Professional Documents
Culture Documents
Tuy tỷ lệ nợ /GDP giảm nhưng số nợ Chính phủ tuyệt đối có xu hướng tăng qua
từng năm. Năm 2017 nợ Chính phủ đạt 2,587 triệu tỷ VND, tăng dần lên 2,767 ;
2,897 ; 3,138 và 3,283 triệu tỷ VND lần lượt vào các năm sau đó.
Nguyên nhân chủ yếu đến từ việc thay đổi cách tính quy mô GDP.
Theo bản tin nợ công số 14 được công bố ngày 16-8-2022, Bộ Tài chính cho
biết các chỉ tiêu về nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia năm 2021 được tính
toán trên quy mô GDP năm 2021 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố. Nhưng
GDP năm 2017 trong bản tin không sử dụng GDP được điều chỉnh lại cho giai
đoạn 2010 - 2017 của Tổng cục Tổng cục Thống kê.
Cụ thể GDP theo giá thực tế (đã điều chỉnh, làm tăng GDP năm 2017 lên 25%
so với trước khi điều chỉnh) của Tổng cục Thống kê thì GDP của Việt Nam năm
2017 là 6,294 triệu tỷ đồng, tăng gần 1,3 triệu tỷ đồng so với số liệu cũ là 5,007
triệu tỷ đồng. Đến năm 2021 con số này là 8.479,7 triệu tỷ đồng.
Kết hợp với số dư nợ công tuyệt đối tăng từ 2,587 triệu tỷ đồng vào năm 2017
đến 3,283 triệu tỷ đồng năm 2021. Ta được tỷ lệ nợ công trên GDP của Việt
Nam theo giá thực tế là 41,1% năm 2017 và giảm nhẹ xuống còn 38,7%, giảm
khoảng 3 điểm % vào năm 2021.
Qua đó qua việc sử dụng GDP thực tế điều chỉnh cho cả giai đoạn cho ta thấy
bức tranh thực tế hơn về tình hình nợ công ở Việt Nam. Tỷ lệ nợ công/ GDP có
giảm nhưng mức giảm không lớn giống với báo cáo của Bộ Tài chính.
- Tuy tỷ lệ nợ trên GDP có chiều hướng tích cực, xong chính phủ cần quan tâm
tới số nợ phải trả so với thu ngân sách hàng năm đang có xu hướng tăng. Cụ thể,
số liệu từ Bộ Tài chính cho thấy nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia tăng
nhẹ lên 6,2% (2021) so với tổng kim ngạch xuất khẩu.
Hay nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với thu ngân sách năm 2017 là 19,7%
thì đến 2021 tăng lên 21,8%. Mặc dù, chỉ tiêu này vẫn chưa chạm trần tỷ lệ 25%
theo quy định của Quốc hội, nhưng đang trên đà tăng nên cần phải cân đối các
nguồn thu chi, cũng như kế hoạch huy động vốn.
Qua hai chỉ tiêu trên ta thấy tình hình nợ công của Việt Nam trong các năm qua
có được cải thiện hay không là tùy vào góc nhìn và số liệu thống kê dùng làm cơ
sở.
Bên cạnh đó là dấu hiệu cho thấy nguồn thu ngân sách đang tăng chậm hơn so
với đà tăng của nợ công, phần nào phản ánh khả năng trả nợ của Chính phủ, vì
nguồn thu ngân sách là con số không có sự điều chỉnh như GDP. Điều này khiến
ta cần quan tâm, đánh giá một cách chính xác hiệu quả của đầu tư công và chi
tiêu của Chính phủ.
- Một điểm đáng chú ý là trong giai đoạn 2017 - 2021, dân số Việt Nam tăng
thêm 4,8 triệu năm, trung bình 1 triệu người một năm, số nợ công/người có xu
hướng tăng. Năm 2017, số nợ công/người là 33,7 triệu đồng, năm 2018 và 2019
con số trung bình đạt 34 triệu/người, năm 2020 là 35,3 triệu đồng/người, năm
2021 đã tăng lên đến 37 triệu đồng/người.
