, lĩnh vực tư nhân và ngân hàng nước
ngoài và loại bỏ các ràng buộc hành chính
 Tự do hóa chính sách cấp phép chi nhánh ngân hàng nhằm hợp lý hóa mạng
lưới chi nhánh hiện có
 Ngân hàng được tự do di dời chi nhánh và mở chi nhánh chuyên biệt
 Hướng dẫn mở mới ngân hàng tư nhân
 Chuẩn mực kế toán mới liên quan đến phân loại tài sản và dự phòng nợ khó
đòi được đưa ra phù hợp với Báo cáo của Ủy ban Narasimham
c. Cải cách trên thị trường vốn: 
 Các khuyến nghị của Ủy ban Narasimham được khởi xướng nhằm cải cách thị trường
vốn, nhằm loại bỏ sự kiểm soát trực tiếp của chính phủ và thay thế bằng một khung
pháp lý dựa trên tính minh bạch và công bố thông tin được giám sát bởi một cơ quan
quản lý độc lập. Ủy ban Chứng khoán & Giao dịch Ấn Độ (SEBI) được thành lập vào
năm 1988 đã được công nhận theo luật định vào năm 1992 trên cơ sở các khuyến nghị
của Ủy ban Narasimham. SEBI được giao nhiệm vụ tạo ra một môi trường tạo điều
kiện thuận lợi cho việc huy động các nguồn lực đầy đủ thông qua thị trường chứng
khoán và phân bổ hiệu quả.
d. Cải cách chính sách công nghiệp: 
 Để củng cố những thành tựu đã đạt được trong những năm 1980 và để cung cấp kích
thích cạnh tranh lớn hơn cho ngành công nghiệp trong nước, một loạt cải cách đã
được đưa ra trong Chính sách công nghiệp. Chính phủ đã công bố Chính sách Công
nghiệp Mới vào ngày 24 tháng 7 năm 1991. Chính sách Công nghiệp Mới được thành
lập vào năm 1991 đã tìm cách bãi bỏ quy định về cơ bản đối với ngành công nghiệp
để thúc đẩy tăng trưởng của một nền kinh tế công nghiệp hiệu quả và cạnh tranh hơn.
Các yếu tố trung tâm của cải cách chính sách công nghiệp như sau:
 Giấy phép công nghiệp đã bị bãi bỏ đối với tất cả các dự án ngoại trừ 18 ngành
công nghiệp. Với điều này, 80 phần trăm ngành công nghiệp đã được đưa ra
khỏi khuôn khổ cấp phép.
6
 Độc quyền & Thực hành Thương mại Hạn chế (MRTP) đã bị bãi bỏ để loại bỏ
nhu cầu phê duyệt trước của các công ty lớn để mở rộng hoặc đa dạng hóa
năng lực.
 Các lĩnh vực công đã bị thu hẹp và tư nhân được phép tham gia nhiều hơn vào
các ngành cốt lõi và cơ bản. Chính sách mới đã giảm số khu vực dành riêng từ
17 xuống còn 8. Tám khu vực này chủ yếu là những khu vực liên quan đến các
mối quan tâm về chiến lược và an ninh. (Ví dụ, đường sắt, năng lượng nguyên
tử, v.v.)
 Chính sách khuyến khích thoái vốn đầu tư của chính phủ đối với vốn cổ phần
của các doanh nghiệp khu vực công.
 Các đơn vị sự nghiệp công lập được trao quyền tự chủ và quản lý chuyên
nghiệp hơn
e. Cải cách chính sách thương mại: 
