You are on page 1of 20

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

MÔN TÀI CHÍNH CÔNG 2

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN:


Nợ công ở một số quốc gia và tình hình nợ công ở Việt Nam
những năm gần đây

Họ và tên sinh viên:


1. Nguyễn Ngọc Hà (11211911)
2. Trần Đình Hoan (11212322)
3. Nguyễn Ngọc Đại (11218911)
4. Dương Vũ Sơn (11218925)
5. Nguyễn Quang Tùng (11210123)
6. Chhoy Vichheka (11219909)
Lớp: Tài chính công 2_01(322)

Hà Nội, tháng 5 năm 2023


MỤC LỤC
I. Khái niệm, phân loại và tác động..........................................................................................................2
1. Khái niệm.............................................................................................................................................2
2. Phân loại nợ công.................................................................................................................................3
3. Tác động...............................................................................................................................................4
a, Lợi ích..............................................................................................................................................4
b, Mặt tiêu cực..........................................................................................................................................4
II. Nợ công ở một số quốc gia trên thế giới...............................................................................................5
1. Sri lanka...............................................................................................................................................5
2. Nhật Bản..............................................................................................................................................6
III. Tình hình nợ công ở Việt Nam trong những năm gần đây...............................................................7
1. Nợ công Việt Nam................................................................................................................................7
2. Thực trạng nợ công và sử dụng nợ công tại Việt Nam.........................................................................8
a, Giai đoạn trước năm 2016................................................................................................................8
b, Giai đoạn 2017-2021........................................................................................................................9
3. So sánh nợ công Việt Nam với khu vực.............................................................................................13
IV. Kiến nghị giải pháp............................................................................................................................14
Danh mục tài liệu tham khảo:.................................................................................................................17
I. Khái niệm, phân loại và tác động
1. Khái niệm
Theo quan điểm của Việt Nam thì: “Nợ công là nợ Chính phủ và các khoản nợ
mà Chính phủ bảo lãnh, nợ của chính quyền địa phương”. Trong đó:
- Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài,
được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ.
- Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ do doanh nghiệp, ngân hàng chính
sách của Nhà nước vay được Chính phủ bảo lãnh.
- Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ phát sinh do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
vay.
(Luật quản lý nợ công 2017)
2. Phân loại nợ công
Nợ công bao gồm các loại như sau:
- Nợ Chính phủ
+ Nợ do Chính phủ phát hành công cụ nợ;
+ Nợ do Chính phủ ký kết thỏa thuận vay trong nước, nước ngoài;
+ Nợ của ngân sách trung ương vay từ quỹ dự trữ tài chính của Nhà nước,