=> Như vậy, dân số tăng, số nợ công/người cũng tăng, điều này cho thấy phần
dân số tăng thêm cũng phải gánh trách nhiệm trả nợ từ trước. Trong trường hợp,
số dân tăng chậm đi, có thể gánh nặng trả nợ/người dân sẽ tăng thêm, nếu như
khoản nợ chưa được thanh toán.
- Bản tin nợ công số 14 của Bộ Tài chính cũng đã đề ra một số mục tiêu về vay
và trả nợ như sau:
Chỉ tiêu Mục tiêu 201 2018 201 2020 Mục tiêu 2021
hàng năm 7 9 năm
1. Nợ công so với GDP (%) < 65 61,4 58,3 55,0 55,9 < 60 43,1
a. Nợ Chính phủ so với GDP < 54 51,7 49,9 48,0 49,9 < 50 39,1
(%)
b. Nợ Chính phủ bảo lãnh so 9,1 7,9 6,7 5,8 3,8
với GDP(%)
c. Nợ Chính quyền địa 1,1 0,9 0,7 0,7 0,6
phương so với GDP (%)
2. Nợ nước ngoài quốc gia so < 50 48,9 46,0 47,1 47,9 < 50 38,4
với GDP (%)
3. Nghĩa vụ trả nợ nước < 25 6,8 7,0 5,9 5,7 < 25 6,2
ngoài quốc gia so với tổng
kim ngạch xuất khẩu hàng
hóa, dịch vụ (%)
4. Nghĩa vụ trả nợ của Chính < 25 19,7 17,1 17,4 21,2 < 25 21,8
phủ so với thu NSNN (%)
Trong giai đoạn 2017 - 2021. Dư nợ vay nước ngoài của Chính phủ duy trì ở
mức 46 tỷ USD. Trong khoản vay trung bình mỗi năm là 21 tỷ USD từ các chủ
nợ song phương, chủ nợ lớn nhất là Nhật bản cho vay trung bình khoảng 14 tỷ
USD, chiếm trên 60% khoản vay, theo sau là Hàn Quốc, Pháp, Đức và các quốc
gia khác.
Về đối tác song phương của Việt Nam, Ngân hàng Thế giới (WB) cho vay
nhiều nhất khoảng 16 tỷ USD mỗi năm, tiếp đến là Ngân hàng Phát triển Châu Á
(ADB) với khoản vay 8 tỷ USD và các tổ chức khác.
Trái ngược với khoản vay nước ngoài, khoản vay trong nước của Chính Phủ có
xu hướng tăng qua các năm. Đối với nguồn vốn vay này, phát hành trái phiếu
vẫn là phương án chiếm tỷ trọng cao.
Lãi suất trái phiếu trúng thầu trung bình giai đoạn 2017 - 2021 Theo Báo cáo
thường niên TTCP 2021 của Bộ Tài chính
Theo Báo cáo thường niên TTCP 2021 của Bộ Tài chính
Trong các năm từ 2017 đến 2021, kỳ hạn phát hành vẫn tập trung chủ yếu ở dải
kỳ hạn 10 và 15 năm chiếm khoảng 70% đến 80% tổng khối lượng trúng thầu.
Qua đây ta thấy trong giai đoạn trên lãi suất trái phiếu Chính phủ giảm xuống
thấp nhất từ trước đến nay và kỳ hạn kéo dài. Điều đó là giúp tiết kiệm chi phí
huy động vốn cho ngân sách nhà nước, cơ cấu nhà đầu tư được cải thiện theo
hướng tăng tỷ trọng tham gia của các nhà đầu tư dài hạn, góp phần tăng tính bền
vững của danh mục nợ trái phiếu chính phủ.