 Trong quá trình cải cách chính sách thương mại, trọng tâm chính là mở rộng hơn. Do
đó, gói chính sách về cơ bản là một gói hướng ngoại. Các sáng kiến mới đã được thực
hiện trong chính sách thương mại nhằm tạo ra một môi trường kích thích xuất khẩu
đồng thời giảm mức độ quy định và kiểm soát cấp phép đối với ngoại thương. 
 Đặc điểm chính của chính sách thương mại mới khi nó được phát triển qua nhiều năm
kể từ năm 1991 như sau:
 Nhập khẩu và xuất khẩu tự do hơn: Trước năm 1991, ở Ấn Độ, nhập khẩu
được điều chỉnh bằng một danh sách tích cực các mặt hàng có thể nhập khẩu
tự do. Từ năm 1992, nhập khẩu được quy định bởi một danh sách tiêu cực hạn
chế. Ví dụ, chính sách thương mại ngày 1 tháng 4 năm 1992 đã cho phép nhập
khẩu hầu hết các hàng hóa trung gian và hàng hóa tư bản. Chỉ có 71 mặt hàng
vẫn bị hạn chế.
 Hợp lý hóa cơ cấu thuế quan và loại bỏ các hạn chế định lượng: Báo cáo của
Ủy ban Chelliah đã đề xuất cắt giảm mạnh thuế nhập khẩu. Nó đã đề xuất một
tỷ lệ cao nhất là 50 phần trăm. Là bước đầu tiên hướng tới việc giảm dần thuế
quan, ngân sách 1991-92 đã giảm mức cao nhất của thuế nhập khẩu từ hơn
300% xuống 150%. Quá trình giảm thuế hải quan được tiến hành xa hơn trong
các ngân sách kế tiếp.
 Nhà kinh doanh: Chính sách năm 1991 cho phép các nhà xuất khẩu và nhà
kinh doanh nhập khẩu nhiều mặt hàng. Chính phủ cũng cho phép thành lập các
công ty thương mại với 51% vốn nước ngoài nhằm mục đích thúc đẩy xuất
7
khẩu. Ví dụ, theo chính sách thương mại 1992-1997, các công ty xuất khẩu và
công ty thương mại được hưởng lợi từ việc tự chứng nhận theo hệ thống cấp
phép trước, cho phép hàng xuất khẩu nhập khẩu miễn thuế.
f. Thúc đẩy đầu tư nước ngoài: 
 Chính phủ đã thực hiện một số biện pháp để thúc đẩy đầu tư nước ngoài vào Ấn Độ
trong thời kỳ hậu cải cách. Một số biện pháp quan trọng là:
 Năm 1991, chính phủ đã công bố một danh sách cụ thể các ngành công nghệ cao và
ưu tiên đầu tư cao, theo đó tự động cho phép đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lên tới
51% vốn cổ phần nước ngoài. Giới hạn này đã được nâng lên 74% và sau đó là 100%
đối với nhiều ngành công nghiệp này. Hơn nữa, nhiều ngành công nghiệp mới đã
được thêm vào danh sách trong những năm qua.
 Ban xúc tiến đầu tư nước ngoài (FIPB) đã được thành lập để đàm phán với các công
ty quốc tế và phê duyệt đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một số lĩnh vực.
 Các bước cũng được thực hiện theo thời gian để thúc đẩy đầu tư tổ chức nước ngoài
(FII) vào Ấn Độ.