ngân quỹ nhà nước, quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách.
- Nợ được Chính phủ bảo lãnh
+ Nợ của doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh;
+ Nợ của ngân hàng chính sách của Nhà nước được Chính phủ bảo lãnh.
- Nợ chính quyền địa phương
+ Nợ do phát hành trái phiếu chính quyền địa phương;
+ Nợ do vay lại vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài;
+ Nợ của ngân sách địa phương vay từ ngân hàng chính sách của Nhà nước,
quỹ dự trữ tài chính cấp tỉnh, ngân quỹ nhà nước và vay khác theo quy định
của pháp luật về ngân sách nhà nước.
(Điều 4 Luật Quản lý nợ công 2017)
3. Tác động
a, Lợi ích
- Nợ công là một cách tốt để các quốc gia có thêm tiền đầu tư vào cơ sở hạ tầng,
đầu tư đồng bộ để tăng trưởng kinh tế. Nợ công cũng là một cách an toàn cho
người nước ngoài đầu tư vào tăng trưởng của một quốc gia bằng cách mua trái
phiếu chính phủ.
- Nợ công cũng chính là hình thức huy động nguồn tài chính nhàn rỗi của nhân
dân. Những khoản tiền nhàn rỗi này sẽ được sử dụng cho những mục đích chính
đáng để đầu tư, phát triển cho đất nước. Nợ công cũng hấp dẫn với các nhà đầu
tư không thích rủi ro.
- Khi được sử dụng tốt, nợ công giúp cải thiện mức sống của quốc gia. Nó cho
phép chính phủ có chi phí xây dựng cầu, đường, cải thiện giáo dục, đào tạo nghề
và trả lương hưu. Điều này thúc đẩy công dân chi tiêu nhiều hơn thay vì tiết
kiệm tiền để nghỉ hưu sau này. Công dân chi tiết nhiều thúc đẩy nền kinh tế phát
triển và tăng trưởng.
- Đối với các khoản vay từ các tổ chức nước ngoài, Nhà nước có thể tận dụng
nguồn vốn ưu đãi của các tổ chức quốc tế theo hình thức hợp tác kinh tế song
phương hoặc đa phương.
b, Mặt tiêu cực
- Nhà nước sẽ gia tăng áp lực về trách nhiệm hoàn trả nợ công và nợ công có thể
sẽ trở thành nợ xấu nếu như năng lực quản lý tài chính của đất nước đó yếu kém.
- Nếu như không quản lý chặt chẽ các nguồn vay thì sẽ rất dễ xảy ra tình trạng
tham nhũng, thất thoát lãng phí.
- Nếu các khoản vay không được sử dụng hợp lý, đầu tư đúng chỗ thì sẽ rất dễ
gây đến tình trạng thâm hụt ngân sách, nợ chồng nợ, hiệu ứng domino…
- Các nhà đầu tư nước ngoài tăng lãi suất để đổi lấy rủi ro vỡ nợ cao, điều đó
khiến cho các thành phần của mở rộng kinh tế như nhà ở, tăng trưởng kinh
doanh và cho vay tự động đắt đỏ hơn. Như vậy, để tránh các gánh nặng này, các
chính phủ sẽ cẩn thận tìm ra điểm tới hạn của nợ công, đủ lớn để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và đủ nhỏ để giữ mức lãi suất ở thấp.
II. Nợ công ở một số quốc gia trên thế giới
1. Sri lanka
- Đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất kể từ khi giành được độc lập
vào năm 1948, Sri Lanka vào ngày 12/4/2022 đã tuyên bố không đủ khả năng trả
khoản nợ nước ngoài 51 tỷ USD. Tỷ lệ nợ trên GDP ở mức hơn 100% vào năm
2021.
- Đối với những quốc gia đang phát triển thì việc vay nợ để tài trợ thâm hụt ngân
sách và đầu tư phát triển là một việc làm phổ biến. Sri lanka cũng là một quốc
gia đang phát triển như thế tuy nhiên vay nước ngoài quá mức cho các dự án hạ
tầng mà không có nguồn thu hợp lý để trả nợ là nguyên nhân chính đẩy Sri
Lanka vào khủng hoảng. Vậy có những tác động nào đã ảnh hưởng đến nguồn
thu và cách chi tiêu của chính phủ Sri lanka khiến họ bị “vỡ nợ”?
+ Đầu tiên, với nền kinh tế chủ yếu dựa vào dịch vụ (59,2% GDP - bao gồm
du lịch, khai thác cảng biển, dịch vụ công nghệ thông tin...), mảng sản xuất vật
chất khá khiêm tốn (nông nghiệp chỉ chiếm 7,4% và công nghiệp chế tạo
27,4%), Sri Lanka lâm vào khủng hoảng kinh tế khi giá cả nhiều mặt hàng
nhập khẩu tăng mạnh và lạm phát vọt lên mức cao nhất lịch sử 17,5% vào
tháng 3-2022 do ảnh hưởng của Covid 19. Giá gạo, chẳng hạn, đã tăng lên 500
rupee Sri Lanka (1,53 USD) một ký so với bình thường chỉ 80 rupee.
+ Thứ hai, dù khá phát triển nhưng lĩnh vực nông nghiệp của Sri Lanka chủ
