You are on page 1of 35

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA :KINH TẾ

------------

BÀI TIÊU LUẬN


CHUYÊN ĐỀ : TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA ĐỔI MỚI KINH
TẾ NƯỚC TA GIAI ĐOẠN 1986-NAY

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN : HOÀNG THỊ HỒNG ĐÀO

MÔN : LỊCH SỬ KINH TẾ

SINH VIÊN THỰC HIỆN : VŨ THỊ NHUNG

LỚP : 114192

Yên Mỹ , ngày 19 tháng 11 năm 2019


MỤC LỤC
`

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

PHẦN 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

2.1. BỐI CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI

2.1.1. Trên thế giới

2.1.2. Trong nước

2.2. ĐƯỜNG LỐI, CHINH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ ĐỔI
MỚI KINH TẾ

2.2.1.Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế

2.2.2. Mở cửa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế

2.2.3. Xây dựng nền kinh tế thị trường

2.3. SAU THỜI KỲ ĐỔI MỚI

2.3.1.Kinh tế nhà nước

2.3.2. Kinh tế tập thể

2.3.3.Kinh tế tư bản nhà nước

2.3.4. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

2.4.TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA ĐỔI MỚI KINH TẾ GIAI ĐOẠN
1986 ĐẾN NAY

PHẦN 3: KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi trên cơ sở
tiếp thu các kiến thức lịch sử kinh thế đã học trong học kì I dưới sự hướng dẫn
của Giáo Viên : Hoàng Thị Hồng Đào. Các số liệu trên tiểu luận là rõ ràng,
trung thực , chính xác và đáng tin cậy.
LỜI MỞ ĐẦU

Đất nước ta trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội phải xây dựng một nền kinh
tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù
hợp. Lịch sử phát triển kinh tế loài người từ trước đến nay đã trải qua rất nhiều
hình thái kinh tế xã hội, nổi bật và rõ nét là hình thái công xã nguyên thủy,
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Trong tất cả
các hình thái kinh tế đó chưa có một hình thái kinh tế nào có một cơ chế quản lý
điều hành kinh tế một cách phù hợp và hợp lý nhất từ việc phát triển kinh tế chỉ
dựa vào kinh tế thị trường để giải quyết vấn đề cơ bản của nền kinh tế cho đến
việc chỉ dựa vào tổ chức quản lý điều hành của Nhà nước để phát triển kinh tế
cho phù hợp, đặc biệt là giai đoạn Việt Nam hiện nay, em lựa chọn đề tài:
“TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA ĐỔI MỚI KINH TẾ NƯỚC TA
GIAI ĐOẠN 1986 ĐẾN NAY”. Nền kinh tế nước ta đang ở giai đoạn đặc biệt
của sự phát triển. Như chúng ta đã biết, trong thời đại ngày nay không có nền
kinh tế nào mà không có sự quản lý của Nhà nước. Chính vì vậy, Nhà nước đã
can thiệp vào nền kinh tế để đảm bảo để kiểm soát tính tất yếu khách quan của
đổi mới kinh tế nước ta giai đoạn 1986 đến nay.
DANH MỤC VIẾT TẮT

Từ viết tắt Ý nghĩa


CNH – HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
GDP Tổng sản phẩm trong nước
CNXH Chủ nghĩa xã hội
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
ASEAN Hiệp hội các quốc giá Đông Nam Á
WTO Tổ chức Thượng mại Thế giới
FTA Hiệp định Thương mại tự do
ĐTNN Đối tác nước ngoài
VCCI Phòng Thương mại và công nghiệp
Quốc tế
CNTB Chủ nghĩa tư bản
KCN Khu công nghiệp
KH – CN - MT Khoa học , công nghiệp , môi trường
2.1. BỐI CẢNH KINH TẾ-XÃ HÔI

2.1.1. Trên thế giới

- Từ cuối thập niên 1970, làn sóng cải cách kinh tế rộng khắp các nước trên thế
giới đã tạo nên áp lực mạnh mẽ với Việt Nam. Trong bối cảnh phát triển kinh tế
sôi động của thế giới, đặc biệt là các nước trong khu vực, Việt Nam không thể
đứng ngoài tiến trình đó.

- Ở một số nước đang phát triển, quá trình điều hành kinh tế diễn ra với nội dung
chính là cải cách cơ cấu, xác định chiến lược kinh tế đúng đắn để cạnh tranh và
phát triển, thực hiện chính sách mở cửa, tăng cường liên kết kinh tế khu vực và
quốc tế, khuyến khích xuất khẩu và coi xuất khẩu là động lực để phát triển kinh
tế.

- Ở các nước xã hội chủ nghĩa, trước những khó khăn của nền kinh tế, các nước
xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, các nước Đông Âu, Trung Quốc...đã tiến hành
cải tổ, cải cách nền kinh tế

- Toàn cầu hóa là hiện tượng nổi bật và là xu thế khách quan của nên kinh tế thế
giới đầu năm 1980: Toàn cầu hóa là hiện tượng nổi bật và là xu thế khách quan
của nền kinh tế thế giới. Liên kết kinh tế và hội nhập trở thành một xu thế của
thời đại.

- Đầu thế kỉ XXI: cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã
diễn ra và tác động tiêu cực đến nước ta nhất là xuất khẩu và đầu tư trực tiếp
nước ngoài do nhu cầu tiêu dùng nước ngoài giảm và sự đình đón của những tập
đoàn kinh doanh nước ngoài

2.1.2. Trong nước

- Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng (1975), mô hình kinh tế kế
hoạch tập trung được áp dụng trên phạm vi cả nước

- 1976-1980: Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, thậm chí có xu hướng giảm sút
và bắt đầu rơi vào tình trạng khủng hoảng

- 1981-1985: Có những cải tiến cơ chế quản lý với nông nghiệp, công nghiệp và
lĩnh vực giá-lương-tiền.

- Những cải tiến quản lý 1979-1985 là những bước tìm tòi, thử nghiệm đầu cho
cuộc cải cách toàn diện nền kinh tế. Đó là những làn sóng đầu tiên của quá trình
phi tập trung hóa quan liêu bao cấp ở Việt Nam. Song những cair tiến cục bộ
chưa làm thay đổi căn bản thực trạng của nền kinh tế và hủng hoảng vẫn rất trầm
trọng. Vì vậy, đổi mới toàn diện nền kinh tế trở thành yêu cầu cấp bách ở nước
ta.

- Quan hệ kinh tế đối ngoại cũng nảy sinh nhiều khó khăn, nguồn viện trợ không
hoàn lại các nước xã hội chủ nghĩa không còn nữa.

2.2. ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ ĐỔI
MỚI KINH TẾ

-Đại hội lần thứ VI (tháng 12-1986) của Đảng là một mốc lịch sử quan trọng
trên con đường đổi mới toàn diện và sâu sắc ở nước ta . Đại hội lần VII (1991)
xác định mục tiêu phát triển đến 2020, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp

- Trên cơ sở đánh giá một cách khách quan tình hình, Đại hội lần thứ VII của
Đảng (1991) đã đề ra chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm
2000 với mục tiêu tổng quát đất nước đưa đất nước “ ra khỏi khủng hoảng, ổn
định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình trang nước nghèo và kém
phát triển, cải thiện đời sống cho nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo
điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỉ 21. Tổng sản phẩm
trong nước đến năm 2000 tăng khoảng gấp đôi so với năm 1900

- Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành trung ương Đảng đã xác định rõ hệ thống
các quan điểm về CNH, HĐH đát nước. Đó là : Xây dựng nền kinh tế mở,
hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong
nước có sản xuất hiệu quả, CNH,HĐH là sự nghiệp toàn dân, của mọi thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo được vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, lấy việc phát huy nguồn lực con người
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bên vững. Động viên toàn dân cần
kệm xây dựng đát nước. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân
dân, phát triển văn hóa giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ
môi trường, Khoa học – công ngheeh là nền tảng của CNH – HĐH. Kết hợp
công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào công
nghệ hiện đại ở những khâu quyết định, lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu
chuẩn cơ bản xác định phương án phát triển, lựa chọn phương án đàu tư vào
công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong
phát triển mới, ưu tiên quy mô và nhỏ, công nghệ tiên tiến, thu hồi vốn nhanh
đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả.
Tập trung thích đáng nguồn lực cho lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm đồng thời
quan tâm đáp ứng những nhu cầu phát triển thiết yếu của mọi vùng trong nước,
có chính sách hỗ trợ vùng khó khăn. Từ những quan điểm chung này, Hội nghị
cũng đã xác định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu : chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần , đổi mới cơ chế quản
lý , giải quyết một số vẫn đề xã hội….

- Trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, phân tích bối cảnh
trong nước và quốc tế, Đại hội lần thứ VIII của Đảng (1996) đã xác định mục
tiêu phát triển của đất nước đến năm 2020: “Mục tiêu của CNH, HDDH là xây
dựng nước ta thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ
cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần quốc phòng cao, quốc phòng
an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay
đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp. Đại hội cũng xác định vị trí đặc biệt quan trọng của giai đoạn 1996-2020
với việc thực hiện mục tiêu đó của CNH, HĐH : “ Giai đoạn từ nay đến năm
2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới”. Nhiệm vụ nhân dân ta
là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách , đẩy mạnh
công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, vận hành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu đề ra trong chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000: tăng trưởng kinh tế
nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về
xã hội, bảo đảm nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển
cao hơn vào đầu thế kỷ sau”

- Đại hội lần thứ IX là đại hội đầu tiên của Đảng trong thế kỷ XXI. Đại hội đã
khẳng định những thành tựu to lớn và rất quan trọng trong việc thực hiện chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991-2000) và xác định chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 – 2010 nhằm “ Đưa nước ta ra khỏi tính
trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất tinh thần của nhân dân,
tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu
hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành cơ bản, vị thế nước ta
trên trường quốc tế được nâng cao”. Đại hội chỉ rõ kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội 5 năm 2001-2005 là bước quan trọng trong việc thực hiện chiến lược 10
năm 2001-2010 nhằm “ Tăng trưởng kinh tế nhanh và bên vững, ổn định và cải
thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo
hướng công nghiệp hóa, Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền
kinh tế”.
- Đại hội cũng đặc biệt nhấn mạnh vị trí CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn
trong tiến trình CNH, HĐH đát nước. Về phát triển công nghiệp, đại hội chỉ rõ
yêu cầu vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa đi nhanh vào một
số ngành, lịch vực công nghệ hiện đại, công nghệ cao, phát triển mạnh công
nghiệp chế biến thủy sản , nông sản , may mặc, giày da, một số sản phẩm cơ khí,
điện tử công nghệ phần mềm… Về chiến lược phát triển các vùng, Đại hội xác
định phương hướng và giải pháp phát huy vai trò các vùng kinh tế trọng điểm có
mức tăng trường cao, tích lũy lớn, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng
khác trên cơ sở phát huy mạnh từng vùng, lien kết với vùng trọng điểm.

-Đại hội lần thứ IX, X, XI Đảng xác định thêm nội dung CNH trong thời kỳ này
là phải thực hiện : CNH rút ngắn theo hướng hiện đại , từng bước phát triển kinh
tế tri thức

-Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn về CNXH và về thời kỳ
quá độ lên CNXH, dựa vào những kết quả bước đầu của sự đổi mới từng phần,
lắng nghe, tổng kết sáng kiến, kinh nghiệm của nhân dân, của các địa phương và
cơ sở, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986)
đã hoạch định đường lối đổi mới với những quyết sách lịch sử nhằm đưa nước ta
toáy khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội và tạo những tiền đề quan trọng
thúc đẩy quá trình CNH, HĐH cũng có những thay đổi cơ bản.Nhìn chung, thời
kỳ đổi bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất
nước và x hướng phát triển của nền kinh tế thế giới. Đó cũng là sự thể hiện tính
đột phá trong phát triển tư duy lý luận và thực tiễn của Đảng ta về CNH, HĐH :

 Thứ nhất, chuyển mô hình công nghiệp hóa từ cơ chế kế hoạch hóa tập
trung sang mô hinh công nghiệp háo sử dung những yếu tố hợp lý của cơ
chế thị trường. Nội dung cốt lõi của chuyển biến này là thừa nhận vai trò
của thị trường, đồng thời kết hợp vai trò của thị trường và nhà nước trong
việc phân bổ các nguồn lực nhẳm tạo điều kiện giải phóng tối đa nguồn
lực sản xuất hiện có của nền kinh tế.
 Thứ hai, chuyển từ quá trình công nghiệp hóa “khép kín” theo mô hình
thay thế nhập khẩu trên tinh thần “tự lực cánh sinh” sang thực hiện công
nghiệp hóa gắn liền với sự phát triền nền knh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, hướng mạnh vào xuất khẩu, phát huye lợi thế cạnh tranh
của cả nước cũng như từng ngành, từng lĩnh vực, từng sản phẩm.
 Thứ ba, cách thức thực hiện công nghiệp hóa đã từng bước đổi mới: từ
công nghiệp hóa theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, với tư duy hiện vật
sang công nghiệp hóa gắn liền với nền kinh tế hoàng hóa nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước hình
thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường phù hợp từ thực hiện công nghiệp
hóa sang thực hiện công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa.
 Thứ tư, từ Đại hội lần thứ IX (2001), con đường công nghiệp hóa rút ngắn
được định hình rõ hơn. Đại hội xác định: “ con đường CNH. HĐH của
nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa
có những bước nhảy vọt” trên cơ sở gắn CNH, HĐH với phát triển kinh tế
tri thức và chủ động hội nhập quốc tế. Đây là tư duy phát triển hiện đại
mà Đảng đã nắm bắt và trở thành một trong những tư tưởng chủ đạo của
việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, nhằm nhanh chóng đưa nước ta thoát
khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển.
 Thứ năm, xác định nội dung công nghiệp hóa cụ thể cho từng thời kỳ cụ
thể. Đại hội lần thứ VIII(1996) đã được đưa ra nội dung CNH,HĐH nông
nghiệp, nông thôn và xác định phải đặc biệt coi trọng vấn đề này. Đại hội
chỉ rõ: phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, thực hiện thủy lợi hóa,
điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa, phát triển công nghiệp chế biến,
phát triển ngành nghề, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội,
 Thứ sáu, đưa ra một hệ thống quan điểm chỉ đạo về đẩy mạnh CNH, HĐH
trong điều kiện mới (phát huy nguồn lực con người làm chủ yếu tố cơ bản
cho sự phát triển nhanh và bền vững, khoa học và công nghệ là động lực
của CNH, HĐH, lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để
xác định phương pháp phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ…

2.2.1.Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế

- Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp từ nhiều năm trước đã không tạo
được động lực phát triển mà còn gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
Do đó, Đại hội VI đã chủ trương đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế và chỉ ra
thực chất của cơ chế mới : “ cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán
kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”

o Đổi mới chức năng quản lý của Nhà nước về kinh tế

- Nội dung đổi mới chủ yếu bao gồm : tách chức năng quản lý kinh tế của cơ
quan Nhà nước, chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước và chức năng
kinh doanh của doanh nghiệp, chuyển từ quản lý cụ thể các hoạt động của nền
kinh tế sang quản lý tổng thể nền kinh tế quốc dân, chuyển từ can thiệp trực tiếp
vào nền kinh tế sang can thiệp gián tiếp thông qua hệ thống pháp luật, kế hoạch,
cơ chế chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô, đảm bảo khung pháp lý cho
việc thực hiện quyền tự do kinh doanh, phát triển kinh tế nhiều thành phần.
o Đổi mới các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô

+ Về kế hoạch hóa: Chuyển từ kế hoạch hiện vật sang kế hoạch giá trị, từ kế
hoạch chi tiết thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh sang kế hoạch mang tính định
hướng là chủ yếu. Phối hợp giữa các chiến lược, xã hội, áp dụng phương pháp
kế hoạch theo chương trình mục tiêu, sử dụng cách tiếp cận đồng bộ trong thực
hiện các biện pháp nhằm đạt các mục tiêu đã được đề ra.