g. Hợp lý hóa chính sách tỷ giá hối đoái: 


 Một trong những biện pháp quan trọng được thực hiện để cải thiện tình hình cán cân
thanh toán là phá giá đồng rupee. Ngay trong tuần đầu tiên của tháng 7 năm 1991,
đồng rupee đã mất giá khoảng 20%. Mục đích là để thu hẹp khoảng cách giữa tỷ giá
hối đoái thực và tỷ giá hối đoái danh nghĩa đã xuất hiện do lạm phát gia tăng và do đó
làm cho hàng xuất khẩu có tính cạnh tranh.

8
2.  Đánh giá thành tựu của các chính sách

1.  Những cải cách kinh tế ở Ấn Độ năm 1991 đã ảnh hưởng đáng kể đến các thông
số kinh tế vĩ mô, xóa đói giảm nghèo.
a. Thông số kinh tế vĩ mô
 Lạm phát giảm từ 17% năm 1991 xuống khoảng 8,5% trong vòng 2,5 năm. Thị trường
ngoại hối hoặc ngoại hối đã tăng lên khoảng 15 tỷ đô la vào năm 1994 từ 1,2 tỷ đô la
vào tháng 6 năm 1991.
 Xuất khẩu gần như tăng gấp đôi trong giai đoạn 1990–1991 và 1993–1994.
 Nợ tài chính giảm từ 8,4%% (1990–1991) xuống 5,7% (1992–1993).
 Tốc độ tăng GDP tăng từ 1,1% lên 4%.
b. Xóa đói giảm nghèo
 Nền kinh tế của Ấn Độ đã tăng trưởng với tốc độ ổn định là 6,3% khi các cải cách
kinh tế bắt đầu vào năm 1991, khi các nguồn lực được tăng lên và Chính phủ đã thu
hút một lượng lớn dân số vào trong chiến lược tăng trưởng. Hai cách tiếp cận trở nên
cần thiết để giảm nghèo đói nói chung của đất nước:
 Cho phép phát triển nhanh nền kinh tế.

9
 Chú trọng các chương trình đặc biệt giúp đỡ các bộ phận yếu thế, kém may
mắn trong xã hội.

2. Cải cách kinh tế năm 1991 do Tiến sĩ Manmohan Singh, bộ trưởng tài chính lúc
bấy giờ của Ấn Độ, khởi xướng và được thực hiện dưới chính phủ của Thủ tướng
P.V. Narasimha Rao.
 Một số lợi ích của cải cách kinh tế năm 1991 ở Ấn Độ như sau:
 Các cải cách đã mở cửa nền kinh tế Ấn Độ cho đầu tư nước ngoài và giảm bớt các rào
cản thương mại, giúp các công ty nước ngoài kinh doanh ở Ấn Độ dễ dàng hơn. Điều
này dẫn đến sự gia tăng đầu tư nước ngoài và xuất khẩu, góp phần vào tăng trưởng
kinh tế.
 Các cải cách đã tạo ra sự cạnh tranh trong các lĩnh vực khác nhau giúp tăng hiệu quả,
giảm giá cho người tiêu dùng và cải thiện chất lượng hàng hóa và dịch vụ.
 Tăng trưởng kinh tế và đầu tư gia tăng đã dẫn đến việc tạo ra nhiều việc làm mới
trong các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong các ngành dịch vụ và sản xuất.
 Tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm góp phần giảm nghèo.

3. Những hạn chế của cải cách kinh tế ở Ấn Độ 1991


 Các vấn đề cơ bản liên quan đến công nghiệp, nông nghiệp, việc làm, quản lý tài
chính và phát triển cơ sở hạ tầng vẫn tiếp tục ngay cả sau những cải cách kinh tế mới.
 Sự khác biệt giữa các khu vực trong quá trình phát triển kinh tế xảy ra khi FDI được
thu hút nhiều hơn vào các Quốc gia Ấn Độ phát triển công nghiệp như Maharashtra
và Gujarat, so với các Quốc gia kém phát triển như Orissa và Jharkhand.
 Tỷ lệ sản xuất lương thực có hạt giảm xuống 2% (1990) từ 2,9% (1980) mỗi năm.
 Phát triển nông nghiệp suy giảm trong thời kỳ cải cách kinh tế.
 Việc phân phối lại và ký hợp đồng phụ đã làm giảm tỷ lệ chuyên môn cao, dẫn đến
việc làm trong lĩnh vực thời vụ.

10
3. Bài học
4. Liên hệ

Nguồn: 
 http://indiabefore91.in/1991-economic-reforms
 https://byjusexamprep.com/upsc-exam/economic-reforms-in-india-
1991#:~:text=What%20were%20the%20major%201991,industrial%20policy%2C
%20and%20fiscal%20stabilization.
 https://artsandculture.google.com/story/how-india-averted-crisis-and-liberalized-its-
economy/2gURxpnXavp7Xg?hl=en
Tham khảo:
 https://repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/71396/1/422%282011-6%29_p59-
69.pdf
 https://www.imf.org/external/pubs/ft/wp/2004/wp0443.pdf
 https://reader.ebook365.vn/reader/viewer.html#book/978-604-80-2672-1/
Section0003.xhtml
 https://www.elibrary.imf.org/downloadpdf/book/9781557755391/9781557755391.pdf

11

You might also like