yếu tập trung vào các cây trồng xuất khẩu như trà, cà phê, cao su và gia vị.
Tháng 4-2021, chính quyền Rajapaksa phạm một sai lầm chết người. Nhằm
ngăn nguồn ngoại hối chảy ra nước ngoài, một lệnh cấm trắng nhập khẩu phân
bón được ban bố. Sri Lanka tuyên bố họ sẽ trở thành nước canh tác nông
nghiệp hữu cơ 100%. Chính sách này thất bại hoàn toàn và bị hủy bỏ vào
tháng 11-2021, nhưng hậu quả là sự suy giảm sản lượng nông nghiệp chưa
từng thấy, dẫn tới nhu cầu nhập khẩu lại càng lớn hơn.
+ Thứ ba, do nền kinh tế phụ thuộc vào du lịch, nông sản và chế tạo dệt may
nên khi Covid 19 lan rộng trên toàn thế giới, giá cả leo thang và việc dừng các
hoạt động du lịch đã khiến dự trữ ngoại hối của quốc gia này sụt giảm trầm
trọng. Dẫn đến việc họ không thể trả được nợ.
+ Một yếu tố quan trọng khác nữa là mối quan hệ kinh tế của Sri Lanka với
Trung Quốc. Trung Quốc cho Sri lanka vay khá dễ dàng so với các bên còn
lại, đó như một cái bẫy nợ khiến đảo quốc này càng chìm sâu vào cảnh nợ
nần. Những khoản nợ không thể trả liên quan tới các khoản vay từ Trung
Quốc để xây dựng cơ sở hạ tầng như dự án cảng Hambantota, cảng lớn thứ hai
đất nước sau Colombo, được coi là một nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng.
- Cuộc khủng hoảng nợ này đã tác động mạnh mẽ lên mọi mặt của Sri
lanka: nhiều tháng bị thiếu lương thực thực phẩm, nhiên liệu và thuốc, mất điện
kéo dài và lạm phát tăng cao sau khi quốc gia này hết tiền để mua các mặt hàng
nhập khẩu thiết yếu nhất. Ngoài ra, họ phải gán cảng biển chiến lược
Hambantota cho Trung Quốc và bán 70% cổ phần cảng cho Trung Quốc để trả
nợ 6 tỷ đô. Chịu sự kiểm soát hoạt động thu chi của Chính phủ từ các chủ nợ và
IMF.
2. Nhật Bản
- Ở một chiều hướng khác thì tỷ lệ nợ trên GDP của Nhật luôn ở mức rất cao là
hơn 260%, tổng nợ đến tháng 6/2022 là hơn 9.421 tỷ USD. Lý do chính dẫn đến
nợ công của Nhật lớn như vậy là do chi phí an sinh xã hội cao do già hóa dân số
và họ phải chi các khoản tiền lớn để phòng dịch Covid 19. Tuy nhiên, Nhật Bản
không hề vỡ nợ và vẫn ở ngưỡng an toàn dù tỷ lệ nợ trong 10 năm gần đây luôn
xấp xỉ 200%. Những nhân tố đóng góp vào mức an toàn nợ công Nhật Bản, đó
là:
+ Thứ nhất, trái phiếu chính phủ ổn định và ít phụ thuộc vào giới đầu tư trái
phiếu quốc tế. Từ đầu thập niên 1990, khi ngân sách Chính phủ Nhật Bản bắt
đầu thâm hụt, Nhật Bản đã bù đắp cho khoản thâm hụt này bằng cách phát hành
trái phiếu để vay nợ, chủ yếu từ nguồn tiền tiết kiệm nội địa lên tới 17 nghìn tỷ
USD, gần 95% trái phiếu chính phủ của Nhật Bản do người dân Nhật Bản nắm
giữ.
+ Thứ hai, lợi tức trái phiếu Nhật Bản chỉ chạm mức cao nhất là 1,4%, trong
khi đó Hy Lạp đã tiếp cận ngưỡng 8%.
+ Thứ ba, phần lớn trái phiếu chính phủ hướng tới người mua là dân chúng
Nhật Bản (chiếm tới 95% trái phiếu chính phủ). Khoảng 50% tài sản chính trị
(khoảng 1.400 nghìn tỷ yen) được tích trữ dưới dạng tiền mặt và gửi ngân hàng
(tỷ lệ này ở Mỹ chỉ là 14%), trong đó, phần lớn được đầu tư vào trái phiếu
chính phủ thông qua hệ thống ngân hàng.
+ Thứ tư, hệ số sử dụng vốn đầu tư ICOR của Nhật Bản hiệu quả và nguồn dự
trữ ngoại tệ mạnh. Mặc dù tỉ lệ nợ công của Nhật Bản cao hơn nhiều 200%
GDP, song chỉ số hiệu quả vốn đầu tư ICOR (hệ số sinh lời từ đồng vốn đầu tư)
của Nhật Bản chỉ vào khoảng 3,0, do vậy khả năng trả nợ không quá khó. Bên
cạnh đó, dự trữ ngoại tệ của Nhật Bản cũng ở mức rất cao.
+ Thứ năm, dự trữ ngoại hối của Nhật Bản đạt hơn 1.200 tỷ USD
Những sự khác biệt này cho thấy, Nhật Bản vẫn có thể đảo ngược tình thế để
tránh nguy cơ vỡ nợ. Nhờ dư nợ trái phiếu chính phủ được nắm giữ bên ngoài
Nhật Bản rất nhỏ (chỉ khoảng gần 5%) nên việc đảo nợ cũng được thực hiện dễ
dàng mà không phụ thuộc nhiều vào tình hình cung cầu trên thị trường quốc tế.
III. Tình hình nợ công ở Việt Nam trong những năm gần đây