+ Về công cụ tài chính: Nhà nước đã xây dựng và ban hành hệ thống thuế
mới, từ năm 1993 đến nay đã có hiệu lực chung cho các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế, nó còn là sự đảm bảo lâu dài về pháp lý đối với khu vực kinh
tế tư nhân.

+ Về tiền tệ: Từ năm 1986, hệ thống ngân hàng được tổ chức lại theo mô
hình hai cấp là ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại nhằm giải
quyết có hiệu quả những vấn đề đặt ra trong quản lý tiền tệ-tín dụng phù hợp với
tính đa dạng, phực tạp của nền sản xuất hàng hóa và đảm bảo chức năng quản lý
kinh tế vĩ mô của Nhà nước.

+ Về giá cả: Từ năm 1989, điểm căn bản của chính sách giá cả là đổi mới cơ
chế hình thành giá, Nhà nước trả lại chức năng định giá cho thị trường. Việc
từng bước tự do hóa giá cả không pải chỉ với hàng tiêu dùng, mà cả các yếu tố
đầu vào quan trọng cho sản xuất như vốn, lao động, đất đai.

o Tạo lập đồng bộ hóa thị trường

- Nhà nước đã ban hành hệ thống các văn bản pháp luật hình thành khung
pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của các loại thị trường.

+ Khung pháp lý về thị trường hàng hóa

- Trong lĩnh vực này, hướng đổi mới thể chế là ban hành hướng dẫn thực
hiện quy chế và dỡ bỏ các mệnh lệnh có tính chất khép kín ở từng địa phường
nhằm thúc đẩy giao lưu kinh tế trong nước và quốc tế.

+ Khung pháp lý cho việc hình thành và vận hành thị trường các yếu tố sản
xuất

 Khung pháp lý cho thị trường lao động

Bộ luật Lao động ban hàng năm 1994 đã tạo nền tảng cho khung pháp lý của
thị trường lao động bằng việc công nhận quyền tự do tìm việc làm và quyền lựa
chọn về lao động. Hai yêu tố cơ bản tạo ra quan hệ cung - cầu cho thị trường lao
động. Nhà nước quy định, bảo hiểm xã hội dựa trên cơ sở đóng - hưởng và tách
quỹ bảo hiểm xã hội ra khỏi ngân hàng chính sách nhà nước, hình thành cơ quan
bảo hiểm xã hội độc lập, hình thành cơ chế mới giải quyết tranh chấp lao động...

 Khung pháp lý cho thị trường bất động

Khung thể chế về thị trường bất động sản nói chung và thị trường đất đai,
nhà ở không chỉ có luật đất đai, luật xây dựng mà còn các văn bản khác ...khẳng
định chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.

 Khung pháp lý cho thị trường tài chính

Việc chuyển từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thông ngân hàng hai cấp là
một bước cải cách hệ thống ngân hàng. Nhằm tạo dựng và đưa vào vận hành các
loại thị trường tài chính bộ phận và điều chỉnh hoạt động của thị trường tiền tệ.

 Khung pháp lý cho thị trường khoa học công nghệ

Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến sự vận
hành và hành vi của các chủ thể tham gia thị trường công nghệ đã từng bước
được ban hành. Một số văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quyền sở hữu
trí tuệ,chuyển giao công nghệ, vấn đề khuyến khích đổi mới và nâng cao năng
lực công nghệ của doanh nghiệp.

2.2.2. Mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế

- Đại hội lần thứ VI đã chỉ rõ: “ Cùng với việc mở rộng xuất nhập khẩu, tranh
thủ vốn viện trợ và vay dài hạn cần vận dụng nhiều hình thức đa dạng để phát
triển kinh tế đối ngoại”. Thực hiện chủ trương đó, Nhà nước đã ban hành chính
sách “ mở cửa” để thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài, đa dạng hóa và đa
phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, từng bước gắn nền kinh tế quốc gia với
nên kinh tế thế giới, thị trường trong nước và ngoài nước.

- Đại hội lần thứ VII, Đảng ta tiếp tục chủ trương mở rộng hợp tác, bình đẳng và
cùng có lợi với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế, không phân biệt chế độ
chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình.

- Đại hội lần thứ IX của Đảng nêu rõ quan điểm chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghiãz, bảo vệ lợi ích
dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường. Tháng 11
năm 2006, Việt Nam đã trở thành thành viên chính tức thức của WTO.

- Về chính sách thương mại quốc tế:


Trong 10 năm đầu tiến hành đổi mới, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng gấp 6 lần, trong đó kim
ngạch xuất khẩu tăng gần gấp 10 lần, kim ngạch nhập khẩu tăng gấp 5 lần so với
mức của năm 1986.

Sau 20 năm đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
tăng gần 30 lần, trong đó kim ngạch xuất khẩu tăng gần 40 lần và kim ngạch
nhập khẩu tăng 21 lần.

Đến nay, sau hơn 30 năm đổi mới và hội nhập, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
của Việt Nam đã đạt tới con số hàng trăm tỷ USD. Sự tăng trưởng mạnh mẽ này
đã làm thay đổi hoàn toàn diện mạo của ngoại thương Việt Nam, từ một nước
phải phải trông chờ vào hàng nhập khẩu viện trợ từ nước ngoài thì đến nay, Việt
Nam đã dần dẫn kiểm soát và giảm dần mức độ nhập siêu. Theo đó, cán cân
thương mại hàng hóa được cải thiện đáng kể. Tỷ lệ nhập siêu so với GDP giảm
liên tục từ mức 20% trong các năm 2007-2008 xuống còn 8,2% năm 2011, sau
đó chuyển sang thặng dư trong khoảng từ 0,1-1,2% GDP trong các năm 2012-
2017. Năm 2018, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hoá năm 2018 dự kiến
đạt 482 tỷ USD, tăng 12,6% so với năm 2017. Trong đó, tổng trị giá xuất khẩu
ước đạt 244 tỷ USD, tăng 13,8%; tổng trị giá nhập khẩu ước đạt 238 tỷ USD,
tăng 11,5%. Cả năm 2018, cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam dự kiến
thặng dư 7,21 tỷ USD.

Có thể thấy hội nhập kinh tế quốc tế là yếu tố quan trọng tạo điệu kiện thuận lợi
cho Việt Nam mở rộng thị trường và tăng cường xuất khẩu, đưa xuất khẩu đã trở
thành một động lực chính cho tăng trưởng kinh tế. Với 10 FTAs đã kí kết và đưa
vào thực thi, thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đã được mở rộng đáng
kể. Hàng hóa Việt Nam, đặc biệt là các mặt hàng nông lâm thủy sản, có điều
kiện tiếp cận và thâm nhập tốt hơn vào các thị trường trong khung khổ các FTA
đã kí kết. Các FTAs được xem là có tác động đáng kể đến xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam. Số liệu từ Bộ Công thương cho thấy, tất cả các thị trường có FTA
của Việt Nam đều ghi nhận tốc độ tăng trưởng cao so với thời điểm trước khi
Việt Nam tham gia FTA. Nhóm các thị trường tăng trưởng mạnh có thể kể đến
là Chi Lê (tăng gấp 3,7 lần sau 3 năm, tốc độ tăng bình quân 54,2%/năm), Ấn
Độ (tăng gấp 6,4 lần sau 7 năm, tốc độ tăng bình quân 30,4%/năm), Hàn Quốc
(tăng gấp 13,5 lần sau 10 năm, tốc độ tăng bình quân là 29,8%/năm), Trung
Quốc (tăng gấp 7,6 lần sau 12 năm, tốc độ tăng bình quân là 18,4%/năm). Nhóm
các thị trường có mức tăng thấp hơn là ASEAN - tính từ khi có ATIGA (tăng
gấp 2 lần sau 7 năm, tốc độ tăng 10,7%/năm), Nhật Bản (tăng gấp 1,7 lần sau 8
năm, tốc độ tăng 7,1%/năm), Úc (tăng gấp 1,3 lần sau 7 năm, tốc độ tăng bình
quân 3,3%/năm).