1. Nợ công Việt Nam
- Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của chính phủ; khi chi tiêu của chính phủ
lớn hơn số thuế, phí, lệ phí thu được, Nhà nước phải đi vay (trong hoặc ngoài
nước) để trang trải thâm hụt ngân sách. Các khoản vay này sẽ phải hoàn trả gốc
và lãi khi đến hạn, Nhà nước sẽ phải tăng các khoản thu lên để bù đắp.
=> Suy cho cùng nợ công chỉ là sự lựa chọn thời gian đánh thuế: hôm nay hay
ngày mai, thế hệ này hay thế hệ khác. Vay nợ thực chất là cách đánh thuế dần
dần, được hầu hết chính phủ các nước sử dụng để tài trợ cho các hoạt động chi
ngân sách. Nợ chính phủ thể hiện sự lấy tiền của thế hệ sau để trả tiền cho nợ của
thế hệ trước.
- Vậy để quốc gia không bị vỡ nợ hay là để thế hệ sau của đất nước có khả năng
trả nợ, Chính phủ phải vay ở mức độ thích hợp và dùng nợ công một cách tối đa
hiệu quả để đầu tư phát triển đất nước, tạo điều kiện để có những khoản thu lớn
trong tương lai nhằm tăng thu và trả được nợ.
2. Thực trạng nợ công và sử dụng nợ công tại Việt Nam.
Theo Điểm 3 Điều 7 Luật Ngân sách Nhà nước 2015: “Vay bù đắp bội chi ngân
sách nhà nước chỉ được sử dụng cho đầu tư phát triển, không sử dụng cho chi
thường xuyên.”
a, Giai đoạn trước năm 2016
- Việt Nam là một quốc gia đang phát triển nên việc chi cho đầu tư phát triển và
dùng nợ là việc làm cần thiết. Vì vậy, tỷ lệ nợ công trên GDP giai đoạn này là
khá cao, theo báo cáo của Bộ tài chính, nợ công của Việt Nam đạt 61% tổng sản
phẩm quốc nội (GDP) tại thời điểm tháng 9/2016.
- Tốc độ tăng của nợ công gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng của GDP. Cứ 3 tháng 1
lần, Việt Nam trả nợ công gồm cả gốc và lãi với số tiền khoảng 25 nghìn tỷ
đồng, xấp xỉ khoảng 1 tỷ đô la Mỹ. Nếu không giải quyết nhanh chóng và hiệu
quả sẽ ảnh hưởng đến tài chính quốc gia, ổn định vĩ mô. Năm 2016, nợ công đến
hạn của Việt Nam là 280.000 tỷ đồng, nhưng chỉ trả được 150.000 tỷ đồng và
phải vay thêm 130.000 tỷ đồng, xấp xỉ 6 tỷ đô la Mỹ để đảo nợ.
- Thu nhập trung bình của người lao động Việt Nam là 2.200 USD/người/năm.
Theo quy định, con số trên đã cho thấy Việt Nam đã thoát khỏi nhóm các nước
nghèo và là nước có thu nhập trung bình. Vì vậy, các khoản vay với ưu đãi về lãi
suất và thời hạn sẽ không còn nữa mà chúng ta phải vay các khoản với lãi suất
cao hơn và thời hạn cũng ngắn hơn.
- Tuy vậy việc sử dụng nợ vay để đầu tư lại thất bại. Các doanh nghiệp nhà nước
làm ăn kém hiệu quả và thua lỗ như tổng công ty đóng tàu Vinashin, 750 triệu
USD trái phiếu Chính phủ bảo lãnh vay nợ các ngân hàng trong và ngoài nước
cho các công ty con của Vinashin hoàn toàn vô nghĩa hay là các dự án đầu tư xây
dựng phát triển thì chậm tiến độ và đội vốn. Năm 2008, dự án đường sắt trên cao
Cát Linh - Hà Đông được triển khai với tổng vốn đầu tư là 552 triệu USD.
Nhưng đến năm 2016 thì tổng số vốn điều chỉnh tăng lên 868 triệu USD (tăng
lên hơn 1,5 lần so với mức vốn ban đầu. Trong số đó có bao gồm vay của Trung
Quốc 669 triệu USD, trả lãi cho khoản này mỗi ngày là 1,2 tỷ đồng/ngày. Dự án
tiếp theo là dự án đường sắt trên cao Ga Hà Nội - Nhổn, tổng vốn đầu tư dự kiến
ban đầu là 783 triệu EUR và được điều chỉnh lên 1176 triệu EUR, trong đó có
nguồn vốn vay của Pháp là 653 triệu EUR. Hầu hết các dự án của Việt Nam đều
chậm tiến độ, vốn chi bất hợp lý, kém hiệu quả. Đầu tư vào quản lý hệ thống
công cộng hết sức trì trệ, chậm tiến độ so với các nước khác, các công trình thi
công ở Việt Nam chậm tiến độ đến 3 - 4 lần, đội giá.
b, Giai đoạn 2017-2021
- Trong giai đoạn 2017 – 2021, tỷ lệ nợ công Việt Nam có xu hướng giảm.
- Theo bản tin nợ công số 14 của Bộ Tài chính, cho thấy xu hướng khả quan về
nợ tại Việt Nam hiện nay. Theo đó tỷ lệ nợ công/ GDP giảm từ 61,4% GDP
(năm 2017) xuống còn 58,3% GDP (năm 2018), năm 2019 giảm còn 55% GDP,
năm 2020 là 55,9% và đến năm 2021 là 43,1%.