- Về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

Cuối năm 1987, Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tại Việt
Nam. Đây là một quyết định lịch sử, đánh dấu sự thay đổi mang tính bước ngoặt
về nhận thức, quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với ĐTNN, nó không chỉ là
tiền đề cho việc mở cửa thu hút ĐTNN, một nguồn lực hoàn toàn mới và vô
cùng quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước, mà còn góp phần tích
cực để Việt Nam bắt đầu xây dựng và hoàn thiện nền tảng thể chế ban đầu về
đầu tư kinh doanh, về kinh tế thị trường. Năm 1990, Luật Công ty và Luật
Doanh nghiệp tư nhân được ban hành và sau đó, vào năm 1994, là Luật Khuyến
khích đầu tư trong nước. ĐTNN đóng vai trò như một “cú hích”, tạo sự đột phá,
vừa bổ sung nguồn lực quan trọng cho đầu tư phát triển, vừa khơi dậy các nguồn
lực trong nước, để khai thác, tận dụng các tiềm năng, lợi thế, đưa đất nước vượt
qua giai đoạn khó khăn, khủng hoảng.

Đến nay, khu vực có vốn ĐTNN ngày càng phát triển, đã trở thành một trong
những khu vực năng động nhất của nền kinh tế. Lũy kế tính đến ngày
20/9/2018, cả nước có 26.646 dự án ĐTNN còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký
là 334 tỷ USD và tổng vốn thực hiện khoảng 185,62 tỷ USD, bằng 55,5% tổng
vốn đăng ký còn hiệu lực. Hiện đã có 126 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án
đầu tư tại Việt Nam. ĐTNN đã đóng góp lớn cho phát triển kinh tế - xã hội đất
nước, cụ thể như sau:

Trước hết, ĐTNN là nguồn lực quan trọng đóng góp lớn vào tổng vốn đầu tư
phát triển toàn xã hội và đã trở thành một động lực tăng trưởng quan trọng của
nền kinh tế. Tỷ trọng ĐTNN trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã tăng dần, từ
gần 15% năm 2005 lên 23,7% năm 2017; riêng năm 2008 tỷ trọng này lên tới
30,8%.

Thứ hai, đóng góp của ĐTNN vào tăng trưởng kinh tế cũng ngày càng cao, nếu
giai đoạn 1986 - 1996, khu vực ĐTNN chỉ đóng góp 15,04%, đến giai đoạn
2010 - 2017 đã đóng góp đến 27,7%. Khu vực ĐTNN cũng đã đóng góp đáng kể
vào nguồn thu ngân sách, với giá trị nộp ngân sách tăng từ 1,8 tỷ USD (giai
đoạn 1994 - 2000) lên 14,2 tỷ USD (giai đoạn 2001 - 2010). Giai đoạn 2011 -
2015, thu ngân sách từ khu vực FDI đạt 23,7 tỷ USD, chiếm gần 14% tổng thu
ngân sách; năm 2017, khu vực FDI đã đóng góp vào thu ngân sách gần 8 tỷ
USD, chiếm 14,46% tổng thu ngân sách nhà nước.
Thứ ba, ĐTNN cũng đã góp phần quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế. Hiện nay, 58,2% vốn ĐTNN tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến,
chế tạo, tạo ra trên 50% giá trị sản xuất công nghiệp, góp phần hình thành một
số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế, như viễn thông, dầu khí, điện tử,
công nghệ thông tin..., tạo nền tảng quan trọng cho tăng trưởng dài hạn, cũng
như thúc đẩy quá trình hiện đại hóa - công nghiệp hóa của đất nước.

Thứ tư, ĐTNN đã góp phần phát triển nhiều ngành dịch vụ chất lượng cao, như
tài chính - ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn luật, vận tải biển, logistics,
giáo dục – đào tạo, y tế, siêu thị, khách sạn, du lịch...; tạo ra phương thức mới
trong phân phối hàng hóa, tiêu dùng, góp phần kích thích hoạt động thương mại
nội địa; chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nâng cao giá trị hàng hóa nông sản
xuất khẩu, tạo ra một số phương thức sản xuất mới, góp phần cải thiện tập quán
canh tác và điều kiện hạ tầng yếu kém, lạc hậu ở một số địa phương.

Thứ năm, ĐTNN cũng đã tác động đến thay đổi cơ cấu kinh tế và thúc đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một số địa phương; góp phần
chuyển đổi không gian phát triển, hình thành các khu đô thị mới, các khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, làm thay đổi bộ mặt đất nước; cũng như góp
phần cải thiện hệ thống cảng biển của Việt Nam, đưa Việt Nam trở thành một
mắt xích trong chuỗi cung ứng toàn cầu của các tập đoàn hàng hải, khai thác
cảng biển hàng đầu thế giới.

Thứ sáu, ĐTNN còn đóng góp quan trọng cho thúc đẩy và mở rộng thị trường
xuất khẩu, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và từng bước đưa Việt Nam
tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Khu vực ĐTNN cũng đã
thực hiện chuyển giao công nghệ ở một số ngành, lĩnh vực và có tác động lan
tỏa công nghệ nhất định tới khu vực doanh nghiệp trong nước; thúc đẩy phát
triển công nghiệp hỗ trợ...

Như vậy, việc thu hút và sử dụng ĐTNN trong những năm qua đã góp phần tích
cực hoàn thiện thể kinh tế, môi trường đầu tư kinh doanh theo các nguyên tắc
của kinh tế thị trường; nâng cao năng lực quản lý kinh tế, quản trị doanh nghiệp,
hỗ trợ quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước, nâng cao sức cạnh tranh của
nền kinh tế.

2.2.3. Xây dựng nền kinh tế thị trường

Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà ở đó các quan hệ kinh tế đều được thực
hiện trên thị trường, thông qua quá trình trao đổi mua bán. Quan hệ hàng hóa -
tiền tệ phát triển đến một trình độ nhất định sẽ đạt đến kinh tế thị trường. Kinh tế
thị trường là giai đoạn phát triển của kinh tế hàng hóa dựa trên cơ sở phát triển
của lực lượng sản xuất. Trong những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, sự
phát triển của kinh tế hàng hóa, tất nhiên, chịu sự tác động của những quan hệ xã
hội nhất định hình thành nên các chế độ kinh tế - xã hội khác nhau. Vì vậy,
không thể nói kinh tế hàng hóa là sản phẩm của một chế độ kinh tế - xã hội nào
mà phải hiểu rằng nó là một sản phẩm của quá trình phát triển của lực lượng sản
xuất xã hội loài người, nó xuất hiện và tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất
xã hội và đến trình độ cao hơn đó là kinh tế thị trường.

Nói kinh tế thị trường định hướng XHCN là muốn nhấn mạnh đích đến CNXH,
khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và tất nhiên cũng chưa phải kinh tế
thị trường XHCN như quan niệm của Trung Quốc. Bởi vì, Việt Nam đang ở
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa, đã có nhưng chưa đầy đủ các yếu tố của
CNXH. Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là hướng tới xây dựng
thành công CNXH thông qua sử dụng kinh tế thị trường.
Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự tiếp thu có
chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại, phát huy vai trò tích cực của kinh tế
thị trường trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao động, cải
tiến kỹ thuật - công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều của cải,
góp phần làm giàu cho xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Đây là sự lựa chọn tự giác con đường và mô hình phát triển trên cơ sở quán triệt
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nắm bắt đúng quy luật khách quan và vận dụng sáng
tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN là bước phát triển mới về lý luận của Đảng ta trong quá trình đổi
mới. Đây là sự vận dụng sáng tạo từ chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về
CNXH và con đường đi lên CNXH, đặc biệt những chỉ dẫn của Lê-nin trong
chính sách kinh tế mới; đồng thời, xuất phát từ tổng kết thực tiễn phát triển của
Việt Nam giai đoạn vừa qua.
Thứ ba, sự sáng tạo trong triển khai kinh tế thị trường định hướng XHCN, còn là
ở chỗ, phát triển kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội.
Chúng ta biết, trong kinh tế thị trường các chủ thể cạnh tranh nhau với mục tiêu
tối đa hóa lợi nhuận. Chính vì vậy, đi liền với tăng trưởng là sự phân hóa giàu
nghèo, không ít người yếu thế bị bật ra khỏi vòng quay của nền kinh tế, cũng vì
vậy nảy sinh không ít hiện tượng tiêu cực và các tệ nạn xã hội.
Trong chủ nghĩa tư bản (CNTB), nhân dân lao động là người làm thuê, mục tiêu
của CNTB là tăng lợi nhuận, duy trì sự thống trị của giai cấp tư sản. Để đạt tới
mục tiêu đã được xác định, CNTB đã có nhiều chủ trương, giải pháp về các vấn
đề xã hội, trong đó có những mặt tiến bộ như thực hiện giảm nhẹ sự bất bình
đẳng trong xã hội cũng như tìm cách giảm căng thẳng trong xã hội.
2.3. SAU THỜI KÌ ĐỔI MỚI
- Từ Đại hội VI (1986), Đảng ta đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó có
đổi mới kinh tế, phát triển các thành phần kinh tế với nhiều hình thức phong
phú, đa dạng. Sau nhiều kì Đại hội, đến Đại hội Đại biểu lần thứ X củ Đảng đã
xác đinh nước ta có 5 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, Kinh tế tập thể,
Kinh tế tư nhân, KInh tế tư bản Nhà nước , Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

2.3.1.Kinh tế Nhà nước

- Kinh tế Nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về tư
liệu sản xuất. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ dự
trữ quốc giam, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước
có thể đưa vào sản xuất kinh doanh.

--> Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, thể hiện :

- Các doanh nghiệp nhà nước giữ vững những vị trí then chốt ở những ngành,
những lịch vực kinh tế và địa bàn quan trọng của đất nước, các doanh nghiệp
nhà nước đi đầu trong ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nâng cao năng
suất lao động, chất lượng, hiệu quả kinh tế chấp hành pháp luật.

- Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước
thực hiện chức năng điều tiết quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN; mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ và lôi cuốn các thành phần kinh tế khác
cùng phát triển theo định hướng XHCN

2.3.2.Kinh tế tập thể

- Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do người lao
động tự góp vốn, cùng kinh doanh tự quản lý theo nguyên tắc trung, bình đẳng
cùng có lợi. Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là
hợp tác dựa trên sở hữu của thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những
người lao động, các hộ sản xuất, không giới hạn quy mô và địa bàn, phân phối
theo lao động, theo góp vốn và theo mức độ tham gia dịch vụ, hoạt động theo
nguyên tắc tự chủ, tự trách nhiệm. Thành viên trong kinh tế tập thể có thể bao
gồm cả thể nhận và pháp nhân

--> Kinh tế tập thể có vai trò ngày càng quan trọng, cùng với kinh tế nhà nước.

2.3.3.Kinh tế tư nhân

- Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất. Thành phần kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ và
kinh tế tư bản tư nhân
- Kinh tế cá thể là hình thức kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình

- Kinh tế tiểu chủ là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất
nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao
động và vốn của bản thân gia đình

- Trong chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường dựa trên định hướng XHCN
tại Đại hội XI của Đảng, kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài.
Loại hình kinh tế này xuất hiện và phát huy tác dụng ở cả thành thị và nông
thôn, cả trong nông thôn, cả trong nông nghiệp, thương mại và dịch vụ. Sự phát
triển kinh tế cá thể, tiểu chủ trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa thị trường có
vai trò quan trọng trước mắt cũng như lâu dài trong việc thúc đẩy sản xuất kinh
doanh phát triển.

- Kinh tế tư bản tư nhân là hình thức kinh tế sản xuất, kinh doanh dựa trên cơ sở
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động
làm thuê.

- Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. phát
triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều
thành phần định hướng XHCN, góp phần quan trọng trong thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ trung tâm và phát triển kinh tế.

2.3.4. Kinh tế tư bản nhà nước

- Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu hỗ
hợp về vốn giữa kinh tế nhà nước với tư bản nhân dân trong nước hoặc tư bản
nhân dân nước ngoài thông qua hình thức hợp tác như hợp đồng hợp tác kinh
doanh, liên doanh...

- Kinh tế tư bản nhà nước có những đóng góp không nhỏ trong công cuộc xây
dựng và phát triển kinh tế đất nước, vì đây là thành phần kinh tế có tiềm năng to
lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý... Hơn nữa, phát triển kinh tế tư
bản nhà nước còn là giải pháp để nâng cao sức mạnh cạnh tranh và kinh doanh
có hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay.

2.3.5. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở
hữu vốn nước ngoài.

- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có vị trí ngày càng quan trọng trong nền kinh
tế nước ta, vì đây là là thành phần kinh tế có quy mô lớn, có trình độ quản lý
hiện đại, trình độ công nghệ cao, đa dạng về đối tác, cho phép thu hút nhiều vốn
đầu tư nước ngoài vào nước ta.

2.4. TÍNH TẤT YÊU KHÁCH QUAN CỦA ĐỔI MỚI KINH TẾ NƯỚC
TA.

 Tính tất yếu khách quan của Công nghiệp hóa

- Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu cơ sở vật
chất - kỹ thuật thấp kém, lực lượng sản xuất chưa phát triển, quan hệ XHCN mới
được thiết lập, chưa hoàn thiện, vì vậy quá trình công nghiệp hóa là quá trình
xây dựng cơ sở vật chất cho nền kinh tế.

- Trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa về kinh tế đang phát triển mạnh mẽ,
trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển hiện đại
nhanh chóng : những thuận lợi và khó khăn về khách quan và chủ quan, có
nhiều thời cơ và thách thức, nền kinh tế của chúng ta đan xen với nhau, tác động
lẫn nhau. Vì vậy, đất nước chúng ta chủ động, sáng tạo nắm lấy thời cơ, phát
huy những thuận lợi để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa tạo ra thế và lực
mới để vượt qua những khó khăn, đầy lùi nguy cơ, đưa nền kinh tế tăng trưởng
phát triển bền vững.