- Cùng với đó ta thấy tỷ lệ nợ Chính phủ /GDP, chiếm phần lớn tỷ lệ nợ


công/GDP, có cùng xu hướng giảm. Đặc biệt vào năm 2021, tỷ lệ nợ/GDP giảm
khoảng 12 điểm phần trăm từ 51,7% vào năm 2017 xuống 39,1%, đây là mức
giảm khá lớn.

Tuy tỷ lệ nợ /GDP giảm nhưng số nợ Chính phủ tuyệt đối có xu hướng tăng qua
từng năm. Năm 2017 nợ Chính phủ đạt 2,587 triệu tỷ VND, tăng dần lên 2,767 ;
2,897 ; 3,138 và 3,283 triệu tỷ VND lần lượt vào các năm sau đó.

- Nguyên nhân tỷ lệ nợ /GDP giảm mạnh.

Nguyên nhân chủ yếu đến từ việc thay đổi cách tính quy mô GDP.

Theo bản tin nợ công số 14 được công bố ngày 16-8-2022, Bộ Tài chính cho
biết các chỉ tiêu về nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia năm 2021 được tính
toán trên quy mô GDP năm 2021 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố. Nhưng
GDP năm 2017 trong bản tin không sử dụng GDP được điều chỉnh lại cho giai
đoạn 2010 - 2017 của Tổng cục Tổng cục Thống kê.

Cụ thể GDP theo giá thực tế (đã điều chỉnh, làm tăng GDP năm 2017 lên 25%
so với trước khi điều chỉnh) của Tổng cục Thống kê thì GDP của Việt Nam năm
2017 là 6,294 triệu tỷ đồng, tăng gần 1,3 triệu tỷ đồng so với số liệu cũ là 5,007
triệu tỷ đồng. Đến năm 2021 con số này là 8.479,7 triệu tỷ đồng.

Kết hợp với số dư nợ công tuyệt đối tăng từ 2,587 triệu tỷ đồng vào năm 2017
đến 3,283 triệu tỷ đồng năm 2021. Ta được tỷ lệ nợ công trên GDP của Việt
Nam theo giá thực tế là 41,1% năm 2017 và giảm nhẹ xuống còn 38,7%, giảm
khoảng 3 điểm % vào năm 2021.
Qua đó qua việc sử dụng GDP thực tế điều chỉnh cho cả giai đoạn cho ta thấy
bức tranh thực tế hơn về tình hình nợ công ở Việt Nam. Tỷ lệ nợ công/ GDP có
giảm nhưng mức giảm không lớn giống với báo cáo của Bộ Tài chính.

- Tuy tỷ lệ nợ trên GDP có chiều hướng tích cực, xong chính phủ cần quan tâm
tới số nợ phải trả so với thu ngân sách hàng năm đang có xu hướng tăng. Cụ thể,
số liệu từ Bộ Tài chính cho thấy nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia tăng
nhẹ lên 6,2% (2021) so với tổng kim ngạch xuất khẩu.
Hay nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với thu ngân sách năm 2017 là 19,7%
thì đến 2021 tăng lên 21,8%. Mặc dù, chỉ tiêu này vẫn chưa chạm trần tỷ lệ 25%
theo quy định của Quốc hội, nhưng đang trên đà tăng nên cần phải cân đối các
nguồn thu chi, cũng như kế hoạch huy động vốn.

Qua hai chỉ tiêu trên ta thấy tình hình nợ công của Việt Nam trong các năm qua
có được cải thiện hay không là tùy vào góc nhìn và số liệu thống kê dùng làm cơ
sở.

Bên cạnh đó là dấu hiệu cho thấy nguồn thu ngân sách đang tăng chậm hơn so
với đà tăng của nợ công, phần nào phản ánh khả năng trả nợ của Chính phủ, vì
nguồn thu ngân sách là con số không có sự điều chỉnh như GDP. Điều này khiến
ta cần quan tâm, đánh giá một cách chính xác hiệu quả của đầu tư công và chi
tiêu của Chính phủ.

- Một điểm đáng chú ý là trong giai đoạn 2017 - 2021, dân số Việt Nam tăng
thêm 4,8 triệu năm, trung bình 1 triệu người một năm, số nợ công/người có xu
hướng tăng. Năm 2017, số nợ công/người là 33,7 triệu đồng, năm 2018 và 2019
con số trung bình đạt 34 triệu/người, năm 2020 là 35,3 triệu đồng/người, năm
2021 đã tăng lên đến 37 triệu đồng/người.
=> Như vậy, dân số tăng, số nợ công/người cũng tăng, điều này cho thấy phần
dân số tăng thêm cũng phải gánh trách nhiệm trả nợ từ trước. Trong trường hợp,
số dân tăng chậm đi, có thể gánh nặng trả nợ/người dân sẽ tăng thêm, nếu như
khoản nợ chưa được thanh toán.
- Bản tin nợ công số 14 của Bộ Tài chính cũng đã đề ra một số mục tiêu về vay
và trả nợ như sau:

Chỉ tiêu Mục tiêu 201 2018 201 2020 Mục tiêu 2021
hàng năm 7 9 năm
1. Nợ công so với GDP (%) < 65 61,4 58,3 55,0 55,9 < 60 43,1
a. Nợ Chính phủ so với GDP < 54 51,7 49,9 48,0 49,9 < 50 39,1
(%)
b. Nợ Chính phủ bảo lãnh so 9,1 7,9 6,7 5,8 3,8
với GDP(%)
c. Nợ Chính quyền địa 1,1 0,9 0,7 0,7 0,6
phương so với GDP (%)
2. Nợ nước ngoài quốc gia so < 50 48,9 46,0 47,1 47,9 < 50 38,4
với GDP (%)

3. Nghĩa vụ trả nợ nước < 25 6,8 7,0 5,9 5,7 < 25 6,2
ngoài quốc gia so với tổng
kim ngạch xuất khẩu hàng
hóa, dịch vụ (%)
4. Nghĩa vụ trả nợ của Chính < 25 19,7 17,1 17,4 21,2 < 25 21,8
phủ so với thu NSNN (%)

Cơ cấu nợ vay của Chính phủ


- Các khoản vay trong nước

Trong giai đoạn 2017 - 2021. Dư nợ vay nước ngoài của Chính phủ duy trì ở
mức 46 tỷ USD. Trong khoản vay trung bình mỗi năm là 21 tỷ USD từ các chủ
nợ song phương, chủ nợ lớn nhất là Nhật bản cho vay trung bình khoảng 14 tỷ
USD, chiếm trên 60% khoản vay, theo sau là Hàn Quốc, Pháp, Đức và các quốc
gia khác.

Về đối tác song phương của Việt Nam, Ngân hàng Thế giới (WB) cho vay
nhiều nhất khoảng 16 tỷ USD mỗi năm, tiếp đến là Ngân hàng Phát triển Châu Á
(ADB) với khoản vay 8 tỷ USD và các tổ chức khác.

- Các khoản vay trong nước.

Trái ngược với khoản vay nước ngoài, khoản vay trong nước của Chính Phủ có
xu hướng tăng qua các năm. Đối với nguồn vốn vay này, phát hành trái phiếu
vẫn là phương án chiếm tỷ trọng cao.

Lãi suất trái phiếu trúng thầu trung bình giai đoạn 2017 - 2021 Theo Báo cáo
thường niên TTCP 2021 của Bộ Tài chính
Theo Báo cáo thường niên TTCP 2021 của Bộ Tài chính
Trong các năm từ 2017 đến 2021, kỳ hạn phát hành vẫn tập trung chủ yếu ở dải
kỳ hạn 10 và 15 năm chiếm khoảng 70% đến 80% tổng khối lượng trúng thầu.

Qua đây ta thấy trong giai đoạn trên lãi suất trái phiếu Chính phủ giảm xuống
thấp nhất từ trước đến nay và kỳ hạn kéo dài. Điều đó là giúp tiết kiệm chi phí
huy động vốn cho ngân sách nhà nước, cơ cấu nhà đầu tư được cải thiện theo
hướng tăng tỷ trọng tham gia của các nhà đầu tư dài hạn, góp phần tăng tính bền
vững của danh mục nợ trái phiếu chính phủ.