Sau 25 năm đổi mới, nước ta đã vượt qua ngưỡng nước nghèo vào 2010, bước
vào nhóm nước có thu nhập trung bình. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu
vượt bậc ấy, chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về
môi trường. Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, hiện nước ta có
gần 4000 cơ sở sản xuất, hơn 1500 làng nghề gây ô nhiễm, hơn 200 KCN cần
được kiểm soát về khả năng gây ô nhiễm. Thực tế là, ô nhiễm nguồn nước,
không khí đang lan rộng không chỉ ở các KCN, khu đô thị, mà ở cả nhũng vùng
nông thôn; đa dạng sinh học tiếp tục bị suy giảm; biến đổi khí hậu và nước biển
dâng gây ra triều cường và những hậu quả khôn lường; thành quả phát triển của
nhiều địa phương trong nhiều năm chỉ sau một đợt thiên tai có thể bị xóa sạch.
Trước tình hình đó, ngày 15-11-2004, Bộ Chính trị có Nghị quyết 41-
NQ/TW "Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện
đại hóa đất nước” đã khẳng định bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một
nội dung cơ bản của phát triển bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH.
Năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật bảo vệ môi trường. Tại Đại hội Đảng
lần thứ XI, nội dung BVMT được nâng lên một tầm cao mới, gắn chặt với quá
trình CNH-HĐH: ''Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình dự án đầu
tư''. Một điểm mới so với Đại hội X là đưa thêm nội dung ''chú trọng phát triển
kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; từng bước phát triển năng lượng sạch,
sản xuất sạch, tiêu dùng sạch”.
Quá trình CNH-HĐH đặt ra nhiều vấn đề cấp thiết đối với môi trường. Chỉ tiêu
tăng GDP gấp 2,2 lần trong 10 năm tới với mức tăng trưởng công nghiệp hằng
năm 13% sẽ làm trầm trọng hơn tình trạng ô nhiễm ở các KCN và vùng đô thị;
việc CNH-HĐH các ngành công nghiệp nặng gây ra những ảnh hưởng không
thể bỏ qua với môi trường. Số liệu của Ủy ban KH-CN-MT của Quốc hội cho
thấy, mới có 60 KCN có trạm xử lý nước thải tập trung (chiếm 42% số KCN đã
vận hành). Mỗi ngày, các KCN thải ra khoảng 30.000 tấn chất thải độc hại ra
môi trường. Hầu hết các cụm, điểm, KCN chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn
môi trường.
Đẩy mạnh tiến trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn là động lực lớn phát
triển các làng nghề. Theo thống kê, cả nước có gần 1500 làng nghề và tạo ra
11 triệu việc làm thường xuyên và không thường xuyên. Tuy nhiên do sản xuất
tự phát, sử dụng công nghệ lạc hậu nên phần lớn các làng nghề gây ô nhiễm môi
trường. Một cuộc khảo sát của Bộ Y tế tại 3 tỉnh Nam Định, Bắc Ninh, Hưng
Yên đã cho kết luận, hầu hết các làng nghề không có hệ thống xử lý nước thải và
kiểm soát chất thải rắn.
CHH-HĐH sẽ kéo theo đô thị hóa. Dân số đô thị năm 1996 là 19%, năm 2010
đạt 30% và dự kiến tăng lên 45% vào 2020. Đây thực sự là sức ép lớn về môi
trường trong quản lý đô thị. Theo nghiên cứu của Bộ KH-CN, các đô thị Hà Nội,
TP. Hồ Chí Minh, Việt Trì, Ninh Binh, Quy Nhơn, Nha Trang, Biên Hòa... là
những tụ điểm phát thải các chất độc hại. Riêng Hà Nội, mỗi năm thải vào môi
trường nước khoảng 3.600 tấn chất hữu cơ, 320 tấn dầu mỡ, hàng chục tấn kim
loại nặng...
Song song với quá trình CNH-HĐH, chúng ta đang phải chịu những áp lực về
thay đổi cấu trúc và mô hình phát triển do sự cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi
trường ngày càng lộ rõ. Do đó, các mối quan tâm về môi trường cần được lồng
ghép ngay từ quá trình ra các quyết định về phát triến kinh tế và xã hội. Có
nghĩa là, cần cụ thể hóa nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thân
thiện với môi trường, tiếp cận mô hình tăng trưởng xanh đã được đề cập trong
văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ XI. Trong đó, Nhà nước cần dành sự quan
tâm đặc biệt để xây dựng năng lực nội sinh nhằm sử dụng và phát triển các công
nghệ tiết kiệm tài nguyên, nguyên liệu, năng lượng...; vì đây là động lực chủ yếu
để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng phát triển
bền vững. Một nghiên cứu của VCCI cho thấy, có khoảng trên 70% máy móc
thiết bị ở nước ta sử dụng công nghệ cũ; 70% đã khấu hao hết và gần 50% là
máy móc cũ, hoặc vừa mới tân trang được nhập vào. Thực tế này là một thách
thức đòi hỏi phải có quyết tâm chính trị lớn nhằm tạo ra bước đột phá lớn trong
chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Bước đột phá ở đây là chuyển đổi quyết liệt từ cơ chế nặng về ''bao cấp”, ''xin
cho” sang cơ chế kinh tế hóa, tài chính hóa trong quản lý tài nguyên, môi
trường. Thực tế hiện nay, nhà nước bỏ ra rất nhiều kinh phí, trang thiết bị và
nguồn nhân lực cho công tác điều tra tài nguyên khoáng sản, khí tượng, thủy
văn... nhưng thường là cung cấp không hoặc với khoản phí không đáng kể cho
các nhà đầu tư. Đó là sự bù đắp không cân xứng dẫn đến không đủ nguồn lực
cho công tác quy hoạch tài nguyên và môi trường.
Nhà nước cũng cần sử dụng công cụ tài chính nhằm khuyến khích đầu tư vào
các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, sử dụng công nghệ sạch;
sản xuất và sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, các sản phẩm và bao bì
không gây hại hoặc ít gây hại đến môi trường; tái chế và sử dụng các sản phẩm
tái chế. Thực tiễn phát triển nước ta trong những năm gần đây khẳng định,
chúng ta có đủ năng lực, điều kiện để chuyên đổi thành công sang mô hình phát
triển bền vững. Kinh nghiệm phát triển lĩnh vực công nghệ thông tin, viễn thông,
cơ khí tự động hóa, công nghệ vật liệu cũng như việc chế tạo thành công các sản
phẩm nano, những thành tựu trong công nghệ sinh học, cùng với năng lực sáng
tạo trong toán học, vật lý học, hóa học... cho thấy nếu có đủ quyết tâm và cách
sáng tạo, phù hợp, chúng ta sẽ nhanh chóng bước vào quỹ đạo phát triển hiện đại
mà 21 quốc gia thành viên APEC, trong đó có Việt Nam đã cam kết tại Hội nghị
Thượng đỉnh tại Tokyo tháng 11- 2010, về thực hiện một mô hình tăng trưởng
mới, đảm bảo 5 yêu cầu: i) Tăng trưởng cân bằng; ii) Tăng trưởng an toàn; iii)
Tăng trưởng bền vững; iv) Tăng trưởng dựa vào trí tuệ; v) Tăng trưởng với lợi
ích được chia sẻ công bằng cho tất cả mọi người. Đây phải trở thành điểm xuyên
suốt quá trình CNH-HĐH nước ta.
Chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng bền vững là biện pháp hữu hiệu nhất có
khả năng phòng ngừa và hạn chế tối đa các tác động xấu đối với môi trường
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH. Những yếu kém, khuyết điểm trong công
tác bảo vệ môi trường trong thời gian qua chủ yếu là do các cấp các ngành
thường nặng về quan tâm tới các chi tiêu tăng trưởng kinh tế, chưa đảm bảo hài
hòa, cân bằng trong phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường. Do đó, cần có sự
chuyển biến mạnh mẽ trong toàn Đảng và toàn xã hội về nhận thức và hành
động, trong chỉ đạo điều hành và đặc biệt trong tổ chức triển khai các hoạt động
bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, gắn với phát triển
KTTT. Trước hết, tất cả các dự án đầu tư phải có báo cáo đánh giá tác động môi
trường, được Bộ hoặc Sở Tài nguyên - Môi trường thẩm định trước khi được
phê duyệt. Đồng thời, tăng cường việc kiểm soát ô nhiễm tại nguồn; chú trọng
quản lý chất thải, nhất là các chất thải trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp,
dịch vụ y tế. Khắc phục các khu vực môi trường đã bị ô nhiễm, suy thoái; nâng
cao khả năng và nguồn lực điều tra nắm chắc các nguồn tài nguyên để có kế
hoạch bảo vệ, khai thác hợp lý, bảo vệ đa dạng sinh học. Nói cách khác, bảo vệ
môi trường phải vừa là mục tiêu, vừa là nội dung của quá trình phát triển bền
vững.
 Tính tất yếu khách quan của kinh tế thị trường