3. So sánh nợ công Việt Nam với khu vực


- Theo IMF, nợ công của Việt Nam vào năm 2022 tương đương với 40,2% GDP. Tỷ lệ nợ
công của nước ta nằm trong nhóm thấp nhất khu vực Đông Nam Á, đồng thời cũng ít hơn
những nền kinh tế có quy mô tương tự như Philippines, Nam Phi, Malaysia, Singapore
hay Bangladesh.
- Chẳng hạn, nợ công của Philippines đã tăng lên 63,5% GDP vào cuối quý 1/2022.
Hay tại Malaysia, nợ chính phủ của nước này hiện là 63% GDP; tại Lào là 88%
GDP; Thái Lan 61% GDP… Mở rộng ra khu vực châu Á, thì nợ công tại Nhật Bản
lên đến 263% GDP và Singapore là 133% GDP.
- Lý do chính có thể do tăng chi tiêu trong đại dịch Covid-19. Trong đó, Thái Lan
và Philippines có tỷ lệ nợ chính phủ tăng so với GDP vào nhóm lớn nhất tại khu
vực Đông Nam Á và trên toàn cầu từ cuối năm 2019 đến cuối năm 2021. Trước
dịch, Philippines đã giảm được nợ công xuống 39,6% GDP vào năm 2019, nhưng
lại vọt lên 63,5% GDP vào quý 1 năm nay. Còn theo ước tính của Bộ Tài chính
Thái Lan, nợ công của nước này tăng mạnh từ 41% GDP năm 2019 lên 60% GDP
vào cuối năm 2021 và dự kiến đạt gần 62% GDP vào tháng 9.2022.
- Từ đó, Moody’s dự báo năm 2023, sau đại dịch, tài chính của các nước có thể sẽ
mạnh khi họ hướng tới các chính sách coi Covid-19 là bệnh đặc hữu bao gồm cả
việc nới lỏng các biện pháp giãn cách xã hội. Tuy nhiên, đây là… chặng đường dài
cho đến khi các nước thoát khỏi khó khăn. Philippines kỳ vọng sẽ đưa nợ công từ
63,5% xuống 61,3% GDP vào năm 2023 và xuống 52,5% vào năm 2028.
- PGS-TS Đinh Trọng Thịnh cho rằng các nước trong khu vực tăng nợ công và Việt
Nam đang giảm không có gì lạ. Lý do từ việc chính sách kiểm soát nợ công, giảm
về mức thấp nhất của Việt Nam là chiến lược quan trọng của Chính phủ đưa ra từ
sớm. Tất nhiên, bài toán giảm nợ công không đơn giản. Chúng ta thường cho rằng
do thay đổi cách tính GDP nên nợ công giảm, nhưng song song đó, Quốc hội cũng
hạ trần tỷ lệ nợ công từ 65% xuống 60%. Trong nợ công, điều đáng lo nhất là các
khoản nợ trả ngắn hạn, nhưng Việt Nam so với các nước cũng đang “vượt ải an
toàn” đối với khoản này. Năm 2021, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch - Đầu tư thông
báo việc trả nợ trực tiếp của Chính phủ trên thu ngân sách nhà nước chiếm 24,8%.
Năm nay, tỷ lệ này đã hạ xuống 21,8% là tín hiệu tích cực. Bên cạnh đó, các khoản
bảo lãnh của Chính phủ cho doanh nghiệp vay cũng giảm mạnh so với các nước
hay giảm vay nợ nước ngoài.
IV. Kiến nghị giải pháp
Có thể thấy, từ bài học trên quốc tế và chính thực trạng của Việt Nam thì để tránh
những tác động tiêu cực từ nợ công thì Chính phủ cần đảm bảo khoản thu trong
tương lai, sử dụng nợ hiệu quả và cơ cấu lại nợ. Chính vì vậy, chúng tôi xin đề xuất
một số giải pháp cụ thể như sau:
- Một là, Chính phủ cần xây dựng kế hoạch chiến lược về vay nợ công trên cơ sở và
phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch thu, chi ngân sách nhà
nước trong từng giai đoạn, thời kỳ. Kế hoạch chiến lược về vay nợ công xác định
rõ mục đích vay, mức huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn theo từng đối
tượng vay trong nước và ngoài nước, với hình thức huy động vốn và lãi suất thích
hợp. Kế hoạch chiến lược về vay nợ công cũng cần chỉ rõ đối tượng sử dụng các
khoản vay, hiệu quả dự kiến; xác định chính xác thời điểm vay, số vốn vay từng
giai đoạn, tránh tình trạng tiền vay không được sử dụng trong thời gian dài hoặc
chưa thực sự có nhu cầu sử dụng.
- Hai là, nợ công phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng kinh tế, sự phát triển kinh tế là
điều kiện cần để tăng thu cho ngân sách nhà nước và giảm áp lực từ nợ công. Muốn
vậy cần đổi mới mô hình kinh tế, cải thiện bộ máy tổ chức hoạt động các cơ quan
nhà nước, đầu tư có trọng điểm tránh đầu tư dàn trải thất thoát. Doanh nghiệp nhà
nước hoạt động có hiệu quả thấp hơn so với doanh nghiệp tư nhân. Doanh nghiệp
nhà nước làm ăn thua lỗ kéo theo nhiều ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế nhà nước
thất thoát vốn. Cần giảm bớt sự phụ thuộc của các doanh nghiệp nhà nước, để các