Việt Nam, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những điều kiện chung để
kinh tế hàng hóa xuất hiện vẫn còn tồn tại. Do đó, sự tồn tại kinh tế hàng hóa ,
kinh tế thị trường ở nước ta là một tất yếu khách quan:
+ Phân công lao động xã hội là cơ sở tất yếu của nền sản xuất hàng hóa vẫn tồn
tại và ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu ở nước ta hiện nay
Phân công lao động xã hội phát triển thể hiện ở chỗ các ngành nghề ở nước ta
ngày càng đa dạng, phong phú, chuyên môn hóa sâu. Tác động của phân công
lao động:
– Góp phần phá vỡ tính chất tự cung tự cấp của nền kinh tế tự nhiên trước đây
và thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ hơn.
– Là cơ sở và là động lực để nâng cao năng suất lao động xã hội, nghĩa là làm
cho nền kinh tế ngày càng có nhiều sản phẩm thặng dư dùng để trao đổi, mua
bán. Do đó, làm cho trao đổi, mua bán hàng hóa trên thị trường ngày càng phát
triển hơn.
+ Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế: Do tồn tại nhiều hình thức sở hữu ( sở
hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại
nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có
thể thực hiện bằng quan hệ hàng hóa -tiền tệ.
+ Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định,
có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng, mặt khác các đơn vị
kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật – công nghệ, về trình độ quản
lý, nên chi phí sản xuất và hiệu quả cũng khác nhau nên quan hệ kinh tế giữa họ
phải thực hiện bằng quan hệ hàng hóa tiền tệ.
+ Trong quan hệ kinh tế đối ngoại trong điều kiện phân công lao động quốc tế
mỗi quốc gia riêng biệt là chủ sở hữu đối với mỗi hàng hóa đưa ra trao đổi trên
thị trường, sự trao đổi này phải trên nguyên tắc ngang giá.
Với bốn lý do trên, kinh tế thị trường ở nước ta là một tồn tại tất yếu.
Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định mô hình nền kinh tế ở nước ta trong thời
kỳ quá độ là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự lựa
chọn đó là xuất phát từ những lợi ích của việc phát triển kinh tế – xã hội đem lại
cho nước ta.
– Lợi ích của sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
+ Tạo động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
Do cạnh tranh trong nền sản xuất hàng hóa, buộc các chủ thể sản xuất phải cải
tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất làm cho năng xuất lao động
tăng, chi phí sản xuất giảm ở mức thấp nhất nhờ đó mà chiến thắng trong cạnh
tranh. Quá trình đó đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
+ Kích thích tính năng động, sáng tạo của các chủ thể kinh tế, kích thích việc
nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã , tăng khối lượng hàng hóa và dịch vụ, làm
cho sản xuất gắn với tiêu dùng. Kinh tế thị trường chịu sự chi phối của quy luật
giá trị, cạnh tranh, cung cầu, buộc mỗi người sản xuất tự chịu trách nhiệm về
hàng hóa mình làm ra. Mỗi người sản xuất đều chịu sức ép buộc phải quan tâm
tới sự tiêu thụ trên thị trường, sao cho sản phẩm của mình được xã hội thừa nhận
và cũng từ đó họ mới có thu nhập.
+ Thúc đẩy phân công lao động, chuyên môn hóa sản xuất vì thế mà phát huy
được tiềm năng, lợi thế của từng vùng, của đất nước để mở rộng quan hệ kinh tế
đối ngoại.
+ Thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, tạo điều kiện ra đời nền sản
xuất lớn xã hội hóa cao; đồng thời chọn lọc được những nhà sản xuất kinh doanh
giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, đội ngũ lao động lành nghề
đáp ứng nhu cầu của đất nước.
+ Phát triển nền kinh tế thị trường làm cho lực lượng sản xuất phát triển sản
phẩm xã hội ngày càng phong phú, đáp ứng nhu cầu đa dạng của mọi người.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường đối với nước ta là một tất yếu kinh tế, một
nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế hiện
đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để
phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước
để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thực tiễn những năm đổi mới chỉ ra rằng, việc chuyển đổi sang mô hình kinh tế
thị trường của Đảng là hoàn toàn đúng đắn.
 Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu khách quan trong thế giới ngày nay.
Đối với các nước đang và kém phát triển (trong đó có Việt Nam) thì hội nhập
kinh tế quốc tế là con đường tốt nhất để rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các
nước khác và có điều kiện phát huy hơn nữa những lợi thế so sánh của mình
trong phân công lao động và hợp tác quốc tế.
Có thể nói sự hội nhập của nền kinh tế các nước trong khu vực đang đưa lại
những lợi ích kinh tế khác nhau cho cả người sản xuất và người tiêu dùng trong
các nước thành viên. Đặc biệt là nước ta thì mở cửa và hội nhập với các nước
trong khu vực và trên toàn thế giới đang là xu thế tất yếu. Chính sự hội nhập này
đã đem lại cho Việt Nam nhiều lợi ích đáng kể. Cụ thể:
Thứ nhất :Tạo lập quan hệ mậu dịch mới giữa các nước thành viên, mở rộng hơn
nữa khả năng xuất, nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam với các nước, các khu vực
khác trên thế giới.

Thứ hai:Hội nhập khu vực còn góp phần chuyển hướng mậu dịch, sự chuyển
hướng này diễn ra phổ biến khi hình thành liên minh thuế quan vì khi đó các
điều kiện cơ bản giữa các nước thành viên trong liên minh sẽ trở nên thuận lợi
hơn, hấp dẫn hơn

Thứ ba:Hội nhập vào khu vực, thực hiện tự do hoá Thương Mại tạo điều kiện
cho nước ta có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp thu vốn, công nghệ, trình độ
quản lý…từ các quốc gia khác trong liên minh. Về lâu dài tự do hoá Thương
Mại góp phần tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế, tự do hoá Thương
Mại giúp tăng trưởng kinh tế bằng hai cách: tăng xuất khẩu và tăng năng suất
cận biên của 2 yếu tố sản xuất là vốn và lao động.

Bên cạnh những lợi ích kinh tế chủ yếu trên đây, cũng cần phải thấy rằng việc
hội nhập vào nền kinh tế các nước trong khu vực với các hình thức liên kết đa
dạng từ thấp đến cao đang đặt ra cho nước ta những thử thách mới cần phải ứng
xử cho phù hợp với quá trình tự do hoá Thương Mại. Những thử thách đó là :
Phải nhanh chóng điều chỉnh lại các cân đối trong nền kinh tế trên cơ sở xoá bỏ
những hạn chế về Thương Mại như thuế quan, hàng rào phi thuế quan.
Vấn đề việc làm và giải quyết thất nghiệp.
Cải cách hệ thống tài khoá, đặc biệt là những trường hợp thuế quan mậu dịch có
tỷ trọng đáng kể trong nguồn thu ngân sách và do đó làm nảy sinh những khó
khăn trong quá trình cân đối ngân sách của chính phủ.
Như vậy, việc hội nhập vào nền kinh tế các nước trong khu vực, hình thành các
dạng liên kết kinh tế quốc tế luôn đưa lại cho nước ta những thuận lợi và những
khó khăn, những lợi ích kinh tế khác nhau. Vì vậy, chúng ta cần tính toán cân
nhắc, lựa chọn để đưa ra những quyết định thích hợp trong quá trình hội nhập .
>>> Đường lối đổi mới của đảng CSVN từ 1986 đến nay
Có thể thấy rõ thành tựu của 20 năm đổi mới cả về thực tiễn và nhận thức lý
luận để vững tin vào con đường đã lựa chọn và sự phát triển của đất nước.

Về thực tiễn, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội từ 1996, kinh tế
tiếp tục tăng trưởng khá nhanh (GDP bình quân 1986-1990 là 3,9%, 1991-1995
là 8,2%, 1996-2000 là 7% và 2001-2005 là 7,5%), nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu được xây dựng, công nghiệp hoá, hiện đại hóa
được đẩy mạnh, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội tăng lên đáng kể.
Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc mà nền tảng là liên minh công
nhân – nông dân – trí thức do Đảng lãnh đạo ngày càng được tăng cường và
củng cố. Nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được giữ vững. Chính
trị – xã hội ổn định. Quan hệ đối ngoại được mở rộng. Vì thế nước ta trên thế
giới được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp từ nguồn nội lực của đất nước tăng lên
nhiều. Nhân dân tin tưởng ở đường lối đổi mới và sự lãnh đạo, quản lý của Đảng
và Nhà nước, tin tưởng ở tương lai phát triển của đất nước.