doanh nghiệp hoạt động độc lập, cạnh tranh công bằng với các doanh nghiệp tư
nhân và các doanh nghiệp nước ngoài. Chỉ có vậy mới cải thiện sức cạnh tranh và
sự phát triển của các doanh nghiệp nhà nước.
- Ba là, tăng tỷ lệ nợ trong nước lên cao bằng việc phát hành trái phiếu bằng đồng
nội tệ thay vì đi vay nước ngoài để tận dụng khoản tiền nhàn rỗi trong công chúng.
- Bốn là, nhận thức đúng và nhạy bén bẫy nợ của nước ngoài. Rơi vào bẫy nợ sẽ
khiến cho mọi hoạt động về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội bị đình trệ và kiểm
soát của chủ nợ nước ngoài. Khi đó chúng ta sẽ càng khó thoát ra khỏi “vũng bùn”
đó nếu không được quyền tự chủ hoàn toàn.
- Năm là, tăng cường dự trự ngoại hối. Dự trữ quốc tế không chỉ giúp ổn định trong
chính sách tiền tệ mà còn để nhập khẩu hàng hóa thiết yếu và trả lãi vay ngoại tệ,
tránh tình trạng không thể trả lãi vay dẫn đến vỡ nợ. Có thể Thu hút nguồn thu
ngoại tệ bằng cách phát triển lĩnh vực xuất khẩu như nông sản, hải sản, da giày,
khoáng sản. Phát triển du lịch, thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các dự án kinh tế.
Thêm nữa là lực lượng lao động của nước ta đang rất dồi dào, đây là điều kiện cho
đất nước phát triển tất cả các ngành thế mạnh, cũng như là sức hút cho việc đầu tư
từ các nước.
- Sáu là, đa dạng hóa các ngành kinh tế trong nước, tránh tình trạng chỉ phụ thuộc
vào một lĩnh vực gây ra rủi ro lớn khi có ảnh hưởng từ quốc tế làm cho nguồn thu
của quốc gia bị sụt giảm nghiêm trọng từ đó đưa đến kết quả vỡ nợ như của Sri
Lanka.
- Bảy là, nâng cao hiệu quả và tăng cường kiểm soát việc sử dụng vốn vay, vốn
được Chính phủ bảo lãnh. Đây là vấn đề cốt yếu đảm bảo cho khả năng trả nợ và
tính bền vững của nợ công. Chính phủ là người đứng ra vay nợ, nhưng không phải
là người sử dụng cuối cùng các khoản vốn vay, mà là các chủ dự án, các đơn vị thụ
hưởng ngân sách, các doanh nghiệp...; trong mọi trường hợp, ngân sách nhà nước
phải gánh chịu hậu quả, rủi ro trong toàn bộ quá trình vay nợ.
- Tám là, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý nợ công.
Việc công khai, minh bạch nhằm tăng cường trách nhiệm trong quản lý, sử dụng
các khoản nợ công và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nợ công. Để
thực hiện tốt nguyên tắc quan trọng đó, nợ công cần phải được tính toán, xác định
đầy đủ trong quyết toán ngân sách nhà nước và phải được cơ quan chuyên môn độc
lập kiểm tra, xác nhận.
Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Luật Ngân sách Nhà nước 2015
2. Luật quản lý nợ công 2017
3. Nghị quyết số 25/2016/QH14
4. Nghị quyết số 23/2021/QH15
5. TS. Phan Hữu Nghị (), Bài giảng Tài chính công, NXB Đại học Kinh tế Quốc
dân
6. GS.TS. Vương Đình Huệ, Nợ công và quản lý nợ công ở Việt Nam,
https://www.sav.gov.vn/SMPT_Publishing_UC/TinTuc/PrintTL.aspx?
idb=2&ItemID=32517&l=/noidung/tintuc/Lists/TinTucSuKien
7. Mai Phương - Nguyên Nga, Nợ công của Việt Nam giảm mạnh,
https://thanhnien.vn/no-cong-cua-viet-nam-giam-manh-1851490822.htm
8. Mai Phương - Nguyên Nga, Nhiều nước trong khu vực lo sợ 'bóng ma' nợ công,
https://thanhnien.vn/nhieu-nuoc-trong-khu-vuc-lo-so-bong-ma-no-cong-
1851490821.htm
9. Thanh Hảo, Hé lộ cách Trung Quốc thâu tóm cảng biển chiến lược của Sri
Lanka, https://vietnamnet.vn/he-lo-cach-trung-quoc-thau-tom-cang-bien-chien-
luoc-cua-sri-lanka-650738.html
10. Hải Minh, Sri Lanka vỡ nợ vì đâu?, https://tuoitre.vn/sri-lanka-vo-no-vi-dau-
20220413232400972.htm
11. Đào Tùng, Nợ công của Nhật Bản tăng lên mức cao nhất từ trước tới nay,
https://www.vietnamplus.vn/no-cong-cua-nhat-ban-tang-len-muc-cao-nhat-tu-
truoc-toi-nay/810726.vnp
12. Vì sao nợ công Nhật Bản vẫn ở ngưỡng an toàn?, https://dangcongsan.vn/su-
kien-binh-luan/vi-sao-no-cong-nhat-ban-van-o-nguong-an-toan-96958.html
13. Bản tin nợ công số 14 – Bộ Tài chính.
https://mof.gov.vn/webcenter/portal/btcvn/pages_r/l/tin-bo-tai-chinh?
dDocName=MOFUCM241517
14. Báo cáo thường niên Thị trường trái phiếu Việt Nam – 2021.

You might also like