Về lý luận, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam ngày càng rõ hơn, “hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi
mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam đã bước đầu hình thành trên những nét cơ bản” (Văn kiện trình Đại hội X
trang 11). Nhận thức rõ hơn về mục tiêu, mô hình của xã hội xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, rõ hơn về chặng đường, bước đi khi đã hoàn thành những nhiệm vụ
đề ra cho chặng đường đầu trên của thời kỳ quá độ, cho phép chuyển sang chặng
đường đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, rõ hơn về những công
cụ, giải pháp để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã
hội, rõ hơn về những mối quan hệ đặt ra cần được giải quyết một cách đúng đắn
trên con đường đổi mới vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà trước hết làm cho dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

20 năm đổi mới đã có cơ sở để rút ra một số bài học lớn có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn. Đó là các bài học: trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh; đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và
cách làm phù hợp; đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát
huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với
cái mới; phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới; đổi mới và hoàn
thiện phương thức lãnh đạo, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
PHẦN III: KẾT LUẬN

Mộ lần nữa có thể khẳng định nền kinh tế Việt nam ngày càng phát triển. Từ
thực tiễn của quá trinh đổi mới, từ những tất yếu và khách quan của nền kinh tế-
xã hội ở Việt nam cho thấy: Tư duy kinh tế nổi bật trong những tìm tòi đó là
“cởi trói”, "giải phóng lực lượng sản xuất" , “làm cho sản xuất bung ra”, trên cơ
sở khắc phục những khuyết điểm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ
nghĩa, tạo ra động lực cho sản xuất : chú ý kết hợp ba lợi ích, quan tâm hơn lợi
ích thiết thân của người lao động. Những tư duy kinh tế ban đầu đó đã đặt những
cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới sau này. Quá trình đổi mới tư duy kinh tế từ
cục bộ đến toàn cục, được phản ánh hoàn thiện từng bước qua mỗi kỳ Đại hội
Đảng. Cụ thể quá trình đổi mới tư duy kinh tế được ghi nhận trên những nét
chính sau:
Đại hội VI của Đảng ta đã xác định đường lối đổi mới, coi phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trọng tâm, gắn đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị… đã mở ra một
thời kỳ mới cho đất nước phát triển. Đặc biệt, Đại hội VI thừa nhận có sản xuất
hàng hóa trong chủ nghĩa xã hội;đồng thời chủ trương kiên quyết xoá bỏ cơ chế
tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý mới, áp dụng những biện
pháp kích thích sản xuất, mở rộng giao lưu hàng hoá, xoá bỏ tình trạng ngăn
sông cấm chợ, chia cắt thị trường. Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương 2 (tháng 4-
1987) về lưu thông phân phối, quyết định bỏ chính sách hai giá, thực hiện “bốn
giảm” , tiếp tục xoá bỏ tình trạng “ngăn sông, cấm chợ”. Nghị quyết Trung ương
3 (tháng 8-1987) quyết định chuyển hoạt động của các đơn vị công nghiệp quốc
doanh sang kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế,
thực hiện tự chủ trong kinh doanh. Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (tháng 4-
1988) về tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, thực hiện việc khoán đến
hộ (“khoán 10”), tạo động lực mới thúc đẩy nông nghiệp phát triển nhanh, toàn
diện.
+ Từ tư duy sản xuất theo mô hình kinh tế hiện vật, phi thị trường sang tư duy
sản xuất theo mô hình kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường định hướng XHCN,
gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội ngay trong
từng bước và từng chính sách. Trong đó, tư duy kinh tế về bản chất kinh tế thị
trường và những nội hàm của tính định hướng XHCN, được xác định và ngày
càng cụ thể hóa trong các kỳ đại hội Đảng, đã thực sự trở thành tư duy lý luận có
sức sáng tạo, không chỉ làm sáng rõ con đường đi lên CNXH ở Việt Nam mà
còn là sự bổ sung cho kho tàng lý luận về CNXH.
+ Từ tư duy đơn sở hữu sang tư duy đa sở hữu, đa thành phần kinh tế. Các thành
phần kinh tế được tự do kinh doanh, bình đẳng trước pháp luật. Có thể nói, bước
chuyển đổi mới tư duy này thực sự là khâu đột phá trong nhận thức lý luận kinh
tế, cởi trói tư duy và tạo động lực cho công cuộc đổi mới thực hiện thuận lợi, có
hiệu quả.
+ Từ tư duy quản lý theo cơ chế tập trung bao cấp, làm cho con người ỷ lại, thụ
động, sang tư duy quản lý theo cơ chế thị trường, đòi hỏi tính năng động, sáng
tạo, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của con người.
+ Từ tư duy phân phối bình quân, cào bằng, không thừa nhận đến thừa nhận đa
dạng hóa hình thức phân phối mà phân phối theo lao động là chủ yếu, gắn
với phân phối theo vốn, tài sản…
+ Từ tư duy không chấp nhận bóc lột, không chấp nhận phân hoá giàu
nghèo, sang tư duy chấp nhận bóc lột, chấp nhận phân hoá giàu nghèo ở mức
độ nhất định.
+ Từ tư duy đảng viên không làm kinh tế tư nhân sang đảng viên được làm kinh
tế tư nhân
+ Từ tư duy kinh tế “khép kín” sang tư duy mở, chủ động hội nhập quốc tế, chấp
nhận kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Từ tư duy “Nhà nước làm thay thị trường”, “Nhà nước làm tất cả”, độc quyền
sang tư duy nhà nước chủ yếu thực hiện vai trò kiến tạo phát triển, khắc phục
các khuyết tật của thị trường, đa dạng hóa các chủ thể làm kinh tế, giảm độc
quyền nhà nước, xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp...
+Từ tư duy Nhà nước đóng vai trò phân bổ các nguồn lực là chủ yếu, sang thị
trường đóng vai trò phân bổ các nguồn lực là chủ yếu.
+Từ tư duy công nghiệp hoá bằng con đường “Ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lý, trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”, sử
dụng vốn của nhà nước sang tư duy công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với kinh
tế tri thức và phát triển rút ngắn, sử dụng nguồn vốn xã hội hoá theo cơ chế thị
trường.
+Từ tư duy mô hình kinh tế tăng trưởng theo chiều rộng với năng suất, chất
lượng và hiệu quả thấp, sang mô hình kinh tế tăng trưởng chủ yếu theo chiều
sâu với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, phát triển nhanh, bền vững gắn
với bảo vệ môi trường…

Tóm lại, đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, có sức mạnh kỳ diệu trong
nâng cao năng lực và tầm vóc đi lên của mỗi cá nhân, tổ chức, và xã hội. Thế
nhưng đổi mới tư duy là quá trình rất khó khởi động. Không phải ngẫu nhiên,
John Maynard Keynes, nhà kinh tế học lớn nhất của thế kỷ XX, đã từng nhận
xét: “Khó khăn nằm không phải ở cách tư duy mới, mà ở việc thoát khỏi được
cách nghĩ cũ, cách nghĩ đã ăn sâu trong mọi ngõ ngách của não trạng chúng ta”.
Cho nên, một khi đã thấy rõ những nội dung cần đổi mới trong tư duy, thảo luận
sâu sắc và kiên quyết đổi mới triệt để là những bước đi ban đầu rất quan trọng.
Đổi mới tư duy cần trở thành sự lựa chọn khảng khái và dũng cảm của mỗi cá
nhân, tổ chức, và toàn xã hội. Đổi mới tư duy mà trước hết là tư duy kinh tế sẽ
tạo nên nền tảng vững chắc và sức mạnh tiềm tàng cho dân tộc ta phát triển sáng
tạo, bền vững, bao trùm, đi tới vị thế vẻ vang và xứng đáng của mình trong cộng
đồng thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giaó trình lịch sử kinh tế TRường Đại học kinh tế quốc dân. Đồng
chủ biên GSTS. Nguyễn Trí Dinh, PGS. TS Phạm Thị Thúy\
2. http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/doi-moi-tu-duy-kinh-te-trong-
nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-mot-
so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien.html
3. https://text.123doc.org/document/4841131-phan-tich-tinh-tat-yeu-khach-quan-cua-
hoi-nhap-quoc-te-trong-gian-doan-hien-nay.htm
ghb cvxcvsxđsfs
k gsdf vxc dfsdfsdfsdfs sdfsd dfsf Sdfsdfs sdfsdfsdfs
sdsd sdfs vxc dfsdfsdfsdfs f dfsdfsd df
edfs dfsdfsd
sdf sdfs sdfs Df dsdfcgbfgjh gfhrf hfg ftyhftg fghfg fbnk
sdf df df hds tgyjhgn hgfg hfg ghhg
sd df bf
sd

You might also like